Thứ Năm, 10 tháng 12, 2015

Nhìn lại nền Giáo dục VNCH ( Tham khảo)





Sách giáo khoa thời VNCH

 Triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng hòa là Nhân bản, Dân tộc, và Khai phóng, nhấn mạnh quyền tự do giáo dục, và cho rằng “nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí”, “nền giáo dục đại học được tự trị”, và “những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn”.

Hệ thống giáo dục Việt Nam Cộng Hòa gồm tiểu học, trung học, và đại học, cùng với một mạng lưới các cơ sở giáo dục công lập, dân lập, và tư thục ở cả ba bậc học và hệ thống tổ chức quản trị từ trung ương cho tới địa phương.


Phòng thí nghiệm ở Viện Pasteur Sài Gòn (Internet)
Tổng quan

Từ năm 1917, chính quyền thuộc địa Pháp ở Việt Nam đã có một hệ thống giáo dục thống nhất cho cả ba miền Nam, Trung, Bắc, và cả Lào cùng Campuchia. Hệ thống giáo dục thời Pháp thuộc có ba bậc: tiểu học, trung học, và đại học. Chương trình học là chương trình của Pháp, với một chút sửa đổi nhỏ áp dụng cho các cơ sở giáo dục ở Việt Nam, dùng tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính, tiếng Việt chỉ là ngôn ngữ phụ. Sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập vào năm 1945, chương trình học của Việt Nam – còn gọi là chương trình Hoàng Xuân Hãn (ban hành thời chính phủ Trần Trọng Kim – được đem ra áp dụng ở miền Trung và miền Bắc.

Riêng ở miền Nam, vì có sự trở lại của người Pháp nên chương trình Pháp vẫn còn tiếp tục cho đến giữa thập niên 1950. Đến thời Đệ Nhất Cộng Hòa thì chương trình Việt mới được áp dụng ở miền Nam để thay thế cho chương trình Pháp. Cũng từ đây, các nhà lãnh đạo giáo dục Việt Nam mới có cơ hội đóng vai trò lãnh đạo thực sự của mình.


Một buổi lễ khánh thành tượng Petrus Ký trong khuôn viên ( công viên 30/4 hiện tại ), nằm trên đường Boulevard Norodom – ( Đại Lộ Thống Nhất trước Dinh Độc Lập, hướng về Nhà Thờ Đức Bà ).

Ngay từ những ngày đầu hình thành nền Đệ Nhất Cộng Hòa, những người làm công tác giáo dục ở miền Nam đã xây dựng được nền móng quan trọng cho nền giáo dục quốc gia, tìm ra câu trả lời cho những vấn đề giáo dục cốt yếu. Những vấn đề đó là: triết lý giáo dục, mục tiêu giáo dục, chương trình học, tài liệu giáo khoa và phương tiện học tập, vai trò của nhà giáo, cơ sở vật chất và trang thiết bị trường học, đánh giá kết quả học tập, và tổ chức quản trị.

Nhìn chung, người ta thấy mô hình giáo dục ở Miền Nam Việt Nam trong những năm 1970 có khuynh hướng xa dần ảnh hưởng của Pháp vốn chú trọng đào tạo một số ít phần tử ưu tú trong xã hội và có khuynh hướng thiên về lý thuyết, để chấp nhận mô hình giáo dục Hoa Kỳ có tính cách đại chúng và thực tiễn.

Năm học 1973-1974, Việt Nam Cộng Hòa có một phần năm (20%) dân số là học sinh và sinh viên đang đi học trong các cơ sở giáo dục. Con số này bao gồm 3.101.560 học sinh tiểu học, 1.091.779 học sinh Trung học, và 101.454 sinh viên Đại học; số người biết đọc biết viết ước tính khoảng 70% dân số. Đến năm 1975, tổng số sinh viên trong các viện đại học ở miền Nam là khoảng 150.000 người (không tính các sinh viên theo học ở Học viện Hành Chính Quốc Gia và ở các trường đại học cộng đồng).


Cảnh giờ rước học sinh tan trường.

Mặc dù tồn tại chỉ trong 20 năm (từ 1955 đến 1975), bị ảnh hưởng nặng nề bởi chiến tranh và những bất ổn chính trị thường xảy ra, phần thì ngân sách eo hẹp do phần lớn ngân sách quốc gia phải dành cho quốc phòng và nội vụ ( trên 40% ngân sách quốc gia dành cho quốc phòng, khoảng 13% cho nội vụ, chỉ khoảng 7-7,5% cho giáo dục), nền Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa đã phát triển vượt bậc, đáp ứng được nhu cầu gia tăng nhanh chóng của người dân, đào tạo được một lớp người có học vấn và có khả năng chuyên môn đóng góp vào việc xây dựng quốc gia và tạo được sự nghiệp vững chắc ngay cả ở các quốc gia phát triển.

Kết quả này có được là nhờ các nhà giáo có ý thức rõ ràng về sứ mạng giáo dục, có ý thức trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, đã sống cuộc sống khiêm nhường để đóng góp trọn vẹn cho nghề nghiệp, nhờ nhiều bậc phụ huynh đã đóng góp công sức cho việc xây dựng nền giáo dục quốc gia, và nhờ những nhà lãnh đạo giáo dục đã có những ý tưởng, sáng kiến, và nỗ lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo dục ở Miền Nam Việt Nam.


Thầy cô giáo ( Giáo sư ) thời VNCH

Triết lý giáo dục

Năm 1958, dưới thời Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Trần Hựu Thế, Việt Nam Cộng Hòa nhóm họp Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) tại Sài Gòn. Đại hội này quy tụ nhiều phụ huynh học sinh, thân hào nhân sĩ, học giả, đại diện của quân đội, chính quyền và các tổ chức quần chúng, đại diện ngành văn hóa và giáo dục các cấp từ tiểu học đến đại học, từ phổ thông đến kỹ thuật… Ba nguyên tắc “nhân bản” (humanistic), “dân tộc” (nationalistic), và “khai phóng ( liberalic) ” được chính thức hóa ở hội nghị này.

Đây là những nguyên tắc làm nền tảng cho triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa, được ghi cụ thể trong tài liệu Những nguyên tắc căn bản do Bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1959 và sau đó trong Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa (1967).


Khóa Hội Thảo Cải Tổ Chương Trình Sư Phạm.

1. Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục nhân bản.

Triết lý nhân bản chủ trương con người có địa vị quan trọng trong thế gian này; lấy con người làm gốc, lấy cuộc sống của con người trong cuộc đời này làm căn bản; xem con người như một cứu cánh chứ không phải như một phương tiện hay công cụ phục vụ cho mục tiêu của bất cứ cá nhân, đảng phái, hay tổ chức nào khác.

Triết lý nhân bản chấp nhận có sự khác biệt giữa các cá nhân, nhưng không chấp nhận việc sử dụng sự khác biệt đó để đánh giá conngười, và không chấp nhận sự kỳ thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, chủng tộc… Với triết lý nhân bản, mọi người có giá trị như nhau và đều có quyền được hưởng những cơ hội đồng đều về giáo dục.



2. Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục dân tộc.

Giáo dục tôn trọng giá trị truyền thống của dân tộc trong mọi sinh hoạt liên hệ tới gia đình, nghề nghiệp, và quốc gia. Giáo dục phải bảo tồn và phát huy được những tinh hoa hay những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc. Dân tộc tính trong văn hóa cần phải được các thế hệ biết đến, bảo tồn và phát huy, để không bị mất đi hay tan biến trong những nền văn hóa khác.


Sinh viên đại học Dược Khoa Sài Gòn gói bánh chưng để đem giúp đồng bào miền Trung bị bão lụt năm Thìn 1964.

3. Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục khai phóng.

Tinh thần dân tộc không nhất thiết phải bảo thủ, không nhất thiết phải đóng cửa. Ngược lại, giáo dục phải mở rộng, tiếp nhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát triển xã hội, giá trị văn hóa nhân loại để góp phần vào việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội, làm cho xã hội tiến bộ tiếp cận với văn minh thế giới.

Từ những nguyên tắc căn bản ở trên, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đề ra những mục tiêu chính sau đây cho nền giáo dục của mình. Những mục tiêu này được đề ra là để nhằm trả lời cho câu hỏi: Sau khi nhận được sự giáo dục, những người đi học sẽ trở nên người như thế nào đối với cá nhân mình, đối với gia đình, quốc gia, xã hội, và nhân loại.

Mục tiêu giáo dục thời VNCH:


Bích chương của Sở Giáo Dục – Bộ Y Tế VNCH
1. Phát triển toàn diện mỗi cá nhân.

Trong tinh thần tôn trọng nhân cách và giá trị của cá nhân học sinh, giáo dục hướng vào việc phát triển toàn diện mỗi cá nhân theo bản tính tự nhiên của mỗi người và theo những quy luật phát triển tự nhiên cả về thể chất lẫn tâm lý. Nhân cách và khả năng riêng của học sinh được lưu ý đúng mức. Cung cấp cho học sinh đầy đủ thông tin và dữ kiện để học sinh phán đoán, lựa chọn; không che giấu thông tin hay chỉ cung cấp những thông tin chọn lọc thiếu trung thực theo một chủ trương, hướng đi định sẵn nào.


Thanh nữ Việt Nam Cộng Hòa

2. Phát triển tinh thần quốc gia ở mỗi học sinh.
Điều này thực hiện bằng cách: giúp học sinh hiểu biết hoàn cảnh xã hội, môi trường sống, và lối sống của người dân; giúp học sinh hiểu biết lịch sử nước nhà, yêu thương xứ sở mình, ca ngợi tinh thần đoàn kết, tranh đấu của người dân trong việc chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc; giúp học sinh học tiếng Việt và sử dụng tiếng Việt một cách có hiệu quả; giúp học sinh nhận biết nét đẹp của quê hương xứ sở, những tài nguyên phong phú của quốc gia, những phẩm hạnh truyền thống của dân tộc; giúp học sinh bảo tồn những truyền thống tốt đẹp, những phong tục giá trị của quốc gia; giúp học sinh có tinh thần tự tin, tự lực, và tự lập.


Người dân miền Nam biểu tình phản đối Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa, năm 1974.

3. Phát triển tinh thần dân chủ và tinh thần khoa học.

Điều này thực hiện bằng cách: giúp học sinh tổ chức những nhóm làm việc độc lập qua đó phát triển tinh thần cộng đồng và ý thức tập thể; giúp học sinh phát triển óc phán đoán với tinh thần trách nhiệm và kỷ luật; giúp phát triển tính tò mò và tinh thần khoa học; giúp học sinh có khả năng tiếp nhận những giá trị văn hóa của nhân loại.


Mặt tiền của Viện Đại Học Sài Gòn (Số 3 Công Trường
Chiến Sĩ)
Giáo dục tiểu học:


Một lớp tiểu học ở miền Nam vào năm 1961.

Bậc tiểu học thời Việt Nam Cộng hòa bao gồm năm lớp, từ lớp 1 đến lớp 5 (thời Đệ Nhất Cộng Hòa gọi là lớp Năm đến lớp Nhất). Theo quy định của hiến pháp, giáo dục tiểu học là giáo dục phổ cập (bắt buộc). Từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa đã có luật quy định trẻ em phải đi học ít nhất ba năm tiểu học. Mỗi năm học sinh phải thi để lên lớp. Ai thi trượt phải học “đúp”, tức học lại lớp đó. Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác.
Số liệu giáo dục bậc tiểu học[8]
Niên họcSố học sinhSố lớp học
1955 400.865 8.191
1957 717.198[9]
1960 1.230.000[9]
1963 1.450.679 30.123
1964 1.554.063[10]
1970 2.556.000 44.104


Học sinh tiểu học chỉ học một buổi, sáu ngày mỗi tuần. Theo quy định, một ngày được chia ra 2 ca học; ca học buổi sáng và ca học buổi chiều.

Vào đầu thập niên 1970, Việt Nam Cộng Hòa có 2,5 triệu học sinh tiểu học, chiếm hơn 80% tổng số thiếu niên từ 6 đến 11 tuổi; 5.208 trường tiểu học (chưa kể các cơ sở ở Phú Bổn, Vĩnh Long và Sa Đéc).


Học sinh lớp Nhất, lớp Nhì hồi xưa – ( Lớp Bốn lớp Năm bây giờ ).

Tất cả trẻ em từ 6 tuổi đều được nhận vào lớp Một để bắt đầu bậc tiểu học. Phụ huynh có thể chọn lựa cho con em vào học miễn phí cho hết bậc tiểu học trong các trường công lập hay tốn học phí (tùy trường) tại các trường tiểu học tư thục.

Lớp 1 (trước năm 1967 gọi là lớp Năm) cấp tiểu học mỗi tuần học 25 giờ, trong đó 9,5 giờ môn Quốc văn; 2 giờ Bổn phận công dân và Đức dục (còn gọi là lớp Công dân giáo dục). Lớp 2 (trước năm 1967 gọi là lớp Tư), Quốc văn giảm còn 8 tiếng nhưng thêm 2 giờ Sử ký và Địa lý. Lớp 3 trở lên thì ba môn Quốc văn, Công dân và Sử Địa chiếm 12-13 tiếng mỗi tuần.


Giờ sinh hoạt của toàn trường thời bấy giờ.

Một năm học kéo dài chín tháng, nghỉ ba tháng hè. Trong năm học có khoảng 10 ngày nghỉ lễ (thông thường vào những ngày áp Tết).


Thẻ căn cước học sinh trường Võ Trường Toản
Giáo dục trung học:


Các vị Giáo Sư trường Hồ Ngọc Cẩn

Tính đến đầu những năm 1970, Việt Nam Cộng Hòa có hơn 550.000 học sinh trung học, tức hơn 20% tổng số thanh thiếu niên ở lứa tuổi từ 12 đến 18; có 534 trường trung học (chưa kể các cơ sở ở Vĩnh Long và Sa Đéc).

Đến năm 1975 thì có khoảng 900.000 học sinh ở các trường trung học công lập. Các trường trung học công lập nổi tiếng thời đó có Petrus Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trưng Vương, Gia Long, Lê Quý Đôn (Sài Gòn) tiền thân là trường Chasseloup Laubat, Quốc Học (Huế), trường Trung học Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho), Phan Thanh Giản (Cần Thơ)…

Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác.
Tên gọi năm lớp bậc tiểu học
trước 1971sau 1971
lớp năm lớp một
lớp tư lớp hai
lớp ba lớp ba
lớp nhì lớp tư
lớp nhất lớp năm
Tên các lớp bậc trung học đệ nhất cấp
lớp đệ thất lớp sáu
lớp đệ lục lớp bảy
lớp đệ ngũ lớp tám
lớp đệ tứ lớp chín
Tên các lớp trung học đệ nhị cấp
lớp đệ tam lớp mười
lớp đệ nhị lớp 11
lớp đệ nhất lớp 12



Một lớp thử nghiệm hoá chất tại trường Petrus Ký

Trung học đệ nhất cấp:


Trường Trung học Cộng đồng Quận 8 năm 72- 73

Trung học đệ nhất cấp bao gồm từ lớp 6 đến lớp 9 (trước năm 1971 gọi là lớp đệ thất đến đệ tứ), tương đương trung học cơ sở hiện nay. Từ tiểu học phải thi vào trung học đệ nhất cấp. Đậu vào trường trung học công lập không dễ. Các trường trung học công lập hàng năm đều tổ chức tuyển sinh vào lớp Đệ thất (từ năm 1971 gọi là lớp 6), kỳ thi có tính chọn lọc khá cao (tỷ số chung toàn quốc vào trường công khoảng 62%); tại một số trường danh tiếng tỷ lệ trúng tuyển thấp hơn 10%.

