Thứ Ba, 12 tháng 4, 2016

Kỷ nguyên của dối trá (chúng ta bị lừa mị như thế nào)?







Phỏng vấn nhà xã hội học nổi tiếng, giáo sư Zygmunt Bauman do Jacek Żakowski - phóng viên tạp chí Polityka thực hiện tháng 12.2004. Trích từ tập “Hành trang cần thiết của người trí thức”. 

Thái Linh dịch.

Jacek Żakowski: - Ông không thể tưởng tượng được tôi đã vui mừng thế nào khi ông nói về „niềm đam mê lột trần những dối trá bao che trách nhiệm về những bất hạnh của con người...” trong cuộc trò chuyện với Keith Tester. Nhưng Tester đã không khai triển mạch này. Và tôi vẫn không biết những dối trá ấy là gì. Giờ ta hãy thử vạch trần chúng một cách triệt để.

Zygmunt Bauman: - Triệt để? Anh định triệt để vạch trần và đưa đám sự dối trá?
Tôi rất muốn ông ít nhất cũng hạ gục vài sự dối trá lớn.
Thế thì anh đã ở thế yếu rồi. Cuộc chiến với dối trá là bất khả chiến thắng. Dối trá tự bản chất là vĩnh cửu và có ở khắp nơi. Georges Duhamel đã rất thông thái khi nói rằng: „Giả dối là nguyên tắc, sự thật là ngoại lệ”.

Ông cũng cho rằng như vậy?

Điều này có thể dễ dàng chứng minh một cách lô gích. Cho mỗi câu hỏi chỉ có một câu trả lời đúng. Thế nhưng các câu trả lời dối trá thì có cả đống.

Vậy vì sao „niềm đam mê lột trần dối trá” lại dẫn lối cho một trong những nhà xã hội học đương đại vĩ đại nhất?

Hẳn là anh muốn nói đến những dối trá chính trị?

Nếu như chúng thường bao che „bất hạnh của con người” nhất.
Điều này không mấy thú vị. Dối trá chính trị sớm muộn gì cũng trở nên rõ ràng đối với tất cả mọi người. Chẳng ai ngạc nhiên khi nghe thấy rằng Blair nói dối về vũ khí khủng khiếp của Hunsein, hoặc rằng Đức đã nói dối về cuộc tấn công của Ba Lan vào đài phát thanh ở Gliwice. Ở đây chẳng cần đến triết học lẫn xã hội học. Những thứ ấy chỉ làm tôi mất thời gian. Tôi quan tâm đến những lò xo ẩn quyết định số phận của những con người bình thường – như anh và tôi.

Ông tin là có „những lò xo ẩn của số phận”?

Có những quá trình vĩ đại mà chúng ta tiếp nhận như những đòn đánh hay bản án của số phận, mặc dù về bản chất chúng là hậu quả hành động có ý thức ít hay nhiều của ai đó. Có những sự kiện có vẻ như bất ngờ hay bất khả kháng, nhưng lại xuât phát từ chuỗi quyết định của con người, từ hệ thống các mối liên kết mà chúng ta có thể có ảnh hưởng nếu biết tự ý thức.

Những âm mưu lớn nào đó?

Những tham vọng thầm kín thì đúng hơn, chúng vẫn luôn hiên hữu nhưng ngày nay chúng đặc biệt phức tạp và khó tránh khỏi bởi có tồn tại sự phụ thuộc lẫn nhau hiển nhiên của các vận mệnh toàn cầu. Chuyện một tia sét từ trời quang đánh trúng đầu người công nhân đang làm việc trong nhà máy ở Leeds hay ở Warszawa có thể là hậu quả của điều gì đó xảy ra ở Singapore hay New York. Người công nhân chẳng biết gì về điều ấy và cũng chẳng có chút ảnh hưởng nào đối với nó. Hơn nữa – thậm chí Gordon Brown (bộ trưởng tài chính Anh), tổng thống Pháp, thủ tướng Đức hay thủ tướng Ba Lan cũng chẳng có ảnh hưởng gì.
Điều này chưa có gì chung lắm với sự dối trá.
Nhưng sự phụ thuộc lẫn nhau toàn cầu khiến nguyên nhân của vị thế chúng ta thoát khỏi các quan sát của con người. Điều này mở ra một không gian chưa từng thấy trong lịch sử cho những sự dối trá và lừa mị vĩ đại. Trước kia không có ngần ấy chỗ cho dối trá, bởi vì các mối nguy hiểm và cách bảo vệ trước chúng được hình thành trong mối liên hệ hiển nhiên. Nếu có bệnh dịch thì cần phải đóng cửa không cho người lạ vào. Nếu có lũ lụt thì phải leo lên ngọn đồi khô ráo. Ngày nay chúng ta không hiểu được mối liên hệ giữa các hiểm nguy và hành động của chúng ta. Ta được biết về chúng từ những người thông thái viết trên báo chí. Ô nhiễm không khí, hành tinh nóng lên, lỗ thủng tầng ô zôn, nguồn gốc của tình hình kinh tế, nguyên nhân khủng bố, lý do thất nghiệp – đó không phải là những hiện tượng có thể nắm bắt được bằng các giác quan tự nhiên. Các chuyên gia nói cho chúng ta nghe về chúng. Nếu các chuyên gia không nói, chúng ta không biết mình đang đứng trước nguy hiểm. Hơn thế nữa – vì chúng ta phải dựa vào ý kiến của các chuyên gia để đánh giá tình hình và một người bình thường không có cách gì kiểm soát họ, người ta có thể nói dối chúng ta thoải mái. Các chuyên gia có thể nói với chúng ta rằng khí nhà kính không có hại, rằng thuyết đơn phương tốt hơn việc xây dựng cộng đồng quốc tế, rằng đó là con đường đúng đắn duy nhất đưa đến phát triển, rằng sô cô la hay rượu kéo dài tuổi thọ hoặc ngược lại.

Và theo ông là không có cách gì xác minh điều đó.

Không có! Thực tế ai cũng có thể ngang nhiên nói dối chúng ta. Trước kia ai cũng rõ là các chính trị gia nói dối, bởi thế người ta tìm sự thật ở các chuyên gia, những người có thẩm quyền, các trí thức, những nhà thông thái. Ngày nay các chuyên gia, trí thức, những nhà thông thái nói dối cũng ngang nhiên và nhẹ nhàng như các chính trị gia mỗi lúc một nhiều hơn. Bởi vậy khi chúng ta nghe thấy theo các nghiên cứu gần nhất một thứ men nào đấy có trong thức ăn kéo dài hoặc rút ngắn tuổi thọ, thì mọi người lập tức hỏi ngay: „Ai tài trợ cho nghiên cứu này?”. Ngày càng phổ biến ý kiến cho rằng nếu nghiên cứu được tập đoàn sản xuất thuốc lá đặt hàng thì kết quả sẽ là thuốc lá tốt cho sức khỏe. Chắc hẳn chẳng còn luận điểm nào vô lý đến mức không thể đánh đổ nó bằng kết quả các nghiên cứu tiến hành trong các trung tâm được công nhận.

Nhưng có thể đánh đổ nó bằng các nghiên cứu khác.

Chính thế! Có thể đánh đổ hoặc chứng minh luận điểm đúng đắn nhất hay ngu ngốc nhất dễ dàng như nhau! Và chúng ta được gì? Khi tra từ khóa „sự dối trá” ở Google tiếng Ba Lan, tôi tìm thấy trong vòng hai phần mười giây hơn 10400 tài liệu. Con người có thể làm gì với điều này? Còn với từ khóa „sự an toàn” gần đây tôi nhận được địa chỉ tới 17 triệu tài liệu. Tôi có nhờ vậy mà thông thái hơn không? Paul Virilio viết về „quả bom thông tin” mà theo ông còn nguy hiểm đối với sự tồn tại của loài người hơn cả bom nguyên tử, bởi nó ngăn cản việc hiểu được những gì đang xảy ra.

Và việc đưa ra những quyết định hợp lý.

Việc phán đoán đã trở nên bất khả rồi, nói gì đến quyết định hợp lý!
Do đó ngày nay sự dối trá căn bản đầu tiên là luận điểm rằng chúng ta có thể phân biệt dối trá và sự thật?
Chúng ta không biết phân biệt và ngày càng không biết. Đó là siêu dối trá của tư duy duy lý đương đại, vô sở bất tại và đang ngày một hùng mạnh. Chúng ta biết phân biệt dối trá và sự thật ư?
Nhưng đó chưa phải là một trong những điều dối trá vĩ đại đương thời „bao che trách nhiệm về bất hạnh của con người.”
Đó là điều dối trá mở ra khả năng gói ghém giả dối tránh nhiệm vào bất cứ cái hộp nào.
Ví dụ?
Ví dụ sự an toàn.

Nghĩa là?

Ở đây có lẽ tôi đã tháo dỡ ra được điều gì đó, nhưng tôi đề nghị kiên nhẫn một chút. Anh có nhớ lý thuyết của Bahtin nói rằng bản chất của quyền lực là dựa trên nỗi sợ không? Trước hết là nỗi sợ vũ trụ mà hầu như mỗi người đều cảm thấy từ thủa lọt lòng. Mỗi khi nghĩ đến vũ trụ, nhìn những cơn sóng lớn, những vực sâu, những ngọn núi ngất trời, chúng ta cảm thấy sự nhỏ bé, mong manh, bất lực của mình. Đó là nỗi sợ tự nhiên mà từ đó tôn giáo, văn hóa, triết học lấy được sức mạnh. Nỗi sợ thứ hai là nỗi sợ chính quyền. Sức mạnh của quyền lực chính trị dựa vào đó. Nỗi sợ chính quyền có thể được tạo ra. Để đạt đến sức mạnh của nỗi sợ vũ trụ, quyền lực chính trị phải được cắt đo theo cỡ quyền lực của Thượng đế. Nó phải có quyền năng rộng khắp, vô sở bất tại và bất khả thấu. Đó phải là quyền lực tầm cỡ của cả Kinh Thánh và Sách Job gộp lại. Bởi Job rốt cuộc đã cảm nhận được, điều đó có nghĩa là Thượng đế không chỉ tạo ra, mà còn thay đổi luật lệ theo ý mình, vì vậy không có sự tuân phục luật lệ Thượng đế nào bảo đảm an toàn cho chúng ta trên trần thế. Leszek Kołakowski đã đào sâu vấn đề này thật tuyệt vời. Và trước đó Carl Schmidt đã viết: „quyền lực thực sự tự chủ phụ thuộc vào sức mạnh thực hiện các ngoại lệ”. Sư phụ trong lãnh vực này là Stalin, người đã khủng bố được toàn thể xã hội, tới mức thậm chí những người phục tùng nhất cũng không chắc chắn được về ngày mai, bởi vậy họ biết ơn hắn chỉ bởi hắn không tống họ vào nhóm những kẻ nổi loạn. „Stalin yêu dấu chăm lo cho người lương thiện – Người đã không đày tôi đi Siberia”.

Nhưng cái đó liên quan như thế nào đến thế giới ngày nay?

Vâng, mỗi chính quyền, bao gồm cả chính quyền ngày nay, để thực hiện vai trò của mình, cần tính chính danh gieo rắc trên nỗi sợ. Đó không thể là nỗi sợ vũ trụ như trong thời ai Cập cổ đại – bởi chính quyền của chúng ta là thế tục. Nhất thiết cần có nỗi sợ chính quyền. Chính quyền đứng trước công dân phải có thể nói với anh ta: „Chính chúng tôi bảo vệ anh trước các hiểm nguy đang rình rập. Chỉ có việc tuân phục các luật lệ do chính quyền đặt ra cho cộng đồng chúng ta mới khiến anh được an toàn!” Nhưng chính quyền ấy ngày nay phải bảo vệ chúng ta trước điều gì? Trước kia các hiểm nguy của thế giới rất hiện thực. Các hiểm nguy là thiên tai, súc vật, kẻ lạ. Chính quyền phải bảo vệ nhân dân trước những điều này. Sau đó là các chu trình kinh thế, khủng hoảng, thất nghiệp. Từ thời Bismarck nhà nước nhận phần bảo vệ trước những hiểm nguy khác nữa, sau thế chiến II nó mang hình thức nhà nước xã hội đảm bảo cho mọi người điều kiện sống tối thiểu và bảo hiểm cho cá nhân trong các trường hợp bất hạnh – ốm đau, thất nghiệp, tàn tật, nghèo đói và tuổi già. Các nhà nước của thế kỷ hai mươi theo một nghĩa chính trị nào đó là các hợp đồng bảo hiểm. Mô hình này đang kết thúc. Nhà nước đương đại đã không còn biết bảo hiểm cho các công dân của mình trước các bất hạnh cá nhân. Không có cả nguồn lực lẫn ý muốn làm điều đó. Nó đẩy trách nhiệm này cho các lực thị trường và sự khôn ngoan của cá nhân. Ai không xoay xở được sẽ trở thành „người bỏ đi”. Thế giới đương đại là thế giới của „bản kiểm kê thiếu”. Thứ gì không sử dụng được hoặc đã bị chán sẽ bị vứt bỏ. Trước tiên những thứ bị vất vào sọt rác mỗi lúc một nhiều hơn. Giờ đây cả con người, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các châu lục cũng bị vứt vào sọt rác. Châu Phi trở thành „rác thải của toàn cầu hóa”. Khi ngọn gió chính trị hay kinh tế thay đổi, gần như mỗi người chúng ta đều có thể ngày một ngày hai trở thành rác. Và càng lúc càng khó tin được việc ai đó bảo vệ chúng ta trước điều đó. Nhất là nhà nước. Rủi ro cuộc sống đã bị tư nhân hóa và cá thể hóa.

Nhưng sự dối trá nằm ở đâu?

Tôi đang tiến đến nó, nhưng ở đây bắt đầu có các bậc thang. Bởi chính quyền, để có tính chính danh, để biện minh cho đòi hỏi phục tùng, phải là lá chắn duy nhất trước các nguy hiểm đe dọa công dân và là người dẫn đường đến thế giới an toàn. Chính quyền đương đại, vẫn mang tính địa phương như thời xưa, nhưng hoạt động trong thế giới toàn cầu hóa, đã không thể và không muốn bảo vệ chúng ta trước những đỏng đảnh của thị trường, trước số phận bất hạnh, trước rủi ro bệnh tật. Có sự cám dỗ - và do đó tồn tại khả năng - chuyển chức năng bảo vệ trước nỗi sợ mà nhân danh nó chính quyền đòi hỏi chúng ta phục tùng từ phạm vi này sang phạm vi khác.

Sang phạm vi nào?

Ở đây tôi có chút khó khăn về ngôn ngữ. Để chỉ việc không có các nguy cơ trong tiếng Ba Lan chỉ có một từ - an toàn. Tiếng Anh có hai từ: security và safety. Security liên quan đến các mối liên hệ xã hội – thứ ở Ba Lan gọi là an toàn xã hội – như thu nhập ổn định, thoát nghèo, có nhà ở, hy vọng vào tuổi già yên ổn. Còn safety liên quan chủ yếu đến sự bảo toàn cơ thể – sự chắc chắn là tôi không bị ai đầu độc bằng thức ăn hay nước uống, không bị ai trộm hay cướp, không bị ai bắn, không bị ai bắt cóc mất con, không bị đặt bom... Chính quyền đương đại ngày càng hướng sự chú ý của nhân dân theo hướng này nhiều hơn. Không thể hứa hẹn cho nhân dân security và một xã hội nơi họ có thể cảm thấy secure, chính quyền càng ngày càng nói nhiều hơn về các hiểm họa safety. Họ muốn lấy được lòng biết ơn của chúng ta, khi không có bom nổ, khi ta không bị bọn côn đồ đánh, hay khi ăn mày bị quét sạch khỏi đường phố. Báo động vàng. Báo động da cam. Báo động đỏ. Phù, thành công rồi, cuộc tấn công đã bị vô hiệu hóa! Càng ít security, càng nhiều hưng phấn và ồn ào quanh safety. Có thể bằng cách này làm nhân dân nhầm lẫn, mất cảnh giác, hướng sự chú ý của chúng ta khỏi những bê bối và bất lực của chính quyền.
Điều này có thể được khẳng định trong các so sánh quốc tế. Cuộc chiến với khủng bố nóng bỏng nhất ở những nơi nhà nước ít quan tâm nhất đến phạm vi security hoặc từ bỏ chúng một cách đột ngột nhất – Mỹ, Anh, Ba Lan. Những nước không có gì đặc biệt xảy ra với security thì cuộc chiến này có vẻ nhẹ nhàng hơn.
Nhưng điều này không chỉ liên quan đến cuộc chiến với khủng bố. Trong các phạm vi khác của safety mức độ căng thẳng cũng phân bố tương tự. Càng ít security, thì cuộc chiến với khói thuốc lá, với việc vượt tốc độ trên đường bộ, với bạo hành gia đình và các thể loại côn đồ... càng ồn ào. Ở Mỹ ám ảnh chống thuốc lá bắt đầu cùng với chủ nghĩa tân tự do và lớn lên cùng nó. Ở Đức chính quyền bắt đầu nói về việc lái xe vượt tốc độ trên đường cao tốc khi nhà nước xã hội bắt đầu bị cắt giảm. Chắc không phải ngẫu nhiên mà ở châu Âu luật cấm hoàn toàn việc hút thuốc lá trong nhà do chính Ireland đưa ra,nước có chỉ số cạnh tranh cao nhất – nghĩa là, nói cách khác, ít safety nhất, các rủi ro cuộc sống rõ ràng nhất và nhà nước ít mang tính phúc lợi nhất.

Ông có cảm giác là bằng cách đó, chính quyền đánh lạc hướng sự chú ý của người dân khỏi những cuộc cải cách đau đớn?

Tôi không biết chứng minh điều này. Nhưng tôi nhìn thấy sự đồng thời rất rõ ràng. Và tôi cũng thấy những người bị tước mất security dễ dàng đồng ý với các hạn chế được biện minh bằng nhu cầu bảo vệ safety cho họ hơn. Tôi đã quan sát phản ứng của hàng nghìn người lang thang ở sân bay London khi các chuyến bay đi Mỹ bị hoãn vì có báo động khủng bố. Không có ai chửi bới, mọi người ngoan ngoãn chờ đợi. Họ nói về cái chính quyền đã hoãn các chuyến bay với sự ngưỡng mộ và lòng biết ơn. Người ta mất kỳ nghỉ hay công chuyện ở Mỹ cũng chẳng sao. Mọi người đều hạnh phúc vì chính quyền đã lo lắng cho họ. „Nếu chúng ta ngồi cùng máy bay với bọn khủng bố thì sẽ ra sao? Nghĩ đến cũng đã thấy sợ rồi!”. Thực kiện là chẳng có tên khủng bố nào bị bắt và không có dấu vết đáng tin nào được đưa ra về việc ai đó có thể bị nguy hiểm không khiến cho lòng biết ơn của công dân giảm xuống.

Nhưng sự dối trá ở đâu?

