Thứ Ba, 28 tháng 7, 2015

sự chết – và vài đề tài lân cận (phần 1)


sự chết – và vài đề tài lân cận (phần i)
Nguyễn Nhân Trí


LỜI MỞ ĐẦU





Sự chết là một điều chắc chắn tuyệt đối sẽ xảy ra với tất cả mọi sinh vật.

Đây cũng là nỗi sợ hãi lớn nhất của loài người từ khi bộ óc của họ phát triển đủ để có thể suy nghĩ. Nhất là khi tất cả mọi nỗ lực của con người để đối phó với nỗi sợ hãi nầy cho đến nay hầu như đều vô hiệu quả.

Mọi sinh vật, kể cả con người, đều có khuynh hướng gắn bó với sự sống thay vì sự chết. Đó là một kết quả tự nhiên và hiển nhiên trực tiếp từ quá trình tiến hóa của chủng loại. Đây là một điều ích lợi cho sự sống còn, nhưng nó cũng thường làm giới hạn sự hiểu biết của chúng ta về sự chết. Chúng ta thường bàn luận, nghiên cứu, tìm hiểu về những vấn đề liên quan đến sự sống và có khuynh hướng tránh né phải đương đầu trực tiếp với sự chết.

Người ta thường không thảo luận về sự chết một cách thoải mái. Người ta thường không thể trực diện với hiện tượng nầy. Người ta dùng những mỹ từ, những phong tục, những quy luật xã hội để cố gắng phân cách sự chết ra khỏi cuộc sống hàng ngày của họ. Người ta cũng dùng trí tưởng tượng của họ dưới hình dạng tín ngưỡng, tôn giáo để tự an ủi, khỏa lấp hay che dấu thực trạng của sự chết và những gì xảy ra sau khi chết.

Ở đây, tôi có ý định đem đến một cái nhìn khách quan đôi chút về sự chết.

Những dữ kiện trình bày ở đây dựa trên tài liệu tham khảo của nhiều tác giả khác nhau. Đa số dựa trên kiến thức và kinh nghiệm khoa học đã được kiểm chứng giữa lý thuyết và thực tế, do đó được công nhận bởi mọi người. Tuy nhiên, có một số dữ kiện được trình bày dưới tư cách một cuộc thảo luận chớ không phải như là những kiến thức chân lý tuyệt đối. Đó là vì kiến thức khoa học luôn luôn có những giới hạn của nó. Đây là một tính chất cơ bản đặc thù và cũng là một lợi thế thúc đẩy dẫn đến sự tiến triển không ngừng của nhân loại. Nếu có sai lầm hay thiếu sót về phương diện lý luận hay sinh học, vật lý học trong lập luận nào ở đây thì chúng nên được xem là chất xúc tác cho các thảo luận tương lai.

Với tinh thần đó, tôi gọi mời độc giả khi đọc hai tiểu luận sau đây hãy tạm gỡ bỏ cách nhìn bị che chắn bởi kinh nghiệm hạn hẹp hàng ngày và thay vào đó bằng một đôi mắt tìm tòi rộng mở.



TIỂU LUẬN 1: SỰ MƠ HỒ CỦA BIÊN GIỚI GIỮA “SỐNG” VÀ “CHẾT”


Những Ngộ Nhận giữa “Sống”và “Chết”

Năm 1973, một người tên là Samuel Moore ở Oakland, California bị bắn vào đầu và được bác sĩ tuyên bố là đã chết. Trái tim của ông, do vẫn còn đập mạnh, được lấy ra và dùng ngay sau đó trong một cuộc giải phẩu thay tim cho một bệnh nhân khác.

Thủ phạm bắn ông bị bắt và ra tòa xử một vài tháng sau đó về tội sát nhân. Tuy nhiên, luật sư của người nầy phản đối cho rằng thân chủ của ông chỉ có tội “hành hung với võ khí nguy hiểm” chớ không có tội “sát nhân”. Theo luật sư nầy thì thân chủ ông không hề làm cho nạn nhân chết, vì nếu đã chết thì tại sao trái tim của ông ta vẫn còn đập và vẫn còn đang đập (mặc dầu trong lồng ngực của một người khác).

Lý luận nầy đã gây bối rối không ít trong quá trình truy tố. Tuy nhiên, may mắn thay (cho công tố viện) là bệnh nhân được thay tim đã ngã ra chết không lâu sau đó nên lý luận bào chữa trên trở thành không còn chính đáng nữa.

Thí dụ ở trên cho thấy định nghĩa “chết” trong phương diện y khoa, và pháp lý, có nhiều khi không rõ ràng và rất thiếu sót.

Trong câu chuyện tình nổi tiếng Romeo và Juliet của Shakespeare, Juliet vì không muốn bị gã cưới cho người nàng không yêu nên uống thuốc giả chết; Romeo vì không biết mưu kế nầy nên khi đến nhìn thấy Juliet nằm đó (với các triệu chứng của một tử thi) tưởng lầm là nàng đã chết thật nên tự vận chết theo. Sự lầm lẫn nầy thật ra rất thường xuyên, và xảy ra cho cả những chuyên viên y khoa nhiều kinh nghiệm.



Năm 1374, thi sĩ Ý Francesco Petrarch đã được xác nhận chết 24 tiếng đồng hồ. Theo luật lệ địa phương, người ta phải chờ thêm 4 tiếng nữa mới có thể mai táng. Trong thời gian nầy, một sự thay đổi thời tiết và nhiệt độ bất thường xảy ra làm ông bừng tỉnh ngồi dậy và than phiền người quản gia đã mở cửa để gió lạnh quá! Ông tiếp tục sống thêm hơn 30 năm nữa để sáng tác nhiều thi phẩm tuyệt tác để lại cho nền văn chương Ý.

Năm 1896, giám mục Chính Thống Giáo Hy Lạp Nicephorus Glycas đã được xác nhận chết nhưng hai ngày sau ngay trong tang lễ của ông ở giữa nhà thờ Chính Tòa đã làm mọi người kinh hoảng khi ông ngồi bật dậy cằn nhằn tại sao các tín đồ lại xúm nhau trố mắt nhìn ông một cách vô lễ như vậy!

Năm 1964 trong buổi khám nghiệm tử thi ở nhà xác New York, khi một “tử thi” bị cứa dao mổ vào bụng đã ngồi bật dậy và chụp cổ người bác sĩ đang giải phẩu. Bác sĩ nầy vì hoảng sợ bất ngờ nên đã đứng tim chết tại chỗ! “Tử thi” trên bàn mỗ trong khi đó đã dần dần hoàn phục và sống thêm nhiều năm nữa.

Và rất nhiều câu chuyện tương tự xảy ra khắp nơi cho ngay đến ngày hôm nay.

Nhiều Phương Cách Chẩn Định Khác Nhau

Những câu chuyện trên xảy ra là vì từ xưa đến nay sự chết được xác định bằng nhiều cách khác nhau.

Cách đây vài trăm năm ở Âu Châu, người ta chỉ dùng các dấu hiệu giản dị bên ngoài để xác định một người còn đang sống hay đã chết. Khi trong gia đình có người bệnh được xem là vừa chết thì một tu sĩ được mời đến để kiểm chứng. Người tu sĩ nầy dùng một tấm gương kề vào mũi của bệnh nhân và nếu tấm gương không bị hơi thở làm mờ đi thì người nầy sẽ được xác nhận là đã thật sự chết. Đến thế kỷ thứ 18 thì người ta tiến bộ hơn và dùng nhịp tim để xác định một người còn sống hay đã chết.

Dần dần người ta nhận ra rằng ngay cả khi dùng hơi thở và nhịp tim thì có nhiều trường hợp ngay cả các y sĩ chuyên môn vẫn bị lầm lẫn. Như đã nói, có nhiều trường hợp bệnh nhân tuy đã được xác nhận là đã chết nhưng vẫn “hồi sinh” sau đó.

Trong những thế kỷ 18-19 ở Âu Châu, đặc biệt là Anh Quốc có hiện tượng ăn cắp xác chết từ những ngôi mộ vừa mới chôn. Đó là vì trong thời kỳ nầy ngành y khoa đang phát triển mạnh mẽ về mặt giải phẩu cơ thể con người. Vì không có đủ tử thi để mổ xẻ khám nghiệm với mục đích tìm tòi học hỏi nên một số bệnh viện, đại học y khoa đã ngầm mua tử thi qua các nguồn cung cấp bất hợp pháp. Điều nầy dẫn đến việc nhiều ngôi mộ vừa mới chôn bị lén đào lên để lấy tử thi đem bán. Năm 1824, một người tên John Macintyre sau khi được xác nhận chết và chôn trong nghĩa địa của giáo đường địa phương đã bừng tỉnh dậy mấy hôm sau trên bàn mổ của một trường y khoa ở Luân Đôn khi bác sĩ bắt đầu cứa dao vào “tử thi” của ông. Vụ nầy dẫn đến một cuộc điều tra lớn. Nhiều nghĩa trang trong thời kỳ nầy có lính canh gác ngày đêm và nhiều ngôi mộ mới chôn được gia đình bao phủ bởi các khung sắt kiên cố để tránh bị đào trộm.



Những trường hợp “hồi sinh” trên xảy ra thường xuyên đến nỗi để người ta đã phải cố tìm các giải pháp đặc biệt để đối phó.

Có những nhà xác bố trí một phòng “chờ đợi” nơi người ta để các tử thi mới nhập vào nằm tạm một thời gian trước khi được xem là đã chết thật sự. Trong nhà xác thành phố Munich ở thế kỷ trước, các tử thi được sắp nằm kế nhau trên một băng dài với một sợi dây nhỏ cột vào người dẫn đến một cái chuông gắn trong phòng trực. Tài liệu ghi rằng đã có không ít lần cái chuông nầy đã được rung lên báo động cho người trực biết rằng có một “tử thi” nào đó đã sống lại.

Năm 1856, người ta nghe tiếng động từ dưới ngôi mộ của một người đàn ông vừa mới chôn. Tuy nhiên vì phải chờ đợi sự cho phép của linh mục và cảnh sát quá lâu nên khi đào lên được thì người nầy đã chết vì ngộp thở. Khi nhìn các dấu vết cào cấu trong quan tài người ta mới thấy rằng người nầy đã sống lại và cố vùng vẫy trong tuyệt vọng một thời gian trước khi chết thật sự vì thiếu không khí.

Năm 1893, một người đàn bà có thai khá lớn được chẩn định là đã chết và được mai táng. Có người nghe tiếng động phát ra từ ngôi mộ mới chôn của bà nên người ta quyết định khai quật lên để xem việc gì xảy ra. Người ta thấy rằng bà nầy cũng đã tỉnh dậy trong quan tài của mình và trong khi cố sức giãy giụa tìm cách thoát thân đã sinh ra đứa con từ trong bụng. Y sĩ khám nghiệm cho thấy đứa con nầy đã sống được một thời gian ngắn trước khi cả mẹ lẫn con đều chết ngộp trong quan tài.

Năm 1897, Bá Tước Nga Karnice Karnicki đã chế ra một loại quan tài “an toàn”. Quan tài nầy, sau khi được mai táng, có gắn một ống nhỏ dẫn lên và nối vào một cái hộp nằm trên mặt đất. Hộp nầy không thể mở được từ bên ngoài nhưng người nằm trong quan tài tuy đang bị chôn dưới đất vẫn có thể giật một sợi dây để mở nắp hộp ra. Khi nắp hộp nầy mở ra, không khí có thể lùa vào trong quan tài để họ thở được. Đồng thời sẽ có một cây cờ bật lên trên nắp hộp cùng với đèn chớp tắt và chuông báo động cho người bên ngoài biết rằng người nằm dưới mồ vẫn còn sống.



Có nhiều phương pháp khác, ngoài khám hơi thở và nhịp tim, đã được dùng để xác nhận một người đã chết hay chưa, nhất là trong các trường hợp khó chẩn định. Bác sĩ Icard ở Marseilles dùng một dung dịch flourescine để chích vào tròng mắt; nếu người bệnh còn sống thì tròng mắt họ sẽ chuyển qua một màu xanh tạm thời, nếu họ đã chết thì không có gì xảy ra. Ở Mỹ, người ta dùng atropine cũng để chích vào mắt; chất nầy làm đồng tử của một người còn sống lập tức mở rộng ra và không có tác dụng gì với người đã chết. Ở Anh, từ năm 1970 người ta bắt đầu dùng các dụng cụ đo được những tín hiệu điện nhỏ nhất trong cơ thịt tim để chẩn định một người đã chết hay chưa.

Không có Một Cách Chẩn Định nào Hoàn Hảo cả

Vấn đề là tất cả những phương pháp chẩn định từ trước đến nay, mặc dù rất hiệu quả đi nữa, đều có một yếu điểm chung. Đó là: khi không nhận thấy một dấu hiệu sống nào cả trong một thân thể vẫn không có nghĩa là thân thể đó hoàn toàn không còn có sự sống.

Chẩn định sự chết dựa vào hơi thở là một phương pháp được ghi chép trong sách dạy y khoa ở vài thế kỷ trước. Định nghĩa sự chết theo cách nầy có nhiều lỗ hổng lớn. Có những thiền sư Zen và hành giả Yoga có thể hạ mức độ tiêu thụ ô-xy của họ xuống thấp khoảng 20% lượng ô-xy cần dùng thông thường. Vì nhiều bộ phận trong cơ thể có tự dự trữ đôi ít ô-xy bên trong chúng nên có thể vẫn hoạt động hay phục hồi sau khi sự hô hấp đã ngừng lại khá lâu. Trong lịch sử y khoa có rất nhiều trường hợp bệnh nhân được chẩn định đã chết theo tiêu chuẩn nầy vẫn sống lại được và bình phục hoàn toàn.



Cách chẩn định sự chết dựa vào nhịp tim đập cũng có nhiều lỗ hổng. Tương tự, nhiều hành giả yoga có thể luyện tập để giảm nhịp tim đập của họ xuống chậm hẳn lại. Ở bệnh viện New Delhi đã ghi nhận trường hợp một người có thể tự làm cho tim của họ ngưng lại 12 phút. Trong nhiều cuộc giải phẩu tim ngày nay, trái tim của người bệnh có thể được bác sĩ làm cho ngừng đập hoàn toàn cả giờ đồng hồ trước khi cho phép nó đập lại khi cuộc giải phẩu hoàn tất.

