Thứ Ba, 13 tháng 12, 2016

Ba « cái tôi »








Quay vào nội tâm của mỗi người, đa số hành vi của con người có thể được hiểu qua lăng kính của ba "cái tôi" khác biệt :


1) Cái tôi phi hữu,

không còn hiện hữu trong hiện tại. Nó là cái tôi "đã là" hay "sẽ là".
Thí dụ : một ông bộ trưởng thời trước 75, chạy tỵ nạn qua Mỹ, thất nghiệp. Vợ dạy : « đi làm bồi bàn kiếm ăn ! ». Ông bảo : tôi đường đường là một bộ trưởng không lẽ lại làm bồi bàn ?
Thí dụ khác : một ông công chức làng nhàng thời nay không biết đấu hót sao đó, nghĩ mình sắp lên bộ trưởng. Vợ sai : « sách giỏ đi chợ ! » Ông bảo : ta đường đường là một bộ trưởng tương lai, không lẽ ...


2) Cái tôi thường hữu :

Là cái tôi bị quy định. Nó là cái nó là, không thể là gì khác. Như tảng đá là tảng đá, cây ổi là cây ổi, Đạt Lai Lạt Ma là Đạt Lai Lạt Ma. Có nhiều yếu tố quy định cái tôi ấy, như : di truyền, văn hóa, giáo dục, môi trường sinh sống, tương quan xã hội v.v... Thí dụ : Đạt Lai Lạt Ma (DLLM) lúc nào cũng mang một bộ mặt, một giọng nói, thậm chí nội dung những gì ông nói, chỉ nghe vài chữ đầu là biết ngay phần còn lại. DLLM không thể làm cho chúng ta ngạc nhiên. Y hệt như anh lính gác lăng cụ Hồ. Mọi cử chỉ động tác của anh ta, cách đi qua đi lại, nâng súng hạ súng, vung tay đá chân, v.v... đều đã được quy định từ trước.


3) Cái tôi tự hữu :

Không bị quy định. Nó « là cái nó không là và không là cái nó là ». Nó hiện hữu tự nó. Một ông bộ trưởng mặc quần xà lỏn áo thung ngồi nhậu ở quán cóc đầu đường chẳng hạn. Hay DLLM lên sân khấu nhảy rock, hát nhạc Mickael Jackson ... Tính Nhân Bản nằm ở cái tôi này : cục đá, con chó, cây ổi, không thể trở thành cái gì khác, con người thì có thể làm chuyện ấy. Vì thế, trong giao tiếp thường ngày, khi DLLM nói đùa một câu, người ta lập tức thấy ông dễ mến. Các kênh truyền thông rất ít nói đến những giảng giải đạo lý hoàn toàn máy móc của ông ta, mà rất thích phát lại những câu khôi hài ông ứng khẩu nói ra. Tương tự như vậy, khi một bác sĩ nói đùa vài câu với bệnh nhân, hay tán chuyện bóng đá, chính trị, tình duyên mấy cô ca sĩ ... thì ông ta thể hiện "cái tôi" này, tức khía cạnh nhân bản của một con người, không chỉ đóng vai một ông bác sĩ, với những hành vi "bác sĩ" đã bị quy định sẵn. Bệnh nhân sẽ cảm thấy điều ấy, và sẽ trả lại cho ông ta mảnh tình người mà ông ta đã trao cho họ.

« Cái tôi » như một sự trình diễn


Nếu từ nội tâm nhìn ra ngoài, thì có thể nhận xét là « cái tôi » cần được cảm nhận bởi người khác, cần được mang ra trình diễn trên sân khấu của cuộc đời.

Lý do vì :


Một mặt, tôi không thể thấy được « cái tôi thường hữu » bị quy định bởi những yếu tố mà chính tôi không thể biết, nên tôi cần đến cái nhìn của người khác về tôi.

Mặt khác, « cái tôi tự hữu » tuy là một câu chuyện được tôi kể cho chính tôi trước tiên, nhưng cần sự thừa nhận của người khác, rằng đó chính là câu chuyện « của tôi » (tôi là con người « như thế »).

Thật ra, sự thừa nhận của người khác về tôi cũng chỉ là một ý tưởng chủ quan, vì không ai biết được nội tâm của người khác. Điều này cho thấy một sự « mù tối nhân đôi » : tôi không biết về tôi đã đành, mà cũng không biết điều người khác biết, hay nghĩ, về tôi ! Tức là trở lại phát biểu của Montaigne đã nói ở trên : « chúng ta hoàn toàn không có một tương thông nào với hiện hữu » …


Dù sao, sự chờ đợi phản hồi về tôi, từ người khác, cho ra hai khuynh hướng :


- Một là tự đồng hóa mình với một vai trò, một hình ảnh phổ quát trong xã hội. Người ta quan niệm xã hội như một sân khấu với các diễn viên được ấn định sẵn, và tìm cách chui vào một trong những sự trình diễn ấy. Một cách rộng rãi hơn, các vai trò này có thể hội nhập vào hệ thống giai cấp, thứ bậc, trong xã hội. Người ta tìm cách để được thừa nhận mình thuộc về một giai tầng, một thể loại nào đó, như thuộc giới « có học », « trí thức », tối ngày khoe sách vở, giới « có tiền », xu hào rủng rỉnh, trang phục, nhà, xe, đắt tiền, giới « giác ngộ tâm linh », phì phò thiền quán, bàn chuyện chân tâm, thường đạo, giới « giác ngộ chính trị », thường trực phẫn nộ, đấu tranh vung vít, v.v…


- Khuynh hướng thứ hai là thái độ « bất cần đời », thích gì làm nấy, phô bày một lối sống, lối cư xử, bị coi là lố lăng, ngoài những quy ước xã hội, như muốn ném vào mặt người khác sự kém cỏi, hẹp hòi, phù phiếm, vô nghĩa, của họ.


Cả hai khuynh hướng này, trong thực tế, đều đặt trọng tâm nơi « cái tôi », trong sự lệ thuộc vào nhãn quan của người khác. Chúng đều là sự phô bày chính mình, như « cái tôi không phải là tôi » (vì chỉ là một sự trưng bày), che dấu những căng thẳng, những ước mong và nuối tiếc, kể cả trong sự tìm kiếm « cái tôi » thực sự.

Việc truy tìm « cái tôi » thực sự ấy, với những hy vọng và thất vọng của nó, nối dài trong thời gian, không là gì khác hơn chính … « cuộc sống » !


Nguyễn Hoài Vân

Sai lầm như một điều kiện của sự sống - Bàn về một đoạn văn bí hiểm của Nietzsche





(...) Gạt bỏ một phán xét sai lầm cũng là từ chối chính sự sống. Thấy được rằng trong phủ định sự thật, có những điều kiện của cuộc sống chắc chắn là một phương cách nguy hiểm để đi ngược lại quan điểm giá trị thông thường, và một triết lý dám chấp nhận rủi ro ấy, mặc nhiên đã đứng ở bờ bên kia của sự phân biệt thiện - ác.
(Nietzsche - Par dela le bien et le mal)

Đoạn trích này của Nietzsche hơi "bí hiểm". Để rộng đường dư luận, xin đề nghị vài ý kiến như sau :

1) Nietzsche coi triết học trước ông như những phóng chiều về thực tại, những thiên kiến, nhận định chủ quan, được các triết gia bày vẽ ra, rồi, sau đó, mới xây dựng lý thuyết để biện minh cho chúng. Những luận điểm về "sự thật" ấy xa rời thực tại của cuộc sống, và chạy theo chúng, là xa rời sự sống.

2) Các quan điểm "đúng - sai" thuộc về phạm trù khái niệm. Chúng ta sống với thực tại, không sống với các khái niệm, nên kẹt trong những phạm trù "đúng-sai" là xa rời thực tại của cuộc sống.

Bạn có thể bảo : chúng ta có đặt vấn đề "đúng-sai" trong cuộc sống thực tế chứ ! Thưa không, trong thực tế, bạn không tự hỏi sự hiện hữu của cái ghế tôi đang ngồi trên đó là đúng hay sai, nhưng bạn tự hỏi Thiên Chúa, tình yêu, hạnh phúc, linh hồn, tự do, Tư Bản Chủ Nghĩa, Xã Hội Chủ Nghĩa, v.v... là đúng hay sai, tức là những thứ thuộc về thế giới của khái niệm.

3) Các luận điểm về hiện hữu, đều đúng trong sự phủ định và sai trong sự khẳng định.
Lại một câu nói bí hiểm ? Xin giải thích : khi bạn nói con chó "là" thế này thế khác, bạn không bao giờ mô tả được con chó nói chung một cách hoàn toàn, lại càng không mô tả được con chó đang vẫy đuôi trước mặt bạn. Như thế : tập hợp những khẳng định của bạn là ... sai. Ngược lại, nếu bạn liệt kê những gì "không phải con chó", như nó không có vòi dài 1 thước rưỡi, cổ không cao một thước, không có cánh, không kêu meo meo ... thì tất cả những phủ định ấy đều đúng. Nếu từ chối những phủ định, bạn chỉ còn lại những khẳng định mơ hồ về thực tại.
Cũng có thể nghĩ là vì các khẳng định đều sai, nện những phủ định chúng dần dần đưa ta mỗi lúc mỗi đến gần thực tại hơn.

Mặt khác, muốn nhận ra một con cừu đen trong một đàn cừu trắng, bạn không phải thông qua những khẳng định : con cừu 1 trắng, cừu 2 trắng, cừu 3, 4 ... 106 trắng v.v... cho đến khẳng định : con cừu 107 đen ! Trong thực tế, bạn nhận ra ngay con cừu "không" trắng.

4) Thuyết Trung Quán của Phật Giáo chủ trương phủ định tất cả, rồi phủ định luôn cả sự phủ định. Như thế, thuyết Trung Quán không thể bị phủ định, vì không bị ràng buộc vào bất cứ một lập trường nào, không khẳng định một luận điểm nào. Ích lợi của Trung Quán ở chỗ nó là một phương pháp tinh tẩy trí tuệ. Sau khi đã phủ định tất cả, người ta có thể lọc lựa lại trong những gì mình đã phủ định, mà tùy duyên sử dụng cho những mục tiêu thực tế, giúp đời. Trung Quán như lưỡi cày, đẩy sang một bên cái « không hiện hữu » - tức là hư vô - và sang bên kia cái « hiện hữu tự thân », để đào ra luống đất trong đó các hạt giống cuộc cuộc sống thực có thể đâm chồi nẩy mộc, cho ra lúa gạo thơm ngon !