Tôi không biết có sự dối trá không. Nhưng tôi biết là có một không gian mới cho dối trá và lừa mị (manipulation) dân chúng. Tôi không biết bọn khủng bố có thực sự có kế hoạch gì không. Nhưng tôi biết rằng nếu chính quyền tự nghĩ ra báo động đó, như Stalin luôn liên tiếp nghĩ ra những âm mưu gây tranh cãi, thì chính quyền sẽ có được lòng biết ơn của mọi người mà gần như không tốn chút hơi sức nào. Không thể kiểm tra được điều này trên thực tế. Rủi ro ở đây khác với các hiểm nguy khác, bởi nó không nhìn thấy được, khó đo đếm và không được xác minh.
Có thể dễ dàng khẳng định có vụ nổ nào không hay những người về hưu có được tăng lương hưu hay không. Nhưng rất khó đánh giá có rủi ro thực tế về việc bom nổ hay không. Chắc luôn có rủi ro nào đó.
Xét từ số báo động giả và từ nhưng dối trá chính trị bị đưa ra ánh sáng, có thể giả định là ở đây chúng ta có vấn đề.

Nhưng có lẽ ông cũng tin là có khủng bố chứ?

Tôi tin là có và tôi tin chính quyền chiến đấu với khủng bố, nhưng tôi cảm thấy họ lạm dụng - có thể là một cách có ý thức – nỗi sợ mà khủng bố gây ra để xóa đi các khía cạnh ít vẻ vang hơn trong hoạt động của họ. Những cái xe tăng bao vây sân bay London có phải là để chiến đấu với khủng bố? Hay nhiều hơn là để tăng cảm giác bị đe dọa và cảm giác biết ơn của công dân đối với chính quyền đang bảo vệ họ và nhờ nó mà họ giữ được mạng sống? Anh có tưởng tượng được việc dùng xe tăng để tìm một phụ nữ mang chất nổ trong người và sẽ làm nổ máy bay không? Trong cuộc chiến với không tặc xe tăng ít hiệu quả, nhưng chúng gây ấn tượng mạnh với những người đang sợ hãi. „Họ lo lắng cho chúng ta, chăm sóc chúng ta, bảo vệ chúng ta, chúng ta mang ơn họ về mạng sống”.

Ông cho rằng chính phủ và các cơ quan an ninh ở Mỹ, Anh, Ba Lan hay Ý đã có những âm mưu để biến chúng ta thành bầy người sợ hãi, mất phương hướng, dễ bị lừa mị và mất tự chủ?

Tôi nói về sự bất khả thấu nguyên nhân của các mối đe dọa safety, về sự khó khăn ngày càng lớn trong việc điều tra sự thật, về phạm vi ngày một rộng hơn của việc sử dụng sự dối trá. Trong gương mặt khủng hoảng tính chính danh của chính quyền xuất phát từ những quá trình toàn cầu hóa, phải chăng nhà nước có khuynh hướng tạo ra cảm giác bị đe dọa trong phạm vi nó cảm thấy hơi chắc chắn hơn và có thể cho thấy nó làm được nhiều hơn?

Nếu nó có (khuynh hướng ấy) thì sao?

Đây là câu hỏi căn bản cho nhà xã hội học. Thế giới thay đổi ra sao khi mọi người không còn hy vọng vào security và chỉ chú ý tới safety? Họ sẽ sống ra sao, nếu sự chú ý của họ chỉ tập trung vào việc mua sắm lên đời các hệ thống báo động, cửa sắt, khóa, áo chống đạn, mặt nạ khí và có trời mới biết được gì nữa... Hiển nhiên là dẫu có cả đám hỗn độn ấy thì nguồn gốc của những bất an và căng thẳng vẫn còn nguyên không được động chạm đến. Ngược lại, một cơ chế tự thúc mình được khởi động – càng nhiều sợ hãi, mớ hỗn độn quanh các hệ thống báo động, cửa, khóa càng lớn. Mớ hỗn độn càng lớn, nỗi sợ hãi càng mạnh. Nỗi sợ không được xoa dịu sẽ tìm nguồn và sẽ cần đến mỗi lúc một nhiều hơn các đối tượng khác nơi nó có thể giải tỏa. Ở đây hiệu quả phụ nguy hiểm sẽ là những căng thẳng giữa các sắc dân hay giữa các nền văn hóa. Trong xã hội đa sắc tộc của phương Tây ngày nay điều này có nghĩa là sự xói mòn lòng tin và thống nhất xã hội. Ở đây đã không còn là chuyện đùa nữa. Chúng ta đi đến tâm điểm của bản sắc xã hội, của nền dân chủ và cấu trúc chính trị chính là dựa vào lòng tin và sự thống nhất xã hội. Và kết quả cuối cùng là người ta làm quá ít để chuẩn bị cho chúng ta bước vào cuộc sống trên hành tinh toàn cầu hóa và chung sống an toàn.

Đây là điều ông nghĩ đến khi nói về việc „lột trần những dối trá bao che trách nhiệm về bất hạnh của con người”?

Đây chỉ là một trong số các ví dụ.

Thế các ví dụ khác?

Anh hãy lấy ví dụ cách tính tổng sản phẩm nội địa, tức là GDP. GDP luôn luôn tăng, nhưng sao người ta có vẻ không cảm thấy cuộc sống tốt hơn nhiều? Vì sao?
Vì sự tăng trưởng nhắm vào vài phần trăm những người tự cường nhất vốn vẫn là những người giàu nhất?
Đó là một nguyên nhân. Nhưng bản thân tăng trưởng GDP thực chất là một siêu dối trá toàn cầu, nếu người ta xem nó là thước đo cho sự phồn vinh của con người. Bởi vì GDP ghi nhận lượng tiền qua tay trong phạm vi một nền kinh tế nào đó. Nhưng nó không xem xét tới một khu vực rộng lớn của kinh tế đạo đức, kinh tế gia đình, láng giềng, môi trường. Khi ngồi một mình trong nhà ăn hay quán bar và nuốt đồ ăn nhanh, thì tôi chẳng thấy dễ chịu gì cho lắm, nhưng tôi thực hiện một nghĩa vụ xã hội nào đó, bởi hóa đơn tôi sẽ trả được tính vào thành phần của GDP và làm cho chỉ số tăng trưởng kinh tế lớn hơn. Nhưng khi vợ tôi nấu cho tôi bữa trưa và chúng tôi ăn cùng con cái, thì điều đó có thể sẽ dễ chịu, lành mạnh hơn đối với chúng tôi, nhưng chúng tôi sẽ cư xử phi xã hội và phi kinh tế, vì GDP không ghi nhận điều đó. Khi gia đình tan rã và cả nhà đều chui ra quán hay các bar ăn nhanh, chắc hẳn hạnh phúc và cả nhân tính của chúng tôi cũng bớt đi, nhưng GDP lại tăng. Khi ông hàng xóm giúp tôi cắt cỏ, còn tôi giúp ông ấy sửa giàn hoa, cả hai chúng tôi đều được hưởng lợi gấp đôi – vì công việc được hoàn tất và nhân thể, chúng tôi cảm thấy dễ chịu hơn trong khu vực của mình. Nhưng GDP sẽ thiệt hại vì điều này, vì mỗi người chúng tôi đều có thể thuê thợ và hóa đơn sẽ được thống kê, đánh thuế. Tương tự, khi tuổi cao sức yếu, tôi sẽ dễ chịu nếu được con gái chăm sóc, hơn là phải đến cái trại nào đó chờ chết. Nhưng sự chăm sóc lấy tiền được GDP ưu ái hơn, còn sự chăm sóc từ trái tim theo góc nhìn thống kê kinh tế là công việc vô giá trị.
Đồng ý, có thể dễ dàng tưởng tượng mô hình phát triển kinh tế dựa trên phát triển dịch vụ, nơi người ta làm việc và thu nhập mỗi lúc một nhiều hơn khi cung cấp dịch vụ lẫn nhau, nhưng đồng thời tất cả mọi người đều tốn tiền và mất chất lượng sống, bởi một mặt họ chi tiêu mỗi lúc một nhiều hơn, nhưng mặt khác lại bị mất đi những niềm vui giản dị, những mối liên hệ tình cảm tích cực với người khác thay cho những liên hệ kinh tế lạnh lùng. Nhưng đó có phải là dối trá không?
Đó là sự dối trá nguy hiểm. Thực chất người ta đo cái điều biểu hiện sự xói mòn xã hội và tan rã gia đình, nhưng chúng ta trưng ra như là thành công kinh tế hay thành công về văn minh! Điều có thật và đau đớn, được cảm nhận rộng rãi là mất mát, lại được kinh tế thị trường trình bày như lợi ích. Người ta gói ghém nỗi bất hạnh của sự tan rã các mối liên kết giữa người với người hay những phiền phức thông thường trong sự dối trá dựa trên trao đổi thương mại của tăng trưởng kinh tế. Ai cũng muốn làm việc cách nhà 500m, đi bộ đi làm, về nhà ăn trưa, sau giờ làm chăm vườn cùng lũ trẻ và cùng nấu bữa tối. Nhưng từ góc nhìn GDP thì sẽ tốt hơn nếu anh làm việc cách nhà 50 km. Khi đó anh tốn khối tiền và thời gian để đi làm. Tất nhiên anh sẽ ăn quán. Anh đặt pizza cho bữa tối, trẻ con do cô giúp việc trông, vườn thuê thợ làm vườn. Thêm vào đó, anh sẵn lòng làm thêm ngoài giờ hay một công việc thứ hai, vì lúc nào anh cũng thiếu tiền cho mọi thứ. Có thể trên danh nghĩa anh giàu hơn rất nhiều, nhưng thực tế lại nghèo và bất hạnh hơn. Chính phủ khoác lác bằng tăng trưởng GDP, nhưng không nói tăng trưởng GDP làm tăng chất lượng cuộc sống ở mức độ nào, và hủy hoại chất lượng cuộc sống ở mức độ nào. Khi mọi nhu cầu và khao khát của chúng ta - từ ăn uống đến tình dục - đều được thị trường thỏa mãn và khi toàn bộ cuộc sống chúng ta được quy về việc thu chi tiền, chúng ta trở thành những sinh vật bất hạnh nhất, cô đơn nhất và vô nghĩa lý nhất trên trái đất. Tất nhiên chúng ta có thể thương mại hóa toàn bộ phạm vi cuộc sống vốn dựa vào các mối quan hệ đạo đức, vào cộng đồng, sự tự lập, nhưng cuộc sống khi đó trông sẽ ra sao?

Ông tự nghĩ ra điều đó, hay ông đọc ở đâu?

Khó có thể đọc được điều này ở đâu. Ban đầu tôi cảm thấy nó. Sau đó tôi đã tìm tòi rất lâu. Phê phán truyền thống đối với chủ nghĩa tư bản tua-bin (turbocapitalism) dựa vào việc vạch trần sự leo thang những thèm khát bị thúc đẩy bởi các chiêu tiếp thị ngày càng tinh vi và các quảng cáo ngày càng quyền lực. Sự dối trá này đã được biết đến từ lâu. Kinh tế đương đại ngày càng dựa nhiều hơn vào việc nghĩ ra một sản phẩm mới (hoặc bề ngoài là mới), sau đó nhờ vào tuyên truyền mạnh mẽ để đánh thức những ham muốn mới, nhồi vào đầu mọi người ý nghĩ là thiếu những sản phẩm ấy họ sẽ không hạnh phúc. Truyền thông sống bằng quảng cáo không thể không tham gia vào siêu dối trá của nền văn minh tiêu dùng. Sự dối trá này từ vài chục năm nay đã đẩy chúng ta vào nỗi bất hạnh mỗi lúc một lớn hơn của những ham muốn không được thỏa mãn, được khơi dậy một cách giả tạo. Nhưng sự dối trá tồi tệ nhất của nền kinh tế dựa trên quảng cáo là việc toàn bộ viễn cảnh về cuộc sống và ý nghĩa tồn tại trong sự tuyên truyền này bị giới hạn vào thứ dầu gội đầu mới, thứ bột làm thạch hay cái xe mới.
Sự dối trá này không chỉ „bao che sự bất hạnh”, mà đơn giản là tạo ra nó.
Nó tạo ra đồng thời bao che. Nguồn cơn của bất hạnh là sự leo thang ham muốn vượt quá khả năng thỏa mãn chúng. Nền kinh tế dựa vào tiêu dùng sẽ sụp đổ theo cách khác. Vỏ bọc do quảng cáo tạo ra nằm ở ảo giác rằng có thể thỏa mãn ham muốn. Song sự thật là trong xã hội tiêu dùng cơ hội để thỏa mãn chúng rất thấp. Người ta đổ nhiều tiền bạc và công sức nhất vào việc đánh thức ham muốn, chứ không phải vào việc thỏa mãn chúng. Để thỏa mãn những ham muốn bịa đặt bị khơi dậy một cách giả tạo chúng ta làm việc cật lực, hành hạ người thân, hủy hoại những phạm vi sống phi thị trường (không có ý nghĩa kinh tế) của chúng ta. Cuộc đuổi bắt này không bao giờ chấm dứt. Không có vạch đích trên đường đua tiêu dùng. Khi anh làm việc cật lực và rốt cuộc bỏ ra được đủ tiền mua nhà hay xe hơi, những thứ sẽ phải mang lại hạnh phúc cho gia đình anh, ngay sau đó anh sẽ nhận được quảng cáo xe hơi từ chính hãng ấy, cái xe sẽ mang lại nhiều hạnh phúc hơn nữa, hoặc quảng cáo nhà nơi sẽ có nhiều tình yêu và hơi ấm gia đình hơn. „Hãy mua đi, rồi bạn sẽ hạnh phúc”. Những sự dối trá vĩ đại của xã hội tiêu dùng nằm ở chỗ những lời hứa mang đến kết quả mong muốn phải bị vi phạm hàng ngày. Trong hệ thống tiêu dùng chúng ta như Syzyf hay đúng hơn như con lừa đuổi theo củ cà rốt ở đầu gậy, hoặc như con chuột trong vòng quay. Anh vừa mới mua xong một thứ đồ phải mang lại hạnh phúc cho anh và gia đình thì đã được biết không phải là nó, rằng nguồn gốc của hạnh phúc là thứ gì đó khác kia. Trong bóng đổ của những niềm hi vọng tót vời che lấp mọi thứ, mỗi lúc một mới hơn, đống đồ vừa mới bóc tem mà ta sẽ bỏ đi lớn dần lên, bởi thực sự chúng chẳng cho ta hạnh phúc hoặc không so sánh được với những sản phẩm tiềm năng khác chưa được dùng thử.
Vậy con người nên học được khá nhanh rằng đồ vật không mang lại hạnh phúc.
Cái khó ở đây là lý trí của chúng ta – sau khi bị đặt dưới sự tẩy não vĩ đại và có hệ thống bằng quảng cáo – từ lâu đã không còn lành mạnh nữa. Theo nguyên tắc của Goebbels sự dối trá của chủ nghĩa tiêu dùng, được lặp lại hàng triệu hay hàng tỉ lần, đã trở thành sự thật được công nhận rộng rãi. Tiêu dùng hậu hiện đại là thói quen xấu tuyệt đối gây nghiện. Nó lây nhiễm y như nghiện ma túy hay nghiện tình dục. Nhìn thấy một quảng cáo mới, người ta rơi vào trạng thái hưng phấn không lành mạnh mà người ta không biết làm chủ. Người ta cảm thấy bất ngờ hưng phấn khi kịp sở hữu thứ gì đó. Nhưng ngay sau khi mua người ta trải nghiệm sự thất vọng và sự tuột hứng đau đớn chỉ có thể bị đẩy lùi bằng cách thỏa mãn những liều ham muốn tiếp theo. Cũng như đa số thói quen xấu, liều cần thiết để chiến thắng nỗi thất vọng không ngừng tăng lên. Vậy là chúng ta ngày càng rơi vào bất hạnh và sự cầm tù của ham muốn được gói ghém trong hình dung sai lầm về hạnh phúc. Sự dối trá này thống trị những ước mơ của con người và qua giấc mơ con người áp đảo thế giới.

Nhưng bằng cách nào, thưa giáo sư, sự dối trá bắt đầu thống trị, còn sự thật thì người ta lại không nghe?

Ở đây tôi sẽ viện đến Aristotles, người đã viết rằng việc điều tra sự thật diễn ra ở chợ (agora), nghĩa là ở phạm vi công cộng. Ở đó mối liên hệ giữa cái mà ông gọi là oikos (nghĩa là việc riêng) và ecclesia (việc chung) được thiết lập. Ở chợ, từ hàng thế kỷ, các nhu cầu cá nhân bị chuyển thành các lợi ích xã hội, còn các quyền lợi tập thể bị chuyển thành ngôn ngữ của các quyền và nghĩa vụ cá nhân. Bằng cách đó, sự thật được điều tra một cách diễn ngôn, người ta xác định điều xã hội chấp nhận là sự miêu tả đúng thực tại. Bây giờ không còn cái chợ như thế nữa. Trong cái chợ ngày nay người ta chủ yếu kể về những trải nghiệm cá nhân của mình. „Tôi đã làm được điều đó”. „Họ đã không làm được điều đó.” „Cái này dễ thương.” „Cái ấy đáng tiếc”. Diễn ngôn khép lại trong tầm chân trời cá nhân. Nó xoay quanh những gì con người có thể tự nhìn thấy hay trải nghiệm. Những gì chúng ta có thể sờ, nếm, ngửi. Các kinh nghiệm tập thể thiếu cái „nền vật chất” hay cơ chế xã hội cho phép chúng kết tinh và mở đường đến sự thật chung, khách quan, bên trên cá nhân.

Nhưng vì sao lại thế, thưa giáo sư?

Ai đó đã nói rất đúng rằng người tiêu dùng là kẻ thù của công dân. Công dân quan tâm đến sự thật có giá trị xã hội vượt lên trên cá thể, bởi anh ta tìm kiếm sự viên mãn trong cộng đồng mà anh ta thuộc về, hay cộng đồng mà anh ta muốn lập ra. Người tiêu dùng chỉ quan tâm đến việc thỏa mãn các ham muốn cá nhân của mình. Anh ta không nghĩ đến sự thật hay dối trá. Anh ta chỉ sử dụng khía cạnh hữu dụng, dễ chịu, vui vẻ. Trong thế giới của những người tiêu dùng mối giao tiếp giữa ecclesie và oikos bị cắt đứt. Các nhân vật của công chúng thậm chí bảo đảm với chúng ta rằng công bằng là khái niệm rỗng được các nhà tư tưởng bịa ra, rằng chỉ có quyền lợi cá nhân là hiện thực và rằng – ngay cả nếu thuật ngữ „xã hội công bằng” có nghĩa gì đó - thì chính là sự khuyến khích các quyền lợi cá nhân. Nhưng nếu chỉ tồn tại các quyền lợi thì chúng ta phải tìm sự thật như thế nào? Thứ luật chung nào là khả dĩ trong thế giới người tiêu dùng? Tôi không nói đến lời giải đáp triết học. Tôi là nhà xã hội học và với tư cách một nhà xã hội học, tôi cảm thấy bất an vì sự biến mất rõ rệt của các cơ chế xã hội truy tầm sự thật.

