(Lê Đạt ngồi bên tay phải Bác Hồ)
Lê Đạt là một tác giả lão thành, nhưng tinh thần ông lại rất trẻ trung. Ông luôn khao khát đổi mới thơ ca dựa trên cơ sở những tri thức cao nhất mà trí tuệ nhân loại đã đạt đến. Những bài viết rất nhỏ của ông luôn nhắc đến những thành tựu rất lớn của khoa học như thuyết Tương đối, cơ học Lượng tử, nguyên lý Bất định, nguyên lý Bổ sung... Chúng chính là những thành quả chủ yếu của vật lý hiện đại, cái xương sống của nhận thức, cái xa lộ tri thức mà từ đó sẽ lan tỏa ra các đại lộ, mọi con đường, mọi ngõ ngách làm nên nền văn minh. Trong khi đó, nhiều tác giả trẻ vẫn quan niệm về cái mới của thơ với những tiêu chí vụn vặt về hình thức như thơ có vần hay không, câu thơ ngắn hay dài, viết cái tôi hay cái ta, viết rõ nghĩa hay mù mờ, sex hay không sex, thô tục hay không thô tục...
Dựa trên cơ sở những khám phá của khoa học, đặc biệt là những phát minh của vật lý lý thuyết, loài người đã phải điều chỉnh lại nhiều nhận thức lầm lẫn về triết học và các ngành Khoa học Xã hội khác, và cả trong tôn giáo; đặc biệt, trong sự sáng tạo nghệ thuật, những nhà siêu thực là những người đã đi tiên phong khi dựa trên những khám phá về vô thức, trực giác, thuyết tương đối, cơ học lượng tử... để đưa ra một quan niệm sáng tác mới, cho có một hiện thực cao siêu, một hiện thực đích thực mà nghệ thuật cần phải thể hiện, đó chính là siêu thực. Ở Việt Nam, Lê Đạt là một trong số rất ít người nhiệt thành truyền bá cái tinh thần sáng tạo nghệ thuật dựa trên cơ sở khoa học ấy, ông viết: “Nhà nghệ thuật thiếu lý tính chỉ là một nghệ sĩ thứ phẩm mắc bệnh vĩ đại cũng cần chữa trị hoặc nên đổi nghề (Tạp chí Tia sáng xuân 2002, tr.25). Thế nhưng, có điều rắc rối ở đây là, để hiểu cho đúng được những tri thức cao siêu của vật lý lý thuyết lại không đơn giản, nó khó khăn ngay cả với những nhà vật lý nếu không theo chuyên ngành này. Ngay đến S. Hawking, nhà bác học tật nguyền người Anh, hiện đang ở trên tuyến đầu của khoa học, cũng phải viết rằng, để hiểu thấu được những lý thuyết vật lý mới, bạn phải là một chuyên gia, mà dầu có là một chuyên gia đi nữa cũng chỉ hy vọng nắm bắt được một phần mà thôi. Riêng người viết bài này tuy học Hóa, nhưng khoa học là một thể thống nhất, hơn nữa lại từng làm việc tại các viện và trung tâm nghiên cứu, nên cũng buộc phải học vật lý và những môn liên quan mật thiết đến vật lý như Hóa lượng tử; vì thế tự thấy cũng có điều kiện hơn một chút một nhà thơ thuần túy mơ tưởng, bước vào cái địa hạt cao siêu huyền bí của vật lý lý thuyết. Hơn nữa, bản thân cũng rất thích vật lý, đơn giản chỉ vì lịch sử phát triển của nó hay như một cuốn tiểu thuyết vĩ đại, đầy kịch tính, các nhân vật lại đều là những người kiệt xuất; và với một ý nghĩa thực dụng hơn, cầm bút viết phê bình mà không hiểu những phát minh nền tảng của khoa học thì không thể viết cao sâu được khi phải đụng chạm đến những vấn đề liên quan đến triết lý, tư tưởng và sự phát triển. Tôi thật e ngại khi thấy có tình trạng một số ít người không có chuyên môn khoa học cơ bản nhưng lại tung tăng đi vào các khu rừng tri thức như vào chỗ không người, nên có quá nhiều sai lạc. Riêng Lê Đạt, thật tiếc, khi ông chưa hiểu được chính xác những vấn đề khoa học hiện đại nhưng ông lại có cao vọng dựa vào chúng để đưa ra những nguyên lý sáng tạo thơ ca.