Nguyễn Hoài Vân

Cám dỗ Việt Nam-




Hôm nay, môt ngày cuối năm, trước khi lên đường đi Việt Nam, tôi ngồi trong phòng vắng để đọc lại “The Temptati


on of the West,” (Niềm Cám Dỗ Tây Phương) (1926) của André Malraux. Từ một lá thư giả tưởng bởi một người Á đông mang tên Ling gởi cho một người Âu châu tên A. D., ông đã viết rằng, người Âu châu mang ý chí “đem vũ trụ đến cho con người”; còn người Á đông thì ngược lại, muốn “cống hiến chính mình cho vũ trụ.” Người Tây chỉ muốn thông hiểu vũ trụ bằng ý chí nhân cách hóa không gian thành ra một đối tượng vật thể hữu hạn; người Đông thì muốn chính nhân cách mình biến mất vào hư không nhằm khai sáng cái chiều sâu vô cùng của vạn vật.

Tôi liên tưởng từ từng trang sách mỏng, nghĩ rằng, tự trong mỗi người Việt đang ở Âu Mỹ, hay ở bên nhà, đồng lúc có đến hai nước Việt Nam. Một Việt Nam cho mệnh lệnh lý tưởng, và một Việt Nam trong thực tế đang là. Trên ngọn sóng điạ chấn từ thời đại nhiều xoay chuyển, từng chúng ta hình như bị choáng ngợp cưu mang hai năng lực tình cảm giằng xé nhau: Giữa cái ta hướng về tổ quốc, giữa một tình cảm dâng tràn bên bờ lý trí ngăn nước, giữa một lịch sử trần trụi trong nhiều dự phóng tương lai.

Khi văn minh Tây phương đã thâm nhiễm thế giới, người Việt không còn là một biệt lệ bên ngoài. Đang ở Tây phương nhìn về quê mẹ, Việt Nam đối với tôi như là một vũ trụ tinh thần lớn cho mình, đồng lúc cũng như bao người Á đông khác, tôi muốn dâng hiến chính mình về cho quê cha, đất tổ. Trong khi đó, tôi hình dung ra tôi đang ở trong nước, thì cứ như là người Âu, muốn đem thế giới Tây phương về cho Việt Nam. Mỗi tâm hồn Việt, bất cứ ở đâu, đều nằm trong hai luồng tâm thức đầy mâu thuẫn và ngược chiều cho một tình yêu lớn đối với đất nước. Tâm hồn Việt Nam vẫn chứa đầy một nỗi băn khoăn của chính mình trước cái vũ trụ quốc gia bao la, không thế tách rời và thoát ra được khi nhìn về quá khứ. Chúng ta mang một ám ảnh lớn từ lịch sử chỉ vì có lẽ chúng ta bị hoang tưởng về những khả thể quá lớn cho tương lai? Từ trong hai năng lực của vũ trụ và cá nhân, của quốc nội và hải ngoại, người Việt như tôi không thể ngồi yên. Ta vẫn loay hoay nhảy nhót trong một điệu nhạc khích động phát thanh từ một khối nội tâm đầy dằn vặt. Thảm kịch của Việt Nam khởi đi từ nỗi bất an thường trực này.

Anh chàng Ling của Malraux viết tiếp: Điều mà người Âu châu không hiểu người Á châu là ở chỗ rằng, với dân Á đông, tình cảm và trí thức cả hai là một. Khi chúng tôi suy nghĩ và hành động, chúng tôi là một hệ quả từ cảm tính. Trong khi đó, người Tây âu phân chia tình cảm ra khỏi lý trí và bị chia hai. Vì vậy, có thể rằng người Âu châu đã đánh mất cái hồn nhiên thống nhất trong tình với lý; còn dân Á đông, dù đã bị Tây phương hóa gần như toàn triệt, vẫn còn có ít nhiều hạnh phúc trong tình cảm của mình – vì đối với họ thì thế gian này chỉ là một biển lớn của cảm xúc từ chính ta mà thôi. Trong đó, người Việt như tôi chỉ biết có một điều: Rằng ngay cả vũ trụ kia cũng có thể bị chối từ, nhưng chắc chắn rằng nỗi đau của ta là không thể phủ bác. Không có hạnh phúc nào nguyên sơ bằng niềm vui thú trong nỗi đau hồn nhiên, cho dù nó có đúng hay sai, cho dù bản sắc tình cảm đó là bùn đất ô nhiễm hay là kim cương trong sáng. Có phải chúng ta, dân Á Đông, mà người Việt là một phần, là một đơn vị quần chúng duy tình cảm, một tập thể trẻ thơ hồn nhiên, dễ thương và cần được nhẹ nhàng, ưu ái chăm sóc mong chờ ngày lớn dậy?

Theo Ling, “Niềm hưng phấn của chúng tôi không bị tuỳ thuộc vào một tiêu chuẩn nào” (Our exaltation is not dependent upon a reference). Nó là một sức mạnh nguyên sơ vượt qua giá trị hay mục tiêu của không và thời gian. Nó muốn cống hiến cái ta, chủ thể của cảm tính, về cho khách quan – như rằng mỗi cá nhân chỉ là một chủ thể cần phải được hy sinh và phủ định nhằm làm cho vũ trụ thêm huy hoàng. Ta là một phần gỗ nhỏ cho ngọn lửa phải được cháy cao để cho thế gian được sáng. Cái mất của ta chính là cái tồn tại và ý nghĩa cho ta. Mỗi lần sinh đẻ, mỗi lần sáng tạo là mỗi lần ta đánh mất chính ta vào trong đứa con mới chào đời. Đau thương, từ đó, là ý chí sáng thế. Nó chính là một bản hùng ca mang ít nhiều tính chất điên loạn và hoang dã của một vũ trụ hỗn độn từ khi nó mới ra lò.

A. D. trả lời Ling rằng, ôi chao là cái lạ lùng của dân Á Đông: “Quý vị ưu ái với tổ tiên đã khuất nhiều hơn là mang tinh thần tôn trọng phụ nữ bên mình.” Khi quý vị đã có giáo dục, lý tính chỉ trở nên một công cụ cho tình cảm, mà những tình cảm này lại chỉ đặt căn cứ trên và chỉ hướng về những đối thể trừu tượng vượt qua con người đặc thù và thế gian thực hữu. Tôi lại miên man tiếp. Đàn ông Việt Nam cổ điển có thể hy sinh cho tổ quốc với bao nhiêu gian truân, bao nhiêu xương máu; nhưng họ không thể mang tình yêu đó để chăm sóc trọn vẹn cho cộng đồng và người thân của mình trong một tình cảm vô ngã và không ích kỷ. Và đó chính là cái lỗ thủng to lớn của đàn ông Á đông: Vũ trụ tuyệt đối mà họ muốn hiến dâng cũng chỉ là một dự phóng đầy tình cảm ngã mạn cho những cảm xúc đầy niên thiếu. Họ không cần đến cái gần thực tế. Họ muốn chết cho cái xa. Cái bên ta, vợ con, gia đình, cộng đồng thực hữu, chỉ là những gì cần phải bị phủ nhận. Vì thế, nếu không trưởng thành nhanh chóng cho kịp với một con người thời đại, họ sẽ phải chết chìm trong cái dự phóng thuần trừu tượng về một vũ trụ duy tình cảm. “Ngay cả những lý thuyết hào nhoáng nhất về cái chết cũng vẫn chỉ là một câu trả lời cho sự yếu đuối của mình,” A. D. viết.

Tâm hồn Việt Nam vẫn còn như kẻ say ngủ đêm đêm tìm ra sông vắng vang tiếng gọi đò đánh thức làng xóm về cho nỗi tủi thân bi đát của mình. Họ, suy diễn qua Malraux, cứ như là một “cuộc tìm” – mà khi ý chí “tìm tòi càng cao độ thì giá trị cho mục tiêu tìm kiếm lại càng suy giảm.” Vì khi một anh nông dân đã mất nhà, nay là vô gia cư, vô tổ quốc, “cuộc tìm” của hắn đã trở thành một “căn nhà cho nỗi oan khiên” – một “ngôi nhà cho hữu thể” được xây đắp bằng cường độ tình cảm về quá khứ nhân danh những dự phóng về tương lai trong chiếc bóng bi ai của chính thân xác mình. Từ một tình yêu đầy khát khao, đầy nhạy cảm cho tổ quốc, cho đồng bào, chúng ta lại vô tình đẩy chúng ta vào thân phận của một kẻ điên cuồng mà đã đến khi, hắn cảm thấy chán chường và mệt mỏi với tình cảm thuần dự phóng và ảo giác. Tình yêu trong sáng nay đã trở nên một vũng lầy buồn nôn – mà ngay cả khi mặt trời đang lên cao nhất ở giữa trưa chính ngọ, ta cũng không thể nào nhìn thấy bóng mình thể hiện trong một hiện hữu đầy tiêu cực.

Trong âm hưởng đó, A. D. mơ hồ cảnh cáo, “Hãy coi chừng! Người Á đông chúng bây chắc rồi sẽ lây cái bệnh của người Tây âu chúng tao: Thứ bệnh lý thù ghét và chán chường chính mình.” Khi lý tưởng trở thành một thể dạng tình cảm mơ hồ, khi trí thức theo đuổi những mục tiêu nặng trừu tượng và vô thực chất, cá nhân sẽ trở nên trống rỗng. Khi đó, văn minh Tây phương sẽ tràn vào để chất đầy một ý chí mới – một ý chí thuần cảm giác khích động để tìm quên thực tại tinh hoa của ngã thể chắc nịch này. Ha! tôi diễn giải: Bạn có bao giờ quen thân với một thi sĩ tiếng Việt? Nếu hắn không là một thằng điên thì phải là một kẻ rất là thực dụng. Malraux, nếu được đọc rộng và sâu hơn, đã gián tiếp nói trước như vậy.