Có nghĩa là kỷ nguyên dối trá đang chờ đợi chúng ta?

Điều này phụ thuộc vào mọi người, mà mọi người, đáng tiếc, lại thờ ơ với sự thật.
Ở Ba Lan người ta không tranh cãi về chuyện gì khác cả. Ai nói dối? Ai nói dối hơn? Ai lừa đảo? Sự thật và dối trá là chủ đề số 1.
Nhưng sự thật nào? Những sự dối trá nào? Ngày nay chúng ta đưa đạo dức chính trị vào đạo đức cá nhân của các chính trị gia. Clinton là một ví dụ tốt. Khi ông phá bỏ hệ thống an sinh xã hội được Roosevelt thành lập và Johnson xây dựng, khi ông hủy bỏ các chương trình xã hội liên bang và chuyển chúng cho các tiểu bang, khi các bang bắt đầu cạnh tranh để cắt giảm trợ cấp, vì mỗi tiểu bang đều muốn tránh làn sóng đói nghèo tràn sang từ bang lân cận, người ta không đặt vấn đề đạo đức đối với ông ta. Mà ông ta đã nghi ngờ nguyên tắc đạo đức cơ bản rằng trách nhiệm của nhà nước là chăm lo cho dân chúng. Nhưng khi ông nói dối về chuyện ngoại tình với thực tập sinh, người ta đòi phải bãi nhiệm ông vì lý do đạo đức. Người ta công nhận rằng tổng thống đã vi phạm nguyên tắc luân lý.... Đây là đặc trưng của tình hình mới. Sự dối trá hay vụ ngoại tình hủy diệt chính trị gia. Nhưng vi phạm đạo đức của đời sống xã hội thì có thể dễ dàng xoay xở. Khi vấn đề sự thật được giản lược đến việc nói thật dẫu là của những cá nhân tuyệt vời nhất, thì sự thật về xã hội, về tình trạng và số phận của cộng đồng biến mất khỏi tầm mắt. Nếu chính trị gia nói dối, có thể lột mặt nạ anh ta và bãi nhiệm. Có các công cụ để làm việc đó. Công tố viên, tòa án, các nhà báo tò mò hay các ủy ban điều tra. Nhưng khi những sự thật của chung sống xã hội bị dối trá, người ta chủ yếu im lặng. Bởi các sự thật định đoạt số phận chung của chúng ta không thể được xác định bởi các công tố viên, các quan tòa và các ủy ban điều tra. Việc xác định chúng đòi hỏi phải có agora. Mà agora đang biến mất.

Nghĩa là lỗi lại ở sự tiêu dùng?

Chủ nghĩa tiêu thụ – một phần. Nhưng không chỉ có mình nó. Sự tràn ngập thông tin cũng có thể tạo điều kiện cho dối trá áp đảo. Truyền thông đương đại cũng vậy. Kỹ thuật truyền đạt thông tin và kỹ thuật truy tầm sự thật được chi phối bởi các lô gíc khác nhau. Nguồn thông tin phổ biến nhất hiện nay là truyền hình về bản chất không thể gây sự chú ý của người xem trong khoảng thời gian cần thiết để đưa ra căn bản của luận điểm. Trong cuộc tranh luận trên truyền hình, cùng lắm chỉ có thể làm người đối thoại điếc tai và tương vào anh ta (và vào khán giả) những lời châm chích ngắn ngủi. Mà truy tầm sự thật thì cần tập trung và gắng sức. Chẳng bao giờ đến được với sự thật bằng những tiếng la hét hay những lời châm chích. Khi cuộc tranh luận dẫn đến trận khẩu chiến bằng những lời châm chích, việc phân biệt sự thật và dối trá là bất khả.
Nhất định phải thế, hay đó chỉ là một giai đoạn lịch sử thôi?
Tôi không bao giờ chấp nhận là tình hình phải như nó đang là. Nếu chúng ta phản kháng, nếu chúng ta trò chuyện vài giờ – như chúng ta đang làm, chứ không phải vài phút, thì sự thật sẽ khá hơn. Thông tin đưa ra càng quá liều và càng nông thì càng ít có cơ hội cho một cuộc tranh luận nghiêm túc, chúng ta càng có nhiều khả năng bị chìm trong dối trá. Chúng ta đứng trước lựa chọn – và chúng ta sẽ ra sao cũng phụ thuộc vào chúng ta.

Ông muốn thay đổi số phận của thế giới bằng lời nói?

Anh biết không, người ta từng hỏi Cornelius Castoriadis: „Ông muốn thay đổi thế giới à?”. Và ông trả lời: „Xin Chúa che chở cho tôi! Tôi chỉ muốn thế giới tự thay đổi. Như nó đã từng làm thế trong lịch sử của mình”.

Chủ Nhật, 10 tháng 4, 2016

Người trẻ Việt thật giỏi






 

Chưa thể so với người Do Thái/Israel ở nước Mỹ và một số quốc gia công nghiệp hóa khác thường được coi là dân tộc rất thông minh, thành đạt ở nhiều lĩnh vực..., nhưng quả thật người Việt Nam xa xứ, hoặc bỏ xứ sở đi làm ăn, sinh sống ở nước ngoài đã có khá nhiều người được chỉ tên tuổi, điểm mặt là các anh tài.

Có thể nói không sợ sai sót rằng, bất cứ trong lĩnh vực nào cũng có mặt người Việt Nam đang định cư ở nước ngoài, cả ở những hoạt động chính trị là một môi trường chọn lựa gắt gao, cũng như trên các môi trường hoạt động về kinh tế, xã hội, khoa học và văn hóa nói chung đều đòi hỏi người có tài năng xuất sắc thì người Việt chúng ta đều tìm được, đạt được những chỗ đứng xứng đáng. Đôi khi có thể là chỗ đứng khá cao, rất cao trong xã hội Mỹ và phương Tây.

Về chủ đề tôi vẫn để tâm theo dõi này nhiều năm nay, trong hòm thư gần đây tôi nhận được từ bạn bè gửi cho bản danh sách đúng 8 con người danh giá như trên nói tới. Đặc biệt hơn nữa toàn bộ họ lại thuộc lứa tuổi trẻ mới lại càng đáng quý và trân trọng.

Chủ blog tôi xin trân trọng đưa lên đây để bạn bè và bà con cùng biết và chia sẻ một thông tin đáng vui mừng này.

Vệ Nhi

------



8 tài năng người Việt làm việc tại Google

Những bạn trẻ Việt thế hệ 8X, 9X đang ngày càng khẳng định chỗ đứng của bản thân trên trường quốc tế khi được “gã khổng lồ” công nghệ Google chào đón và công nhận.



Người đầu tiên phải kể đến “anh cả” Nguyễn Quang Dũng. Sau khi tốt nghiệp ĐH Georgia Insitute of Technology tại Mỹ, chàng trai được “ông lớn” Google nhận vào làm việc. Hiện tại, 8X là đồng sáng lập, giám đốc Minh Việt Hitech, tác giả của Garagames – một cổng chơi game online đang dần lớn mạnh.



Làm việc cho Google châu Á từ năm 2007 đến nay, Bạch Dương cũng là người Việt đầu tiên giữ chức vụ quản lý cho tập đoàn công nghệ Google. Anh hiện phụ trách một số dự án về điện thoại Android ở châu Á Thái Bình Dương.



Việt Anh là cháu trai của nữ liệt sĩ Đặng Thùy Trâm. Khi mới 22 tuổi, anh đã trở thành kỹ sư phần mềm ở Tập đoàn lớn tại Thung lũng Silicon. Năm 2010, được cả Facebook, Microsoft nhận vào làm việc, nhưng Việt Anh lại quyết định chọn Google.



Năm 2000, Thành Nhân đoạt giải nhất kỳ thi học sinh giỏi Tin toàn quốc. Năm 2010, 8X đầu quân cho “gã khổng lồ” Google. Anh hiện thuộc nhóm AdWords, làm việc trực tiếp với các công ty trả tiền quảng cáo.


Lê Viết Quốc bắt đầu làm việc ở tập đoàn này từ năm 2012. Đây là đại diện đầu tiên của Việt Nam vào top 35 nhà sáng tạo trẻ (dưới 35 tuổi) có những đóng góp hữu ích cho cộng đồng thế giới do tạp chíTechnology Review bình chọn . Công nghệ “Deep learning” của anh được Google sử dụng trong việc tìm kiếm hình ảnh và nhận dạng giọng nói. Hiện anhcònđảm nhiệm vai trò giáo sưở ĐH Carnegie Mellon (Mỹ).



Năm 2012, Tuấn Hưng thực tập tại NASA và Google. Quyết định chọn Google, anh có cơ hội làm việc cùng nhiều kỹ sư để cải thiện cách thức các video trên YouTube đến gần hơn với người khiếm thính. “Mình muốn đi Mỹ học tập và trong vòng 10 năm sẽ trở về Việt Nam. Ra đi cũng là để trở về”, chàng trai chia sẻ.



8X từng làm stylist, nhiếp ảnh và thiết kế cho tạp chí Elle, giám đốc điều hành của Zalora, có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực thương mại điện tử, truyền thông và tiêu dùng. Từ tháng 7/2015, Phương Anh chính thức chịu trách nhiệm giám sát và quản lý những hoạt động tiếp thị của Google trên tất cả sản phẩm cũng như chiến dịch thương hiệu.



9X giành cơ hội làm việc tại tập đoàn Google, với mức lương 6 số (USD)/năm. Trải qua 5 vòng phỏng vấn trực tiếp tại Australia, Hải Khánh đã ký bản hợp đồng để trở thành người của Google từ đầu năm 2017, làm việc ở xứ sở Kangaroo.

Thứ Sáu, 8 tháng 4, 2016

Đằng sau phong trào tự ứng cử Quốc hội







Phần 1: Từ khủng bố tự phát đến tự ứng cử Quốc hội
Sau khi Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ vào 30 tháng 4 năm 1975, rất nhiều các tổ chức chính trị hải ngoại chạy sang California để bám vãy mẫu quốc Hoa Kỳ vẫn nuôi tham vọng quay về nước làm chính biến, xóa sổ chính quyền Đảng Cộng Sản đã thiết lập ở Việt Nam. Các tổ chức này tập hợp binh lính, thu gom vũ khí trái phép, chuyên nổ bom khủng bố hoặc ám sát các chính khách Việt Nam, gây thiệt hại không nhỏ về tính mạng và tài sản.

Năm 1995, Nguyễn Hữu Chánh tổ chức Chính phủ Việt Nam tự do, nhiều lần tổ chức đánh bom. Năm 1997, tổ chức này hoạt động mạnh ở biên giới Campuchia và Thái Lan, huấn luyện đội khủng bố để rải truyền đơn và tổ chức đánh bom ở các tỉnh thành lớn của miền Nam như Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Long Xuyên… Chỉ trong một thời gian ngắn, tổ chức này đã thực hiện nhiều phi vụ đánh bom ở các đại sứ quán Việt Nam lại Thái Lan, Campuchia, Philippines… Sau khi phát hiện kịp thời 37kg thuốc nổ đang được vận chuyển vào Việt Nam, âm mưu của Nguyễn Hữu Chánh đã bị lật tẩy và xét xử, đồng thời bị trục xuất khỏi Việt Nam, từ đó, tổ chức này cũng bị vô hiệu hóa.

Nguy hiểm hơn cả phải kể đến Việt Tân – một băng đảng chính trị đang chi phối rất nhiều các hoạt động lề trái hiện nay. Việt Tân có tiền thân là Mặt trận Quốc gia thống nhất giải phóng Việt Nam do Hoàng Cơ Minh thành lập và lãnh đạo. Tổ chức này tập hợp lại một số tướng lĩnh và viên chức Việt Nam Cộng hòa, hoạt động mạnh ở khu vực biên giới giáp ranh Lào và Thái Lan. Đến năm 1982, tổ chức này đổi tên thành Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng, gọi tắt là Việt Tân. Trong hai năm 1986 và 1987, tổ chức này đã tổ chức hai lần Đông Tiến, dẫn quân kéo về Việt Nam để làm chính biến, nhưng đã bị chặn lại ở biên giới Việt Lào. Qua bộ phim “Khủng bố ở Little Saigon” do Chương trình truyền hình Mỹ Frontline thực hiện, ta còn được biết rằng Việt Tân đảm nhiệm cả vai trò Mafia bảo kê và kiểm soát đời sống của bà con hải ngoại xa xứ tại Hoa Kỳ, bất cứ ai không chịu sự bảo kê này đều sẽ bị ám sát một cách thảm thương.

Những mưu đồ quân sự khủng bố của Việt Tân thất bại, chúng bắt đầu tập trung mọi nguồn lực cho các hoạt động tuyên truyền như rải truyền đơn, thành lập các trang mạng nói xấu chính quyền Việt Nam với lời lẽ bôi nhọ, kích động bạo lực như SBTN, RFA Việt Ngữ, BBC Việt Ngữ, Dân Luận, Dân làm báo, Nhật ký yêu nước (cư dân mạng vẫn gọi là Nhật ký bán nước hay Nhật ký yêu nước Mỹ)…v…v…

Trong các cuộc biểu tình năm 2006, 2007, 2011, 2012 tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Tân đóng vai trò người ngồi sau giật dây bằng truyền thông và tiền tài trợ. Lần này, để đánh bóng cho chiến lược chính biến của mình Việt Tân đã vẽ ra viễn cảnh của tự do lập hội nhóm và biểu tình ôn hòa, bắt chước quá trình chuyển đổi dân chủ ở Đông Âu và các nước Trung Đông. Trên thực tế, Việt Tân đã cướp công của rất nhiều hội nhóm tự phát do các trí thức cấp tiến như Nguyên Ngọc, Nguyễn Quang A, Chu Hảo… lãnh đạo.

Phối hợp với Việt Tân, các tổ chức cực đoan trong nước như NoU (trước đây chịu sự chi phối của Quang A, nay đã bị Việt Tân hóa), Mạng lưới Bloggers 258, Phong trào Con đường Việt Nam, Hội Anh em dân chủ…v…v… đã tổ chức nhiều nhóm đào tạo đưa sang Philippines, Thái Lan và Myanmar để tập huấn tổ chức biểu tình đường phố giống Mùa xuân Ả Rập và Cách mạng Cam, núp dưới danh nghĩa một tổ chức phi chính phủ tên là VOICE do Trịnh Hội, Đoan Trang, Trịnh Hữu Long, Nguyễn Anh Tuấn… cầm đầu. Thế nhưng, sau một thời gian, các “anh hùng đường phố” do chúng dựng nên ngày càng bộc lộ là những kẻ đầu đường xó chợ, lưu manh, bạo lực… khiến cho phong trào biểu tình nhanh chóng tan rã.

Cùng lúc ấy, các trang truyền thông của Việt Tân liên tiếp kích động một số thành phần trí thức bất mãn trong nhóm trí thức 72 như Nguyễn Quang A, Nguyễn Xuân Diện, Tương Lai, Nguyễn Huệ Chi… lên tiếng phản đối tẩy chay các điều luật như 258, điều 4 Hiến pháp và hô hào tẩy chay bản Hiến pháp năm 2013, và mới đây là tẩy chay bầu cử Quốc hội.(Nếu các ông này tỉnh táo nhìn lại, sẽ thấy rằng các ông không tạo được thay đổi thực sự gì cho đất nước, mà mỗi hoạt động và phát ngôn của các ông đều khiến các trang lề trái do Việt Tân kiểm soát có nhiều người đọc hơn, Việt Tân phát triển độ ảnh hưởng rộng rãi hơn, xin được nhiều ngân sách từ Mỹ hơn). Sau một thời gian, những phong trào tẩy chay này không được sự hưởng ứng của đám đông, lại chứng kiến việc thành công của phong trào dân chủ Myanmar qua con đường ứng cử, một chiến lược mới đã được đề ra mà người đi đầu là tiến sĩ Nguyễn Quang A.




Phần 2: Phe chống cộng muốn gì ở phong trào tự ứng cử của giới trí thức, mà đại diện là ông Nguyễn Quang A?

Thứ nhất, là một lớp vỏ bọc hợp chính nghĩa, hợp pháp và an toàn để công khai hoạt động. Chính quyền ít nhiều phải hành xử theo luật, họ rất khó xử lý những người tuyên bố xoen xoét rằng mình chỉ là dân thường ủng hộ việc ứng cử Quốc hội của giới trí thức, dù thành thực mà nói, thì cả hai bên đều thừa biết rằng những “dân thường” này đang làm chính trị, sống bằng tiền của NED, căm thù chính quyền, không tin vào đường lối cải cách ôn hòa của cánh trí thức, và công khai ủng hộ mọi cuộc cách mạng đường phố rập khuôn đúng bài vở của CIA.

Thứ hai, là cơ hội vàng để “thấy người sang bắt quàng làm họ”. Đừng lầm tưởng rằng mỗi lần đám chống cộng ùn ùn bu vào cánh trí thức để bắt tay, chụp ảnh, mời ăn uống, hoặc lên mạng cổ vũ phong trào tự ứng quốc hội một cách ồn ào như thể mình là đệ ruột hoặc đồng chí tốt của ông Quang A, mọi biểu hiện của họ đều xuất phát từ sự hâm mộ trí thức và mến chuộng tri thức. Nếu những người chống cộng không khinh thường tri thức, thứ từng là phong trào dân chủ đã không bị họ làm cho thoái hóa thành vô học, lưu manh và chợ búa như bây giờ. Và những người khinh thường tri thức chỉ có thể đon đả với trí thức vì một lý do: lợi dụng.

Thứ ba, là để có cơ hội lôi cuốn đám đông. Vì là lực lượng năng nổ tiếp xúc trực tiếp với công chúng hơn hẳn cánh Quang A, họ sẽ cướp được các làn sóng dư luận mà mấy ông trí thức khởi xướng. Có đám đông, họ sẽ tuyển lựa được các thành phần có văn hóa và động cơ phù hợp để huấn luyện, đồng thời xin được tiền tài trợ dự án, thứ mà “dân hoạt động” luôn giành giật với nhau. Nên nhớ rằng trong mùa hè 2011, giới trí thức và chính quyền châm ngòi cho các cuộc biểu tình chống Trung Quốc đầu tiên chỉ để các tổ chức chống Cộng cướp diễn đàn, gặt hái nhân sự và vinh quang không lâu sau đó.

Bạn có tự hỏi, vì sao Đoan Trang không tự ra ứng cử, mà chọn làm cây bút ủng hộ theo sát Nguyễn Quang A?

