STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh
" Cả cuộc đời ba không có gì để lại cho các con ngoài số vốn kiến thức mà ba mẹ tảo tần nuôi các con ăn học.Mong các con trở thành những người hữu ích cho xã hội" ( trích từ TT "Vững Niềm Tin")
Thứ Tư, 19 tháng 10, 2016
“Phúc bất tận hưởng”
Vào thời nhà Hán có một vị quan lớn. Quan lớn vào thời ấy đều là thuộc giai tầng quý tộc hoặc là Hoàng thân quốc thích chứ người bình dân là không có tư cách. Họ từ nhỏ đã được phong đất, có sản nghiệp lớn, nắm rõ tri thức, tu thân trị quốc bình thiên hạ.
Ở thời nhà Hán, đại đa số người thuộc hàng quý tộc, quan lại, dù ít hay nhiều cũng hiểu biết về học thuyết âm dương, hiểu biết vận mệnh. Vị quan này có gia sản lớn, con cháu đầy đàn nhưng lại thường mang vẻ u sầu trong lòng. Ông thường xuyên thở dài, lộ rõ vẻ lo lắng ra mặt.
Một lần, ông ngẫu nhiên gặp một lão nông. Ông lão nông dân này biết rõ vị quan lớn kia nên hỏi: “Ngài đã giàu có như thế, tiền của mấy đời con cháu cũng tiêu không hết, sao ngài còn phải thở dài?”
Vị quan lớn này nói: “Ông nhìn hai đời sau trong nhà ta mà xem, đời sau lại không bằng đời trước, thực sự là giàu không thể quá ba đời. Khi cháu trai bằng tuổi của ta, e rằng sẽ tiêu hết gia sản, nói không chừng còn có họa sát sinh.”
Ông lão nông dân không hiểu, vị quan lớn lại giải thích: “Ta quan sát và đoán biết được, thế hệ sau trong gia tộc nhà ta, từ nhỏ chúng đã được hậu đãi nên từ nhỏ chúng cũng đã tùy tiện làm xằng bậy, dưỡng thành thói quen hưởng thụ.
Hai đời sau này việc gì cũng không làm, chúng cảm thấy hết thảy những gì chúng đang hưởng đều là những thứ nên được. Loại nhận thức ấy, sớm hay muộn cũng dẫn đến vong bại thôi.”
Nói xong, vị quan lớn lại chỉ vào ông lão nông dân còn đang trơ mắt nhìn, nói: “Ông đã sống đến tuổi này rồi, trên mặt nhiều nếp nhăn vàng, nên chắc chắn cả đời đã làm không ít việc thiện. Vô luận là ông hiện tại khổ bao nhiêu thì sau này con cháu đều được hưởng âm đức của ông mà giàu sang bấy nhiêu.”
Câu chuyện xưa nói cho chúng ta một đạo lý rằng, giàu và nghèo là có sự biến hóa. Nếu một người tích lũy nhiều hơn, cần kiệm hơn thì tự nhiên sẽ có phú quý và được hưởng thụ. Còn một người chỉ lo hưởng thụ nhiều hơn, thì tự nhiên cũng sẽ khốn cùng, rách rưới.
Người xưa nói: “Vương hầu tương tương, trữ hữu chủng hồ”, có ý khuyên răn mọi người rằng: Là Vương Hầu cũng vậy đều không phải trời sinh đã có địa vị cao quý, là người bình thường nhưng biết cố gắng, làm nhiều việc thiện, tích được đại đức thì cũng có thể thay đổi được vận mệnh. Ngược lại, người mà trời sinh đã giàu có sung sướng nhưng nếu chỉ biết phóng túng bản thân, khi hưởng hết phúc rồi thì cũng trở nên nghèo khổ.
Cho nên, cổ nhân cũng dạy rằng: “Phúc bất tận hưởng”, tức là phúc thì không nên hưởng hết, phải luôn bồi đắp, bởi vì khi phúc đã hưởng hết thì họa tất sẽ đến!
Câu chuyện xưa nói cho chúng ta một đạo lý rằng, giàu và nghèo là có sự biến hóa. Nếu một người tích lũy nhiều hơn, cần kiệm hơn thì tự nhiên sẽ có phú quý và được hưởng thụ. Còn một người chỉ lo hưởng thụ nhiều hơn, thì tự nhiên cũng sẽ khốn cùng, rách rưới.
Người xưa nói: “Vương hầu tương tương, trữ hữu chủng hồ”, có ý khuyên răn mọi người rằng: Là Vương Hầu cũng vậy đều không phải trời sinh đã có địa vị cao quý, là người bình thường nhưng biết cố gắng, làm nhiều việc thiện, tích được đại đức thì cũng có thể thay đổi được vận mệnh. Ngược lại, người mà trời sinh đã giàu có sung sướng nhưng nếu chỉ biết phóng túng bản thân, khi hưởng hết phúc rồi thì cũng trở nên nghèo khổ.
Cho nên, cổ nhân cũng dạy rằng: “Phúc bất tận hưởng”, tức là phúc thì không nên hưởng hết, phải luôn bồi đắp, bởi vì khi phúc đã hưởng hết thì họa tất sẽ đến!
GIỮA BÃO GIÔNG CÂY CỎ VẪN ĐÂM CHỒI
Thái Uyên Sa
Tôi mang trên vai hơn nửa đời người
Vì quen sống giữa trần gian tĩnh lặng
Nên trải niềm riêng với lòng thành khẩn
Sợ lạc loài trong xã hội nhá nhem
Xót quê hương mang niềm đau khâm liệm
Một niệm từ sao vỡ biết hỏi ai
Khi những mặt người biến hình thành cáo
Lạnh lùng nhìn đất lở cuốn trẻ thơ
Hãy quên thời gian quên dòng nước chảy
Để lại gì ngoài tan nát oán than
Mẹ ôm xác con mắt nhìn nhỏ máu
Đến bao giờ hèn sang biết thương nhau
Ngỡ ngàng nhìn tay đóng cửa bàn tay
Dẫu đêm khuya hay ngày vừa thức dậy
Giá buốt chiều mưa nặng cuộc chia ly
Khi đồng bào ta ôm lận đận vì...
Hởi Mẹ Việt Nam yêu từng nhịp thở
Hởi mặt trời luôn ủ ấm quê hương
Niềm chua xót đã lớn lên thành núi
Cuồng phong nào mang tàn lụi thành sông
Hãy tìm sâu trong nỗi buồn ghê gớm
Hãy gào to lời nguyền rủa bất công
Để ta nghe giữa vô cùng cao rộng
Giữa bão giông cây cỏ vẫn đâm chồi
Để tiếng lòng ta vẳng tận xa xôi
Làm vỡ nốt những suy đồi hoang tưởng
Để đất nước không còn buồn vất vưởng
Bốn mươi năm hãy trả lại thiên đường...
Cuộc chiến nước mắm và hội hãm hại người tiêu dùng.
Bạch Hoàn
Mỗi năm, người Việt ăn 200 triệu lít nước mắm. Tổng doanh thu của ngành này ước khoảng 11.300 tỉ đồng. Con số khổng lồ này khiến nhiều năm qua, người tiêu dùng trở thành con rối trong cuộc chiến giữa nước mắm công nghiệp với nước mắm truyền thống.
Nhãn hàng phổ biến nhất hiện nay là nước mắm Nam Ngư, chiếm 45% thị phần toàn ngành. Đây là sản phẩm nước mắm công nghiệp, của Tập đoàn Masan. Tuy nhiên, bài viết này không nhằm quảng cáo cho Nam Ngư. Chắc chắn là vậy.
Tôi muốn nói đầy đủ hơn về những thông tin đằng sau câu chuyện nước mắm nhiễm Asen (thạch tín) công bố hôm 17-10. Thạch tín được khẳng định là chất cực độc.
Trước tiên là các sự kiện ngẫu nhiên trùng hợp về việc kiểm nghiệm và công bố kết quả 67% nước mắm nhiễm Asen vượt ngưỡng.
Điểm đáng lưu ý, các mẫu bị nhiễm Asen vượt giới hạn tối đa 1ml/lít đều là nước mắm truyền thống. Trong khi đó, tất cả các mẫu nước mắm công nghiệp có hàm lượng Asen nằm trong giới hạn cho phép. Đương nhiên, nhóm này có nước mắm Nam Ngư.
