" Cả cuộc đời ba không có gì để lại cho các con ngoài số vốn kiến thức mà ba mẹ tảo tần nuôi các con ăn học.Mong các con trở thành những người hữu ích cho xã hội" ( trích từ TT "Vững Niềm Tin")
Thứ Ba, 27 tháng 9, 2016
Ấn tượng trong tuần: Tin đồn và sự… liêm chính
Tác giả: Kỳ Duyên
.
Ngẫu nhiên trong tuần, khi tin đồn Trịnh Xuân Thanh trốn ra nước ngoài bị cơ quan điều tra phát lệnh truy nã quốc tế, còn nóng hôi hổi vừa thổi vừa đọc, dư luận xã hội lại nháo nhác bởi những vụ việc xưa rồi Diễm, vậy mà vẫn có sức hút như từ trường trái đất.
Bẹp rúm và “nguyên khối”
Sao không chứ? Một vụ việc liên quan đến tin đồn- một quan chức cấp cao có bồ nhí, con riêng và không biết có phải do tài cán hay do những… gì gì mà cô bồ nhí này có khoản tài sản kếch sù, người lao động chính trực cày cuốc cả đời, nằm mơ cũng không thấy. Số liệu, sự việc cứ như ma xó!
Bức xúc quá, vị quan chức lên tiếng bác bỏ hoàn toàn. Có điều mới đây, cả hệ thống chính trị địa phương nơi ông này lãnh đạo cũng phải vào cuộc phủ nhận sạch trơn tất cả dạng tin đồn trên các trang mạng xã hội.
Miệng nhà quan có gang có thép! Tin đồn lập tức … rúm ró, nằm im.
Vượt qua những thông tin còn úp úp mở mở chưa được giải mã, những kiến nghị mang tính “răn đe” tin đồn, hãy nhìn vụ việc này với con mắt của thế giới phẳng, và của sự sòng phẳng liêm chính về tư cách công dân.
Có thể khẳng định, khi con người xuất hiện, hình thành nên cộng đồng, là xuất hiện tin đồn. Tin đồn sẽ tồn tại mãi mãi, chừng nào còn cộng đồng người. Bởi bản chất con người là tham sân si, là hỉ nộ ái ố.
Cũng bởi là tin đồn, nên nó mê hoặc con người khi đánh trúng vào tâm lý đặc thù- tính tò mò, và được nuôi dưỡng bởi cả tính xấu của con người, sự thêu dệt, một đồn mười, mười đồn trăm.
Nhất là trong thế giới phẳng hiện nay, mạng thì ảo mà cái tốt xấu, hay dở, thiện ác, tử tế hay ti tiện của lòng người lại rất thật.
Và trong bối cảnh đời sống nước Việt nói chung, mỗi địa phương nói riêng, còn chứa chất những bất ổn, bất bình, xung quanh “ung nhọt” tham nhũng, lợi ích nhóm, mua quan bán tước, khiến lòng người mất niềm tin bao nhiêu, thì tin đồn tuy hư hư thực thực tiếc thay, lại chiếm niềm tin của không ít người bấy nhiêu.
Nhưng mặt khác, thế giới phẳng với những thông tin từ thực tế, thậm chí có khi khởi đầu là tin đồn cũng lại giúp cho quản trị quốc gia nhanh chóng nắm bắt, loại trừ sự thất thiệt và có phương án xử lý. Đó là tính hai mặt của tin đồn.
Xử lý tin đồn, trong đó có xử lý sự khủng hoảng truyền thông ra sao? Dường như không có bài học chung cho mỗi vụ việc. Mà nó tùy thuộc vào sự tĩnh trí sáng suốt, vào bản lĩnh giải quyết các tình huống một cách khôn ngoan. Nhưng quan trọng hơn cả, phải bằng sự liêm chính, chính trực. Không thể chỉ bằng mệnh lệnh hành chính- hay bằng sự trấn áp của quyền lực. Nếu không tin đồn, tuy nằm bẹp dúm nhưng lại vẫn… còn nguyên cả khối, vẫn cứngànnăm bia miệng vẫn còn trơ trơ. Còn ngược lại, tin đồn sẽ phải… đỏ mặt, vì bẽ bàng!
Sự xuất hiện của IT là bước tiến vĩ đại của lịch sử. Nó mang đến cho XH bao điều thú vị, mở mang sinh hoạt dân chủ. Nhưng cùng đó là những phiền toái, những khóc cười, hạnh phúc và cả… bi kịch. Thì xử lý khủng hoảng truyền thông cũng cần trở thành kỹ năng tất yếu của bất cứ chính quyền cho đến nhà quản trị xã hội nào.
“Gia đình siêu nhân”
Vụ việc khác, khiến dư luận XH đến hôm nay, nói theo ngôn ngữ dân dã, vẫnhót hòn họt,mặc dù hiện tượng cũ mèm. Đó là tin đồn về “gia đình siêu nhân” của một quan chức. Thời IT, có rất nhiều khái niệm mới xuất hiện, mà “gia đình siêu nhân” cũng là một. Ngay lập tức gia đình này được các cư dân … tôn vinh trên mạng ảo.
Rồi từ tin đồn hóa thành… tin tức. Bởi ngoài ông còn có gần chục người thân là ruột thịt, đều nắm các chức danh quản lý, cán bộ chủ chốt các ngành, các lĩnh vực ở tỉnh này.
Có bao nhiêu “gia đình trị’ trong nước Việt? Không hiếm. Nếu như biết rằng, hiện tượng này đã đi vào văn học, ca dao, tục ngữ, thành ngữ của nhân gian từ quá khứ đến thời hiện tại. Đáng tiếc, ngày càng có khuynh hướng “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc” ở các ngành các cấp, từ cơ sở trở lên…, trong bối cảnh XH đang bị lợi ích nhóm câu kết, chi phối và là nỗi bất bình ám ảnh người dân.
Tỷ như “gia đình trị’ ở Tổng Công ty Bảo đảm An toàn Hàng hải miền Nam, có tới 15 người có quan hệ gia đình, họ hàng với Tổng Giám đốc công ty này. Trước đó, cả XH xôn xao vụ việc “cả họ làm quan” ở huyện Mỹ Đức (Hà Nội). Rồi vụ việc Cục trưởng Cục Thuế Quảng Bình ngự trị 03 nhiệm kỳ, ngoài ra, còn có đến 10 người thân của ông này được tuyển vào ngành thuế, trong đó nhiều vị đang giữ những vị trí chủ chốt, có khả năng thay thế khi ông này về hưu.