Thứ nhất, nếu Đoan Trang tự ứng cử, cô ta chắc chắn thất bại thảm hại. Nhìn vào thất bại này, các nhà tài trợ, ô dù ngoại quốc và đám đông sẽ lập tức nhận ra rằng cô ả chỉ có hư danh, chứ không hề có trọng lượng chính trị thực tiễn. Xem thời gian gần đây thì biết, càng tỏ rõ mình với thiên hạ, cô càng chỉ lôi cuốn được những thành phần hoặc tiền trao cháo múc (Thảo Gạo là như vậy!), hoặc thuộc hạng tốt thí chính trị, và khiến những người khác dần dạt hết ra xa. Chẳng hạn, chính thái độ áp đặt của cô trong vụ Hiến chương 2015, rồi sự tráo trở trong vụ cây xanh đã làm cô gần như mất sạch những bạn bè, đồng minh cũ trong báo giới chính thống. Nếu Đoan Trang tự ứng cử, cô sẽ khiến các ủng hộ viên còn lại của mình biết rằng thực ra đa số các cử tri có thần kinh bình thường và chuẩn mực đạo đức tối thiểu trong xã hội rất khinh thường cô. Vậy chẳng khác gì tự sát chính trị.

Thứ hai, khi tham gia ứng cử, Đoan Trang chắc chắn có trách nhiệm trả lời chất vấn của cử tri một cách công khai. Kể cả khi người hỏi là công an hoặc dư luận viên, cô cũng không có quyền từ chối. Trong khi đó, hiển nhiên cô không muốn công khai nhiều thông tin quan trọng, như nguồn thu nhập của mình, quan hệ của cô với các nghị sĩ Mỹ, cách thức mà cô đã sử dụng để “cướp chính quyền” trong nhóm cây xanh Hà Nội, hoặc công việc của cô trong VOICE. Cũng có nhiều câu hỏi mà cô chẳng biết phải trả lời thế nào nếu được đưa ra, như việc cô nghĩ gì về kết cục bi đát của những cuộc cách mạng đường phố đang đồng loạt tàn cuộc trên toàn thế giới, và số phận của những nước nhược tiểu thiếu trí khôn, nhưng thừa nhiệt tình cách mạng bị nó cuốn vào. Đừng quên Đoan Trang là loại nhà báo chuyên khua môi múa mép về “sự thật” của xã hội và quốc gia, nhưng rất sợ sự thật về bản thân mình bị đưa lên báo.

Thứ ba, khi ứng cử, người ta cần những đồng minh tinh thần tuyệt đối trung thành và gắn bó với mình. Thứ này Đoan Trang không có. Nếu VOICE ngừng trả tiền, Đoan Trang và Trịnh Hội ắt hẳn tuyệt giao. Nếu Đoan Trang không thể mang dự án và tiền tài trợ vê cho nhóm cây xanh, “các bạn trẻ” ngộ nghĩnh mà cô đem khoe khắp nơi cũng bỏ cô mà về với đội khác. Tôi không thấy tội nghiệp Trang, tự cô đã chọn cho mình một kết cục như vậy. Ai từng lặn lội giang hồ cũng biết Đoan Trang nói xấu tất cả những người không về phe cô. Chỉ mấy hôm trước, trong một cuộc gặp, Đoan Trang còn gọi Quang A cùng bạn hữu là “mấy lão già toàn nói lý thuyết”, mù tịt chuyện đấu tranh thực tế chứ xa xôi gì. Quang A còn vậy, thì đừng nói đến Mẹ Nấm, Hoàng Vi, Bùi Hằng, No-U hay Kiểng.

(Không thấy Đoan Trang nói xấu Hoàng Dũng, hẳn giữa hai bạn đang khá thân thương)

Thế mới biết nếu ra tự ứng cử, Đoan Trang chỉ thắng được trong hai trường hợp: một là cô có nhiều tiền, hai là cô được cho rất nhiều tiền. Về điểm này thì ông Quang A, người vừa tự kiếm được nhiều tiền, vừa có sẵn những đồng minh chung thủy mà chẳng cần chi đến một xu, hẳn nhiên vượt hẳn Đoan Trang về tầm vóc.

Đã biết mình nhỏ bé thì đành làm con rận kí sinh trên mình Quang A vậy. Vừa được tiếng là hoạt động theo lối có học, vừa được miếng là đẻ dự án và giật đám đông.




Phần 3: Có thật đây là cơ hội để Thực tập dân chủ

Phong trào tự ứng cử quốc hội, mà người ta cho là do ông Nguyễn Quang A đứng đầu, đang chiếm lĩnh dư luận chính trị đối lập một cách khá bền vững. Chúng tôi xin phép không bàn thêm về những lí thuyết và khẩu hiệu mà các cây bút của mọi phe nhóm đã khai thác cạn kiệt suốt mấy tuần qua. Nay chỉ xin điểm qua vài điểm đáng lưu ý nhưng chưa được để ý.

Ngay từ đầu, phong trào này đã là một sự đáng tiếc.

Đáng tiếc chủ yếu nằm ở khía cạnh nhân sự. Mà trước hết là việc chọn gương mặt đại diện: tiến sĩ Nguyễn Quang A.

Phong trào tự ứng cử Quốc hội có phải do ông Quang A khởi xướng, lên kế hoạch và lãnh đạo không? Không, chắc chắn. Quang A chỉ là người được chọn làm gương mặt công khai của lực lượng trí thức khởi xướng phong trào. Điều này không khó nhận ra, nếu chúng ta nhìn vào sự ủng hộ tuyệt đối và tức khắc, về cả chữ kí lẫn dư luận, mà các ekip của Nguyên Ngọc, Chu Hảo và Hoàng Hưng dành cho Quang A ngay từ những ngày đầu tiên mà lời kêu gọi kí tên được ban bố. Nguyên Ngọc và Chu Hảo đều là những tay thận trọng và phải chịu trách nhiệm với nhiều nguồn lực dây dính, họ không bao giờ lập tức ủng hộ những chương trình chính trị, trừ phi ngay từ đầu họ vốn đã tham gia. Mặt khác, cần nhớ rằng từ trước tới giờ, Nguyễn Quang A vẫn chỉ là một tiếng nói chính trị đặc chất chuyên gia: tuy độc lập về tài chính, tri thức và sức nặng trên truyền thông, nhưng luôn lệ thuộc vào người khác về chiến lược, chiến thuật và nhân sự cấp dưới.

Khởi xướng phong trào tự ứng cử quốc hội Việt Nam, có thể nói rằng không phải riêng Nguyễn Quang A, mà là đông đảo giới có học.

Trên điểm này, và trên một thực tế rằng những người khởi xướng đã chọn cho phong trào một chiến lược trung thực, đàng hoàng, hợp pháp và phù hợp với khuynh hướng cải tổ đã có sẵn, ta phải thừa nhận rằng đây là một cơ hội dân chủ hóa trong hòa bình và trật tự rất hiếm có, cả dân chúng lẫn chính thể đều không nên bỏ qua.

Có điều hình như cơ hội sắp bị bỏ qua, vì việc chọn người trí thức ra công khai, làm gương mặt đại diện cho phong trào ngay từ đầu đã không ổn lắm.

Tôi không nói ông Nguyễn Quang A có khiếm khuyết về mặt đạo đức, nhân cách và kiến thức để ra ứng cử làm đại biểu quốc hội. Khiếm khuyết của ông nằm ở chỗ ông trọng mấy thứ đó quá, tới mức bước vào chính trường với cặp mắt ngây thơ. Thành ra ông bị lợi dụng suốt bởi đủ thứ phe phái bẩn thỉu, mà mỗi lần dây vào chúng, ông lại tự làm bẩn hình tượng của mình. Sau chặng đường hợp tác với những gương mặt lưu manh giả danh trí thức như Đoan Trang, rồi sau lần bị Việt Tân cài bẫy cho đứng chụp ảnh với cờ vàng, hình tượng Nguyễn Quang A đã kém hữu dụng hẳn so với trước. Giờ đây, đem nó làm miếng bánh để nhử bầy ruồi chống Cộng bu đến thì còn được, chứ dùng nó để thuyết phục đa số người dân và các nguồn lực chính thống thì chắc chắc không xong. Không chỉ về mặt cảm tình con người, mà còn về mặt nguyên tắc của thể chế. Cho nên chọn Nguyễn Quang A làm gương mặt đại diện cho một phong trào cần cả sự ủng hộ của chính thống lẫn cảm tình số đông, thì ngay từ đầu đã là tự sát.

Người ta cứ nói rằng những vị tự ứng cử sẽ không có cơ hội đắc cử, và phong trào này chỉ là một cuộc tập dượt dân chủ cho tương lai phía trước. Nhưng có thật là như vậy không? Không có cơ hội thật, hay đây chỉ là một lăng kính yếm thế mà những trí thức khởi xướng đã bị đám chống Cộng cực đoan áp lên mắt mình?

Tôi tin rằng nếu cánh trí thức chọn vài gương mặt đại biểu phù hợp hơn làm hình tượng, và kiên quyết không lệ thuộc vào dư luận và nhân sự của phe chống Cộng, vốn là lực lượng chính trị cực đoan và lưu manh  thì khả năng họ đưa được vài đại biểu vào Quốc hội trong kì bầu cử tới đây không phải là không có. Khi đó, họ tha hồ làm sôi động chính trường chính thống, tha hồ ảnh hưởng thiết thực đến chính sách và thổi sức sống cho sinh hoạt chính trị toàn quốc, mà không mảy may lệ thuộc vào tiếng chửi bậy của đám chống Cộng, nghị Mỹ thân Việt Tân hay những hội thảo sinh ra chỉ để bị phá của Đoan Trang. Khi đó, chính đám chống Cộng sẽ phải lệ thuộc vào nghị trình của trí thức, thay vì trí thức lệ thuộc vào dư luận chống Cộng như bây giờ.

Hơn nữa, “tập dượt” ở đây là tập dượt cho ai? Đừng tự lừa mình rằng ta đang tập dượt dân chủ cho dân chúng.

Thứ nhất, phải khẳng định rằng chỉ có trí thức mới bị ám ảnh về kiến thức và hiểu biết khi bàn chuyện chính trị. Dân chúng không muốn hiểu biết, họ chỉ tham gia phong trào chính trị vì hai thứ: nó đem lại lợi ích rõ ràng cho họ và nó chắc chắn thành công. Các thành phần cơ hội chính trị kiểu Đoan Trang, Nguyễn Văn Đài, Phạm Lê Vương Các… đôi lúc cũng để mắt đén kiến thức, nhưng đám này không lấy tri thức làm nền tảng của hoạt động, mà chỉ lấy vài mảnh kiến thức vụn vặt làm công cụ để tuyên truyền, đánh bóng hình ảnh và tự biện minh cho mục đích chính trị của bản thân mình. Trong lịch sử, mỗi lần cánh trí thức cố tạo ra một phong trào chính trị chẳng đạt được thứ gì khác ngoài “tập dượt dân chủ” cho dân, họ đều sẽ trở thành công cụ tuyên truyền mà đám cơ hội chính trị lợi dụng để lôi kéo quần chúng. Phải nhớ rằng chính trị vĩnh viễn là vấn đề phân chia quyền lực. Một khi anh nhập nhằng chính trị với giáo dục, nếu anh không nhận bọn bất lương làm đồ đệ thì cũng để đồ đệ mình trở thành con tốt trong tay bọn bất lương.

Thứ hai, “tập dượt” ở đây là tập dượt cho ai? Đám đông người dân không muốn “tập dượt”, và dạy những kẻ không muốn học là chuyện vô ích. Các trí thức thì hiển nhiên không cần tập dượt dân chủ. Bởi vậy, trong thực tế, đối tượng chính của màn “tập dượt dân chủ” sẽ là những kẻ trực tiếp làm dư luận, lôi kéo và tổ chức đám đông.

Trong những kẻ đó, giới trí thức nắm chắc được bao nhiêu người? Ngược lại, có bao nhiêu kẻ trong số này đang lệ thuộc về mặt tài chính, tổ chức, lí tưởng, khẩu hiệu và bài bản truyền thông vào Việt Tân và Mỹ?

Cái dự định “tập dượt dân chủ”, dù đầy thiện chí, rốt cuộc sẽ chỉ giúp các thành phần chuyên kích động quần chúng có thêm cơ hội để xây dựng tổ chức và lôi kéo đám đông. Và chớ quên rằng trong những lớp huấn luyện của Việt Tân hoặc Đoan Trang, người ta đang dạy cách tiến hành những cuộc lật đổ đường phố kiểu Ai Cập hoặc Ukraine, chứ không dạy cách thức vận hành của một đất nước.

Cuộc “tập dượt chính trị” này sẽ bị lợi dụng thế nào? Đâu là kịch bản lợi cả đôi đường mà các nhóm chống Cộng đang giăng ra, và ông Quang A đang sa bẫy? Đoan Trang sẽ phát ngôn thế nào khi tàn cuộc? Và vì sao Đoan Trang không tự ra ứng cử, mà chọn làm cây bút ủng hộ theo sát Nguyễn Quang A?

Nhà dân chủ

Thứ Năm, 7 tháng 4, 2016

Hiền Tài hay Việt Gian ?





Nguyễn Mạnh Quang


 Nhân gần đây có vài bài báo bàn tán về nhân vật Trương Vĩnh Ký, chúng tôi xin trích đăng lại loạt bài đã đăng từ năm 2009. Kẻ thì tiếp tục ca ngợi Petrus Ký như từ thời Pháp thuộc cho đến về sau, nhưng có nhiều người đã tiếp cận được sử liệu, và nhận định lại giá trị con người lịch sử này đúng như các tài liệu vô tư đã mô tả thực chất về ông. Trong bài, tác giả Nguyễn Mạnh Quang thường dùng cụm từ Liên Minh Pháp – Vatican, một cụm từ mà bạn đọc có thể nghe lạ tai, chỉ vì chưa được nghe nói thường xuyên. Thiết nghĩ cụm từ đó cũng đã mang chung số phận với những dữ liệu thường bị che lấp hàng thê kỷ trước cho đến nay. Lý do quan trọng hơn cả là vì Vatican luôn luôn đứng trong lớp áo tôn giáo, cầm trong tay một cây trượng quyền lực vô hình mà chẳng ai thắc mắc. Vậy xin bạn đọc làm quen với cụm từ Liên Minh Pháp – Vatican qua những chứng cớ mà tác giả trình bày trong các tác phẩm của ông. Xin kính mời (SH).



Dẫn: Ba Mươi Tháng Tư Và Tôi (Trần Chung Ngọc)

Đây là lá thư (1) gửi quí vị cựu giáo sư và học sinh

Trường Kiểu Mẫu Thủ Đức



Tacoma ngày 6 tháng 5 năm 2009

Thưa quý vị giáo sư,

Cùng các em hoc sinh KMTĐ,

Sáng ngày 6/5/2009, em QBH có gửi đến quý vị và các em một điện thư qua đia chỉ k.... com trong đó em có nêu lên mấy thắc mắc và nhờ tôi giải thích. Dưới đây là mấy đoạn văn trong điện thư:

“... Trời mẹ ! Dạ lần đầu tiên em nghe một trí thức khoa bảng là giáo sư tiến sĩ Trần Chung Ngọc DÁM gọi DANH NHÂN VIỆT NAM , bậc tiên hiền của Giáo Dục Việt Nam là NGUYỄN TRƯỜNG TỘ và PÉTRUS TRƯƠNG VĨNH KÝ là "Việt gian", dạ đứa học trò Quách thiệt là ngứa nách ! Việt Cộng còn chưa dám chửi Nguyễn Trường Tộ nha ? Việt Cộng chỉ dám đổi tên trường Pétrus Ký , đổi tên đường Pétrus Ký thành Lê Hồng Phong thôi hà . Còn cụ Phan Thanh Giản thì Việt Cộng đã "xét lại" gồi nha !

Thầy Nguyễn Mạnh Quang vui lòng giảng cho em về lịch sử "Công giáo có công đào tạo Việt gian" Nguyễn Trường Tộ và Trương Vĩnh Ký đi ? A , em biết có trường Trần Lục nữa ? Cám ơn KỲ CÔNG ĐÀO TẠO HIỀN TÀI của CÔNG GIÁO ! ...”

Và sau đây là phần trình bày của tôi để làm sáng tỏ những thắc mắc trên đây của em QBH



Trường trung học Petrus Trương Vĩnh Ký

Trước khi trả lời câu hỏi của em QBH, thiết tưởng cũng nên trình bày những vấn đề liên hệ để đưa đến thắc mắc trên. Yếu tố quan trọng nhất là bối cảnh sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại trong đó có thời Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican đô hộ (1885-1945), thời Kháng Chiến (1945-1954) giành độc lập và thời Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican thống trị miền Nam Việt Nam (1954-1975). Xin giới hạn, chỉ đề cập đến các chính quyền đã có chính sách giáo dục đưa đến các thắc mắc của em QBH nêu lên trong điện thư trên đây mà thôi.



I.- TỪ BỐI CẢNH LỊCH SỬ…

Nước ta bị Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican thống trị trên toàn lãnh thổ trong thời gian 1885-1954 và riêng miền Nam Việt Nam lại bị Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican thống trị thêm một thời gian từ năm 1954 đến năm 1975. Trong những khoảng thời gian trên đây, chính sách giáo duc ở Việt Nam, đặc biệt là môn Sử và Công Dân đều bị chính quyền Bảo Hộ (Pháp hay Mỹ), trong đó Nhà Thờ Vatican là chủ lực, khống chế và kiểm soát chặt chẽ. Họ bưng bít những gì có thể bưng bít được và xuyên tạc hay bóp méo những gì không thể hay không cần phải bưng bít hay che giấu.

A.- Những sự kiện lịch sử bị bưng bít:

Bằng chứng cho hành động bưng bít hay che giấu này của họ là:

Thứ nhất, việc một ông linh mục trong thời chính quyền Ngô Đình Diệm yêu cầu Nhà Nước phải “tịch thu và cấm bán” bộ sách “Lịch Sử Thế Giới” do hai ông Nguyễn Hiến Lê và Thiên Giang biên soạn, xuất bản vào năm 1956. Sự kiên này được tác giả Nguyễn Hiến Lê kể lại rằng:

“Một chuyện đáng ghi là vì bộ đó mà năm 1956 (chúng tôi) bị một độc giả ở Cần Thơ mạt sát là “đầu óc đầy rác rưởi” chỉ vì chúng tôi nhắc qua đến thuyết của Darwin về nguồn gốc loài người. Chẳng cần nói ai cũng biết độc giả đó là một tín đồ tín đồ Công Giáo.

Sau, một linh mục ở Trung yêu cầu bộ giáo dục cấm bán và tịch thu hết bộ vì trong cuốn II viết về thời Trung Cổ, có nói đến sự bê bối của một vài giáo hoàng. Bộ phái một viên bí thư có bằng cấp cử nhân tiếp xúc với tôi. Ông này nhã nhặn, khen tôi viết sử có nhiệt tâm, cho nên đọc hấp dẫn như đọc bộ sử Pháp của Michelet; rồi nhận rằng sách của tôi được Bộ Thông Tin cho phép in, lại nạp bản rồi, thì không có lý gì tịch thu, chỉ có thể ra thông cáo cho các trường đừng dùng thôi, cho nên ông ta chỉ yêu cầu tôi bôi đen vài hàng trên hai bản để ông ta đem về nộp bộ, bộ sẽ trả lời linh mục nào đó, còn bán thì cứ bán, không ngại gì cả. Tôi chiều lòng ông ta….