Ngày 10-10-2016, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chỉ đạo kiểm tra thông tin liên quan đến thành phần hoá chất trong nước mắm công nghiệp.
Ngày 11-10-2016, Masan có thông cáo báo chí cho biết đã gửi công văn kiến nghị các cơ quan quản lý nhà nước thanh tra ngành nước mắm, chú trọng việc tuân thủ quy định về giới hạn ô nhiễm kim loại nặng, đặc biệt là Asen.
Ngày 14-10-2016, Hội bảo vệ người tiêu dùng VN (Vinastas), công bố thông tin đã tiến hành lấy 150 mẫu nước mắm kiểm nghiệm, trong đó chỉ đích danh kiểm nghiệm hàm lượng Asen.
Ngày 17-10-2016, Vinastas họp báo công bố kết quả kiểm nghiệm nước mắm nhiễm Asen vượt ngưỡng là những loại nước mắm có độ đạm cao (một trong những tiêu chí đánh giá chất lượng nước mắm).
Thời sự trên VTV thấy nói, Asen vượt ngưỡng là không an toàn. Người tiêu dùng đương nhiên hoang mang cùng cực. Vinastas rõ ràng vô cùng quyền lực.
Bây giờ, tôi sẽ tìm lại quy định về ngưỡng Asen trong nước mắm.
Năm 2012, Bộ Y tế ban hành quy chuẩn kỹ thuật đối với nước mắm. Trong đó, giới hạn Asen trong được áp dụng theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với giới hạn ô nhiễm kim loại nặng trong thực phẩm. Quy chuẩn này ban hành năm 2011, trong đó giới hạn Asen tối đa trong nước chấm là 1mg/lít.
Đáng lưu ý, mục tính toán lượng Asen chấp nhận được được ghi rõ là Asen vô cơ. Có thể hiểu, quy chuẩn 1mg/lít phải được hiểu là Asen vô cơ? Đây mới là chất cực độc.
Còn một loại Asen khác là Asen hữu cơ. Hiện chưa có bằng chứng cho thấy Asen hữu cơ gây độc. Khảo sát của Vinastas không phát hiện Asen vô cơ mà chỉ có Asen hữu cơ. Hơn nữa, quy chuẩn quốc gia không đề cập đến giới hạn nồng độ Asen hữu cơ, nên Vinastas không thể kết luận 67% nước mắm có Asen vượt ngưỡng.
Theo các nhà khoa học, nước mắm có độ đạm càng cao (nước mắm truyền thống) thì hàm lượng Asen hữu cơ càng lớn. Nước mắm độ đạm thấp, tức bị pha loãng, thì hàm lượng Asen hữu cơ nhỏ. Thế nên, không biết việc kiểm tra Asen và công bố chung chung không tách biệt vô cơ, hữu cơ là chủ ý của Vinastas hay của nhà tài trợ cho cuộc kiểm nghiệm, nhưng rõ ràng cách làm ấy có thể góp phần giết chết ngành nước mắm truyền thống.
Với tư cách là người tiêu dùng, tôi đề nghị Vinastas phải xin lỗi người tiêu dùng. Đồng thời, phải có trách nhiệm công bố đơn vị giấu mặt đã tài trợ tiền cho cuộc khảo sát. Nếu hội còn kiên quyết bao che, giấu kín đơn vị đã bỏ tiền làm cuộc khảo sát lập lờ đánh lận con đen này, hội này phải gọi tên là Hội hãm hại người tiêu dùng, hoặc hội hãm hại doanh nghiệp nhỏ.
Hãm hại doanh nghiệp nhỏ thì ai được lợi? Tôi không biết.
Nhưng tôi nhớ, hồi tháng 6, tháng 7-2016, Vinastas làm một cuộc khảo sát ở ngành cafe và công bố kết quả 30% cà phê không có cà phê, được gọi là cafe bẩn. Ngẫu nhiên, từ 1-8-2016, một công ty thuộc Masan cho ra đời sản phẩm cafe 100% từ cafe. Họ kí cam kết với Vinastas sẽ làm cafe sạch.
Mọi thứ có vẻ trùng hợp nên tôi không bình luận gì thêm.
Nếu ai muốn biết thêm về nước mắm "thượng hạng", "quốc hồn quốc tuý" quảng cáo trên tivi thì đọc thêm bài viết này cũng được ạ.
http://vietnamnet.vn/…/nuoc-mam-thuong-hang-15-ngan-chai-ti…
Thứ Ba, 18 tháng 10, 2016
Những cái bất ngờ lý thú khi tìm hiểu tiếng Việt và nguồn gốc Nam Á của nó Nguồn gốc tiếng Việt
Written by Nguyễn Hy Vọng
Theo các nhà ngữ học Mỹ thì tiếng Mỹ là thứ tiếng nói đã vay mượn rất nhiều từ ngữ của các ngôn ngữ khác trên khắp thế giới, vì thế mà nó rất dồi dào và sống động, trở thành tiếng nói số một của loài người, hiện nay.
Theo tôi thì tiếng Việt cũng không thua kém chi , nếu ta đặt nó vào cái hoàn cảnh lịch sử khó khăn của đất nước Việt qua hơn hai ngàn năm nay.
Hiện nay, tiếng Việt đứng hàng thứ 12 trên thế giới về số đông người nói và đang lan ra khắp thế giới tự do từ cái biến cố lịch sử 30 tháng tư 1975.
Tiếng Việt có một nguồn gốc rất là đa dạng vì qua 2,3 ngàn năm, nó đã lai giống với rất nhiều tiếng Mon, tiếng Khmer, tiếng Thái, tiếng Lào, tiếng Chàm , tiếng Malay, và đã vay mượn rất nhiều tiếng Tàu mà xài, rồi thì trong trăm năm vừa qua lại đã mượn hàng trăm tiếng Pháp như mũ bêrê, cái kilo, cái gara, vải kaki, bình accu…
Hiện nay thì tiếng Việt đã mượn rất nhiều và rất tự nhiên thoải mái hàng ngàn tiếng Anh Mỹ như computer, battery, charge… kể ra vô số, mượn như thế, sau một thời gian sẽ việt hoá chúng nó hoàn toàn và chúng nó sẽ trở thành tiếng Việt luôn. Đó là một điều rất hay, tiếng Việt sẽ dồi dào thêm, có thêm nhiều ngữ vững, nhiều cách nói, nhiều cách phô bày tư tưởng.
Nhưng ta nên biết rằng dù có nói bao nhiêu từ ngữ mà nguồn gốc khác nhau đi nữa, ta cũng chỉ có một cách viết là thứ chữ abc của ta hiện nay, ta không còn viết chữ nôm nữa và ta không còn biết viết chữ Tàu nữa, và sẽ không bao giờ.
Như trong câu nói sau đây :
cho xe vô gara rồi check giùm cái battery, nếu hết sạc thì câu điện giùm, rồi vô nhà coi công tơ tháng này tiền nước bao nhiêu !
Có đến 6 thứ tiếng khác nhau của khắp thế giới trong câu nói ngắn gọn đó mà ta đâu ngờ [Việt, Hán Việt, Tàu, Pháp, Anh-Mỹ]
Một chuyện lạ hơn nữa là cách đây hơn hai ngàn năm, khi ông bà ta chưa biết đến người Tàu và tiếng Tàu, chữ Tàu thì họ đã dùng và xài hàng ngàn tiếng một của hàng chục ngôn ngữ ở Đông nam Á châu, mà từ lâu ta cứ tưởng như đó là tiếng Việt của chúng ta mà thôi.
Thật ra khi ta nói thiết tha tha thiết thì đó cũng là tiếng Thái
vắng vẻ thì nó cũng là tiếng Lào
đủng đỉnh thì đó cũng là tiếng Thái
vơ vẩn vẩn vơ thì đó cũng là tiếng Lào
khi ta nói chân tay, dơ chân dơ tay lên thì nó là tiếng Miên
và nói một ngày, một hai ba bốn năm thì đó cũng là tiếng Miên
Cách đây 200 năm, cụ Nguyễn gia Thiều đã viết
"trẽ tạo hoá đành hanh quá ngán"
thì đành hanh là tiếng Chàm đó bạn ơi [có nghĩa là ganh ghét, ganh tị]
Cách đây 600 năm, cụ Nguyễn Trãi đã viết :
" Tuy rằng bốn bể cũng anh tam"
thì tam cũng là gốc Mã lai đó bạn ơi [htam có nghĩa là đứa em trai nhỏ tuồi]
Cụ ấy cũng viết rằng : " hai chữ công danh tiếng vả vê"
đó là tiếng Lào, có nghĩa là "trống vắng"
Khi ta nói cái đùi cui [trong nam] còn ngoài bắc thì nói là cái "dùi cui" thì 250 triệu người Indonesia hiện nay cũng nói là "đul kul" gần như y hệt !