Vậy dựa trên một cơ sở sai lạc để đưa ra cái mới thì cái mới cũng sẽ sai lạc. Dù rất kính trọng tinh thần trẻ trung, đổi mới của Lê Đạt, hôm nay tôi vẫn buộc phải viết bài thảo luận này.
Bài “Thì... là...” của Lê Đạt là bài tôi chú ý đầu tiên đăng trên Tạp chí Sông Hương số 127, tháng 9-1999, dựa trên Vật lý Lượng tử, ông bàn đến sự phát triển của thế giới hiện đại: “Ánh sáng vừa là hạt vừa là sóng... Sóng và hạt không loại trừ nhau và cùng song song tồn tại./ Đó là nền tảng của nguyên lý bổ sung cũng như hệ quả của nó, phương châm chung sống hoà bình và thế giới đa cực”. Chỉ độc chuyện viết chữ hạt trước haysóng trước trong câu trên đã có nhiều điều cần bàn rồi. Trong Vật lý Lượng tử, người ta chia ra hai loại hạt: loại chất và loại trường(sóng); loại chất là những hạt như những viên gạch xây nên thế giới vật chất; loại trường là những hạt ảo, là lực liên kết, tức là “vữa” gắn kết các hạt vật chất tạo nên thế giới chúng ta đang sống. Ánh sáng là lực của trường điện từ, theo Einstein, tronghiện tượng quang điện, nó cũng thể hiện tính chất hạt. Vì vậy, câu trên của Lê Đạt phải viết: “Ánh sáng là sóng lại vừa có tính chất hạt...” mới đúng. Tùy theo điều kiện, nó là sóng hoặc là hạt, chứ không phải “song song tồn tại”, “vừa là hạt vừa là sóng”.
Cũng trong bài trên, khi bàn về đổi mới thơ ca, Lê Đạt viết: “sống là chống lại ăngtropi, sống là đổi mới.../ Một nền thơ lành mạnh sống động không thể không luôn luôn đổi mới. Đổi mới là lội ngược dòng suy thoái. Đổi mới là tạo ra ăngtropi âm nó chính là sinh tố cải lão hoàn đồng của trí tuệ”.
Có một sự không ổn khi Lê Đạt dùng khái niệm “ăngtropi”ở trên. Vậy ăngtropi là gì? Trong cơ học thống kê, entropy là đơn vị đo lường mức độ hỗn loạn của hệ. Sự tăng độ hỗn loạn, sự đổ vỡ cái cũ là một quy luật khách quan, người ta chỉ có thể can thiệp bằng việc tiếp thêm năng lượng để có thể giảm sự hỗn loạn hoặc cao nhất cũng chỉ giữ được trạng thái trật tự cũ. Trong khi đó ngược lại, đổi mới thơ ca nói riêng và nghệ thuật nói chung là phải xóa bỏ cái trật tự cũ để sinh ra cái mới. Như vậy, Lê Đạt “muốn nói cho có tính khoa học”, muốn đổi mới thì cần phải làmtăng ăngtropi, còn viết như trên, nghĩa là Lê Đạt đã cổ xúy cho việc dẫm chân tại chỗ, ngược với ý ông muốn diễn tả.
Trong tạp chí Tia sáng xuân 2002, chuyên đề bàn về trí tưởng tượng, Lê Đạt viết: “Khoa học Tự nhiên và quyết định luận của nó tuởng như đã có thể vĩnh viễn ngự trị tất cả thế giới./ Những thể nghiệm nghiêm ngặt và công phu tại các phòng thí nghiệm khiến các nhà khoa học tin rằng cuối cùng đã nắm được hiện thực và do đó có thể điều khiển được nó - như tiểu Thượng đế thực sự”.