Có trường phái y học đã dạy rằng nhiệt độ cơ thể thấp bất thường là một dấu hiệu chắc chắn người đó đã chết. Vấn đề thứ nhất là chúng ta không thể định nghĩa nhiệt độ cơ thể bao nhiêu là “bình thường” nên do đó không thể khẳng định được bao nhiêu là “bất thường”. Nhiệt độ “trung bình” thường được cho là 37 độ Celcius nhưng nhiệt độ cơ thể một người thường thấp hơn khi họ vừa thức dậy và cao hơn khi họ đi ngủ. Trẻ sơ sinh có nhiệt độ trung bình cao hơn và người già có nhiệt độ thấp hơn thanh niên trong khi phụ nữ thường nóng hơn khoảng một độ Celcius trong thời gian rụng trứng. Vấn đề khác nữa là khi một người chết đột ngột, thí dụ như vì bị sét đánh hay nội thương, thì nhiệt độ trong cơ thể của họ sẽ không thay đổi lắm cho đến vài tiếng đồng hồ sau. Trong khi đó, một người lúc bị lên suyển nặng tuy vẫn còn sống nhưng nhiệt độ cơ thể họ có thể sụt hẳn xuống không khác nhiệt độ một xác chết. Nhiệt độ trong những người vừa chết do bệnh kiết lỵ, bệnh phong đòn gánh, bệnh sởi sẽ gia tăng đột ngột. Khi một tử thi bắt đầu sình thối thì các phản ứng hóa học trong nội tạng của họ phát xuất ra nhiều nhiệt lượng và có thể làm cho nhiệt độ toàn thân họ tăng lên trở lại giống như nhiệt độ của một người còn sống.

Phương pháp dùng đèn rọi vào tròng mắt để chẩn định sự chết cũng không có gì chắc chắn cả. Đó là vì cơ thịt của đồng tử trong mắt, cũng như nhiều cơ thịt khác trong cơ thể, vẫn còn có thể co thắt khi phản ứng với những kích động từ bên ngoài vài giờ đồng hồ sau khi một người đã được xem là chết rồi.

Khi một người đã chết thì máu trong người họ vì không còn được sức đập của trái tim làm cho lưu thông nữa nên sẽ dần dần đông đặc lại sau vài giờ đồng hồ. Sự kiện nầy dẫn đến phương pháp chẩn định dùng kim đâm vào dưới da để thử xem máu còn chảy hay không. Tuy vậy, phương pháp nầy cũng không chính xác. Khi một người còn sống, máu trong người họ không đông đặc được là nhờ một hóa chất bài tiết ra từ những tế bào đặc biệt nằm dọc theo vách bên trong các gân máu. Khi một người đã chết, các tế bào nầy vẫn có thể tiếp tục bài tiết hóa chất trên qua một thời gian khá lâu. Do đó ngay cả sau khi máu trong một tử thi đã đông đặc nhưng đến vài ngày sau nó vẫn có thể chảy lỏng trở lại.

Vào cuối thế kỷ 19 ở Anh Quốc có khoảng hơn 600 ngàn người mỗi năm đã được xem là chết mà không hề được khảo nghiệm gì cả. Với kiến thức khoa học ngày nay, khi nhìn lại lịch sử y khoa người ta phỏng định rằng có khoảng gần 3 ngàn người trong số nầy (mỗi năm) trong thời kỳ đó đã bị mai táng khi họ vẫn còn sống.

Trong những thời kỳ chiến tranh hay bệnh dịch hoành hành, khi hàng ngàn người chết đồng loạt cần phải được giải quyết càng nhanh chóng càng tốt thì con số người bị chôn sống dưới dạng nầy chắc chắn không nhỏ. Trong quá khứ khi kiến thức y khoa còn non kém thì sự lầm lẫn trong việc xác định người chết là một điều thường xuyên không thể tránh được.

Ngày nay, ngay cả tại các nước tân tiến nhất nơi có đầy đủ phương tiện y tế, việc nầy vẫn xảy ra. Năm 1963 chẳng hạn, Elsie Waring 35 tuổi ngả quỵ tại nhà và được xác định đã chết bởi 3 bác sĩ nhiều kinh nghiệm ở bệnh viện Willesden General Hospital của Luân Đôn. Tuy nhiên bà đã sống lại 10 tiếng đồng hồ sau đó trong khi người ta đang khiêng bà bỏ vào quan tài. Và chỉ gần google “coming back from death” chẳng hạn thì chúng ta sẽ thấy rất nhiều trường hợp tương tự. Thí dụ như trong websitehttp://www.oddee.com/item_98718.aspx có nói về 10 người đã sống lại sau khi đã được tuyên bố chết. (Dĩ nhiên là không phải bất cứ điều gì đăng trên internet đều đáng được tin cậy ngang nhau, nhưng trong vấn đề nầy thường chỉ cần dùng một chút phân tích và suy luận thì chúng ta có thể gạn bỏ ra những câu chuyện không đáng để ý đến.)

Nếu muốn hiểu rõ hơn một chút tại sao những ngộ nhận trầm trọng nầy vẫn có thể xảy ra ngày nay với các bác sĩ chuyên khoa, các chuyên viên mai táng đã được huấn luyện chặt chẽ, v.v. chúng ta có thể cần phải nhìn vào định nghĩa của sự chết là gì bằng con mắt khách quan của một nhà sinh vật học.



Định Nghĩa Y Khoa của “Chết”

Một số nhà sinh vật học định nghĩa sự chết là “sự vắng mặt của sự sống”. Đây là một định nghĩa tuy chính xác nhất nhưng đồng thời không có giá trị thực dụng lắm. Thật ra có thể nói là với sự hiểu biết của khoa học hiện đại, biên giới giữa sự sống và chết đã trở thành mơ hồ đến độ rất khó phân biệt được.



Với kỹ thuật y học ngày nay, người ta có những dụng cụ có thể đo được các dấu hiệu sống nhỏ nhất trong cơ thể con người. Kỹ thuật y khoa ngày nay cũng có thể “cải tử hoàn sinh” trong nhiều trường hợp. Từ đầu thập niên 1960 đã có những dụng cụ có thể giữ cho trái tim của một bệnh nhân tiếp tục đập trường kỳ mặc dù các cơ quan trọng yếu khác trong cơ thể họ đã ngưng hoạt động hẵn. Nhiều chuyên gia y khoa cho rằng nếu một bệnh nhân sẽ không bao giờ tỉnh táo lại cả vì bộ não của họ đã hoàn toàn chết và chỉ còn hơi thở hoặc trái tim đang đập qua sự hỗ trợ của máy móc thì không thể nào cho rằng họ vẫn còn sống. Vì lý do nầy, năm 1968 trường Y Khoa Havard đưa ra một định nghĩa “chết” mới, đó là khi não bộ đã bị hư hũy không cứu chữa được, họ gọi đây là trường hợp “não chết” (“brain dead”). Ngày nay định nghĩa nầy đã trở thành tiêu chuẩn y khoa, và pháp lý, thông dụng để chẩn định và tuyên bố một người đã chết hay chưa.

Tuy vậy, dùng định nghĩa “não chết” để xác định sự chết của một người nhiều khi cũng gặp không ít khó khăn. Thân nhân của người bệnh thường khó chấp nhận được rằng người nầy đã chết khi mà rõ ràng thân thể họ vẫn còn ấm và lồng ngực họ vẫn còn thoi thóp thở mặc dù là với sự hỗ trợ của máy móc. Và dùng định nghĩa “não chết” để chẩn định sự chết của một người cũng không phải là một phương cách hoàn hảo, nó chỉ có thể đẩy cái biên giới giữa sống và chết theo sự hiểu biết của y khoa xa đi thêm một đoạn nữa mà thôi.

Trong việc xác định việc chết sống, vấn đề thường được tranh cãi là “bộ phận nào, chức năng nào, thành phần nào trong cơ thể của một người cần phải chết rồi trước khi người đó được công nhận chính thức là đã chết?” Hay nói một cách khác, “một người được công nhận là còn sống khi bộ phận nào, chức năng nào, thành phần nào trong cơ thể của họ vẫn còn sự sống?”

Kỹ thuật y khoa ngày nay xác nhận rằng ngay cả khi một người được chẩn định là đã chết (nghĩa là khi tất cả dấu hiệu sống bên ngoài của họ như là khả năng nhận biết, phản xạ của cơ bắp, hơi thở, nhịp tim đập, v.v. đã chấm dứt), toàn bộ cơ thể của họ thường chưa hẵn đã chết tất cả. Có những cơ quan trong nội tạng của họ vẫn còn làm việc, có những quá trình trao đổi năng lượng qua sự bài tiết, tiêu hóa, v.v. vẫn còn đang tiếp diễn. Có vô số tế bào trong cơ thể họ vẫn còn hoạt động vì chúng vẫn còn nguyên liệu dự trữ và vì sự vận hành hàng ngày của chúng hầu như độc lập với những cơ quan khác trong thân thể. Do đó trên lý thuyết, trước khi bộ não bị hư hại hoàn toàn không cứu vãn được thì một người bệnh nầy vẫn có thể được cấp cứu làm cho sống lại.

Bộ não là một bộ phận trong cơ thể sử dụng nhiều ô-xy nhất nhưng lại dự trữ ít ô-xy nhất. Bộ não thường có thể chịu đựng được khoảng 5 hay 6 phút không có ô-xy mà vẫn có thể hồi phục lại. Sau thời gian nầy thì bộ não sẽ bắt đầu chết dần đi từng phần cho đến khi toàn bộ ngưng hoạt động hẵn. Trong khi đó các bộ phận khác như tim, phổi thường có thể được làm “hồi sinh” lại một thời gian khá lâu ngay cả sau khi não bộ đã chết. Khoảng 72 giờ sau khi một người được chẩn định đã chết, tóc và móng tay chân họ vẫn tiếp tục mọc, lá gan họ vẫn tiếp tục chế tạo ra chất glucose và nhiều tế bào trong cơ thể họ vẫn có thể được lấy và cấy sống thành công trong phòng thí nghiệm.

Sự Tương Đối và Tính Từng Phần của Sự Chết theo Định Nghĩa Y Khoa

Một định nghĩa đại cương thường dùng trong y khoa để xác định một người đã chết hay chưa là “chết là khi mọi chức năng quan trọng đã ngừng lại vĩnh viễn”.

Càng ngày càng có thêm các kỹ thuật y khoa có thể, trên lý thuyết, thay thế hầu hết mọi bộ phận trọng yếu trong cơ thể con người. Dụng cụ y khoa ngày nay cũng có thể giữ cho một người bệnh mặc dù nằm trong trạng thái hôn mê nhưng vẫn còn “sống” mãi hầu như vô thời hạn. Do đó định nghĩa sự chết theo y khoa không còn chính xác như ban đầu nữa. Ngày nay, sự “vĩnh viễn” nói trên thật ra chỉ xảy ra khi nào những máy móc hỗ trợ sự sống cho một bệnh nhân được vặn tắt đi. Sự chết trong trường hợp nầy do đó có lẽ nên được định nghĩa là “tùy theo bác sĩ định đoạt”.

Nếu suy gẫm kỹ về những dữ kiện vừa trình bày ở trên, chúng ta có thể nhận thấy rằng sự chết theo định nghĩa y khoa của một người thường không hẵn là một hiện tượng tuyệt đối mà chỉ là một liên hệ tương đối giữa người nầy và một người, hay một nhóm người, khác. Có nghĩa là ông A “chết” là khi ông đã được bác sĩ B (hay cùng các ông C, D, v.v. nào khác nữa) dựa vào sự quan sát, và tiêu chuẩn cũng như định nghĩa “chết” là gì, của họ để tuyên bố rằng ông đã chết.



Như đã thấy, các tiêu chuẩn và định nghĩa về sự chết thay đổi theo thời gian và trình độ hiểu biết y khoa. Đã có lúc một người được xem là chết khi họ chỉ cần ngừng thở. Sau đó, chỉ khi trái tim một người ngừng đập luôn thì họ mới được xem là đã chết. Sau đó thì người ta dựa vào phản ứng trong tròng mắt của một bệnh nhân để quyết định họ đã chết chưa. Sau đó nữa, như hiện nay, một người được xem là chết khi không còn tín hiệu sống nào trong não bộ của họ. Mỗi lúc kiến thức và kỹ thuật y học tiến triển sẽ có những tiêu chuẩn và định nghĩa khác nhau được dùng để xác định sự chết. Điều nầy làm cho sự chết của một người trở thành một sự kiện tương đối và tùy thuộc vào phán xét của người khác.

Sự tương đối nầy cũng được thể hiện trên giấy chứng tử của nhiều quốc gia. Trên giấy chứng tử, theo sau nơi để ghi chú lý do chết là hàng chữ “dựa trên kiến thức và sự suy luận chính chắn nhất của bác sĩ”. Khi suy ngẫm về câu nầy người ta không khỏi có cảm giác rằng sự chết chỉ là một quyết định chủ quan chớ không phải là một sự kiện tuyệt đối.

Chúng ta cũng có thể thấy rằng sự chết của một người theo định nghĩa y khoa thường không phải là một quá trình xảy ra trong tích tắc. Có thể nói là sự chết của một người thường xảy ra qua nhiều giai đoạn, hay có nhiều mức độ chết khác nhau. Và cũng có thể nói một cách khác nữa là sự chết có tính cách từng phần. Đó là tùy bộ phận nào trong cơ thể đã ngưng hoạt động rồi, và đã ngưng hoạt động vĩnh viễn không còn cách gì cứu chữa hay chưa. Thí dụ như ngay cả khi nói về “não chết” thì ngày nay người ta cũng phân biệt phần nào trong não bộ đã chết và tầm mức trọng yếu của phần não bộ đó trong việc sống còn và sinh hoạt của người bệnh ra sao. Do đó, trên lý thuyết, có thể tuyên bố rằng một tử thi “đang chết”, hoặc “không chết lắm”, hoặc có thể so sánh hai tử thi và nói rằng tử thi A hiện đã “chết nhiều hơn” tử thi B.

(còn tiếp)

ÂM DƯƠNG Chương 8. Âm Dương với triết học và khoa học Âu Châu hiện đại



Gần đây có nhiều học giả Âu Châu đề cập đến vấn đề Âm Dương. Cái đó là lẽ dĩ nhiên, vì bất kỳ ai khảo cứu về Văn hóa hay Triết học Trung Hoa, chẳng ít thì nhiều cũng phải quan tâm đến vấn đề Âm Dương.

Marcel Granet trong quyển La Civilisation Chinoise có một đoạn dài nói về Âm Dương, nhưng không lấy gì làm sâu sắc. Khảo về Âm Dương, lý thú nhất có lẽ là René Guénon, một nhà Huyền học Âu Châu cận đại.

Réné Guénon giải thích Âm Dương theo đúng tinh thần Kinh Dịch, và nhận định rằng Âm Dương không phải là hai thực thể đối lập, mà là hai phương diện bổ khuyết lẫn cho nhau, của một thực thể duy nhất đó là Thái Cực.