Còn như hai tiếng "nôm na" mà ai cũng tưởng rằng nôm là nam , vậy thì na là gì ?
Thật ra "nôm na" có nghĩa gốc là xưa cũ lâu đời, đã có từ lâu
Các từ điển Lào, Thái, Khmer đều có ghi, viết, đọc, và giải thích hai chữ ấy và đều có giải thích rõ ràng như vậy
Tiếng Nôm là tiếng nói xưa của người nước ta, đã nói như vậy từ lâu, trước khi ông bà ta gặp người Tàu.
Còn nhiều nữa, rất nhiều nữa, cả thảy 27,400 tiếng một như vậy, ta đã cùng nói, cùng xài chung, dùng chung, mà nguồn gốc là từ nhiều ngôn ngữ anh em đồng nguyên chung quanh nước Việt của ta.
Không có một tiếng Việt nào mà không có chung gốc gác với các tiếng nói anh em chung quanh ta [gốc gác cũng là tiếng Thái đó, các bạn ơi ! họ nói là rốc rác và có nghĩa là gốc và rễ, nghĩa bóng là giòng giõi, giòng giống đó !
Các tiếng nói ở Đông nam Á [Khmer, Lào, Thái, Chàm, Malay, Indonesia, Nùng, Hmong, Bahnar, Rhade, v.v..], đều bao bọc tiếng Việt trong một vòng dây thân ái của tình anh em ngôn ngữ chung giòng, chung họ hàng bà con, mà mấy lâu ta không biết đến đó mà thôi.
Nhưng tiếng Việt có một điểm rất lạ, dễ thì thật dễ mà khó thì cũng thật khó, vì mấy lâu nay, ta cứ tưởng là ta nói và viết được tiếng Việt là ta hiểu được tiếng Việt ?
Thật ra ta ta không hiểu dược tiếng mẹ đẻ của ta nó ra làm sao cả !
Ta nói và viết đau đớn mà ta không hề biết đớn là gì
[đớn là tiếng Mon bên Miến điện có nghĩa là đau cái đau của lòng mình]
Ta nói rộn rịp mà không hiểu rịp là gì
[rịp là tiếng Lào Thái đó bạn, có nghĩa là bận việc]
Ta nói săn sóc, chăm sóc mà ta chẳng hiểu săn là gì mà sóc là gì
[săn là theo dõi, sóc là sức khỏe đó bạn ơi !/ gốc Pali, Sanskrit]
Có cả thảy chừng 10,000 tiếng đồng nguyên, gốc gác như thế.
Thành thử, dù ta có biết chữ Nôm, chữ Tàu thật nhiều đi nữa, ta vẫn không thể nào biết được ý nghĩa tiếng Việt của ta đâu !
Biết thêm vài ba ngàn tiếng Pháp, tiếng Anh, chữ Tàu, chữ Nôm thì cũng tốt thôi, ta sẽ trở thành một thứ học giả bất đắc dĩ, đừng tưởng rằng như vậy là đã thông suốt tiếng Việt
Cái điều kiện chót này đòi hỏi phải có một khả năng hiều biết ý nghĩa, nguồn gốc của mỗi một tiếng Việt, từ A cho đến Xược, mà con số lên đến # 10 ngàn tiếng một.
Chỉ có một cách qua được cái khó khăn vượt bực đó. Phải có một bộ Từ điển nguồn gốc tiếng Việt , tham khảo tất cả 58 thứ ngôn ngữ lớn nhỏ khắp miền nam Á châu, chúng nó đều có phần đóng góp âm thanh, giọng nói và ý nghĩa gốc gác, làm nguồn cội thôi nôi cho mọi từ mọi ngữ trong tiếng mẹ đẻ của chúng ta, và đó là bộ từ điển sắp ra mắt người Việt trên toàn thế giới, cho xứng đáng với câu nói đầy khen ngơi của nhà ngữ học Leonard Bloomfield :
"Vietnamese, a great cultural language"
Mong một dịp sau, sẽ trình bày và ra mắt toàn thể bộ từ diển đó cùng quý vị và các bạn
NHỮNG CÁI BẤT NGỜ LÝ THÚ
trong khi tìm hiểu tiếng Việt và nguồn gốc Nam Á của nó
(Tác giả: Nguyễn Hy Vọng)
Có một nhà ngôn ngữ học rất đặc biệt là ông Paul Benedikt.
Ông này, có lần đến Sàigòn chỉ một ngày mà tìm ra bao nhiêu là tiếng Việt dính líu với các tiếng khác ở Đông Nam Á, và ông này đã viết nhiều về những gì mà tiếng Tàu đã vay muợn của các tiếng nói khác ở Đông Nam Á, giải tỏa cái huyền thoại sai lầm là ai cũng muợn tiếng và chữ Tàu mà dùng, trong khi tiếng Tàu chẳng cần mượn tiếng của ai cả.
Những khám phá mới của ông Benedikt đã đảo nguợc vấn đề ai muợn của ai và làm sáng tỏ thêm về sự đóng góp đáng kể cho tiếng Tàu từ những tiếng khác của các dân tộc trong vùng Đông Nam Á [South East Asian linguistic influence upon the Chinese]
Từ 1967, các ông Benedikt và Jerry Norman nghi ngờ về tên của các con vật năm tuổi / tý sửu dần mão v.v… là do Tàu muợn của các tiếng nói Đông Nam Á.
Những chữ Tàu ấy rất lâu đời, đuợc viết lên các mảnh xương từ mấy ngàn năm về truớc, khi miền nam sông Dương tử chua phải là nơi sống của nguời Tàu [theo ông Shafer trong sách Ancient China].
Thật ra, từ năm 1935, nhà khảo cổ George Coedes có nhắc đến tên các con vật trong con giáp [chuột, trâu, bò, thỏ, rồng. rắn v.v…] sao mà giống nhau quá giữa các tiếng Khmer, Lào, Thái và Muờng, Việt, mặc dầu hồi đó, cách đây 70 năm rồi, ai cũng tin là tiếng Việt là do tiếng Tàu mà ra [Phạm Quỳnh] và rất nhiều ông Hán Việt khác, ngay cả gần đây, ông Nguyễn Phương, Đại Học Huế, còn cho là:
…nguời Việt là nguời Tàu qua đất Việt ở mà thành ra nguời Việt [sic] …trời đất !
Suốt 22 năm qua, không những tôi đã cóp nhặt đuợc rất nhiều tài liệu ngôn ngữ so sánh [comparative linguistic, cognates studies] chứng tỏ một cách rõ ràng là các tiếng nói ở Đông Nam Á đều có chia xẻ một nguồn gốc chung, mà có rất nhiều tên hoa, trái, lá, câyvà những con thú vật đều đuợc các ngôn ngữ trong vùng đó gọi tên giống nhau và đặc biệt là tên các con vật năm tuổi.
Sau đây là bảng so sánh lý thú mà các bạn đọc chỉ cần nhìn vào thấy ngay sự giống nhau giữa các tiếng nói anh em ở Đông Nam Á, và thấy ngay sự khác biệt với tiếng Tàu.
Các bạn đọc người Thái, Lào hay Khmer, Mường cũng có thể đọc ngay chữ của họ và thấy ngay sự giống nhau quá chừng với tiếng Việt của ta,
Có hàng ngàn bảng so sánh khác trong quyển Từ điển các tiếng đồng nguyên với tiếng Việt ở Đông Nam Á gồm cả thảy 275 ngàn tiếng một lẫn tiếng ghép [compound words] đồng nguyên với nhau [cognatics] làm thí dụ và bằng chứng cho nguồn gốc Nam Á của tiếng Việt vững chắc như đinh đóng cột, trong khi giả thuyết tiếng Việt từ tiếng Tàu mà ra đã bị ê-kíp ngôn ngữ học của Encyclopedia Britanica bác bỏ [xem đoạn trích dẫn sau đây].