Những học sinh không vào được trường công thì có thể nhập học trường tư thục nhưng phải trả học phí. Một năm học được chia thành hai “lục cá nguyệt” (hay “học kỳ”). Kể từ lớp 6, học sinh bắt đầu phải học ngoại ngữ, thường là tiếng Anh hay tiếng Pháp, môn Công dân giáo dục tiếp tục với lượng 2 giờ mỗi tuần.

Từ năm 1966 trở đi, môn võ Vovinam (tức Việt Võ đạo) cũng được đưa vào giảng dạy ở một số trường.

Học xong năm lớp 9 thì thi bằng Trung học đệ nhất cấp. Kỳ thi này thoạt tiên có hai phần: viết và vấn đáp.

Năm 1959 bỏ phần vấn đáp rồi đến niên học 1966-67 thì Bộ Quốc gia Giáo dục bãi bỏ hẳn kỳ thi Trung học đệ nhất cấp.


Sân trường Marie Curie

Trung học đệ nhị cấp:


Nam sinh Võ Trường Toản

Trung học đệ nhị cấp là các lớp 10, 11 và 12, trước 1971 gọi là đệ tam, đệ nhị và đệ nhất; tương đương trung học phổ thông hiện nay. Muốn vào thì phải đậu được bằng Trung học đệ nhất cấp, tức bằng Trung học cơ sở.

Vào đệ nhị cấp, học sinh phải chọn học theo một trong bốn ban như dự bị vào đại học. Bốn ban thường gọi A, B, C, D theo thứ tự là Khoa học thực nghiệm hay còn gọi là ban Vạn vật; ban Toán; ban Văn chương và ban Văn chương Cổ ngữ – thường là Hán văn. Ngoài ra học sinh cũng bắt đầu học thêm một ngoại ngữ thứ hai.

Vào năm lớp 11 thì học sinh phải thi Tú tài I rồi thi Tú tài II năm lớp 12. Thể lệ này đến năm học 1972-1973 thì bỏ, chỉ thi một đợt tú tài phổ thông. Thí sinh phải thi tất cả các môn học được giảng dạy (trừ môn Thể dục), đề thi gồm các nội dung đã học, không có giới hạn hoặc bỏ bớt. Hình thức thi kể từ năm 1974 cũng bỏ lối viết bài luận (essay) mà theo lối thi trắc nghiệm có tính cách khách quan hơn.
Số liệu giáo dục bậc trung học[8]
Niên họcSố học sinhSố lớp học
1955 51.465 890
1960 160.500[9]
1963 264.866 4.831
1964 291.965[10]
1970 623.000 9.069


Mỗi năm có hai đợt thi Tú tài tổ chức vào khoảng tháng 6 và tháng 8.

Tỷ lệ đậu Tú tài I (15-30%) và Tú tài II (30-45%), tại các trường công lập nhìn chung tỷ lệ đậu cao hơn trường tư thục do phần lớn học sinh đã được sàng lọc qua kỳ thi vào lớp 6 rồi. Do tỷ lệ đậu kỳ thi Tú tài khá thấp nên vào được đại học là một chuyện khó. Thí sinh đậu được xếp thành: Hạng “tối ưu” hay “ưu ban khen” (18/20 điểm trở lên). Thí sinh đậu Tú tài II hạng tối ưu thường hiếm. Mỗi năm toàn Việt Nam Cộng Hòa chỉ một vài thí sinh đậu hạng này, có năm không có. Kế tiếp là hạng “ưu” (16/20 điểm trở lên); “bình”(14/20); “bình thứ” (12/20), và “thứ” (10/20)


Thầy trò trường nữ Gia Long

Một số trường trung học chia theo phái tính như ở Sài Gòn thì có trường Pétrus Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trường Hồ Ngọc Cẩn (Gia Định) và các trường Quốc học (Huế), Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Võ Tánh (Nha Trang), Trần Hưng Đạo (Đà Lạt), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho) dành cho nam sinh; và các trường Trưng Vương, Gia Long, Lê Văn Duyệt, Trường Nữ Trung học Đồng Khánh (Huế), Trường Nữ Trung học Bùi Thị Xuân (Đà Lạt), Trường Nữ Trung học Lê Ngọc Hân (Mỹ Tho), Trường Nữ Trung học Đoàn Thị Điểm (Cần Thơ) chỉ dành cho nữ sinh.

Học sinh trung học lúc bấy giờ phải mặc đồng phục: nữ sinh thì áo dài trắng, quần trắng hay đen; còn nam sinh thì mặc áo sơ mi trắng, quần màu xanh dương.


Nữ sinh Lê Văn Duyệt

Trung học tổng hợp:

Chương trình giáo dục trung học tổng hợp (tiếng Anh: comprehensive high school) là một chương trình giáo dục thực tiễn phát sinh từ quan niệm giáo dục của triết gia John Dewey,sau này được nhà giáo dục người Mỹ là James B. Connant hệ thống hóa và đem áp dụng cho các trường trung học Hoa Kỳ Giáo dục trung học tổng hợp chú trọng đến khía cạnh thực tiễn và hướng nghiệp, đặt nặng vào các môn tư vấn, kinh tế gia đình, kinh doanh, công-kỹ nghệ, v.v… nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức thực tiễn, giúp họ có thể mưu sinh sau khi rời trường trung học. Ở từng địa phương, phụ huynh học sinh và các nhà giáo có thể đề nghị những môn học đặc thù khả dĩ có thể đem ra ứng dụng ở nơi mình sinh sống.

Thời Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa chính phủ cho thử nghiệm chương trình trung học tổng hợp, nhập đệ nhất và đệ nhị cấp lại với nhau. Học trình này được áp dụng đầu tiên tại Trường Trung học Kiểu mẫu Thủ Đức (khai giảng niên khóa đầu tiên vào tháng 10 năm 1965) , sau đó mở rộng cho một số trường như Nguyễn An Ninh (cho nam sinh; 93 đường Trần Nhân Tông, Quận 10) và Sương Nguyệt Ánh (cho nữ sinh; góc đường Bà Hạt và Vĩnh Viễn, gần chùa Ấn Quang) ở Sài Gòn, và Chưởng Binh Lễ ở Long Xuyên.


Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang (cầm đàn) trong một buổi sinh hoạt của nhóm Du Ca với các học sinh trường Trung Học Kiểu Mẫu Thủ Đức vào cuối thập niên 1960

Bổ sung ( theo góp ý của độc giả Nguyễn ):

Ở Huế: Ngày 4-8-1964 trường Đại Học Sư Phạm Huế đã thành lập một trường
Trung-học trực thuộc mang tên Trung Học Kiểu Mẫu Huế (khai giảng niên khóa đầu tiên gồm 8 lớp, 320 học sinh, 24 nhà giáo, 7 nhân viên, với hiệu trưởng Trần Kim Nở).

Ở Cần Thơ: Năm 1966, Trung học Kiểu mẫu Cần Thơ được thành lập thuộc Phân khoa Sư phạm của Viện Đại học Cần Thơ.


Cổng trường Trung Học Kiểu Mẫu Huế 1964-1975

Trung học kỹ thuật:


Trường Quốc-Gia Nông-Lâm-Mục B’Lao

Các trường trung học kỹ thuật nằm trong hệ thống giáo dục kỹ thuật, kết hợp việc dạy nghề với giáo dục phổ thông. Các học sinh trúng tuyển vào trung học kỹ thuật thường được cấp học bổng toàn phần hay bán phần. Mỗi tuần học 42 giờ; hai môn ngoại ngữ bắt buộc là tiếng Anh và tiếng Pháp.

Các trường trung học kỹ thuật có mặt hầu hết ở các tỉnh, thành phố; ví dụ, công lập thì có Trường Trung học Kỹ thuật Cao Thắng (thành lập năm 1956; tiền thân là Trường Cơ khí Á châu thành lập năm 1906 ở Sài Gòn; nay là Trường Cao Đẳng Kỹ Thuật Cao Thắng), Trường Trung học Nông Lâm Súc Bảo Lộc, Trường Trung học Kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ; tư thục thì có Trường Trung học Kỹ thuật Don Bosco (do các tu sĩ Dòng Don Bosco thành lập năm 1956 ở Gia Định; nay là Trường Đại Học Công Nghiệp TPHCM).


Hiệu trưởng Cao Thanh Đảnh và các Giáo Sư trường trung học kỹ thuật Cao Thắng.
Các trường tư thục và Quốc Gia Nghĩa Tử

Các trường tư thục và Bồ đề:




Lễ kỷ niệm 100 năm thành lập của trường Lasan Taberd 17 tháng 2 năm 1974

Ngoài hệ thống trường công lập của chính phủ là hệ thống trường tư thục. Vào năm 1964 các trường tư thục giáo dục 28% trẻ em tiểu học và 62% học sinh trung học. Đến niên học 1970-1971 thì trường tư thục đảm nhiệm 17,7% học sinh tiểu học và 77,6% học sinh trung học.

Con số này tính đến năm 1975, Việt Nam Cộng Hòa có khoảng 1,2 triệu học sinh ghi danh học ở hơn1.000 trường tư thục ở cả hai cấp tiểu học và trung học. Các trường tư thục nổi tiếng như Lasan Taberd dành cho nam sinh; Couvent des Oiseaux, Regina Pacis (Nữ vương Hòa bình), và Regina Mundi (Nữ vương Thế giới) dành cho nữ sinh. Bốn trường này nằm dưới sự điều hành của Giáo Hội Công Giáo.


Sân trường Bác ái (Collège Fraternité)

Trường Bác ái (Collège Fraternité) ở Chợ Quán với đa số học sinh là người Việt gốc Hoa cũng là một tư thục có tiếng do các thương hội người Hoa bảo trợ. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất có hệ thống các trường tiểu học và trung học Bồ Đề ở nhiều tỉnh thành, tính đến năm 1970 trên toàn quốc có 137 trường Bồ đề, trong đó có 65 trường trung học với tổng số học sinh là 58.466.

Ngoài ra còn có một số trường do chính phủ Pháp tài trợ như Marie Curie, Colette, và Saint-Exupéry. Kể từ năm 1956, tất cả các trường học tại Việt Nam, bất kể trường tư hay trường do ngoại quốc tài trợ, đều phải dạy một số giờ nhất định cho các môn quốc văn và lịch sử Việt Nam.

Chương trình học chính trong các trường tư vẫn theo chương trình mà Bộ Quốc gia Giáo dục đã đề ra, dù có thể thêm một số giờ hoặc môn kiến thức thêm.

Sau năm 1975, dưới chính thể Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam tổng cộng có 1.087 trường tư thục ở miền Nam Việt Nam bị giải thể và trở thành trường công (hầu hết mang tên mới).


Le Collège Fraternité – Bac Ai datant de 1908, se situe 4 – rue Nguyên Trai, Cho Quan.

Các trường Quốc Gia Nghĩa Tử:


Saigon 17 March 1971 – Bà Nguyễn Văn Thiệu dự lễ khánh thành Thư viện trường Quốc Gia Nghĩa Tử.

Ngoài hệ thống các trường công lập và tư thục kể trên, Việt Nam Cộng Hòa còn có hệ thống thứ ba là các trường Quốc gia nghĩa tử. Tuy đây là trường công lập nhưng không đón nhận học sinh bình thường mà chỉ dành riêng cho các con em của tử sĩ hoặc thương phế binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa như là một đặc ân của chính phủ giúp đỡ không chỉ phương tiện học hành mà cả việc nuôi dưỡng.

Hệ thống này bắt đầu hoạt động từ năm 1963 ở Sài Gòn, sau khai triển thêm ở Đà Nẵng, Cần Thơ, Huế, và Biên Hòa. Tổng cộng có 7 cơ sở với hơn 10.000 học sinh. Loại trường này do Bộ Cựu Chiến binh quản lý chứ không phải Bộ Quốc gia Giáo dục, nhưng vẫn dùng giáo trình của Bộ Quốc gia Giáo dục.

Chủ đích của các trường Quốc gia nghĩa tử là giáo dục phổ thông và hướng nghiệp cho các học sinh chứ không được huấn luyện quân sự. Vì vậy trường Quốc gia nghĩa tử khác trường Thiếu sinh quân. Sau năm 1975, các trường quốc gia nghĩa tử cũng bị giải thể.

Giáo dục đại học:



Học sinh đậu được Tú tài II thì có thể ghi danh vào học ở một trong các viện Đại Học, trường Đại Học, và học viện trong nước. Tuy nhiên vì số chỗ trong một số trường rất có giới hạn nên học sinh phải dự một kỳ thi tuyển có tính chọn lọc rất cao; các trường này thường là Y, Dược, Nha, Kỹ Thuật, Quốc gia hành chánh và Sư Phạm.

Việc tuyển chọn dựa trên khả năng của thí sinh, hoàn toàn không xét đến lý lịch gia đình. Sinh viên học trong các cơ sở giáo dục công lập thì không phải đóng tiền. Chỉ ở một vài trường hay phân khoa đại học thì sinh viên mới đóng lệ phí thi vào cuối năm học. Ngoài ra, chính phủ còn có những chương trình học bổng cho sinh viên.


Trong khuôn viên Học viện Quốc gia Hành chánh
Số liệu giáo dục bậc đại học:
Niên họcSố sinh viên
1960-61 11.708[45]
1962 16.835[10]
1964 20.834[10]
1974-75 166.475[46]


Chương trình học trong các cơ sở giáo dục đại học được chia làm ba cấp. Cấp 1 (học 4 năm): Nếu theo hướng các ngành nhân văn, khoa học, v.v.. thì lấy bằng Cử nhân (ví dụ: cử nhân Triết, cử nhân Toán…); nếu theo hướng các ngành chuyên nghiệp thì lấy bằng Tốt nghiệp (ví dụ: bằng tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm, bằng tốt nghiệp Học viện Quốc gia Hành chánh…) hay bằng Kỹ sư (ví dụ: kỹ sư Điện, kỹ sư Canh nông…). Cấp 2: học thêm 1-2 năm và thi lấy bằng Cao học hay Tiến sĩ đệ tam cấp (tiếng Pháp: docteurde troisième cycle; tương đương Thạc sĩ ngày nay). Cấp 3: học thêm 2-3 năm và làm luận án thì lấy bằng Tiến sĩ (tương đương với bằng Ph.D. của Hoa Kỳ).

Riêng ngành y, vì phải có thời gian thực tập ở bệnh viện nên sau khi học xong chương trình dự bị y khoa phải học thêm 6 năm hay lâu hơn mới xong chương trình đại học.
Bổ sung của đọc giả Trần Thạnh (26.12.2013):

VNCH có nhiều trí thức tốt nghiệp từ Pháp và Hoa Kỳ nên có hai hệ thống bằng cấp khác nhau:


Thạc Sĩ người Việt đầu tiên là ông Phạm Duy Khiêm, bào huynh của nhạc sĩ Phạm Duy.
Ecole Normale Supérieure
Ðánh dấu hoa (*) là ông Phạm Duy Khiêm. Ðánh dấu X là Tổng Thống Pháp Georges Pompidou.

Theo hệ thống của Pháp (ngày trước):

– Cử Nhân (Licencié), Cao học (DEA), Tiến Sĩ Đệ Tam Cấp (Doctorat de 3è cycle), Tiến Sĩ Quốc Gia (Doctorat d’État).

Theo hệ thống của Hoa Kỳ:

– Cử Nhân (Bachelor), Master (trước 1975 chưa có từ ngữ dịch chính xác bằng cấp này), Tiến Sĩ (PhD).

Khó có thể so sánh Master và Tiến Sĩ Đệ Tam Cấp vì học trình hai bên khác nhau. ( Hiện nay trong nước dịch Master là Thạc Sĩ gây hiểu lầm cho nhiều người ).

Từ “ Thạc Sĩ ” trước đây được dùng để chỉ những người thi đậu một kỳ thi rất khó của Pháp (agrégation). Người thi đậu được gọi là Agrégé. Không có từ tiếng Anh tương đương cho từ này.