Hầu như tỉnh nào, ngành nào, cấp nào cũng … nhuốm mầu hiện tượng “gia đình trị” với cấp độ cao thấp khác nhau.
Ở các quốc gia văn minh, chuyện cha truyền con nối cũng không hiếm. Nhưng vì sao không thành tai tiếng? Sự khác biết bản chất ở đây là nền quản trị quốc gia công khai, minh bạch và kiểm soát quyền lực bằng luật pháp, bằng thiết chế mô hình XH. Sự tuyển chọn là công bằng, sòng phẳng, đã tạo ra những nhân sự tài năng thật.
Còn ở nước Việt ta, hiện tượng “gia đình trị” đang có nguy cơ thành “bản sắc văn hóa” trong công tác tổ chức cán bộ. Người đứng đầu Chính phủ đã phải lưu ý các cấp chính quyền các địa phương trong cả nước: Tìm người tài chứ không tìm người nhà!
Vì rất có thể ở đâu đó, những người tài khác, do không phải “người nhà” đã mất đi một cơ hội tiến thân. Như vậy, sự bất công không nói không rằng đã… hiển hiện.
Chuyên gia về luật Nguyễn Quốc Tấn Trung, trong một bài viết về hiện tượng “gia đình trị” phân tích khá sâu sắc về cái gọi là “chủ nghĩa huyết thống và chủ nghĩa thân hữu – nepotism và cronyism”, có thể phát triển và được công nhận một cách công khai trong XH. Đó là một sự thật, bởi theo ông, ngay cả khi người nắm chức vụ lãnh đạo không hề có ý định hỗ trợ, yêu cầu, đề nghị bổ nhiệm người thân của mình vào các vị trí lãnh đạo khác; quyền lực từ cái ghế của ông ta đôi khi cũng đã đủ để các hệ thống cấp dưới cân nhắc việc nên đề cử và bổ nhiệm ai. Hiện tượng này tiềm ẩn nguy cơ tạm gọi là chủ nghĩa “bè phái thụ động”, là nguồn gốc cơ bản của các nhóm lợi ích trong tương lai, được xây dựng dựa trên nền tảng quan hệ và gia đình.
Ông Nguyễn Quốc Tấn Trung đã phải kiến nghị: Đã đến lúc pháp luật Việt Nam phải kiểm soát “gia đình trị”!
Đó là một nhận xét cực kỳ tinh tế, am hiểu thực tiễn. Người viết bài từng lăn lộn ở cơ sở, càng thấm thía cái ý nghĩa “cha truyền con nối, anh truyền em nối” một cách rất tự nhiên, trong tâm lý các địa phương- một tâm lý truyền thống từ thuở “phong kiến đế quốc” xa xưa. Chưa kể vì muốn nịnh bợ cấp trên, không thiếu kẻ sẵn sàng đưa người cửa trước rước người cửa sau. Cũng chính là cho con đường hoạn lộ lâu dài của họ…
Trong bài viết trên Tuần Việt Nam, ngày 22/9, bàn về kiểm soát quyền lực, Ts Vũ Ngọc Hoàng đã cảnh báo, việc kiểm soát quyền lực trước tiên là để bảo đảm cho quyền lực luôn thuộc về đúng chủ nhân của nó, tức là thuộc về nhân dân, được sử dụng đúng mục đích, không bị lợi dụng, lạm quyền. Khi quyền lực bị lạm dụng thì tất yếu sẽ tha hóa bộ máy cầm quyền, và cũng là nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến tha hóa đạo đức xã hội. Sự tha hóa quyền lực tất yếu sẽ dẫn đến sụp đổ chế độ chính trị. Nếu sự tha hóa ấy không dừng lại và lành mạnh hóa thì sụp đổ là không thể khác, chỉ còn là vấn đề thời gian.
Khi quyền lực không được kiểm soát thì mặt trái của nó chính là tác nhân quan trọng nhất làm tha hóa cán bộ, tha hóa những con người được trao quyền lực, rồi tha hóa cả bộ máy, làm cho bộ máy bị biến chất, không còn là nhà nước của dân, mà dần dần thành nhà nước phản bội nhân dân.
Ở góc độ khác, cần thấy điều này, trong bối cảnh kiểm soát quyền lực ở XH còn yếu, thì sự phát triển IT, cùng tin tức các trang mạng XH (nếu lọc bỏ được những tin đồn nhảm), lại là cánh tay đắc lực giúp cho quản trị quốc gia có thể cập nhật được vấn đề này, xử lý kịp thời thông tin.
Nhà sử học Dương Trung Quốc ,mới đây, trả lời báo chí, nhắc tới Luật Hồi tỵ có từ thời vua Lê Thánh Tông, quy định bổ nhiệm quan lại xưa rất rõ ràng, cụ thể. Đó là những người thân như anh em, cha con, thầy trò, bạn bè cùng học, những người cùng quê…, không được làm quan cùng một chỗ. Nếu ai gặp những trường hợp nói trên thì phải tâu báo lên triều đình vàcác cơ quan chức năng để bố trí chuyển đi chỗ khác (Infonet, ngày 20/9)
Cứ chiếu theo luật của bậc tiền nhân, liệu có bao nhiêu “gia đình trị”, mầm mống của hiện tượng lợi ích nhóm neo đậu trong XH hiện nay? Hẳn không hiếm và cũng không quý.
Còn theo bà Phạm Chi Lan, quy trình đều nằm trong tay những người có thẩm quyền, nếu quy trình đúng mà dẫn đến sai sót thì phải xem lại, điều chỉnh cái quy trình đó cho chặt chẽ hơn chứ không phải dùng để biện minh cho những sai sót (MTG, ngày 18/9).
Chỉ sự liêm chính của chính quyền từ cơ sở trở lên mới là … định luật bảo toàn “trọng lượng” của quyền lực
Chỉ có sự liêm chính mới đủ sức đánh bật… tin đồn
Ở cả hai vụ việc- liêm chính có đủ mạnh không?
—————-
http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/329920/tin-don-va-su-liem-chinh.html
Thứ Hai, 26 tháng 9, 2016
Khi nào cánh cổng Thiên đường và Địa ngục sẽ mở ra?
Con người nhiều khi khác nhau chỉ ở một niệm. Một niệm thành ma, một niệm thành Phật; một niệm lên Thiên đường, một niệm xuống Địa ngục; một niệm hiểu ra ngay, một niệm lại đi vào ngõ cụt… Sai khác ở một niệm sẽ đưa đến những kết quả hoàn toàn khác nhau.