Câu này Lê Đạt viết ngược với tinh thần làm việc khoa học cũng như lịch sử ngành vật lý. Cuối thế kỷ XIX, đúng là các nhà vật lý tưởng đã “nắm được hiện thực” nhưng “Những thể nghiệm nghiêm ngặt và công phu tại các phòng thí nghiệm khiến các nhà khoa học” không tin rằng chứ không phải “đã tin rằng” “cuối cùng đã nắm được hiện thực” như Lê Đạt viết. Vì chính nhờ những thí nghiệm đó mà các nhà khoa học đã phát hiện ra những điều mà Huân tước Kelvin coi là “hai gợn mây nhỏ” còn làm vẩn đục bầu trời trong xanh bao la của khoa học: đó là kết quả của thí nghiệm đo bức xạ của vật đen khi bị nung nóng và kết quả thí nghiệm đo vận tốc ánh sáng; hai kết quả đó đã chứng tỏ tính ngang bướng của tự nhiên, không tuân theo suy luận logic của tri thức vật lý hiện có. Và chính “hai gợn mây nhỏ” đó đã khiến các nhà khoa học không yên tâm, và trong quá trình tìm hiểu để lý giải chúng, họ đã không ngờ rằng mình đã đưa lịch sử vật lý sang một thời đại mới, với hai cột trụ là Thuyết Tương đốivà Cơ học Lượng tử.
Lê Đạt viết tiếp: “Ngày hội đuơng đông vui rôm rả lại bỗng xuất hiện những khách không mời mà đến. Niels Bohr ông tổ thứ nhất của ngành vật lý lượng tử quẳng ra một lời phát biểu hết sức “chối tai”: / Hiện tượng không phải là hiện thực, nó là hiện thực cộng với dụng cụ quan sát và người quan sát./ Chưa hết ông còn bồi thêm một đòn trí mạng nữa thông qua lý thuyết bổ sung:/ Ánh sáng vừa là hạt vừa là sóng”.
Với các nhà bác học, tôn vinh bằng lời lẽ thế nào cũng chưa xứng với họ, nhưng Lê đạt viết như trên đã không đúng với lịch sử nghiên cứu Cơ học Lượng tử. Thứ nhất Borh không phải là “khách không mời mà đến” mà ông cũng là một chủ nhân bữa tiệc vật lý. Chính dựa vào phát minh của thầy (Rutherford) và thầy của thầy mình (J.J.Thomson), ông đã đưa ra ”Thuyết cấu tạo nguyên tử” theo tinh thần Cơ học Lượng tử.
Thứ hai, Borh không phải là “ông tổ thứ nhất của ngành vật lý lượng tử”. Danh hiệu đó nên dành cho M. Planck thì đúng hơn. Để chiều theo tính ương bướng của tự nhiên trong hiện tượng phát xạ của vật đen như đã nói, ông đã đưa ra một giả định “ngược đời”: năng lượng được vật đen bức xạ không liên tục mà chỉ từng lượng nhỏ, tức lượng tử, và ông đã đúng! Đó chính là viên gạch đầu tiên của lâu đài vật lý lượng tử. Tiếp đến ông tổ thứ hai phải kể là A. Einstein, dựa vào phát minh của Planck, cho: trong hiện tượng quang điện, ánh sáng là sóng nhưng đã thể hiện tính chất của một hạt. Rồi mới đến lượt Borh, đã áp dụng những thành tựu trên để cải tiến thuyết cấu tạo hành tinh nguyên tử của Rutherford theo tinh thần lượng tử, cho khớp với kết quả thí nghiệm về quang phổ.
Còn câu phát biểu của Borh nói về thế giới vi mô không phải là “chối tai” mà thực chất rất êm tai bởi ông có cái nhìn duy vật. Câu: “Hiện tượng không phải là hiện thực, nó là hiện thực cộng với dụng cụ quan sát và người quan sát” mà Lê Đạt đã dẫn cần phải chỉnh lại theo đúng tinh thần của ông: Hiện tượng quan sát được không phải là hiện thực mà là thuộc tính của hiện thực đã chịu tác động của dụng cụ đo, còn Lê Đạt viết thêm “và người quan sát” nữa là sai, vì đó mới là quan điểm duy tâm chủ quan “chối tai” của phái thực chứng theo W. Heisenberg, cho: hiện tượng trong thế giới vi mô là thực tại phụ thuộc vào chủ quan người quan sát, tức cho ý thức quyết định được vật chất.
Lê Đạt tiếp: “Chưa hết ông còn bồi thêm một đòn trí mạng nữa thông qua lý thuyết bổ sung:/ “Ánh sáng vừa là hạt vừa là sóng”.