Đại học Luật khoa Sài Gòn
Mô hình các cơ sở giáo dục đại học:

Phần lớn các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam thời Việt Nam Cộng Hòa được tổ chức theo mô hình Viện đại học (theo Việt-Nam Tự-Điển của Hội khai trí Đức Tiến: Viện = Nơi, sở).

Đây là mô hình tương tự như university của Hoa Kỳ và Tây Âu, cùng với nó là hệ thống đào tạo theo tín chỉ (tiếng Anh: credit). Mỗi viện đại học bao gồm nhiều Phân khoa đại học (tiếng Anh: faculty; thường gọi tắt là phân khoa, ví dụ: Phân khoa Y, Phân khoa Sư phạm, Phân khoa Khoa học, v.v…) hoặc Trường hay Trường Đại học (tiếng Anh: school hay college; ví dụ: Trường Đại học Nông nghiệp, Trường Đại học Kỹ thuật, v.v…).

Trong mỗi Phân khoa Đại học hay Trường Đại học có các ngành (ví dụ: ngành Điện tử, ngành Công chánh, v.v…); về mặt tổ chức, mỗi ngành tương ứng với một ban (tiếng Anh: department; tương đương với đơn vị khoa hiện nay).


Trường Đại học Giáo dục: Tiền thân là Trung tâm Huấn luyện Sư phạm Kỹ thuật

Về mặt tổ chức, viện đại học của Việt Nam Cộng Hòa duy trì đường lối phi chính trị của các đại học Tây Phương. Các khoa trưởng của các trường phân khoa không do Bộ Quốc gia Giáo dục bổ nhiệm mà do các giáo sư của Hội đồng Khoa bầu lên.

Trong hai thập niên 1960 và 1970, lúc hội nghị Hòa Bình đang diễn ra ở Paris, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ráo riết lên kế hoạch tái thiết sau chiến tranh, với viễn cảnh là hòa bình sẽ lập lại ở Việt Nam, một chính phủ liên hiệp sẽ được thành lập, người lính từ các bên trở về cần được đào tạo để tái hòa nhập vào xã hội. Trong khuôn khổ kế hoạch đó, có hai mô hình cơ sở giáo dục đại học mới và mang tính thực tiễn được hình thành, đó là trường đại học cộng đồng và viện đại học bách khoa.

Trường đại học cộng đồng là một cơ sở giáo dục đại học sơ cấp và đa ngành; sinh viên học ở đây để chuyển tiếp lên học ở các viện đại học lớn, hoặc mở mang kiến thức, hoặc học nghề để ra làm việc.

Các trường đại học cộng đồng được thành lập với sự tham gia đóng góp, xây dựng, và quản trị của địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển ở địa phương trong các mặt văn hóa, xã hội, và kinh tế. Khởi điểm của mô hình giáo dục này là một nghiên cứu của ông Đỗ Bá Khê tiến hành vào năm 1969 mà các kết quả sau đó được đưa vào một luận án tiến sĩ trình ở Viện Đại học Southern California vào năm 1970 với tựa đề The Community College Concept: A Study of its Relevance to Postwar Reconstruction in Vietnam (Khái niệm trường đại học cộng đồng:Nghiên cứu sự phù hợp của nó với công cuộc tái thiết hậu chiến ở Việt Nam).

Cơ sở đầu tiên được hình thành là Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang, thành lập vào năm 1971 ở Định Tường sau khi mô hình giáo dục mới này được mang đi trình bày sâu rộng trong dân chúng.


Trường Đại học Giáo dục: Tiền thân là Trung tâm Huấn luyện Sư phạm Kỹ thuật

Vào năm 1973, Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức (tên tiếng Anh: Thủ Đức Polytechnic University, gọi tắt là Thủ Đức Poly) được thành lập. Đây là một cơ sở giáo dục đại học đa ngành, đa lĩnh vực, và chú trọng đến các ngành thực tiễn. Trong thời gian đầu, Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức có các trường đại học chuyên về Nông Nghiệp, Kỹ Thuật, Giáo Dục, Khoa Học và Nhân Văn, Kinh tế và Quản trị, và Thiết kế đô thị; ngoài ra còn có trường đào tạo sau đại học.

Theo kế hoạch, các cơ sở giáo dục đều được gom chung lại trong một khuôn viên rộng lớn, tạo một môi trường gợi hứng cho trí thức suy luận, với một cảnh trí được thiết kế nhằm nâng cao óc sáng tạo; quản lý hành chính tập trung để tăng hiệu năng và giảm chi phí.


Trường Sư phạm, thuộc Viện ĐH Sài gòn

Sau năm 1975, dưới chính thể Cộng Hoà xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam, toàn bộ các cơ sở giáo dục đại học thời Việt Nam Cộng hòa bị đổi tên và bị phân tán theo khuôn mẫu giáo dục của Liên Xô nên không còn mô hình theo đó các trường hay phân khoa đại học cấu thành viện đại học, mà mỗi trường trở nên biệt lập.

Giáo dục đại học Việt Nam dưới các chính thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam theo mô hình phân tán ngành học. Các “trường đại học bách khoa” được thành lập dưới hai chính thể này ( Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội, Trường Đại học Bách Khoa TPHCM, và Trường Đại Học Bách Khoa Đà Nẵng) không giống như mô hình viện đại học bách khoa vì chỉ tập trung vào các ngành kỹ thuật tương tự, mô hình “trường đại học tổng hợp” (Trường Đại Học Tổng Hợp Hà Nội, Trường Đại Học Tổng Hợp TPHCM và Trường Đại Học Tổng Hợp Huế) cũng chỉ tập trung vào các ngành khoa học cơ bản, chứ không mang tính chất toàn diện.

Đến đầu thập niên 1990, chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam mới thành lập 2 “đại học” cấp quốc gia và 3 “đại học” cấp vùng theo mô hình gần giống như mô hình viện đại học. Vào tháng 10 năm 2009, một số đại biểu của Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam đưa ra đề nghị gọi tên các “đại học” cấp quốc gia và cấp vùng là “viện đại học”.
Các viện đại học công lập:

Viện Đại Học Sài Gòn: Tiền thân là Viện Đại Học Đông Dương (1906), rồi Viện Đại Học Quốc Gia Việt Nam (1955)– còn có tên là Viện Đại học Quốc gia Sài Gòn. Năm 1957, Viện Đại học Quốc Gia Việt Nam đổi tên thành Viện Đại học Sài Gòn. Đây là viện đại học lớn nhất nước. Trước năm 1964, tiếng Việt lẫn tiếng Pháp được dùng để giảng dạy ở bậc đại học, nhưng sau đó thì chỉ dùng tiếng Việt mà thôi theo chính sách ngôn ngữ theo đuổi từ năm 1955. Riêng Trường Đại Học Y Khoa dùng cả tiếng Anh.

Vào thời điểm năm 1970, hơn 70% sinh viên đại học trên toàn quốc ghi danh học ở Viện Đại học Sài Gòn.

Viện Đại Học Huế: Thành lập vào tháng 3 năm 1957 với 5 phân khoa đại học: Khoa học, Luật, Sư phạm, Văn khoa, và Y khoa.


Hàng đầu bên trái ông Nguyễn Đăng Trình Bộ trưởng Bộ QG Giáo dục, Viện trưởng Viện Đại học Huế đầu tiên ( tháng 3/1957-7/1957 ). Giữa Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm , bên phải Linh mục Giáo sư Cao Văn Luận Viện trưởng Viện Đại học Huế từ 7/1957-1965.

Viện Đại Học Cần Thơ: Thành lập năm 1966 với 4 phân khoa đại học: Khoa học, Luật khoa & Khoa học Xã hội, Sư phạm, và Văn khoa.

Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức: Thành lập năm 1974. Tiền thân là Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật (1957), Học viện Quốc gia Kỹ thuật (1972).
Các viện đại học tư thục:

Viện Đại Học Đà Lạt: Thành lập ngày 8 tháng 8 năm 1957. Một phần cơ sở của Viện Đại học Đà Lạt nguyên là một chủng viện của Giáo hội Công Giáo. Viện đại học này có 4 phân khoa đại học: Chính trị Kinh doanh, Khoa học, Sư phạm, Thần học và Văn khoa. Theo ước tính, từ năm 1957 đến 1975 viện đại học này đã giáo dục 26.551 người.


Viện Đại học Đà lạt

Viện Đại Học Vạn Hạnh: Thuộc khối Ấn Quang của Giáo hội phật giáo hội Việt Nam Thống Nhất; thành lập ngày 17 tháng 10 năm 1964 ở số 222 đường Trương Minh Giảng (sau 1975 là đường Lê Văn Sỹ), Quận 3, Sài Gòn-Gia Định với 5 phân khoa đại học: Giáo dục, Phật Học, Khoa Học Xã hội, Khoa học ứng dụng, và Văn học & Khoa học nhân văn. Vào đầu thập niên 1970, Vạn Hạnh có hơn 3.000 sinh viên.


Lễ phát bằng Cử Nhân của Viện Đại Học Vạn Hạnh, 1973

Viện Đại Học Phương Nam: Được cấp giấy phép năm 1967 tọa lạc ở số 16 đường Trần Quốc Toản (sau năm 1975 là đường 3/2 ), quận 10, Sài Gòn. Viện đại học này thuộc khối Việt Nam Quốc Tự của Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Giáo sư Lê Kim Ngân làm viện trưởng.

Viện Đại học Phương Nam có 3 phân khoa đại học: Kinh tế-Thương mại, Ngoại ngữ, và Văn khoa. Vào thập niên 1970, viện đại học này có khoảng 750 sinh viên ghi danh.


Thư viện Đại học Vạn Hạnh Sài Gòn

Viện Đại Học An Giang (Hòa Hảo): Thành lập năm 1970 ở Long Xuyên với 5 phân khoa đại học: Văn khoa, Thương mại-Ngân hàng, Bang giao Quốc tế, Khoa học Quản trị và Sư phạm. Viện Đại học này trực thuộc Giáo hội Phật Giáo Hòa Hảo.

Viện Đại Học Cao Đài: Thành lập năm 1971 trên đường Ca Bảo Đạo ở Tây Ninh với 3 phân khoa đại học: Thần học Cao Đài, Nông lâm mục, và Sư phạm. Viện Đại học này trực thuộc Giáo hội Cao Đài.


Viện Đại Học Minh Đức: Được cấp giấy phép năm 1972, trụ sở ở Sài Gòn với 5 phân khoa đại học: Kỹ thuật Canh nông, Khoa học Kỹ thuật, Kinh tế Thương mại, Nhân văn Nghệ thuật, và Y Khoa. Viện Đại học này do Giáo hội Công Giáo điều hành.
Các học viện và viện nghiên cứu:


Viện Pasteur Nha Trang

Học Viện Quốc Gia Hành Chính: Cơ sở này được thành lập từ thời Quốc Gia Việt Nam với văn bản ký ngày 29 tháng 5 năm 1950 nhằm đào tạo nhân sự chuyên môn trong lãnh vực công quyền như thuế vụ và ngoại giao. Trường sở đặt ở Đà Lạt; năm 1956 thì dời về Sài Gòn đặt ở đường Alexandre de Rhodes; năm 1958 thì chuyển về số 100 đường Trần Quốc Toản (gần góc đường Cao Thắng, sau năm 1975 là đường 3/2), Quận10, Sài Gòn.

Học viện này trực thuộc Phủ Thủ tướng hay Phủ Tổng thống, đến năm 1973 thì thuộc Phủ Tổng ủy Công vụ. Học viện có chương trình hai năm cao học, chia thành ba ban cao học, đốc sự, và tham sự.

Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp (1972-1974): tiền thân là Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc (1962-1968), Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (1968-1972) rồi nhập vào Viện Đại học Bách Khoa Thủ Đức năm 1974.

Ngoài những học viện trên, Việt Nam Cộng hòa còn duy trì một số cơ quan nghiên cứu khoa học như Viện Pasteur Sài Gòn, Viện Pasteur Đà Lạt, Viện Pasteur Nha Trang, Viện Hải dương học Nha Trang, Viện Nguyên tử lực Đà Lạt, Viện Khảo cổ v.v… với những chuyên môn đặc biệt.


Viện Pasteur Sài Gòn thời Pháp thuộc.
Các trường đại học cộng đồng:

Bắt đầu từ năm 1971 chính phủ mở một số trường đại học cộng đồng (theo mô hình community college của Hoa Kỳ) như Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang ở Mỹ Tho, Duyên Hải ở Nha Trang, Quảng Đà ở Đà Nẵng (1974), và Long Hồ ở Vĩnh Long.

Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang đặt trọng tâm vào nông nghiệp; Trường Đại học Cộng đồng Duyên Hải hướng về ngư nghiệp. Riêng Trường Long Hồ còn đang dang dở chưa hoàn tất thì chính thể Việt Nam Cộng hòa bị giải tán.

Ở Sài Gòn thì có Trường Đại học Regina Pacis (khai giảng vào năm 1973) dành riêng cho nữ sinh do Công Giáo thành lập, và theo triết lý đại học cộng đồng.
Các trường kỹ thuật và huấn nghệ:


Trường Kỹ Sư Công Nghệ, Trường Hàng Hải thuộc Trung Tâm Quốc Gia Kỹ Thuật

Ngoài những trường đại học còn có hệ thống trường cao đẳng như Trường Bách khoa Phú Thọ và Trường Nông lâm súc. Một số những trường này sang thập niên 1970 được nâng lên tươngđương với cấp đại học.

Trường quốc gia Nông Lâm mục: Thoạt tiên là Nha Khảo cứu Đông Dương thành lập năm 1930 ở B’lao, cơ sở này đến năm 1955 thì nâng lên thành Trường Quốc gia Nông lâm mục với chương trình học bốn năm. Diện tích vườn thực nghiệm rộng 200 ha chia thành những khu chăn nuôi gia súc,vườn cây công nghiệp, lúa thóc. Qua từng giai đoạn, trường đổi tên thành Trường Cao đẳng Nông Lâm Súc (1962-1968), Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (1968-1972), Học viện Quốc gia Nông nghiệp (1972-1974). Cuối cùng Trường Quốc gia Nông lâm mục được sát nhập vào Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức ( có trụ sở ở số 45 đường Cường Để, Quận 1, Sài Gòn). Trường còn có chi nhánh ở Huế, Cần Thơ, và Bình Dương.



Trường Cao đẳng Điện học

Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ: Thành lập năm 1957 thời Đệ nhất Cộng Hoà gồm bốn trường: Trường Cao đẳng Công chánh, Trường Cao đẳng Điện học, Trường Quốc gia Kỹ sư Công nghệ, và Trường Việt Nam Hàng hải. Năm 1968 lập thêm Trường Cao đẳng Hóa học. Năm 1972, Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật đổi thành Học viện Quốc gia Kỹ thuật và đến năm 1974 thì nhập với Trường Đại học Nông nghiệp để tạo nên Viện Đại Học Bách Khoa Thủ Đức


Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia: Thành lập năm 1966 để đào tạo nhân viên giữ an ninh và thi hành luật pháp.


Khóa 2 Cảnh Sát Quốc Gia
Các trường nghệ thuật:

Trường Quốc gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ: Thành lập ngày 12 tháng 4 năm 1956 dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Chương trình học sau được bổ túc để bao gồm các bộ môn âm nhạc cổ điễn Tây Phương và truyền thống Việt Nam cùng kịch nghệ.


Các giáo sư Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ đồng tấu: Trần Thanh Tâm (đờn kìm), Phan Văn Nghị (đờn cò), Trương Văn Đệ (đờn tam), Vũ Văn Hòa (sáo) và Nguyễn Vĩnh Bảo (đờn tranh).