Hồi đó, bộ lịch sử của tôi chỉ còn một số ít. Tôi hỏi các nhà phát hành, được biết có lệnh cấm các trường ngoài Trung dùng nó, trong Nam thì không. Chỉ ít tháng sau bộ đó bán hết. Tôi không tái bản.

Một hôm bà láng giềng cho tôi hay: ”Ít lâu nay tôi thấy ngày nào cũng có một hai người ngồi ở quán cà phê bên kia đường nhìn về phía nhà thầy và nhà tôi, như rình cái gì. Hôm qua, một người vào nhà tôi hỏi: “Ông Lê ở nhà bên lúc này đi đâu mà không thấy?” Tôi đáp: “Ông ấy đau, nằm ở trong phòng, chứ đi đâu? Thầy cứ vô hỏi. Rồi họ đi.” Vậy là mật vụ rình tôi mà tôi không biết.” [1]

Thứ hai, chính quyền miền Nam (lẽ dĩ nhiên có Giáo Hội LM đứng sau) đòi mua hết cuốn "Đảng Cần Lao" của tác giả "Chu Bằng Lĩnh" (Mặc Thu) được nhà xuất bản Đồng Nai in và phát hành vào năm 1971. Nếu không chấp nhận thì họ đe dọa sẽ thủ tiêu tác giả.

"Theo thân hữu của nhà văn Mặc Thu cho biết, khi tác phẩm in xong, có một người đến gặp tác giả ra điều kiện mua hết số sách đã in với giá 1 triệu đồng bạc Việt Nam và không được in tiếp. Nếu không chấp nhận, họ đe dọa sẽ thủ tiêu tác giả. Sau đó, tác giả tìm hiểu thì được biết số tiền 1 triệu đồng là của ông Trương Vĩnh Lễ, cựu chủ tịch quốc hội bỏ ra, và số người thi hành là của ông Cao Xuân Vỹ. Do đó, tác phẩm Đảng Cần Lao không đến tay quí vị đọc giả là do áp lực kể trên. Nhưng may mắn trước đó tác giả đã tiên đóan là sẽ có chuyện xảy ra, nên đã cất giấu được một số đem tặng thân hữu và đưa vào tòa đại sứ Mỹ được vài quyển." [Chu Bằng Lĩnh, Đảng Cần Lao (San Diego, CA: Mẹ Việt Nam, 1993), tr. I]

Còn nhiều sự kiện lịch sử khác cũng bị bưng bít như vậy. Xin kể thêm một số những sự kiện:

1.- Việc Giáo Hội La Mã chủ trương đánh chiếm Việt Nam. Chủ trương này nằm trong chính sách chung của Giáo Hội qua việc ban hành Sắc Chỉ Romanus Pontifex vào ngày 8 tháng 1 năm 1454 trong thời Giáo Hoàng Nicholas (1447-1455). Nội dung của sắc chỉ này được Linh-mục Trần Tam Tỉnh ghi lại trong sách “Thập Giá và Lưỡi Gươm” như sau:

"...., quyền lợi của Bồ Đào Nha đã được phân định rõ ràng trong sắc chỉ "Romanus Pontifex" do Đức (Giáo Hoàng) Nicholas V (1447-1455) ra ngày 8 tháng Giêng năm 1454. Theo quyền lực Chúa ban và quyền lực của Tòa Thánh, Đức Giáo Hoàng ban cho triều đình Lisbon (Bồ Đào Nha) "toàn quyền tự do xâm lăng, chinh phục, chiến đấu, đánh giặc và khuất phục tất cả các quân Sarrasins (tức người Ả Rập), các dân ngoại đạo và các kẻ thù khác của Giáo Hội, gặp bất cứ nơi nào: được toàn quyền chiếm cứ tất cả các vương quốc, lãnh địa, vương hầu, đất đô hộ và tài sản của chúng; toàn quyền chiếm đoạt tất cả của nổi và của chìm của chúng và bắt tất cả chúng nó làm nô lệ vĩnh viễn." [2]

Ngoài ra, cũng trong thế kỷ 15, Tòa Thánh Vatican còn ban hành nhiều thánh lệnh hay sắc chỉ khác với nội dung tương tự như Sắc Chỉ Sắc Chỉ Romanus Pontifex trên đây. Tất cả các sắc chỉ hay thánh lệnh này đã được sử gia Vũ Ngự Chiêu dưới bút hiệu là Nguyên Vũ ghi rõ nơi các trang 389-392 trong cuốn “Ngàn Năm Soi Mặt." [3]

2.- Việc Tòa Thánh Vatican đã ba lần gửi người đến kinh thành Paris uốn lưỡi Tô Tần vận động chính quyền Pháp liên kết với Giáo Hội xuất quân đánh chiếm Việt Nam để làm thuộc địa, cùng thống trị, cùng cướp đọat tài nguyên của đất nước ta, cùng nô lệ hóa dân ta và cùng chia nhau lợi nhuận. Xin xem Chương 5 trong tập sách “Tâm Thư Gửi Chính Quyền Việt Nam” hiện nay.Chương sách này đã được đưa lên sachhiem.net từ ngày 29/3/2009.

3.- Việc Giáo Hội liên kết chặt chẽ với Pháp trong việc đánh chiếm và thống trị Việt Nam từ năm 1858 cho đến mùa thu năm 1954.

4.- Sự hiện diện của các nhà truyền giáo và tu sĩ Công Giáo (xin được gọi tắt là Ca-tô, do chữ Catholics đã trở nên phổ thông ở hải ngoại) trong đoàn quân viễn chinh Pháp với nhiệm vụ dẫn đường đưa lối cho đoàn quân xâm lăng này trong các chiến dịch tấn chiếm Việt Nam từ năm 1858 cho đến khi Hiệp Ước Giáp Thân 1884 ra đời.

5.- Vai trò các tín đồ Ca-tô được Giáo Hội đưa đến chủng viện Pénang ở Mã Lai để huấn luyện về kỹ thuật chống phá tổ quốc Việt Nam rồi được đưa về Việt Nam phục vụ cho Liên Minh Pháp – Vatican, làm các công việc thông ngôn, chỉ điểm, đưa đường dẫn lỗi, dịch thuật các tài liệu trong bộ máy tuyên truyền và bộ máy đàn áp cho Liên Quân Xâm Lăng Pháp – Vatican, hoặc là trong các chiến dịch tấn công các cứ điểm phòng thủ của quân dân ta cũng như trong các chiến dịch tấn công và tiêu diệt các lực lượng nghĩa quân kháng chiến Việt Nam trong suốt thời kỳ từ năm 1958 cho đến 1945. Trong số những tên Ca-tô Việt gian này có Ngô Đình Khả, Nguyễn Hữu Bài, Nguyễn Trường Tộ, v.v…

6.- Việc đoàn ngũ hóa tín đồ Ca-tô trong các xóm đạo và tổ chức họ thành những đạo quân thứ 5 nằm tiềm phục tại địa phương chờ nhận lệnh của các đấng bề trên để nổi lên tiếp ứng vào khi Liên Quân Xâm Lăng Pháp – Vatican tiến đến tấn công một vị trí nào đó ở các vùng gần bên.

7.- Vai trò của Linh-mục Trần Lục dẫn 5 ngàn giáo dân Phát Diệm có võ trang đi tiếp viện cho đoàn quân Pháp dưới quyền chỉ huy của Trung-tá Metzinger và Đại Úy Joffre trong chiến dịch tấn công và tiêu diệt lực lượng nghĩa quân kháng chiến tại Chiến Lũy Ba Đình (Thanh Hóa) dưới quyền chỉ huy của cụ Đinh Công Tráng vào những năm năm 1886 và 1887.

8.- Vai trò của tên Việt gian Ngô Đình Khả (phụ thân của Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Thục, Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn, Ngô Đình Luyện) cùng với Nguyễn Thân trong chiến dịch tấn công và tiêu diệt căn cứ nghĩa quân kháng chiến của nhân dân ta dưới quyền chỉ huy của nhà ái quốc Phan Đình Phùng. Ngô Đình Khả và Nguyễn Thân là hai người chủ động trong việc đào mả cụ Phan Đình Phùng lấy hài cốt đem đốt thành tro, lấy tro trộn với thuốc súng, rồi bắn xuống sông Lam Giang để trả thù cho những chiến dịch “Bình Tây Sát Tả” của nghĩa quân ta trước đó. Cái truyền thống đào mả kẻ thù những người đã chết để trả thù là của đạo Ca-tô đã có ở Âu Châu từ thời Trung Cổ [4]

9.- Việc tên Ca-tô Việt gian Ngô Đình Khả được Liên Minh Thánh Pháp - Vatican gài vào triều đình Huế để theo dõi thái độ và hành động của ông vua gỗ Thành Thái rồi báo cáo với chính quyền bảo hộ.

10.- Việc Vatican và Pháp đồng thuận với nhau trong việc bổ nhậm cựu Linh-mục Thierry d’ Argenlieu (vừa là người của Giáo Hội La Mã, vừa là người của Pháp) nắm giữ chức vụ Cao Ủy Đông Dương từ ngày 17/8/1945 cho đến ngày 15/3/1947.

11.- Vai trò của Giáo Hội La Mã và giáo dân Việt Nam đã liên tục chống lại tổ quốc Việt Nam qua những hành động chiến đấu bên cạnh đoàn quân xâm lăng Pháp suốt trong thời Kháng Chiến Chống Pháp 1945-1954.

12.- Sự chuyển hướng mục tiêu tranh đấu của các lực lượng nghĩa quân kháng chiến Việt Nam (từ 1858 đến 1945) trong việc đánh đuổi Liên Minh Xâm Lược Pháp-Vatican để giành lại chủ quyền độc lập cho dân tộc. Trong sự chuyển hướng này, có mục nói về chủ trương loại bỏ chế độ quân chủ dưới mọi hình thức kể cả hình thức trung ương tập quyền lẫn hình thức quân chủ lập hiến. (Nếu đưa mục này vào trong chương trình sử ở bậc trung học, thì làm sao nhà cầm quyền miền Nam có thể giải thích được việc Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican chủ trương đưa ra “Giải Pháp Bảo Đại” để chống lại chính quyền Kháng Chiến dưới quyền lãnh đạo của Mặt Trận Việt Minh?)

13.- Những bài học về Hội Nghị Genève và Hiệp Định Genève 1954

14.- Những hành động của chính quyền Ngô Đình Diệm vi phạm điều khoản quy định việc tổng tuyển cử thống nhất đất nước vào tháng 7/1956.



B.- Những sự kiện lịch sử bị diễn dịch lươn lẹo hay bị bóp méo hoặc bị xuyên tạc:

Ngoài ra, lại còn có rất nhiều sự kiện lịch sử đã bị cắt xén hay bị diễn dịch sai lạc (lươn lẹo) rồi mới được đưa vào chương trình học ở bậc trung học. Trước khi nói đến vấn đề này, thiết tưởng cũng nên biết tài nghệ bóp méo sự thật lịch sử của Giáo Hội La Mã. Nói về tài nghệ này của Nhà Thờ Vatican, học giả Ca-tô Phan Đình Diệm cũng là hội trưởng Học Hội Đức Giêsu Kitô Phục Sinh ghi nhận như sau:

“Hàng ngàn năm, để bưng bít và che giấu 7 chương tội đối ngoại và một chương đối nội là tám, nghệ thuật tuyên truyền của Giáo Hội Roma phải nói là đã đạt đến chỗ cực kỳ ảo diệu, thiên biến vạn hóa, một nghệ thuật tuyên truyền thần thánh, một nghệ thuật tuyền truyền nhồi sọ tuyệt vời: Giáo Hội là Thánh, Giáo Hội là Mầu Nhiệm, Giáo Hội là Bí Tich, Giáo Hội là Hiền Thê của Đức Giê-su, Giáo Hội là Duy Nhất, Thánh Thiện, Công Giáo và Tông Truyền, Giáo Hội là Vương Quốc của Thiên Chúa… Giáo Hội tự nhận cho mình hết tất cả những khái niệm cao cả thánh thiện, vừa linh thiêng siêu hình, vừa hữu hình thế tục, chẳng bỏ sót một phạm trù nào! Ngoài nghệ thuật tuyên truyền, Giáo Hội vẫn phải xây “vạn lý trường thành đức tin” và buông bức “màn sắt thần học” lên đầu đàn chiên. Mỗi tòa giảng là một cái loa tuyên truyền, dựa vào khoa thần học phù phép, ảo thuật, (Giáo Hội) đã biến “núi tội thành con chuột”, “kẻ cướp (thành) thày tu” và “quỷ satan thành (người) có diện mạo ông thánh.” [5]

Như đã nói ở trên, mục đích của việc làm bất chính này là làm cho học sinh không nhận ra có sự liên hệ khắng khít giữa những sự kiện đó với Giáo Hội hay tu sĩ hoặc tín đồ Ca-tô. Một trong những sự kiện này là chuyện Tòa Thánh Vatican cấu kết với đế quốc thực dân Pháp để đưa ra Giải Pháp Bảo Đại với dã tâm bơi nguợc dòng lịch sử, phục hồi cái vương quyền lỗi thời của nhà Nguyễn để làm bức bình phong che đậy cho mưu đồ bất chính trong chính sách dùng người Việt đánh người Việt và dùng tín đồ Ca-tô để cai trị đại khối dân tộc thuộc tam giáo cổ truyền. Việc Vatican chủ trương đưa ra Giải Pháp Bảo Đại được sách sử ghi lại rõ ràng như sau:

"Ngày 28/12/1945: Huế:Tổng Giám Mục Antoni Drapier, đại diện Roma, tuyên bố: Gia đình Bảo Đại là gia đình thân Pháp bậc nhất trong dân chúng Việt Nam (la plus francophile de tous les annmites) và theo ý ông ta, nên cho Bảo Đại lên ngôi như trước ngày 9/3 (À mon avis, il serait avantageux pour le calm de rétablir le Roi comme chef régulier avant le 9 mars; DOM [aix], CP 125). Drapier cũng đưa ra giải pháp là có thể sau đó sẽ cho Bảo Long kế vị, và Nam Phương làm Giám Quốc [Phụ Chính] [6]

Tiếp theo đó, họ lại khua chiêng gióng trống tô vẽ cho ông vua gỗ này và bọn Việt gian bán nước cho Pháp và Vatican bằng những luận điệu bịp bợm với những cụm từ “chính quyền quốc gia”, “chính nghĩa quốc gia”, “người Việt quốc gia” chiến đấu dưới “lá cờ vàng ba sọc đỏ”, nhưng hết sức lúng túng, rồi từ đó gây ra những lúng túng tiếp theo như những chiếc vòng khoen móc nối với nhau trong một sợi giây chuyền:

1.- Lúng túng không thể giải thích được việc tái lập vương quyền cho nhà Nguyễn bằng cái gọi là “Giải Pháp Bảo Đại”. Đây là một hành động bơi ngược dòng lịch sử, nghĩa là đi ngược với trào lưu tiến hóa của phong trào đánh đuổi Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican với bốn nhiệm vụ chính là:


a.- Giành lại chủ quyền độc lập cho dân tộc.

b.- Đập tan cái ách quân chủ phong kiến lỗi thời coi nhân dân như chó ngựa đã đè nặng lên đầu lên cổ dân tộc ta từ mấy ngàn năm qua bằng cách thiết lập chính quyền dân chủ tự do cho dân, vì dân và bởi dân.

c.- Thực hiện một cuộc cách mạng xã hội, xóa bỏ hết tất cả những bất công xã hội, xóa bỏ hết tất cả những tàn tích đế quốc, thực dân và phong kiến còn rớt lại.

d.- Thực hiện một cuộc cách mạng ruộng đất để đem lại công bằng về kinh tế cho người dân ở nông thôn và mang lại phúc lợi cho toàn dân theo đà tiến hóa của nhân loại.

2.- Lúng túng trong việc biện minh sao cho thuận lý về cái chính nghĩa khi họ khoác cho chính quyền bù nhìn Bảo Đại cái danh xưng "chính quyền quốc gia" và "chính nghĩa quốc gia".

3.- Lúng túng khi phải gọi những tên Việt gian vốn đã có thành tích làm tay sai cho Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp Vatican từ trước năm 1945 và trong thời Kháng Chiến 1945-1954 là "những người Việt quốc gia chân chính". Ai cũng biết rằng gọi những tên Việt gian này là “ những người Việt quốc gia chân chính” quả thật là không ổn.

Làm sao những tên Việt gian như Lê Văn Hoạch, Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Văn Tâm, Phan Văn Giáo, Trần Văn Hữu, Lê Văn Viễn, v.v… lại có thể được gọi là những người quốc gia chân chính yêu nước tranh đấu cho quyền lợi tối thượng của dân tôc?

Làm sao những tên quan lại làm tay sai cho chính quyền bảo hộ Liên Minh Pháp Vatican trong thời kỳ từ trong thời 1885-1945 lại có thể được gọi là những người quốc gia chân chính yêu nước?

Làm sao có thể gọi những tên Việt gian này là những người đã quyết tâm liều thân tranh đấu cho quyền lợi tối thượng của dân tộc?

Chẳng lẽ những tên Việt gian khét tiếng làm tay sai đắc lực cho liên minh giặc Pháp – Vatican như Trần Bá Lộc, Nguyễn Hữu Độ, Ngô Đình Khả, Nguyễn Hữu Bài, Lê Hoan, Linh-mục Trần Lục, Nguyễn Thân, Hoàng Cao Khải, Hoàng Trọng Phu, Ngô Đình Khôi, Hoàng Gia Mô, Giám-mục Nguyễn Bá Tòng, Giám-mục Ngô Đình Thục, Cung Đình Vận, Vi Văn Định, Nguyễn Duy Hàn, Ngô Đình Diệm, v.v…lại có thể được gọi là những người quốc gia yêu nước hay sao?

Nếu như vậy, thì những tên Việt gian ác ôn làm tay sai cho Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican trong thời Kháng Chiến 1945-1954 như Lê Văn Hoạch, Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Văn Tâm (cọp Cai Lậy, nhân sĩ Bắc Hà đã từng mắng thẳng vào mặt là “Chó Tâm bồi Tây” bằng cụm từ “đại điểm quần thần”), Trần Văn Hữu, Phan Văn Giáo, Lê Văn Viễn, Giám-mục Lê Hữu Từ, Giám-mục Phạm Ngọc Chi, Linh-mục Hoàng Quỳnh (Phát Diệm), Linh-mục Nguyễn Gia Đệ (Ninh Bình), Linh-mục Lương Huy Hân (Nam Định), Linh-mục Nguyễn Kim Điền (Phát Diệm), Linh-mục Mai Đức Tín (Thái Bình), Linh-mục Nguyễn Quang Ân (Thái Bình), Linh-mục Vũ Đức Luật (Thái Bình), Linh-mục Mai Ngọc Khuê (Bùi Chu), v.v… và những sĩ quan người Việt trong đạo quân đánh thuê cho Liên Quân Xân Lăng Pháp – Vatican trong thời Kháng Chiến 1945-1954 cũng được gọi là những người Việt Quốc Gia yêu nước hay sao?