Nhưng cũng có rất nhiều người không tin vào điều ấy, và vị võ sĩ Nhật Bản trong câu chuyện dưới đây là một trong số đó.
Một ngày, vị võ sĩ Nhật Bản tên là Tín Trọng đến thỉnh giáo thiền sư Bạch Ẩn: “Thưa thiền sư, Thiên đường và Địa ngục có thực sự tồn tại không?”
Bạch Ẩn thiền sư hỏi lại: “Ngài làm nghề gì?”
Võ sĩ đáp: “Tôi là võ sĩ!”
“Ngài là một võ sĩ?” Bạch Ẩn thiền sư lớn tiếng nói: “Người nào ngu xuẩn mới thuê ngài làm võ sĩ bảo vệ! Ngài xem, khuôn mặt của ngài quả thực không khác gì một tên ăn mày!”
Vị võ sĩ nổi nóng, đưa tay lấy thanh bảo kiếm đang đeo ở bên hông ra và nói: “Ngài vừa nói cái gì?” Ông ta chưa từng bị ai nói lời chế nhạo như vậy nên trong lòng đang sôi sục như lửa.
Bạch Ẩn thiền sư thấy vị võ sĩ như vậy, liền “đổ thêm dầu vào lửa” mà nói: “Ồ! Ngài cũng có bảo kiếm à? Nhưng bảo kiếm của ngài xem ra đã rất cùn rồi, chém không rơi đầu ta được đâu!”
Võ sĩ Tín Trọng lúc này đã giận tím mặt, rút phăng thanh bảo kiếm ra, khiến thanh bảo kiếm kêu “loảng xoảng”. Ông ta nhanh tay đưa thanh bảo kiếm sáng loáng lên ngực Bạch Ẩn thiền sư một cách giận dữ.
Bạch Ẩn thiền sư bình thản nhìn võ sĩ và nói: “Cánh cửa Địa ngục từ đây mà mở ra!”
Trong nháy mắt, võ sĩ Tín Trọng khôi phục lý trí của mình, cảm thấy mình thật vô lễ và liều lĩnh nên vội vàng thu bảo kiếm rồi cúi đầu giải thích.
Bạch Ẩn thiền sư nở nụ cười nói với võ sĩ: “Cánh cửa Thiên đường bởi vậy mà mở ra!”
Câu chuyện Địa ngục và Thiên đường đã được nhiều người biết đến. Chỉ bằng một câu nói, Bạch Ẩn thiền sư đã thể hiện một đạo lý sâu xa: Người ta khác nhau ở một niệm. Vì một niệm mà lên Thiên đường, nhưng cũng chỉ vì một niệm mà rơi vào Địa ngục… Có lẽ chỉ những bậc tu hành đã ngộ Đạo mới có thể hiểu được ý nghĩa uyên thâm mà người đời không thể nhận ra này…
Theo Secretchina
Mai Trà biên dịch
Nhưng cũng có rất nhiều người không tin vào điều ấy, và vị võ sĩ Nhật Bản trong câu chuyện dưới đây là một trong số đó.
Một ngày, vị võ sĩ Nhật Bản tên là Tín Trọng đến thỉnh giáo thiền sư Bạch Ẩn: “Thưa thiền sư, Thiên đường và Địa ngục có thực sự tồn tại không?”
Bạch Ẩn thiền sư hỏi lại: “Ngài làm nghề gì?”
Võ sĩ đáp: “Tôi là võ sĩ!”
“Ngài là một võ sĩ?” Bạch Ẩn thiền sư lớn tiếng nói: “Người nào ngu xuẩn mới thuê ngài làm võ sĩ bảo vệ! Ngài xem, khuôn mặt của ngài quả thực không khác gì một tên ăn mày!”
Vị võ sĩ nổi nóng, đưa tay lấy thanh bảo kiếm đang đeo ở bên hông ra và nói: “Ngài vừa nói cái gì?” Ông ta chưa từng bị ai nói lời chế nhạo như vậy nên trong lòng đang sôi sục như lửa.
Bạch Ẩn thiền sư thấy vị võ sĩ như vậy, liền “đổ thêm dầu vào lửa” mà nói: “Ồ! Ngài cũng có bảo kiếm à? Nhưng bảo kiếm của ngài xem ra đã rất cùn rồi, chém không rơi đầu ta được đâu!”
Võ sĩ Tín Trọng lúc này đã giận tím mặt, rút phăng thanh bảo kiếm ra, khiến thanh bảo kiếm kêu “loảng xoảng”. Ông ta nhanh tay đưa thanh bảo kiếm sáng loáng lên ngực Bạch Ẩn thiền sư một cách giận dữ.
Bạch Ẩn thiền sư bình thản nhìn võ sĩ và nói: “Cánh cửa Địa ngục từ đây mà mở ra!”
Trong nháy mắt, võ sĩ Tín Trọng khôi phục lý trí của mình, cảm thấy mình thật vô lễ và liều lĩnh nên vội vàng thu bảo kiếm rồi cúi đầu giải thích.
Bạch Ẩn thiền sư nở nụ cười nói với võ sĩ: “Cánh cửa Thiên đường bởi vậy mà mở ra!”
Câu chuyện Địa ngục và Thiên đường đã được nhiều người biết đến. Chỉ bằng một câu nói, Bạch Ẩn thiền sư đã thể hiện một đạo lý sâu xa: Người ta khác nhau ở một niệm. Vì một niệm mà lên Thiên đường, nhưng cũng chỉ vì một niệm mà rơi vào Địa ngục… Có lẽ chỉ những bậc tu hành đã ngộ Đạo mới có thể hiểu được ý nghĩa uyên thâm mà người đời không thể nhận ra này…
Theo Secretchina
Mai Trà biên dịch
Chủ Nhật, 25 tháng 9, 2016
Hồi giáo thành “khủng bố” từ khi nào (bài 1): từ gợi tình xem thành đe dọa
Sáng Ánh
Năm ông áo lùng thùng quấn khăn trên đầu cỡi lạc đà cười tươi. Bảy cô hở rốn đeo nịt vú lèng xèng uốn éo. Nhạc xập xình và trẻ con người lớn vỗ tay thích thú. Quần chúng ở đây là bình dân Hoa Kỳ và ai nấy đều vui như là ngày hội. Thì đây là ngày hội, Hội Chà là (Date Festival) tại Indio, một thị trấn ở phía sa mạc tại Nam California.