Trường Quốc Gia Âm Nhạc Huế: Thành lập năm 1962 ở cố đô Huế chủ yếu dạy âm nhạc cổ truyền Việt Nam,dùng nhà hát Duyệt Thị Đường trong Kinh Thành Huế làm nơi giảng dạy.

Trường Quốc Gia Trang Trí Mỹ Thuật: Thành lập năm 1971, trên cơ sở nâng cấp Trường Trung học Trang trí Mỹ thuật Gia Định (tiền thân là Trường Mỹ nghệ Gia Định, thành lập năm 1940).


Buổi học hình họa tại lớp dự bị của trường Quốc gia Mỹ thuật Sài Gòn đầu thập niên 60

Trường Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn: Thành lập sau năm 1954; chuyên đào tạo về nghệ thuật tạo hình với các chương trình học 3 và 7 năm. Vị giám đốc đầu tiên là họa sĩ Lê Văn Đệ (1954-1966).

Sinh viên du học ngoại quốc:

Một số sinh viên bậc đại học được cấp giấy phép đi du học ở nước ngoài. Hai quốc gia thu nhận nhiều sinh viên Việt Nam vào năm 1964 là Pháp (1.522) và Hoa Kỳ (399), đa số theo học các ngành khoa học xã hội và kỹ sư.
TÀI LIỆU VÀ DỤNG CỤ GIÁO KHOA


Trang trong sách Địa Lý lớp Ba
Truyện Kiều bản chữ Nôm của Chiêm Vân Thị do Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng hòa xuất bản năm 1967

Năm 1958, chính phủ Đệ nhất Cộng hòa cho lập Ban Tu thư thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục để soạn, dịch, và in sách giáo khoa cho hệ thống giáo dục toàn quốc. Tính đến năm 1962, Bộ Quốc gia Giáo dục đã ấn hành xong 39 đầu sách tiểu học, 83 sách trung học, và 9 sách đại học.[82]


Trang bìa sách Địa Lý lớp Ba



Các giáo chức và họa sĩ làm việc trong Ban Tu thư đã soạn thảo trọn bộ sách cho bậc tiểu học. Bộ sách này được đánh giá cao cả về nội dung lẫn hình thức. Có nhiều sách đã được viết, dịch, và phát hành để học sinh và sinh viên có tài liệu tham khảo.

Phần lớn sách giáo khoa và trang thiết bị dụng cụ học tập do Trung tâm Học liệu của Bộ Giáo dục sản xuất và cung cấp với sự giúp đỡ của một số cơ quan nước ngoài. Trung tâm này còn hợp tác với UNESCO để viết và dịch sách dành cho thiếu nhi để giúp các em hiểu biết về các nền văn hóa khác nhau và tạo sự đoàn kết giữa các nhi đồng trên thế giới. Bộ Giáo dục cũng dành riêng ngân quỹ để in sách giáo khoa bậc tiểu học cho gần 30 sắc tộc thiểu số khác nhau ở Việt Nam.


Ngoài ra, để có sự thống nhất trong việc sử dụng các danh từ chuyên môn, Bộ Giáo dục cũng đã thiết lập Ủy ban Quốc gia Soạn thảo Danh từ Chuyên môn bao gồm nhiều giáo sư đại học. Ủy ban đã soạn thảo và, thông qua Trung tâm Học liệu, ấn hành những tập đầu tiên trong lĩnh vực văn học và khoa học.[83] Trong những dự án đó Bộ cho in lại nguyên bản Truyện Kiều bằng chữ Nôm.
NHÀ GIÁO
Đào tạo giáo chức:


Trường ĐH Sư Phạm thuộc Viện ĐH Huế.
Tòa nhà này thời Pháp là KS Morin Frères

Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn thuộc Viện Đại học Sài Gòn (thành lập vào năm 1957) là cơ sở sư phạm đầu tiên, bắt đầu khai giảng năm 1958.[84] Sau có thêm các trường Cao đẳng Sư phạm ở Ban Mê Thuột, Huế, Vĩnh Long, Long An, và Quy Nhơn, Nha Trang, Mỹ Tho, Cần Thơ, Long Xuyên.

Ngoài ra còn có Trường Đại học Sư phạm Huế thuộc Viện Đại học Huế và Trường Đại học Sư phạm Đà Lạt thuộc Viện Đại học Đà Lạt.

Vào thời điểm năm 1974, cả nước có 16 cơ sở đào tạo giáo viên tiểu học với chương trình hai năm còn gọi là chương trình sư phạm cấp tốc. Chương trình này nhận những ai đã đậu được bằng Trung học Đệ nhất cấp. Hằng năm chương trình này đào tạo khoảng 2.000 giáo viên tiểu học.

Giáo viên trung học thì phải theo học chương trình của trường đại học sư phạm (2 hoặc 4 năm). Sinh viên các trường sư phạm được cấp học bổng nếu ký hợp đồng 10 năm làm việc cho nhà nước ở các trường công lập sau khi tốt nghiệp.



Đội ngũ giáo sư trẻ nhiệt tình vừa tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Sài Gòn

Nha Sư phạm (thuộc Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh niên) và các trường sư phạm thường xuyên tổ chức các chương trình tu nghiệp và các buổi hội thảo giáo dục để giáo chức có dịp học hỏi và phát triển nghề nghiệp. Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh niên cũng gởi gởi nhiều giáo chức đi tu nghiệp ở các nước như Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Nhật, Đức, v.v…


Đối với giáo sư đại học thì đa số xuất thân từ Viện Đại học Đông Dương ở Hà Nội từ trước năm 1954. Số khác được đào tạo ở Pháp, Đức và Mỹ. Vào năm 1970 tổng cộng có 941 giáo sư giảng dạy ở các trường đại học của Việt Nam Cộng hòa.



Lễ khai giảng Trường Đại học Quốc gia Việt Nam ngày 15 tháng 11 năm 1945, khóa đầu tiên dưới chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Đời sống và tinh thần giáo chức:

Chỉ số lương của giáo viên tiểu học mới ra trường là 250, giáo học bổ túc hạng 5 là 320, giáo sư trung học đệ nhất cấp hạng 4 là 400, giáo sư trung học đệ nhị cấp hạng 5 là 430, hạng 4 là 470.

Với mức lương căn bản như vậy, cộng thêm phụ cấp sư phạm, nhà giáo ở các thành phố thời Đệ nhất Cộng hòa có cuộc sống khá thoải mái, có thể mướn được người giúp việc trong nhà.

Sang thời Đệ nhị Cộng hòa, đời sống bắt đầu đắt đỏ, vật giá leo thang, nhà giáo cảm thấy chật vật hơn, nhất là ở những thành phố lớn như Sài Gòn và Đà Nẵng. Tuy vậy, lúc nào các nhà giáo cũng giữ vững tinh thần và tư cách của nhà mô phạm (người mẫu mực, người đóng vai trò hình mẫu), từ cách ăn mặc thật đứng đắn đến cách ăn nói, giao tiếp với phụ huynh và học sinh, và với cả giới chức chính quyền địa phương.



Một nữ giáo sư trẻ vừa tốt nghiệp trường Đại Học Sư Phạm.
THI CỬ VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP


Chứng chỉ Tú Tài 1
Đề thi trắc nghiệm đã được sử dụng cho môn Công dân, Sử, Địa trong các kỳ thi Tú tài I và Tú tài II từ niên khóa 19651966. Đến năm 1974, toàn bộ các môn thi trong kỳ thi tú tài gồm toàn những câu trắc nghiệm. Các vị thanh tra trong ban soạn đề thi đều phải đi dự lớp huấn luyện về cách thức soạn câu hỏi, thử nghiệm các câu hỏi với trên 1.800 học sinh ở nhiều nơi, phân tích câu trả lời của học sinh để tính độ khó của câu hỏi và trả lời để lựa chọn hoặc điều chỉnh câu hỏi trắc nghiệm cho thích hợp.



Chứng chỉ Tú Tài 2
Đầu những năm 1970, Nha Khảo thí của Bộ Quốc gia Giáo dục đã ký hợp đồng với công ty IBM để điện toán hóa toàn bộ hồ sơ thí vụ, từ việc ghi danh, làm phiếu báo danh, chứng chỉ trúng tuyển… đến các con số thống kê cần thiết. Bảng trả lời cho đề thi trắc nghiệm được đặt từ Hoa Kỳ, và bài làm của thí sinh được chấm bằng máy IBM 1230. Điểm chấm xong từ máy chấm được chuyển sang máy IBM 534 để đục lỗ. Những phiếu đục lỗ này được đưa vào máy IBM 360 để đọc điểm, nhân hệ số, cộng điểm, tính điểm trung bình, độ lệch chuẩn, chuyển điểm thô ra điểm tiêu chuẩn, tính thứ hạng trúng tuyển v.v… Nhóm mẫu (sample) và nhóm định chuẩn (norm group) được lựa chọn kỹ càng theo đúng phương pháp của khoa học thống kê để tính điểm trung bình và độ lệch tiêu chuẩn.

Một số nhà lãnh đạo giáo dục tiêu biểu

Trong suốt thời gian 20 năm tồn tại, các vị tổng trưởng (tức bộ trưởng) và thứ trưởng giáo dục của Việt Nam Cộng hòa đã có những ý tưởng, sáng kiến, và nỗ lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo dục ở miền Nam Việt Nam. Sau đây là vài nhà lãnh đạo tiêu biểu:



Ông Phan Huy Quát
Phan Huy Quát: sinh năm 1911, mất năm 1979; Tổng trưởng Giáo dục Quốc gia Việt Nam 1949. Ông mất trong tù cải tạo dưới chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Nguyễn Thành Giung: sinh năm 1894 tại Sa Đéc; tiến sĩ vạn vật học (Viện Đại học Khoa học Marseille); Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục 1952-53 thời Quốc gia Việt Nam, kiêm Phó Viện trưởng Viện Đại học Hà Nội.


Trần Hữu Thế: sinh năm 1922 tại Mỹ Tho, mất năm 1995 tại Pháp; tiến sĩ khoa học (1952), từng dạy học ở Lyon (Pháp) và làm giáo sư ở Trường Đại học Khoa học thuộc Viện Đại học Sài Gòn; từ 1958 đến 1960 làm Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục; từng làm Đại sứ của Việt Nam Cộng hòa tại Philippines. Dưới thời Bộ trưởng Trần Hữu Thế, số lượng học sinh, sinh viên gia tăng nhanh chóng, và nhiều cải tiến trong giáo dục đã được thực hiện. Cùng thời kỳ này, Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) được tổ chức ở Sài Gòn vào năm 1958 chính thức hóa ba nguyên tắc nhân bản, dân tộc, và khai phóng làm nền tảng cho triết lý giáo dục Việt Nam Cộng hòa.

Nguyễn Văn Trường: sinh năm 1930 tại Vĩnh Long; giáo sư tại Viện Đại học Huế; hai lần đảm trách chức vụ Tổng trưởng Giáo dục thời kỳ chuyển tiếp giữa Đệ nhấtĐệ nhị Cộng hòa. Ông là người tích cực vận động và đóng góp vào sự ra đời của Viện Đại học Cần Thơ vào năm 1966.

Trần Ngọc Ninh: sinh năm 1923 tại Hà Nội; bác sĩ giải phẫu và giáo sư Trường Đại học Y khoa Sài Gòn, giáo sư Văn minh Đại cương và Văn hóa Việt Nam tại Viện Đại học Vạn Hạnh; Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Giáo dục thời kỳ chuyển tiếp giữa Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa.[98]

Lê Minh Trí: bác sĩ y khoa tai-mũi-họng, giáo sư Trường Đại học Y khoa Sài Gòn, làm Tổng trưởng Giáo dục bị ám sát bằng lựu đạn năm 1969.[100]

Nguyễn Lưu Viên: sinh năm 1919; bác sĩ, từng làm việc tại Trường Đại học Y khoa Sài Gòn, Bệnh viện Chợ Rẫy, và Viện Pasteur Sài Gòn; từ 1969 đến 1971 làm Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Giáo dục rồi Phó thủ tướng kiêm Trưởng Phái đoàn Việt Nam Cộng hòa ở Hội nghị La Celle Saint Cloud trong chính phủ Trần Thiện Khiêm.

Ngô Khắc Tĩnh: sinh năm 1922 tại Phan Rang, mất năm 2005 tại Hoa Kỳ; dược sĩ (tốt nghiệp ở Pháp); từ năm 1971 đến 1975 làm Tổng trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục, và Thanh niên; từ năm 1975 đến 1988 bị tù cải tạo dưới chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Đỗ Bá Khê: sinh năm 1922 tại Mỹ Tho, mất năm 2005 tại Hoa Kỳ; tiến sĩ giáo dục (Viện Đại học Southern California); Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục, và Thanh niên thời Đệ nhị Cộng hòa. Ông là người đã thiết lập hệ thống các trường đại học cộng đồng ở miền Nam Việt Nam và được xem là “cha đẻ của các trường đại học cộng đồng Việt Nam”. Ông còn thiết lập Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức vào năm 1974 dựa theo mô hình của các viện đại học bách khoa ở California (Hoa Kỳ) và làm việc với vai trò viện trưởng sáng lập của viện đại học này.

Nguyễn Thanh Liêm: sinh năm 1934 tại Mỹ Tho; tiến sĩ giáo dục (Viện Đại học Iowa State, Hoa Kỳ); Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục, và Thanh niên thời Đệ nhị Cộng hòa.
Các Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục: Vương Quang Nhường, Nguyễn Dương Đôn, Nguyễn Quang Trình
ĐÁNH GIÁ


Học bạ của một học sinh giỏi nhất lớp năm 1950

Về học bạ trên, Giáo sư Dương Thiệu Tống, trường Trung Học Kiểu Mẫu Thủ Đức đánh giá như sau:

“Điểm nhận xét đầu tiên của tôi là điểm số các môn học ngày xưa sao lại thấp đến thế, ngay cả đối với học sinh đứng nhất lớp như các thí dụ trên đây.