Tiếng Việt do đâu mà ra, ở đâu mà có và lúc ban đầu nó như thế nào?
Hãy nghe những nhận xét mới mẻ nhất về nguồn gốc tiếng Việt từ Encyclopedia Britanica 1999 và Encarta Microsoft 2000:
…a long held notion that identified the Vietnamese with one tribe of the Yueh of Southern China has been abandoned…
…the theory that regards them [the Yueh] as direct ancestors of the Vietnamese conflicts with ethnographic and biological evidences.
…Quan niệm lâu đời cho rằng nguời Việt là một trong những bộ lạc Yueh hồi xưa ở miền nam nuớc Tàu bây giờ; quan niệm ấy đã bị gạt bỏ…
…cái giả thuyết cho rằng dân Yueh ở bên Tàu là tổ tiên trực tiếp của dân tộc Việt mâu thuẩn với những bằng cớ dữ kiện nhân chủng và sinh học hiện đại
All points to strong social and cultural affinities between the Vietnamese and people of the Tai and Indonesian families
…the Vietnamse people represents a racial and cultural fusion…
Mọi [sự kiện] đều cho thấy rằng có nhiều điểm rất giống nhau về văn hóa và xã hội giữa các giống nguời Việt, nguời Thái [gốc Tai] và nguời Indonesian
…modern day Vietnamese share many cultural and lingistic traits with other non-Chinese peoples living in neighboring areas of Southeast Asia
…the Vietnamsese language is distinct, it can be described as a fusion of Mon-Khmer, Tai and Chinese elements
…nguời Việt ngày nay chia xẻ nhiều nét văn hóa và ngôn ngữ với nhiều dân tộc không phải là Tàu, đã và đang sinh sống ở những vùng lân cận với họ tại Đông Nam Á.
…cái tiếng nói của họ thì riêng cho họ, có thể xem như là một hỗn hợp giữa dòng tiếng Mon-Khmer, các tiếng Tai và tiếng Tàu
It is now generally believed that the Lac people were the result of a mixture between Australo-Melanesian inhabitants who had lived in the area since the Paleolithic times and Asiatic people from China, who later migrated into the area.
Ngày nay nguời ta đồng ý nghi rằng các bộ tộc dân Lạc [Tàu nói là Lo] xua là kết quả của một sự lai giống giữa các nguời Australo Melanesian [Nam đảo/các đảo miền nam] đa sinh sống tại chỗ, với các sắc dân Á châu [không cứ gì nguời Tàu] đã tràn xuống, mãi về sau này.
The official language of Vietnam is the Vietnamse, a member of the AstroAsiatic language family, a distinct language although it has some similarities to other languages of Southeast Asia and to Chinese.
Its syntax is closer to Khmer
Tiếng Việt là tiếng nói chính thức của nguời Việt Nam, một nhánh ngôn ngữ của dòng họ AstroAsiatic [Nam Á][miền Nam Á châu] một thứ tiếng nói riêng biệt mặc dầu nó có nhiều sự giống nhau với các tiếng nói khác ở Đông Nam Á và cả với tiếng Tàu nữa.
Ngữ pháp [cách nói và đặt câu] của tiếng Việt giống với ngữ pháp của tiếng Khmer(theo Encarta Microsoft 2000)
Những lời nói trên là những gáo nuớc lạnh dội lên lưng những ai còn nghi là tiếng Việt chỉ là một thứ con rơi con rớt , con hoang, con nuôi của tiếng Tàu.
Ông Huỳnh Tịnh Paulus Của đã viết trong bài mở đầu của từ điển Đại Nam quốc âm tự vị [1895]:
“ấy nguời Giao chỉ điêu tàn thì tiếng nói cùng chữ nghia Giao chỉ cung phải lạc…nếu chẳng tham dụng chữ Trung quốc thì sao cho thành tiếng nói An nma? [sic]
Chú ý: chẳng qua là ông ta lầm cái tiếng với cái chữ, và đặt cái cày trước con trâu!
Ông Phạm Quỳnh đã nói cách đây 80 năm rằng:
…quốc văn ắt phải có nguồn gốc từ đâu mà ra, và nguồn gốc ấy tức là Hán văn, quốc văn là cái văn từ nguồn gốc chữ nho [sic] không thể bỏ chữ nho mà thành lập đuợc.
Ông Phạm Duy Khiêm, đã nói, khi cọng tác với cụ Trần Trọng Kim làm quyển Việt Nam văn phạm rằng:
cette langue est encore au stade des langues tribales [sic]
tiếng Việt đang còn ở giai đoạn ngôn ngữ của một dân tộc thiểu số [sic]
chú ý: hiện nay tiếng Việt có độ 80 triệu nguời nói và đứng thứ 14 về số đông nguời nói trên thế giới! Hai ông ấy lầm to !
Ông Lê Ngọc Trụ, cách đây 40 năm, nhìn đâu cũng thấy tiếng Tàu, nên guợng ép gán cho rất nhiều tiếng Việt, từ Việt,những cái âm huởng đồng nguyên giả tạo [false cognatic inference] với tiếng Tàu hay âm Hán Việt mà không hề đưa ra bằng chứng có thật về đồng nguyên với các ngôn ngữ khác ở Đông Nam Á:
chỉ sinh ra [sic] giấy
tranh sinh ra giành
chủng sinh ra giống
chính sinh ra giêng[sic] [chính nguyệt là tháng giêng !]
khang sinh ra xương
cấp sinh ra gấp
cuong sinh ra giềng [-mối]
tiết sinh ra Tết
tải [chuyên chở] sinh ra chài [ghe chài][?!]
Ta hãy xem dưới đây nguồn gốc [cognates] thật sự của các tiếng trên để thấy cách suy luận ngẩu hứng [wishful thinking] của ông ấy:
GIẤY [paper/papier]
Muờng: k-chấy
Burma: s-giuếy
[nếu bảo là âm này là Tàu thì tại sao nguời Muờng và Burma phát âm giống như Việt ?
GIÀNH [to dispute, compete, vie for, to accaparate, take away from][se disputer, entrer en compétition, s’emparer de]
Muờng: chènh, chèng
Nùng: cheng tranh giành
Thái: pr-chành
gièng
chjing giành nhau
Mon: k-giành
Khmer: pr-chèng
kòn-nhèng
tròn-chèng
Indonesia: saing giành giựt
[nếu bảo là do chữ tranh của Tàu mà ra thì tại sao không nói cạnh giành, giành thủ, giành chấp, chiến giành mà lại nói là cạnh tranh, tranh thủ, tranh chấp, chiến tranh?]
GIỐNG [species, gender, race][espèce, genre, race]
Hmong: t-zống
Thái: kh-yòng
kh-giống / cả Việt Thái Hmong đều có chung tiếng này
GIÊNG # tháng giêng [first month of the lunar calendar][premier mois lunaire]
[không phải do chữ chính mà ra, vì nguồn gốc của nó khác hẳn:]
Thái: chiêng giêng
đươn chiêng tháng giêng
đuon kiêng tháng giêng
Nùng: chiêng giêng
hươn chiêng tháng giêng
Lào: đươn giêng tháng giêng
Burma: a-yiêng [đầu tiên, truớc hết]
Pali/Sanscrit: yir -id-
Chàm: bulăn dhir tháng giêng
[nếu bảo là do chữ chính ? của Tàu mà ra, thì tại sao lại không nói giêng trị, giêng quyền, giêng sách [sic] v.v. mà lại nói chính trị, chính quyền, chính sách ?]
XƯƠNG [bone][os]
Một tiếng rất hay nói: [bộ-, - xóc, gãy –, v.v.] mà ông Lê Ngọc Trụ gán cho nó một âm huởng Hán Việt là khang [sic], trong khi hàng chục đồng nguyên của hàng chục ngôn ngữ anh em với tiếng Việt duới đây, cho thấy quá rõ nguồn gốc rừ đâu:
Muờng: xang
Nùng: xang
Khmer: x-uang
Aslian[bên Malyasia] xuong
Hmong/Mèo: x-âng
Bahmar: x-ang, k-xang
Sedang: k-siang, k-xiang
Katu, Bru: ng-ang
Rengao: k-xâng
Mdrah, Didrah, Todrah:
[gần Kontum] k-xeng
Palaung/Wa: x-ang
Mundari, Santali
[Đông bắc Án] xang, zang, jang
[hàng chục sắc dân này đâu có dính dáng gì đến Tàu đâu, thế họ đều phát âm như Việt vậy]
GẤP [hurried, hasty, urgent][urgent, en hâte, hâtif]
Malay: gapah gấp
Thái: khu-ấp “
khấp “
k-kấp k-kap gấp gáp!
hu-ấp háp id
h-ngốp hngap id
Khmer: hi-ấp id
Saora[dòng Munda] s-gấp id
Lào: hấp/rấp id
hấp rịp gấp và rộn rịp!
hấp pày đi gấp
Chàm: h-gấp gấp, vội
[cả vùng ngôn ngữ Đông Nam Á mấy trăm triệu nguời cũng nói vậy, đâu phải chỉ là vấn đề riêng giữa Việt và Tàu đâu mà bảo là gốc Tàu!]