Tại ngày Hội Chà Là. Hình từ trang này
Indio là nơi sản xuất chà là nhiều nhất thế giới và mỗi năm tổ chức ngày hội này để quảng bá, và tất nhiên là hội chà là thì không thể thiếu múa rốn với lại lạc đà. Nhưng đây là lần tôi dự hội vào đầu thập niên 1980s. Ngày hôm nay, vũ công hở rốn thì còn có thể chấp nhận, vì rõ ràng là họ không có mang áo giấu bom người. Nhưng gặp đàn ông râu ria và quấn khăn mặc áo thụng thì mọi người tại Mỹ sẽ bỏ chạy, nhìn nghi kỵ nếu không đuổi hẳn khỏi tàu bay.
30 năm trước hay 70 năm trước, cái nhìn của Tây phương về người Ả Rập và Hồi giáo là đàn ông 4 vợ (thích nhỉ) và đàn bà nguấy mông (thích chứ). Nam của họ thì lôi cuốn và nam tính, và nữ thì hấp dẫn và đa tình. Ahmad Ben Hassan là tên của nhân vật chính của bộ phim The Sheik(1921) đưa Rudolf Valentino lên hàng “sex symbol” của thế giới, “latin lover”, người tình miền Nam. Ông phát biểu, “Người da ngăm không phải là mọi. Văn minh Ả Rập là một trong những văn minh kỳ cựu của thế giới…Người Ả Rập là người tự trọng và trí óc sắc bén”; các bà các cô khi ấy hú hí đồng tình.
Rudolf Valentino. Hình từ trang này
Suốt những thập niên này, và 100 năm về trước, hình ảnh của Ả Rập, Hồi giáo trong văn hóa bình dân là thâm cung ngàn lẻ, là đèn thần Aladin hay Alibaba. Hình ảnh này ngây ngô và sai lệch, đồi cát ẩn hiện và háng phụ nữ sóng sánh, hương trầm và thảm trải. Ở một cấp cao hơn và trí thức thì cũng chẳng khác mấy, ta nghe Rimsky Korsakov (Scheherazade) và ngắm tranh ở truồng của Ingres. Đến đời của người viết này vẫn còn vậy, một phim kích dục ở Pháp trong những năm 70 mang tựa là “Em nằm xuống cát để anh tuôn ra dầu hỏa”.
Ingres, “Odalisque với một nô lệ”
Hiện nay thì hình ảnh này đã hoàn toàn đổi khác. Vậy trong 30, 40 năm qua, việc gì đã xảy ra?
Iran: Hồi giáo là áp bức phụ nữ
Ba Tư không phải là Ả Rập nhưng cái nhìn của Tây phương (và thế giới nói rộng) về Hồi giáo đã thay đổi, bắt đầu là do những biến chuyển tại đây vào cuối thể kỷ.
Năm 1953, Mossadegh, một nhà chính trị quốc gia thế tục và ôn hòa được dân chúng bầu lên. Tân thủ tướng này đòi quốc hữu hóa và kiểm soát các công ty dầu hỏa của Anh quốc. Vua Iran là Mohammad Reza Shah chạy sang Italy lánh nạn. Anh Mỹ bèn lật đổ Mossadegh và mang nhà vua trẻ trở về.
Mohammed Mossadegh, Thủ tưởng được bầu của Iran, tại phiên tòa sau khi bị Mỹ lật. Ảnh: AFP
Ông vua này thắt chặt chế độ quân chủ độc tài trong 26 năm, với bộ máy quân đội và công an, ông đàn áp mọi chống đối, đồng thời đưa Iran lên tầm thế giới bằng cách vung vít xa hoa. Thí dụ, ông thích đọc bách khoa về vũ khí Jane’s, kiểu Việt Nam ta ngày nay thích kỷ lục Guiness. Một hôm ông triệu quần thần hỏi tại sao Tây Đức lại là quốc gia trên thế giới đứng thứ tư về số chiến xa? Tụi bay mau làm sao đi mua đủ số cho ta vượt qua!
Vua Mohammed Reza Pahlevi và hoàng hậu là Empress Farah, thứ ba từ trái sang, cùng Tổng thống Mỹ John F. Kennedy và Jacqueline Kennedy, tại Mỹ, 1962. Ảnh: Associated Press
Các phong trào thế tục quốc gia, cấp tiến, tả phái trong nước tìm mọi cách lật đổ ông vua này nhưng bất thành. 1979, một giáo sĩ lưu vong thu băng giảng đạo gửi về nước và quần chúng bình dân tôn giáo nổi lên khiến Mohamad Reza lại phải ra đi, lần này Mỹ cũng không cứu được.
Vua và Hoàng hậu Iran cùng hai con chạy sang Bahamas. Ảnh chụp tại Nassau, thủ đô Bahamas, khi họ bị báo giới vây quanh. Nguồn: Associated Press
Cách mạng Đen này hẳn là không ưa Hoa Kỳ rồi, và một số sinh viên (Vệ binh Cách mạng) chiếm tòa Đại sứ Mỹ bắt làm con tin. Đồng thời, xã hội Iran cũng thay đổi, chế độ mới muốn trở lại truyền thống tức là phụ nữ phải trùm khăn và mặc áo dài. Đây đổi ngược với thời quân chủ, khi hoàng hậu xỉa răng bằng tăm Cartier và là thành viên của Hàn lâm viện Nghệ thuật Pháp.
Quả là nữ quyền có thụt lùi tại Iran dưới chế độ giáo sĩ nhưng thụt lùi đau đớn nhất là quyền lợi kinh tế và chiến lược của Tây phương tại đây. Truyền thông nước ngoài bèn nhắm vào mặt này để đánh thần quyền, vì chẳng lẽ lại đánh nó vì nó đuổi Tây đuổi Mỹ và giành lại chủ quyền trên tài nguyên quốc gia? Hình ảnh Hồi giáo áp bức phụ nữ là từ đây, và đúng đắn, chí ít là dưới chế độ của các giáo sĩ Iran.
Cách mạng Hồi giáo ở Iran hồi 1979. Người dân mang ảnh của giáo chủ Khomeini
Nhưng, khoan! Đồng minh chí thiết của Tây phương trong khu vực là Saudi Arabia thì nữ quyền không bao giờ được truyền thông nhắc đến, miễn nó cứ làm tay sai dầu hỏa cho mình thì việc gì cũng OK. Nếu so sánh thì số phận phụ nữ tại Iran còn đỡ tủi hơn nhiều số phận của phụ nữ Saudi hay các quốc gia vùng Vịnh. Họ được lao động, được lái xe, được di chuyển, được ứng cử, được đi bầu, không che mặt và nhiều lúc quấn khăn đội đầu trễ nải rất xinh.