Vậy phải chăng các thầy giáo chúng tôi ngày xưa không bị áp lực bởi thi đua đạt thành tích nên có thể cho điểm trung thực hơn? Phải chăng chúng tôi quá khắt khe với học sinh? Hay là học sinh ngày nay giỏi hơn xưa quá nhiều? Tôi xin phép dành các câu hỏi này cho các đồng nghiệp và các trường học của chúng ta suy ngẫm và tìm giải đáp.” ( Trích từ nguồn Blog Lý Toét )

Từ ngày 7 đến ngày 28 tháng 6 năm 1975 ( tức là sáu tuần sau sự kiện ngày 30 tháng 4), Arthur W. Galston, giáo sư sinh học ở Viện Đại học Yale, viếng thăm miền Bắc Việt Nam (lúc đó vẫn là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa). Theo tường trình của Galston cho tạp chí Science số ra ngày 29 tháng 8 năm 1975 thì một trong những chủ đề khiến các nhà lãnh đạo miền Bắc bận tâm vào lúc đó là vấn đề thống nhất với miền Nam. Theo tạp chí Science thì “Việc thống nhất trong lĩnh vực khoa học và giáo dục có lẽ sẽ có nhiều khó khăn vì hai miền đã phát triển theo hai chiều hướng khác nhau trong nhiều thập niên. Nhưng dù cho có nhiều khó khăn, Galston nhận thấy các nhà lãnh đạo miền Bắc công khai bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với nhiều đặc điểm của nền khoa học và giáo dục ở miền Nam; họ dự định kết hợp những đặc điểm này vào miền Bắc khi quá trình thống nhất đang được thảo luận sôi nổi vào lúc đó thực sự diễn ra.” Theo Galston, các nhà lãnh đạo miền Bắc, cụ thể được nhắc đến trong bài là Nguyễn Văn Hiệu (Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam) và Phạm Văn Đồng (Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), đặc biệt quan tâm đến hệ thống giáo dục nhấn mạnh đến các ngành kỹ thuật và điện tử cùng hệ thống các trường đại học cộng đồng hệ hai năm đã được thiết lập ở miền Nam (nguyên văn tiếng Anh: “the widespread educational emphasis on engineering and electronics and the system of two-year, community colleges”).[104]

Lời chứng và đánh giá của ông Mai Thái Lĩnh, cựu sinh viên Viện Đại học Đà Lạt, nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Thành phố Đà Lạt dưới chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam:

“Tôi là con của một cán bộ Việt Minh– tham gia Cách mạng tháng Tám tại Lâm Đồng sau đó tập kết ra miền Bắc […] Chế độ Việt Nam Cộng hòa lúc đó biết lý lịch của tôi, nhưng vẫn không phân biệt đối xử, cho nên tôi vẫn có thể học hành đến nơi đến chốn. Tính chất tốt đẹp của nền giáo dục cũ của miền Nam là điều tôi công khai thừa nhận, vì vậy suốt 14 năm phục vụ trong ngành giáo dục “xã hội chủ nghĩa” (1975-1989), tôi bị người ta gán cho đủ thứ nhãn hiệu, chụp cho nhiều thứ mũ chỉ vì tôi nêu rõ những ưu điểm của nền giáo dục cũ cần phải học hỏi. Chính là do thừa hưởng nền giáo dục đó của miền Nam mà tôi có được tính độc lập trong tư duy, không bao giờ chịu nô lệ về tư tưởng…”

Đánh giá của nhà phê bình văn học Thụy Khuê:
“Có thể nói, trong suốt thời gian chia đôi đất nước, mặc dù với những tệ nạn của xã hội chiến tranh, tham nhũng; miền Nam vẫn có một hệ thống giáo dục đứng đắn. Trong chương trình giáo khoa, các giai đoạn lịch sử và văn học đều được giảng dậy đầy đủ, không thiên hướng. Ở bậc trung học học sinh gặt hái những kiến thức đại cương về sử, về văn, và tới trình độ tú tài, thu thập những khái niệm đầu tiên về triết học. Lên đại học, sinh viên văn khoa có dịp học hỏi và đào sâu thêm về những trào lưu tư tưởng Đông Tây, đồng thời đọc và hiểu được văn học nước ngoài qua một nền dịch thuật đáng tin cậy, dịch được những sách cơ bản. Nguyễn Văn Trung trong hồi ký đã nhấn mạnh đến sự tự trị của đại học, nhờ sự tự trị này mà các giáo sư có quyền giảng dạy tự do, không bị áp lực chính trị của chính quyền. Chính điều kiện giáo dục này, đã cho phép miền Nam xây dựng được một tầng lớp trí thức, một tầng lớp văn nghệ sĩ và một quần chúng độc giả; giúp cho nhiều nhà văn có thể sống bằng nghề nghiệp của mình. Và cũng chính tầng lớp trí thức và sinh viên này đã là đối trọng, chống lại chính quyền, khi có những biến cố chính trị lớn như việc đàn áp Phật giáo thời ông Diệm và việc đấu tranh chống tham nhũng (như vụ báo Sóng Thần) thời ông Thiệu.“[107]

***

(Nguồn: Wikipedia, FB Tuyen Nguyen)

Huỳnh Minh Tú (biên tập và thêm hình ảnh sưu tầm từ Internet)

***

Triển lãm của những kẻ nổi loạn



T.N phỏng dịch






Baby Contraband (tạm dịch “Hàng lậu be bé”) từ loạt Fallen Paintings, 1969, của Lynda Benglis, nhựa mủ nhuộm màu, đổ loang, khổ 79 x 20 x 1 1/2 inches

Do hệ quả của thế chiến thứ hai, để phản ứng lại với những bối cảnh tri thức, chính trị, và xã hội đã bị biến đổi sâu sắc đến “khác hẳn”, một số họa sĩ từ nhiều địa điểm khác nhau đã từ bỏ những quy ước truyền thống, để tìm kiếm một định nghĩa mới về cái làm nên “hội họa”.

Trong nỗ lực tìm kiếm ấy, nhiều người đã thử nghiệm các loại chất liệu mới, những phương pháp nhắm đến quy trình (hơn là sản phẩm) để tạo nên tác phẩm. Họ quyết liệt đưa vào những cách thực hành mang tính bài thánh (iconoclastic), thực nghiệm (experimental) và bất kính (irreverent); loại bỏ chất liệu sơn, có khi bỏ cả canvas và board, dùng chất sợi, rác, kim loại quý, nhựa, đất, thậm chí cả những chất lấy từ nội tạng, đủ mọi loại, hầu diễn đạt những kết quả “nồng nặc” của cả cảm giác về sự mong manh rạn vỡ của thế giới hậu chiến, lẫn nỗi khao khát của nghệ sĩ trong việc tái định nghĩa lại thế giới.


Không đề, trên thảm, 2010-11, Paul McCarthy

Vào đầu thập niên 60, Otto Muehl tuyên bố, “Trong hội họa của chúng tôi, chúng tôi xem vật liệu là mục tiêu đích thực của tác phẩm. Vấn đề chính là ở việc trình bày vật liệu. Đối với chúng tôi, thứ sơn được chế tạo ra là không tồn tại nữa, chúng tôi từ bỏ nó như từ bỏ một thứ gì đó mang tính duy mỹ và suy đồi.”

Vào ngày 3. 3. 2011 (tức cách đây hơn hai tháng), gallery Luxembourg & Dayan ở New York đã mở cuộc triển lãm Những Bức Tranh Không Được Vẽ (Unpainted Paintings - theo lối truyền thống?), là một cuộc khảo sát trên quy mô quốc tế của hơn hai chục tác phẩm trừu tượng khác thường kể từ thập niên 50 đến nay, tất cả cùng hợp lại cho thấy một khuynh hướng Chủ nghĩa Hiện đại liên tục, kéo dài, nhưng thường không được đánh giá đúng mức.


Marble (Cẩm thạch), 2011, Anne Betbeze

Triển lãm cho thấy, suốt bao thập niên qua, các họa sĩ đã lưỡng lự giữa một bên là sự trung thành với truyền thống diễn tả bằng hình tượng, với một bên là khát vọng đào sâu, nới rộng biên giới, hoặc thậm chí tấn công thứ tranh phẳng. Tiêu biểu cho việc đẩy cho đến cùng cái tiềm năng biểu cảm theo lối không-theo-quy-ước (non-conventional) bằng những hành động như đốt, xé, khâu, vá, bao phủ, và bôi bẩn, là những họa sĩ tiêu biểu có mặt trong cuộc trưng bày lịch sử này; họ gồm Lynda Benglis, Pier Paolo Calzolari, Jean Dubuffet, Raymond Hains, Sheila Hicks, Piero Manzoni, Otto Muehl, Blinky Palermo, Paola Pivi, Robert Rauschenberg. Mỗi người là một tay tiên phong phá phách, với những hình thức nhoe nhoét, những điệu bộ gây hấn, những biến thể chắp vá, những chất liệu tạm bợ, không bền.


Một bức vẽ bằng… nước tiểu của Andy Warhol (1978)

Được Alison Gingeras, giám tuyển trưởng ở Palazzo Grassi, tổ chức, cuộc triển lãm Unpainted Paintings có cả các tác phẩm được mượn thẳng từ nhà riêng của họa sĩ, những bộ sưu tập riêng danh giá và các xưởng vẽ. Một số tác phẩm chưa từng được trưng bày cho công chúng.


Không đề, 2007, David Hammons

Tác phẩm trong triển lãm này đa dạng, hệt như những động lực mang tính thực nghiệm phía sau chúng. Một số tác giả trong số này lại nổi bật nhờ lối thẩm mỹ có xu hướng phạm tội và khát vọng phá hủy tranh giá vẽ chỉ vì thấy nó “trưởng giả”. Trong khi đó một số tác giả khác khai thác những cách thức biểu hiện và trang trọng theo một phong thái ít chính trị hóa hơn, cà rỡn, vui nhộn hơn.


Tác phẩm của Kishio Suga, 2007

Khi được tập hợp lại cùng nhau thế này, mới thấy rõ các nghệ sĩ thế hệ ấy đã nỗ lực biết bao để tạo ra một di sản của thách thức và nổi loạn cho các thế hệ theo sau. Họ phá bỏ các giới hạn của những định nghĩa đã ổn định, thách thức các điều kiện về vật liệu, đập tan các khung khái niệm dành cho hội họa. Nhưng không phải vì thế những trăn trở của họ dành cho sự phát triển mỹ thuật có kém đi. Lucio Fontana viết, “Rất nhiều người đã nghĩ rằng tôi đang cố phá hoại; nhưng điều đó không đúng chút nào, tôi đã kiến tạo, chứ không phải phá hoại, đó là vấn đề then chốt.”


Không đề, 2011, Martin Kippenberger

Loại hoạt động “unpainted painting” có tính lật đổ này đã không chấm dứt hồi thập niên 60. Từ thập niên 70 cho tới tận hôm nay, các họa sĩ vẫn tiếp tục đẩy lùi các biên giới về độ trang trọng, về tính khái niệm, và về vật liệu của tranh phẳng. Trong triển lãm Unpainted Paintings cũng có những tác phẩm quan trọng và hiếm thấy của các họa sĩ lớp sau như Martin Kippenberger và Rosemarie Trockel, Dan Colen, Alex Hubbard, Mike Kelley, và Steven Parrino…

Trong triển lãm này, một số họa sĩ “đời sau” vẫn sử dụng sơn. Trong những trường hợp đó, sơn chỉ là một yếu tố rất phụ, có mặt trong một nổi loạn lật đổ có chủ ý.




Một tác phẩm của Dan Colen, 2011





Tác phẩm của Yves Klein, 1961



Bằng việc tập hợp lại trong một cuộc trưng bày quy mô lớn, triển lãm Unpainted Paintings thử lần lại những háo hức lật đổ đầy khiêu khích và hấp dẫn của các thế hệ nối tiếp nhau, trên nhiều quốc gia, ở nhiều phong trào nghệ thuật…Bất kể vật liệu mà họ sử dụng có đi ngược lại quy ước như thế nào, bất kể rằng họ đã phải cố tình không dùng sơn khi sáng tác, bấc kể họ có cố làm khác… thì điểm chung của những nghệ sĩ này vẫn là một sự tận hiến say mê với công cuộc tìm kiếm bản chất của hội họa, và họ đã góp phần khơi được những tiềm năng của hình thức, nhờ những thử nghiệm và nhờ một thái độ bất kính (với hội họa truyền thống).

Thơ về Hòn Sỏi -dienhuu.blogspot.com



"Bờ bốc bờ lờ" * Sỏi phọt "khí hư"
văn chương nước Việt Sỏi nghiến nhừ
lại ngu mua sách đêm ngày đọc
" Ngứa mồm"* nghếch mõm Sỏi lại tru

" Chữ nghĩa "* ăn nhầm nên mắc nghẹn
Vân Chi phải thuốc Sỏi chỏng khu
comment kiểm duyệt ôm hận lú
gọi bầy chó dại đến bù khu.
* bài trên Blog Hòn sỏi (



Đang tháng kê khai tài sản, cần bịt nhiều ‘lỗ hổng’



Tác giả: Cù Tất Dũng (Tuổi trẻ)


Tháng 12 này, những người trong diện phải kê khai tài sản, thu nhập thuộc các cơ quan, tổ chức nhà nước sẽ phải thực hiện kê khai tài sản.
Làm sao để việc kê khai này thật sự là một trong những biện pháp phòng ngừa, hỗ trợ cho phát hiện tham nhũng?

Thực tế cho thấy Việt Nam đã thực hiện việc kê khai tài sản được gần 10 năm, nhưng hiệu quả phòng ngừa tham nhũng thông qua việc kiểm soát kê khai tài sản, thu nhập không đạt được kết quả như mong đợi.

Còn nhiều “lỗ hổng”

Thông qua những vụ xét xử tham nhũng, chúng ta nhận thấy rất rõ là phần lớn đối tượng tham nhũng đều là những người nằm trong diện phải kê khai tài sản, thu nhập hằng năm.

Báo chí và các cơ quan truyền thông đã nói rất nhiều về mức lương cơ bản của cán bộ, công chức chỉ đáp ứng được khoảng 40% cuộc sống.

Tuy nhiên không ít người vẫn sở hữu những căn hộ đắt tiền, xe hơi sang trọng, và con cái vẫn cho đi du học nước ngoài… mà chúng ta không thể phát hiện được những sai phạm trong việc kê khai tài sản, thu nhập để xử lý họ, vì sao?

Luật phòng chống tham nhũng và các văn bản hướng dẫn thi hành yêu cầu người có nghĩa vụ kê khai phải kê khai những tài sản theo quy định mà không yêu cầu giải trình các tài sản đó. Luật phòng chống tham nhũng sửa đổi năm 2012 có quy định về giải trình tài sản tăng thêm.

Công khai và giám sát việc kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ công chức sẽ góp phần phòng chống tham nhũng. Trong ảnh: Phiên tòa xét xử vụ án tham nhũng tại Tổng công ty Hàng hải Việt Nam.




Tuy nhiên, quy định này chỉ áp dụng cho người kê khai bổ sung, còn người kê khai lần đầu nếu tài sản có giá trị hàng trăm, hàng ngàn tỷ đồng cũng không phải giải trình.

Bên cạnh đó việc tài sản tăng thêm hiếm khi bị xác minh, kiểm tra và như vậy tài sản do tham nhũng mà có sẽ trở thành những tài sản hợp pháp trong tương lai.

Đây là một sơ hở mà người có nghĩa vụ kê khai có thể kê khai không đầy đủ các loại tài sản cần phải kê khai hoặc kê khai khống một số tài sản mà mình không có để sau khi bầu cử, được bổ nhiệm, đề bạt vào các chức lãnh đạo, quản lý nếu có tham nhũng thì khó có thể phát hiện, vì tài sản do tham nhũng mà có đã được kê khai từ trước khi được bổ nhiệm, đề bạt.

Tại nghị định 78/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định công khai bản kê khai ở nơi công tác với hình thức công bố trong cuộc họp hoặc niêm yết tại trụ sở, thời gian công khai tối thiểu trong 30 ngày.

Một thực tế cho thấy ngay trong một đơn vị cấp phòng, ban nhiều người còn không biết nhà nhau, không biết mặt vợ, chồng các đồng nghiệp cùng phòng. Vậy làm sao họ biết để giám sát, phát hiện việc khai không trung thực về tài sản, thu nhập của lãnh đạo, nhân viên trong phòng, ban mình?

Bên cạnh đó, bản kê khai tài sản thu nhập được quản lý theo chế độ quản lý hồ sơ cán bộ và người có nghĩa vụ kê khai được đảm bảo bí mật nội dung của bản kê khai, điều này đồng nghĩa với việc bản kê khai không được công khai.

Cần những cải cách tích cực
Điều quan trọng nhất của việc kê khai tài sản thu nhập là sự trung thực. Thiếu trung thực thì việc kê khai tài sản, thu nhập mãi mãi chỉ là hình thức, gây lãng phí công sức, tiền của mà không mang lại hiệu quả mong muốn là thông qua việc kê khai nhằm phòng ngừa, phát hiện tham nhũng.

Nếu chúng ta thật sự coi việc kê khai tài sản, thu nhập cho những người thuộc diện bắt buộc như một biện pháp phòng chống tham nhũng thì phải có những cải cách một cách tích cực.

Trước hết, cần giảm bớt số người phải kê khai xuống còn từ 5 – 7%, tập trung vào nhóm người có cương vị, chức vụ và những người thân của họ để việc kê khai được “tinh” và việc kiểm tra tính chính xác dễ dàng hơn.