Tôi mơ hồ đọc Malraux như là những giòng chữ được viết về một mẫu người Việt Nam vào đầu thế kỷ 21 này, dù là ở hải ngoại hay là trong nước. Một cách tự do và mở rộng ra, tôi thấy Malraux đã nói rằng tất cả chúng ta đang chỉ là một phần trên một ngọn sóng quay cuồng thuần cảm tính bị khích động bởi những cơn điạ chấn từ biển sâu xô đẩy không biết về đâu và cho mục đích nào. Hay nói theo Schopenhauer, từng cá thể Việt chỉ là một biến cố từ vô thức mà hắn không chủ động hay ước muốn được. Nó giống như là những thể hiện trên vầng trán và lông mày của thanh thiếu niên Việt Nam: Tình cảm thì chưa khuấy động mà nét nhăn nhó đã viết lên đầy khuôn mặt. Chúng ta chưa dấu được cảm xúc để xây đắp một hình dáng nhân cách và ngoại hình thanh thản, trầm tĩnh. Bao nhiêu năng lực nội tại đã biến thành những nét mực tràn màu sắc viết nhoè lên trên khung cửa hẹp của những linh hồn chân chất. Và khi nét mực đã phai theo nhiệt độ của cảm xúc, tâm hồn của họ đã không còn điện lực nhằm thắp sáng suy tư. Sự phí phạm kinh hoàng của lịch sử Việt Nam bắt đầu bằng sự phung phí năng lực theo những làn sóng tình cảm quá nhiệt thành ở nơi từng cá thể khi đối diện với đời thường.

Từ 1926, Malraux, qua Ling và A. D., đã tiên đoán rằng Trung Hoa rồi sẽ chết khi Khổng giáo không còn là nội dung chính cho văn hóa Tàu. “Trung Hoa đang lay lất như là một lâu đài cổ đại lớn đang sắp bị sụp đổ, và niềm bi phẩn của nó không phải có từ sự bất định hay mâu thuẫn, mà là từ gánh nặng của một trần nhà đang rung chuyển.” Và Malraux đã đúng. Hãy nhìn lại gần 100 năm qua, khi đã bị kiệt sức văn hóa, người Tàu đi vào cơn khủng hoảng tâm thức. Họ đành mang tình cảm ái quốc để vác về nhà một cơn ác mộng khác nhằm thay thế cho khoảng trống siêu hình của mình. Đó là văn minh Tây phương qua hai vế đối nghịch nhưng cùng một bản chất: Chủ nghĩa Marx và tư bản thuần vật chất. “That’s it, boy. China is dead!” Văn minh Trung Hoa đã chết theo những giòng sông đầy hóa chất dưới một bầu trời đầy khí độc. Và đó có thể sẽ là số phận Việt Nam. Tôi đang sợ rằng Việt Nam chắc rồi sẽ chết – như Trung Hoa đã.

“Cám dỗ Việt Nam” nay đã trở nên một ý chí đi tìm tử lộ. Như Ling đã viết cho A. D. những lời cuối, “Có thể rằng Trung Hoa (hay Việt Nam) sẽ lại được sáng tạo, tự làm mới lên, ngay cả khi mà chúng ta không hiểu gì về nó cả. Liệu rằng nó sẽ bị rung chuyển từ một cơn địa chấn tình cảm còn to lớn hơn bao lần trong quá khứ? Mạnh mẽ hơn là tiếng thần chú của những tiên tri thời trước, cái âm thanh huỷ diệt đầy cuồng nộ đang cuốn hút lấy Á châu … Các nhà buôn sẽ còn bán, còn mua, và con sông Châu ngọc sẽ phản chiếu ánh sao mờ trong cái chết yên lành… Ta phải biết nói gì hơn cho bạn đây?…”

Nguyễn Hữu Liêm

Giáo sư Trần Ngọc Thêm: Tính hiếu học, cần cù của người Việt chỉ là… huyền thoại!


Tác giả: Hoài Nam






Truyền thống hiếu học, tính cần cù được người ta ca tụng, tự hào là ưu điểm của người Việt, nhưng theo Giáo sư Trần Ngọc Thêm, đây là chỉ huyền thoại. Người Việt không hiếu học, mà là ham vui chơi và ưa nói dối.
Trong khuôn khổ hội thảo về vấn đề nhân cách người học trong giáo dục diễn ra mới đây ở TPHCM, GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm đã chỉ ra hàng hàng loạt hiện tượng xuống cấp, suy đồi trong đời sống xã hội như cướp hoa, hôi bia, hiện tượng rút ruột các công trình… Điều này buộc chúng ta phải đặt câu hỏi: Tại sao?


GS Trần Ngọc Thêm cho hay đang có sự xung đột giữa văn hóa truyền thống và hiện đại nảy sinh nhiều thói hư tật xấu. Tuy nhiên, nhiều nước cũng gắn bó với kinh tế thị trường, đã và đang trải qua quá trình công nghiệp hóa nhưng họ không phải trải qua những thực trạng, hiện tại tệ hại như ở ta.


GS Trần Ngọc Thêm nói thẳng về nhiều tật xấu của người Việt
GS Trần Ngọc Thêm nói thẳng về nhiều tật xấu của người Việt
Ngoài việc bình diện về văn hóa, nhà nghiên cứu khoa học này đề cập đến việc người Việt đang có quá nhiều “căn bệnh”, nhiều tính xấu phổ biến ngay trong môi trường giáo dục – nơi mang trọng trách giáo dục nhân cách cho con người.




Ông phân tích, bệnh ưa thành tích và bệnh giả dối trong giáo dục rất nặng. Người Việt có câu “Ra đường hỏi già, về nhà hỏi trẻ” nhưng ở trường thầy cô dạy phải biết khôn để giành phần thắng, đóng kịch trong những tiết dự giờ, những lúc có tranh tra… Tình trạng học sinh học yếu kém cỡ nào thì cũng lên lớp, tỷ lệ tốt nghiệp cao ngất ngưởng… Sự dối trá phổ biến đến nỗi người lớn quên rằng mình đang nói dối. Giả dối trong suy nghĩ thì tự an ủi mình, giả dối trong lời nói được khen là khéo léo, giả dối trong hành động được xem là khôn ngoan.


Theo nhóm nghiên cứu GS Trần Ngọc Thêm thực hiện với 5.600 người thì bệnh giả dối đứng hàng đầu trong 34 tật xấu của người Việt, chiếm đến 81%. Còn theo điều tra của Viện nghiên cứu phát triển giáo dục 2008 thì tỷ lệ nói dối cha mẹ của học sinh ở cấp 1 là 22%, cấp 2 là 50% và cấp 3 là 64% và sinh viên ĐH là 80%.


Trong trường học từ phổ thông lên ĐH có bệnh “đồng phục” từ ăn mặc đến tư duy. Mặc cũng đồng phục, học cũng đồng phục, tư duy cũng đồng phục giết chết tư duy sáng tạo của học sinh. “Giáo dục chạy theo mục tiêu con ngoan, trò giỏi làm sản phẩm giáo dục bị triệt tiêu khả năng cá nhân. Trò giỏi là thuộc bài, làm đúng theo bài giả của cô giáo, làm sáng tạo là… sai, là kém.


Đặc biệt, ông nói rằng có những điểm lâu nay chúng ta cho đó là những giá trị tốt đẹp của người Việt nhưng đó chỉ là huyền thoại. “Tôi gọi chúng ta có huyền thoại về tính cần cù. Bởi vì chúng ta nghỉ ngơi, ăn chơi liên miên: Tháng giêng là tháng ăn chơi, tháng hai cờ bạc tháng ba rượu chè. Không chỉ tính cần cù, về điều mà người Việt luôn tự hào là tinh thần hiếu học tôi cũng gọi là huyền thoại.


Ông nói về mục tiêu học tập của người Việt: Ngày xưa thì học để làm quan, ngày nay thì để lấy bằng. Học vì sĩ diện, giấu dốt, sợ người ta nói nói đến điểm yếu của mình.


Ngoài ra, ông chỉ ra hạn chế của người Việt là thiếu khiêm tốn, khi đẩy vào thế bắt buộc mới tỏ ra khiêm tốn. Còn ai cũng cho mình là “ông trời con” rất khó hợp tác. Rồi thói vô kỷ luật, không chấp hành các quy định mà còn làm ngược, ở đâu cấm cái gì thì xuất hiện cái đấy. Chỗ nào cấm họp chợ thì nhộn nhịp mua bán, không giẫm lên cỏ thì rủ nhau ngồi la liệt, cấm đổ rác thì nơi đó rác chất đống…


GS Trần Ngọc Thêm đề xuất chúng ta cần xây dựng hệ giá trị bản sắc Việt Nam mang tính đối chiếu để loại bỏ những thói hư tật xấu, có như vậy mới có hệ giá trị định hướng. Trong đó, ông nhấn mạnh đến giá trị nhân ái, trung thực, bản lĩnh, tình yêu nước trong thời bình… ở mỗi cá nhân.


Trong bài báo cáo của mình, Phó GS.TS Nguyễn Thế Hữu, nguyên Giám đốc ĐH Huế cho rằng nhiệm vụ giáo dục trước hết phải đào tạo ra những con người có đầy đủ nhân cách, con người có lòng tự trọng, trung thực, nhân hậu, biết trọng danh dự, nghĩa khí… Nhưng vô cùng ngạc nhiên năm qua và cho đến bây giờ, giáo dục chúng ta không nhắc đến phẩm chất cao thượng của con người. Ông đề cập đến tình trạng báo động, suy thoái hiện nay và đặt câu hỏi: Vì chúng ta quên hay vì chúng ta không còn lòng tin con người có thể cao thượng?

Thứ Hai, 12 tháng 12, 2016

Phe Nhân dân





Tác giả: Thái Bá Tân






Tôi vốn từ bụi đất,
Đúng nghĩa đen từ này,
Tức “thành phần cơ bản”,
Con một bác đi cày.


Nhờ thế được du học
Khi đất nước chiến tranh.
Về nước, người nguyên vẹn,
Kèm theo cái tiếng Anh.