Các mẫu trang phục của Farnaz Abdoli, nhà thiết kế hàng đầu của Iran. Hình từ trang này
Tuy vậy nhưng đối với truyền thông Tây phương, Iran vẫn là nơi tệ nhất, đàn áp nữ quyền, hay dân chủ, nhân quyền, chỉ vì không phe tao.
(Còn tiếp)
Chỉ số phát triển con người & Chỉ số thất bại của quốc gia
Trong quá trình tòan cầu hóa và hội nhập ngày càng sâu rộng hiện nay nhân lực lao động quốc gia trở thành thương phẩm quốc tế. Các quốc gia có xu hướng hợp tác và nhất thể hóa vào các tổ chức kinh tế chính trị để tăng cường việc trao đổi thương mại, sử dụng hiệu quả tiềm lực quốc gia và nâng cao vị thế chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia của mình.
Trong nửa sau thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 ngoài Liên Hiệp Quốc tổ chức hợp tác chính trị toàn cầu lớn nhất chúng ta đã chứng kiến sự ra đời của hàng loạt tổ chức quốc tế và khu vực từ những tổ chức chính trị có tính chất Câu lạc bộ tham vấn toàn cầu như G7 và G20 hay vực như APEC đến các tổ chức hợp tác kinh tế chính trị từng phần và “lỏng lẻo” như ASEAN hay toàn diện và “chặt chẽ” như EU.
Sắp tớiđây là TPP (Trans-Pacific Partnership) và TATIP (Transatlantic Trade and Investment Partnership).Toàn cầu hóa và hội nhập là xu hướng không thể đảo ngược.
Việc xác định trình độ phát triển và khả năng phát triển bền vững của một quốc gia là rất quan trọng để đánh giá tổng hợp “trọng lượng trong thực tế tương tác” của một quốc gia khi tham gia vào tổ chức quốc tế.
Trọng lượng thực tế trong tương tác của một quốc gia bao gồm một chuỗi các chỉ số được thiết lập một cách khoa học, đượ c giới khoa học và kinh tế chính trị trên toàn thế giới thừa nhận và sử dụng để xây dựng hoặc điều chỉnh các chính sách vĩ mô trong hoạt động một quốc gia hay cuả các tổ chức quốc tế.
Không phải lúc nào các chỉ số này cũng được thừa nhận dễ dàng. Chẳng hạn Chỉ số mức độ cảm nhận tham nhũng (Corruption Perceptions Index – CPI) của Tổ chức Minh bạch quốc tế bị khá nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam nghi ngờ tính khách quan.
Vơí thời gian uy tín của Tổ chức Minh bạch quốc tế được nâng cao và CPI được thừa nhận rộng rãi, được các nhà chính trị sử dụng một cách biểu cảm và đôi khi khá tùy tiện.
Chẳng hạn chúng ta còn nhớ phát biểu của một quan chức cao cấp rằng “tình trạng tham nhũng ở Việt Nam trong những năm vừa qua là ổn định” . Ông này khẳng định như vậy chỉ trên một cơ sở duy nhất: chỉ số CPI và thứ hạng của Việt Nam trong Bảng xếp hạng toàn cầu của Tổ chức Minh bạch quốc tế gần như không thay đổi.
Mặt khác việc tìm hiểu các chỉ số này thực sự cần thiết vì cho phép chúng ta biết khá chính xác “Who is who ?” và giúp chúng ta nhìn nhận khách quan và toàn diện hơn một sự việc.
Chẳng hạn các Bảng xếp hạng của Time Higher Education và QS giúp chúng ta hiểu đúng tại sao ở Việt Nam hiện có hơn 200.000 thạc sĩ và cử nhân chưa có việc làm mà cũng không thể “xuất khẩu” đi đâu được như có người đề nghị.
Việc tìm hiểu một số chỉ số khác lại có thể giúp chúng ta hiểu tại sao nước này được mời mà nước khác chưa được mời vào tổ chức quốc tế nào đó. Cũng như thái đối xử của cộng đồng một tổ chức hợp tác quốc tế đối với từng quốc gia trong quá trình hoạt động về sau của tổ chức quốc tế này.
Tôi xin phép giới thiệu hai chỉ số thuộc loại này. Hai chỉ số cơ bản nhất xác định trình độ phát triển và khả năng phát triển bền vững của một quốc gia.
Bài viết này tổng hợp tư liệu từ một số nguồn. Tôi hệ thống lại để chúng ta cùng tìm hiểu.
Thứ nhất là Chỉ số phát triển con người (Human Development Index – HDI là chỉ số tổng hợp của tuổi thọ trung bình, tỷ lệ biết chữ, giáo dục, các tiêu chuẩn khác như phúc lợi trẻ em và một số nhân tố khác trong cuộc sống các quốc gia trên thế giới.
HDI giúp tạo ra một cái nhìn tổng quát sự phát triển của một quốc gia. Đây cũng là chỉ số xác định sự ảnh hưởng của các chính sách kinh tế đến chất lượng cuộc sống. Nghĩa là phản ánh cả chất lượng cuả sự phát triển.
HDI được đề xuất và phát triển bắt đầu từ năm 1990 bởi nhà kinh tế người Pakistan Manbub ul Haq và nhà kinh tế Ấn Độ Amartya Sen (giải Nobel kinh tế năm 1998).
Theo quan điểm của các họ c giả này mục tiêu của việc phát triển con người là nhằm mở rộng cơ hội lựa chọn cho người dân và tạ điều kiện để họ có thể thực hiện sự lựa chọn đó một cách tự do.
Những lựa chọn quan trọng và cơ bản nhất là được sống lâu và khỏe mạnh, được học hành và có được một cuộc sống ấm no. Từ đó họ đã xác định năm đặc trưng của quan điểm phát triển con người là:
Con người là trung tâm của sự phát triển.
Người dân vừa là phương tiện vừa là mục tiêu của phát triển.
Việc nâng cao vị thế của người dân (bao hàm cả sự hưởng thụ và cống hiến).
Chú trọng việc tạo lập sự bình đẳng cho mọi người dân về mọi mặt: tôn giáo, dân tộc, giới tính, quốc tịch…
Tạo cơ hội lựa chọn tốt nhất cho người dân về: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa…
HDI là một thước đo tổng quát về phát triển con người. HDI cho phép đo thành tựu trung bình của một quốc gia theo ba tiêu chí sau:
Sức khỏe: Một cuộc sống dài lâu và khỏe mạnh, đo bằng tuổi thọ trung bình.