Cần quy định giải trình nguồn gốc tài sản khi kê khai lần đầu và tài sản tăng thêm khi khai bổ sung. Nếu người kê khai không giải trình được thì tài sản đó bị coi là phạm pháp mà có và sẽ bị xử lý cả về tài sản lẫn về con người.

Nếu cơ quan chức năng phát hiện tài sản tăng thêm là do tham nhũng hay do làm ăn phi pháp mà có thì người kê khai không trung thực sẽ bị xử lý theo pháp luật hình sự.

Cần sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về xử lý tài sản không rõ nguồn gốc, trong trường hợp kê khai lần đầu cũng như kê khai bổ sung, người kê khai tài sản không giải trình được nguồn gốc của tài sản và cơ quan chức năng cũng không chứng minh được tài sản đó do tham nhũng mà có thì có thể đánh thuế cao đối với số tài sản đó.

Phải có quy định cụ thể việc giám sát của nhân dân đối với việc kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức; từng bước mở rộng phạm vi công khai bản kê khai, cung cấp thông tin cho nhiều người biết để giám sát, phát hiện những trường hợp kê khai không trung thực; tăng cường kiểm tra, xác minh kết quả kê khai theo cách ngẫu nhiên, theo một tỷ lệ nhất định; phải coi việc kiểm tra, xác minh là một việc làm bình thường, không nặng nề như hiện nay.

Thêm vào đó, cần quy định rõ cán bộ, công chức phải thực hiện việc đăng ký bất động sản. Khi cán bộ, công chức mua, bán các loại tài sản có giá trị lớn phải thanh toán qua tài khoản.

Thực hiện được những cải cách tích cực thì việc kê khai tài sản, thu nhập ở nước ta mới dần đi vào thực chất và thông qua việc kê khai sẽ phát hiện ra những tài sản bất minh do tham nhũng mà có.


Nghị quyết trung ương 4 (khóa XI), ngày 16/1/2012 về xây dựng Đảng ghi rõ “Kê khai tài sản phải trung thực và công khai tại nơi làm việc và nơi cư trú”.

Kết luận số 21-KL/TW tiếp tục khẳng định “Sửa đổi Luật phòng chống tham nhũng và các văn bản liên quan khác để thực hiện việc công khai kết quả kê khai tài sản, thu nhập ở nơi công tác và nơi cư trú theo tinh thần nghị quyết trung ương 4 (khóa XI)”.

Sau gần bốn năm, không hiểu vì lý do gì mà yêu cầu của hai hội nghị trung ương chỉ nằm trên giấy và đến nay vẫn chưa được thực hiện?

————

Thứ Tư, 9 tháng 12, 2015

...... ..... ... . . Sức mạnh của tinh thần yêu thương



Thích Minh Trí



(Kuala Lumpur, Malaysia) : Sứ mệnh hoằng dương Phật pháp tại Phi châu của Thượng tọa Hui Li đang đơm hoa kết trái. Tuy nhiên, trong những ngày đầu của sứ mệnh cao cả ấy, cư dân địa phương, các quan chức chính quyền, và tín đồ các tôn giáo khác gọi Thượng tọa là loài “quỷ sứ” và “cỏ độc”.

“Tôi bị cư dân địa phương, các quan chức chính quyền, và tín đồ các tôn giáo khác lên án, chụp mũ. Họ không biết Phật giáo là gì, và trước đó họ cũng chưa từng thấy bóng dáng một tu sỹ Phật giáo trong chiếc y vàng,” Thượng tọa Hui Li nhớ lại.



Thượng tọa phải đối mặt với những phản kháng từ giáo hội và cư dân địa phương qua việc xây dựng ngôi Tam Bảo tọa lạc ở Bronkhorstspruit, gần thành phố Pretoria.

Mặc dù vậy, Thượng tọa vẫn kiên trì thực hiện nhiệm vụ của mình bất chấp những đe dọa rằng ngôi chùa sẽ bị chính quyền tịch thu. “Trước khi vượt qua những chướng duyên này, tôi phải giữ vững tâm an tịnh, thực hành nhẫn nhục và yêu thương,” Thượng tọa Hui Li chia sẻ trong một cuộc phỏng vấn bằng điện thư.



Để chứng minh mình là nhà tu chân chính và để lôi cuốn mọi người, Thượng tọa Hui Li xúc tiến hoạt động từ thiện để giúp đỡ người nghèo và người bệnh bằng việc chia sẻ quần áo, thực phẩm và thuốc men.

Là tu sỹ Phật giáo Phi châu nổi tiếng, Thượng tọa Hui Li phát nguyện dành 5 kiếp để phát triển và hoằng dương Phật pháp tại Phi châu.
Thượng tọa Hui Li sinh năm 1955 trong một gia đình nông dân nghèo ở miền quê Pington, Đài Loan. Từ nhỏ Thượng tọa đã nhận chân cuộc đời là mong manh. Ngôi trường của Thượng tọa nằm cạnh nghĩa trang và những đám tang diễn ra thường xuyên đã để lại ấn tượng sâu đậm trong tâm khảm Thượng tọa.

Năm 1987, Thượng tọa phát tâm xuất gia với đại lão Hòa thượng Hsin Yun (Tinh Vân), người sáng lập Hội Phật Quang Sơn Quốc tế.

Một năm sau đó, Thượng tọa được thọ giới Tỳ kheo, trở thành sứ giả của đức Như Lai. Năm 1992, để thực hiện tâm nguyện của Hòa thượng Tinh Vân là xây dựng một ngôi chùa trực thuộc Hội Phật Quang Sơn trên mỗi châu lục, Thượng tọa phát tâm đến Nam Phi xây dựng ngôi chùa Phật giáo Đại thừa đầu tiên trên đất Phi châu.

Thượng tọa đến Nam Phi, một miền đất xa lạ. Trong nhiều tuần lễ, Thượng tọa tham quan đó đây và gặp không ít khó khăn để có được một cái nhìn rõ ràng hơn về đất nước Nam Phi.
Có giai đoạn, Thượng tọa bị bệnh sốt rét, nhưng kiên quyết không chùn bước trong sứ mệnh phục vụ Phi châu. “Nếu không bị bệnh sốt rét, bạn sẽ không có visa để làm việc ở Nam Phi,” Thượng tọa bùi ngùi chia sẻ.

Năm 1994, lễ khánh thành Trường Cao đẳng Phật học Phi châu - trường cao đẳng Phật học đầu tiên ở Phi châu – được tổ chức tại chùa Nan Hua (Nam Hoa Tự) ở Bronkhorstspruit để giảng dạy Phật pháp cho thanh niên với mục đích giúp họ giảm bớt những vấn đề của họ thông qua giáo dục.

Năm 1998, khi đến Malawi tặng xe lăn cho người tàn tật, Thượng tọa Hui Li chợt tỉnh rằng, 40% dân số Nam Phi bị nhiễm HIV dương tính và trên một triệu trẻ em hoặc đã mất cha hay mẹ, hoặc đã mất cả cha lẫn mẹ hiện đang đối diện với căn bệnh thế kỷ - AIDS.
Thượng tọa hiểu rằng sẽ có rặt một thế hệ trẻ mồ côi. Những đứa trẻ này, trong giai đoạn chúng đến tuổi trưởng thành, hẳn sẽ không có sự giáo dưỡng đúng cách, hoặc nhận được sự giáo dục rất ít. Vì vậy, Thượng tọa nảy sinh ý niệm thành lập những Trung tâm Giáo dưỡng Phật A-Di-Đà (Amitofo Care Centres - ACC)



Các chú nhỏ mồ côi Phi châu chú tâm tập thiền tại ACC ở Malawi

Năm 2001, Thượng tọa Hui Li từ chức viện chủ chùa Nan Hua để dấn thân trong công tác phật sự ở Phi châu.

Thượng tọa trở nên nổi tiếng như bác sỹ Albert Schweitzer (*) của Phật giáo đại thừa. Sau những lần vận động thuyết phục cố đệ nhất phu nhân Cộng hòa Malawi là Ethel Mutharika thành công, một lô đất nằm ở ngoại ô thành phố Blantyre, miền nam Malawi, được cúng dường để thực hiện dự án của Thượng tọa.

Dự án xây dựng Trung tâm Giáo dưỡng Phật A-di-đà ở Cộng hòa Malawi được khởi công năm 2003. Các nhà mạnh thường quân, chủ yếu từ Đài Loan, đã ủng hộ tài chính cho công trình này.

Qua năm 2005, giai đoạn 1 của dự án đã được hoàn thành và 120 em có độ tuổi từ 3 đến 12 được chuyển đến đây. Qua năm 2008, Trung tâm Giáo dưỡng Malawi đã tiếp nhận giáo dưỡng 300 trẻ mồ côi và những trẻ chỉ còn cha hoặc mẹ.

Hiện tại, một trường tiểu học đang mượn tạm một trong những ký túc xá của trung tâm cho đến khi một ngôi trường dành cho 500 chú nhỏ có thể được xây dựng.



Bước kế tiếp là xây dựng một trường trung học và trung tâm đào tạo nghề. Một phòng khám chữa bệnh do 2 bảo mẫu, các y tá có đủ tay nghề và các tình nguyện viên nước ngoài đảm trách.



Hăng say luyện tập võ Thiếu Lâm tại ACC ở Malawi.


Để rèn luyện và thấm nhuần tính kỷ luật, đức kiên trì, và tinh thần tập trung, một chương trình giao lưu văn hóa bằng môn võ Thiếu Lâm được đưa vào dạy tại Trung tâm Giáo dưỡng Blantyre.
Khoảng 100 chú nhỏ hiện đang luyện tập võ nghệ do các võ sư nhà sư đến từ chùa Thiếu Lâm, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Mỗi sáng, các em đều tham dự các khóa lễ và học giáo lý nhà Phật.

Trung tâm Giáo dưỡng Phật A-Di-Đà cũng hỗ trợ các tổ chức trong các cộng đồng khác ở các huyện lân cận. Các tổ chức này hiện đang ủng hộ trên 2000 thiếu nhi và hơn 1500 thanh niên .

Trung tâm Giáo dưỡng Phật A-Di-Đà (ACC) có các chi nhánh ở Harare (Zimbabwe), Nhlangano (Swaziland), Mafikeng (Lesotho) và Yaound (Cameroon). Kế hoạch tiếp theo là thành lập các trung tâm ở Zambia và Tanzania.



In Buddha We Trust -- Follow Lord Buddha, He will set you FREE!



Thượng tọa Hui Li và 30 em của trung tâm sẽ có chuyến tham quan từ thiện ở Malaysia và Brunei với chủ đề Truyền bá Hạt giống Tình thương (Spread The Seeds Of Love) từ ngày 28-11 đến ngày 30-12-2009..



Phái đoàn sẽ có chương trình biểu diễn từ thiện tại các thành phố: Ipoh, Penang, Johor, Petaling Jaya, Kuantan, Kuala Lumpur, Kelantan, Muar, Malacca, Kota Kinabalu, Miri, Bintulu, Sibu và Kuching.

Các nhà tổ chức của chuyến tham quan này là Viện Giáo dưỡng Trẻ em Đại từ (Persatuan Anak-anak Yatim Eduwis Selangor), Trung tâm NSS (một tổ chức từ thiện ở Ipoh) và Quỹ tài trợ Hai Tao.

(*) Theo wikipedia.org, Albert Schweitzer (14 tháng 1 năm 1875 - 4 tháng 9 năm 1965) là tiến sỹ, bác sỹ, nhà triết học, nhà thần học người Đức, sau mang quốc tịch Pháp. Ông đoạt giải Nobel Hòa bình năm 1952 vì đã có công lao to lớn giúp đỡ người châu Phi, bất chấp gian khổ, bệnh tật. Ông đã có khoảng 50 năm chữa bệnh cho người dân Gabon, một đất nước nằm ở miền tây Trung Phi. Khi qua đời, ông được an táng tại đây. (ND)

Thích Minh Trí theo The Star






Việt Nam thiếu 4 yếu tố để được công nhận nền kinh tế thị trường


Để được công nhận là nền kinh tế thị trường, các quốc gia phải đạt đủ 5 tiêu chí. Tuy nhiên, Việt Nam mới chỉ đạt được 1 tiêu chí trong số đó: Mức độ ảnh hưởng của chính phủ trong việc phân bổ các nguồn lực và các quyết định của doanh nghiệp.


Đại diện phái đoàn EU tại Việt Nam trong buổi họp báo.

Theo thông tin từ buổi gặp gỡ báo chí ngày 7.12 do phái đoàn Liên minh châu Âu tại Việt Nam tổ chức tại Hà Nội, Hiệp định Thương mại tự do (FTA) Việt Nam - EU sẽ có hiệu lực chính thức từ năm 2018 và EU sẽ tích cực hỗ trợ Việt Nam thực hiện FTA.

Phát biểu tại cuộc họp báo, Đại sứ Bruno Angelet - Trưởng phái đoàn Liên minh châu Âu (EU) tại Việt Nam cho hay, Hiệp định Thương mại tự do (FTA) giữa EU và Việt Nam đã đưa ra lộ trình và định hướng rõ ràng để cải thiện nền kinh tế ở Việt Nam.

“EU sẽ có những hỗ trợ cần thiết cho Việt Nam trong tiến trình chuyển đổi và để tiến tới công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường” - đại sứ Bruno Angelet nhấn mạnh.

Để được công nhận là nền kinh tế thị trường, các quốc gia phải đạt đủ 5 tiêu chí. Tuy nhiên, Việt Nam mới chỉ đạt được 1 tiêu chí trong số đó là Mức độ ảnh hưởng của chính phủ trong việc phân bổ các nguồn lực và các quyết định của doanh nghiệp.

4 tiêu chí chưa đạt là: không có sự can thiệp của nhà nước làm biến dạng hoạt động hàng ngày của doanh nghiệp; Quản trị doanh nghiệp, kế toán và kiểm toán; Sự tồn tại và thực thi một chế độ pháp lý, tôn trọng các quyền sở hữu trí tuệ, phá sản và cạnh tranh cũng như các hệ thống tư pháp; Lĩnh vực tài chính của Việt Nam.

Bên cạnh đó, Cao ủy Thương mại của EU Cecilia Malmstrom cho biết EU sẽ tích cực hỗ trợ Việt Nam trong quá trình chuyển đổi sang một nền kinh tế xanh và thông minh hơn. Điều này sẽ mở ra một làn sóng đầu tư mới, có chất lượng cao hơn từ cả hai phía và được hỗ trợ bởi một hệ thống giải quyết tranh chấp đầu tư tiến bộ.

Cũng nói về hỗ trợ của EU cho Việt Nam, ngài đại sứ Bruno Angelet cũng cho biết, EU có hai chương trình hỗ trợ kỹ thuật cho Việt Nam.

Chương trình thứ nhất là Dự án Hỗ trợ thương mại đa biên (MUTRAP), nhằm hỗ trợ Việt Nam nâng cao năng lực trong hoạt động đầu tư và thương mại với EU. Chương trình thứ hai dành riêng cho khu vực ASEAN, hướng tới hỗ trợ khu vực thực hiện Cộng đồng Kinh tế ASEAN, trong đó có một nội dung hỗ trợ dành riêng cho Việt Nam.

Bên cạnh đó, EU còn có nhiều hỗ trợ cho Bộ Tài chính trong lĩnh vực quản lý tài chính công. Điều này được kì vọng sẽ giúp Việt Nam cân bằng cán cân tài khóa, nhất là trong bối cảnh nguồn thu của Việt Nam từ thuế xuất khẩu sẽ giảm khi thực hiện các FTA.

Về vấn đề pháp quyền, EU sẽ cho biết hỗ trợ 14 triệu Euro giúp cho người dân tiếp cận tốt hơn về pháp luật và chính sách.