Rồi dạy học, phiên dịch,
Rồi làm anh nhà thơ,
Nói chung là lớt phớt,
Sống thật mà như vờ.


Thơ cũng loại vô bổ,
Chủ yếu dịch thơ người.
Cần thì cũng cần thật,
Nhưng ích gì với đời?


Mấy chục năm tôi sống,
Thấy, hiểu hết, tuy nhiên
Nhắm mắt vờ không thấy,
Mong thân phận được yên.


Đến già mới chợt tỉnh,
Thấy rằng mình nợ dân.
Nợ không chỉ mạng sống,
Mà còn cả miếng ăn.


Thấy mình đã hèn nhát,
Quay lưng lại với đời,
Với bất công xã hội
Và cái ác ở đời.


Ừ, có nợ thì trả.
Từ đất tôi thành nhân,
Giờ quay về với đất,
Tức là về với dân.


Bỏ lối viết bay bướm,
Hoa lá cành xưa nay.
Giờ tôi dùng tiếng nói
Đúng của người đi cày.


Nôm na và giản dị,
Tôi nói hộ bà con
Những gì họ đang nghĩ,
Tuyệt đối không ngoa ngôn.


Tuyệt đối không bạo động.
Nói để nhắc chính quyền
Sớm diệt bọn tham nhũng,
Lo giữ đảo bình yên.


Trước nhiều cái tưởng đúng,
Bây giờ lại hóa sai.
Mà sai thì nên sửa.
Mà sửa đã chết ai.


Nôm na là như vậy.
Tôi, con người đi cày,
Giờ vượt lên sợ hãi,
Ngồi viết những dòng này.


Xin được phép nhắc lại
Điều đã nói nhiều lần:
Nếu thơ có phe cánh,
Tôi thuộc phe nhân dân.

Chủ Nhật, 11 tháng 12, 2016

Chủ nghĩa dân túy và phe nhà giàu mới nổi






Nguồn: Ian Buruma, “The Populism for the Rich,” Project Syndicate, 04/11/2016.


Biên dịch: Trần Văn Thắng | Hiệu đính: Nguyễn Huy Hoàng


Gần đây tôi tham gia một chuyến tham quan Cung điện Quốc hội ở Bucharest, một công trình khổng lồ tốn kém được xây dựng vào những năm 1980 theo lệnh của nhà độc tài người Rumani quá cố Nicolae Ceauşescu, người đã bị hành quyết trước khi có thể nhìn thấy nó được hoàn thành. Các số liệu thống kê mà hướng dẫn viên của chúng tôi kể lại thật đáng kinh ngạc: dinh thự lớn thứ ba trên thế giới, 20.500 mét vuông trải thảm, một triệu mét khối đá cẩm thạch, 3.500 tấn pha lê. Các cầu thang bằng đá cẩm thạch khổng lồ đã phải xây dựng nhiều lần cho phù hợp chính xác với bước chân của nhà độc tài, một người đàn ông nhỏ bé.


Để xây dựng công trình kỳ quái tân cổ điển này, cả một dải đất của thành phố, một khu vực tươi đẹp có những ngôi nhà, nhà thờ và giáo đường Do Thái thế kỷ 18, đã bị san bằng, di dời 40.000 người. Hơn một triệu người làm dự án này không nghỉ cả ngày lẫn đêm. Nó đã làm nhà nước vỡ nợ khá lớn, ngay cả khi người dân của Ceauşescu phải sống trong cảnh không có điện và không được sưởi ấm trong phần lớn thời gian. Nước này vẫn tốn hơn 6 triệu USD một năm để duy trì cung điện, nay là tòa nhà quốc hội Rumani và một bảo tàng nghệ thuật, bỏ lại 70% không được sử dụng.


Công trình tốn kém của Ceausescu là một tượng đài cho sự cuồng vọng. Nhưng nó không hề độc đáo, ngoại trừ kích thước (dù Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdoğan đã cố cạnh tranh với nó về quy mô bằng cung điện mới của ông ở Ankara). Suy nghĩ giống nhau của một kiểu những kẻ vĩ cuồng nhất định, hoặc ít nhất có chung một khiếu thẩm mỹ kiến ​​trúc, thực sự rất đáng chú ý. Những kế hoạch tái thiết Berlin của Hitler đã phản ánh trường phái khổng lồ tân cổ điển giống như vậy. Và nội thất của cung điện ở Bucharest, một kiểu phong cách vua Louis XIV quy mô lớn, chỉ là một phiên bản xa xỉ hơn của khu nhà ở của Donald Trump ở Florida và New York.


Những nơi này là cái mà bạn sẽ bắt gặp khi những kẻ ngoài cuộc thiếu nền móng xã hội ôm mộng làm Ông Vua Mặt trời (biệt danh của Vua Louis XIV – NBT). Nhắc đến Trump giống như Hitler và Ceauşescu có lẽ là không công bằng. Trump không phải là một tên bạo chúa giết người. Và nền tảng xã hội của ông thì phức tạp hơn.


Hitler là con trai của một quan chức hải quan nhỏ, còn Ceauşescu có xuất thân từ nông dân nghèo. Cả hai con người này đều cảm thấy mình nhỏ bé và quê kệch trong các thành phố thủ đô của mình. Cách chế ngự tầng lớp tinh hoa đô thị phức tạp hơn là đàn áp dữ dội tầng lớp này và xây dựng lại các thành phố theo những giấc mơ vĩ đại của mình.


Trump cũng muốn mọi thứ mang tên mình to lớn và sáng sủa hơn mọi thứ khác. Nhưng ông sinh ra ở New York và được thừa hưởng một khoản tiền đáng kể từ cha mình, Fred Trump, một nhà phát triển bất động sản với một danh tiếng có phần đáng ngờ. Thế nhưng dường như ông cũng sôi sục oán giận đối với tầng lớp tinh hoa, những người có thể coi thường ông là một kẻ mới phất thô kệch, với những tòa nhà chọc trời màu vàng lố bịch và những biệt thự lỗi thời chứa đầy ghế và đèn chùm lớn mạ vàng.


Chủ nghĩa dân túy hiện đại thường được mô tả như một cuộc chiến giai cấp mới giữa những người hưởng lợi từ một thế giới toàn cầu hóa với những người cảm thấy bị bỏ lại phía sau. Những người ủng hộ Trump ở Hoa Kỳ và Brexit ở Vương quốc Anh nói chung có học vấn thấp hơn “giới chính thống” mà họ phản đối. Nhưng đáng lẽ họ đã không bao giờ có thể tiến xa như khi chỉ có một mình. Đảng Trà ở Mỹ có lẽ vẫn tương đối ngoài lề nếu không có những người ủng hộ và những kẻ mị dân đầy quyền lực. Và đây thường là những kẻ nhà giàu mới, chia sẻ sự cay đắng của những người đi theo họ.


Đây rõ ràng là trường hợp của Ý, nơi cựu Thủ tướng Silvio Berlusconi, người có nền tảng gần giống Trump, đã tìm cách khai thác những ước mơ và nỗi bất bình của hàng triệu người. Phong trào dân túy ở các nước khác cho thấy một mô hình tương tự. Ở Thái Lan, tài phiệt người Thái gốc Hoa Thaksin Shinawatra, con trai của một người cha mới giàu giống như Berlusconi và Trump, đã chống lại giới tinh hoa xã hội và chính trị của Bangkok, trở thành thủ tướng với sự ủng hộ của cử tri tỉnh lẻ và nông thôn, trước khi bị lật đổ trong một cuộc đảo chính quân sự. Ở Hà Lan, một tầng lớp người giàu mới gồm những ông trùm bất động sản đã ủng hộ nhà dân túy cánh hữu Pim Fortuyn và người kế nhiệm thô bạo hơn của ông, Geert Wilders.


Giới nhà giàu mới là một lực lượng quan trọng trong sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân túy, tương đương những người nghèo và có học vấn thấp hơn, những người cảm thấy bị các tầng lớp tinh hoa bỏ rơi. Bất chấp những bất bình đẳng rất lớn về của cải, họ có chung một cơn oán giận sâu sắc đối với những người mà họ nghi là coi thường họ. Và họ không hoàn toàn sai. Bất kể tiền mới có thể mua được bao nhiêu cung điện hoặc du thuyền đi chăng nữa, tiền cũ vẫn sẽ tiếp tục khinh thường người thâu tóm tiền mới. Tương tự, tầng lớp thị dân có học thức có xu hướng xem thường những cử tri ủng hộ Brexit hoặc chống lưng cho Trump là ngu dốt và vô giáo dục.


Những nỗi bất bình mà người giàu mới cũng như người bị bỏ lại phía sau cảm thấy hòa trộn lại đã thúc đẩy chủ nghĩa dân túy cánh hữu. Trong những trường hợp cực đoan, điều này có thể dẫn đến chế độ độc tài, với các bạo chúa được tự do theo đuổi những huyễn tưởng kỳ quái với cái giá được chi trả bởi hàng triệu người nằm dưới quyền kiểm soát của họ.


Cho đến nay, ở châu Âu và Mỹ, những kẻ mị dân mới chỉ có thể mang tới những giấc mơ: lấy lại đất nước của chúng ta, làm cho nó vĩ đại trở lại, và cứ thế. Để ngăn chặn những giấc mơ như vậy trở thành những cơn ác mộng chính trị, cần nhiều điều hơn ngoài chuyên môn kỹ trị, hoặc những lời kêu gọi phép lịch sự và chừng mực. Những người oán giận không thể dễ dàng bị thuyết phục bởi lý do rõ ràng. Họ phải được cung cấp một tầm nhìn khác.


Vấn đề hôm nay, trên toàn thế giới, là một tầm nhìn thay thế như vậy không hề có sẵn trong tay. Cuộc cách mạng Pháp đã diễn ra hơn hai thế kỷ trước. “Tự do, bình đẳng, bác ái” ngày nay chỉ còn là một khẩu hiệu lịch sử. Nhưng đây có thể là một thời điểm tốt để cập nhật nó.


Ian Buruma là Giáo sư về Dân chủ, Nhân quyền, và Báo chí tại Bard College. Ông là tác giả của nhiều cuốn sách, trong đó có Murder in Amsterdam: The Death of Theo Van Gogh and the Limits of Tolerance và Year Zero: A History of 1945.