Tri thức: Được đo bằng tỉ lệ số người lớn biết chữ và tỉ lệ nhập học các cấp giáo dục (tiểu học, trung học, đại học).
Thu nhập: Mức sống đo bằng GDP bình quân đầu người.
HDI được tính theo thang điểm từ 0-1.0. HDI đã được các tổ chức của Liên Hiệp Quốc thừa nhận là một chỉ số tương đối khái quát để đánh giá mức độ phát triển của một quốc gia.
Hàng năm Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) đều công bố xếp hạng toàn cầu các quốc gia theo chỉ số HDI. Các quốc gia được xếp hạng từ cao xuống thấp theo điểm số.
Cách phân loại quốc gia theo chỉ số HDI được UNDP công bố vào năm 2011 theo chỉ số HDI như sau: Điểm trên 0.8 là rất cao, từ 0,7-0,8 là cao, từ 0,52-0,7 là TB, từ 0,29-0,51 là thấp và dưới 0,29 là rất thấp.
Từ Bảng xếp hạng theo cách này ta có vài số liệu để tham khảo cho các nước châu Á:
Quốc gia tốt nhất là Nhật Bản xếp thứ 12 (HDI 0,901 điểm); Hồng Kông 13 (HDI 0,898 điểm); Hàn Quốc – 15 (HDI 0,897 điểm); Israel -17 (HDI 0,888 điểm); Singapore -26 (HDI 0,866 điểm); UAE (Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất) -30 (HDI 0,846 điểm); Qatar -37 (HDI 0,831 điểm); Malaysia -61 (HDI 0,761); Kuwait -63 (HDI 0,76; Trung Quốc -101 (HDI 0,687); Thailand -103 (HDI 0,682); Mông Cổ -110 (HDI 0,653); Philippines -112 (HDI 0,644); Indonesia – 124 (HDI 0,617); Việt Nam- 128 (HDI 0,593); Ấn Độ -134 (HDI 0,547); Campuchia và Lào-138,139 (HDI 0,522); Pakistan-145 (HDI 0,504); Bangladesh-146 (HDI 0,500);Myanmar-149 (HDI 0,483).
HDI của châu Á. Ảnh: Internet
Rõ ràng ngoài các yếu tố về giáo dục, y tế, thu nhập thì tham nhũng có ảnh hưởng trực tiếp đến HDI. Dễ dàng nhận thấy liên hệ này qua Xếp hạngmức độ cảm nhận tham nhũng (Corruption Perceptions Index – CPI) của Tổ chức Minh bạch quốc tế năm 2011 cho các nước châu Á có HDI cao nhất :
Singapore – 5 (CPI 92 điểm); Hồng Kông -12 (CPI 84 điểm); Nhật Bản – 13 (CPI 80 điểm); Qatar – 22 (CPI 72 điểm); UAE (Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất) – 28 (CPI 68 điểm); Israel – 36 (CPI 58 điểm); Hàn Quốc – 43 (CPI 54 điểm); Malaysia – 60 (CPI 43 điểm).
Amartya Sen là người châu Á đầu tiên nhận giải Nobel kinh tế. Có thể nói trong số tất cả các nhà kinh tế nổi tiếng thế giới hiện nay Amartya Sen đại diện chân chính nhất của các nước chậm phát triển nghèo khổ.
Amartya Sen cũng là người đầu tiên phát hiện ra mối liên hệ giữa nghèo đói và việc thiếu tự do dân chủ. Nhiều nước có thể chế độc tài trong tình trạng nghèo đói. Ngược lại, phần lớn các nước dân chủ đều là những nước giầu có.
Amartya Sen sau khi nghiên cứu quan hệ giữa nạn nghèo đói và mức độ dân chủ đã đưa ra một lời tuyên bố nổi tiếng: “Không bao giờ từng có một nạn đói nào đáng kể xẩy ra ở một nước độc lập, dân chủ và có tự do báo chí. Nạn đói chỉ xẩy ra ở những nước độc tài hay bị chiếm đóng”.
Ông là tác giả của cuốn sách nổi tiếng ”Development as Freedom” (“Phát triển là Tự do”). Trong đó, Amarrtya Sen khẳng định: tự do vừa là mục tiêu tối hậu, vừa là cứu cánh để phát triển kinh tế.
Theo ông, những mục tiêu mà các nhà kinh tế thường cho là tối hậu: tăng trưởng kinh tế, tiến bộ công nghệ, ngay cả hiện đại hóa, phải được đánh giá bởi mức độ đóng góp của chúng vào tự do của con người.
Tương tự như nghèo đói, tham nhũng thường lan rộng ở những nước thiếu tự do dân chủ. Hậu quả của tham nhũng là người dân không có được sự chọn lựa tốt nhất giá cả hàng hóa dịch vụ công, tư.
Tham nhũng làm tăng mọi chi phí quản lý về phía công quyền và trong xã hội, hạn chế sự sang tạo, và nuôi dưỡng tội phạm.
Tham nhũng làm giảm đầu tư trong ngoài nước, giảm phát triển. Quan trọng nhất là tham nhũng tạo điều kiện cho tư bản than hữu (cronyism) phát triển. Làm tăng chênh lệch giàu nghèo và căng thẳng trong xã hội.
Kết quả là làm mất động lực phấn đấu của thế hệ trẻ, của tài năng. Hạn chế sự phát triển của công dân dẫn đến việc làm giảm khả năng cạnh tranh của quốc gia. Tức là tiền đề cho sự thất bại của quốc gia.
Xin phép chuyến sang thảo luận chỉ số thứ hai. Chỉ số thất bại quốc gia. Chỉ số thất bại hay còn gọi là chỉ số FSI (Failed States Index) một chỉ số quan trọng thể hiện khả năng phát triển và phát triển bền vững của một quốc gia.
FSI Quốc tế. Ảnh: Internet
Từ lâu các nhà triết học đã cố gắng tìm hiểu nguyên nhân phát triển thành công của các quốc gia. Trong thế kỷ 20 các nhà khoa học xã hội dần đã đi đến kết luận khá thống nhất là văn hóa chính là yếu tố quyết định sự phát triển của một quốc gia.
Một trong những triết gia đầu tiên trong lĩnh vực này Max Weber (1864-1920) người Đức. Max Weber coi đạo đức Thiên chúa Tin lành là nền tảng tinh thần của Chủ nghĩa tư bản (CNTB) châu Âu ở các nước tư bản đầu tiên.