Nếu như vậy, thì những tên Việt gian bán nước cho Liên Minh Xâm Lược Mỹ – Vatican trong những năm 1954-1975 cũng có thể được gọi là "những người Việt quốc gia chân chính" hay sao?

Nếu như vậy, thì những tên Việt gian làm mật vụ cho Liên Minh Pháp – Vatican trong những năm 1945-1954 và đã từng nắm giữ những chức vụ chỉ huy trong ngành mật vụ công an ở miền Nam như Trần Kim Tuyến, Trần Khắc Kính, Trần Khắc Nghiêm, Lê Quang Tung, Lê Quang Triệu, Ngô Thế Linh, Nguyễn Văn Hai, Phan Quang Đông, Dương Văn Hiếu, Trần Thiện Dzai, Mai Thế Quyền, v.v… cũng được gọi là những người Quốc Gia yêu nước hay sao?

Ai cũng biết rằng tất cả những người được nêu lên trên đây đều là những người được chính quyền Liên Minh Pháp – Vatican đào tạo để phục vụ cho quyền lợi của hai thế lực (Pháp và Vatican) và đã có nhiều thánh tích chống lại dân tộc và tổ quốc Việt Nam hoặc là từ trước năm 1945 và hoặc là từ thời Kháng Chiến 1945-1954. Nếu gọi những hạng người này là những “người Việt quốc gia yêu nước”, thì quả thật là tội nghiệp cho cụm từ “người Việt quốc gia yêu nước” và tội nghiệp cho ngôn ngữ Viêt Nam!

Thực ra, những lúng túng này là do ý đồ nhập nhằng đánh lận con đen bằng cách gom những tên Việt gian đã được nêu lên trên đây vào chung với những người yêu nước chân chính trong các đảng phái và phong trào cách mạng chống Liên Minh Pháp – Vatcian trong thời kỳ 1858-1945.





Phần trình bày trên đây cho chúng ta thấy rõ Giáo Hội La Mã chính là thủ phạm đã làm cho tín đồ Ca-tô cũng như tất cả những người Việt khác sinh ra và lớn lên ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975 không được học đầy đủ lịch sử thế giới, và cũng không được học đầy đủ những bài học lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại.

Tình trạng này đã khiến cho họ khi nói hay viết về lịch sử đều có một điểm chung là thiếu một bức tranh toàn cảnh về lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại, tức là bỏ hết những nguồn lịch sử thế giới đã ảnh hưởng đến dòng sinh mệnh của dân tộc ta, trong đó có Giáo Hội La Mã là quan trọng hơn cả. Cũng vì cái “điểm chung” này mà các ông văn sĩ Ca-tô như người múa gậy giữa vườn hoang, thường biên sọan những ngụy thư để bào chữa và lấp liếm những khu rừng tội ác của Giáo Hội La Mã và những người đồng đạo, bất kể là họ đã chống lại tổ quốc và dân tộc ta trong suốt chiều dài lịch sử từ giữa thế kỷ 16 cho đến ngày nay (trực tiếp hoặc gián tiếp thâu thập tin tức tình báo chiến lược, tiếp tay cho bọn gián điệp Ca-tô dưới danh nghĩa là các nhà truyền giáo, và nhiều tội ác khác.) Dưới đây là một số những ngụy thư tiêu biểu:

1.- Cuốn “Trần Lục” (Montréal, Canada, 1996) do các ông giáo sĩ và trí thức nửa mùa Ca-tô như Đức Ông Trần Ngọc Thụ, Đức Ông Trần Văn Khả, Linh-mục Trần Cao Tường, Lê Văn Lân, Phạm Đình Khiêm, Vũ Huy Ba, Phạm Xuân Thu, LM Võ Long Tê, Hồ Linh Vũ Ngọc Ánh, Nguyễn Gia Đệ, Lê Hữu Mục, Bằng Phong, Phạm Xuân Thu, Trần Trung Lương, LM Trần Văn Kiệm, LM Vũ Thành, Vũ Duy Hiền, Trần Xuân Tiên, Lê Đình Ngân hè nhau biên soạn. Nhận xét về cuốn ngụy sử này, ông Nguyễn Ngọc Quỳ viết:

“Trước hết, điểm mặt xem ai nâng Trần Lục lên: Hội Truyền thống Giáo phận Phát Diệm, Đức ông Trần Ngọc Thụ (Rome), các LM Nguyễn Thái Bình, Trần Phúc Vị, Trần Phúc Nhân (ba vị nầy từ Việt Nam qua), LM Nguyễn Gia Đệ (Canada), LM Trần Quý Thiện, hai Đức ông, 3 Linh Mục, cùng với ông Lê Hữu Mục và 5 trí thức giáo sư Công giáo (đồng tác giả trong một cuốn sách dày 640 trang để vinh danh và ca tụng LM Trần Lục) , ông Vũ Quang Ninh và ông Sơn Diệm Vũ Ngọc Ánh, hai nhân sĩ Công giáo tại Mỹ, …như thế cũng tạm đủ để kết luận tính đại diện cho quan điểm Sử học và Văn hóa của toàn bộ Giáo hội Công giáo Việt Nam về con người Trần Lục rồi. Vả lại, cho đến giờ nầy, không thấy một cuốn sách nào của người Công giáo viết "khác", lại càng chẳng thấy một người Công giáo Việt Nam nào lên tiếng "phản đối" các vị nầy, kể cả những chuyên viên viết lách Công giáo lúc nào cũng sẳn sàng đòi "dạy Sử" cho cả nước như các ông "tiến sĩ" Cao Thế Dung, ông Tú Gàn thẩm phán Nguyễn Cần và ông cựu Nghị sĩ đao to búa lớn Nguyễn văn Chức .

Bây giờ hãy xem họ nâng ông Cha Trần Lục nầy lên đến độ cao nào: "danh nhân anh tài không những của Giáo hội Công giáo mà còn của dân tộc Việt Nam chúng ta" (LM Trần Quí Thiện), "danh nhân không những trong nước Việt Nam mà còn cả ngoài nước" " (Đức Ông Trần văn Khả) ", "đức độ và tài ba", "LM Trần Lục là một vĩ nhân của lịch sử hiện đại" (ông Sơn Diệm Vũ Ngọc Ánh), "gương chung cổ cho người cả nước đời đời soi chung" (ông Vũ Huy Bá), …và nhiều lời tâng bốc mà chính những anh hùng liệt nữ nước ta như các bà Trưng bà Triệu, và các vị Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học cũng không sánh bằng.”…“Một người đã hướng dẫn và cung cấp cho quân xâm lược 150 tay súng Công giáo để đánh chiếm thành lũy Ninh Bình của nước ta, một người đã huy động 5.000 giáo dân Việt Nam giúp Tây tiêu diệt chiến khu Ba Đình của anh hùng Đinh Công Tráng, một người đã từng bị lãnh tụ chống xâm lăng Phan Đình Phùng đè ra hỏi tội và đánh đòn công khai, một người đã từng được quân xâm lăng Pháp tưởng thưởng công lao bằng hai Bắc Đẩu Bội Tinh, một người như thế mà lại được cộng đồng chức sắc và trí thức Công giáo hải ngoại, cho đến giờ nầy, vẫn còn ồn ào "nâng" lên thành anh tài của Việt Nam và vĩ nhân của thế giới, thì làm sao lý giải được hiện tượng chua xót và … quái đản nầy ?” [7]

2.- Cuốn “Những Bí Ẩn Đàng Sau Cuộc Thánh Chiến Tại Việt Nam” (Garden Grove, CA:, 1994) và cuốn “Những Bí Ẩn Lịch Sử Đàng Sau Cuộc Chiến Việt Nam” (Garden Grove, CA:, 1999) do ông Lữ Giang (tức cựu thẩm phán Nguyễn Cần) .

3.- Cuốn “Việt Nam Chính Sử” (Fall Church, VA:TXB 1992) do ông Nguyễn Văn Chức biên soạn.

4.- Bộ “Việt Nam Tôn Giáo Chính Trị Quan” (Fall Church, VA: TXB 1991) do Linh mục Vũ Đình Họat biên soạn.

5.- Cuốn “Tổ Quốc Ăn Năn” (Paris TXB, 2001) do ông Nguyễn Gia Kiểng biên soạn.

6.- Cuốn “Việt Nam: Cuộc Chiến Tranh Quốc Gia - Cộng Sản, Tập I” (San Jose, CA: TXB 2002) do nhóm các ông Dương Diên Nghị, Nguyễn Châu, Lương Văn Toàn, Lê Hữu Phú và Hòang Đức Phương biên soạn.

7.- Cuốn “Việt Nam Huyết Lệ Sử” (New Orleans, Louisiana: Đồng Hương, 1996) do ông Cao Thế Dung biên soạn .

8.- Cuốn “Việt Nam 1945-1995” (Tập I, Bethesda, MD, 2004) do ông Lê Xuân Khoa biên soạn.

9.- Cuốn “Ngô Đình Diệm Lời Khen Tiếng Chê” (CA: Thông Vũ 1998) do ông Minh Võ biên sọan.

10.- Nhà giáo kiêm nhà văn Ca-tô Nguyễn Ngọc Ngạn tuyên bố khơi khơi trong cuốn video Paris By Night 81 rằng “Bắc Hàn không xâm lăng Nam Hàn” và viết cuốn “Xóm Đạo” (Đông Kinh, Nhật Bản: Tân Văn, 2003) với nhiều phán đoán lịch sử ngược với sự thật. Xin đọc “Khi Nhà Văn Lạm Bàn Lịch Sử của Nguyễn Mạnh Quang, có đăng trong sachhiem.net.

11.- Ông Vũ Hải Hồ bịa đặt ra chuyện Cựu Đại Sứ Pháp Jrean Marie Mérillion viết cuốn “Sàigon Et Moi” cũng không ngòai mục đích giống như các tác giả của 10 trường hợp ở trên. Xin xem bức thư trao đổi giữa Tiến-sĩ Hoàng Ngọc Thành và thư trả lời của Cựu Đại Sứ Pháp Jrean Marie Mérillion in nơi các trang 622-623 trong cuốn Những Ngày Cuối Cùng Của Tổng Thống Ngô Đình Diệm (San Jose, CA: Quang Vinh & Kim Loan & Quang Hiếu, 1994).

Và các ông trí thức nửa mùa Ca-tô khác cư ngụ ở Montréal và ở nhiều nơi khác tha hồ phóng bút tâng bốc Nhà Thờ Vatican và chế độ đạo phiệt Ca-tô của tên bạo chúa phản thần tam đại Việt gian Ngô Đình Diệm.



II.- ĐẾN NHỮNG THẮC MẮC TRÊN ĐÂY



Như đã nói ở trên, trong khoảng thời gian 1885-1945, toàn lãnh thổ nước ta đã bị Liên Minh Xâm Lược Pháp đô hộ và trong những năm 1954-1975 miền Nam Việt Nam bị Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican thống trị, cho nên, chính sách giáo duc, đặc biệt là môn Sử và Công Dân đều bị Nhà Thờ Vatican khống chế và kiểm soát chặt chẽ. Vì thế mà những thế hệ sinh ra và lớn lên trong thời gian trên đây không có cơ hội tìm hiểu và biết rõ những sự kiện lịch sử đã bị nhà cầm quyền bưng bít và bóp méo. Do đó mới có nhưng thắc mắc như trên.

Cũng nên biết, từ năm 1975, có rất nhiều trí thức người Việt hải ngọai hằng quan tâm đến lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại. May mắn là họ có nhiều thì giờ và cơ hội tiếp cận với các văn khố và thư viện tại các nước như Pháp, Anh, Đức, Hòa Lan, Hoa Kỳ Canada, Úc Đại Lợi, v.v…. Nhiều người đã có cơ may nghiên cứu các tài liệu của các nhà viết sử chân chính và các tư liệu của những người có liên hệ trực tiếp hay gián tiếp đến việc Nhà Thờ Vatican vận động chính quyền Pháp và Mỹ trực tiếp can thiệp vào nội tình Việt Nam. Những ai đã từng đọc các tài liệu này đều ngỡ ngàng khi thấy rằng những sự thật về lịch sử Việt Nam trong cận và hiện đại đã bị bưng bít và xuyên tạc như tôi đã trình bày ở trên. Có nhiều người đã biên soạn thành những tác phẩm để công bố những sự thật này cho mọi người cùng biết. Dưới đây là một số những tác phẩm này:

1.- “Les Missionaires Et La Politique Coloniale Francaise Au Vietnam” (1857-1914). Heaven, CT: Yale Southeast Asia Studies, 1990) hay Đạo Thiên Chúa và Chủ Nghĩa Thực Dân tại Việt Nam. Los Angeles, CA: Hương Quê, 1988 của tiến sĩ Cao Huy Thuần,

2.- “Bước Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp ở Việt Nam 1858-1897” (Saint Raphael, Pháp, TXB, 1995) của học giả Nguyễn Xuân Thọ,

3.- “Thập Giá và Lưỡi Gươm” (Paris: Nhà Xuất Bản Trẻ, 1978) của Linh-mục Trần Tam Tỉnh.

4.- Các tác phẩm của Tiến-sĩ Vũ Ngự Chiêu hoặc là dưới bút hiệu Chính Đạo và Nguyên Vũ. Cũng nên biết chính nhà viết sử Vũ Ngự Chiêu đã tìm ra được lá thư của Giám-mục Ngô Đình Thục đề ngày 21/8/1944 viết tại Tòa Tổng Giám Mục Vĩnh gửi Toàn Quyền Jean Decoux, trong đó ông kể ra công lao huyết hãn của thân phụ ông là Ngô Đình Khả đã hy sinh cho nước Pháp trong các chiến dịch truy lùng và tiêu diệt lực lượng nghĩa quân Cần Vương (dưới quyền lãnh đạo của cụ Phan Đình Phùng) để khẩn khỏan xin Pháp tha cho ông Ngô Đình Diệm cái tội phản Pháp đi theo Nhật khi Nhật tiến vào Việt Nam từ tháng 9 năm 1940.

5.- Tất cả các ấn phẩm của học giả Charlie Nguyễn,

6.- Tất cả các sách hay các bài viết của Giáo-sư Trần Chung Ngọc

7.- Tất cả các tác phẩm của ông Bùi Kha

8.- Tất cả các tác phẩm của ông Ngô Triệu Lịch

9.- Tất cả những tác phẩm do Giao Điểm phát hành và đăng trên giaodiemonline.com,

10.- Tất cả những tác phẩm đăng trên sachhiem.net,

11.- Tất cả những tác phầm của ông Chu Văn Trình,

12.- Cuốn “Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi” (Wesminster, CA: Văn Nghệ, 1993) của cụ Hoành Linh Đỗ Mậu,

13.- Tất cả các tác phẩm của Giáo-sư Lý Chánh Trung. Những tác phẩm này đã được in và phát hành vào giữa thập niên 1960, sau khi chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ.

Và còn nhiều nữa ..v.v…, ..

Tất cả những tác phẩm trên đây đều là công trình biên soạn của những học giả hằng quan tâm đến lịch sử nước nhà. Họ đã bỏ ra nhiều năm nghiên cứu các tài liệu sử trong các thư viện ở Bắc Mỹ, ở Âu Châu, ở Úc Châu hay trong internets (mới có sau này từ đầu thập niên 1980). Điều đáng buồn là trong những tác giả này, không có người nào là do Trường Đại Học Sư Phạm Sàigòn, hay Đại Học Sư Phạm Huế hoặc Đại Học Văn Khoa Sàigòn đào tạo. Điều này chứng tỏ rằng các chính quyền miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975 đã khinh thường môn sử trong chương trình học và coi nhẹ vấn đề đào tạo giáo viên phụ trách dạy môn sử. Xin xem Chương 8 trong sách Tâm Thư Gửi Chính Quyền Việt Nam. Chương sách này sẽ được đưa lên sáchhiem.net trong tháng 5/2009 này.



III.- VỀ CÁC ÔNG PÉTRUS TRƯƠNG VĨNH KÝ, LINH MỤC TRẦN LỤC VÀ NGUYỄN TRƯỜNG TỘ

Ở hải ngoại đã có những nghiên cứu khám phá lịch sử về những nhân vật này, và đã có những kết luận hoàn toàn khác với những điều mà học sinh đã được học dưới thời Pháp thuộc và thời Mỹ can thiệp ở miền Nam. Do đó, gần đây đã có những cuộc tranh cãi về các nhân vật này mà chi tiết có thể đọc từ các tài liệu tham khảo kê ra ở đoạn dưới của phần này. Sau đây, tôi xin đề cập đến hai tiểu đề.

A. Tóm lược những hành động của họ chống lại tổ quốc và dân tộc.

1.- Vê ông Petrus Trương Vĩnh Ký, sách “Các Vua Cuối Nhà Nguyễn - Tập 1” (Houston, TX: Văn Hóa, 1999), tr. 130, có ghi rõ hành động Việt gian của ông này với nguyên văn nhu sau:

"32.- SHM (Vincennes) GG2 99:2. Petrus Key, tức Trương Vĩnh Ky sau này, cũng cùng một nhận xét. Tháng 3/1859, Petrus Key viết cho Grand Chef et vous, très honorables officiers de la flotte française: "Ayez pitié de nous; Ayez pitié de nous. Vous êtes nos libérateurs et la main des ennemis nous a touché!” … "Et cependant nos souffrances nous poussent à invoquer votre puissance et à vous exposer du fond du coeur tout ce que je viens de soumettre à votre prudence et à votre sagesse." Thư tháng 2/1859. Petrus Key gửi Grand Chef; SHM (Vincennes) GG2 99:2.[8] [Thư của Pétrus Ký gửi cho vị Tổng Chỉ huy Hạm đội Pháp: “Hãy thương xót chúng tôi, Hãy thương xót chúng tôi. Các ngài là những vị giải phóng chúng tôi và bàn tay của kẻ thù đã chạm đến chúng tôi rồi” … “Và tuy nhiên, nỗi đau đớn của chúng tôi đã thúc đẩy chúng tôi cầu khẩn đến quyền lực của Ngài và bộc bạch từ tận đáy sâu tấm lòng của chúng tôi đến sự cẩn trọng và khôn ngoan của Ngài”

2.- Về ông Linh-mục Trần Lục, sách Thập Giá và Lưỡi Gươm ghi rõ như sau:

"Cho tới ngày chết, 25-4-1892, Giám-mục Puginier chẳng bỏ qua bữa nào để củng cố thêm vị trí nước Pháp tại xứ sở con nuôi này của ông. Người ta đang giữ được hàng chục điệp văn và bản tin tình báo mang chữ ký của ông trong văn khố của Bộ Thuộc Địa. Và một phần nhờ ở các bản tin đó mà quân Pháp đã có thể đập tan cuộc kháng chiến vũ trang của người Việt Nam. Cuộc kháng cự hùng mạnh nhất đã xẩy ra tại Ba Đình, Thanh Hóa, dưới sự chỉ huy của Đinh Công Tráng. Bề ngoài, đó là một loại làng được biến thành căn cứ, được lũy tre bảo vệ, có thành, có đường hầm và hệ thống giao thông hào được bố trí rất thông minh. Tinh thần các chiến sĩ lúc đó rất cao. Nhằm "bình định" cứ điểm này, quân Pháp đã gửi tới một lực lượng gồm 2250 tên lính, 25 đại bác, 4 pháo hạm dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Metzinger. Cuộc tấn công ngày 16-12-1886 bị đầy lui. Quân Pháp phải tổ chức bao vây để tìm hiểu chiến thuật mới. May cho chúng, vì có một sĩ quan trẻ, đại úy Joffre (sau này là thống chế Pháp trong Chiến Tranh Thế Giới Thứ Nhất) nghĩ tới việc nhờ Linh-mục Trần Lục, quản xứ Phát Diệm và là Phó Vương, tiếp trợ cho cuộc bình định các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh. Ông linh mục này đã nhận phép lành của Giám-mục Puginier, rồi đi tiếp viện cho quân Pháp với 5 ngàn giáo dân. Ba Đình đã thất thủ." [9] .