- See more at: http://nghiencuuquocte.org/2016/12/12/chu-nghia-dan-tuy-va-phe-nha-giau-moi-noi/#sthash.COnzokfW.dpuf

Ai bảo… đi tù là khổ





Ai bảo… đi tù là khổ
Ở tù sướng lắm chứ… (*)

Thì cứ xem đây:


Theo điều 8 NĐ 117, chế độ ăn đối với phạm nhân, thủ tướng chính phủ kí năm 2012 :

„Phạm nhân được Nhà nước bảo đảm tiêu chuẩn định lượng mỗi tháng: 17kg gạo tẻ thường; 0,7 kg thịt, 0,8 kg cá; 0,5 kg đường loại trung bình; 01 kg muối; 15 kg rau xanh; 0,75 lít nước mắm; 0,1 kg bột bọt; chất đốt tương đương 17 kg củi hoặc 15 kg than.

Ngày Tết Nguyên đán (bao gồm 01 ngày cuối năm và 03 ngày đầu năm âm lịch), ngày Tết Dương lịch (ngày 01 tháng 01), ngày Giỗ tổ Hùng Vương (ngày 10 tháng 3 âm lịch), các ngày lễ: 30 tháng 4, 01 tháng 5, 02 tháng 9, phạm nhân được ăn gấp 5 lần tiêu chuẩn ăn ngày thường.“

Nguồn: http://moj.gov.vn/vbpq/Lists/Vn%20bn%20php%20lut/View_Detail.aspx?ItemID=27336

Còn năm 2013, trong phòng giam Cù Huy Hà Vũ có thêm „ ti vi, quạt mát suốt ngày, giá sách với nhiều loại sách được người thân đưa vào, giá vẽ tranh; có hệ thống vệ sinh khép kín, nước sinh hoạt, bếp nấu ăn…, rồi trước phòng giam có một sân nhỏ trồng nhiều cây cảnh xanh mướt, có nhiều cây nở hoa rất đẹp „.

Theo: http://tuoitre.vn/chinh-tri-xa-hoi/phap-luat/554217/can-canh-noi%C2%A0o%C2%A0cu-huy-ha-vu-tai-trai-giam-so-5.html#ad-image-2

Bố khỉ ! Giá mà dân mình biết trước cảnh “ nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại “ như thiên đường hạ giới ấy, thì dân lao động cày quần quật chạy gạo từng bữa mà vẫn bữa đói bữa no đua nhau vào tù…

Như mình ăn ít, mỗi bữa chỉ lưng hai bát cơm, ngày hai bữa là đủ, lại thích ăn rau… Kiểu nào ở tù mỗi năm cũng dư khẩu phần gạo thịt ra, bán cho đầu nậu kiếm thêm mớ tiền để cải thiện đời sống… ngoài tù. Biết đâu còn dành dụm được cho con ăn học, hay ích kỷ thì lo cho thân mình sung sướng. Nghe nói tù đại gia còn lo được chân dài vào khuây khỏa…

Vô tù chẳng mấy chốc mà trắng trẻo mập mạp hơn. Có khi hết hạn tù lại quyến luyến bịn rịn đòi ở lại. Ra nhà tù lớn làm gì cho nhọc thân.

Nói nôm na là chỉ có… ở tù mới thật sự được “ Đảng và Nhà Nước lo “ !

Phân tách tới đây, biết đâu thiên hạ thấy ở tù sướng quá rần rần đòi rủ nhau đi tù !

Các báo đài lề đảng như Tuổi Trẻ, VTV, ANTV vân… vân làm những phóng sự này chắc đã nhìn xa trông rộng, có cái tâm và cái tầm như cụ Nguyễn Đình Chiểu từng nói: “ Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà… “. Vì lẽ:

Đi tù lúc này sẽ khiến vực dậy nền kinh tế Việt Nam đang ngắc ngoải chứ chẳng chơi !:

Dân nghèo kiếm ba bữa ăn không xong, kéo nhau đi tù để được ăn sung mặc sướng… Khi đó, cung sẽ không kịp đáp ứng cho cầu, dẫn đến hàng loạt nhà tù với kiến trúc sinh thái mới lạ mọc ra như nấm trên khắp Việt Nam.  Ngành xây dựng sẽ phát triển vượt bậc tạo biết bao công ăn việc làm cho thanh niên rỗi nghề từ nông thôn đến thành thị… Kéo theo là một ngành dịch vụ mới sẽ xuất hiện: “ Cò đi tù “.

Cũng như các loại “cò” khác, muốn được ở tù lâu, địa điểm đắc đạo thì phải chịu chi giá cao. Để tránh thất thoát nguồn lợi nhuận vô cùng to lớn, nhà nước nên quốc doanh hóa nghề này !

Mà biết đâu đến chừng đó, “ nhà nhà đi tù, người người vô tù “. Bởi ai cũng chạy chọt một chân… ở tù, lấy đâu ra người lao động bị bóc lột ?! Tỉ lệ thất nghiệp coi chừng xuống tới mức âm %… 


Huỳnh Minh Tú



(*): Xin lỗi sửa lời bài hát của cố Nhạc sĩ Phạm Duy

Ai mua thơ tôi bán thơ cho…




Cô cháu gái hỏi tôi: “ Bác viết văn hay lắm. Chắc bác làm thơ cũng hay”. Con bé này giỡn chơi, 22 tuổi đầu, thi đâu đậu đó, tưởng thơ văn là bài luận mẫu, dễ như nhón hạt điều cho vào miệng ăn vặt.


Tôi đáp: “ Trời đất ! Mấy ông nhà văn trí tuệ lắm. Họ tái hiện những ngóc ngách của đời sống, của con người qua tác phẩm. Họ có trí tưởng tượng phong phú, biết hư cấu, rành rẽ tâm lý nhân vật, cho sống là sống, bảo chết là chết. Quyền lực vô biên…Nhà văn phải sáng tạo, cháu à! Còn bác chỉ là thằng viết tạp, văn vẻ thì gọi là tùy bút, nghĩa là viết tùy tiện, tùy hứng. Bác không thể sáng tạo, phải có sự kiện bác mới viết được. Còn làm thơ? Bác tuyệt đối không có khả năng làm thơ. Mấy ông làm thơ còn vĩ đại hơn nhà văn. Cùng một đề tài, nhà văn phải viết tới chục ngàn, trăm ngàn chữ mới diễn đạt nổi, còn mấy ông thi sĩ chỉ cần vài chục chữ”
Tôi giải thích bằng một kiến thức “ngang hông” như thế, chẳng biết con bé có ngộ ra được cái tầm trọng đại của thế giới thơ văn không. Chuyện tôi không biết làm thơ là chân lý rồi, khỏi bàn, nhưng tôi giấu (dốt) con bé một điều tệ hại hơn nhiều, đó là trình độ thưởng thức thơ của tôi rất cọc cạch và kém cỏi.
Sự kém cỏi này không phải là không giải thích được. Hồi con đi học, nghe ông thầy giảng bài “Thu điếu” của Nguyễn Khuyến, tới đoạn “ Sóng nước theo làn hơi gợn tí/ Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo”. Tôi ngứa miệng đưa tay phát biểu: “ Sóng nước gợn tí là gió rất nhẹ. Gió nhẹ không thể làm chiếc lá rơi cái vèo được. Em e rằng tác giả không đi câu, mà ngồi nhà bịa ra bài thơ này”. Thơ là bay bổng, là tận hưởng, mà lại ngập chìm theo cái kiểu… soi mói như thế thì nhã hứng thưởng thức thơ cọc cạnh là phải.
Thằng bạn tôi có cô bạn gái học Văn Khoa, dễ thương, lãng mạng và sính thơ văn, nhưng trình độ thơ văn của tên đó khá lắm cũng chỉ cỡ…tôi, mặc dù y rất giỏi toán lý. Cái thứ viết thư cho người yêu mà chỉ toàn gạch đầu hàng thì số phận mối tình có thể tiên đoán được. Chuyện gì đến thì phải đến… Tôi đến nhà y chơi, thấy trên bàn là tờ giấy nguệch ngoạc bài thơ. Chúa ơi! Y làm thơ. .. Lâu quá rồi, tôi không nhớ nội dung, hình thức bài thơ ấy thế nào, nhưng chắc chắn đó là bài thơ có vần điệu tán loạn nhất mà tôi từng đọc, một thứ văn xuôi chấm xuống hàng nhiều lần. Tôi kéo y đi nhậu, cả buổi tối ngồi nghe nó trút nỗi niềm… Tôi bảo nó: “ Ngày mai tao sẽ cho mày mượn tập thơ “Tâm tình hiến dâng” của Tagore. Bài thơ của mày gây cho tao cảm xúc mạnh, đến độ tao liên tưởng tới cái chuyện của tao rồi cũng kết thúc như vậy. Thơ của mày hay hơn thơ Tagore”.
Một tên mất căn bản về thơ như tôi thì không đủ tư cách để phát biểu như thế nào là một bài thơ hay. Kẻ dốt thơ mà thích thơ là chuyện không thể, nhưng khoái thơ thì chắc không ai (nỡ) cấm. Có những câu thơ cũng làm tôi tâm tư, nghĩ ngợi, thường là những bài thơ chữ nghĩa đơn giản, người khó tính không chừng cho đó là thơ con cóc cũng nên, chẳng hạn :


“Buổi chiều mẹ lên rẫy
Dưới bóng cây Kơ-nia
Bóng tròn che lưng mẹ
Về nhớ anh mẹ khóc”


Hay một câu thơ mà anh bạn tôi lêu lõng ở miền Nam Trung Bộ, nghe bà già 80 tuổi đọc lại:


“ Thò tay mà bứt ngọn ngò
Thương anh đứt ruột giả vờ ngó lơ”


Tôi khoái thơ Lý Bạch. Khoái không phải vì thơ ông hay (hiểu theo nghĩa hàn lâm, bác học) như người đời ca tụng, mà vì thơ ông có mùi…rượu. Những năm cuối đời Lý Bạch ghé Tuyên Châu, tại lầu Tạ Thiếu, ông làm thơ tiễn bạn