Thực chất phát minh về lưỡng tính sóng hạt của thế giới vi mô công đầu phải kể là Planck, rồi Einstein như đã nói ở trên. Tiếp theo là A. Compton, bằng những thí nghiệm tinh xảo đã chứng tỏ ánh sáng đã thể hiện tính chất như một hạt khi va chạm đàn hồi với điện tử. Sau một phần tư thế kỷ, thí nghiệm của Compton này mới làm Planck an lòng được, vì nó đã chứng thực giả thuyết lượng tử “ngược đời” của ông. Cuối cùng phải kể đến L. De Broglie đã đưa ra giả thuyết điện tử cũng có tính chất sóng, và đã được kiểm chứng đúng. Vậy thực chất Borh không phải phát minh ra lưỡng tính sóng hạt mà ông chỉ dựa trên những kết quả đã có để đưa ra nguyên lý bổ sung, cho: hạt hoặc sóng là tính chất của thế giới vi mô thể hiện trong những điều kiện quan sát khác nhau, chúng mâu thuẫn nên cần được bổ sung để phản ánh các mặt khác nhau của đối tượng nghiên cứu, chứ không nên gộp lại sẽ phi logic.
Lê Đạt viết tiếp: “Tôi không phủ nhận vai trò những dụng cụ tinh xảo, nhưng tôi có cảm giác về số người quá nhấn mạnh đến vai trò (quyết định) của chúng./ Người ta kể lại rằng khi vợ chồng nhà bác học Einstein được mời đến thăm một đài quan sát thiên văn nổi tiếng tại Hoa Kỳ, vị giám đốc có vẻ hơi tự đắc hỏi vợ nhà bác học:/ “Bà thấy trang thiết bị ở đây thế nào?”/ Vợ nhà bác học điềm nhiên trả lời:/ “Hơi nhiều. Khi nghĩ ra thuyết tương đối ông nhà tôi chỉ có một cuốn sổ tay và một cây bút chì”.
Câu này Lê Đạt muốn đề cao trí tưởng tượng. Trong nghiên cứu khoa học nói chung, việc làm thí nghiệm và sự phân tích các hiện tượng nảy sinh để đưa những suy luận bằng trí tưởng tượng để đạt được kết quả là một thể thống nhất. Còn nếu muốn chia ra thì e rằng Lê Đạt đã đề cao ngược. Theo triết học duy vật biện chứng, trí tưởng tượng chỉ nảy sinh được từ thực tại chứ không thể từ hư vô. Chính hiện tượng nguyệt thực đã chỉ cho loài người thấy là trái đất tròn khi nhìn thấy bóng của nó là hình tròn in trên mặt trăng. Lịch sử khoa học chỉ ra, trí tượng chỉ thực hiện tốt trong một phạm vi khi suy luận lôgic được tuân theo, nhưng tự nhiên luôn ương bướng như đã trình bầy ở trên, nó luôn đưa ra những kết quả ngược với trí tưởng tượng, buộc các nhà khoa học phải nghĩ cách khác, như Planck đã phải mò ra chuỗi tính năng lượng cho khớp với tính phát xạ gián đoạn; và Borh, để khớp với các vạch quang phổ nguyên tử, đã tự ý cho điện tử chỉ chuyển động theo những quỹ đạo được phép, không phát xạ theo những quy luật đã biết của vật lý cũ, chỉ phát xạ khi rơi vào quỹ đạo có mức năng lượng thấp hơn. Vậy đoạn đối thoại: “Bà thấy trang thiết bị ở đây thế nào?”/ Vợ nhà bác học điềm nhiên trả lời:/ “Hơi nhiều. Khi nghĩ ra thuyết Tương đối, ông nhà tôi chỉ có một cuốn sổ tay và một cây bút chì”, chỉ nên coi là câu nói vui của vợ Einstein, còn nếu bà nói thực thì chứng tỏ bà không hiểu gì công việc của chồng mình.