Dương là căn cốt, là tinh thần; Âm là tùy thuộc, là vật chất. Dịch nói Âm Dương, thì Ấn Độ giáo nói Prakriti và Purusha. Sự giao thoa, hoán Dịch, tác dụng giữa Âm và Dương làm cho trời đất, vạn vật có những trạng thái khác biệt nhau.

Vũ trụ có hai mặt: mặt Dương, mặt Trời ở phía trong; mặt Âm, mặt Đất ở phía ngoài. Âm là những gì hữu hình, có thể nhận thức được bằng giác quan. Dương là những gì vô hình, chỉ có thể nhận định được bằng 
thần trí. Về phương diện nhận thức, ta có thể đi từ hữu hình lên dần tới vô hình, từ ngoài vào trong, từ chân lên đỉnh, từ hiển đến vi, nghĩa là từ Âm đến Dương.

Về phương diện suy tư, ta có thể đi từ phía siêu hình ra dần tới phía hữu tướng, nghĩa là từ Dương đến Âm.

Dịch cho rằng phía trái là phía Dương, là phía của tương lai, thời năm 1967 mới đây Ông Vilma Fritsch trong quyển La Gauche et la Droite cho biết rằng thánh thư Zohar của khoa Huyền học Do Thái cũng cho rằng thế giới hiện tại là thế giớiphải, thế giới tương lai là thế giới trái.

Sách Bách khoa tự điển Do Thái nhận định: Thật là kỳ dị khi thấy rằng theo sách Cabale thì phía trái lại biểu thị một trình độ cao hơn, tiến bộ hơn.

Phía trái là phía của tương lai, và của tiến bộ. Mà lạ lùng thay, đó cũng chính là đường hướng nhận định của triết học và chính trị ngày nay. Trong chính trường hiện tại người ta gọi những người bảo thủ là những người theo phái hữu, những người cấp tiến là những người theo phái tả. [1]

Có thể nói ngày nay thuyết Âm Dương lưỡng cực của Trung Hoa đã được Triết học và Khoa học Âu Châu mặc nhiên chấp nhận.

Gaston Bachelard muốn coi quan niệm lưỡng cực như là một nguyên lý mới, để nhận thức tri luận.

Ông cho rằng tính cách lưỡng cực tương thừa đã được ghi tạc trong căn cơ sự vật, ngược lại với quan niệm cổ xưa cho rằng vật thể là biểu dương của sự thuần nhất.

Khoa học ngày nay không còn tham vọng đi đến Nhất nữa, mà chỉ muốn đi đến Nhị.

Triết học cũng như Tâm lý học đều muốn theo đường hướng mới ấy. Nhiều Tư tưởng gia ngày nay muốn nói: Thoạt kỳ thủy là cặp đôi.

Schelling, dựa vào thần thoại Hi Lạp, và khai thác tư tưởng then chốt của Jacob Boehme là Nhất thể lưỡng phân(Selbsentzweiung) đã cho rằng Thượng Đế cũng là nhất thể lưỡng diện. [2]

Goethe theo chân Kant, cũng nhận định rằng ngay từ căn cơ vật chất đã có những sức hấp dẫn đun đẩy lẫn nhau, cho nên loại nào vật nào cũng lưỡng tĩnh, lưỡng cực. Đó là một hiện tượng phổ quát. [3]

Theo Agnès Cerber, thì nhà Sinh Lý Học mỗi bước đều gặp những cặp Âm Dương, lưỡng cực đối đãi nhau như một cặp trai gái khiêu vũ với nhau, chứ không phải như là hai kẻ thù địch trong một cuộc so gươm. [4]

Và Khoa học ngày nay, đã chứng minh được rằng không cứ loài người, loài vật, loài cây mới có trống mái, mà ngay các tinh thể cũng có phải, trái khác nhau. Pasteur đã phân biệt được hai loại acide tartique trái và phải, và công nhận rằng vạn vật ngay từ trong cơ cấu đã có trái phải, Âm Dương. [5]

Sử gia Toynbee, đã dùng thuyết Âm Dương, động tĩnh đắp đổi luân phiên nhau để giải thích lịch sử.

Ông cho rằng lịch sử đi theo nhịp điệu nhất tĩnh, nhất động, tĩnh rồi lại động, động rồi lại tĩnh.

Lịch sử cũng như Âm Dương, có cảm lại có ứng, có động lại có phản, có vãng lại có lai; có phục lại có khởi, như vậy mới có thể đổi mới mãi mãi... [6]

Joseph Needham, trong tập hai, bộ Science and Civilisation in China đã cho rằng: Học thuyết Âm Dương không có màu thiện ác, nhờ thế mà nó có thể giữ được sự quân bình đích thực và thể hiện được những mục đích chân thực của đời người là hạnh phúc, khang kiện và trật tự.

Needham cũng chủ trương rằng: tư tưởng phi nhị nguyên của Trung Hoa này sẽ đóng một vai trò vĩ đại trong Khoa học. Hơn thế nữa, nó đã đóng vai trò đó rồi, qua trung gian Leibniz. Needham nhận định rằng cách phát triển tư tưởng, và cách dùng tượng hình của Trung Hoa có rất nhiều điểm tương đồng kỳ lạ với tư tưởng Khoa học tối tân nhất. Người Trung Hoa xưa tuy chưa tạo ra được Khoa học đích thực như nay, nhưng nhiều lần cũng đã tung mình lên được tới những chỗ mà sau này Niels Bohr, Max Planck, Einstein đã đạt tới.

Được vậy, là vì người Trung Hoa đã thoát được tật suy luận một chiều của người Âu Châu, hoặc là suy luận theo chiều hướng Duy vật, hoặc là theo chiều hướng Duy linh... [7]

Dịch Kinh cho rằng Âm Dương vừa tương khắc, vừa tương thừa, và Âm Dương giao thoa, tác động lẫn trên nhau nên phát sinh ra mọi biến hóa.

Karl Marx và Lénine cũng đã cho rằng mọi sự trong vũ trụ đều hàm tàng mâu thuẫn nội tại; vũ trụ được chi phối bằng định luật mâu thuẫn xã hội, vì lịch sử được chi phối bằng định luật mâu thuẫn. Vì thế người Mác xít đã cố gây mầm mống chống đối trong xã hội, và dùng đấu tranh giai cấp để làm cách mạng, để đả phá các cơ cấu xã hội hiện tại, ngõ hầu có thể xây dựng một xã hội vô sản.

Nhưng thực ra, người Các Mác chỉ gây mâu thuẫn ở những nước mà họ chưa chiếm được; còn khi đã chiếm được chính quyền rồi, thì họ lại ra sức diệt mâu thuẫn chống đối dưới mọi hình thức, tiêu diệt ngay từ khi chúng vừa mới mầm mộng lên.

Dầu sao thì biện chứng pháp với định luật mâu thuẫn mới là một nửa phần của Dịch lý Âm Dương, vì Dịch lý Âm Dương ngoài sự tương khắc, còn chủ trương tương thừa, ngoài sự mâu thuẫn còn chủ trương sự hòa hiệp của Âm Dương.

Dịch kinh cho rằng Âm sinh Dương, Dương sinh Âm, tán là Dương, tụ là Âm, thì Einstein với phương trình E=MC2 cũng cho rằng năng lực sinh vật chất, vật chất sinh năng lực; năng lực là vật chất phát tán, vật chất là năng lực cô đọng.

Dịch cho rằng Âm Dương tụ tán là một định luật vũ trụ, thời năm 1927, George Lemaître, giáo sư Đại học Louvain, cũng cho rằng vũ trụ hiện đang khuếch tán và giống như quả bong bóng đang được thổi phồng...[8] Nhiều nhà Thiên Văn Học hiện nay đã chủ trương vũ trụ khi tán khi tụ, biến hóa không ngừng.

Chu Hi đã cho rằng: Âm Dương chẳng qua là những trạng thái khác nhau của một nguyên khí. Ngày 27-3-1847, Helmholtz đã đệ trình lên Hội Lý Học ở Berlin một tiểu luận nhan đề là: Sự duy trì năng lực. Trong tiểu luận này, ông cho rằng vũ trụ này tràn đầy một khối lượng năng lực khổng lồ và bất biến. Điện, hóa, quang, nhiệt, lực, tất cả những cái đó đều là những trạng thái khác nhau của một năng lực duy nhất. [9]

Dịch từ ngàn xưa không hề phân tách Âm Dương như hai thực thể riêng biệt, nhưng luôn chủ trương Âm Dương là hai chiều, hai mặt của một thực thể duy nhất, trong Âm có Dương, trong Dương có Âm... Gần đây, các nhà Khoa Học đã chấp nhận vũ trụ là một thực thể duy nhất, nhưng có hai mặt, lúc thì là ba động, lúc thì là phân tử. [10] Dịch Kinh gọi Âm là chẵn, Dương là lẻ, và chủ trương có thể dùng hai ký hiệu Âm Dương mà diễn xuất mọi con số.

Gần đây Leibniz, nhà toán học, đã phát minh ra khoa Toán Pháp Nhị Nguyên, đã phải bỡ ngỡ khi nhận thấy rằng 64 quẻ trên vòng Dịch Tiên Thiên của Phục Hi từ Khôn đến Cấu, rồi lại từ Phục đến Kiền có thể mã thành những con số từ 0 cho đến 63 theo đúng như ký hiệu, và phương pháp Toán Học Nhị Nguyên, nên Ông đã nghĩ rằng người Trung Hoa xưa có thể đã biết khoa Toán học này từ lâu rồi. Ngày nay khoa Toán Học Nhị Nguyên với hai ký hiệu 0 và 1 đã được áp dụng trong các loại máy toán điện cơ, điện tử ở Âu Mỹ...

Các sự kiện trên cho thấy rằng, về phương diện Triết học cũng như về phương diện Khoa học, Âu Châu càng ngày càng gặp gỡ các quan điểm của Dịch Kinh, và Nguyên lý Âm Dương có thể dùng làm như một thứ chìa khóa để mở các điều huyền bí của vũ trụ và của cuộc đời.



Kết luận

Vấn đề Âm Dương thực ra bao la man mác, vì bất kỳ Thiên Văn, Địa Lý, Tử Vi, Lục Nhâm, Thái Ất, Tướng Số, Y Lý nhất nhất đều đã dùng Âm Dương và Ngũ Hành để phân loại. Trong thiên khảo luận này chúng ta không thể đi vào những chi tiết của mỗi môn nói trên để trình bày về Âm Dương được. Tuy nhiên những nhận xét tổng quát của chúng ta sẽ soi sáng cho chúng ta trong bất kỳ bộ môn nào mà chúng ta sẽ định khảo cứu. Lý do là vì Dịch thời dạy những nguyên lý tổng quát, còn các môn Lý Số khác đều đem Dịch lý áp dụng vào những bộ môn riêng biệt mình mà thôi.

Đằng khác, trọng tâm của công trình khảo sát của chúng ta là làm sáng tỏ những vấn đề trọng đại hơn, quan thiết đến đời sống tâm thần con người hơn, chính vì vậy mà chúng ta không được phép lạc lõng vào những chi tiết vụn vặt. Chúng ta có thể tóm tắt về Âm Dương, và sau đó rút tỉa một vài bài học về Âm Dương như sau:

Toàn thể duy nhất là Thái Cực, sau khi phân cực, sẽ sinh ra Âm Dương và như vậy, ta có:

Thế giới bản thể
Thế giới hiện tượng
Tuyệt đối
Hằng
Viên mãn
Chân
Chính
Ngã
Thường
Tương đối (Âm Dương)
Biến
Khuy khuyết
Giả
Vô ngã
Vô thường



Trên bình diện hiện tượng tương đối, biến thiên, ta thấy bất kỳ cái gì cũng có hai chiều, hai mặt, trên dưới, trước sau, hay dở, trong ngoài, phải trái, lưng mặt, giàu nghèo, sang hèn, mạnh yếu, già trẻ, ngày đêm, nóng lạnh, sáng tối; tự do, kiềm tỏa; cá nhân, xã hội; tinh thần, vật chất; trai gái; đực cái; trời đất; tiến thoái; vãng lai; Thánh phàm; Tiên tục; sướng khổ v.v...

Chúng ta nhận thấy chỉ có Tuyệt đối, chỉ có Toàn thể mới thoát khỏi vòng Âm Dương tương đối, vì nó bao quát và siêu xuất Âm Dương. Ở trong vòng hình thức, sắc tướng, tức nhiên phải chịu định luật Âm Dương tương đối, tương đãi, biến thiên, thăng trầm...Ở trong vòng biến thiên, tiêu chuẩn phán đoán về Âm Dương, hay dở, cao thấp đều là tương đối, nghĩa là nó biến đổi tùy quan niệm mỗi nơi, mỗi thời.

Sau cùng chúng ta nhận định rằng tiêu chuẩn Âm Dương của thường nhân khác với tiêu chuẩn Âm Dương của Thánh Hiền. Thường nhân cho là Dương trước, Âm sau, Dương ngoài, Âm trong, cá nhân khinh, xã hội trọng, còn Thánh Hiền thời lại cho rằng Âm trước Dương sau, Âm ngoài, Dương trong, cá nhân trọng, xã hội khinh v.v...

Cho nên, Thánh Hiền khác với thường nhân ở chỗ: lúc trẻ thì lưu tâm đến Âm, đến trí lực, xác thân, ngoại cảnh, cố trau giồi cho trí lực trong sáng, xác thân khang kiện, ngoại cảnh thuận tiện. Lúc đứng tuổi sẽ lưu tâm đến tinh thần, đến nội tâm, để sống khinh khoát, thung dung, thoát vòng kiềm tỏa của trí lự, xác thân, ngoại cảnh.

Thánh nhân, khác với thưòng nhân vì cho rằng Dương hay Tinh thần, hay tinh hoa con người thời ở phía bên trong, nên càng ngày càng chú trọng đến đời sống tinh thần, đến đời sống nội tâm hơn ngoại cảnh, sau khi đã tạo cho mình được một đời sống vật chất khả quan. Thánh nhân cũng khác với thường nhân ở chỗ cho rằng mình trọng hơn xã hội, cho nên coi xã hội là phương tiện giúp cho mình hoàn thành xứ mạng tu luyện, thần thánh hóa bản thân, chứ không coi xã hội là cứu cánh để đến nỗi phải bán mình làm tôi mọi xã hội và ngoại cảnh.

Thường nhân, thì cố chấp, đã cho cái gì hay thì nhất định mãi mãi sẽ hay. Còn Thánh nhân thì uyển chuyển và cho rằng trong cái hay có cái dở, trong cái dở có cái hay, hay dở là tùy ở lòng mình, tùy ở từng hoàn cảnh. Vì thế nên Lão Tử mới viết:

Mới hay không, có chuyển vần,
Dễ sinh ra khó, vắn nhân thành dài.
Thấp cao tùy ngó ngược xuôi,
Tiếng ca trầm bổng, dòng đời trước sau.

Ước gì đời chúng ta đi đúng chiều Âm Dương, mà chiều Âm Dương chính là: Hậu thăng tiền giáng định nhất chu(Trước giáng sau thăng định một vòng). Nói cách khác, nửa đời đầu chúng ta cần phải lưu ý đến trí não, đến xác thân, đến ngoại cảnh, phải góp mặt với đời. Còn nửa đời sau, phải đặc biệt chú trọng đến tâm thần, lo tu luyện để trở nên con người công chính, toàn thiện, toàn mỹ...

Gẫm đạo lý có sau có trước,
Lẽ Âm Dương có ngược có xuôi.
Xuôi là gió cuốn bụi đời, [11]
Đẩy đưa vào chốn trần ai cát lầm.
Có thử thách mới phân vàng đá,
Có lầm than mới rõ chuyện đời.
Ngược là sấm chớp tơi bời, [12]
Tầng sâu bày giãi căn trời nội tâm [13]
Trông tỏ đích chí nhân, chí chính,
Biết mục phiêu sẽ định sẽ an. [14]
Rồi ra suy xét nguồn cơn,
Con đường phối mệnh chu toàn tóc tơ. [15]

CHÚ THÍCH

[1] L'idéogramme chinois pour droit: main + bouche, nous suggère, par exemple, immédiatement les Chinois, droitiers comme nous, se servent de la main droite pour manger. Il ne reste alors comme côtés des arts et de la magie que la gauche, et la gauche s'exprime en effet par la combinaison de signes main + équerre. — Vilma Fritsch, La Gauche et la Droite, p. 33.

... Si le Zohar assimile la Thora à la droite, il donne à la tradition orale qu'il ne tient pas moins en honneur la place à gauche. Suivant ce même ouvrage, le monde actuel serait le monde droit, et le monde futur le monde gauche. Il est curieux, commente la Jewish Encyclopedia, que dans la Cabale, la gauche représente un stade supérieur plus avancé.

Côté du coeur, côté de l'avenir et du progrès - certaines symbolisations philosophique de nos jours s'annoncent ici d'une manière indiscutable. — Ibid. 55.

[2] Reprenant l'idée fondamentale de Jacob Boehme, de la Selbsentzweiung, il reconnaît en Dieu une duplicité essentielle. —La Gauche et la Droite, p. 13.

[3] J'avais retenu des idées scientifiques de Kant, dit par exemple Goethe, que les forces d'attraction et de répulsion font partie de l'essence même de la matière. Il en résulte une polarité originelle de tous les êtres, qui pénètre l'infinie multiplicité de tous les phénomènes et leur bonne vie. — Ib. 25.

[4] Le biologiste recontre à chaque pas des unités bipolaires opposées l'une à l'autre comme les deux partenaires dans un couple de danseurs, et point comme les deux antagonistes d'un pugilat. — Ib. 26.

[5] Et comme chacun sait, l'exploit mémorable de Pasteur fut justement de mettre en évidence une différence: les cristaux de l'acide tartique, celui du raisin, sont tous dissimétriques à droite; les cristaux de l'acide paratartique, celui du chimistre sont pour moitié dissimétriques à droite, et pour moitié dissimétrique à gauche. Ceci explique que ce dernier soit optiquement inactif: l'un des deux acides dont il se compose dévie le plan de la lumière polarisée à droite dans la même mesure que l'autre le dévie à gauche...

... Ceci s'explique, selon Pasteur, par leur genèse même: dès que les principes immédiats de la vie prennent naissance, les atomes ou les molécules se rangent dissimétriquement, sous une influence mystérieusse qui semble toucher aux conditions les plus secrètes de l'origine de la vie... — Ib. 110.

[6] Que dire de ces mouvements de Yin et de Yang, de défi et de riposte, de retraite et de retour, d'ascendance et de filiation que nous avons mis en lumière?... Il est certain que dans le mouvement de toutes ces forces qui tissent la toile de l'histoire humaine, on rencontre un élément très net de renouveau... — Ib. 280.

[7] Joseph Needham souligne lui aussi, dans le deuxième tome de sa monumentale encyclopédie Science and Civilisation in China, que l'on ne sent aucune teinte de bien ou de mal dans la doctrine du Yin et du Yang. C'est cela même qui la rend capable de maintenir un véritable équilibre et d'aider à réaliser les véritables buts de l'existence humaine, qui sont le bonheur, la santé et le bon ordre. Selon une thèse hardie de Needham, cette pensée non-manichéenne est destinée à jouer grâce à la médiation de Leibniz. Needham voit dans un certain style de pensée et de symbolisation en Chine ancienne, d'étonnantes analogies avec la pensée scientifique la plus moderne. Incapable de produire la science classique, les Chinois auraient, d'après lui, envoyé maintes flèches vers l'endroit où devaient se tenir plus tard Niels Bohr, Max Planck, Albert Einstein et bien d'autres. Et cela parce qu'ils ont pu échapper à cette schizophrénie typiquement européenne qui nous a rendu inaptes pendant des siècles, à penser autrement que dans les termes du matérialisme mécanique ou du spiritualisme thélogique platonicien. — Vilma Fritsch, La Gauche et la Droit, p. 18.

[8] L'Abbé Lemaître publia cette théorie d'un univers en expansion dans un article des Annales de la Sociéte scientifique de Bruxelles... — Pierre Rousseau, Histoire de la Science, p. 763.

[9] Le 23 juillet 1847, date mémorable dans les Annales de la science, il présenta son premier mémoire à la Société de physique de la capitale allemande.

Dans ce mémoire, intitulé: Sur la conservation de la force, Helmholtz se posait dans son ensemble le problème de la thermodynamique. Puisque travail, chaleur, électricité peuvent se changer l'un dans l'autre, y disait-il, c'est que ce ne sont là que des formes différentes de quelque chose qui ne varie pas, quelque chose que nous voyons tantôt sous forme de chaleur, tantôt sous forme de lumière, tantôt sous forme de travail mécanique, d'énergie chimique ou

Đôi điều về Phi Quyền Chính


Những người có chủ trương Nhân Chủ ("anarchist-humanism") nên công khai thừa nhận mình là những người phi quyền chính, cũng như phải giải thích phong trào phi quyền chính là gì, và tìm hiểu lịch sử của nguyên lý phi quyền chính từ giai đoạn sơ Phi Quyền Chính (proto-anarchism: Zenone di Cizio (Stoicismo) Epicuro (Epicureismo) Antistene di Atene (i Cinici) Diogene di Sinope, Lão Tử, Bao Jin Gyan, Fra Dolcino, Thomas Munzer , Phong trào comunalista, Étienne De la Boetie v.v..v.v.) đến phi quyền chính hiện đại (modern anarchism: tức là từ William Godwin và Proudhon đến ngày hôm nay).
 Phi quyền chính vẫn đại diện cho các cơ hội tốt nhất của con người để chấm dứt những hủy diệt sinh thái tư bản đang hiện hành và đang đe dọa tất cả mọi hình thức đời sống trên trái đất. Những người có chủ trương Phi Quyền Chính nên lây lan sự kiện, hầu làm tan vỡ và vạch mặt những huyền thoại vốn không hề có. Đừng để cho đồng nghiệp của bạn, hay bạn bè hoặc người thân, nghĩ bậy hoặc tưởng tượng rằng bạn đang là người liberal, tư bản, bảo thủ, phỉ việt cộng stalinist tư bản, mác xít độc tài, phát xít, ngụy ngục vnch, dân chủ cuội v.v. Dòng chảy hiện tại của cuộc đàm luận chính trị là một phần của vấn đề, do đó, hãy biết tự trọng và khẳng định bản thân mình đối với tất cả mọi người hầu thay đổi tình hình và để tạo cơ hội cho nguyên lý phi quyền chính được mở rộng và phổ biến nhiều hơn nữa. Đây là cách duy nhất để có thể đóng góp cho một sự thay đổi thực sự. Chỉ có như vậy những người mà vẫn còn chưa biết đến, thì mới có thể hiểu được phi quyền chính và hiểu ý nghĩa của nó.

Những người đấu tranh nên tổ chức các cuộc gặp gỡ với những người cùng quan điểm. Cũng như đi phát tờ rơi và nói chuyện với quần chúng về những lý tưởng của mình. Hãy tìm hiểu và suy nghĩ làm cách nào để có được sức thuyết phục, đừng bút chiến hay nguyền rủa ai cả. Hãy nhớ rằng cuối cùng thì hầu hết chúng ta đều mong muốn những điều tương tự (hòa bình, thịnh vượng, vv), vì thế hãy bắt đầu từ những quan điểm mà bạn có thể đồng ý và hãy tiếp tục từ những điểm đó. Hành động của bạn sẽ đặc biệt có hiệu quả nếu câu hỏi của bạn sẽ làm tương ứng và phù hợp những câu trả lời của họ bằng những điều kết luận của bạn. Bạn nên giải thích rằng "phi quyền chính" không đồng nghĩa với sự "hỗn loạn" và "phá hoại", mà nó chính là một nguyên lý có ảnh hưởng đến chính trị và xã hội, và luôn luôn ủng hộ sự tự-tổ chức, anarchism không phải là một hệ thống chính trị hay kinh tế bắt nguồn từ nền dân chủ trực tiếp.

Hãy chuẩn bị để trả lời các lời cáo buộc. Bạn sẽ bị buộc tội và sẽ bị chụp mũ là "nói sàm" "đồ điên", "chuyện không tưởng và tào lao", "phản động" "chống phá Nhà Nước" "khủng bố" "Cộng Sản VC" "ngụy ngục VNCH" "chống cộng" "hoang tưởng" "phi lý" "thuyết âm mưu" " "thằng vô thần" v.v. nhưng bạn hãy trả lời những lời cáo buộc đó bằng cách chứng minh rằng phi quyền chính có thể thực hiện được, mà trong suốt lịch sử nhân loại, đa số các xã hội thổ dân đều là vô chính phủ, và thậm chí hiện nay có rất nhiều cộng đồng đang hoạt động theo các phương châm hướng dẫn của tư tưởng này , và không nhất thiết bằng cách cố ý và được định trước (intentionally). Bạn có thể tìm thấy những ý tưởng vô chính phủ ở những nơi mà bạn không ngờ. Những người Amish, ví dụ, họ là một điển hình rất tốt về nguyên lý phi quyền chính ngay trong hành động cụ thể của họ, mặc dù chúng ta cũng không thể xác định chính xác được rằng nó là tổ chức “phi quyền chính”.

Hãy nên nhớ rằng phi quyền chính đã bị lạm dụng và bị ghép với nhiều tội danh mơ hồ và nhiều định nghĩa tiêu cực. Điều này không chỉ phụ thuộc vào sự tuyên truyền tiêu cực của hệ thống Quyền Lực, mà cũng do những hành động bạo loạn của những người ồn ào, cường điệu, và "thổi ống đu đủ", bởi vì họ quyết định tự cho họ là "những người vô chính phủ" khi họ phá hủy mọi thứ và gieo hỗn loạn. Là một người Phi Quyền chính thì có nghĩa là phải học tập và rèn luyện để đối phó với những người này và ngăn chặn để làm sao cho những kẻ đó đừng phá hoại công việc của mình.

Hãy đi tìm hiểu và đọc nhiều tài liệu về những sự kiện hiện tại. Đừng làm cho người ta cảm tưởng rằng mình không nắm vững được tình hình hoặc bị thiếu thông tin, cũng như đừng phản đối những ý thức hệ mà thậm chí bạn không biết rõ. Hãy nghiên cứu về hệ thống Tư Bản, chủ nghĩa Mác-Xít, Phát xít, VNCH, VC, và các luồng tư tưởng và hệ phái chính trị khác. Hãy nên biết và tìm hiểu về đối thủ của bạn. Nếu bạn cứ đi lang thang và hành xử kiêu ngạo, tự cao tự đại hoặc tuyên bố ngớ ngẩn và vô căn cứ thì bạn sẽ làm tổn hại cả phong trào đấu tranh.


Không nên duy trì các hệ thống cấp bậc và sự thống trị trong cuộc sống của bạn. Chúng ta đều bình đẳng. Đàn ông nên tìm hiểu để ôm chặt chủ nghĩa feminism và kiểm tra nghiêm túc các mối quan hệ của mình. Rồi như vậy luôn cả những người đến từ các gia đình giàu có, khi họ nằm trong hoàn cảnh phải đương đầu với các tầng lớp khác, Ngay cả những người có tình dục khác giới, trong lúc phải đối mặt với các vấn đề của cộng đồng LGBT; và các nhóm "chủng tộc" hoặc "dân tộc" "có ưu thế hơn" đôi khi họ phải đối phó với các "dân tộc" thiểu số. v.v.

Đoàn kết là sức mạnh lớn nhất của chúng ta, bạn hãy nên nhớ điều này.

Bạn hãy lịch sự và khiêm tốn, nhưng cũng phải khẳng định và bảo vệ các nguyên lý của mình. Mọi người sẽ luôn luôn lắng nghe và để ý những sự đóng góp của bạn và những hành động chủ động đáng chú ý của bạn, và bạn không nhất thiết cần phải mở miệng để làm điều đó.

Các nghi lễ náo loạn và nổi loạn xảy ra trên đường phố, như ở Mardi Gras hay Halloween, đó là những cơ chế khéo léo và có tính toán mà xã hội chuyên môn sử dụng để chứng minh rằng rất cần thiết sự kiểm soát của Quyền Lực, Chính Phủ, Nhà Nước (để tuyên truyền rằng mọi người đều cần luật pháp và sự an ninh trật tự ) và để "bảo vệ" quần chúng cũng như đề đề phòng những gì bị kết án là "những tiểu văn hóa có mục đích đấu tranh giai cấp", (giống như trong trường hợp những người phi quyền chính.)

Sống trong một xã hội mà không theo quy luật riêng của nó, sẽ buộc bạn phải hứng chịu nhiều hậu quả khác nhau. Nếu bạn cứ hô hào chửi rủa "bọn chó đẻ, con lợn phát xít" đối với bọn cảnh sát hoặc làm những hành động phi lý, ví dụ như tự nhiên không có lý do gì hết mà đi liệng đá vào những người hoàn toàn vô tội không làm gì sai trái, thì nếu làm như thế thì điều đó sẽ không ích lợi cho bất cứ ai. Cũng như việc đập phá hoặc vẽ biểu tượng vô chính phủ với cái spray trên các cửa hàng nhỏ, điều này cũng vô ích, nó chỉ làm hỏng ngày làm việc của người lao động bởi vì họ mất công phải lau chùi và dọn dẹp vào sáng hôm sau.

Hay như các bài viết lươn lẹo chuyên môn lấy cớ và lợi dụng bất cứ sự kiện và cơ hội nào để thoả mãn và chửi đổng cho “đã miệng” bằng những danh từ như “tàn dư ngụy ngục” “phỉ VC” “bán khai” “đồ tối dạ” “kém nhận thức” “con cháu rồng teo” “đậu phọng đỏ” “giẻ rách ba que” “giẻ lau đỏ khè”” rác rưởi” “đừng phí thời gian với những thứ rác đó” v.v. (mặc dù cũng có lý một phần nào đó, nhưng mục đích chính vẫn là mưu toan vặt vãnh lưu manh và huênh hoang khoác lác, lợi dụng tự do ngôn luận để quơ đũa cả nắm, chụp mũ, chửi lén, trốn tranh luận và “tự sướng” trong động ổ của mình)

Dù có bao che với những câu nói nhai lại của những triết gia và những nhà tư tưởng của quá khứ và hiện tại, rồi dù có đem bao nhiêu câu Nho, lời đẹp đầy nhân bản, hoà bình, yêu thương, từ bi v.v. làm ra có vẻ như “trí thức cao siêu lắm” hay là “sĩ phu vĩ đại” để hù doạ người ta bằng những “quả bomb kiến thức” v.v. nhưng nếu cứ vẫn giữ bản chất côn đồ, nhảy vô họng người ta, bịt miệng, khi dễ, lạm dụng quyền lực, hành xử mọi rợ khi bị đụng chạm v.v. thì thực sự bao nhiêu lời nói tốt đẹp đó cũng như không!
Đụng chút đã “nhảy dựng” rồi, thì rõ ràng cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra và khi cháy nhà mới lòi ra mặt chuột!


Nếu nói TO MỒM chửi đổng kiểu chợ cá "chó cắn mèo", đấu võ mồm "vén váy" kiểu hàng cá thì tôi cũng miễn bàn.
Vì To mồm kiểu chợ cá không có thuyết phục được ai, ngựợc lại chỉ có thể chứng minh cái kém tư cách của kẻ to mồm chửi đổng.
vì Thoá mạ là lý lẽ của bọn lầm lỗi ( JJ Rousseau),


Hành động này cũng giống như một người bị bệnh tâm lý, đã quá đam mê yêu thương một cô gái, mà cô ấy không thèm để ý đến mình mà lại còn đi với nhiều thằng khác…
Thì hành động rút trong nhà và cứ nhớ cô gái đó hoài, mà không muốn chấp nhận rằng mình đang yêu nó và đang đau đớn vì nó.
Khi gặp ai nói chuyện thì bất cứ đề tài nào cũng sẽ tìm đủ mọi cách để lôi con đó vô và nhét những gì liên quan đến nó vào cuộc trò chuyện, để mỉa mai, chửi lén, hạ nhục và cứ nhắc nó hoài…

Dĩ nhiên khi người khác hỏi “bạn có biết con Kiều Việt lấy chồng rồi chưa? nó đi với thằng Mỹ mà bạn ghét, và nó đã đẻ ra 3 đứa con! Hình như tôi còn nhớ bạn hồi xưa mê con đó lắm mà, bây giờ bạn còn yêu nó không? Tôi cũng chia buồn và tội nghiệp cho bạn lắm, tôi có nghe tin đồn là bạn bây giờ đã trở thành một người vô tổ quốc, vô tôn giáo và vô gia đình như chủ nghĩa CS”


Anh chàng bị rối loạn tâm thần, nhảy dựng và trả lời rằng “Tôi có bao giờ mà yêu nó đâu, còn lâu.... Tôi siêu rồi, tôi không thèm những thứ tình yêu tầm thường và hạn chế giữa trai gái, gia đình và tổ quốc.
Tôi yêu cả Nhân Loại…và tôi yêu cầu bạn nhé, nhà của tôi là một nơi tự do trao đổi tư tưởng, nhưng không phải là nơi để lôi những thứ rác rưởi của những não trạng bán khai lưu manh vặt vãnh. Những loại đàn bà đó không xứng đáng để nhắc và nó làm bẩn mắt đàn ông đàng hoàng như tôi.
Nhũng ai muốn "NHIỀU CHUYỆN" hoặc thích thú những loại đàn bà ngụy ngục này, họ có rất nhiều DIỄN ĐÀN GOSSIP để "tham khảo", không cần phí lời và đem những chuyện đó trong Nhà của tôi .
Nhà tôi dù là một nơi tự do, nhưng không phải là khu đất hoang để xả rác, để nhiều chuyện, và để nói bá láp, kể chuyện tầm phào, dở trò lưu manh vặt của ngụy ngục!

Tôi , chủ Nhà yêu cầu người khách đừng nhắc đến con đó nữa, kể từ thông báo cảnh cáo này ! Nếu còn giở trò lưu manh vặt vãnh mượn nơi nhà của tôi để nhắc chuyện gossip kiểu vớ vẩn, tôi sẽ tiễn đưa vĩnh viễn ra khỏi nhà của tôii!
Mưu toan vặt vãnh lôi kéo tôi vào vũng lầy "đôi co chuyện tình xa xứ" hoàn toàn vô ích và tự hủy. Quí vị muốn "GOSSIP", đó là quyền chọn lựa của quí vị, vô số các diễn đàn Yahoo, Paltalk, Facebook đang nồng nhiệt chờ đón quí vị.
Nhà tôi chủ trương không "nhiều chuyện" và không phí thời gian phân tâm năng lực đôi co trong bãi rác tàn dư của các phần tử phụ nữ VN.
Đây là thông báo cuối cùng để không PHÍ PHẠM THỜI GIAN NĂNG LỰC CỦA TÔI và MỌI NGƯỜI VÀO NHŨNG ĐÔI CO VÔ ÍCH, Tôi thẳng thắn đề nghị bạn hãy tự hiểu và tự đi ra khỏi Nhà của tôi ngay trong thời gian ngắn nhất kể từ thông báo đề nghị cuối cùng này.”


Dĩ nhiên đây là những ngụy biện rẻ tiền của những kẻ bị tâm lý, bị mặc cảm và tự ái.
Tôi cũng thông cảm, và để kết luận bài viết, tôi nhắc nhở vài điều căn bản:

(trích)

Người tranh luận nghiêm túc trước khi phát biểu hay đề xuất ý kiến, đưa ra lời bình phẩm của mình, cần phải xem xét tất cả các trường hợp khả dĩ, phải cân nhắc những quan điểm và những cách giải thích khác nhau, phải đánh giá ảnh hưởng của sự chủ quan và cảm tính, phải tập trung vào việc tìm sự thật hơn là muốn mình đúng, phải sẵn sàng chấp nhận những quan điểm không được nhiều người ưa chuộng, và phải ý thức được định kiến và chủ quan của chính mình. Khi tranh luận phải nhất quán là chỉ xoay quanh chủ đề bàn luận, luận điểm bàn luận chứ không đi lạc đề. Không công kích vào cá nhân và nhân thân của người tham gia tranh luận.

Những sự đóng góp vào công cuộc đấu tranh cho tự do, thì hảy biết hy sinh một phần của cái cảm tính cá nhân để hầu mở rộng dân chủ tính, lắng nghe tôn trọng và lý luận, giải lý trong cái lý lẽ và dẫn chứng hầu xoá tan đi sự ngộ nhận trong lòng dư luận.

Người tranh luận thì hãy dùng LOGIC Arguments, chứ không chơi chụp mũ / đạo đức giả= chỉ có kẻ đuối lý mới dùng THOÁ MẠ/ CHỌC GHẸO/ CHỤP MŨ/ MỈA MAI/ ĐẠO ĐỨC GIẢ đễ tránh né VẤN ĐỀ.



Đừng chụp mũ khơi khơi và NGỤY BIỆN, vài ví dụ:

công kích cá nhân (ad hominem). Đây là một loại ngụy biện phổ biến nhất, thấp kém nhất, nguy hiểm nhất, nhưng có “công hiệu” nhất, vì nó tấn công vào cá nhân của người tranh luận, và tìm cách trốn tránh luận điểm của cá nhân đó. Hình thức ngụy biện này thường xuất hiện dưới dạng: Ông A phát biểu về một vấn đề; ông B tấn công vào cá nhân ông A, và làm cho người ta nghi ngờ luận điểm của ông A.

Tuy nhiên, có thể không có mối liên hệ nào giữa cá nhân và luận điểm của ông A.
Có hai hình thức thuộc loại ngụy biện này. Thứ nhất là dưới hình thức sỉ nhục, hay chửi rủa. Khi bất đồng ý kiến, người ngụy biện chỉ việc công kích vào cá nhân của người phát biểu.
Đây là một ngụy biện, bởi vì sự thật của phát biểu không tùy thuộc vào cá nhân của người phát biểu, mà là logic của lời phát biểu. Cũng nằm trong loại ngụy biện này là thói dùng một đặc điểm của một vật thể nào đó để ứng dụng cho một cá nhân hay một vật thể khác.


Dựa vào bạo lực (ad baculum). Ngụy biện dựa vào bạo lực thực chất là một sự đe dọa, nhằm mục đích gây áp lực cho người đối thoại phải chấp nhận một kết luận nào đó. Loại ngụy biện này thường được giới chính khách dùng, và có thể tóm gọn bằng một câu “chân lí thuộc về kẻ mạnh”. Sự đe dọa không hẳn chỉ xuất phát từ người phát biểu, mà có thể từ một người khác. Ví dụ như “Những ai không tin vào chính sách của tôi sẽ phải trả giá đắt”, hay “Được rồi, tôi đã biết số điện thoại của anh và biết anh đang ở đâu. À, tôi có nói cho anh biết là tôi mới mua một cây súng ngắn chưa nhỉ?”


Lạm dụng chữ nghĩa. Đây là một loại ngụy biện dựa vào dùng những chữ mang cảm tính cao để gắn một giá trị đạo đức vào một đề nghị hay một câu phát biểu. Chẳng hạn như trong câu “Bất cứ một người có lương tri nào cũng phải đồng ý rằng ai không đồng ý với tôi, và "chống phản động" / "chống cộng" thì người đó là một kẻ lưu manh, "ngụy ngục ba que" / "phỉ VC", bán khai, bất nhân, rác rưởi v.v." chữ “lương tri” được cài vào nhằm cho người đối thoại phải nghiêng theo những người có "lương tri".

Văn Thuận Nguyễn

Còn Có Một Đời Sau?


Trần Tiên Long




Minh họa những người được cứu rỗi sau khi chết

Có những câu hỏi đã được nêu ra từ ngàn xưa nhưng các câu trả lời thường hay thay đổi. Khoa học càng ngày càng tiến bộ nên những giải đáp của các triết gia cần phải được biến đổi để phù hợp với kiến thức của thời đại: Con người có linh hồn không? Linh hồn là gì? Có phải linh hồn là một thực thể hoàn toàn độc lập với thân xác? Làm sao con người chúng ta còn có thể sống sót sau khi chết, nghĩa là con người thì bất tử? Cái chết chỉ là một sự tiến hóa hay thay đổi cuộc sống? Có bằng chứng nào để tin rằng còn có một đời sau?

Những câu trả lời cho các câu hỏi như vậy đã tạo ra các trường phái triết học khác nhau, nhiều khi còn đối nghịch theo tính loại trừ.

Thuyết Nhị Nguyên cho rằng con người có hai phần riêng biệt, bao gồm phần thân xác và phần linh hồn, hoàn toàn độc lập với nhau. Thế giới có nhiều cõi. Khi thân xác chết thì linh hồn sẽ rời khỏi thân xác để đi về một cõi khác. Tôn giáo thì cho rằng ngoài đời sống ở cõi trần gian này còn có một đời sống khác nữa sau khi chết. Nhưng khi giải thích về sự sống đời sau thì mọi tôn giáo đều dựa vào niềm tin và kiến thức của con người ở thời man khai khi chưa có khoa học.

Còn thuyết Nhất Nguyên thì đối nghịch, cho rằng con người chỉ có một phần duy nhất. Trường phái Duy Linh cho rằng con người chỉ có phần hồn duy nhất là trường cữu; còn cái phần thân xác chỉ là ảo ảnh và tạm bợ, một biểu hiệu của phần hồn. Trường phái Duy Vật thì ngược lại cho rằng chỉ có phần thân xác vật chất là thật; còn cái phần linh hồn không phải là một thực thể riêng biệt, nhưng chỉ là ảo tưởng do trí tưởng tượng phong phú của con người. Trường phái này quan niệm chết là chấm dứt toàn vẹn cuộc sống của con người. Những phần được xem là tinh thần như trí tuệ, trí thông minh, ý thức, tư tưởng, cảm nhận, cảm hứng, cảm xúc, trực giác, cách hành xử, tính tình, nhân cách… tất cả đều là kết quả của thân xác vật chất. Khi thân xác chết thì những thứ tinh thần này cũng chết theo. Khoa học tiến bộ nhờ hoàn toàn đi theo trường phái Duy Vật, đối nghịch với các tôn giáo.

Vậy câu hỏi được đặt ra là thực sự còn có một đời sống khác nữa sau khi chết hay không. Ở bài viết này, người viết sẽ trình bày những dữ kiện thu thập được bằng sự hiểu biết, tìm tòi, và học hỏi, có thể mang tính chủ quan, qua các tiểu mục sau:


▪ A. Quan điểm và lập trường của các tôn giáo

1. Ki-tô giáo

Khi nghiên cứu về các tôn giáo độc thần bao gồm Ki-tô giáo, Hồi giáo, và Do Thái giáo, người ta không tìm thấy ý niệm linh hồn trong các văn bản kinh thánh nguyên thủy Cựu Ước và Tân Ước. Những thứ mà ngày nay người ta gọi là linh hồn thì đã được trình bày như hơi thở, thần khí, hoặc sự sống.

Chẳng hạn khi Thiên Chúa tạo dựng ông Adam, người đầu tiên của nhân loại, từ bụi đất, Ngài không thêm vào đó một linh hồn, nhưng chỉ thở vào đó để cho đất bụi có sự sống (Genesis 2:7). Và ở câu Genesis 1:24 , Ngài cũng làm như vậy đối với mọi thú vật. Danh từ “nephesh” của Do Thái chỉ đơn giản là sinh vật có hơi thở. Cuốn tự điển Vine's Complete Expository Dictionary of Old and New Testament Words định nghĩa danh từ “nephesh” là “bản chất của sự sống hay hành động thở hơi”.

Trong cuốn God, the Failed Hypothesis: How Science Shows That God Does Not Exist, Giáo sư Vật Lý Victor J. Stenger, người đã thắng giải Nobel, viết:

“Trong suốt dòng lịch sử, Giáo hội Công giáo đã dạy rằng toàn thể thân xác sẽ được sống lại. Kinh Tin Kính của các thánh Tông Đồ được đưa ra từ thế kỷ thứ 2 và hiện vẫn còn được đem ra đọc, cho rằng sẽ có sự phục sinh của thân xác. Cộng đồng Trent ở thế kỷ 16 đã khẳng định rằng một thân xác y chang sẽ được sống lại mà không có sự thay đổi, méo mó. Thánh Augustino bảo rằng phần vật chất của cơ thể sẽ được hàn gắn lại cho dù nó rữa nát cở nào.” [1]

Trong các sách giáo lý Công giáo VN, kinh Tin Kính này được dịch nguyên văn ở câu chót như sau, và được các tín hữu Công giáo đọc hằng ngày trong các thánh lễ: “…Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy. Amen.”

Tín điều của Công giáo còn bắt buộc người tín hữu phải tin rằng Đức Giê-su và Đức Maria đều sống lại và bay lên trời cả hồn lẫn xác.

Nostradamus cũng tiên đoán người chết sẽ sống lại: “Khi địa ngục không còn nhiều phòng, những người chết được chôn cất sẽ đi ra khỏi ngôi mộ của họ”.

Như vậy, từ “linh hồn” được ngày nay hiểu như một thực thể độc lập với thân xác thì không có từ tương đương nào trong các câu kinh thánh nguyên thủy của người Do Thái. Mặc dù Ki-tô giáo có nguồn gốc từ Do Thái giáo, nhưng nó đã được biến đổi đế đưa ý niệm linh hồn của văn hóa Hy Lạp và La Tinh vào trong Ki-tô giáo. Điều này cũng dễ hiểu bởi vì kinh sách của Ki-tô giáo được dựa trên những hỗn tạp của nhiều tác giả khác nhau, và cách tổ chức của tôn giáo này cũng hoàn toàn mang tính trần tục của con người. Riêng Công giáo còn đặt truyền thống thánh (sacred tradition) cao trọng hơn cả các cuốn kinh thánh để họ có quyền sửa chữa, thêm bớt, hoặc thay đổi “lời của Chúa”, bởi vì giáo hoàng có toàn quyền “cầm buộc dưới đất cũng như trên trời”; và họ còn có tín điều bắt buộc người tín hữu phải tin giáo hoàng không thể sai lầm (infallibility) trong các vấn đề luân lý và đức tin.

Cũng cần ghi nhận thêm rằng Ki-tô giáo ban đầu cũng không tin chắc người đàn bà có linh hồn. Kinh sách, cách tổ chức quản trị và truyền thống của tôn giáo này rất coi thường người đàn bà, ngay cả việc không cho họ có tiếng nói trong các giáo đường. Mãi cho đến thế kỷ thứ 6, Cộng đồng Maçon gồm toàn những người đàn ông mới bắt đầu công nhận cho đàn bà có linh hồn chỉ vì hơn nhau một lá phiếu bầu.[2]

Nhưng có một thắc mắc mà cho đến bây giờ vẫn chưa có lời giải đáp thỏa đáng, rằng, bởi vì con người luôn luôn biến đổi kể từ ngày thụ thai, chào đời, rồi lớn lên và trưởng thành cho đến khi vĩnh viễn nằm xuống đất, vậy cái thân xác được sống lại đó thì là thân xác của giai đoạn nào trong cuộc đời? Có phải là thân xác của đứa trẻ khi mới được sinh ra chưa có trí khôn, hay đó là thân xác của các ông bà già mang nhiều chứng bệnh tâm thần nan y, kể cả bệnh mất trí nhớ? Có vẻ như vương quốc thiên đàng thì phần đông gồm toàn những người già cả được sống lại y chang với nhân cách và khả năng trí tuệ của những người mất trí nhớ vì lão hóa.

2. Phật giáo

Phật giáo thì không tin có linh hồn như Ki-tô giáo

Trong bài “Trả lời Phương Chính Nguyễn Quang Đạt qua bài viết: Kêu Cứu Của Một Linh Hồn”, tác giả Lê Sỹ Minh Tùng (LSMT), một học giả uyên bác chuyên nghiên cứu về Phật giáo nguyên thủy, viết nguyên văn như sau:

Đạo Phật tuyệt đối phủ nhận linh hồn (Soul) mà chỉ có Thức (Mind) (hay còn được gọi là Consciousness). Thức là cái biết biến đổi liên tục tùy theo thế giới bên ngoài còn linh hồn là cố định, bất biến. Chỉ có Thiên chúa giáo mới tin có linh hồn, ngược lại, đạo Phật phủ nhận ý niệm về “linh hồn” vì đạo Phật không chấp nhận có ai tạo lập cái gì cả mà tất cả nhân sinh vũ trụ này là do duyên khởi (trùng trùng) tác tạo từ vô thỉ đến vô chung thế thôi. Đối với một con người bình thường (không phải là Thánh giả) thì khi nhắm mắt, nghiệp lực sẽ quyết định số phận tương lai (tái sinh) của bạn chớ không phải do bạn quyết định được. Nghiệp lực sẽ chuyển Thức (tái sinh) vào kết (duyên) trong noãn bào của người mẹ (trong lúc tinh trùng của người cha vừa mới lọt vào tử cung của người mẹ) để tạo thành một thai nhi, có đủ Danh (Thức tái sinh) và Sắc (thân thể). Tinh trùng là sự sống tiếp cho thai nhi cho nên ngày nay cho dù con người có thụ thai nhân tạo hay là gì đi chăng nữa thì bắt buộc phải có tinh trùng.” (Hết trích).

Nhờ có những câu chú thích tiếng Anh trong ngoặc đơn, chúng ta có thể hiểu được các danh từ “Mind” và “Consciousness” cũng chính là linh hồn trong Ki-tô giáo. Giáo lý Công giáo giải thích rằng con người khác con vật vì có phần linh hồn. Linh hồn là trí tuệ, trí thông minh, ý thức, lương tâm để biết phải, biết trái, biết lành, biết dữ. Trong câu trích dẫn trên của tác giả LSMT (cho dù tác giả đã khẳng định “Đạo Phật tuyệt đối phủ nhận linh hồn (Soul)”) và trong các sách vở của các tác giả ngoại quốc khi họ bàn về linh hồn, họ cũng luôn luôn đặt vấn đề là có trí tuệ (Mind) hay ý thức (Consciousness) hoàn toàn độc lập với thân xác hay không, nghĩa là con người sau khi chết thì ý thức và trí tuệ có phải vẫn còn sống sót ngoài thân xác hay không.

Như vậy, nếu linh hồn được hiểu như là ý thức và trí tuệ thì đương nhiên con người phải có phần linh hồn, cho dù chúng ta dùng những từ ngữ khác nhau. Người vô thần hay hữu thần nào cũng đều tin con người có trí thông minh, có trí tuệ, hoặc có ý thức và lương tâm. Đó là những điều hiển nhiên, chẳng cần thắc mắc.Nhưng câu hỏi cần phải được đặt ra là liệu cái phần linh hồn đó có phải là một thực thể độc lập với thân xác, vẫn còn sống sót sau khi thân xác đã chết hay không. Trả lời cho câu hỏi này là tự xác định cho mình một lập trường theo quan điểm của Duy Linh hay Duy Vật. Và đây mới chính là chủ điểm của bài viết này.

Cho dù chúng ta bảo rằng ý thức, trí tuệ, hay trí thông minh chỉ là những biểu hiệu của linh hồn chứ chẳng phải chính nó là linh hồn; nhưng nếu chúng ta chứng minh được rằng những thứ biểu hiệu đó chính là thuộc tính của thân xác vật chất chứ chẳng phải của một thứ gì khác mà chúng ta gọi là linh hồn, thì đương nhiên chúng ta cũng chứng minh được rằng những quan điểm và lập trường của các tôn giáo về niềm tin vào linh hồn và một cuộc sống khác sau khi chết, đã được giảng dạy từ mấy ngàn năm nay, đều hoàn toàn sai. Và điều này khoa học đã chứng minh được.

▪ B. Quan điểm và lập trường của khoa học

1. Não Học (Neurology)

Khoa Não Học hiện đại, một trong các bộ môn thuộc khoa học thực nghiệm, ngày nay đã khẳng định rằng con người không có cái gọi là linh hồn có thể độc lập với thân xác. Những thứ mà lâu nay chúng ta vẫn thường gọi là phần tinh thần hay biểu hiệu của linh hồn thì hoàn toàn tùy thuộc vào cấu trúc và hoạt động của não bộ. Chính não bộ là nơi chứa đựng mọi dữ kiện của trí nhớ làm cho con người có trí tuệ để phán đoán. Ngay cả những trạng thái tâm hồn như cảm xúc, vui, buồn, giận hờn, hận thù, thương xót… đều do kết quả rung động của các nguyên tử thuộc tế bào óc (neurons). Tất cả đều thuộc sinh vật lý. Một sự thay đổi hay hủy hoại một phần của não bộ thì có thể làm thay đổi tính tình, trí tuệ, nhân cách, tư cách đạo đức, và cả cách lối hành xử của con người đó.





Như vậy, tất cả những tư tưởng và mọi hoạt động tâm linh hay tinh thần thì đều hoàn toàn tùy thuộc vào bộ óc của con người. Chết là chấm dứt tất cả. Một xác chết không có khả năng suy tư và nhận thức như khi nó còn đang sống. Những khả năng tinh thần này hoàn toàn tùy thuộc vào sự lành mạnh của thân xác vật chất. Người già yếu thường mang bệnh tâm thần, mất trí nhớ, thì dĩ nhiên trí tuệ suy tư cũng phải từ từ kém bớt và sẽ tắt lịm như một ngọn đèn hết dầu. Nếu có một linh hồn độc lập với thân xác, vậy tại sao những biểu hiệu của linh hồn như trí thông minh, trí tuệ, ý thức… lại hoàn toàn tùy thuộc vào sự lành mạnh của thân xác? Nếu linh hồn rời khỏi thân xác để di chuyển đến một nơi khác thì chắc chắn nó sẽ không có trí nhớ, trí thông minh, trí tuệ để ý thức, suy tư, hoặc nhận thức bất cứ một điều gì, và nó cũng không thể cảm nhận được hạnh phúc hay khổ đau; bởi vì tất cả những thứ đó đều dính liền với bộ não, nằm lại ở trong thân xác vật chất. Linh hồn, nếu có, chỉ còn là một cục đá nằm bất động, vô tri, vô giác, vô cảm, và còn vô hình, vô nghĩa; chẳng dính dáng gì đến cái thân xác mà nó đã rời bỏ.

Ở bài "Emotions Without Souls: How Biochemistry and Neurology Account for Feelings" của Vexen Crabtree (1999), tác giả có một kết luận như sau:

“Có phải cảm xúc làm chúng ta có linh hồn, hay chỉ đơn giản đó là những qui luật của thiên nhiên? Những căn bệnh hư hại não bộ làm xóa đi nhân cách của con người và những trường hợp hư hại bộ óc đột nhiên làm thay đổi tính nết, cả hai trường hợp đều chỉ có thể xảy ra nếu chúng đều thuộc về sinh vật lý. Những thuốc men làm thay đổi tâm tính và làm mất trí tuệ chứng minh rằng nguồn gốc của cảm xúc đều thuộc sinh hóa. Những căn bệnh làm thay đổi tâm trạng của con người và những căn bệnh liên quan đến sự phát triển của con người chứng minh cho chúng ta thấy rằng nhân cách của con người thì do Sinh Vật Học định đoạt tất cả…

… Nếu trí nhớ, cách lối hành xử, và các cảm xúc, tất cả đều bị điều khiển bởi bộ não vật lý thì linh hồn còn để làm gì? Có vẻ như chẳng cần phải có linh hồn để cho bất cứ một điều gì. Chắc chắn linh hồn chẳng phải để điều khiển cách lối hành xử hay tính nết của con người, và ý chí tự do mà linh hồn sử dụng thì bị Sinh Hóa Học thay thế; như vậy, tại sao có quá nhiều căn bệnh có sự ảnh hưởng không thể kiềm chế trên nhân cách của con người. Khoa học hiện đại chứng minh rằng ý tưởng về linh hồn thì sai bét. Mọi sự chỉ là sinh vật lý.” [3]

Những cuộc thí nghiệm và khám phá thuộc khoa Não Học còn chứng minh rằng có những vùng riêng biệt trong não bộ điều khiển cách hành xử mang tính tôn giáo và luân lý.

Ở bên Anh, năm 1848, ông Phineas Guage là một nhân viên làm đường rày xe lửa. Trong lúc đặt mìn để phá đường, ông đã vô ý làm nổ tung chất nổ. Một thanh sắt bắn trúng quai hàm và xuyên qua sọ của ông. Trước tai nạn, ông là một người mẫu mực, rất có đạo đức và luân lý. Sau tại nạn, ông biến thành một người vô trách nhiệm, vô luân lý, vô đạo đức, và không còn ai có thể tin tưởng.

Hình chụp cho thấy thanh sắt xuyên qua phần của sọ, cái phần chuyên điều khiển những vấn đề thuộc tôn giáo và luân lý. Rõ rệt là có một sự liên hệ trực tiếp giữa bộ óc của chúng ta với những vấn đề tâm linh. [4]

Như vậy, những thứ mà chúng ta gọi là thiêng liêng, không có phần thân xác, như thượng đế, linh hồn, quỷ ma, thần thánh… tất cả đều là sản phẩm tưởng tượng của đầu óc con người. Kỹ thuật soi óc (brain scans) có thể xác định được chỗ nào của bộ óc liên hệ trực tiếp với các loại tư tưởng khác nhau, kể các các tư tưởng về tôn giáo và cảm xúc. Khi chỗ nào đó của bộ óc bị hư vì tai nạn hoặc vì giải phẩu, những tư tưởng tương xứng nằm ở chỗ đó cũng biến mất. Ngày nay, trong các phòng thí nghiệm, người ta có thể dùng thuốc hoặc điện để kích thích một phần riêng biệt nào đó của não bộ, tạo ra những cảm giác mà người ta mong muốn, chẳng hạn như cảm thấy mình sung sướng đang gặp Chúa, hoặc cảm thấy mình lo sợ đang thấy ma quỷ, hoặc ngay cả tạo ra những kinh nghiệm cận tử (near death experiences).[5][6] Tất cả đều nằm ở bộ não và là kết quả của những rung động của các nguyên tử thuộc khối óc. Nếu linh hồn tạo ra các tư tưởng, giấc mơ, nhân cách, và cả cảm xúc, thì tại sao những thứ nó tạo ra đó lại bị ảnh hưởng trực tiếp bởi một tai nạn gây thương tích ở đầu óc, bởi một căn bệnh mất trí nhớ vì lão hóa, bởi các loại thuốc, hoặc bởi dòng điện kích thích nơi não bộ?

Ngày nay, người ta có thể điều khiển con chuột từ đằng xa bằng một cái “remote control” để kích thích một phần riêng biệt nào đó nơi óc của con chuột.[7] Họ còn có thể thay cả đầu của con chó hoặc của con khỉ. Họ cũng đang dự tính sẽ thay cả đầu của con người trong vài ba năm tới. [8] Nếu hai người có hai cái đầu đổi qua nhau thì linh hồn sẽ như thế nào, đi về đâu?

2. Vật Lý Học

Khoa Vật Lý khẳng định rằng tất cả mọi lực (force) chuyển động trong vũ trụ này đều phát xuất từ khối lượng vật chất (mass). Định luật chuyển động của Sir Isaac Newton định rằng lực tỉ lệ thuận với khối lượng và gia tốc theo phương trình F=ma; trong đó “F” là lực, “m” là khối lượng, và “a” là gia tốc của một vật. Cứ theo phương trình này, nếu có một khối lượng vật chất là “zero” thì sẽ có tổng số lực cũng là “zero”, cho dù gia tốc có thế nào. Nếu khối lượng vật chất đó càng lớn thì sẽ tạo ra lực càng lớn. Nếu một vật không có khối lượng vật chất, chẳng hạn như các hữu thể thiêng liêng, thì không thể tạo ra một lực gì. Và nếu không có lực thì không thể có chuyển động để làm được bất cứ một điều gì.



Sir Isaac Newton (25 December 1642 – 20 March 1726)/Albert Eintein (14 March 1879 – 18 April 1955)

Cũng vậy, theo phương trình của Albert Eintein, năng lượng của một vật nằm sẵn trong khối lượng vật chất, có thể hoán chuyển qua nhau theo một phương trình E=mc2; trong đó “E” là năng lượng, “m” là khối lượng, và “c” là vận tốc của ánh sáng. Khối lượng một vật càng lớn thì năng lượng nằm trong vật đó càng nhiều. Nếu khối lượng của một vật là “zero” thì năng lượng của vật đó cũng chỉ là “zero”.

Hai phương trình trên là căn bản của khoa Vật Lý Học. Như vậy, khoa học Vật Lý xác định rằng tất cả những thứ không có khối lượng vật chất, chẳng hạn các hữu thể thiêng liêng mà con người đã tưởng tượng ra như linh hồn, quỷ, ma, thần, thánh… tất cả đều không có năng lực để làm được bất cứ điều gì. Mọi biến cố hay hiện tượng xảy ra trong vũ trụ này đều có những nguyên nhân tự nhiên. Trong tất cả các phương trình khoa học, tuyệt đối không có yếu tố thiêng liêng để giải thích các hiện tượng. Khẳng định này cũng đủ để giải thích tại sao chẳng có điều gì có thể gọi là phép lạ nếu được phán xét theo tiêu chuẩn của khoa học.

Những hữu thể thiêng liêng khi xuất hiện mà tôn giáo thường hay phịa ra để tuyên truyền, cổ vũ, đều không có năng lực để làm được bất cứ điều gì, kể cả một việc rất đơn giản là mở miệng ra để nói. Họ đều phải nhờ vả con người có khối lượng vật chất của thân xác để chuyển lời dùm, thay thế cho họ. Chuyện Đức Mẹ Maria hiện ra như ở Fatima, Lộ Đức, La Vang, và ở bất cứ nơi nào trên thế giới, tất cả đều như vậy cả, nghĩa là Đức Mẹ không nói, chẳng làm gì, ngoài việc đứng bất động, và có khi lại được bi thảm hóa bằng những dòng nước mắt có máu. Những gì người ta gán cho Đức Mẹ quyền phép vô biên đã truyền đạt thì không có điều gì là độc đáo mà con người với xác phàm và có giới hạn không thể nghĩ ra.

Người ta có thể lập luận rằng bởi vì những hữu thể thiêng liêng ở trong chiều kích không gian của một vũ trụ khác nên chẳng cần phải tuân theo các định luật của khoa học, những thứ chỉ có giá trị áp dụng ở trong vũ trụ này. Nhưng, thưa bạn, chúng ta đang bàn cãi về cái vũ trụ này, thuộc không gian ba chiều và cộng thêm một chiều của thời gian. Những sự xuất hiện mà người ta gán cho linh hồn, quỷ, ma, thần, thánh… đều đã xảy ra ở trong không gian thuộc vũ trụ chúng ta đang sống, có liên quan và tác động trực tiếp đến cuộc sống của con người, chẳng phải ở một vũ trụ có chiều kích không gian nào khác. Nếu có điều gì xảy ra ở một vũ trụ khác thì chẳng liên quan gì đến cuộc sống của chúng ta để phải mất công bàn.

▪ C. Hiện tượng thoát xác

Tôn giáo nào cũng tin con người ngoài phần thân xác còn có phần linh hồn bất tử, cho dù phạm trù của linh hồn được hiểu khác nhau như thế nào. Có những ông pháp sư, bà đồng bóng, các nhà ngoại cảm… còn khẳng định rằng họ có thể thoát xác, khai mở thể vía, để đi tìm, nói chuyện, và kết bạn với các linh hồn còn đang vất vưởng, chưa đi đầu thai. Cuốn “Hành Trình Về Phương Đông” (Journey to the East) do Nguyên Phong dịch, có một chương bàn về cái Cõi Vô Hình này, đã được nhiều người thích thú thường xuyên chuyển vào trong các diễn đàn công cộng. Ki-tô giáo thì có những linh mục chuyên việc trừ quỷ bằng nước phép và thánh giá mà ngày nay đã bị luật pháp nghiêm cấm (exorcist).



Chính người viết vài ba năm trước cũng có dịp tham dự sinh hoạt một lần với Hội Tâm Linh Học ở 12851 Brookhurst Way, Garden Grove, CA (www.hoitamlinhhoc.org). Có một bà đồng bóng nọ, khoảng hơn 40 tuổi, đứng ra làm trung gian để tìm gặp và nói chuyện với các linh hồn của những người thân trong gia đình. Trong số những linh hồn này, có những linh hồn của những người đã chết hơn bốn năm chục năm trước ở một làng quê hẻo lánh, cả đời chưa từng biết đọc biết viết tiếng VN. Khi bà đồng bóng đọc lại lời nhắn của linh hồn bằng một giọng nhái khác cho người thân nghe, nhiều khi bà còn chêm thêm cả những câu tiếng Anh mà người viết đoan chắc rằng những linh hồn đó chưa bao giờ có dịp quen biết với cái thứ ngôn ngữ này.

Nhưng có một câu hỏi cần phải được đặt ra là liệu một linh hồn không có khối óc vật chất để chứa đựng các dữ kiện của trí nhớ thì làm sao có thể nói chuyện? Nếu không có trí nhớ thì làm sao biết ai là con cháu hoặc người thân thiết trong gia đình, và biết gì để mà nói? Và nếu không có thân xác vật chất thì làm sao ông pháp sư hoặc bà đồng bóng biết phân biệt linh hồn này là của ông A hay của bà B? Rồi ngay cả các linh hồn ở cõi âm, bằng cách nào mà họ có thể phân biệt được nhau? Bởi lẽ, nhân cách và sự nhận dạng để phân biệt nhau thì dính liền với thân xác vật chất. Chính mẹ của người viết hiện nay đang sống ở một viện dưỡng lão bên California, đã hơn 100 tuổi, đầu óc bắt đầu lẫn, chẳng còn nhớ con cái là ai để mà nói chuyện cho ra đầu ra đuôi, huống hồ đó chỉ là những linh hồn thiêng liêng không có xác phàm. Vì linh hồn không có khối lượng vật chất nên chẳng có năng lực để nói được một lời nào, ngoài những lời nhắn phát ra từ miệng lưỡi của bà đồng bóng. Họ muốn thêu dệt, thêm mắm thêm muối, nói sao mà chẳng được. Điều này cũng giống như chuyện hiện ra của Đức Mẹ Maria hoặc của các ông bà thánh được người Công giáo tưởng tượng ra để cổ vũ và tuyên truyền cho tôn giáo của họ.

Có một cách rất đơn giản để kiểm chứng tính trung thực của hiện tượng thoát xác là ghi một mẫu tin nào đó vào trong một miếng giấy mà chỉ có những người làm cuộc thí nghiệm biết, rồi để miếng giấy đó ở trên cao hoặc ở trong một căn phòng khác. Bà đồng bóng hay ông pháp sư ngồi ở trên giường cố gắng thoát xác để đọc cái mẫu tin đó. Nếu linh hồn ra khỏi xác thì dĩ nhiên có thể bay lơ lững trên cao để đọc mẫu tin đó một cách rất dễ dàng. Các nhà khoa học đã thử cuộc thí nghiệm này rất nhiều lần hơn 150 năm qua, và tất cả đều không có kết quả. Ông Robert Thouless, chủ tịch Hội Nghiên Cứu về Hiện Tượng Tâm Thần (Society for Psychical Research), khi chưa chết còn thề hứa sẽ trở về lại dương thế để xác định còn có một đời sau, bằng cách giải mã một mã số mà chỉ có một mình ông biết; nhưng tất cả chỉ là một sự yên lặng tuyệt đối.[9] Và chính Đức Giê-su đã công khai tuyên bố sẽ trở lại trần gian trong vinh quang vào ngày tận thế để phán xét kẻ sống và kẻ chết ở thời điểm còn có nhiều người đang đứng trước mặt Ngài vẫn còn đang sống. Nay đã hơn 2.000 năm rồi mà Ngài vẫn chưa đến và vẫn chưa có tận thế.[10]

Cách thí nghiệm này cũng đã được áp dụng cho những trường hợp về kinh nghiệm cận tử, nhưng tất cả cũng đã thất bại. [11]

James Randi là một nhà ảo thuật nổi tiếng nhất thế giới. Ông thách đố bất cứ ai có thể chứng minh làm được những điều dị thường, siêu tự nhiên mà khoa học không thể giải thích, chẳng hạn như thoát xác, gọi hồn… với giải thưởng một triệu đô. Nhưng tới giờ này vẫn chưa ai làm được. [12]

▪ D. Kết luận

Những nhà biện giải cho Ki-tô giáo (apologist) thường hay dèm pha khoa học bằng cách lập luận rằng chẳng có khoa học nào có thể chứng minh được chuyện không có linh hồn hoặc không có một đời sau. Đó là một lối ngụy biện ngôn từ không còn thuyết phục đối với kiến thức của khoa học hiện đại. Cách lập luận đó phải kêu gọi đến sự ngu dốt để biện minh cho những gì mà con người chưa biết (appeal to ignorance). Đó cũng là cách lối lý luận thiết kế thông minh (intelligent design argument), mang thượng đế hoặc những hữu thể thiêng liêng ra để giải thích những lỗ trống (God of the gaps) mà kiến thức của khoa học ngày xưa chưa giải thích được.

Cách lối lập luận như vậy chỉ đúng có một nửa, bởi vì chẳng dễ gì chứng minh cho một điều phủ định. Vậy những nhà biện giải cho Ki-tô giáo có thể chứng minh không có cô Bạch Tuyết và 7 chú lùn, cô bé lọ lem, ông già Noel, ông kẹ, ông bà táo, hoặc không có con kỳ lân màu tím vô hình được không? Chính họ còn chưa có thể chứng minh khẳng định được về những hữu thể thiêng liêng như thượng đế, thiên thần, ác quỷ, Satan, Lucifer, linh hồn, và các thần thánh mà họ tôn thờ, thì lý do gì họ lại đòi hỏi một cách vô lý thiên hạ phải chứng minh cho một phủ định?[13]

Những nhà biện giải cho Ki-tô giáo lại tự biện hộ rằng việc không có bằng chứng thì không phải là chứng cớ để chứng minh không có những linh hồn và một cuộc đời sau. Điều đó đúng, nhưng chỉ đúng khi chứng cớ vẫn còn nằm đâu đó. Đã mấy ngàn năm qua rồi, họ vẫn chưa đem ra được một chứng cớ nào thuyết phục. Lý do thật dễ hiểu, bởi vì những hữu thể mà họ gọi là thiêng liêng đều chỉ là sản phẩm tưởng tượng của đầu óc con người.

Khi bàn về thượng đế hoặc linh hồn, điều đầu tiên chúng ta cần nên xác định là linh hồn và thượng đế phải hiểu như thế nào. Khoa học không khẳng định dứt khoát là không có linh hồn hoặc không có một đời sau. Điều khoa học chỉ có thể chứng minh được là những gì các tôn giáo hiểu và dạy về linh hồn và về một cuộc đời sau thì hoàn toàn vô lý vì đối nghịch với kiến thức hiện đại của các bộ môn khoa học thực nghiệm và cả luận lý học. Tất cả những thứ mà chúng ta gọi là tinh thần hay tâm linh thì đều hoàn toàn tùy thuộc vào sự lành mạnh của thân xác vật chất. Đó là lý do tại sao cần phải có một đức tin mới có thể tin được những điều ngớ ngẫn, chẳng một ai hiểu. Đâu cần phải mang linh hồn ra để gán cho là tác giả hay nguồn gốc của những khả năng tinh thần như trí tuệ, trí thông minh, ý thức, trực giác, lương tâm biết phải trái, nhân cách, đạo đức, luân lý, và ngay cả các khả năng thuộc cảm xúc, tình cảm.

Và các nhà khoa học, kể cả những khoa học gia hiện đại thắng giải Nobel như hai Giáo sư Vật Lý Học Victor J. Stenger và Stephen Hawking, và Giáo sư Sinh Vật Học Richard Dawkins, khi nghiên cứu về những hiện tượng dị thường, họ đều khẳng định rằng mọi hiện tượng xảy ra ở trong toàn cõi vũ trụ này đều tuân theo các định luật của khoa học. Nếu có những hữu thể thiêng liêng có thể gây ảnh hưởng trực tiếp vào vũ trụ thì vũ trụ này đã khác, không như vũ trụ hiện tại. Những sinh vật thiêng liêng này đã trở thành dư thừa, không còn cần thiết nữa để giải thích bất cứ một điều gì xảy ra ở trong toàn cõi vũ trụ này.

Trần Tiên Long

___________

Ghi chú:

[1] God, the Failed Hypothesis: How Science Shows That God Does Not Exist by Victor J. Stenger (2007) p102-103.