“ Bỏ ta ra đi, đó là ngày hôm qua, không thể giữ lại được
Làm rối loạn lòng ta, là ngày hôm nay, nhiều nỗi lo phiền
….
Lấy dao chém nước, nước lại trôi đi
Nâng chén khuây sầu, sầu lại thêm sầu…”
(Trần Trọng San diễn nghĩa)


Nghe cảm khái cách gì! Âm tiết Hán-Việt của bài thơ đọc nghêu ngao lên nghe cũng kêu lắm. Hình như bài thơ này đã được cải biên, thêm thắt dài ngoằng đưa vào phim Bao Công thì phải.
Thưởng thức thơ kém cỏi lại hay ngứa mồm thì khó lòng tránh khỏi vạ miệng. Đám bạn yêu thơ mỗi lần ngồi nhậu lại đem thơ ra tán, tự ngâm, tự khen và tự sướng. Tôi ngơ ngác chẳng hiểu gì cả, thấy họ như từ từ bay lên thành người…cõi trên. Nhớ lại thằng bạn thất tình làm thơ, mình có thể cảm nhận nỗi niềm của nó, còn ở đây kẻ cõi trên, người cõi dưới. Cái máu soi mói của tôi lại nổi lên. Thần khẩu hại xác phàm! Chúng xúm lại xỉ vả tôi là thằng hãm hiếp thơ ca. Tôi cúi đầu nhận tội. Có chơi có chịu. Còn chịu được là còn chơi. Chứng nào tật nấy, vài ba chén túy lúy rồi còn biết sợ ai. Khi say, tôi biến Tào Tháo thành đứa con hoang thai của Pak Chung Hi còn được cơ mà. Độc tài mà được việc như cha nội này coi bộ cũng có lý.
Người ta làm thơ có khi vì tức cảnh sinh tình, ý thơ lai láng, không “nhả” thơ ra không chịu được. Cũng có khi làm thơ chỉ để bày tỏ nỗi niềm riêng tư, viết cho mình, mặc ai hiểu mặc ai không hiểu, khen chê mặc kệ, Họ làm thơ để xả stress, chứ không phải chơi trò chữ nghĩa.
Tôi biết một gã lái buôn xe (hơi), gặp thời ế ẩm, cảm thán làm thơ kể chuyện vinh nhục của nghề. Y tự nhận mình “ như thằng trọc phú tiếp tay tú bà”, và khi hành nghề thì chẳng khác gì “Hàn Tín cúi người luồn trôn”. Lái buôn mà ví với Hàn Tín thì khẩu khí coi bộ quá đà. Sao không ví như mấy em bia ôm chiều khách cho nó… mượt? Cảm nhận thơ phú với tôi là chuyện khó khăn, nhưng với bài thơ “lựu đạn” này, chỉ với câu cuối “ Ta đem bán thứ nhiễu nhương làm giàu”, tôi có thể đoán được cái bụng của y, sớm muộn rồi cũng lại ngựa quen đường cũ. Cái nghiệp buôn xế ngấm vào tim phổi y rồi.
Lại có người làm thơ làm thơ diễu đời, phản ánh những bức xúc chung của xã hội. Thơ loại này giống như vè, tôi gọi đại là… “thơ sến”. Nhưng thú thiệt, tôi lại khoái thơ sến, và thường ê a bên bàn rượu. Đây này, đọc thử vài câu của Nguyễn Bảo Sinh nghe chơi.


“Tự do sướng nhất trên đời
Tự lừa lại sướng hơn mười tự do!”
Hay
“Muốn cho trộm khỏi vào nhà
Đề vào trước cửa, đây là nhà thơ”.


Tôi có người bạn là thi sĩ thuộc loại có số má, lại kiêm tiến sĩ văn học, nghĩa là có thừa kỹ năng chặt chém. Anh ta mới có cháu nội. Hôm thôi nôi thằng bé, anh tặng bè bạn tập thơ “Hạnh phúc làm ông”. Tôi trích đoạn một bài thơ của anh


“ Bé Gôn chưa đi được
Đã thích leo cầu thang
Được ông phía sau đỡ
Chân huơ như tướng tuồng…” (PQC)


Hình như khi người ta sướng quá, thì những ngôn từ bay bướm chạy đi đâu mất tiêu thì phải, chỉ còn lại chữ nghĩa mộc mạc thời hoang sơ, như bài thơ trong Kinh Thi “ Quan quan thư cưu, tại hà chi châu…”. Điều này làm tôi liên tưởng đến con vẹt của nhà văn Nhật Chiêu, nó rên rỉ theo tiếng kêu đang hồi sướng ngất của người đàn bà: “ Em chết mất…”. “Nguyên sơ” là thế! Con vẹt lập lại vô cảm, nhưng tôi là người, không phải vẹt, nên tôi có thể chia sẻ cảm xúc với “thằng ông nội” đang hồi “sướng ngất” vì có “thằng cháu nội”.
Một thằng bạn khác của tôi còn giữ lại những bài thơ tặng vợ hồi hai người chưa lấy nhau. Thơ tình thì “bốc” mát trời ông địa rồi. Hơn 30 năm đã trôi qua. Tôi hỏi nó: “ Thơ hồi đó mày làm tặng bả, bao nhiêu phần trăm là cảm xúc nhớ nhung, bao nhiêu phần trăm là chơi chữ lấy le”. Nó gãi đầu, không trả lời. Tôi lại hỏi: “ Thế dạo sau này, tụi mày có mang thơ này ra đọc cho nhau nghe không?”. Nó cũng gãi đầu… Già đầu rồi mà còn mắc cỡ với những rung động đầu đời. Rõ khỉ!


Một bài báo trên tờ “Người Giáo Viên Nhân Dân” cho rằng thôn Vỹ là một ổ điếm, và Hàn Mạc Tử đã có công «phản ánh kiếp sống giang hồ, tố cáo tệ đoan của xã hội cũ, trong một bài thơ hiện thực, nhân đạo, một tiếng thở dài đáng quý». Bó tay !
Thưởng thức thơ là điều khó khăn. Đâu dễ gì nắm bắt được cảm xúc thật của tác giả khi chữ nghĩa cô đọng, xúc tích như thế. Ba trăm năm sau có người khóc Tố Như hay không thì chưa biết, nhưng chắc chắn bây giờ thiên hạ đang phân phân tích, mổ xẻ từng đoạn, từng câu, từng chữ trong “Đoạn trường Tân Thanh” và gán cho nó những ý tưởng mà khi làm thơ chưa chắc gì Nguyễn Du đã nghĩ tới.
Ca từ trong nhạc Trịnh Công Sơn, nếu đem ngắt câu xuống hàng thì chẳng khác gì bài thơ. Thú thật có nhiều ca từ của ông tôi nghe thấy hay hay, nhưng chẳng hiểu gì cả. Cảm xúc khởi đầu từ ý và nốt nhạc trộn lẫn, rồi sau đó, vần điệu đẻ ra ý hay ý đẻ ra vần điệu đây? Đoạn ca từ nào trong bản nhạc là cảm xúc ban đầu? Nghe nói có người làm luận án về ca từ trong nhạc Trịnh. Tài thật! Là một nghệ sĩ tài hoa, TCS có những cảm xúc và tư duy về cuộc sống thể hiện qua nhạc phẩm của mình. Ông say xỉn tối ngày. Kể cũng lạ, nhiều bài viết lại tìm thấy tính thiền, tính Phật trong nhạc TCS.


Về bài thơ “Đây thôn Vỹ Dạ” của Hàn Mặc Tử, một bài báo trên tờ “Người Giáo Viên Nhân Dân” cho rằng thôn Vỹ là một ổ điếm, và Hàn Mạc Tử đã có công «phản ánh kiếp sống giang hồ, tố cáo tệ đoan của xã hội cũ, trong một bài thơ hiện thực, nhân đạo, một tiếng thở dài đáng quý». Bó tay !
Trong thưởng thức thơ ca, người ta suy diễn nhiều hơn suy luận, và có khi còn thích “ tự lừa còn sướng hơn mười tự do”.


Mới đây trên mạng hải ngoại có bài “ Trong thơ nên có…vú”. Dù tác giả đã cố công “ngược thời gian Trung cổ (Les Troubadours) tìm về La Mã, Hy Lạp để bàng hoàng trước cặp vú để trần của Propertius và Catullus, hoặc ngẩn ngơ trước đôi gò của người đẹp Sappho…”, thậm chí còn đi tìm vú trong kinh Cựu Ước. Rồi quay sang Đông phương, tìm trong văn hoá Khổng Mạnh và Tam giáo, trong Kinh Thi, rồi trong văn hóa Môn-Khờme và Mã Lai,… Thú thật, đọc đi đọc lại vài lần, tôi chẳng thấy cái vú trong thơ mang tính nhục cảm nó đẹp chỗ nào.