3.- Về nhân vật Nguyễn Trường Tộ, thiết tưởng cần nên biết một số những đặc tính của người tín hữu Ki-tô là:


a.- Phải tuyệt đối trung thành với Vatican hay Giáo Hội La Mã.

b.- Phải triệt để tuân hành những lệnh truyền của các đấng bề trên trong hệ thống quyền lực của Giáo Hội La Mã.

c.- “Phải giấu kín những chuyện tội lỗi, dù có thật, xẩy ra trong giáo xứ, không nên để cho người ngoại đạo được biết.” [10]

d.- Phải hết lòng và tùy theo hoàn cảnh để thi hành “nghĩa vụ tông đồ” hay “làm sáng danh Chúa” (lôi kéo những người thuộc các tôn giáo khác vào đạo) bằng tất cả khả năng, bằng bất cứ phương tiện và thủ đọan nào miễn là đạt được mục đích.

e.- Phải đặt quyền lợi của Nhà Thờ Vatican lên trên quyền của tổ quốc và dân tộc. Nghĩa vụ này được Nhà Thờ Vatican ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975 đúc kết thành khầu hiệu “Nhất Chúa, nhì cha, thứ ba Ngô Tổng Thống” [Nguyễn Ngọc Ngạn, Xóm Đạo (Đông Kinh, Nhật Bản: Tân Văn, 2003), tr. 18.] và khẩu hiệu “Thà mất nước, chứ không thà mất Chúa” . Khẩu hiệu vong bản phản quốc này được Linh-mục Hoàng Quỳnh công khai hô lớn trong cuộc biểu tình của giáo dân tại ngoài hàng rào bên cạnh cổng vào Bộ Tổng Tham Mưu tại đường Võ Tánh, Gia Định để làm áp lực cho yêu sách đòi chính quyền Nguyễn Khánh phải phục hồi quyền lực và quyền lợi cho Nhà Thờ Vatican và Đảng Cần Lao [11]

..v.v..

Về việc ông Nguyễn Trường Tộ được Nhà Thờ huấn luyện như thế nào, Wikipedia, the free encyclopedia (google) viết:

“Để thoát khỏi bị những luật lệ giới hạn chống Ca-tô, (Linh-mục Gauthier và Nguyễn Trường Tộ trốn đi Đà Nẵng vào năm 1859 và xin vào sống nhờ dưới sự che chở của quân đội người Âu Châu lúc đó chiếm đóng các cứ điểm dọc theo bờ biển miền Trung và các vùng phụ cận. Từ Đà Nẵng, Linh-mục Gauthier dẫn Nguyễn Trường Tộ đi Hồng Kông, rồi đến Penang ở Mã Lai và nhiều nơi khác ở Đông Nam Á Châu, nơi mà Hội Truyền Giáo Hải Ngọai của Pháp đã có những chủng viện (trường dòng).” Nguyên văn: “To escape Huế’s anti-Catholic restriction, Gauthier and Nguyễn Trường Tộ fled to Đà Nẵng in 1859, placing themselves under the military protection of the besieged European forces then occupying central coast enclaves in the vicinity. From Đà Nẵng, Gauthier took Nguyễn Trường Tộ to Hong Kong, Penang in Malaysia, and other places in Southeast Asia where the Foreign Missions Society had established seminaries.” [12]

Ông Nguyễn Trường Tộ là tín hữu Ki-tô ngoan đạo và là đệ tử ruột của Linh-mục Gauthier (Ngô Gia Hậu) và Linh-mục Gauthier là cánh tay mặt của Giám Mục Puginier. Giám-muc Puginier là khâm sứ đại diện Tòa Thánh Vatican tại Hà Nội từ đầu thập niên 1860 cho đến khi ông ta qua đời vào ngày 25/4/1892. Nhiệm vụ của ông giám mục này là phải hòan thành nhiệm vụ được Vatican giao phó cho tại Việt Nam trong việc theo đuổi tham vọng bá quyền thống trị toàn cầu để nô lệ hóa nhân loại và thi hành các sách lược để đạt được tham vọng trên đây. Để hoàn thành nhiệm vụ này, Giám-mục Puginier biên soạn một kế họach mà các nhà viết sử gọi là Kế Hoạch Puginier với chủ trương “diệt tận gốc, trốc tận rễ” giới Nho sĩ, tiệu diệt luôn cả nếp sống và truyền thống của nền văn minh Khổng Mạnh. Kế hoạch này được Tiến-sĩ Cao Huy Thuần trình bày khá rõ ràng nơi các trang 287-303 trong cuốn Les Missionaires Et La Polique Coloniale Francaise Au Vietnam 1857-1914 (New Haven CT: Yale Southeast Asia Studies, 1990), và nơi các trang 387-414 trong bản tiếng Việt với tựa đề là “Đạo Thiên Chúa và Chủ Nghĩa Thực Dân Tại Việt Nam” (Los Angelss, CA: Hương Quê, 1988.)



B.- Tranh luận về những việc làm phản quốc của các ông Trần Lục, Pétrus Ký và Nguyễn Trường Tộ.

Vai trò hai ông Nguyễn Trường Tộ và Pétrus Trương Vĩnh Ký tiếp tay với Vatican và người Pháp trong việc đánh chiếm Việt Nam làm thuộc địa đã gây tranh cãi sôi nổi giữa một bên là các con chiên người Việt tuyệt đối trung thành với Tòa Thánh vatican cùng với những người Việt Nam không có cơ hội tìm hiểu sâu rộng về lịch sử Việt Nam trong thởi cận và hiện đại, và một bênlà các nhà trí thức người Việt ở hải ngọai có cơ may được tiếp cận với các văn khố và thư viện tại các nước như Pháp, Ý, Đức, Anh, Mỹ, Canada, Úc Đại Lợi, v.v… Tại các nơi này, các nhà trí thức người Việt hải ngọai đã tìm hiểu và nghiền ngẫm các tài liệu sử cùng các tư liệu của chính các giáo sĩ Ca-tô và của những nhân vật người Pháp có liên hệ với việc Liên Minh Pháp – Vatican đánh chiếm Việt Nam trong thế kỷ 19, cho nên họ mới có thể biên soạn thành tác phẩm (như đã nói ở trên) để cho dân ta nhìn thấy rõ những sự thật lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại một cách rõ ràng, để khỏi bị Giáo Hội La Mã và con chiên người Việt lạc dẫn.

Riêng về vấn đề ba nhân vật Trần Lục, Pétrus Trương Vĩnh Ký và Nguyễn Tường Tộ, đã có một số tác phẩm của các nhà trí thức người Việt ở hải ngoại trình bày rõ ràng với những luận cứ có khả năng rất thuyết phục để chứng minh là cả ba người này đều hành động theo lệnh truyền của Nhà Thờ Vatican và phục vụ rất đắc cho Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican (nếu không về phương diện này thì cũng về phương diện khác) từ khi họ tiếp cận liên minh xâm lược này cho đến ngày họ qua đời. Dưới đây là một số những tác phẩm này:

1.- Sách đã xuất bản: LM Trần Lục (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 1999) của hai tác giả Bùi Kha và Trần Chung Ngọc.

2.- Sách đã xuất bản: Nguyễn Trường Tộ Con Người Và Sự Thật(Houston, TX: Anh Trần, 1998) của nhiều tác giả.

3.- Sách đã xuất bản: Nguyễn Trường Tộ Thực Chất Con Người & Di Thào (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 1999) của hai tác giả Bùi Kha và Trần Chung Ngọc: http://sachhiem.net/BUIKHA/BK_NTT.php

4.- Sách đã xuất bản: Pétrus Trương Vĩnh Ký Tuyển Tập (San Diego, CA: Mr. Lê, 1998) của tác giả Cửu Long Lê Trọng Văn.

5.- Tài liệu điện tử: Xét lại Huyền Thoại “Nguyễn Trương Tộ” do sachhiem.net tóm lược. Xin xem đường nối:http://sachhiem.net/LICHSU/SH.php

6.- Tài liệu điện tử: Nguyễn Trường Tộ Là Danh Nhân Việt Nam? của Lý Đương Nhiên. Xin bấm linkhttp://www.sachhiem.net/LICHSU/LyDuongNhien.php



IV.- VỀ CÂU NÓI: “VIỆT CỘNG CÒN CHƯA DÁM CHỬI NGUYỄN TRƯỜNG TỘ”

Từ “Việt Cộng” trong câu nói của em QBH thật ra phải nói là các nhà làm chính sách hay các nhà lãnh đạo chính quyền Việt Nam hiện nay. Cũng nên biết rằng, có một điểm hoàn toàn khác biệt giữa một bên là những người cầm quyền Việt Nam trong thời chính quyền Bảo Đại (1948-1954) và các nhà cầm quyền ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975 và một bênlà những người cầm quyền chính quyền Việt Minh trong thời Kháng Chiên 1945-1954 cũng như chính quyền miền Bắc trong những năm 1954-1975 và chính quyền Việt Nam từ năm 1975 cho đến ngày nay.

Khác nhau như thế nào? Xin thưa: Khác nhau ở những vấn đề sau đây:

A.- Miền Nam:

Các nhà cầm quyền trong thời Bảo Đại (1948-1954) và các nhà cầm quyền ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975 là những người được các thế lực ngọai bang đưa lên cầm quyền để thực thi những chính sách do họ làm ra, giống như một tên quản lý đồn điền cao su chỉ biết thi hành lệnh của ban giám đốc, không được làm trái ý họ. Nếu làm trái ý họ, thì hoặc là sẽ bị khiển trách hoặc là bị cho về vườn. Nếu có ý đồ chống lại hay phản lại họ, thì sẽ bị khử diệt. Đây là trường hợp ông Ngô Đình Diệm mưu đồ thi hành chính sách Ki-tô hóa miền Nam bằng bạo lực một cách trắng trợn làm mất mặt Hoa Kỳ đối với nhân dân thế giới (tức là chống lại Hoa Kỳ) trong những năm 1954-1963. Xin xem Chương 63, Phần VI trong bộ sách “Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã”. Chương sách này đã được lên sachhiem.net từ ngày 2/11/2007.

Tóm lại, họ không phải là các nhà lãnh đạo chính trị, mà chỉ là những tên đầy tớ thừa hành, làm tay sai cho ông chủ người ngọai bang. Ông chủ bảo sao, thì họ làm như vậy. Trong những năm 1948-1955, ông chủ của họ là người Pháp và Vatican, rồi tới trong những năm 1954-1975, ông chủ thực sự của miền Nam Việt Nam là Hoa Kỳ và Vatican. Khi nào các ông chủ này còn tồn tại ở Việt Nam, thì chính quyền và bọn đầy tớ mà họ thuê mướn để làm tay sai cho họ còn tồn tại. Khi nào các ông chủ này cuốn gói ra đi, thì chính quyền này rơi vào tình trạng rã đám và bọn đầy tớ cũng cuốn gói ra đi theo ông chủ. Đây là sự thật lịch sử và sự thật này đã xẩy ra đúng như vậy.

B.- Miền Bắc:

Trái lại, các nhà lãnh đạo chính quyền Việt Nam hiện nay là những người xuất thân từ bàn tay trắng, từ giả gia đình ra đi với lòng nhiệt thành yêu nước, đi theo lý tưởng đánh đuổi Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican để giành lại chủ quyền độc lập cho tổ quốc và đánh đuổi Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican để hoàn thành nhiệm vụ lịch sử, đòi lại Miền Nam đem lại thống nhất đất nước cho dân tộc. Tất cả họ đã thành công và tất cả những thành công này đều là do tài xoay sở, lèo lái của họ mà tạo nên. Đây là sự thật lịch sử và sự thật này đã được gần như toàn thể nhân dân ta và nhân dân thế giới đều công nhận. Điều này chứng tỏ họ vừa là các chính khách có tinh thần ái quốc rất cao, có tinh thần cách mạng rất mạnh và có rất nhiều thủ đoạn chính trị để lãnh đạo toàn dân trong thời kháng chiến chống Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican cũng như trong cuộc chiến đánh đuổi Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican và trong thời hậu chiến phục hưng xứ sở.

C. Thái độ chính trị:

Vì là những nhà ái quốc có tinh thần cách mạng rất mạnh và có nhiều thủ đoạn chính trị, ta có thể nói chính quyền miền Bắc gồm các nhà chính trị rất lão luyện, khôn khéo và rất linh động trong việc ứng xử (hành động hay sử dụng ngôn từ) đối với các cá nhân hay thế lực bạn cũng như thù tùy theo thời thế hay hoàn cảnh của đất nước hay tình hình thế giới, để “thêm bạn bớt thù”. Nói cho rõ hơn, họ là những người biết rõ khi nào nên tiến và khi nào nên thoái, đúng như cụ Nguyễn Công Trứ đã nói:

Anh hùng khi gặp khúc lươn,

Khi cuộn thì ngắn, khi vươn thì dài.

Tổng Thống De Gaulle của nước Pháp đã từng tuyên bố “vì quyền lợi quốc gia, chúng ta không có đồng minh vĩnh viễn và cũng không có kẻ thù vĩnh viên.”

● Cùng một ý như trên, Tổng Thống Hoa Kỳ Eisenhower cũng tuyên bố: “Kẻ thù của kẻ thù là bạn của chúng ta, và bạn của kẻ thù là kẻ thù của chúng ta.” Vì quan niệm như vậy, cho nên từ giữa thập niên 1950 cho đến đầu thập niên 1970, Hoa Kỳ coi miền Nam Việt Nam là tiền đồn chống lại làn sóng Cộng Sản đang dâng tràn từ phương Bắc và triệt để thi hành chính sách Chống Cộng. Vì theo đuổi chính sách này mà họ bỏ ra hàng trăm tỉ Mỹ Kim để nuôi dưỡng chính quyền và quân đội miền Nam làm công cụ phục vụ cho nhu cầu chiến lược chống Cộng này của họ. Nhưng đến đầu thập niên 1970, sau khi đã kết thân được với Trung Cộng (trở thành bạn của Hoa Kỳ), Hoa Kỳ không còn cần sử dụng miền Nam để làm tiền đồn cho nhu cầu chống Cộng nữa. Cũng vì vậy mà Hoa Kỳ mới quyết định bỏ rơi miền Nam, và không cần phải bỏ tiền ra nuôi nợ chính quyền và quân đội miền Nam nữa. Do đó mới có biến cố ngày 30/4/1975.

● Cùng một thủ đọan chính trị như Tổng Thống Pháp De Gaulle và Tổng Thống Mỹ Eisenhower, trong những năm đầu thời Kháng Chiến Chống Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican, Chủ Tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng nêu cao khẩu hiệu: “Liên hiệp với nhân dân Pháp đánh đuổi thực dân xâm lược Pháp.”

● Chúng ta cũng có nhìn thấy rõ thủ đọan chính trị này được các nhà chính trị lão luyện của Hoa Kỳ và các nước Đồng Minh cúa Hoa Kỳ áp dụng với ông Ngô Đình Diệm. Khi cần sử dụng ông Diệm làm con cờ cho họ sử dụng, thì họ o bế ông Diệm, bốc thơm và tôn ông ta như là:

“Một người hùng Đông Nam Á”, là “Constantine Châu Á”, là “Klovít (Clovit mới trong lịch sử của Giáo Hội (La Mã).” [13]

Nhưng khi nói chuyện riêng với nhau về “các ông người Việt Quốc Gia” đến cầu cạnh xin xỏ họ để được đưa lên cầm quyền, thì Tổng Thống Eisenhower nói với hội đồng chính phủ Mỹ rằng:“Trong đám mù, thằng chột làm vua.” Dưới đây là mấy đọan văn nói về sự kiện lịch sử này:

“Với hai yếu tố vì tôn giáo và vì chống Cộng, ông Diêm được Đức Hồng Y Spellman tiếp tục giới thiệu với William O. Douglas, Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện, Thượng Nghị Sĩ Mike Mansfield, Thượng Nghị Sĩ John F. Kennedy, Allen Dulles, Giám Đốc Trung Ương Tình Báo CIA, và anh của ông Dulles là Ngoại Trưởng John Foster Dulles [MAN, Tr. 58]. Từ đó, ông Diệm trở thành con đáp số gần như mỹ mãn trong bài toán chính trị của một phe phái có ý muốn can dự vào Việt Nam:

1.- Chính sách đối ngoại đang đòi hỏi Hoa Kỳ phải xây dựng một thành trì chống Cộng ở Việt Nam.

2.- Ngoại Trưởng John Foster Dulles đang muốn tìm một lãnh tụ chống Cộng theo khuôn mẫu đạo đức và xã hội Thiên Chúa Giáo.

3.- Đức Hồng Y Spellman đang cần Hoa Kỳ thay thế Pháp ở Việt Nam, và cũng cần một giáo dân trung kiên như ông Diệm để lãnh đạo công cuộc chống Cộng như lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng Pius XII.

Điều còn lại sau cùng cho kế hoạch chính trị hỗn hợp này là làm thế nào để giải thích cho Hội Đồng Chính Phủ và Quốc Hội Hoa Kỳ và kinh nghiệm chính trị và khả năng lãnh đạo của ông Ngô Đình Diệm? Tổng Thống Eisenhower cũng chỉ có thể trấn an Hội Đồng Chính Phủ bằng câu nói, “Trong đám mù, thằng chột làm vua,”.[HER]. Điều này cho thấy: một là ông Diệm không có một thành tích chính trị nào đáng kể, hai là ông Diệm không có khả năng lãnh đạo, hoặc ba là người Mỹ hoàn toàn không biết gì về ông Diệm.