Max Weber cho rằng nền văn hóa Thiên chúa Catholique La Mã là kém thích hợp hơn cho phát triển CNTB và Thiên chúa Orthodox (Chính thống) càng kém thích hợp hơn nữa cho phát triển tư bản.
Riêng đối với văn hóa Khổng Giáo, Max Weberc có cái nhìn rất bi quan cho đó là một nền văn hóa hoàn toàn không thích hợp để phát triển CNTB.
Việc các quốc gia chịu ảnh hưởng nhiều của Khổng Giáo như Nhật, Hàn Quốc , Đài Loan, Singapore phát triển thành công cuối thế kỷ 20 làm các học giả phải tìm hiểu sâu hơn về việc thành công và đặc biệt sự thất bại của các quốc gia trong sự nghiệp phát triển.
Những học giả hàng đầu về lý thuyết thất bại của các quốc gia là Jared Diamon, Daron Acemoglu và James Robinson. Họ bắt đầu tìm cách lý giải việc thất bại/thành công sự phát triển tư bản của một quốc gia.
Các tác giả này đã trình bày quan điểm của mình trong cuốn sách nổi tiếng “Tai sao các quốc gia thất bại” (Why nations fail).
Tuy nhiên việc tìm cách định lượng khả năng phát triển thành công/thất bại của một quốc gia vẫn là môt câu hỏi bỏ ngỏ.
Câu hỏi này chỉ mới được giải đáp rất gần đây. Đã xuất hiện môt chỉ số mới đinh lượng sự thành bại của quốc gia.
Chỉ số thất bại hay còn gọi là chỉ số FSI (Failed States Index) là một chỉ số do Quỹ vì Hòa Bình (Fund for Peace) một Think tank độc lập với tạp chí Foreign Policy sáng lập ra.
Quĩ này đã tổng hợp liên tục 90.000 nguồn dữ liệu định lượng khác nhau (được công khai từ đầu năm đến cuối năm) của 177 quốc gia trên thế giới, để gộp thành 12 thang điểm đo từ mức độ phát triển kinh tế cho đến chỉ số về sự công bằng trong xã hội. Sau đó, tạp chí Foreign Policy công bố Bảng Xếp hạng các quốc gia được khảo sát theo chỉ số FSI bắt đầu từ 2005.
Việc Quỹ Vì hoà bình đưa ra khái niệm chỉ số FSI là cố gắng đầu tiên dùng phương pháp định lượng để nhận dạng các quốc gia thất bại và hoạch định các chính sách thích hợp với các quốc gia này.
Có 12 chỉ tiêu (Indicator) đánh giá, gồm 4 chỉ tiêu xã hội, 2 chỉ tiêu kinh tế, 6 chỉ tiêu chính trị. Mỗi chỉ tiêu được đánh giá theo thang điểm 10; điểm càng cao tức là càng thất bại, điểm càng thấp thì càng thành công. Cộng điểm của 12 chỉ tiêu này lại được tổng số điểm đánh giá mức độ thất bại, tức FSI của quốc gia đó.
Chỉ tiêu xã hội gồm: (I-1) Áp lực gia tăng dân số; (I-2) Sự di chuyển lớn dân tị nạn trong nội bộ quốc gia tạo ra nguy hiểm nhân đạo; (I-3) Viêc tồn tại các nhóm thù địch nhau hoặc các nhóm cuồng tưởng (paranoia); (I-4) Dân chúng di cư ra khỏi đất nước vì lý do kinh tế, chính trị.
Chỉ tiêu kinh tế gồm: (I-5) Trình độ phát triển kinh tế không đồng đều theo các nhóm dân hay là phân hóa giàu nghèo; (I-6) Suy thoái kinh tế nặng.
Chỉ tiêu chính trị gồm: (I-7) Mức độ tham nhũng của chính quyền; (I-8) Tình trạng suy thoái của các dịch vụ công; (I-9) Sự trì hoãn hoặc độc đoán trong quá trình chấp hành luật pháp và vi phạm nhân quyền một cách phổ biến; (I-10) Sự lạm quy ền các cơ quan an ninh (nhà nước bên trong nhà nước); (I-11) Tình trạng bỏ ra nước ngoài của những người tài; (I-12) Sự can thiệp của các nước ngoài hoặc thế lực chính trị bên ngoài.
Các quốc gia phân làm 3 loại tùy theo tổng số điểm FSI:
loại Báo động (Alert) có FSI từ 90 điểm trở lên, là các nước thất bại nhất, kém ổn định nhất;
loại Cảnh giác (Warning) có FSI từ 60 đến dưới 90 điểm;
loại Vừa phải (Moderate) – 30 đến dưới 60 điểm;
loại Bền vững (Sustainable) – dưới 30 điểm là các nước thành công, ổn định nhất.
Nghĩa là tổng số điểm FSI càng nhỏ thì càng thành công và ngược lại. 60 quốc gia xếp hạng từ 1-60 có thể coi là các quốc gia thất bại.
Dư luận một số nước châu Phi phản ứng mạnh khi thấy nước mình bị xếp hạng thấp, cho rằng đây chỉ là cách đánh giá theo quan điểm của phương Tây, còn đa số các nước không bình luận.
Trung Quốc năm 2009 bị xếp hạng thuộc nhóm quốc gia thất bại nhưng cũng không có phản ứng gì.Vì vậy cách đánh giá này được cộng đồng quốc tế coi là khá khách quan.
Tạp chí Foreign Policy số tháng 7-8/2010 đã công bố kết quả khảo sát các quốc gia thất bại năm 2010 (Wiki) như sau:
Somalia 3 năm liền đứng đầu bảng xếp hạng quốc gia thất bại với tổng số điểm FSI là 114,3..Tiếp sau là Chad, Sudan, Zimbabwe, Cộng Hòa Congo, Afghanistan, Iraq, Cộng hòa Trung Phi, Guinea, Pakistan, Haiti, Bờ Biển Ngà (Ivory Coast), Kenya, Nigeria, Yemen, Myanmar, Ethiopia, Đông Timor, Bắc Triều Tiên, Niger thuộc số 20 quốc gia thất bại cao nhất, loại Báo động.
Hầu hết những quốc gia này đều nghèo đói, rối loạn, chính trị độc tài chuyên chế, nhiều người dân vì khổ cực phải bỏ nước ra đi.