GIỀNG [ giềng mối]
English: established customs, habits, patterns of transaction, business or ways of life
Français: coutumes, habitudes de vie, pratiques de transactions
Một chữ nghe âm huởng rất là Việt và có vẻ quê mùa, vậy mà dính gốc với Thái Lào thuần ròng và đúng điệu!
Thái: yiềng [kiểu cách, cách thức, đuờng lối]
ji êng -id-
Khmer: riềng hình thức, kiểu mẫu, mô hình
Lào: yiềng sự sắp xếp, xếp đặt,dàn xếp
[chữ giềng tự nó có nguồn gốc rõ ràng, cần gì phải guợng ép bắt nó dính líu vào chữ cương của Tàu?]
CHÀI [kẻ -, ông -, nguời -, bạn -, tay -, thuyền -, đi - , làm nghề -, thả -, kéo -, đan -, quăng -, cất -, dở -, vạn -, làng -//chóp -, nắm chóp -]
-chài là cái luới, cái rớ, cái đồ đánh cá, dụng cụ để bắt cá
-chài là tung ra, rải ra,quăng ra, vất ra, ném ra, lia ra, liệng ra, làm cho bung ra, tung ra
-chài (nghia bóng) là quyến rủ, dụ dỗ, mê hoặc, nhử cho ai bị mắc bẫy, mắc luới, vào tròng [chài gái, chài yểm , đi chài kẻ khờ khạo]
Eng : fish net, fish trap/to throw a fish net, to set a fish trap // to trap, to entrap to lure into entrapment, to catch with a snare, to ensnare
Fr : filet de pêche, épervier, tramail, carrelet de pêche / jeter l’épervier
/ jeter un sort, envouter, captiver qq par des paroles douceureuses
Pali/Sanscrit /Thái:
chal cái chài [# luới, rớ]
Lào : chal cái chơm tre để chơm cá
Chàm: chal cái chài, luới cá, rớ cá
thrah chal # thả luới, thả rớ để bắt cá
Indonesia:
jala cái chài [luới, rớ, dụng cụ bắt cá]
Mata jala mắt luới
TẾT [ngày -, ăn -, chúc -, lễ -, hội -, mừng -, đi -, biếu -, quà -, sắm - // - nhất,- ta, - tây, v.v.]
Tết là ngày hội hè đầu năm.
Eng : lunar new year festival, celebration, holidays
Fr : nouvel an oriental, du calendrier lunaire
Một tiếng nhức nhối về ý nghĩa, các ông Hán Việt cho là nó đọc trẹ cái âm của Tàu là tiết(season, time, climate change)Từ điển Huỳnh Tịnh Của: tiết đầu năm [sic]
Từ điển Khai trí tiến đức: không hề cho rằng tết là tiết
Từ điển của A, de Rhodes: có nhắc đến những từ ngữ : tết năm, tết ai, ăn tết.
* Nhưng coi chừng, cả mấy chục ngôn ngữ của Đông Nam Á không dính dáng gì đến Tàucũng nói như vậy! Coi chừng bé cái lầm. Sự thực, cái lầm này không bé tí nào, nó lầm lớn lắm và lầm lẫn đã hơn hai ngàn năm nay rồi, hãy xem xét trong các ngôn ngữ sau đây:
Nùng: Tét Tết
niên Tét năm Tết
Chàm: Băng Tít ăn Tết [băng là ăn]
Tít Tết [lễ tháng năm của lịch Chàm]
bùlăn Chết tháng Tết
Khmer Chêtr lễ tháng Năm [lịch xưa của Khmer]
tháng gió mùa bắt đầu thổi nguợc lại
tháng của mùa gió Nồm ở Đông Nam Á
tháng của mùa mưa đến trên lục địa Ấn và miền ĐNA
[Tùy theo vị trí từng nuớc, mưa đến với gió mùa từ cuối tháng tư đến cuối tháng năm] tên tháng 4 và tháng 5 của lịch Ấn xưa
khae Chêt tháng Tết [tháng 4 dương lịch] khae là tháng tháng Tết Khmer # 13 tháng tư dương lịch
# 23 tháng ba âm lịch
Chêt khal thời gian có lễ Tết ấy
[khal là thời gian, lúc, khi]
Thái:
Thết
Thết khal /mùa Tết, những ngày Tết
[annual celebration /new year propitius ritual]
Thết Thày Tết Thái [Thái new year ritual celebration]
Trếts # Tết [trong từ điển Francais-Thái của Pallegoix]
Trêts chền Chinese new year
[chền là Tầu]
Chêtr fifth lunar month # mid April
Trôts lễ hội đầu mùa mưa của lịch Thái xưa, cuối April-May
Trôts farăng dịch là Tết hoa lang [western new year]
chú ý: farăng # hoa lang # occidental, western do đó mà có đạo Hoa lang # đạo Thiên chúa
Zhuang: SIT Tết của nguời Zhuang bên quảng Tây, một bộ tộc thuộc dòng Tai, họ đông đến 25 triệu nguời, nói tiếng Thái xưa
đuon Sit tháng tết [yearly monsoon festival ritual celebration]
Mon: k-Têh first days of Mon new year
Nepal: Teej [Teetj Brata] lễ đầu năm của nguời Nepal [theo báo Nguời Việt, Oct 9,1992, số 305]
Mustang: Tij, Tiji ngày lễ mùa mưa đến [xứ Mustang ở sát với Nepal]
Đông Bắc Ấn Độ: Teej # monsoon festival
[theo NationalGeographic] : swinging in celebration, village girls sing the ancient melodies of Teej, the festival marking the return of the monsoon and the promise of prosperity
Sau cùng, cái cú dứt điểm [knoch out punch]
chấm dứt cái quan niệm sai lầm 2100 năm
của chúng ta là cú [coup] này:
Chính Khổng tử cũng không hề nói Tết là do tiết mà ra! Ông nói rằng:
…ta không biết Tết là gì! Nghe đâu đó là một ngày lễ hội lớn của bọn nguời Man [sic] họ nhảy múa nhu điên, uống ruợu và ăn choi vào những ngày đó mà không phải là những ngày đầu năm của chúng ta. Nghe đâu họ gọi là Tế-sạ [sic] [theo kinh Lễ ký]
Nếu Khổng tử nghĩ rằng tiết sinh ra tết, sao lại còn đi phiên âm khá vụng về là Tế-sạ làm gì? Chữ tiết của Tàu, dù là đời Khổng tử đi nữa, làm sao mà trẹ cái âm thành Tế-sạ đuợc?
Bởi vì ổng không nghĩ như thế!
Rồi không lẽ ổng không nghĩ như thế mà ta lại cứ khư khư bo bo mà suy nghĩ như thếlàm gì nhỉ, hơn nữa, có cả chục ngôn ngữ khác chẳng ăn thua gì đến tiếng Tàu cũng lại nói trại trại trẹ trẹ # Tết …y như ở trên, làm ta phải suy nghĩ lại về cái hiểu lầm tết # tiết.
Bấy nhiêu cũng đủ đánh gục cái quan niệm hời hợt giả tạo là tiếng Tàu tiếng Việt một lò mà ra [sic]
Ông ấy lại còn viết:”trong sự truy nguyên, còn xét những tiếng gần với tiếng Muờng chàm Thái Khmer, Mã Lai; công việc này ngoài phạm vi chính tả của chúng tôi” [sic]
Vậy hóa ra ổng làm như thế là những tiếng đó không có chính tả, muốn viết sao thì viết à?
Tại sao ông ấy lại cứ phải né tránh, mà chỉ muốn truy nguyên riêng cho Hán Việt?