Cái vú có đẹp không? Đẹp chứ, dù đó là trái đào hay quả mướp. Khi tôi được 6 tháng tuổi. Mẹ tôi phải trải qua một giải phẩu lớn ở nhà thương. Tôi không chịu bú bình, sữa Guigoz hay Nestle gì cũng mặc, bú rình cũng chê. Mấy bà chị chăm tôi, đành phải mớm đồ ăn vặt của mấy bả cho tôi. Tôi sống sót nhờ…đậu đỏ bánh lọt. Mẹ tôi về nhà, làm gì còn sữa cho tôi bú, nhưng khi bà ôm tôi vào lòng, tôi lại chịu bú bình: tôi nhớ hơi mẹ. Có chuyện này, nói ra hơi…xấu hổ tí, đó là tối ngủ tôi cứ rúc vào lòng mẹ tôi và rờ …vú mẹ, mãi cho đến khi 8-9 tuổi, tôi mới bỏ thói quen này vì bị chọc quê nhiều quá. Mẹ tôi cũng chẳng phiền hà gì, có lẽ bà thương cảm cho thằng con mới 6 tháng tuổi đã bị cai sữa cưỡng bức
Lớn lên, mỗi khi nhìn hình ảnh em bé bú mẹ, tôi lại thấy tuyệt đẹp và thánh thiện quá. Nhân loại thái bình không phải ở bầu sữa mẹ sao? Lắm lúc tôi nghĩ, cần gì phải xử bắn hay treo cổ mấy tên diệt chủng. Bắt chúng về nhà bú sữa mẹ để chúng hiểu thế giới này cần an bình thế nào. Tôi cũng nghiệm ra một điều, những thằng sờ vú mẹ dai như thế suốt đời chẳng bao giờ trưởng thành nổi.
Đi tìm cái đẹp nhục cảm “trong thơ có vú” thì tôi chịu thua trước cho…cao cờ.
Cô đơn có thật, nỗi buồn có thật, nhưng nhiều khi qua thơ văn, nó bay bổng và gia vị nhiều quá, rồi trở thành cô đơn hoang tưởng, nỗi buồn hoang tưởng. Mấy ai kiếm sống được bằng thơ đâu. Ai mua thơ, tôi bán thơ cho. Rao bán nỗi niềm mà lắng nghe hụt hẫng thì buồn biết mấy.
Cách đây vài năm, sau một bữa tiệc kinh doanh, tôi được mời đến vũ trường giải trí tăng hai. Một cô gái đến mời tôi nhảy. Tôi ấp úng: “ Xin lỗi, chân tôi bị… vọp bẻ”. Tôi chỉ mới “bị vọp bẻ” ngay khi được mời nhảy. Ừ, không biết nhảy thì ngồi xem thiên hạ nhảy. Tiếng nhạc ầm ầm, ánh đèn chớp tắt theo điệu nhạc, vũ điệu quay cuồng, tất cả những thứ này dường như lệch pha, làm cử động của người nhảy trông như bị cà giựt, đứt quãng. Khuôn mặt của họ như bị biến dạng, tôi không biết họ đang cười, đang khóc, hay đang nói. Chỉ thỉnh thoảng lắm, tôi mới thấy được khuôn mặt thật của họ với những biểu cảm qua ánh chớp.
Bây giờ tôi đã tiến bộ, đã tập tành nhảy chút chút cho ra cái điều văn minh với người, cũng slow rock, cũng rumba,.. Nhảy đại, không dẵm chân ta, thì chân người, như tập dưỡng sinh vậy thôi. Nhưng tôi vẫn còn sợ ánh đèn vũ trường, sợ trong hàng ngàn ánh đèn chớp tắt liên tục, tôi bỏ lỡ cơ may trong muôn một, nhận diện được khuôn mặt đích thực của con người.
Cảm nhận về thơ của tôi cũng vất vả như thế. Tôi sợ sự ảo diệu của ngôn từ sẽ che khuất đi những cảm xúc thật sự.
Mỗi bài thơ là một bông hoa. Tôi như người mù, làm sao có thể chạm tay tới nỗi niềm của những bông hoa chỉ có sắc mà không có hương.
.
Vũ Thế Thành

Một cái tách




Quách Nhiên


Một cái tách, nhìn chưa biết bên trong chứa đựng nước gì. Đã là tách, thì thói quen cho là cà phê hay trà. Bởi chỉ ở xa nhìn, thói quen minh định theo cái nhìn bên ngoài, đôi lúc khiến gây nhiều hiểu lầm! Khó mà hiểu tâm tư ai, có lẽ khoan minh định để đỡ phiền cho tâm mình.


Nhìn được bên trong, thấy màu sắc, có thể đoán định, cũng chưa hẳn. Đôi khi màu sắc tương tự! Có thể là nước gạo rang, hay những thứ nước thuốc nào đó… Sống gần, nghĩ rằng hiểu nhau, nhưng chưa hẳn. Khi có một va chạm mới biết lâu nay mình chỉ nhìn bên ngoài nên chưa hiểu được tâm tình người đang giao tiếp.

Chính vậy khi muốn chứng minh điều gì đó trong tâm, người ta phải bày tỏ ra, để người bên cạnh hiểu rằng tâm mình nghĩ vậy!
Mình luôn đòi hỏi người bên cạnh phải chứng minh điều này điều kia trong tâm, nên mọi thứ được trình hiện để chúng ta yên tâm rằng sự thật là vậy!

Sự chân thành, đôi khi không cần đòi hỏi. Vì mọi chân thành luôn được thể hiện qua những điều rất vô hình mà chỉ tâm cảm nhận! Sự cảm nhận chỉ có khi tâm mình lắng lại, yên bình. Nếu tâm đang giao động thì chỉ nhận định qua những gì được trình hiện theo sự mong muốn của mình mà thôi.

Thứ Bảy, 10 tháng 12, 2016

Lưu manh hóa trí thức




Tác giả: Tiểu Bối


.


Theo số liệu thống kê cho biết : Cả nước hiện có hơn 9. 000 Giáo Sư, 24.000 tiến sĩ, 101.000 thạc sĩ và 2.700.000 cử nhân đại học [1] . Một con số lý tưởng cho nền kinh tế tri thức. Việt Nam hiện nay có nhiều điều kiện để trở thành nước có nền kinh tế phát triển như : nguồn lao động trẻ, thuận tiện giao thông, có nhiều loại tài nguyên,…. Tuy vậy, nước ta vẫn trong cái vòng luẩn quẩn của nghèo nàn, lạc hậu. Nguyên nhân chính là ở yếu tố con người , do đất nước chúng ta không tôn trọng giá trị con người , không tôn trọng trí thức đích thực. Yếu tố con người chưa được quan tâm thích đáng trong khi nó mới là nhân tố chính cho sự hưng thịnh/ suy yếu của 1 quốc gia.




Một xã hội bảo thủ, trọng thành tích, hám danh sĩ diện với bằng cấp thường đi đôi với sự coi thường sự tiến bộ của khoa học , kỹ thuật đương nhiên sẽ tụt hậu. Và Việt Nam đã và đang tụt hậu.Cũng theo số liệu thống kế cho biết các chuyên gia WB tính toán “Việt Nam phải mất rất lâu nữa mới đuổi kịp các nước trong khu vực Đông Nam Á: 158 hoặc cũng có thể là 175 năm với Singapore, 95 năm với Thái Lan và 51 năm với Indonesia.”[2]


Vấn đề đầu tư vào giáo dục luôn quyết định hưng, suy của một quốc gia. Nền giáo dục của Việt Nam và cả xã hội Việt Nam làm nhân tài không có đất dụng võ. Với bằng cấp tràn lan, làm người Việt ảo tưởng về mình. Mỗi năm chúng ta có rất nhiều kỹ sư, cử nhân, tiến sĩ, giáo sư mới nhưng nền kinh tế của chúng ta lẹt đẹt. èo uột , đất nước chúng ta lạc hậu. Nếu tính từ hàm Thứ trưởng trở lên, số người có trình độ tiến sĩ ở Việt Nam cao gấp 5 lần Nhật Bản [3] . Và với số lượng hùng hậu GS, TS, Ths, Cử nhân đã nêu trên , Một con số lý tưởng cho nền kinh tế tri thức. Nhưng hiện vẫn đốt đuốc tìm lao động chuyên gia, thiếu hẳn những công trình khoa học – sáng tạo – sáng chế được ứng dụng vào thưc tiễn cuộc sống… Trong khi nền kinh tế sản xuất vẫn là nhân công giá rẻ, miệt mài với gia công phụ thuộc, công nghệ thì vẫn đang loay hoay ở trình… ” sản xuất mì tôm”.


Người Hàn Quốc họ có quyền tự hào vì họ xây dựng được những sản phẩm mang tính thương hiệu trên toàn cầu như : Sam Sung, Huyndai . Người Nhật có thể vỗ ngực tự hào với Sony, Toyota . Sing có quyền hãnh diện về hàng xuất khẩu điện tử của mình ra khắp thế giới,…Hoàn toàn thiếu một sản phẩm Việt sánh ngang tầm các quốc gia khác trên thế giới.


Thực tế này cho thấy, chất xám Việt đang bi lãng phí. Lãng phí từ khâu đào tạo ( đào tạo quá nhiều GS, TS, Ths giả và dỏm) , lãng phí cả khâu sử dựng ( Nhân tài thực sự chưa được tin dùng và sử dụng hợp lý và trọng dụng họ).


Người Việt, trí thức Việt, dân Việt trách móc Xã hội này đôi khi, nhưng nếu nhìn kỹ lại, thì chính họ chính chúng ta tạo nên Xã hội này. Trí thức Việt nói riêng , dân Việt nói chung nhiều lúc đôi khi có xu hướng, chờ đời mong mỏi một vị minh quân, 1 vị lãnh đạo tài ba xuất chúng nào đấy xuất hiện để đưa lối dẫn đường họ và lãnh đạo đất nước đang tụt hậu này, nhưng họ quên rằng không ai dẵn dắt và không ai hành động tốt hơn họ tự dẫn dắt mình định hướng cho mình. Đã đến lúc cả dân tộc này và giới trí thức Việt cần nhìn thẳng và nhìn thật vào chính mình, nhìn vào thực tế và tự gánh trách nhiệm cũng như vài trò của mình để tự thoát ra cái vòng luẩn quẩn này chứ không phải một ai đó, 1 vị cứu tinh nào đó hay 1 vị minh quân còn ẩn dật đâu đó.


Nghèo , dốt, thua kém người khác chưa hẳn là cái tội . Cái tội là ở chổ : nghèo, đói , lạc hậu , thua kém người khác nhưng lại không biết, hay biết mà không chiu thừa nhận và tệ hơn là phải phủ nhận mình nghèo bằng mọi giá vì cái sĩ , để rồi không chịu tìm tòi hướng đi, lối thoát cho mình . Và nếu chúng ta không khắc phục được sự yếu kém của đất nước nạn nhân cũng chính là chúng ta. Chúng ta là nạn nhân của chúng ta.


Bất cứ xã hội nào, trí thức và yếu tố con người mới là yếu tố hàng đầu để đưa đất nước đi lên. Nước Mỹ phồn vinh với giấc mơ Mỹ và là miền đất Hứa của biết bao người trên thế giới, Người Hàn Quốc chấp nhận “ăn mày chất xám” ở phương tây, tinh thần Samurai của Nhật…. Sao không để cho trí thức Việt được tự do trong sáng tạo, tự do trong tư tưởng, tự do trong lựa chọn của mình !? Để họ được cống hiến !?