Các quốc gia xếp ở cuối bảng (số thứ tự lớn nhất) là các quốc gia ổn định nhất, tốt nhất. Có 13 quốc gia thuộc loại Phát triển Bền vững gồm: Na Uy thứ 177 ( FSI 18,7 điểm). Sau đó là Phần Lan, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Ai-len, Đan Mạch, New Zeland, Áo, Úc, Lu-xem-bua, Hà Lan, Ca-na-đa và Irelandthứ 165 (FSI 29,8 điểm).
Ở châu Á, quốc gia tốt nhất là Nhật Bản xếp thứ 164 (FSI 31,3 điểm); Singapore -160 (FSI 34,8 điểm); Hàn Quốc – 153 (FSI 41,3); Qatar -139 (FSI 51,8); UAE -137 (FSI 52,4); Mông Cổ -129 (FSI 60,1); Kuwait -125 (FSI 61,5)….Malaysia -111 (FSI 69,2); Việt Nam- 95 (FSI 76,6); Thailand -81 (FSI 78,8); Ấn Độ -79 (FSI 79,2); TQ -62 (FSI 83); Indonesia 61 (FSI 83,1; Israel-54 (FSI 84,6); Philippines -51 (FSI 87,1); Campuchia và Lào-40,41 (FSI 88,7); Myanmar-16 (FSI 99,4).
Xếp hạng của các nước thành viên Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc và G7 như sau: tốt nhất là Anh – thứ 161 (FSI 41,8), Pháp – 159 (FSI 34,9), Mỹ – 158 (FSI 35,3), Nga – 80 (FSI 79), Trung Quốc – 62 (FSI 83). Nhật Bản – 164 (FSI 31,3) và Đức -157 (FSI 35,4).
Tại sao một nước có nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới như Trung Quốc lại bị xếp vào nhóm quốc gia thất bại? Đó là vì Trung Quốc có chỉ số FSI quá lớn về các chỉ tiêu sau: – sức ép dân số (chỉ số Demographic Presures bằng 9, do có nhiều ngườ i Trung Quốc di cư ra nước ngoài), – phân hóa giàu nghèo quá chênh lệch (chỉ số phát triển không đồng đều Uneven Development bằng 9,2), – tồn tại vấn đề nhân quyền (chỉ số Human Rights bằng 8,9).
Trường hợp Việt Nam các chỉ tiêu từ I-1 đến I-12 của Việt Nam có số điểm như sau: 6,9; 5,2; 5,3; 5,9; 5,9; 6,6; 7,3; 6,4; 7,3; 6,0; 7,0; 6,2; Tổng cộng được 76,6 điểm, vẫn thuộc vào loại quốc gia cần được cảnh giác.
Có 3 chỉ tiêu cao từ 7,0 trở lên, đó là chỉ tiêu tham nhũng có số điểm là 7,3; chỉ tiêu nhân quyền – 7,3; chỉ tiêu thất thoát nhân tài -7,0.
Nhìn vào Bảng phong thần về chỉ số FSI. Tôi xin phép lưu ý hai trường hợp.
Thứ nhất là Trung Quốc. Việc Trung Quốc dù kinh tế phát triển rất nhanh vẫn bị xếp vào nhóm các quốc gia thất bại chính là cái giá phải trả cho việc phát triển “nóng” bất chấp sự hủy hại môi trường tự nhiên và môi trường xã hôi. Đó cũng giá phải trả cho sự bất tương xứng giữa sức sản xuất và quan hệ sản xuất (thể chế).
Thứ bậc của Trung Quốc trong Bảng xếp hạng theo FSI giúp chúng ta hiểu tại sao các bài viết cảnh báo về khả năng sụp đổ, “hạ cánh cứng” của kinh tế Trung Quốc xuất hiện thường xuyên.
Điều này cũng giúp chúng ta hiểu tại sao các tổ chức kinh tế thế giới không “mặn mời” Trung Quốc tham gia và ông Obama nhất định không chấp nhận “trật tự kinh tế quốc tế theo kiểu Trung Quốc”.
Thứ hai là trường hợp Ethiopia. Ethiopia được coi là một trong những cái nôi của loài người. Ethiopia cũng là quê hương của Nữ hoàng Saba, người tình của Hoàng đế Solomon huyền thoại trong Kinh Thánh.
Сuố i thế kỷ 1 TCN, trên bờ Hồng Hải châu Phi xuất hiện vương quốc Aksum của dân tộc Sabae (tiếng Do Thái cổ là Sheba). Quốc gia do dòng họ Solomon cai quản, họ gọi mình là dòng dõi trực tiếp của Thánh đế Solomon và hoàng hậu Saba (Sheba).
Kitô giáo trở thành quố c giáo của vương quốc Aksum vào thế kỷ thứ 4 dưới thời vua Ezana khiến Ethopia là nơi thứ 3 trên thế giới công nhận Kitô giáo là quốc giáo. Chỉ sau Armenia và Gruzia.
Bên cạnh La Mã, Trung Quốc và Ba Tư, Đế quốc Aksum của Ethiopia được xem là một trong 4 cường quốc lớn nhất thế giới vào thế kỷ thứ 3.
Trong suốt thời kỳ Tranh giành thuộc địa ở châu Phi, Ethiopia là quốc gia châu Phi duy nhất bên cạnh Liberia giữ vững được chủ quyền là một quốc gia độc lập. Đồng thời là một trong 4 thành viên châu Phi thuộc Hội Quốc Liên (1936). Sau một giai đoạn ngắn bị người Ý chiếm đóng, Ethiopia tự giải phóng (có Anh giúp) và trở thành thành viên sáng lập của Liên hiệp quốc.
Tóm lại Ethiopia là một dân tộc kiêu hãnh có một quá khứ huy hoàng và từng là niềm tự hào của châu Phi.
Người Ethiopia đã thất bại vì “ngủ quên” trên vinh quang của quá khứ. Có thể kể thêm trường hợp Hy Lạp.
Xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập là không thể đảo ngược. Mỗi quốc gia trong ván cờ toàn cầu hóa cần thường xuyên theo dõi, cần biết rõ một cách định lượng “trọng lượng thực tế trong tương tác” – chỉ số sức khỏe của mình so sánh với các quốc gia khác để tìm cách khắc phục điều chỉnh.
Chỉ có ứng xử như vậy quốc gia mới mong được mời tham dự vào cuộc thi đấu toàn cầu không có giải lao và điểm dừng.
Chỉ có như vậy mới tránh được nguy cơ bị đẩy ra chầu rìa hay xuống sân sau trong tiến trình
—
Там Чан Конг – TamHmong
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)