Gần như toàn bộ các nhà vật lý trong lịch sử đã công kênh cho Einstein đứng trên vai mình để hái trái táo “thuyết Tương đối”, đặc biệt từ phép biến đổi Lorentz và kết quả đo vận tốc ánh sáng của Michelson. Chỉ trong năm 1905, Einstein đã đưa ra 5 phát minh, trong đó có thuyết Tương đối hẹp, một phát minh vĩ đại; mà nếu chỉ một mình ông làm từ đầu, chắc có sống đến nhiều đời cũng không làm nổi. Nói vậy thì ông có vĩ đại không? Ông vẫn hoàn toàn vĩ đại, vẫn xứng đáng là công dân ưu tú nhất của thế giới trong thế kỳ XX mà TIME đã chọn, vì để đưa ra những phát minh, ông phải dũng cảm dựa vào những điều kỳ lạ không ai dám tin, tức phải chấp nhận thời gian, không gian không phải là tuyệt đối, tách bạch, mà chúng co giãn theo chuyển động và liên quan mật thiết với nhau; và nhân loại đang sống không phải trong một không gian phẳng mà bị uốn cong bởi trường hấp dẫn. Và thật tuyệt vời là người ta lại có thể kiểm chứng được những điều kỳ lạ đó, nên những phát minh của Einstein là đúng! Những đồng hồ tinh xảo y hệt, được những người đeo trên máy bay, bay xuôi chiều và ngược chiều vòng quay trái đất (để làm tăng sự khác biệt về vận tốc của hai loại đồng hồ), sau thí nghiệm, người ta đã thấy hai đồng hồ chỉ khác nhau. Điều này đã chứng tỏ thời gian đã co giãn theo vận tốc đúng với thuyết Tương đối. Khi nhật thực, người ta cũng đã thấy không gian đúng là cong, bởi nhận thấy tia sáng từ một ngôi sao, đi qua không gian cạnh mặt trời đến trái đất, đã bị uốn cong!
Gần đây nhất, qua trang web chungta.com, tôi đã đọc bàiThơ và vật lý hiện đại của Lê Đạt. Bài viết như một lời tâm sự rất xúc động của một nhà thơ già sau chặng đường đời dài đầy thăng trầm, với một tâm hồn nhạy cảm và vẫn với một trí óc đầy suy tư, ông luôn khát khao nhận diện được thế giới hiện đại và đổi mới thơ ca. Ông kể lại cái duyên kỳ ngộ cho ông gặp vật lý rồi đắm say nó qua một kỳ vận hạn đã đẩy ông vào: “một tình trạng hết sức trầm luân về vật chất cũng như tinh thần”; ông đã được “...một anh bạn... (đó là nhà vật lý lý thuyết Đặng Mộng Lân) giới thiệu với tôi cuốn Einstein: cuộc đời, tư tưởng và lý thuyết của Kouznetsov”; “Lâu lắm tôi mới được đọc một cuốn sách khoa học viết hấp dẫn đến thế. Tôi đọc đi đọc lại nhiều lần. Cuốn sách đã dậy tôi rất nhiều về lý thuyết tương đối nhưng hơn thế nó còn dậy tôi một bài học lớn lao về cách sống và cách nghĩ của một người tìm tòi”. Ông đã ngẫm ra một điều rất đúng: “Khoa học thực nghiệm cổ điển đã đem lại cho nhân loại những bước tiến lớn thoát khỏi những vũng lầy mê tín...” Nhưng ông lại tiếp “...nhưng nó cũng có nhược điểm là dễ khiến người ta quá chú trọng đến những hiện tượng tai nghe mắt thấy mà lơ là những khía cạnh sâu xa và bí ẩn của tự nhiên mà chỉ tư duy mới nhìn thấy” thì không được đúng lắm về vật lý. Vì vật lý cổ điển hay hiện đại cũng đều phải sử dụng cái nhìn của tư duy. Lý thuyết điện từ của Maxwell, các nhà hóa học, sinh học của “khoa học cổ điển” cũng đã buộc phải nhìn thấy những cấu trúc vật chất mà các giác quan không thể nhận thấy rồi. Còn riêng vật lý, cuối thế kỷ XIX, người ta không nhìn thấy những quy luật mới do chưa ai có đủ tài để nhìn thấy chứ không phải tại phương pháp nghiên cứu thiên về giác quan kìm hãm. Và chính Einsten là người mà lịch sử vật lý cần đến đã xuất hiện, bàn tiệc đã dọn sẵn, và ông chỉ cần chỉ cho mọi người cách ăn mà thôi.