Ở một góc độ nào đó, có thể nói và khẳng định rằng, đất nước không phát triển được như người ta là vì trí thức Việt chưa phát huy hết vai trò và sứ mệnh của mình. Và lại ở 1 góc độ nào đó, họ bị kiềm kẹp, bị cột, bị trói chặt tư duy, tư tưởng, và cả ý thức hệ, họ cũng muốn sống, muốn cống hiến lắm , muốn được hy sinh nhưng ý thức hệ, sự khác biệt trong tư duy và tư tưởng đã làm cho họ không được chọn, và họ bị cuốn vào vòng xoáy luẩn quẩn của giới trí thức Việt bao đời nay, vòng xoáy của một xã hội mà ngay cả đến trí thức cũng bị đẩy vào con đường “lưu manh hóa”, ở đó nhân phẩm của trí thức bị người khác chà đạp và tự mình chà đạp lên mà sống ,để rồi họ không kịp nhận ra họ vừa là “nạn nhân” mà còn đồng thời là “thủ phạm” . Họ hành hạ nhau và dẫm đạp lên nhau mà sống:


– Một bác sĩ với mức lương èo uột, 3 đồng 3 cọc , chết đói, anh ta tìm đủ cách làm khó bệnh nhân để được nhận “lót tay”. Nhưng khi anh ta sử dụng các dịch vụ khác, anh ta lại bị làm khó lại.


– Một thương gia ( doanh nhân) vì chạy theo lợi nhuận và tham đồng tiền bẩn không ngại bán rẻ lương tâm mình sản xuất ra những hàng hóa chất lượng kém, đọc hại tới sức khỏe của người tiêu dùng, miễn sao lợi nhuận nhiều xả chất thải độc hại ra môi trường, nhưng rồi chính anh ta hủy hoại môi trường chung anh ta đang sống trong đó và sẽ ra sao nếu anh ta mua phải những sản phẩm độc hại khác do người khác cũng vì tham lam mà sản xuất ra như anh ta.


– Từ Vụ sập cầu Cần Thơ, cho đến sập cầu cống, hàng loạt công trình thủy điện quốc gia công trình dân sự khác,.. những kỹ sư làm việc trên công trình đó đã làm hại hoặc tiếp tay cho người khác làm hại rất nhiều người. Sẽ ra sao nếu như những kỹ sư này đứng dưới công trình của chính họ thiết kế và xây dựng .


– Một nền giáo dục thay vì dạy con người ta cách học, nó chỉ dạy con người ta cách tin và phải đặt niềm tin vào đấy, kết quả tạo ra khg phải 1 thế hệ mà nhiều thế hệ cứ bắt thế hệ nối tiếp sau cứ tiếp tục đặt niềm tin. Bởi lẽ thế hệ này tiếp tục “dẫn dắt” ( chăn dắt!?) thế hệ kia.


– Một công chức, phải bỏ ra 1 khoản tiền lớn để mua chạy chức, hốii lộ cho người này, cho cơ quan kia để có cái ghế, cái chức. Khi có cái ghế, cái chức rồi lại quay lưng ra cướp phá, cướp bóc , hạch sách nhũng nhiều người khác để lấy lại những thứ mà mình từng bỏ ra . Và xem điều đó là lẽ đương nhiên và cái vòng luẩn quẩn ấy cứ tiếp diễn


– Một nhà báo, nhà văn, người cầm bút vì lợi ích cá nhân riêng, có thể nhẫn tâm bẻ cong ngoài bút, viết láo và viết liều để nhận được những đồng tiền bẩn tưởng chừng như chỉ làm tổn hại tới người đọc nói riêng và nền văn báo chí văn hóa nước nhà nói chung nhưng anh ta cũng đang tự biến mình thành trò bỉ ổi và lố bịch trong mắt người đọc, vì người đọc bây giờ đủ thông minh để nhận biết đâu đúng , đâu sai. Bởi trước khi hốt bùn để ném vào mặt người khác, thì bàn tay anh ta cũng đã lấm bùn trước rồi….


Và cứ thế , mỗi người trong xã hội cứ tự hại mình và hại người khác. Có thể nói trí thức Việt Nam nói riêng và người Việt nói chung vừa tự hại mình và hại người , nạn nhân của nhau.


Trong một xã hội, khi “sự thật” bị bóp méo, bị bẻ cong Trí thức Việt từ chổ ” người sáng” cũng trở thành “người mù” , người thẳng cũng thành “còng lưng” . Hoặc im lặng, cúi đàu chấp nhận để mà sống yên ổn thay vì cất tiếng nói phản kháng rồi bị vùi dập.


Với mức giá, mức lương hiện tại , Xã hội còn nhiều trí thức không sống được vói mức lương thực của mình. Người lao động trí thức bị bần cùng hóa và bị đẩy đến chỗ không còn có thể nghĩ gì khác ngoài việc làm sao kiếm cho đủ tiền để sống. Đây chính là một trong những lý do làm nên sự tha hóa, biến chất của giới lao động trí thức, thay vì đầu tư vào nghiên cứu , nâng cao chuyên môn,phát minh ra cái này, khám phá ra cái kia họ lao đầu vào kiếm tiền, kiếm sống làm sao phải sống được cái đã. Chính điều này dẫn họ tới kết quả làm nhiều việc trái nghề, trái lương tâm, trái đạo đức xã hội.


Mua quan, bán chức, mua vị trí công tác diễn ra đều đặn trong giới lao động trí thức trong Xã hội để rồi khi lên nắm quyền thì Vua quan thi nhau chia chác, nhũng nhĩu, quan liêu, thằng lên sau thì dốt hơn nhưng lưu manh, khốn nạn hơn thằng trước. Khốn khổ cho một xã hội !


Chưa dừng lại ở đó ,Giới lao động trí óc ở Việt Nam không những bị bần cùng hóa về đời sống vật chất, mà còn bị bần cùng hóa hay tự bần cùng hóa cả về tư duy đời sống tinh thần khác. Hiện tượng này đang thành ra phổ biến : những người, lẽ ra , phải làm việc với sách vở lại rất ít đọc sách, không quan tâm đến các vấn đề xã hội. Họ tự phủ nhận vai trò và trách nhiệm xã hội của họ. Hoặc học nhiều đọc nhiều, có bằng này bằng nọ chỉ để tự hào, để khoe khoang, để lên lớp nhau, để mơn trớn nhau vì cái tính sĩ diện hảo. Và cách người Nga đáp trả: Mày giỏi (giáo dục cao, học giỏi …) sao mày không giàu (sao mày không thể bán chút kiến thức để kiếm tí tiền tiêu cho sang trọng). Có lẽ câu nói đó hơi sống sượng. Nó hơi chợ búa. Nhưng nó chỉ ra một thứ rất đáng nghĩ rằng: nếu như kiến thức của bạn không mang lại giá trị cho chính bản thân bạn thì bạn cần kiến thức đó làm gì. Để trang trí hả? Để khoe mẽ hả? Nói thẳng ra, nó hơi chợ búa, nhưng đấy là cách nghĩ của một con buôn chứ không phải 1 trí thức.


Mặt khác , một số đông trí thức và tự nhận mình là trí thức lại cố định , cột chặt và để người khác cột, trói chặt tư duy và suy nghĩ của mình bằng những định kiến có sẵn, những quan điểm tâm lý đám đông và những quy luật bất thành văn khác về tư duy và quan điểm của họ . Điều này dẫn đến họ không tự do tư duy, không có tính bức phá không có khả năng phán xét đâu đúng đâu sai , họ chỉ biết nghe, biết chấp nhận những điều từ người khác mớm cho, từ trên đưa xuống không cần phán xét coi nó đúng hay sai, lợi hại ra sao. Sự bần cùng hóa tinh thần là một trong những nguyên nhân khiến giới lao động trí óc ở đây đánh mất sức mạnh, đánh mất khả năng phân biệt đúng sai, phải trái, và khiến họ có thể vi phạm các chuẩn mực đạo đức mà vẫn cảm thấy yên ổn lương tâm. Họ tìm sự yên ổn bằng cách sử dụng các lý lẽ mang tính ngụy biện để bào chữa hoặc hợp pháp hóa cho sự vi phạm đạo đức hay sự vi phạm pháp luật. Họ đã dùng cái sai này để ngụy biện bao che, phủ lấp cái sai khác, trong khi những giải pháp đúng đắn, khoa học đã không được lựa chọn.


Chính sự bần cùng và tự bần cùng hóa về tư duy, đạo đức và tinh thần, đời sống, trí tuệ đã khiến cho trí thức Việt Nam bị tha hóa nhiều mặt, mất cả năng lực làm việc trong lĩnh vực chuyên môn của mình, mất luôn cả bản lĩnh văn hóa, cả ý thức về sự đúng sai, cả phẩm chất đạo đức công dân. Để tự giữ cho mình trong sạch, chuẩn mực còn khó, nói chi đến chuyện dám đứng lên bảo vệ công lý, bảo vệ sự thật ! Chính vì thế nhiều người còn chút lương tri họ chấp nhận cắn răng chiệu đựng và thõa hiệp với cái ác và cái xấu để yên ổn mà sống.


Họ dối trá, tiếp tay cho sự dối trá, họ lừa lọc, tiếp tay cho sự lừa lọc, họ sĩ diện và tiếp tay cho sự sĩ diện. Tất cả nó làm nên dung mạo của nền trí thức bị “lưu manh hóa”.


Đất nước này đã phải trả cái giá quá đắt cho tệ nạn “lưu manh hóa trí thức” này rồi, bây giờ đã đến lúc chúng ta phải biết tự đứng dậy, dám nhìn thẳng, nhìn thật vào sự thật, nhìn vào thực tế,… tự bản thân mình thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn ấy, đừng tự hại mình và hại người nữa.


Chú Thích


[1] Số liệu Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn (ĐH New South Wales, Úc) đưa ra.


[2] Tính toán của các chuyên gia WB dựa trên báo cáo củ WB năm 2007


[3] Theo TS Nguyễn Khắc Hùng, nguyên Chuyên viên Đối ngoại, Học viện Hành chính Quốc .