Đã gọi là truy nguyên mà cứ nhè một nguời / một đối tuợng mà truy thôi, hèn gì mà đối tuợng đó lãnh đủ!
Có bao nhiêu tiếng Việt ổng đều qui cho là tại tiếng Tàu mà sinh ra cả!
Tội nghiệp cho tiếng Tàu, ai ăn đâu mà mình phải chịu trận.
Vậy thì chân tay ở đâu cà , không lẽ do thủ túc mà sinh ra?
Mặt, mũi, mắt ở đâu sinh ra, không lẽ lại bảo là ngoài phạm vi chính tả của ông?
Tệ hơn nữa, là gần đây ông Nguyễn Phương, giáo sư Đại Học Huế truớc 1963, còn viết:
‘…nguời Việt chẳng qua là nguời Tàu [sic] mà tràn xuống sinh sống ở vùng quanh châu thổ sông Hồng hiện nay, rồi khi đủ điều kiện thuận tiện [sic] thì trở thành nguới Việt…[xin miễn phê bình]
‘…tiếng Việt chẳng qua là tiếng Tàu xen lẫn một vài tiếng Muờng tiếng Mọi mà thôi [sic]…vì chẳng qua gặp dịp có thêm một vài tiếng để mà tiện nói chuyện hay buôn bán với họ’ [sic] [xin miễn phê bình luôn vì nhận xét ấy quá kì!]
Cũng may là có một số ít học giả [Nguyễn Háo Vinh, Nguyễn Văn Ngọc, Dương Quảng Hàm] nhìn xa thấy rộng hiểu biết rõ thêm về nguồn gốc thật sự của tiếng Việt, như ông Duong Quảng Hàm đã nói, khoảng năm 1941”
…’Lạ thay cho nuớc mình, có tiếng nói mà không hề ai học tiếng, không đâu dạy cách dùng tiếng, không sách nào nói đến nghia tiếng, cùng mẹo đặt câu…’
chua từng ai nghiên cứu học hành tiếng An nam cả…
[cái tinh đời của ông Dương Quảng Hàm là hiểu rằng chữ viết không phải là tiếng nói, viết ra mà không hiểu thì cũng như không!]
Các nhà ngôn ngữ học hiện đại đều công nhận cái ưu tiên của lời nói hơn chữ viết rất nhiều [primacy of the spoken words over their written form]
Tôi xin đưa ra một thí dụ trong hàng ngàn thí dụ:
Nguời Việt ta viết đuợc chữ đau đớn [dù bằng cách viết abc hay bằng chữ Nôm] nhưng ta đâu có hiểu đớn là gì?!
Có cả # 5000 tiếng Việt như đẹp đẽ, mới mẻ, sạch sẽ, vui vẻ, da dẻ,v.v. nếu chỉ viết vào đây thôi, ba ngày cũng chưa hết, vậy mà nguời Việt ta đâu có hiểu là gì?!
Khuyết điểm mà ông Duong Quảng Hàm nhận thấy đó nay đã đuợc bổ túc:
Bộ Từ điển đồng nguyên tiếng Việt và các tiếng Đông Nam Á
/ Vietnamese and Southeast Asian Cognatic dictionary
/ Dictionnaire cognatique Vietnamien et Sud-est Asiatique đang in và xuất bản duới hai hình thức: một bộ 10 CD và sách [4000 trang] sẽ cống hiến cho bạn đọc khắp nơi trên thế giới [Pháp, Anh Mỹ cũng đọc đuợc, mà ngay cả nguời Khmer, Chàm, Thái, Lào, Miến Điện Mã Lai, Indonesia cũng đọc đuợc dễ dàng từ điển này vì có ngay chữ viết của họ trong đó, chứ không phải chỉ phiên âm phiên chữ một cách giả tạo.
Nhưng trên hết là, với 275 ngàn thí dụ đồng nguyên [cognatic correspondances] và hàng trăm bản đồ ghi chỗ ở và nơi xuất phát của các dân tộc bộ lạc khắp vùng Đông Nam Á với chừng 27 ngàn tiếng Việt của cả ba miền Bắc Trung Nam , để cho ai cũng thấy, nguời Việt cũng như nguời ngoại quốc, hiểu và ý thức đuợc rất rõ ràng là tiếng Việt không phải là do tiếng Tàu mà ra, trái lại, tiếng Việt là anh em họ hàng với bao nhiêu là tiếng nói khác ở Đông Nam Á, mặc dù qua hon hai ngàn năm, cái chữ viết khác nhau của các thứ chữ Đông Nam Á đã làm cho ta lầm tuởng là cái âm, cái tiếng, cái nghia của các ngôn ngữ đó cũng khác nhau luôn!
Thật ra, chúng nó đều giống nhau đến mức ngạc nhiên sững sờ [xem vài thí dụ đồng nguyên ở phụ lục cuối bài]:
Từ xưa đến nay có bao nhiêu là giả thuyết về ngồn gốc tiếng Việt: nào là từ gốc tiếng Tàu [sic], nào là gốc Mon [ông Logan] cách đây đa 150 năm, nào là gốc Thái [ông Maspero], nào là gốc Mon-Khmer [đuợc nhiều nhà ngôn ngữ học nhìn nhận] rồi thì ông Haudricourt với những nhận xét về thanh âm tiếng Việt, và nhiều ông khác nữa, cho là gốc AustroAsiatic, một dòng họ ngôn ngữ lớn hơn cả dòng Mon Khmer nữa.
Không hề thấycó một giả thuyết nào đuợc dẫn chứng với những nghiên cứu chi tiết và hoàn toàn đầy đủ cả, họ chỉ đua ra vài chục thí dụ cho hàng chục ngôn ngữ, trung bình vài chục thí dụ cho một ngôn ngữ là cùng, trong khi tiếng Việt ta có đến 10 ngàn tiếng một, có gốc gác đàng hoàng và trên trăm ngàn tiếng ghép lại [ghép đôi, ghép ba, ghép bốn nữa là khác] thì một vài chục cái thí dụ họ đưa ra không đủ sức thuyết phục, không đủ điều kiện cần và đủ để minh xác cho bất cứ một nhận xét dữ kiện nào về tiếng Việt, dù là nhận xét về các nhấn giọng, các âm tiết các vần điệu, các tên bộ phận hay giác quan trong thân thể, cây cối, tên hoa lá, tên các trái, các con vật, v.v. nói chi đến nguồn gốc.
Cái mà bất cứ nhà ngôn ngữ học nào chuyên về tiếng Việt cần có để học hỏi tìm kiếm rồi làm giả thuyết là một từ điển nghiên cứu đồng nguyên của tiếng Việt, không đuợc sót một từ nào, để tránh đưa ra vài thí dụ nghèo nàn vì thiếu tài liệu.
Cái cần thiết ‘không có không đuợc nay đã có.
Từ điển đồng nguyên tiếng Việt-Đông Nam Á đưa ra 27 ngàn từ gốc gác của tiếng Việt, sẽ giúp cho bất cứ một học giả nào nghiên cứu tiếng Việt về mọi khía cạnh chứ không riêng chi về nguồn gốc của nó, có đuợc ngay truớc mắt và trên tay, hàng trăm ngàn bằng chứng sờ sờ, hiển nhiên và thực tế về muôn điều muôn vẻ những chi tiết của tiếng Việt, so sánh với muôn điều muôn vẻ những chi tiết của từng ngôn ngữ khác nhau ở vùng Đông Nam Á.
Nó sẽ cho họ thấy nổi bật lên hàng chục ngàn điểm giống nhau cũng như hàng ngàn điểm khác nhau, như một bản nhất lãm [synoptic table] khổng lồ về nguồn gốc của từng tiếng Việt một, truớc khi tổng hợp chúng nó lại thành ra nhận xét chung về nguồn gốc của cả một ngôn ngữ hiện nay, dù ngôn ngữ đó là Việt hay Khmer, Thái, Lào, Chàm, Miến điện, Mã lai, Indonesia, v.v..