Đầu năm 1954, Ngoại Trưởng John Foster Dulles khuyến dụ Pháp khuyên nhủ Bảo Đại bổ nhiệm ông Ngô Đình Diệm về Việt Nam làm thủ tướng.” [14]

● Sau này, trong chuyến viếng thăm Sàigòn vào năm 1961, Phó Tổng Thống Lyndon Johnson đã cường điệu so sánh ông Ngô Đình Diệm với ông Churchill của nước Anh. Sau đó, lên phi cơ trở về Hoa Kỳ, ký giả Stanley Karnow hỏi ông rằng:

“Phải chăng ông thực sự so sánh Diệm với ông Churchill như vậy sao?” Phó Tổng Thống Lyndon Johnson đã trả lời liền rằng “Cái cục cứt! Diệm là thằng bé duy nhất chúng ta có ở đây!” Nguyên văn: “Carried away by oratorical hyperbole during a visit to Saigon in 1961, Lyndon Johnson, then vice-president, had compared Diem to Churchill. “Did you really mean it?” I asked him aboard his airplane later. “Shit,” he drwaled, “Diem’s the only boy we got there.” [15]

● Giống như Hoa Kỳ, chính quyền miền Bắc cũng dùng những thủ đoạn chính trị này đối với với Ngô Đình Diệm. Trong thời gian từ đầu niên 1963 về trước, chính quyền Kháng Chiến Việt Nam (1945-1954) và chính quyền miền Bắc (1954-1975) luôn luôn gọi ông Diệm là tên phản động đại Việt gian. Vào khỏang cuối năm 1954, khi ông Diệm được Mỹ và Vatican đưa về Việt Nam lập chính phủ, ông ta trở thành một tay sai đắc lực của Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican, chính quyền miền Bắc không ngớt sử dụng ngôn từ hay lời lẽ nặng nề để lên án ông ta. Những lời lẽ lên án này còn nặng nề gấp bội phần so với những lời lẽ lên án ông Bảo Đại trước đó. Tôi còn nhớ hồi cuối năm 1954, nhà thơ Tú Mỡ có sáng tác một bài thờ trào phúng nói về chuyện ông Diệm được đưa về Việt Nam cầm quyền, trong đó có câu “Giặc Pháp thay bù nhìn như thay tã”.

Ấy thế mà vào đầu năm 1963, vì nhu cầu chiến lược ly gián giữa Mỹ và anh em Nhà Ngô, chính quyền miền Bắc quay ra o bế ông Ngô Đình Diệm: Chủ Tịch Hồ Chí Minh không ngần ngại gọi ông Diệm là “một nhà ái quốc”, và thậm chí chính cụ còn gửi một cảnh đào đến Dinh Gia Long để tặng riêng ông Ngô Đình Diệm nữa để động viên ông Diệm chống Mỹ hầu làm yếu miền Nam.

● Tương tự như trên, các nhà lãnh đạo chính quyền Việt Nam hiện nay không còn gọi các con chiên Việt Nam đã từng đi theo Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican và đi theo Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican chống lại tổ quốc và dân tộc Việt Nam là “Việt gian” nữa, và cũng không còn lên án Nguyễn Trường Tộ là Pétrus Trương Vĩnh Ký là “Việt gian” nữa. Đây cũng chỉ là một thủ đoạn chính trị trong lúc Nhà Nước Việt Nam đang tiến hành chính sách đoàn kết dân tộc để lôi cuốn hết tất cả mọi người Việt thuộc mọi thành phần, ở trong nước cũng như ở hải ngoại, cùng nắm tay nhau xây dựng và phát triến nước nhà cho được hùng mạnh để tiến lên sánh vai cùng với các con rồng Á Châu và các cường quốc trong cộng đồng thế giới.

Thế nhưng, lịch sử là lịch sử, ở vào bất kỳ thời đại nào, hoàn cảnh nào hay thời thế như thế nào thì những sự kiện lịch sử cũng vẫn không thay đổi. Còn những lời lẽ của các nhà chính khách thường thường là có tính cách xã giao và luôn luôn thay đổi, thay đổi với từng lọai người đối thoại và thay đổi với hoàn cảnh lịch sử hay hoàn cảnh chính trị khi họ tuyên bố hay nói chuyện. Sự thay đổi này cũng giống như Hoa Kỳ hay bất kỳ các cường quốc nào thay đồi chính sách của họ.

Những lời nói hay tuyên bố, hoặc thái độ không đả động gì đến tội ác của các ông Pétrus Trương Vĩnh Ký, Linh-Mục Trần Lục và Nguyễn Trường Tộ không có nghĩa là tình trạng tội ác phản quốc của mấy tên tội đồ Việt gian này đã được xóa bỏ hết và họ nghiễm nhiên trở thành các nhà ái quốc của dân tộc Việt Nam. Tội ác Việt gian của họ chỉ được xóa bỏ khi còn sống họ mà đã quay về chiến đấu chống quân lại cướp nước như trường hợp của người anh hùng của đất nước Trịnh Văn Cấn mà thôi!



V.- VỀ MỘT TRƯỜNG HỌC MANG TÊN TRẦN LỤC

Phần này để trà lời lên thắc mắc của em QBH trong bức điện thư về chuyện có một trường học mang tên Linh-mục Trần Lục (ở Sàigòn trong những năm 1954-1963)

Cũng nên biết là các ông Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu đều là tín đồ Ca-tô và đều do Giáo Hội La Mã với sự chấp thuận của Hoa Kỳ đưa lên cầm quyền để thi hành các chính sách của Nhà Thờ Vatican nhằm phục vụ cho quyền lợi của Giáo Hội La Mã.

Một trong những chính sách này là vinh danh các tu sĩ và tín đồ Ca-tô đã có công lớn giúp Liên Minh Pháp – Vatican và Liên Minh Mỹ - Vatican xâm lược và thống trị Việt Nam. Cũng vì thế mà ngay khi ông Diệm vừa mới được Hoa Kỳ và Vatican đưa về cầm quyền ở Việt Nam, những con chiên tay sai của Giáo Hội ở Sàigòn đã hồ hởi tiến hành việc vinh danh những tên Ca-tô tội đồ chống lại tổ quốc và dân tộc Việt Nam từ thế kỷ 17. Nhờ vào hành động bất chính này mà tên của những tội đồ khốn nạn được chễm chệ treo trên các trường học, đường phố ở Sàigòn và nhiều thành phố lớn khác ở miền Nam Việt Nam. Ai đã từng sống ở Sàigòn trong những năm 1954-1975 đều thấy rõ:

A.- Về trường học, có các trường học như Trường Pétrus Ký, Trường Nguyễn Tường Tộ, Trường Trần Lục, Trường Hồ Ngọc Cẩn, Trường Nguyễn Bá Tòng, Trường Nguyễn Duy Khang (ở Thị Nghè), Trường Lê Bảo Tịnh, Trường Thánh Thomas (Nhà Thờ Ba Chuông), v.v…

B.- Về đường phố, có Đường Tổng Đốc Lộc (Ca-tô Trần Bá Lộc), Đường Tổng Đốc Phương (Ca-tô Đỗ Hữu Phương), Đường Alexandre de Rhode, Đường Pétrus Ký, Đại Lộ Ngô Đình Khôi (Từ Cầu Công Lý đến Phi Trương Tân Sơn Nhất – Sau ngày Cách Mạng 1/11/1963, khúc đường này được đổi thành Đường Cách Mạng 1/11), Đường Nguyễn Bá Tòng, Đường Huỳnh Tịnh Của, Đường Phát Diệm, Đường Bùi Chu, v.v… Đặc biệt ở Vĩnh Long, lại có Đại Lộ Ngô Đình Thục.

Do đó, tên của Linh-mục Trần Lục được dùng để đặt tên cho một trường trung học ở Sàigòn cũng không nằm ngoài chính sách này. Ông Nguyễn Ngọc Quỳ, trong bài viết về Trần Lục, đã có một nhận định rất hay: “Họ [những người Công giáo] chỉ có một tiêu chuẩn để đánh giá: Có lợi hay có hại cho Công giáo ? Cho nên, để có lợi cho Công giáo, họ đã lạy Trần Lục thì làm sao mà thờ Đinh Công Tráng và Phan Đình Phùng được, vì có điều nầy thì không thể có điều kia !”





Hy vọng phần trình bày trên đây có thể làm sáng tỏ những thắc mắc của em Quách Bửu Hiệp.

Thánh nhân còn có khi lầm, cho nên khi biên soạn lá thư này, chắc chắn là người viết cũng có một số thiếu sót hay sai lầm. Ước mong nhận được sự chỉ giáo của quý vị bất kể là giáo sư hay học sinh Kiểu Mẫu Thủ Đức hoặc là độc giả vốn không có liên hệ gì với trường Kiểu Mẫu Thủ Đức.

Thân chúc quý vị giáo sư, các em học sinh và quý vị độc giả vạn sự như ý.

Trân trọng,

Nguyễn Mạnh Quang

mời xem lá thư thứ hai: "Kết Quả Của Thỏa Hiệp 27-1-1973"



CHÚ THÍCH



[1] Nguyễn Hiến Lê, Đời Viết Văn của Tôi (Wesminster, CA: Văn Nghệ, 1989), tr. 99-101.

[2]Trần Tam Tỉnh, Thập Giá Và Lưỡi Gươm (Paris: Nhà Xuất Bản Trẻ, 1978), tr 14-15.

[3] Nguyên Vũ, Ngàn Năm Soi Mặt (Houston, TX: Văn Hóa, 2002), tr.389-392.

[4] Trần Quý, Lòng Tin Âu Mỹ Đấy! (Wesminster, CA: Văn Nghệ, 1993), tr. 132-133.

[5] Phan Đình Diệm. “Mea Culpa Bài 3 – Giáo Hội Công Giáo Roma La-tinh Cáo Thú Tội Lỗi Ngàn Năm.” http://www.kitohoc.com/bai/net066.html Ngày 19/9.2000.

[6] Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu 1939-1975 (Tập A: 1939-1946) (Houston, TX: Văn Hóa, 1997), tr 295.

[7] Nguyễn Ngọc Quỳ. “Tản Mạn Quanh Cuốn Trần Lục.”http://www.sachhiem.net/LICHSU/ NguyenNgocQuy.php. Ngày 4/4/2009.

[8] Vũ Ngự Chiêu, Các Vua Cuối Nhà Nguyễn 1883-1945 - Tập 1(Houston, TX: Văn Hóa 1999), tr. 130.

[9] Trần Tam Tỉnh Sđd., tr. 45-46.

[10] Nguyễn Ngọc Ngạn, Xóm Đạo (Đông Kinh, Nhật Bản: Tân Văn, 2003), tr. 320.

[11] Chu Văn Trinh, Văn Sử Địa (Tavares, Florida, 1989), tr. 80.

[12] Wikipedia, the free encyclopedia (google) “Nguyễn Trường Tộ”.

[13] Trần Tam T?nh, Sđd., tr 122.

[14] Lê Hữu Dản, Sự Thật - Đặc San Xuân Đinh Sửu 1997 (Fremont, Caliornia, 1997), trang 23-24.

[15] Stanley Karnow, Vietnam A History (New York The Viking. 1983), P. 210.

___________________

Những bài cùng đề tài:

- Trương Vĩnh Ký Phản Bội Tổ Quốc, Sao Lại Gọi Là Yêu Nước? (Bùi Kha)http://sachhiem.net/BUIKHA/BuiKha25b_TVK.php

- Hành Trình Đi Tìm Ông Trương Vĩnh Ký Nguyễn Thái An)
http://sachhiem.net/LICHSU/N/NguyenThaiAn.php

- Đắc Lộ, Trương Vĩnh Ký & Chữ Quốc Ngữ của Tác Giả Minh Vân (Bùi Kha)http://sachhiem.net/BUIKHA/BuiKha25.php

- Ngắn Gọn Về Thầy Thông Ngôn Trương Vĩnh Ký (Nguyễn Thái An)http://sachhiem.net/LICHSU/N/NguyenThaiAn04.php

- Trương Vĩnh Ký, Yêu Nước? Đối Luận với ông Trần Hữu Tá (Bùi Kha)http://sachhiem.net/BUIKHA/BuiKha19.php

- Lá Thư (1) Gửi Quí Vị Cựu Giáo Sư Và Học Sinh Trường Kiểu Mẫu Thủ Đức Hiền tài hay Việt gian? (Nguyễn Mạnh Quang)http://sachhiem.net/NMQ/NMQ011.php

- Đổi Mới Sử Học Không Có Nghĩa Là Tô Đen Thành Trắng (BS. Nguyễn Văn Thịnh) http://sachhiem.net/VANHOC/N/NguyenvThinh_05.php

Thứ Tư, 6 tháng 4, 2016

Con đỏ & Con đen.





Ảnh minh họa lấy trên Internet.


Đại Nam Quấc âm tự vị, Huình Tịnh Paulus Của, Saigon 1895-1896:
- Con đỏ: Con mới đẻ, con thơ dại.
- Con đen: Con ngươi, tròng đen. Mượn màu son phấn đánh lừa con đen. (Tự vị trích dẫn câu thứ 1414 trong Kiều).


Việt Nam tự điển, Hội Khai Trí Tiến Đức, Hanoi 1931:

- Con đen: Gọi các hạng dân đen: Mượn màu son phấn đánh lừa con đen (K).

Không có từ "Con đỏ".


Tự điển Việt Nam, Đào Văn Tập, Nhà sách Vĩnh Bảo-Saigon 1951:


- Con đỏ: Con không chính thức (trái với Con đen). // (xưa) như Con ở.


- Con đen: Người thường: mập mờ đánh lận con đen. // Con chính thức: con đen thì bỏ, con đỏ thì nuôi.


Từ điển tiếng Việt, Văn Tân chủ biên, NXB Khoa học Xã hội - Hà Nội 1967:

- Con đỏ: 1. Con mới đẻ ra. 2. Người ở gái trong xã hội cũ.

- Con đen: Kẻ khờ khạo: Mập mờ đánh lận con đen, bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền, mất chi? (K).


Việt Nam tự điển, Lê Văn Đức, Lê Ngọc Trụ hiệu đính, Nhà sách Khai Trí - Saigon 1970:

- Con đỏ: dt. Con mới đẻ. còn đỏ lấm lói: Vua nhân từ thương dân như con đỏ.

Không có từ "Con đen".




Tranh minh họa truyện Kiều. Ảnh Internet.


Từ điển truyện Kiều, Đào Duy Anh, NXB Khoa học Xã hội - Hà Nội 1974:

- Con đen: Chỉ người dân đen, người khờ dại (liên hệ với con đỏ hay xích tử chỉ người dân nghéo khổ trần trụi). Ví dụ. Mập mờ đánh lận con đen. 839, 1414.

Từ điển Văn liệu, Long Điền Nguyễn Văn Minh - NXB Hà Nội 1999:

- Con đen: Dịch "Kiềm lê" (黎, 黔: đen. : đông đảo, nhiều người). Nghĩa rộng là những dân ngu.


Mập mờ đánh lận con đen
Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền mất chi.

(KIỀU)

Không có từ Con đỏ.


Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên, NXB Đà Nẵng & Trung tâm Từ điển học - 1997:

- Con đỏ: d. 1. Trẻ mới sinh. 2. (cũ: vch.). Dân thường, không có địa vị trong xã hội (gọi theo quan niệm phong kiến, hàm ý coi là yếu ớt, cần được bảo vệ).

- Con đen: d. (cũ: vch). Dân thường, không có địa vị trong xã hội ((gọi theo quan niệm phong kiến, hàm ý coi là khờ khạo). Đánh lừa con đen.

Ngữ liệu Văn học, Đặng Đức Siêu, NXB Giáo dục - 1999:


- Con đỏ:
1. Dịch từ "xích tử" (赤子), có nghĩa trẻ con mới lọt lòng, còn đỏ hon hỏn. Trong văn chương cổ, con đỏ (xích tử) được dùng để nói về dân chúng. Sách Thượng thư Thiên Khang cáo có câu: "Nhược bảo xích tử" (Chăm sóc dân như trông nom chăm sóc con đỏ).

2. Dân chúng, dân đen. Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu một phương con đỏ(Nguyễn Đình Chiểu).


Trên đây là ý nghĩa của từ "Con đỏ", "Con đen" trong từ điển tiếng Việt qua nhiều thời kỳ, ở những địa phương, với những nghĩa khác nhau. Trong những cách giải nghĩa, tôi chú ý tới Đại Nam Quấc âm tự vị với từ "Con đen", từ "Con đen" ở đây được giải nghĩa là "Con ngươi, tròng đen", kèm theo câu Kiều thứ 1414 "Mượn màu son phấn đánh lừa con đen".

Cách giải thích trong quyển tự vị tiếng Việt xưa này khác hẳn với những cách giải thích của từ điển tiếng Việt về sau. Có một điều lý thú là cụ Huỳnh Tịnh Của cũng lấy ví dụ từ câu Kiều thứ 1414 để thuyết minh cho lý giải trong tự vị. Cụ Huynh giải thích"Con đen" là "con ngươi, tròng đen" (con mắt của người). Câu "Mượn màu son phấn đánh lừa con đen" được hiểu là "Mượn màu son phấn để đánh lừa con ngươi, con mắt" và "con ngươi, con mắt" ở đây có nghĩa ám chỉ chung "khách thường lui tới chốn làng chơi" chẳng hạn như Mã Giám Sinh, Thúc Sinh... Trong khi trong câu này, cụ Đào Duy Anh, hoặc những từ điển khác giải thích từ "Con đen" là để"chỉ người dân đen, người khờ dại". Cùng một câu của Kiều, nhưng hai cách giải thích này cho nghĩa khác nhau.


Trong quyển "Cửa sổ tri thức", (PGS, TS. Lê Trung Hoa, NXB Trẻ - 2005), đã trả lời câu hỏi "Con đen có nghĩa là gì?" trong câu Kiều 839 "Mập mờ đánh lận con đen", phần trả lời PGS. TS. Lê Trung Hoa đã trích dẫn cách giải thích từ "Con đen" trong Đại Nam Quấc âm tự vị (Con đen là con ngươi, mắt người), Từ điển truyện Kiều (Con đen chỉ dân đen, ngưới khờ dại), và Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, giải thích "Con đen" như ý của Từ điển truyện Kiều). Tôi xin tóm tắt ý chính câu trả lời của PGS. TS. Lê Trung Hoa, ông nghiêng về cách giải thích trong Đại Nam Quấc âm tự vị hơn:

- Hai từ "dân" và "con" trong "dân đen", "con đen" đều mang thanh ngang, không bị luật thơ bắt buộc phải thay từ này bằng từ kia.

- Dân đen làm gì có tiền ăn chơi sa đọa nơi lầu xanh sang trọng.

- Dân đen được dùng theo nghĩa xót thương chứ không được dùng theo nghĩa "người khờ khạo".

..........


PGS. TS. Lê Trung Hoa hoàn toàn đứng về ý kiến của cụ Huỳnh trong từ "Con đen": (cũng xin tóm tắt mấy ý chính).

- Con đứng trước một số từ chỉ sự vật sinh động như động vật: con sông, con quay, con mắt... cho nên dùng con đen để chỉ tròng đen là hữu lý.

- Theo phương thức hoán dụ - lấy bộ phận chỉ toàn thể - dùng con đen để chỉ con mắt là có thể chấp nhận được.

- Cụ Huynh sống gần thời Nguyễn Du hơn cụ Đào và cụ Hoàng nên khả năng đúng của cụ Huỳnh lớn hơn.

.........


Tóm lại , theo ý chúng tôi (PGS. TS. Lê Trung Hoa)," Con đen" trong những câu Kiều 839, 1414 không phải là "dân đen" (hoặc kẻ khờ khạo, khờ dại), mà có nghĩa là "Con mắt".