Theo thống kê, EU hiện chiếm tới 20% lượng hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, trong đó các sản phẩm điện tử, điện thoại chiếm tỷ trọng lớn tới 30%. EU cũng là đối tác thương mại lớn thứ hai của Việt Nam sau Trung Quốc, đồng thời là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam, ngay sau Hoa Kỳ.

Làn sóng đầu tư của EU vào Việt Nam đang có nhiều tiến triển. EU cũng là đối tác có nhiều viện trợ không hoàn lại lớn nhất đối với Việt Nam.

Hoàng Long
http://motthegioi.vn/kinh-te/viet-nam-thieu-4-yeu-to-de-duoc-cong-nhan-nen-kinh-te-thi-truong-264784.html

Chạy trốn đến tự do?


Chạy trốn đến tự do?

Hà Thủy Nguyên

Gần đây có bài hát “đưa nhau đi trốn”, hai đứa thanh niên nam nữ chán đời trốn nhà bỏ việc rời thành phố đi chơi lang thang cho đỡ tù túng. Dân tình rậm rịch dấy lại phong trào “đi trốn”, người ta đưa nhau lên rừng lánh cõi đời ô trọc.

1992, McCandless đốt tiền hủy giấy tờ tùy thân đi lên những miền hoang vu giá lạnh rồi tự chết. Trước có cả một đống người đưa nhau đi trốn trong rừng, ăn lá cây uống nước suối. Tôi ủng hộ việc con người kết nối trở lại với thiên nhiên, nâng niu trọn vẹn đời sống, nới lỏng các ràng buộc khuôn khổ tập thể, chơi bời thoải mái vui vẻ thảnh thơi… Cái tôi không thích là đám đông a dua. Sau khi thành sách lên phim, McCandless trở thành một kiểu thần tượng, hình thành một đám đông ồn ào hâm mộ phát cuồng và sùng kính tuyệt đối cái chết của anh hoặc những triết lý tương tự đến nỗi mở mồm ra là tự do tự do tự do tự do…

Lại nói tự do, tôi không nhận thức được về nó. Có nghĩa là dù tôi biết từ “tự do”, tôi không biết cái tự do. Không giống từ “con bướm” hay từ “ngon lành”, tôi biết được nó, rồi biết cái từ gán cho nó. Hoặc ngay cả từ khó như “tình yêu”, dần dần rồi cũng biết ít hương vị. Với từ tự do thì khác, trước khi biết từ “tự do”, tôi không biết gì về nó, còn sau khi biết đến bây giờ, vẫn chẳng khá hơn. Đọc sơ sơ một vài mô tả trong từ điển lại càng tù mù. Tự do là có thể làm như ý mà không bị ràng buộc? Thế thì hơi viễn tưởng nhỉ, tôi muốn mọc cánh để bay. Tự do là vượt ngoài mọi khuôn khổ chi phối? Thần thánh quá, tôi muốn thử tắt lực hấp dẫn vài giây. Tự do là sống không sắp đặt gò ép, không lên kế hoạch dự định? Nhưng nếu tuyên bố “tôi sẽ sống không theo kế hoạch nào hết” thì đó chẳng phải là một kế hoạch sao? Ở mọi mô tả và khái niệm đều cần giới hạn phạm vi của “tự do”, mà “tự do trong khuôn khổ” thì có khác gì không “tự do” cơ chứ. Dù thế nào, khái niệm này cũng đã được dùng trong vô số các lời lẽ tuyên truyền chính trị hoặc vận động phong trào xã hội, in đậm viết hoa trong nhiều khẩu hiệu tuyên ngôn, giành được thiện cảm của phần đông mọi người.

Trở lại chuyện một kẻ đi vào rừng rồi chết, hơi nhàm rồi đấy. Nhưng đám đông a dua xung quanh đã làm mọi thứ trở nên thú vị. Cứ đi lang bạt, đi biệt tích, bất kể có tìm thấy tự do hay không đều thành lãnh tụ. May mắn mà được chết dọc đường, mà không nên chết ngoài đường, cứ chui vào sâu trong rừng ấy, miễn đừng có sâu quá kẻo không ai tìm ra, thế là cái thành cái chết thần thánh. Đừng liên lạc gì với gia đình cả (“bố em hút rất nhiều thuốc, yeah, mẹ em khóc mắt lệ nhòa, arr”). À nhớ phải đốt tiền, đốt hết tiền đi, nếu tiếc thì một nửa cũng được. Online facebook rủa xả văn minh. Than thở với núi rừng rằng bọn phàm nhân bẩn thỉu. Nói với mọi người mình ngấy sống lắm rồi. Hút thuốc nhả khói phong trần. Cần sa cỏ kiếc càng tốt. Lang thang là mốt thời thượng. Không não cũng thành một tiêu chuẩn. Thật cao đạo và thoát tục! Thật cool ngầu và phong cách!

Tôi luôn thắc mắc, những kẻ nói muốn bỏ nền văn minh, sao không khỏa thân và nhóm lửa? Những kẻ đã muốn chạy trốn còn vương vấn gì mà cứ trở đi trở lại? Những kẻ khinh nhân thế đua tranh thắng thua hơn thiệt sao vẫn nghĩ mình cao đạo hơn mọi người? Những kẻ nói khát khao được chết sao vẫn cứ sống và vẫn cứ nói?

Qua các cuộc nói chuyện với những người tìm và ưa tự do, tôi thấy tự do của họ gắn liền với sự di chuyển, lên rừng, xuống biển, đâu cũng được miễn không phải ở nơi này. Miễn không phải ở nơi này, đó là chạy trốn. Chạy trốn cái gì cơ?

“Nhưng ta càng lớn càng không có sức phòng thủ
Đời cuốn xô ta kể cả khi ta trốn trong phòng ngủ
Âu lo theo về dù ta đã khóa ba lần cửa
Trốn đi trốn đi không đời giết ta thêm lần nữa”.

Thực ra khóa ba lần cửa phòng ngủ, chẳng còn gì ngoài ta. Trốn trong phòng ngủ hay có vào trong tủ như Mã Văn Tài đi nữa, cũng chẳng thể trốn được chính mình. Vấn đề là ở bên trong, nên dù ở đâu họ cũng luôn thấy bất ổn, luôn luôn là không phải nơi này, không phải người này, không phải lúc này, tự do là cái luôn ở chỗ khác. Lang thang phiêu bạt để làm gì khi tâm còn bám lấy lý thuyết với triết lý tự do. Ở rừng ở biển ích gì khi lòng còn chật hẹp. Buông lỏng công danh ích gì khi xoay sang tự cho mình cao đạo hơn ngàn người mê muội. Yêu trời yêu đất làm gì khi đó chỉ là những màn trình diễn đẹp mắt. Chừng nào còn bất an sợ hãi, sẽ còn mong cầu được thanh thản. Chừng nào còn chưa dám đối diện với bản thân thì sẽ còn mơ mộng kiếm tìm dưới biển trên trời. Chạy trốn không tới được tự do, người tự do thì không chạy trốn.

Hùng

Lê Bá Khánh Trình : “Nếu muốn thay đổi thì về mà thay đổi”




Hoàng Nguyên Vũ





Hãy về sống, hiểu đất nước để biết mình phải làm gì, đừng đứng ngoài cuộc để so sánh. Và nếu muốn cơ chế thay đổi thì chính các em hãy về thay đổi.

Đó là lời nhắn nhủ của “huyền thoại thi Toán” Lê Bá Khánh Trình.
TS. Toán học Lê Bá Khánh Trình được xem là một huyền thoại thi Toán của Việt Nam khi giành Giải Nhất với số điểm 40/40, đồng thời đoạt giải đặc biệt về lời giải độc đáo trong kỳ thi này.
Ông cũng là học sinh Việt Nam duy nhất đạt giải đặc biệt trong một kỳ thi Toán Quốc tế tính đến nay.

Ông Lê Bá Khánh Trình là học sinh Việt Nam duy nhất đạt giải đặc biệt trong một kỳ thi Toán Quốc tế.

Sau kỳ thi trên, ông theo học tại khoa Toán trường Đại học mang tên Lomonosov ở Moskva. Ông đã học ở đây 10 năm, trở về với bằng Tiến sĩ Toán học.
Về Việt Nam, ông giảng dạy tại khoa Toán, Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh cho đến nay.
Ngoài ra, ông phụ trách đào tạo học sinh đội tuyển toán của Trường Phổ thông Năng khiếu, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và đã nhiều lần là trưởng đoàn học sinh giỏi toán Việt Nam đi thi Quốc tế.
Đưa các thế hệ học trò vào con đường thành công, thầy giáo này yên phận với một ông giáo bình thường, không chức tước.
Ông có một cách nhìn riêng của một tài năng với những trải nghiệm của một chặng đời 25 năm về Việt Nam làm việc.

Tôi chọn trở về để hiểu đất nước hơn

Thưa thầy, nhiều người vẫn nghĩ, một người làm nên “huyền thoại” trong các cuộc thi Toán học ngày trước, lẽ ra giờ này ông ấy… ở nước ngoài!

Người ta hiểu thế là bình thường vì các nước cũng vậy. Tình hình chung là vậy, tôi đi học 10 năm ở nước ngoài, nếu có xin việc nước ngoài, xin ở lại nước ngoài cũng là bình thường.
Điều kiện nước ngoài có thể môi trường tốt hợp để bất cứ một du học sinh nào như tôi khi ấy chọn làm nơi sống và nơi làm việc.
Nhưng tôi không suy nghĩ gì nhiều về vấn đề này. Ai hồi đó đi đều mang theo suy nghĩ, chúng tôi đi, từ một đất nước khó khăn, nhưng thế hệ chúng tôi sống trong khó khăn quen rồi nên cũng chẳng xem có gì đó là nặng nề.
Đành rằng, sống theo sách vở thì người ta hay có những tưởng tượng. Đặc biệt với những người đi ra nước ngoài với khoảng thời gian được tính bằng thập kỷ.

Nhưng, tôi chọn một cách nhìn đất nước khi về sống với nó, cảm nhận nó. Muốn đánh giá một cái gì chính xác thì phải trải nghiệm.

10 năm ở Nga, trải nghiệm của tôi còn thiếu với đất nước này dù đó là một khoảng thời gian biến động kinh khủng của nước Nga. Nhưng nếu nhìn về Việt Nam, 10 năm xa cách quả là nhiều thiếu hụt trong việc hiểu.

Cách của tôi là: hãy sống đi sẽ hiểu.

10 năm ở Nga, khi tốt nghiệp có nhiều lời mời thầy làm việc không, thưa thầy?
Không. Nước Nga khi đó, chúng tôi muốn ở lại thì phải làm đơn xin việc, đơn xin ở lại. Nhưng tôi không nghĩ mình nên làm điều đó.
Tôi chỉ nghĩ: về có thể phải thay đổi mình nhiều trong khi ở Nga tôi đã sống trong một guồng quay và đã có phản xạ với cuộc sống bên này.
Nhưng, nhà nước cử mình đi học thì mình cứ hãy về đi đã. Ở lại đó sống thì biết đến khi nào trở về. Mà hồi đó, những ai đi học cũng đều mong muốn quay về làm được một điều gì đó cho đất nước.

Thầy trở về và làm cách nào vượt qua những khó khăn của cuộc sống khi đó? Và sống trong tập thể khi đó, là một thời điểm vô cùng ngặt nghèo để một người tài sống trọn vẹn với cái tôi, thưa thầy?

Phải xác định là một mình tôi, hay định nghĩa là một cá nhân, không làm nên thay đổi.

Tôi về nước những năm 90, nhận công tác tại trường Đại học Khoa học tự nhiên. Lúc đó, đất nước đã qua thời bao cấp nhưng hậu quả của nó để lại còn rất nặng nề.
Tôi không chọn cách ca thán khi thấy khó khăn, đó một phần cũng là tính cách của tôi từ nhỏ. Tôi chọn cách đối diện, cố gắng.

TS. Lê Bá Khánh Trình hiện đang làm công tác giảng dạy tại khoa Toán, Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

Giờ nghĩ lại đôi khi thấy thời gian đó cũng là một quá trình rất dài nhưng chắc do tôi sống vô tư nên chọn hướng say mê với công việc để vượt qua.
Dù có lúc cũng có so đo này nọ với cuộc sống, với những cư xử không được ổn trong tập thể, nhưng rốt cuộc công việc phải làm cho tốt vì mình không chỉ chịu trách nhiệm cho mình mà còn bao thế hệ sinh viên nữa.
Ai cũng hiểu, một lĩnh vực hay một nghề nghiệp đều có những được mất riêng và so đo thì sẽ rất buồn cười. Nhưng có một vài cư xử không đúng, cũng mang đến những bực bội.
Giờ ngồi nói lại những bực bội của ngày đó sẽ ảnh hưởng đến một số cá nhân và thậm chí với ngành nghề mà tôi đã chọn. Nhưng hãy tập nhìn là xã hội bao giờ cũng vậy, lúc nào cũng có cái này cái nọ.
Việc sống đúng với cái tôi của mình trước hết là sống với niềm đam mê của mình để làm công việc chuyên môn cho tốt.

Khi GS Ngô Bảo Châu được giải Fields, có người từng nói rằng, nếu như TS. Lê Bá Khánh Trình ở lại nước ngoài thì Việt Nam sẽ dễ có 2 giải thưởng này. Thầy nghĩ sao ạ?

Tôi nghĩ điều đó không đúng vì tôi hiểu mình. Những gì tôi có được trong quá khứ là do may mắn hoặc do một sự cố gắng nào đó thôi.
Giải thưởng danh giá mà anh Ngô Bảo Châu dành được không phải cứ cố gắng là được mà phải là người có tố chất đặc biệt. Và được giải thưởng đó thì không hề đơn giản.

Có thể người ta nghĩ tốt cho tôi nhưng cả cuộc đời, tôi đã, đang và sẽ cố gắng đánh giá đúng về bản thân mình. Tôi nghĩ, phải biết mình là ai thì ta mới có một thái độ đúng đắn với mình, với người khác và với cuộc sống được.

Khi thầy về nước, thầy có bao giờ có tâm thế là về với tư cách là một tài năng chứ không phải một người bình thường chấp nhận mọi thứ như lẽ bình thường của nó?

Không. Nhưng nếu công bằng cho hai chữ tài năng, tôi đã nghĩ tôi có một chút khả năng gì đó. Nhưng tôi về nước với một tâm thế tự nhiên: đi thì về.

Và tuyệt nhiên, tôi cũng chẳng nghĩ đất nước có gì thảm họa để về trong một trạng thái bất mãn. Hay là một tài năng về thì phải thế này thế nọ.

Trong đầu tôi đã từng nghĩ: Nếu anh có tài thì anh hãy trở về để thay đổi được một điều gì đó. Còn nếu anh không thay đổi được thì cái tài của anh cũng chỉ có mức độ thôi.

Thế hệ tôi đều ra đi từ một đất nước ngổn ngang vì chiến tranh nhưng suy nghĩ thì vô tư lắm. Và khi về rất thảnh thơi, mức độ chịu khổ tương đối và đặc biệt là không kêu ca, phàn nàn nhiều.
Tôi là người ít nhiều chịu khó trong cuộc sống, lại một phần có gia đình ba mẹ như một bến đỗ bình yên, nên tôi quý trọng những điều ấm áp đó để sống yên bình.
Tôi mong các em trở về

Nghĩ đến các thế hệ du học bây giờ, có khi nào thầy nghĩ về một sự khác biệt thế hệ sau với thế hệ mình trong suy nghĩ và hành xử không, thưa thầy?

25 năm, tôi hiểu các thế hệ luôn khác biệt, có nhiều thay đổi nhưng vẫn có những cái chung: Chịu khó, chăm chỉ và muốn chinh phục những điều mới mẻ.
Thế hệ chúng tôi, cuộc sống vật chất khó hơn nhưng chịu đựng thì tốt hơn.
Có thể cuộc sống hôm nay gợi trong các em một suy nghĩ tiêu cực nào đấy, tôi hoàn toàn hiểu. Nhưng chúng tôi thường nhìn mọi thứ theo hướng tích cực.