Từ điển này không những tìm đồng nguyên và nguồn gốc cho tiếng Việt mà thôi, nó còn là bộ sách tương đương cho hàng chục quyển từ điển riêng rẻ: Việt-Khmer, Việt-Chàm, Việt Thái, Việt-Lào, Việt-Mòn [Mòn là một phần của dòng họ ngôn ngữ Mòn-Khmer], Việt-Mã lai, Việt-Indonesia, Việt-Myanmar [truớc đây là Miến điện], Việt-Khasi [một tiếng nói bên Đông bắc Ấn độ, giống tiếng Việt đến mức không tuởng tuợng đuợc, mặc dù nguời Khasi và tiếng Khasi rất xa lạ với chúng ta, phần đông chỉ quen với ngôn ngữ Tàu-Việt], ngoài ra còn có từ điển Việt-Muờng, Việt-Nùng, Việt-Mon Khmer. v.v…
NGUYỄN HY VỌNG M.D.
Chủ Nhật, 16 tháng 10, 2016
Người dân miền Trung có gì? Chúng ta có gì?
Chúng tôi (Ngô Nguyệt Hữu, Lê Hữu Chính, Bạch Hoàn) chẳng có gì cả, ngoại trừ những người thân yêu. Chúng tôi chẳng có gì, ngoại trừ một chỗ ngủ êm ấm. Chúng tôi chẳng có gì, ngoại trừ một căn nhà khô ráo. Chúng tôi chẳng có gì, ngoại trừ một ít thức ăn dự trữ trong tủ lạnh...
Sẽ chẳng là gì cả với những thứ tôi đang sở hữu nếu so với 71.000 hộ dân ở Quảng Bình, 24.158 hộ dân ở Hà Tĩnh đang chìm trong lũ dữ. Chúng tôi hiểu, hàng trăm ngàn người dân xứ ấy đang khốn khó ra sao.
Đó là phải giữ nỗi bi thương vì mất người thân chờ ngày nước rút tiếng khóc mới vỡ oà. Đó là phải nuốt nước mắt xẻ thịt gia sản lớn nhất của mình là con trâu con bò chết vùi trong nước. Đó là những căn nhà tềnh toàng đầy ắp bùn đất và nỗi buồn. Đó là những cuốn tập vở học sinh ướt sũng. Đó là nỗi cơ cực lẫn tủi hờn bế tắc khi nghĩ về ngày mai...
Ngày mai vườn bưởi không một còn trái. Ngày mai chuồng gà không còn một con. Ngày mai bồ thóc trong nhà đã mọc mầm hết thảy, còn hũ gạo đã hết sạch từ hôm nay... Ngày mai là cái đói, là bệnh tật, là con đường đến trường xa xôi và gập ghềnh, là tương lai thêm mù mịt...
Chúng tôi không có gì cả ngoại trừ những giọt nước mắt cho sự mất mát và đau thương của những người có cùng dòng máu, cùng tiếng nói, cùng thân phận như tôi, như các anh chị.
Chúng tôi cũng giống những người nơi dân miền Trung khốn khổ ấy, cùng một phận dân đen. Nhưng, làm được gì tôi sẽ làm, bé mọn thôi, cố hết sức mình thôi. Với mong muốn và hy vọng những muộn phiền sẽ sớm rút đi như con nước lũ, để ngày mai ai cũng hạnh phúc khi thấy được ánh mặt trời.
Vì tôi bé mọn, nên chúng tôi mong các anh chị hãy cùng tôi giúp đỡ đồng bào mình.
Chúng tôi dự tính sẽ trao tiền mặt cho những gia đình gặp tai họa do thiên tai lẫn nhân tai trong cơn lũ này. Mỗi suất từ thiện là 500.000-2.000.000 đồng (tuỳ đối tượng thiệt hại) trao cho các hộ gia đình bị ảnh hưởng bởi lũ ở Quảng Bình và Hà Tĩnh. Khoảng thứ 6 tuần này tôi sẽ đi Hà Tĩnh, Quảng Bình, mang theo tấm lòng của các anh chị, với hy vọng các cháu có thể mua tập vở mới, một bộ đồ mới đến trường. Với hy vọng gia đình các cháu có thêm được con gà choai, con lợn giống...
Toàn bộ tiền đóng góp của các anh chị sẽ được tôi đi trao tận tay bà con, để đảm bảo không có tình trạng ăn bớt ăn xén như những năm qua ở miền Trung. Chúng tôi cũng sẽ tự lo tất cả chi phí tổ chức, đi lại nên đảm bảo tiền hỗ trợ của các anh chị được bao nhiêu sẽ đến tay người dân trọn vẹn bấy nhiêu.
Mọi khoản đóng góp sẽ được cập nhật chi tiết trên facebook cá nhân Bạch Hoàn. Danh sách ủng hộ và số điện thoại, địa chỉ liên lạc của người nhận ủng hộ cũng sẽ cập nhật để cộng đồng đối chiếu.
Chúng tôi nhỏ bé và rất cần sự chung tay của các anh chị. Hiện chúng tôi đã nhận được thông tin hỗ trợ đầu tiên của một tập đoàn đề nghị giấu tên. Họ cho biết sẽ ủng hộ chương trình tôi đang phát động với số tiền 500 triệu đồng.
Chúng tôi mong có thêm nhiều anh chị, các cá nhân và doanh nghiệp đồng hành.
Mọi đóng góp xin gửi về tài khoản tên Bạch Thị Hoàn, số tài khoản 0971000000474, Vietcombank chi nhánh Thanh Trì, Hà Nội. Chúng tôi sẽ nhận đóng góp từ nay đến ngày 21-10.
Chúng tôi cũng mong mọi người chia sẻ bài viết này như một hành động ủng hộ bà con. Trân trọng cám ơn.
https://www.facebook.com/bachhoanvtv24/posts/1811217605792153
Đến Lúc Đảng Cộng Sản Việt Nam Cần Phải Chấn Chỉnh Phép Nước
Người Quan Sát
Với tình hình rối loạn chính trị (nội an) trong nước gần đây do lũ giặc nhà thờ công khai ra mặt chống đối chính quyền nhân vụ Formosa xả thải, với sự chỉ đạo (bí mật) của Vatican và sự yểm trợ của bọn chiên lưu vong, hình như Nhà Nước VN có phần lúng túng trong việc giải quyết vấn đề trị an cho rốt ráo trong suốt 5 tháng qua sau sự kiện cá chết trên 4 tỉnh bắc phía miền trung.
Cuộc chiến vừa qua vốn được bọn vong bản gọi là "quốc-cộng" xem như là hồi Nhất; và bây giờ chúng bày ra hồi Nhì sẽ được gọi là cuộc chiến "chúa-cộng hay giáo-cộng" mà kẻ thù vẫn là bọn nham hiểm giả đạo đức giả Vatican. Nên nhớ với bọn này chuyện thua keo này bày keo khác chỉ là trò chơi trên máu xương của người dân vô tội các dân tộc. Nó đã có gần 2 ngàn năm kinh nghiệm chính trị gian manh liên tục và Nhà Nước VN độc lập ngày nay chỉ tồn tại có 70 năm. Nếu phải so sánh thì chỉ là một hạt muối trong đại dương.
Đừng tưởng sau ngày giải phóng đất nước ta đã sạch bóng quân thù, mà giới lãnh đạo Đ/NN VN vội buông lơi cảnh giác để thụ hưởng và vơ vét của tham. Không. Kẻ thù truyền kiếp của dân tộc ta là Tàu phù, kẻ thù ngàn kiếp là đạo tặc Vatican, kẻ thù giai đoạn là bọn tư bản đế quốc tham tàn.
Đảng và Nhà Nước VN nên xem xét và cương quyết chấn chỉnh lại đường lối lãnh đạo của mình, bấy lâu nay bị xem như thiếu quyết tâm và kém hiệu quả do bệnh chủ quan ù lì bởi đã để cho xã hội thêm nhiễu loạn.
- Ở tầng lớp lãnh đạo TƯ, hình như nhiệt huyết cách mạng của các thế hệ cha ông (vốn đã giải phóng được dân tộc khỏi ách thực dân và Mỹ, Đạo Ngụy) đã tàn lụi với các thế hệ kế tiếp từ khi hòa bình tái lập và nền kinh tế mở cửa. Dư thừa vật chất do phát triển chưa toàn diện đã tạo nên một số lớn đảng viên/ cán bộ biến chất, tham nhũng, quan liêu kiểu cách, đánh mất phẩm chất đạo đức …
Trong khi bên ngoài bọn Sài lang TQ hung hãn lấn chiếm dần các hải đảo của ta thì bên trong kể từ khi nới rộng giao thương với quốc tế thì liên tiếp xảy ra những thất bại trong các dự án kinh tế thất thoát tiền tỷ, có lẽ do sự kém cỏi trong quản lý và bao che, nhưng chẳng có cá nhân hay tập thể lãnh đạo nào chịu trách nhiệm hoặc bị trừng trị.