Lê Đạt viết: “Những nguyên lý bất định, nguyên lý bổ sung của vật lý lượng tử đã giải phóng nhân loại khỏi lý thuyết nhân quả tất định cứng nhắc...Chúng đã đánh một đòn chí mạng vào lý thuyết chết người "loại trừ vế thứ ba" của logic cổ điển từng gây thảm họa cho loài người (mà không phải chỉ trong phạm vi tư tưởng). Không nên quên hệ quả cao điểm của nó là định thức “Kẻ nào không đi với ta là chống lại ta". Các nhà vật lý lượng tử đã góp phần thiết kế cho nhân loại một phạm trù mở, cái khác. Từ trước đến nay tư duy cổ điển chỉ vận hành trên hai trục đúng sai giờ đây cái vạc hai chân kia đã thêm một trụ mới, trụ thứ ba về cái khác góp phần tạo nên một cách ứng xử mới, mở ra kỷ nguyên đối thoại thay thế cho thói quen độc thoại chuyên chế và bạo lực”. Ở đây, Lê Đạt dựa vào vật lý để suy ngẫm như trên là không khớp, vì thực ra lưỡng tính sóng hạt của cơ học lượng tử ngụ ý: trong cái này có cái kia và ngược lại trong cái kia có cái này chứ không phải “có cái thứ ba” như Lê Đạt viết.
Lê Đạt tiếp: “Từ khi cầm bút tôi đã quan niệm việc cách tân thơ Việt là mục đích quan trọng nhất của đời mình... Vật lý hiện đại (và thơ hiện đại) khuyến khích những giả thuyết thoạt nhìn như rồ dại nhưng có khả năng mở ra những khía cạnh kỳ bí của ngoại giới (cũng như thiết kế những tập họp chữ mới vượt qua biên giới cảm nhận sang những vùng tri nhận phức hợp và quyến rũ, chuyển sự chú tâm của người làm thơ vào những tác hiệu (siguthants) đa nghĩa sống động hơn là vào những thụ hiệu (siguihés) minh bạch nhưng cằn cỗi)”. Tôi rất ủng hộ sự khao khát đổi mới, tán thành cái quan niệm thơ hiện đại cần phải đưa ra được cấu trúc mới (tôi thấy có nét tương đồng với các công thức vật lý chuyển tải những quy luật của tự nhiên). Ý của Lê Đạt: “Thiết kế những tập họp chữ mới vượt qua biên giới cảm nhận sang những vùng tri nhận phức hợp và quyến rũ, chuyển sự chú tâm của người làm thơ vào những tác hiệu (siguthants) đa nghĩa sống động hơn là vào những thụ hiệu (siguihés) minh bạch nhưng cằn cỗi” có thể là một tuyên ngôn rất hay về thơ hiện đại. Chính bản thân tôi cũng đã tâm niệm điều này rất nhiều khi làm thơ, đã muốn dựng lên những bài thơ với kết cấu sao cho chúng như những bức chân dung của tư tưởng và tình cảm, muốn làm sao đó có thể thể hiện được một cách súc tích nhất sự phức hợp của tâm hồn con người cũng như thế giới ngổn ngang ta đang sống. Tiếc là cái tuyên ngôn của Lê Đạt trên lại không liên quan gì đến tri thức vật lý mà ông dựa vào: “Lý thuyết về những phô tông đã khẳng định tầm quan trọng hàng đầu của những cấu trúc gián đoạn thay thế những cấu trúc liên tục tăng chế ngự khoa học cũng như thơ ca trong nhiều thế kỷ”. Tính liên tục và tính lượng tử chỉ khác nhau như một sợi dây liền và một sợi dây đứt đoạn. Tôi thấy cả thơ cũ cũng như mới đều là gián đoạn cả, mỗi con chữ như một lượng tử, rồi mỗi câu thơ, ý thơ, khổ thơ cũ hay mới thì cũng phải gián đoạn. Có lẽ ở đây Lê Đạt muốn nói đến sự diễn tả ý tứ liền mạch và gián đoạn, và theo ông cần phải thể hiện ý đứt đoạn bằng cách “cần phải phá vỡ “những quy luật nghiệt ngã nhiều khi bảo thủ của ngữ pháp”. Tôi thấy ở đây ông lại giống không ít người rơi vào chủ nghĩa hình thức, cho đổi mới thơ chỉ bằng thay đổi hình thức giản đơn. Theo tôi, sự chặt khúc ý tưởng bằng sai ngữ pháp chỉ có thể tạo ra được cái lạ, cái ngô nghê, còn cái thuộc tính chính của thơ mà ông đã tuyên ngôn ở trên là cần phải tăng sức biểu cảm, biểu đạt thì không thể được. Mà nếu dựa vào khoa học mà xét thì lại càng không thể. Tất cả các định luật, công thức của khoa học đều phải thống nhất với nhau, còn những chỗ chưa thống nhất tức còn “sai ngữ pháp” thì chính là những bài toán mà khoa học chưa giải được. Ngữ pháp thực chất chỉ là quy tắc của ngôn ngữ, còn ngôn ngữ cũng chỉ là công cụ giao tiếp của con người, không phải là thực tại khách quan. Khi sử dụng ngôn ngữ sai thì hoặc do khả năng ngôn ngữ, hoặc do trạng thái tâm thần người sử dụng, chứ hoàn toàn không thể có chuyện: diễn tả hiện thực một cách “sai ngữ pháp” thì sẽ sâu sắc toàn diện hơn. Trong tác phẩm, ngôn ngữ nhân vật có thể sai ngữ pháp, còn nhà văn viết tác phẩm mà sai ngữ pháp là do học dốt. Để diễn đạt những điều phức tạp, thực ra người ta càng phải viết cho chuẩn mực hơn.