Bây giờ, các em được đi học nhiều nước, mỗi nước có những giá trị khác nhau, có thể quyền tự do rộng rãi hơn, điều kiện sống khác hơn nhưng hãy nhìn xã hội theo một sự thay đổi để đánh giá xã hội và chính mình.

Cơ chế mà thầy đã làm việc ở đó 25 năm cũng là cơ chế mà các em không muốn sống vì các em cho rằng vì các em phải hy sinh con người thật của các em và không có môi trường chuyên môn đúng nghĩa cho các em làm việc…
Đây là vấn đề toàn cầu, kể cả các nước phát triển cũng gặp. Các em muốn sống đúng cái tôi cũng là điều bình thường.
Nhưng với những người lớn như tôi, tôi vẫn mong các em về. Ít ra về góc độ con người, các em là những hạt giống dù các em được nhà nước cử đi hay tự tìm học bổng để đi.

Tôi nghĩ, với phong cách, với kiến thức và những điều mới mẻ trong suy nghĩ của các em, thì hãy về đi. Rồi mỗi một người góp vào đất nước một điều mới mẻ thì cuộc sống ắt sẽ phải khác đi.
Muốn đóng góp cho đất nước thì đúng là ở đâu cũng đóng góp được. Nhưng đóng góp trong nước thì sẽ tốt hơn. Hãy đóng góp thiết thực hơn bằng việc sống cùng và làm cùng.

Các em hãy hiểu xã hội để mà đóng góp chứ đừng hiểu lờ mờ. Áp đặt những cái bên ngoài đã học được và thấy những cái bên ngoài hay là muốn nước mình cũng phải thế, khó lắm.

Ngay cả tôi cũng vậy, tôi thấy cách giải toán này là hay nhưng tôi không thể áp đặt cho học trò mình làm thế được vì để các em sáng tạo.
Các em muốn làm gì đó cho xã hội thì hãy hiểu xã hội từ bên ngoài nhìn vào lẫn sống bên trong mà cảm nhận. 5-10 năm sống chưa chắc đã hiểu chứ không phải hiểu theo kiểu hời hợt bên ngoài.
Nếu anh thực sự tài thì anh về mà thay đổi. Một người về, hai người về, góp tài năng công sức để thay đổi từ từ. Chứ anh cứ chờ thay đổi để mà về thì chắc chắn không ai về đâu.

Nếu con thầy đi du học mà không quay về, thầy có ủng hộ không?

38 tuổi tôi lập gia đình, con tôi còn nhỏ. Nhưng nếu con tôi muốn đi du học tôi cũng sẽ ủng hộ. Vì du học sẽ mở mang cho con tôi được nhiều điều.
Tôi tôn trọng lựa chọn của con tôi nhưng tôi nghĩ con tôi sẽ trở về. Vì ngoài công việc, ở Việt Nam còn là gia đình, còn là sự thân thuộc.
Tôi muốn con luôn ở bên mình. Không phải là bên mình suốt ngày nhưng đó là sự gần gũi. Sống bao nhiêu năm, con người ta lại thích về nguồn cội.
Điều đó cũng phải thôi, tận hưởng cuộc sống với những người thân nó thiêng liêng và quý giá vô cùng so với những tận hưởng khác. Tôi vẫn muốn nấu cho con mình một món nào đó con thích từ nhỏ và dẫn các con đi du lịch.
Cuộc sống giờ nhiều thay đổi. Môi trường làm việc ở Việt Nam cũng cần thay đổi, người nước ngoài cũng đã đến làm việc và đến du lịch. Nói chung, về được rồi.

Thầy nghĩ thế nào về cụm định nghĩa “cống hiến cho quê hương”?
Nhiều khi làm việc không có hại cho người khác, có ích cho cộng đồng cũng là cống hiến.

Nhưng phải hiểu đất nước và làm cho người ta biết đến đất nước mình bằng những đóng góp cho sự thay đổi tích cực, nên được hiểu đó là cống hiến.

Mỗi người có một lựa chọn. Nếu giả sử các em không về bằng tất cả các lý do của cá nhân các em thì hết sức bình thường.
Thực ra, xã hội mình, đất nước mình cũng có nhiều cái phải bàn, phải so sánh, nhất là với các em đã ra nước ngoài.
Sức lực về thì có mà phải đổ sông đổ biển hay các em phải chiến đấu để bảo vệ mình trong một cuộc chiến không sòng phẳng thì sẽ rất uổng phí.

"Tôi không đặt nhiều tham vọng cao siêu, sống theo cách của tôi và làm việc theo kiểu phù hợp với tôi nhất".

Các em đi ra nước ngoài rất tốt vì các em có kiến thức từ những người rất giỏi về chuyên môn, tư tưởng; lĩnh hội được những đặc sắc của văn hóa bên ngoài.
Từ đó, các em nên phải hiểu xã hội của mình thế nào khi đặt thế so sánh. Có thể khi các em đi các em chưa hiểu đâu thì hãy sống để mà hiểu nhiều hơn nữa.
Các em phải hiểu tại sao các nước phát triển họ xứng đáng với thành tựu của họ và tại sao nước mình chưa xứng đáng? Cũng như các em cũng phải hiểu tại sao các ông thầy của các em lại giỏi đến thế?
Thì các em sẽ có một cách cư xử với đất nước của mình cho đúng đắn.
Thực lòng không riêng tôi, trong tâm ai cũng mong muốn các em trở về. Sự mong muốn đó không phải là sự chờ đợi, mà là một niềm hy vọng. Các em sẽ làm được những thứ mà thế hệ tôi chưa làm được.
Nếu đất nước còn phải xin viện trợ thì hãy thấy đó là nỗi nhục!

Thực tế, vua Bảo Đại là một người Tây học, giỏi và khi về cũng được đặt lên một vị trí cao nhất có quyền thay đổi mọi thứ. Nhưng ông đã không thay đổi được, dù những điều rất nhỏ!
Tôi biết câu chuyện của vua Bảo Đại. Ông ấy không phải đi để về dựng xây cho triều đại mà là từ chính quyền Pháp muốn đào tạo ông như một con người hưởng thụ.
Một cá nhân, cho dù đó là vua đi chăng nữa, sẽ khó thay đổi. 
Nhưng Bảo Đại không phải về để thay đổi và ông cũng chẳng hiểu đất nước của ông khi ông về.

Ông cũng muốn mang những điều mới mẻ vào đất nước nhưng ông không hiểu hệ thống quan lại và bánh xe lịch sử đang vận hành như thế nào.
Muốn thay đổi cơ chế thì hãy là một mắt xích của xã hội, một tế bào thực sự của xã hội ấy. Chứ bây giờ ai cũng nhìn nhau để chờ thay đổi trong khi lại đứng ngoài cuộc của xã hội thì chẳng biết đến bao giờ đâu.
Trở về, nhưng cuộc sống của họ khó có thể được đảm bảo cho những chuyện lớn lao, thưa thầy. Vì họ phải đối mặt với những khó khăn thu nhập, chứ không sướng như… vua Bảo Đại, thưa thầy?
Cống hiến và hưởng thụ, hai thứ song song. Nói người ta phải cống hiến nhưng cũng cho người ta những giây phút hưởng thụ.
Đòi hỏi thu nhập cao không phải là sống hưởng thụ nhưng muốn sống hưởng thụ thì phải có thu nhập. Đấy chưa nói, con người có quyền được yêu cầu môi trường sống của họ và tất cả những gì yên ổn nhất để họ làm việc.
Những người có trách nhiệm nên làm cho cơ chế thoáng hơn nếu mọi người cùng nhìn về tương lai. Hãy làm cho những bãi biển, những khu rừng trong nước đẹp hơn để chào đón một thế hệ mới.
Các em là nhân tố thay đổi nhưng hãy dọn cho các em một môi trường sống đẹp.
Tôi hiểu, cách làm việc, cơ chế làm việc sẽ làm các em chán nản. Tôi hiểu các em mong muốn Việt Nam cũng như nước ngoài và có thể các em sẽ bất lực với tham vọng muốn làm cho một số thứ khác đi trên đất nước của chính các em.
Các em không muốn doanh nghiệp nước ngoài lũng đoạn và doanh nghiệp trong nước lao đao với những cơ chế không ổn, chạy chọt rồi tiêu cực thế này thế nọ.
Các em hãy nhìn một cách toàn diện và không ai làm thay các em điều đó được nếu như các em không về để làm?
25 năm trong một cơ chế, có khi nào thầy đối diện cảm giác bất lực như thầy vừa nhắc tới cho thế hệ sau mình?
Có, nhưng môi trường giáo viên mà tôi chọn cũng không đến nỗi nào. Và thời gian vẫn trôi, xã hội vẫn phải phát triển nhưng trong cuộc sống vẫn còn những người tốt và những điều tốt đẹp.
Tôi nghĩ đến những điều đó để tìm một lối hành xử.
Còn đứng ngoài nhìn đời trôi thì mọi thứ sẽ thế nào? Nhìn đất nước bằng định kiến mà không làm gì thì sẽ ra sao?
30 thậm chí 50 năm sau, các em hãy nhớ, nếu đất nước còn phải đi xin viện trợ thì đó là một nỗi nhục.
Lúc đó, nếu tôi còn sống, thì kể cả tôi lẫn các em đều phải chịu trách nhiệm về những gì mình nói nhiều mà mình không làm được.
Đừng đổ trách nhiệm cho thế hệ sau rồi đưa mọi thứ vào một vòng luẩn quẩn.

Một ông giáo giỏi, một cuộc sống thanh bình. Đó là bên ngoài hay thực sự cuộc sống của thầy như thế?

Cũng không thanh bình lắm đâu. Vẫn có những con sóng nào đó nhưng tôi nghĩ rằng, cứ làm cho mình mệt mỏi, mình sốc thì đến một lúc nào đó, cuộc sống của anh sẽ cạn kiệt về ý tưởng và nhiều thứ, dễ làm cho mình chán nản.
Tôi không chọn cách đó dù có nhiều lúc bị tác động bởi cuộc sống bên ngoài nhưng tôi chọn cách làm quen từ từ và cứ chờ xem nó ra sao. Và cố gắng nhất có thể, để vượt qua nó.

Được biết, thầy cũng đã được cân nhắc làm quản lý với một thời gian ngắn giữ chức phó phòng. Sau đó, thầy lại từ bỏ để làm một giáo viên bình thường. Thầy thấy lựa chọn đó của mình thế nào, thưa thầy?

Tôi phụ trách công việc đó trong 4 năm. Tôi thấy con người mình không có tố chất quản lý, chỉ làm chuyên môn nên tôi rời vị trí đó để yên vị với lựa chọn của mình.
Tôi không thích họp hành và những cách làm quản lý ở vị trí đó, tôi lại muốn đi dạy, đó là công việc chính.
Tôi không phải người quản lý chuyên nghiệp và xuất sắc gì. Sự thay đổi lãnh đạo, người ta không yêu cầu tôi làm nữa thì tôi trở thành một giáo viên bình thường.
Tôi hiểu mình và hiểu hoàn cảnh nên chẳng bao giờ tôi đặt câu hỏi tại sao người ta không để tôi làm nữa. Và cũng chẳng có cảm giác gì khi rời vị trí đó.
Tôi nghĩ mình làm việc mình thích và có trách nhiệm với học trò. Ai cũng thế thôi, đừng nghĩ đó là “cống hiến”
Tôi biết sức mình, hiểu mình để làm công việc của mình phù hợp. Tôi thích đi dạy và làm tốt công việc của một người thầy.
Tôi không đặt nhiều tham vọng cao siêu, sống theo cách của tôi và làm việc theo kiểu phù hợp với tôi nhất. Tôi không muốn mọi thứ phải xáo động nhiều, ồn ào nhiều.
Tôi yên phận với công việc của một nhà giáo và tôi muốn điều đó. Và tôi thích cuộc sống giản dị của mình vì tôi không thể sống khác được!
Cảm ơn thầy vì cuộc trò chuyện thú vị!

Chùm tranh biếm họa có thể khiến bạn 'đặt máy xuống để thực sự suy tư'



Chân dung những người nghiện đồ công nghệ, thích sống ảo hiện lên đầy hài hước qua bộ tranh của nghệ sĩ người Pháp Jean Jullien.




Chào mừng tới bãi biển - nơi Facebook, email hay smartphone đều bị cấm để bạn có thể thực sự sống với chính mình.




Trong một tập thể nghiện công nghệ, bạn như một kẻ lập dị vì không biết xài smartphone.




Tiến trình đọc báo từ nhiều thập kỷ qua: rồi sẽ có một ngày, máy tính bảng được sản xuất to đùng như tờ báo.




Với chiếc điện thoại kế bên, bạn không thể nhắm mắt hoàn toàn khi đi ngủ.




Chỗ duy nhất trên cơ thể không bị ăn nắng là trên tai, có hình chiếc điện thoại.




Đây là cách người ta xem ca nhạc ngày nay.




Bàn ăn của gia đình sẽ không thể trọn vẹn nếu thiếu smartphone, máy tính bảng cầm tay.







Con người từ khi điện thoại thông minh và đồng hồ thông minh ra đời.




Với những đồ công nghệ luôn cần sạc điện, bạn cơ bản là đã bị cầm tù.




Cuộc hẹn có còn lãng mạn nếu những ứng dụng hẹn hò liên tiếp báo tin nhắn.





Đến trẻ sơ sinh còn phát hoảng với căn bệnh cuồng công nghệ của người lớn.





Trước khi ăn, luôn là thủ tục check-in đồ ăn.




Một góc nhìn khác về cách các cặp đôi hiện nay hẹn hò.




Cảnh tượng không mấy xa lạ ở các bãi biển hiện nay.




Kẻ nghiện smartphone luôn bị giam cầm trong xiềng xích.




Tương lai của nghệ thuật nhiếp ảnh.




Đến ông già Noel cũng không thoát khỏi camera smartphone.




Đi đâu cả rồi những con người thú vị?




Các tủ điện thoại giờ chỉ là hoài niệm của quá khứ.




Đến Nữ thần Tự Do còn phải mải mê check-in.




Cúi đầu vào màn hình laptop và bỏ quên cảnh bình minh tuyệt đẹp ngoài kia.




Đến một lúc khuôn mặt con người sẽ được mã hóa QR.

Thứ Ba, 8 tháng 12, 2015

Cây Nareepol giống hình phụ nữ khoả thân


Yến Hương 


Loại cây lạ lùng này, có tên là 'Nareepol' được tìm thấy ở Thái Lan. Naree có nghĩa là “cô gái “ “phụ nữ” và Pol có nghĩa là “thực vật” hoặc “cây” (Buah in Malay) có nghĩa là "cây phụ nữ". Đó là những gì tuyệt vời mà tạo hóa đã ban cho thế gian.
Đặc biệt khi đàn ông, con trai “gãi” vào thân cây thì lá cây rung lên như bị buồn. Nhưng nếu là phụ nữ “gãi” thì cây không có phản ứng gì. Loại cây này được tìm thấy ở tỉnh Petchaboon Thái lan với những quả hình người phụ nữ tự nhiên mà giống đến kinh ngạc, đã thu hút rất nhiều khách du lịch đến thăm viếng. Người dân vùng này còn gọi là cây Naree (woman), cây chỉ mọc ở vùng quê xa xôi thuộc tỉnh Petchaboon cách Bangkok hơn 500 km.
Nhiều nhà khoa học Mỹ đã đến đây nghiên cứu và tìm thấy phấn hoa bên trong “cô gái” nhưng họ vẫn chưa xác định được tại sao vỏ của trái cây lại có hình thù kỳ lạ đến thế.
ST.