Ngay gần đây nhất là sự vụng về của giới hữu trách trong việc xử lý bị cáo kinh tế Trịnh Xuân Thanh đã để cho y thoát khỏi VN một cách dễ dàng; có người nghi ngờ đã có một quan lớn trong Bộ Công An đã bảo kê để Thanh chạy nhanh như vậy, nên đến nỗi Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng phải tham gia và giữ cương vị Thường vụ Đảng ủy Công an Trung ương hôm 21/9 để tìm cách chấn chỉnh.
- Ở tầng lớp thừa hành cấp dưới thì mặc dù nhân dân đã nhiều lần lên tiếng báo động qua báo chí những hành động phản cảm, tiêu cực, ăn chơi trác táng của các quan tham lớn nhỏ ở địa phương và ảnh hưởng đang dần lan tràn trong xã hội ngay cả đến thành phần trẻ trong học đường ngoài đường phố, xì ke ma túy, đỉ điếm khắp nơi… những tệ nạn tàn dư của miền nam trong thời kỳ chiến tranh mà Cách Mạng đã lên án mạnh mẽ và quyết dọn sạch sau ngày giải phóng. Than ôi, sức người có hạn; nói thì dễ mà làm thì rất khó.
Rồi vụ cán bộ giết nhau ở Yên Bái quanh việc tranh giành quyền lợi ở "rừng vàng". Rồi các tỉnh hăm hở đua nhau chài mồi bọn tư bản con trong vùng đến đầu tư xây dựng hãng xưởng, nhưng lại thiếu cán bộ có sự hiểu biết về ô nhiễm môi trường nên đã rơi vào trò xiếc của bọn con buôn quốc tế này nên biến "biển bạc" của ta thành bải xả thải các nguồn độc hại. Đơn cử là vụ Formosa và hậu quả kinh tế trầm trọng cho nhân dân ở các tỉnh phía bắc miền trung.
Nhưng hậu quả tai hại nhất không phải là kinh tế thuần túy mà chính trị hỗn loạn. Thay vì Đảng phải nghiêm khắc kỷ luật những cán bộ/ đảng viên hữu trách đã gây ra những sai lầm nghiêm trọng trong thời gian nhanh nhất thì lại bao biện, ì ạch trong việc giải quyết nên đã để tình trạng an ninh địa phương mất ổn định trong suốt 5 tháng qua khi bọn phản động nhà thờ kết hợp trong ngoài trực diện chống phá Nhà Nước một cách công khai.
Những tưởng trong tình thế dầu sôi lửa bỏng như thế thì Đảng/ Nhà Nước phải nổ lực tối đa để dập tắt ngay. Nhưng thật là đáng ngạc nhiên khi tình trạng hỗn loạn ấy ở Hà Tỉnh, Nghệ An đã được Đảng/ Nhà Nước trong một cách nào đó đã nuôi dưỡng để kéo dài cho tới nay, và bọn đầu não cùng đám phá rối càng ngày càng coi trời bằng vung (tựa như cuốn kinh của họ viết!), hoặc coi chính quyền VN bằng vung. Chúng còn ngang nhiên mang cờ Vatican đi diễu trong các cuộc bạo loạn. Đó cũng là gốc "cờ vàng" của các chế độ VNCH trong Nam trước đây và bọn giặc nhà thờ vong quốc vẫn muốn duy trì.
Họ cầm cờ quốc gia Vatican, nước của họ. Rõ ràng đây là giặc ngoại xâm, họ không phải là dân Việt.
Tại sao mà tình thế lại càng ngày càng tệ hại đến như vậy? Chúng đã công khai xem đất nước này là thuộc về ngoại bang Vatican. Chính quyền nghĩ sao? Hay là cũng đang cùng hiệp thông với giặc?
Phản ứng của NN/VN trong các vụ dấy loạn này càng làm cho người dân có cảm tưởng rằng họ đã đối xử với các tôn giáo khác thiếu công bằng. Với các tôn giáo nội địa thấp cổ bé miệng, nếu xảy ra tình huống bất ổn thì việc trấn áp rất nhanh gọn. Còn với giặc nhà thờ hình như họ e ngại chùn tay không dám triệt hạ vì bọn này có chỗ dựa quốc tế.
Cũng chính tổ tiên của bọn này đã từng phản bội tổ quốc chạy theo giặc Pháp nô lệ nhân dân ta; cũng chính cha ông bọn này đã từng chia cắt đất nước để tiếp tục giết hại đồng bào ta hơn 20 năm về sau; cũng chính một nhóm của bọn này đã chạy theo chủ ra hải ngoại, nay tái tập hợp dưới kèn hiệu của các tên Ma Đầu Vatican và tây phương để mong quay lại lật đổ Nhà Nước VN một lần nữa. Lịch sử đã ghi rõ rành rành và vết thương dân lành vẫn còn nhỏ máu; bạn thù đã rõ, cớ sao Nhà Nước VN vẫn giả mù sa mưa sống trong ảo vọng cải thiện để Đảng và Nhà Nước hy vọng chúng cho phép được tiếp tục lãnh đạo ư? Đọc bản tin mới nhất "Ở đâu có Công giáo, ở đó có đoàn kết và bình an" ở đây http://plo.vn/thoi-su/o-dau-co-cong-giao-o-do-co-doan-ket-va-binh-an-656434.html để tường.
Bình an mà Công Giáo đem lại?
Chính trị quả là một trò đùa nham nhở. Trang trí hia mão để đóng những tuồng nham hiểm mà miệng lưỡi vẫn tươi cười ngọt ngào. Đảng và Nhà Nước VN đừng để cho sự hy sinh của mấy triệu dân quân ta cho công cuộc giải phóng đất nước chống lại bọn phản bội này bị xem là trò vô ích; lại bị chúng đùa cợt chớt nhã.
Nay bọn giặc nhà thờ lại công khai danh tính của bọn đồng đảng (đạo Ca-tô Rô Ma chỉ là một đảng cướp làm chính trị có tổng hành dinh tại Vatican) trong và ngoài nước đóng góp tiền cho cuộc phản động. Vậy Nhà Nước đã có biện pháp theo dõi nguồn tiền chưa? Rửa tiền? Đóng góp công khai mưu toan lật đổ Nhà Nước? Kiểm toán tiền đã dùng vào việc gì? Thuế má tài chánh áp dụng ra sao?
http://vntb.org/linh-muc-bui-huu-nam-kich-dong-bieu-tinh-formosa-hoa-cung-vi-tien.html
Nếu mọi "biến động miền trung" lần này không được giải quyết dứt khoác thì những nguy cơ trước mắt ta có thể thấy:
1) Một đầu tàn thuốc mà không dập tắt được thì không lẽ đợi đến cháy rừng; bởi mưu mô của bọn giặc nhà thờ không phải là chuyện cá chết mà muốn lật đổ chính quyền hiện tại.
2) Kinh tế quốc gia sẽ bị ảnh hưởng xấu nghiêm trọng. Các nhà đầu tư lớn quốc tế sẽ giảm mức đầu tư.
3) Giặc Tàu sẽ vui mừng khôn xiết vì Quân đội ta sẽ không có một hậu phương vững mạnh để chú tâm giữ đảo.
4) ) Uy tín quốc tế và nội địa của Đ/NN vàng ngày càng suy giảm trầm trọng.
5) Nhân dân không còn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đ/NN VN như trước.
6) Hiệu quả hỗn loạn domino sẽ vô cùng khốc liệt.
Và đó cũng là những mục tiêu nhắm đến của bọn giặc nhà thờ ngày nay.
Xin Đ/NN VN hãy cấp thời Chấn Chỉnh phép nước tái lập trật tự để lấy lại lòng tin của nhân dân. Các đoàn thể phi Ca-tô cũng phải lên tiếng kết án mạnh mẽ những họat động phá rối đất nước để đạp tan kịp thời những manh động của bọn giặc nhà thờ đang gây nguy cơ sự an bình của tổ quốc và cũng để tránh đại nạn máu đổ thịt rơi một khi có bàn tay của Vatican và ngoại bang nhúng vào.
Người Quan Sát
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)