Hiện tại, thủ pháp “phá vỡ ngữ pháp” thể hiện nhiều kiểu, như câu thiếu thành phần, hoặc ghép các hình ảnh ngẫu nhiên thành câu phi lô-gic ngữ nghĩa... giống như bên hội họa phá vỡ hình thể khi vẽ vậy. Lịch sử ngôn ngữ hội họa đi từ giống thật, đến khác thật, đến trừu tượng, rồi lại quay lại “hiện thật” (như các trường phái trình diễn, xếp đặt). Vậy cái nào là chân lý? Tôi đã tự hỏi, hội họa đã có trình diễn, sắp đặt, không biết đến bao giờ sẽ có thơ tương tự; nếu có, người ta sẽ diễn tả nụ hôn như thế nào, sẽ cắt những cặp môi trai gái tẩm ướp rồi dán lên giấy chăng?
Hình thức thơ là quan trọng nhưng nó không quyết định được phẩm chất của thơ, không có chất, nó sẽ rỗng, giống như thức ăn không có gluxit, protid, lipit... vậy. Con người khi đói ăn cái gì cũng ngon, nhưng lúc no nê, người ta kinh sợ trước những bàn tiệc tú hụ với những món được tẩm ướp đủ kiểu, làm cho không còn nhận ra những mùi vị cơ bản của thức ăn nguyên chất nữa, tất cả đều mặn mặn, ngọt ngọt, beo béo, cay cay, dai dai, ròn ròn. Ở thành phố ba mươi năm rồi, tôi vẫn luôn nhớ về dĩa thịt gà luộc giản đơn rắc lá chanh thơm của mẹ và những món ăn dân giã. Nhiều quán “Cơm Hà Nội” ở Sài Gòn đã cố bắt chước cái nguyên sơ ấy, nhưng không tài nào tạo ra được đúng cái hương vị tuyệt vời của nó, bởi giữa thời đại cái gì cũng công nghiệp này, thực phẩm cũng bị ép thành thực phẩm, chúng không đủ không gian và thời gian để tẩm hút linh khí của trời đất để trở thành thực phẩm thứ thiệt. Từ đây tôi liên tưởng đến thơ ca. Nếu tâm hồn, tư duy nhà thơ cũng tẩm hút không đủ những cay đắng, mặn chát, ngọt bùi của đời sống để có thể cung cấp chất liệu đích thực cho thơ ca, chỉ với một chút vốn ngôn ngữ trống rỗng, liệu có nhào nặn nổi thành thơ mới hay hơn thơ cũ được không?
Với Lê Đạt, tôi chưa đọc thơ ông nhiều nên không dám nhận xét. Tôi luôn trân trọng tinh thần đổi mới của ông, tiếc là bài này tôi lại phải viết những điều phản bác những lý luận của ông. Dựa vào tri thức, người ta buộc phải hiểu biết sâu sắc tri thức, như nhà khoa học muốn làm ra sản phẩm phải hiểu đúng mới đưa ra được quy trình sản xuất. Nếu hiểu lờ mờ không thể làm gì được. Khi ấy, tri thức giống như con dao cùn của người mở đường, không thể phát quang được con đường dẫn đến vùng đất mới mầu mỡ, và như thế đã đẩy anh ta rơi vào cái tình cảnh như dân gian thường nói: bỏ đường quang đâm quàng bụi rậm. Vậy có nên không?
http://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/tho_va_vat_ly_hien_dai-4.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét