Chủ Nhật, 14 tháng 1, 2018

Chân Lý Khách Quan và Chân Lý Chủ Quan


Huy Thái
 12-Jan-2018
Bay tự do trong không gianẢnh apod.
Kính thưa quý bạn,
Chân lý là gì mà con người lại thường tìm cách mô tả và cho đó là giá trị đáng ngưỡng mộ, đáng tôn kính, và thậm chí còn lấy thân mạng của mình ra để bảo vệ nó?
Như chúng ta biết ngôn tự là phương tiện mà con người dùng để diễn đạt và truyền thông về các hiện tượng sinh động của vạn sự vạn vật xung quanh ta và chính bản thân ta, mà các giác quan thông thường của con người cảm nhận được. Do đó, ngôn tự “chân lý” là một trường hợp như bao ngôn tự khác.
Về mặt ngôn tự thì chân lý là từ ghép có 2 phần chân và lý :
chân 眞: thật, thực, hiện thực // sự thật.
lý 理: lý lẽ
Như thế, chân lý 眞理 hàm ý nghĩa “lý lẽ biểu hiện cho một sự vật thật, cho một hiện thực”. Theo ý nghĩa đó, một sự vật hiện thực mới chỉ là chân, và chỉ có  khi nào có những lý lẽ diễn đạt mang tính quy luật kèm theo mà ai ai cũng có thể nhận biết ra về nó.
Thí dụ 1 - Chân lý về vũ trụ: Mọi sự vật trong vũ trụ là một hiện thực từ giác quan, mà không cần lời nói và chữ viết (ngôn tự), nên là chân. Khi có lý lẽ “tương tác giữa các sự vật trong vũ trụ làm cho các sự vật luôn biến đổi và không có ngoại lệ”, mang tính quy luật, tức là . Theo đó, chúng ta bảo vũ trụ vô thường; và như thế, vũ trụ vô thường được gọi là chân lý, hay vũ trụ vô thường là chân lý về vũ trụ.
Thí dụ 2 - Chân lý về Thượng Đế: Thượng Đế theo cách hiểu thông thường là ông vua ở trên trời có nhiều quyền năng, có quyền thưởng phạt con người và vạn vật. Đây là ý nghĩ tưởng tượng của người xưa khi chưa rõ các quy luật tự nhiên; họ đồng hóa trong thiên nhiên có một vị vua (đế) ở trên trời cao (thượng), có sức mạnh vô song như làm mưa lut, gió bão, … Ông vua vô hình ở trên trời tưởng tượng này tất phải lớn hơn và mạnh hơn, trùm hết cả các ông vua hữu hình ở dưới đất!
Trong tôn giáo, môn thần học là môn nghiên cứu về Thượng Đế, với lý lẽ cho rằng Thượng Đế không thể cảm nhận hiện thực từ giác quan, là ngoại lệ của vũ trụ, là nguyên nhân đầu tiêntự hữu và hằng hữuchưa ai thấy biết được nhưng không được phép nghi ngờ. Lý lẽ hoàn toàn không hiện thực về Thượng Đế vẫn được tôn giáo áp đặt cho rằng Thượng Đế là chân lý.
Qua hai thí dụ trên, ta thấy thí dụ 1 sát với ý nghĩa gốc, còn thí dụ 2 thì hoàn toàn trái lại. Cho nên biểu hiện của thí dụ 1 nói lên ý nghĩa chân lý khách quan, bởi nó mô tả lý lẽ hợp với hiện thực mà ai ai với chút quan sát và nghĩ suy thì cũng có thể nhận ra và gần gũi đối với cuộc sống; còn thí dụ 2 được gọi là chân lý chủ quan, tức chẳng phải là chân lý theo ý nghĩa gốc, bởi nó mô tả lý lẽ hoàn toàn không hợp với hiện thực, mà có lẽ chỉ chỉ dành cho những ai lười suy nghĩ hay tâm lý yếu đuối dễ bị áp đặt mà thôi.
 “Khi Thấy điều vô lý thực sự là vô lý, như nó đang là mà không phân tích, suy luận, biện minh... là Thấy được Chân lý". Cái vô lý, cái có lý không phải là Chân lý mà cái Thấy như thực mọi đối tượng mới là Chân lý.”
Như thế:
Khi thấy điều vô lý thực sự là vô lý hay thấy điều có lý thực sự là có lý, tức là ta đã chạm vào phân tích, suy luận, biện minh trên một chuẩn mực biểu kiến nào đó rồi. Còn như thấy như thực (như nó đang là) mà không phân tích, suy luận, biện minh nơi mọi đối tượng thì chỉ là thấy Chân, chứ chưa là Chân lý?
HT

Thứ Bảy, 13 tháng 1, 2018

KIẾP NGƯỜI TRÔI



Đầu hàng duyên nợ bỏ cuộc chơi
tôi vào góc tối mụ mị đời
sân ga vắng bóng con tàu đổ
phố cũng không còn dáng mồ côi


Đêm trôi chấp chới muôn trùng cõi
há miệng nuốt từng giọt máu rơi
trái tim dị dạng chừng hấp hối
đập loạn luân hồi đón ly bôi


Phách lạc hồn tan về trăm lối
chia tình trăm ngã kiếp người trôi

Thứ Sáu, 12 tháng 1, 2018

NHẬP THẾ

Thơ Nguyễn Thị Thùy Linh








Em không biết mình, con chim xanh cánh xòe nạm ngọc
Hay con lươn trơn đứng dậy bằng đuôi?
Ngác ngơ đi vào thế giới
Nhớ nhung thế tục nồng nàn

Em đã nín thở nhiều giờ trong tưởng tượng
Để sống và vượt qua nỗi cồn cào lá nhú
Đã đập tan sự im lặng này
Bằng sự im lặng khác
Im hơn sâu hơn

Chúng có cùng tần sóng không anh?
Như khi em khóc
Dòng sông liệu có ngưng thở vài giây
Tiếc cho những giọt nước tự quyên sinh xuống cỏ


Trên bãi cát lạnh
Sóng đang ăn những quả chín đầu mùa
Tựa đôi mắt em vừa khóc
Khi run rẩy nói rằng
Trước mặt đất hoàn toàn trong sạch
Em sẽ trút xuống bộ da thịt thiêng liêng này
Chỉ để làm một bông hoa nhỏ
Mọc trên võng mạc thế gian
Và máu của hoa tràn về cứu rỗi.

Thứ Năm, 11 tháng 1, 2018

Bản chất thực sự của trạm thu phí BOT là gì?



BOT là một thuật ngữ tiếng Anh được sử dụng nhiều trong các văn bản cũng như trong giao tiếp bình dân hàng ngày của người Việt Nam. Vậy BOT là gì và trạm thu phí BOT là gì?


Thuật ngữ BOT là viết tắt của cụm từ (Build – Operate - Transfer) hay còn gọi là Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao trong kinh tế. Theo Khoản 3, Điều 3, Nghị định về Đầu tư theo hình thức Đối tác Công tư Hợp đồng thì Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư được quyền kinh doanh công trình trong một thời hạn nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Hình thức đầu tư các công trình giao thông theo dạng BOT ở nước ta hiện đang phát triển với tốc độ chóng mặt. Điều này hoàn toàn phù hợp với đặc trưng của một quốc gia đang trong giai đoạn tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thậm chí, trong khoảng 5 năm gần đây, có hàng trăm hợp đồng BOT đang mọc lên như nấm vì nguồn lợi nhuận khổng lồ.

Có thể hiểu nôm na thì những công trình này được hình thành trên cơ sở hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư. Sau khi nhà đầu từ tiến hành xây dựng công trình giao thông (cầu và đường), nhà đầu tư có quyền kinh doanh công trình trong thời gian nhất định. Khi hết thời hạn thì lúc đó nhà đầu tư mới chuyển giao cho nhà nước quản lý.



Hình ảnh một trạm thu phí BOT. Ảnh: Zing.vn

Vì những dự án giao thông BOT đều là vốn của nhà đầu tư nên khi chạy xe trên đường là các công trình giao thông BOT, người tham gia giao thông đều phải trả tiền. Và để thu tiền của các phương tiện tham gia giao thông thì các chủ đầu tư sẽ xây những trạm thu phí.

Trạm thu phí BOT là những trạm chốt được lập nên tại các tuyến đường thuộc dự án BOT với chức năng thu phí đường bộ của các phương tiện tham gia giao thông trên tuyến đường đó. Số tiền thu được từ người tham gia giao thông sẽ được dùng vào việc chi trả, bảo trì và nâng cấp các tuyến đường. Hiện nay, mức tiền thu phí được nhà nước quy định và điều chỉnh theo từng thời điểm, từng loại hình phương tiện và từng tuyến đường khác nhau.

Mức thu phí tại các trạm BOT được quy định theo thông tư số 159/2013/TT-BTC hướng dẫn chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí sử dụng đường bộ hoàn vốn đầu tư xây dựng đường bộ. Thông tư này quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí sử dụng đường bộ để hoàn vốn các dự án đầu tư xây dựng đường bộ để kinh doanh. Đối với các dự án đầu tư khác thực hiện theo hướng dẫn riêng của Bộ Tài chính (đối với đường quốc lộ) hoặc Hội đồng nhân dân cấp tỉnh (đối với đường địa phương).

Đối tượng chịu phí sử dụng đường bộ bao gồm:Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ và xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ.

Các trường hợp được miễn phí

- Xe cứu thương, bao gồm cả các loại xe khác chở người bị tai nạn đến nơi cấp cứu.

- Xe cứu hỏa.

- Xe máy nông nghiệp, lâm nghiệp gồm: máy cày, máy bừa, máy xới, máy làm cỏ, máy tuốt lúa.

- Xe hộ đê, xe làm nhiệm vụ khẩn cấp về chống lụt bão.

- Xe chuyên dùng phục vụ quốc phòng, an ninh gồm: xe tăng, xe bọc thép, xe kéo pháo, xe chở lực lượng vũ trang đang hành quân.

Ngoài ra, đối với xe chuyên dùng phục vụ quốc phòng còn bao gồm các phương tiện cơ giới đường bộ mang biển số: Nền màu đỏ, chữ và số màu trắng dập chìm (dưới đây gọi chung là biển số màu đỏ) có gắn các thiết bị chuyên dụng cho quốc phòng (không phải là xe vận tải thùng rỗng) như: công trình xa, cẩu nâng, téc, tổ máy phát điện. Riêng xe chở lực lượng vũ trang đang hành quân được hiểu là xe ô tô chở người có từ 12 chỗ ngồi trở lên, xe ô tô tải có mui che và được lắp đặt ghế ngồi trong thùng xe, mang biển số màu đỏ (không phân biệt có chở quân hay không chở quân). Xe chuyên dùng phục vụ an ninh của các lực lượng công an (Bộ Công an, Công an tỉnh, thành phố, Công an quận, huyện)

- Đoàn xe đưa tang.

- Đoàn xe có xe hộ tống, dẫn đường.

- Xe ô tô của lực lượng công an, quốc phòng sử dụng vé “Phí đường bộ toàn quốc” được quy định tại Thông tư số 197/2012/TT-BTC ngày 15/11/2012 của Bộ Tài chính không phải nộp phí khi qua trạm thu phí. - Miễn phí sử dụng cầu, đường bộ quốc lộ đối với xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh, xe hai bánh gắn máy, xe ba bánh gắn máy.

- Xe làm nhiệm vụ vận chuyển thuốc men, máy móc, thiết bị, vật tư, hàng hóa đến những nơi bị thảm họa hoặc đến vùng có dịch bệnh theo quy định của pháp luật về tình trạng khẩn cấp khi có thảm họa lớn, dịch bệnh nguy hiểm.

Ánh Ngân

Thứ Ba, 9 tháng 1, 2018

Thuyết tiến hóa Darwin: Đã đến lúc chấm dứt sự lừa dối vĩ đại





Keymaster




Với sự tiến bộ của khoa học và công nghệ ngày nay, tính ngụy khoa học và phản tự nhiên của thuyết tiến hóa đã lộ ra rõ ràng đến nỗi những người không chuyên ngành về sinh học cũng có thể nhận thấy. Điển hình là trường hợp của Phillip Johnson, một giáo sư luật tại Đại học California ở Berkeley, trở thành một trong những nhà tiên phong trong sự nghiệp giành lại sự thật cho sinh học – tố cáo sự vi phạm luật tự nhiên của học thuyết Darwin. Trong hơn 20 năm qua Johnson liên tiếp cho ra mắt một loạt tác phẩm phê phán thuyết tiến hóa, thậm chí với tư cách một học giả về luật pháp, ông nêu câu hỏi thách thức: “Thuyết tiến hóa có thể chứng minh được tại một phòng xử án hay không?” (Can Evolution be proved in a courtroom?).

Câu hỏi ấy là lời giới thiệu cuốn “Darwin on Trial” (Darwin được đem ra xét xử) xuất bản năm 1991. Năm 1997, ra mắt cuốn “Defeating Darwinism by Open Minds” (Đánh bại học thuyết Darwin bằng tư duy mở). Năm 2006, ra mắt cuốn “Darwinism’s Nemesis” (Sự báo ứng đối với Darwin),….

Richard Dawkins là một nhà tiến hóa học nổi tiếng. Khi được hỏi “liệu ông có bằng chứng nào để chứng minh cho sự tiến hóa hay không?”, Dawkins đã ngớ người ra, im lặng suy nghĩ một lúc rất lâu không trả lời được, đơn giản vì làm gì có bằng chứng (tìm xem video “Richard Dawkins stumped by creationists’ question” (Richard Dawkins bị bí bởi câu hỏi của những người theo thuyết sáng tạo). Còn đây là thêm 2 videos bác bỏ Darwin:

The Great Evolution Hoax (Trò đánh lùa vĩ đại về tiến hóa)
https://www.youtube.com/watch?v=w8k_Ja34ymQ

DNA is the Greatest Enemy of Evolution Theory (DNA là kẻ thù lớn nhất của Thuyết Tiến hóa)
https://www.youtube.com/watch?v=ZHQYj3xfo9w

Toàn bộ thuyết tiến hóa, kể từ cuốn “Về nguồn gốc các loài” (1859) và cuốn “Nguồn gốc loài người” (1871) của Darwin đến những lý thuyết hiện đại sau này, đều là những giả thuyết tưởng tượng, những phỏng đoán không chắc chắn. Phỏng đoán “vĩ đại” nhất của Darwin là sự tồn tại của những thế hệ quá độ chuyển tiếp giữa các loài – vì sự tiến hóa diễn ra liên tục và dần dần tứng tí một (continuously and gradually) nên nếu loài A tiến hóa để biến thành loài B thì ắt phải có những loài trung gian nằm giữa A và B, được gọi là những thế hệ hay những mắt xích quá độ chuyển tiếp trong chuỗi tiến hóa từ A đến B. Những thế hệ này đã tuyệt chủng, nhưng theo Darwin, hóa thạch của chúng ắt phải nằm dưới lòng đất với số lượng lớn, và trước sau khoa học sẽ tìm thấy và phải tìm thấy. Nhưng phỏng đoán ấy càng “vĩ đại” bao nhiêu thì Darwin càng lo lắng bấy nhiêu về việc liệu có tìm thấy lượng hóa thạch đó hay không. Nếu không, lý thuyết của ông sẽ lâm nguy. Vâng, chính Darwin đã bầy tỏ nỗi lo lắng này trong cuốn “Về nguồn gốc các loài” (Chương 9) như sau:
“… số lượng những sinh vật chuyển tiếp quá độ, vốn đã tồn tại trên trái đất, thật sự là khổng lồ. Nhưng tại sao mọi tầng vỉa địa chất không chất đầy những mắt xích chuyển tiếp quá độ đó? Khoa địa chất chắc chắn không tìm thấy bất kỳ một sợi dây xích hữu cơ biến đổi dần dần từng tí một nào như thế; và có lẽ điều này là sự chống đối rõ ràng nhất và nghiêm trọng nhất có thể được nêu lên để chống lại lý thuyết của tôi”.

Có nghĩa là ngay trong thời của Darwin, người ta đã ra công đào xới, tìm kiếm hóa thạch của các thế hệ chuyển tiếp quá độ, và không tìm thấy gì cả. Từ đó đến nay, 156 năm đã trôi qua, kể từ ngày cuốn “Về nguồn gốc các loài” ra đời, vẫn chẳng hề tìm thấy gì cả. Thời gian đã quá đủ để thấy sự thật, rằng KHÔNG TỒN TẠI những thế hệ chuyển tiếp, đơn giản vì KHÔNG CÓ SỰ TIẾN HÓA. Nói cách khác, phỏng đoán “vĩ đại” của Darwin là SAI – sai vì tin rằng có tiến hóa.

Một lần nữa xin nhấn mạnh rằng Darwin ý thức rất rõ rằng vấn đề hóa thạch sẽ quyết định “sinh mạng lý thuyết” của ông. Bằng chứng là ông dành hẳn một chương trong cuốn “Về nguồn gốc các loài” để bàn về vấn đề này. Đó là Chương 9, nhan đề “On the Imperfection of the Geological Record” (Về thiếu sót trong hồ sơ địa chất), trong đó ông viết: “Sự giải thích, như tôi tin, nằm trong sự cực kỳ thiếu sót của hồ sơ địa chất”.

Thế đấy, Darwin đã cảnh báo rằng hồ sơ địa chất (tìm hóa thạch) là cực kỳ thiếu sót.

Đó là lý do để các đệ tử của Darwin phải tìm mọi cách lấp đầy khoảng trống tiến hóa từ vượn lên người. Họ dựng lên bức tranh tiến hóa “rất đẹp” từ vượn lên người, rồi cho phổ biến rộng rãi, nhằm tiêm nhiễm vào đầu óc mọi người, đặc biệt là trẻ em, rằng thuyết tiến hóa là một sự thật. Với công nghệ 3D hiện đại, nhiều bức tranh tiến hóa được bịa ra bằng những xảo thuật đánh lừa bậc thầy (hình đi kèm là một ví dụ).
Nhưng những hóa thạch mà họ lấp đầy khoảng trống từ vượn lên người thực ra đều là những là những loài khỉ hoặc vượn 100% đã tuyệt chủng, hoặc đôi khi là hóa thạch người 100% thời tiền cổ đại. Họ lừa được đa số mọi người, vì đa số là những người không chuyên. Nhưng họ không lừa nổi các chuyên gia sinh học trung thực. Chẳng hạn như Michael Denton, một nhà sinh học phân tử nổi tiếng của Úc, tác giả cuốn ““Evolution: A Theory in Crisis” (Tiến hóa: Một lý thuyết đang khủng hoảng), xuất bản năm 1985, trong đó viết:
“Bất chấp những nỗ lực khổng lồ trong việc đào xới địa chất ở khắp nơi trên trái đất và bất chấp việc khám phá ra nhiều dạng động vật kỳ lạ trước đây chưa hề biết, số lượng vô cùng lớn những mắt xích liên kết chuỗi tiến hóa bị mất tích vẫn chưa được tìm thấy và hồ sơ hóa thạch hầu như vẫn gián đoạn như khi Darwin viết cuốn Về Nguồn gốc các loài”.

Hoảng sợ trước việc không tìm thấy hóa thạch dưới lòng đất, các nhà tiến hóa nghĩ ra cách tìm “hóa thạch sống”. Đó là trường hợp đầu thế kỷ 20, họ đổ vấy cho người Aborigines (thổ dân) ở Australia chính là một loại “người-khỉ/khỉ-người” – một trong những cái được gọi là missing links (mắt xích chuyển tiếp bị mất tích) mà họ cần tìm kiếm để cứu vãn thuyết tiến hóa. Những cuộc truy lùng, săn bắt, thảm sát thổ dân đã diễn ra nhằm lấy hộp sọ nghiên cứu. Đó là một trang lịch sử đen tối của Úc, một vết thương âm ỉ trong lòng xã hội Úc đến nay vẫn chưa lành. Ngày nay ai cũng biết rõ đó là một tội ác của những kẻ nhân danh thuyết tiến hóa, vậy mà thuyết tiến hóa vẫn được tung hô, bằng cách bịt mắt lại để không nhìn thấy những hậu quả phi nhân mà nó đã gây ra trên thế giới, đỉnh cao là chủ nghĩa quốc xã Đức đầu thế kỷ 20. Phải mất nhân tính đến mức độ nào nữa thì người ta mới đủ dũng cảm để nhìn thẳng vào sự thật để kết tội thuyết tiến hóa? Câu hỏi của Grenville Kent trên tạp chí SIGNS of the Times của Australia: “What Darwin taught Hitler?” (Darwin đã dạy Hitler điều gì?) vẫn không có nhà tiến hóa nào dám lên tiếng trả lời. Họ biết trả lời sao đây? Bởi chính ông thầy của họ, Charles Darwin đã dạy họ rằng “trong một thời gian không xa lắm, có thể tính bằng số thế kỷ, các chủng tộc văn minh hầu như sẽ tiêu diệt các chủng tộc man rợ trên khắp thế giới”.
“Không có Học thuyết Darwin, đặc biệt các lý thuyết con của nó như thuyết ưu sinh và Darwin xã hội, cả Hiler lẫn những phần từ quốc xã đi theo hắn đều sẽ không có một chỗ dựa khoa học cần thiết để tự thuyết phục mình và thuyết phục những kẻ hợp tác với chúng rằng một trong những sự độc ác kinh khủng nhất lại thực sự đáng được ca ngợi về mặt đạo đức” (Richard Weikart, nhà lịch sử tại Đại học Tiểu bang California).

Đó là hệ quả tất yếu của lý thuyết đấu tranh sinh tồn mạnh được yếu thua, cái được coi là động lực của tiến hóa. Hitler chỉ đơn giản là áp dụng lý thuyết đó vào xã hội loài người mà thôi. Chính Darwin đã lát đường cho Hitler! Chính Darwin đã cung cấp cho chủ nghĩa phân biệt chủng tộc một cơ sở ngụy khoa học để nó tiến hành những hành vi phản nhân loại nhân danh tiến hóa. Lý Tôn Ngô ở Trung Hoa đầu thế kỷ 20 đã vạch trần bản chất phi nhân này trong học thuyết Darwin.

Nhưng học thuyết Darwin mất uy tín không chỉ vì chủ nghĩa quốc xã. Lý do chủ yếu để nó mất uy tín là ở bản chất phi khoa học, hay chính xác hơn, bản chất phản khoa học của nó.

Nó phi khoa học vì vô bằng chứng: “Lý thuyết của Darwin về nguồn gốc các loài không có lấy một sự kiện thực tế nào để xác nhận nó trong thế giới tự nhiên. Nó không phải là kết quả của nghiên cứu khoa học, mà thuần túy chỉ là sản phẩm của tưởng tượng” (trích đoạn trang 13, cuốn Witnesses Against Evolution (Những bằng chứng chống lại thuyết tiến hóa) của John Meldau, do Christian Victory Publishing xuất bản năm 1968 tại Denver, Mỹ).

Nó phản khoa học vì toàn bộ lý thuyết của nó dựa trên một cơ chế phi hiện thực – sự chọn lọc tự nhiên dẫn tới những biến dị có lợi qua hàng triệu, hàng tỷ năm biến loài này thành loài khác. Michael Denton gần như giận dữ bác bỏ cơ chế này:

“Không ở đâu Darwin có thể chỉ ra một trường hợp đích thực của chọn lọc tự nhiên đã thực sự gây ra biến đổi tiến hóa trong tự nhiên… Rốt cuộc, lý thuyết tiến hóa của Darwin không hơn không kém một câu chuyện hoang đường về nguồn gốc vũ trụ trong thế kỷ 20” (trích trang 62, 358, “Evolution, A Theory in Crisis” (Tiến hóa: Một lý thuyết trong khủng hoảng) của Michael Denton, NXB Adler & Adler, Maryland, Mỹ, 1986).

Khoa học chưa từng chứng kiến một biến dị có lợi nào. Ngược lại, hầu hết biến dị đều dẫn tới bệnh tật, hủy hoại sinh vật. Chọn lọc tự nhiên, một cơ chế tưởng tượng, không “dại gì” mà lựa chọn những biến dị có hại. Nói cách khác, chọn lọc tự nhiên không hoạt động, hay chính xác hơn, không có chọn lọc tự nhiên.

Toán học chứng minh rằng xác suất để xẩy ra liên tiếp hàng triệu, hàng tỷ những biến dị “có lợi” trong quá trình “tiến hóa” hàng triệu, hàng tỷ năm là một đại lượng coi như bằng 0, cơ may để biến dị dẫn tới tiến hóa là hoàn toàn KHÔNG CÓ. Chọn lọc tự nhiên là một khái niệm tưởng tượng. Chọn lọc tự nhiên dẫn tới tiến hóa là chuyện hoàn toàn hoang đường!

Các nhà tiến hóa đã tiến hành những thí nghiệm hòng tạo ra những biến dị làm thay đổi loài. Nhưng họ thất bại thảm hại. Chẳng hạn, họ đã thực hiện những thí nghiệm chiếu xạ hoặc tác động hóa học đối với ruồi giấm trong hơn 1500 thế hệ. Kết quả, ruồi vẫn là ruồi, ruồi chẳng hề biến thành bất cứ con vật nào khác. Hơn nữa, trong những thế hệ tiếp nối, rất nhiều con bị chết, nhiều con bị xoăn cánh hoặc cánh cụt ngủn.

Dưới con mắt vật lý, biến dị chính là một biểu hiện của Định luật Entropy (Định luật thứ hai của nhiệt động học) – định luật nói rằng vật chất biến đổi theo chiều hướng càng ngày càng xấu đi, hỗn loạn hơn. Entropy là đại lượng đo mức độ vô trật tự của một hệ thống. Định luật entropy khẳng định entropy chỉ tăng, không giảm (có thể không tăng trong giai đoạn ngắn). Biến dị là một biểu hiện của sự tăng entropy. Vậy biến dị là một biến đổi ngược chiều với tiến hóa, vì tiến hóa là khái niệm cho rằng sự vật ngày càng có tổ chức cao hơn, trật tự hơn. Vậy lý thuyết nói rằng biến dị dẫn tới tiến hóa là hoàn toàn sai lầm, phản tự nhiên.

Tính chất tưởng tượng bịa đặt đó bị tố cáo mạnh mẽ trong cuốn “Evolution and the Emperor’s New Clothes” (Thuyết tiến hóa và bộ quần áo mới của hoàng đế) của N.J.Mitchell, do Roydon Publications xuất bản tại Anh năm 1983. Xin trích đoạn:

“Các nhà khoa học, những người đang truyền bá rằng tiến hóa là một sự thật của cuộc sống, là những kẻ đánh lừa người khác bằng sự cả tin, và câu chuyện họ đang kể là trò lừa bịp hơn bao giờ hết. Trong khi giải thích sự tiến hóa, chúng ta mảy may không có một chút sự thật nào cả”.

Trước trào lưu chống thuyết tiến hóa ngày càng mạnh, thái độ của các nhà tiến hóa ra sao? Hoặc là im lặng, bởi “im lặng là vàng”. Càng làm to chuyện, chân tướng thuyết tiến hóa càng lộ rõ. Đúng ra, những người chống thuyết tiến hóa mới đang là những người muốn làm to chuyện, muốn đưa thuyết tiến hóa ra tòa, như Phillip Johnson chẳng hạn. Thực sự các nhà tiến hóa đã và đang rơi vào tình thế rất lúng túng, như Richard Dawkins đã lúng túng trong cuốn video ở trên. Tuy nhiên, bản chất ngoan cố của con người là điều không làm ai ngạc nhiên. Các nhà tiến hóa vẫn loanh quanh chống chế. Họ kém trung thực so với ông thầy của họ, Charles Darwin.

Thật vậy, dù sao thì Darwin vẫn hơn hẳn các đệ tử của ông vì thái độ trung thực. Nỗi lo lắng của ông về sự thiếu vắng bằng chứng hóa thạch là một ví dụ điển hình. Theo Adrian Desmond và James Moore kể lại trong cuốn “Darwin” (do W.W.Norton and Company xuất bản tại New York năm 1991, trang 456, 475) thì có lần Darwin tâm sự với Asa Gray rằng:
“… Tôi hoàn toàn ý thức được rằng những phỏng đoán của tôi đã vượt quá giới hạn của khoa học thực sự… Nó chỉ là một mảnh vụn của một giả thuyết với nhiều sai lầm và lỗ hổng cũng như những phần đúng đắn” (…I am quite consciuos that my speculations run beyond the bounds of true science… It is a mere rag of an hypothesis with as many flaws & holes as sound parts).

Thú thực, tôi kính trọng Darwin hơn chính vì lời thú nhận nói trên, thay vì ở lý thuyết của ông. Nhưng càng kính trọng sự trung thực của ông bao nhiêu, tôi càng thất vọng với sự ngoan cố của các đệ tử của ông bấy nhiêu. Họ cố tình che đậy những lời thú nhận của Darwin bấy lâu nay. Nhưng internet đã làm họ thất bại! Sự thật đang ngày càng lộ ra, và lời tiên báo của Soren Lovtrup sẽ trở thành sự thât: “một ngày nào đó, học thuyết Darwin sẽ được xếp hạng như trò lừa gạt vĩ đại nhất trong lịch sử khoa học”.
Vậy mà Charles Darwin từng được nhiều sách báo và trang mạng tôn vinh như một trong những nhà khoa học vĩ đại nhất mọi thời đại (!!!). Chẳng hạn, Darwin được coi là một trong 12 người khổng lồ trong cuốn “On Giants’ Shoulders” (Trên vai những người khổng lồ) của Melvyn Bragg. Trên trang mạng Biography Online, Darwin được tôn vinh như một trong 10 nhà khoa học vĩ đại nhất, vì “đã phát triển lý thuyết tiến hóa bất chấp sự không tin tưởng và nghi ngờ, và đã sưu tập được những bằng chứng trong 20 năm, và công bố các kết luận trong cuốn On the Origin of Species năm 1859”. Thật lố bịch hết chỗ nói. Tôi không tìm được một trường hợp thứ hai nào trong lịch sử khoa học lố bịch như trường hợp này.

Nhưng dù gia công đánh bóng tên tuổi Darwin bằng cách nào đi chăng nữa, hai tác phẩm chủ yếu của Darwin, “Về nguồn gốc các loài” (1859) và “Nguồn gốc loài người” (1871) chính là 2 bằng chứng sẽ chôn vùi thanh danh của Darwin, và đến một ngày không xa, có thể tính bằng số năm tháng, học thuyết Darwin sẽ được xếp hạng như sự lừa gạt vĩ đại nhất trong lịch sử khoa học. Sự thật sẽ không thể che đậy được mãi!

Nguồn: Pham Viet Hung’s blog

Chủ Nhật, 7 tháng 1, 2018

SOS- BÁO ĐỘNG BỆNH RỐI LOẠN TÂM THẦN



VIỆT NAM -30% dân số mắc bệnh rối loạn tâm thần, trong đó bệnh trầm cảm chiếm 25%. Mỗi năm có khoảng 40 ngàn người tự tử.Số trẻ vị thành niên tự tử ngày càng gia tăng

ps/- Đa số người mắc bệnh rối loạn tâm thần, trầm cảm đều chơi fe và blog

Thứ Bảy, 6 tháng 1, 2018

NHỮNG TRANG BÁO CŨ


Uông Thái Biểu


Những gương mặt mãn nguyện rói tươi cân đai mũ mạo
Những gương mặt đớn đau sầu não
Những con chữ đen trên thảm giấy trắng
Những con chữ tràn ra cả lề


Người ký tên giờ này ở đâu
Nhân vật tôi cũng chưa hề gặp
Có lẽ họ đã đi rất xa
Có lẽ họ đã về với đất
Giấy thì trắng mà mực lại đen


Những cuộc điều tra
Những lần giương ống kính
Những lời lẽ đanh thép dữ dằn
Những lời tụng ca hết ý
Giấy thì trắng mà mực lại đen
Như những hàng phím đối nghịch màu sắc
trên cây đàn dương cầm


Những lời khen thật-giả-sượng sùng
Những lời chê -thô bạo- khoác màu trung thực
Thật may sự thật không có màu gì cả
Giấy trắng và mực đen


Những con chữ từng sắc như mũi tên
Những khuôn hình ngọt như lát cắt
Giấy trắng như thảm cỏ hư vô
Năm tháng úa vàng màu thiên cổ của đất

Thứ Sáu, 5 tháng 1, 2018

NGƯỜI ĐÀN ÔNG TÓC BẠC




NGƯỜI ĐÀN ÔNG TÓC BẠC

Thơ: Kiều Thị An Giang; Phổ nhạc: Nguyễn Đức Thuần

Khi gặp nhau hai ta tuổi xế chiều.
Tóc em thiếu vai và đầu anh rất nhiều sợi bạc.
Nhưng tình xanh đã đổ màu lên mái tóc.
Tim dại khờ cuồng dại những ngày vui.
Đừng bao giờ đem khổ đến cho nhau nữa em ơi!
Xin đừng làm đau nhau, đừng quên lời hứa vội.
Trăm năm hỡi trăm năm vừa vụt tới.
Trên bầu trời run rẩy ánh sao băng.
Nếu em về thịt da sẽ khép miệng.
Cây sẽ lên hoa, thuyền mơ xuôi dòng về bến cuối.
Người đàn ông chung tình mái đầu như sương tắm gội.
Không bao giờ nhuộm lại tóc đâu em!

Thứ Năm, 4 tháng 1, 2018

VĂN TẾ THẬP LOẠI QUAN THAM




(Kẻ hậu sinh cung kính lạy cụ Đồ Chiểu)
Phạm Lưu Vũ


Hỡi ơi! Thuế nặng phí dày, lòng dân bải hoải.


Trăm năm công đánh giặc, chưa chắc mà nay ở ngôi cao,
Mấy đời móc túi dân, thân tuy béo tiếng tham như chó


Nhớ quân xưa:


Con cái nhà ai,
Ăn no dửng mỡ.


Quen thân nhung lụa, đâu biết lòng dân,
Chỉ biết chọi nhau, ở trong biệt phủ.


Việc hát, việc hò, việc đàn, việc đúm… thân vốn quen rồi,
Học ăn, học nói, học chữ, học nghề… mắt đâu thèm ngó.


Nghiệp ăn hại kết tinh từ kiếp trước, cha quan to thì mình tất quan to,
Mùi tham lam đã ngấm đến cao lâu, thích hối lộ như mèo hoang thích chuột.


Chỗ thấy đường xe đông như nước, muốn lập trạm thu;
Ngày xem ngân sách cạn như chùi, muốn nâng thuế VAT.


Một mối lợi danh ngồn ngộn, há để ai cướp mất của ai,
Hai tầng quyền lực ngút trời, đâu dung lũ dân đen khốn khó.


Nào sợ ai đòi, ai bắt? phen này xin thỏa sức tung hoành,
Chẳng thèm biết ngượng, biết ghê, chuyến này quyết ra tay vơ vét.


Khá ngon thay:


Vốn chẳng phải quan to, quan nhỏ, khối thằng theo đóm được an tàn,
Chẳng qua là con bạc, con buôn, quan hệ tốt thiếu gì dự án.


Mười tám môn hối lộ, nào biệt thự, nào nhà,
Chín chục triệu dân đen, cứ tha hồ móc túi.


Ngoài cật đã có tờ quyết định, nào đợi dân kịp trở tay,
Trong xe chồng một đống hồ sơ, đâu cần đến lương tri, công lý.


Cửa quan đã đẻ ra cơ chế, liền sinh ra nhóm nọ nhóm kia,
Nhân danh người nhà tướng, nhà quan, chả cần vốn cũng tay không bắt giặc.


Chi nhọc thương thảo với giá này, giá nọ, lấn vườn, cướp ruộng, coi giặc cũng như dân,
Nào sợ thằng Vươn bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, dễ dàng như tập trận.


Kẻ dùi cui, người roi điện, làm cho dân lành, con nít hồn kinh,
Bọn hè trước, lũ ó sau, thương thay lão già gãy cẳng.


Tấm gương đạo đức đâu rồi?
Ai biết tính người vội bỏ.


Một kiếp quan trường rằng chữ lợi, ai hay quả báo nhãn tiền,
Trăm năm địa ngục ấy chữ nguy, nào đợi nhân nào quả nấy.


Núi sông mờ mịt, mà cỏ cây mấy dặm sầu giăng;
Thiên hạ thái bình, để già trẻ hai hàng lệ nhỏ.


Bên ngoài giặc cướp, Hán gian ùa tới, mà biển khơi đã chết còn dày đặc âm binh,
Bên trong quan tham, giữ ghế hành dân, mà hiệu lực nhất nhất theo kim tiền chỉ đạo.


Nhưng nghĩ rằng:


Tấc đấc ngọn rau ơn xương máu, tài bồi cho cả nước nhà ta,
Bát cơm manh áo sống ở đời, tối mắt mấy đời cha con nó.


Vì ai khiến dân đen khốn khổ, thuế phí chồng nhau,
Vì ai xui vườn ruộng tan tành, động mồ động mả?


Sống làm quan tham lam vô đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn,
Chết làm ma ở chốn cửu tuyền, ngửi phân lợn, uống nước đồng, nghe càng thêm hổ.


Thà chưa thác mà đặng lòng sám hối, ăn năn may tổ phụ còn vinh;
Hơn sống dai mà chịu chữ cẩu quan, ở với nhân dân cũng ngượng.


Thôi đi thôi!


Đường quan lộ, năm năm ư một khóa, có tham lam cũng lưu lại chút tình,
Nẻo công danh, một kiếp đặng một lần, cẩn thận kẻo sa phải vòng lao lý.


Đau đớn bấy! người tình ngồi tiếc của, buổi vàng son sung sướng đâu rồi,
Não nùng thay! vợ trẻ chạy nuôi chồng, con xế cũ đậu ngoài song sắt.


Ôi!


Một khóa quan tham;
Nghìn năm nhục nhã.


Giặc cướp vẫn giăng đầy đâu đó, ai làm cho bốn phía mây đen,
Ông cha ta còn gửi cốt nơi đây, ai cứu đặng mấy phường con đỏ.


Sống mà cả nước non đều hận, oan gia đầy, muôn vạn kiếp còn theo,
Thác đừng trông đền miếu để thờ, tiếng gian trải muôn đời ai cũng chửi.


Sống tạo nghiệp, thác thì trả nghiệp, linh hồn theo ám cháu con, muôn kiếp không ngóc đầu lên được,


Sống thờ giặc, thác phải thờ ma, lời Phật dạy đã rành rành, một chữ “đọa” đủ mà cảnh tỉnh.


Hỡi ơi!


Nước mắt dân lành lau chẳng ráo, thương vì hai chữ dân oan,
Cây hương liệt sĩ thắp nên thơm, cám bởi một câu bội nghĩa.


May ra thì hưởng!

Thứ Hai, 1 tháng 1, 2018

NẾU NHƯ ĐỜI KHÔNG CÓ EM




"Có ai tắm hai lần trong cùng một dòng sông"? Có ai chết hai lần trong một dòng đời. Cuộc sống như dòng một dòng nước luân chuyển và biến thiên, đôi lúc tưởng chừng như đang dừng lại, để thấy cuộc đời bình yên. Nhưng không, vạn vật trên đời vốn dĩ “ ở trọ” trần gian. Ở trọ trong một dòng sông cũng chính là biểu tượng của “tâm thức hay ý thức , tư tưởng” – nơi khởi nguồn và sinh sôi của mọi tục lụy trần thế như một dòng nước chảy xiết và thay đổi, sinh diệt cùng với vạn vật hữu tình.


"Con chim ở đậu cành tre
Con cá ở trọ trong khe nước nguồn
Mây kia ở đậu từng không
Mưa nắng ở trọ bên trong mắt người"


Chim nào đậu mãi cành tre, cá nào lội mãi trong khe cho dù đó là khe nước nguồn? Chim rồi cũng sẽ bay đi, cá rồi cũng sẽ theo con nước rời khe. Trịnh công sơn chỉ với 2 câu mở đầu đã vẽ lên một hình ảnh sinh động, đầy gợi cảm, mong manh và vô thường. Cây sẽ chuyển động khi gió đến, sông luôn chảy theo dòng luân lưu và dòng đời cũng vậy. Cũng sẽ vận hành theo duyên nợ hợp tan. Tình đến tình đi có gì là lạ và còn lại gì?
Những áng mây trên tầng không ấy luôn gợi tưởng cũng đang “ ở đậu” như những giấc mơ của con người và điều quan trọng hơn là tùy theo tâm thức của mỗi cá thể mà “ Mưa nắng ở trọ bên trong mắt người”


"Mộng trung hữu mộng trùng mê mộng".


Tất cả sẽ vụt qua “ mắt người”- cái cửa sổ của tâm hồn- để từ đó nảy sinh bao ý niệm buồn vui, biệt ly, hợp nhất , tử sinh…


"Môi xinh ở đậu người xinh
Đi đứng ở trọ đôi chân Thúy Kiều"


Người xinh hẳn “môi xinh”. Phải chăng là một điều tất yếu như qui luật của tự nhiên? Nhưng không, môi cũng chỉ ở đậu bởi người phải “đi đứng”. Cái sự đi đứng ấy là một sự trầm luân bởi nó được vận hành bằng “ đôi chân Thúy kiều”. Tại sao không là đôi chân của Trịnh?


Thúy Kiều là hiện thân của trầm luân khổ ải, nhưng cũng lung linh tinh khiết như giọt nắng ban mai.


Chim cá. mây trời, mưa nắng và con người… vạn vật trên thế gian này đều “ ở trọ” và cũng chính vì “ở trọ “ nên :


"Xin cho về trọ gần nhau
Mai kia dù có ra sao cũng đành"


Tính chất nhân bản hiện ra đầy lãng mạn. Trọ gần nhau đề hiểu nhau, thương nhau và san sẻ cho nhau chút tình đồng loại trong một thế giới vô thường, thực-hư này. Trọ gần nhau để “mai kia” dù có ra sao cũng đành không phải là phó mặc. Mai kia của Trịnh chính là đương niệm hay chánh niệm, là quan trọng hơn cả trong con người. Ở trọ gần nhau để nảy sinh “ thiện tâm” vốn có trong mỗi con người ( Nhân chi sơ tánh bổn thiện), khơi dậy chánh niệm phật tâm vốn bị dòng chảy của đời người cuốn đi, khỏa lấp, trôi dạt…Sinh, lão,bệnh, tử…nào ai thoát được và mọi thứ chúng ta đang có, đang “chiếm hữu” mà thực ra chính “ ta đang bị chiếm hữu” cũng chỉ sẽ là “ cát bụi”mà thôi.


Trịnh Công Sơn đã tự thân chiếu rọi duyên nghiệp tại thế của mình "đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt" mà cảm thông, chia sẻ với người, với đời, với cỏ cây sỏi đá và tất cả sinh linh.


Không thể tiếp tục nhìn thấy em “ trong tiền kiếp với cọng buồn cỏ khô”.
Không thể nhìn thấy em “ đi trên đôi chân của Thúy kiều trầm luân,khổ ải..”
Không thể “ ở trọ “ mãi trong nỗi cô đơn của chính mình
Không thể không là ta trong một dòng sông mà khi ta dừng lại ta vẫn thấy mình trôi đi …


Một sự giải thoát, kết thúc cho một vòng đời sinh tử, cho một kiếp người viên mãn không phải là sự dừng lại mà chính là sự ra đi…


Không thể chiếu rọi duyên nghiệp tại thế của chính mình.
Không thể…và không thể…
Nếu như đời không có em