[2] Armstrong (1986) p 64. Sự trích dẫn này được người viết lập lại từ bài “Souls do not Exist Evidence from Science & Philosophy Against Mind-Body Dualism”. Nguồn:http://www.humantruth.info/souls.html#OOBE

[3] Emotions Without Souls / How Biochemistry and Neurology Account for Feelings. Nguồn: http://www.humantruth.info/emotions.html

[4] Does neurology disprove souls? Nguồn: https://answers.yahoo.com/question/index?qid=20120928131629AAtixJ9

[5] Near Death Experiences What Happens in the Brain Before Dying. Nguồn: http://news.yahoo.com/near-death-experiences-happens-brain-dying-080751857.html

[6] Scientists create ghosts in the lab by tricking the brain By Matthew Stock Nguồn: http://news.yahoo.com/scientists-create-ghosts-lab-tricking-brain-115326070.html

[7] Scientists control mouse brain by remote control By Matthew Stock. Nguồn: http://news.yahoo.com/scientists-control-mouse-brain-remote-control-175421176.html

[8] Human head transplant just two years away, surgeon claims. Nguồn: http://www.cnet.com/news/human-head-transplant-just-two-years-away-surgeon-claims/

[9] The Case Against Immortality by Keith Augustine, http://infidels.org/library/modern/keith_augustine/immortality.html#top

[10] Những Tiên Đoán Sai Lầm Về Ngày Tận Thế by Trần Tiên Long, http://sachhiem.net/index.php?content=showrecipe&id=5486

[11] Life After Death: Examining the Evidence by Victor Stenger, http://www.huffingtonpost.com/victor-stenger/life-after-death-examinin_b_1428710.html

[12] Top 10 Psychic Debunkings, http://listverse.com/2008/04/10/top-10-psychic-debunkings/

[13] Vấn Đề Chứng Minh Thượng Đế by Trần Tiên Long, http://sachhiem.net/index.php?content=showrecipe&id=862

Chủ Nhật, 26 tháng 7, 2015

Thiện niệm khiến người ta quảng đại, còn tư tâm khiến người ta nhỏ nhen




Tác giả: Định Bình



 Tôi thường xuyên thắc mắc là tại sao có một số người luôn luôn quảng đại, trong khi đó có một số người không thể như thế được. Tôi xem xét ở nhiều khía cạnh khác nhau, như là tính cách của người đó, giới tính, kinh nghiệm sống và học vấn, nhưng tôi không thể tìm thấy mối liên hệ nào cả. Một ngày, tôi khám phá ra rằng, một người quảng đại là có liên hệ đến thiện niệm hay tư tâm của người đó. Nếu bạn là một người lương thiện, mặc dù bạn không có quyền hành, sự giàu có, hay danh tiếng, bạn vẫn có thể cho người khác rất nhiều điều. Nhưng nếu bạn là người ích kỷ và có tư tâm, mặc dù bạn có rất nhiều thứ, bạn vẫn không thể cho ai một thứ gì và luôn luôn giữ lấy của cải của mình. Cổ nhân có câu:“Tâm để vô tư thiên địa khoan, tư tâm điền hung thốn bộ nan” (Với một người vô tư, trời đất trở nên rộng rãi vô cùng; với một người ích kỷ, mỗi bước đi đều thật nặng nề).

Tính lương thiện bao gồm sự khoan dung và quảng đại. Nó bao gồm luôn luôn nghĩ đến người khác trước, và vui vẻ khi người khác được hạnh phúc. Với người đại thiện vô tư, họ sẽ coi việc tạo phúc cho thiên hạ như là việc làm của họ vậy. Họ bao dung vạn sự vạn vật. Họ lấy khổ làm vui, đội trời đạp đất, tạo phúc cho thế gian, và để lại tiếng thơm muôn đời.

Khi người với lòng từ thiện thấy người khác đau khổ, họ cho phép người đó dùng mọi thứ mà họ có thể cho được. Họ càng quan tâm tới người khác, họ càng được nhiều hơn, và người khác càng gần gũi họ. Vì thế, đối với những người có lòng từ thiện, con đường trước mặt họ rộng lớn vô cùng và cuối cùng họ hoà tan vào cùng trời đất.

Mục đích của người ích kỷ là chiếm lấy và cất giữ. Họ muốn đoạt những gì mà người khác có. Họ làm tổn hại đến người khác vì quyền lợi của bản thân mình. Họ đẩy những khó khăn của mình cho người khác, và lòng ham muốn của họ sẽ không bao giờ được thỏa mãn. Niềm vui sướng của người ích kỷ chính là nỗi đau của người khác, và họ đau khổ khi mọi người vui sướng. Họ ăn không ngon, ngủ không yên. Thậm chí cả trong giấc mơ họ cũng lo sợ bị mất quyền lợi, và tranh đấu trong cả giấc mơ của họ. Họ tự hào về những lợi lộc mà mình giành được, và đau khổ vì những mất mát nhỏ nhoi. Họ đau khổ cả tâm lẫn thân, và không còn nhìn thấy tương lai.

Người ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân mình. Họ không thể cho ai một chút gì, và chỉ cố gắng chiếm lấy. Nhưng những việc đó làm cho chính họ bị mất mát. Con đường của họ càng trở nên hạn hẹp. Cuối cùng, họ mất tất cả.


Lòng từ thiện và tính ích kỷ giống như thiên đàng và địa ngục trong tâm. Thể hiện lòng từ thiện hay tính ích kỷ là sự chọn lựa của mỗi cá nhân, và nó quyết định tương lai của một người. Hướng theo lòng từ bi, bạn đã chọn lựa lên thiên đàng! Hướng theo tính ích kỷ, chắc chắn là bạn đã chọn xuống địa ngục.

Thực tiễn và chân lý




Tác giả: Đào Nguyên

 Bông hoa Tuyết Liên kia ở trên đỉnh núi đã khai nở, nhưng chỉ có những ai leo đến đỉnh núi mới có thể nhìn thấy được, và chỉ có những người không sợ khó khăn nguy hiểm leo đến đỉnh núi mới có thể chứng thực rằng bông hoa Tuyết Liên đó đã nở rộ.

Tuy vậy, giả như không có một người nào có thể leo đến đỉnh núi, thì bông hoa Tuyết Liên đó vẫn khai nở như thường. Có thể chứng thực hoa Tuyết Liên khai nở chỉ là cơ duyên và vinh diệu của một người leo lên đến đỉnh núi, mà chuyện hoa Tuyết Liên khai nở đối với những người leo hoặc không leo núi, hoặc những người vận động phỉ báng việc leo núi, hay là bất cứ người nào mà nói thì đều không có quan hệ gì.



Hình chụp hoa Tuyết Liên, một loại hoa quý hiếm, mọc trên núi Thiên Sơn ở độ cao 4.000m so với mặt nước biển (Nguồn: Internet)

Cái gì gọi là “thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất để kiểm nghiệm chân lý” chứ? Chân lý chính là chân lý, không trải qua thực tiễn cũng vẫn là chân lý. Chân lý là không thay đổi, mà thực tiễn thì có nhiều loại, không phải thực tiễn chứng minh sự chuẩn xác của chân lý, mà là chân lý nói rõ thực tiễn loại này là chính xác hoặc thực tiễn loại kia là sai lầm vậy.

Không thể chỉ vì một người sờ được cái tai voi, liền chứng minh hình dáng con voi giống như cái quạt, không thể chỉ vì chư vị sờ được cái chân của con voi liền chứng minh rằng con voi giống như cây cột nhà, càng không thể chỉ vì sờ thấy thân thể con voi liền nói con voi là một bức tường, cho dù chư vị không phải là người mù, có thể nhìn thấy toàn bộ hình dáng hoàn chỉnh của con voi, cho dù chư vị có phương pháp thực tiễn toàn diện hơn, cao cấp hơn, chư vị có thể nhìn xuyên qua thân thể của con voi, chư vị có thể nhìn thấy tư duy ở mức vi quan của con voi, cũng không thể nói những thực tiễn này của chư vị là tiêu chuẩn duy nhất để kiểm nghiệm con voi. Con voi là thế nào thì chính là như thế ấy, e rằng thực tiễn của con người ta mãi mãi cũng không có cách nào nhận thức toàn bộ được. Con voi rốt cuộc là gì? Đó là điều được quyết định bởi sinh mệnh hoặc năng lực kia đã tạo nên con voi từ không đến có vậy.

Trong một vạn người thì có một vạn “Hồng Lâu Mộng”, cùng là một quyển sách nhưng chỗ mỗi người nhìn thấy đều không giống nhau. Tuy nhiên, “Hồng Lâu Mộng” chính là “Hồng Lâu Mộng”, đọc giả mãi mãi chỉ có thể là đọc giả. Chân lý chính là chân lý, thực tiễn cũng chỉ có thể là thực tiễn mà thôi.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/2007/08/23/47919.实践与真理.html

ÂM DƯƠNG Chương 7. Quan niệm Âm Dương với khoa siêu hình học Âu Châu




Dịch kinh với quan niệm Âm Dương dĩ nhiên là khác biệt với Siêu Hình Học Âu Châu hiện tại.

Dịch phân biệt Âm Dương, nhưng không phân biệt một cách ráo riết triệt để, ngược lại vẫn chủ trương Âm sinh Dương, Dương sinh Âm; trong Âm có Dương, trong Dương có Âm.

Siêu Hình Học Âu Châu đã phân biệt, thời lại phân biệt một cách triệt để, rứt khoát. Cho nên đối với Siêu Hình Học Âu Châu, thiện là thiện, ác là ác; tinh thần là tinh thần, vật chất là vật chất, đôi đàng hoàn toàn đối đỉnh, hoàn toàn mâu thuẫn nhau.

Sau khi đã hiểu rõ thái độ và lập trường căn bản ấy của Đông và Tây, chúng ta sẽ lần lượt so sánh ít nhiều vấn đề:

1. Âm Dương với nguyên lý đồng nhất

Siêu Hình Học Âu Châu dựa trên nguyên lý đồng nhất (Principe d'identité) nên không chấp thuận rằng A vừa là A lại vừa có thể là B. Nói cách khác, các sự vật, các hiện tượng chỉ có thể chuyển Dịch, tăng giảm, chứ không sao biến thể được. Như vậy vũ trụ này sẽ không thể biến hóa vô cùng, và chỉ là một sự nhắc đi nhắc lại của một số sự kiện với ít nhiều tăng giảm... [1]

Dịch lý dĩ nhiên không chấp nhận nguyên lý đồng nhất. Lý do rất là giản dị: Về phương diện Tiên Thiên, thời Bản thể hằng cửu và duy nhất bất biến, nên nguyên lý đồng nhất không cần phải đặt ra. Về phương diện Hậu Thiên, thời mọi sự đều biến thiên, Âm biến Dương, Dương biến Âm, Âm sinh Dương, Dương sinh Âm; trong Âm có Dương, trong Dương có Âm, không có gì là thuần nhất, không có gì là bất biến, mà mọi sự đều chuyển hóa vô cùng tận. Chính vì thế mà nguyên lý đồng nhất không có chân đứng. [2]

Cho nên Dịch lý và Siêu Hình Học Âu Châu khác nhau ở chỗ một bên thì uyển chuyển biến hóa, một bên thì ù lì ngưng đọng; một bên thì đi sát với thực tại, một bên thì tách rời thực tại.



2. Âm Dương với quan niệm Thần, Hồn

Như trên đã thấy từ quan niệm Âm Dương các triết gia Đông Á đã đi đến chủ trương rằng Tâm thần con người có hai phần: là: Thần và Hồn.

Đa số các triết gia Âu Châu từ lâu nay chỉ phân biệt xác hồn, hay tinh thần và vật chất. Tuy nhiên, quan niệm Thần Hồn không phải là không có ở Âu Châu. Một chứng cớ hiển nhiên là từ ngữ đã cho ta thấy di tích của một thời đại xa xưa, và đã chứng minh một cách hùng hồn rằng thời xưa, ở Âu Châu, cũng như ở Do Thái, quan niệm ấy đã được chủ trương. Những tàn tích từ ngữ xưa còn xót lại như: Pneurma (Thần), Psyché (Hồn); Ruah (Thần), Nephesh (Hồn), Esprit (Thần), Âme (Hồn), hoặc những chuyện thần thoại xưa như Castor (Thần), Pollux (Hồn), Eros-Psyché, Osiris-isis, đã chứng minh điều đó.

Gần đây đã có một vài Triết gia Âu Châu trở lại quan niệm cổ sơ nói trên.

F.W. Myers (1843 - 1901), một nhà Tâm Lý Học Anh đã chủ trương: Tiềm thức chính là hồn vũ trụ, chính là Tiềm ngã,và trạng thái Huyền đồng chính là sự tràn ngập của Tiềm ngã vào tâm thức con người. [3]

William James cũng theo chủ trương của F.W. Myers. James cho rằng: trạng thái Huyền đồng chính là sự hợp nhất giữa Tâm thức (Nhân tâm) với Đại Ngã (Đạo tâm) và nhờ vậy mà con người được giải thoát. [4]

Bergson chủ trương khác đi rằng: Huyền đồng không phải là tâm thức kết hợp với vô thức, mà chính là với Thượng Đế.Nhờ trực giác, tâm hồn có thể kết hợp với Thượng Đế. Lúc ấy tâm hồn bị Thượng Đế xâm nhập chẳng khác nào lửa nhập vào sắt làm cho sắt đỏ rực lên. [5]

Dung hợp quan niệm Âm Dương, Thần Hồn của các Đơn gia, Đạo gia, quan niệm Tiềm ngã của Myers, với quan niệm Huyền đồng của Bergson, ta có thể chủ trương rằng: Huyền đồng chính là sự hợp nhất của tâm hồn với Thượng Đế, nhưng Thượng Đế chẳng ở đâu xa, mà đã ẩn ngụ trong tiềm thức, vô thức con người, mà Thượng Đế chính là Bản Thể con người, là Thần con người.

Nếu quan niệm này được chấp nhận, thì sau này Đông và Tây sẽ hợp nhất, Triết học và Đạo giáo sẽ hợp nhất, và con người sẽ thấy rõ hướng đi của đại đạo, là vào sâu trong tâm khảm mà tìm đạo, tìm Trời.



3. Âm Dương với quan niệm thiện ác

Như ta đã thấy, theo chủ trương của Dịch Kinh, thì Âm Dương trên phiến diện tưởng chừng như là mâu thuẫn nhau, nhưng kỳ thực trong căn cơ lại bổ túc lẫn cho nhau, lại hằng tìm nhau, sinh ra nhau, muốn hòa hợp với nhau. Suy ra, thì sự mâu thuẫn trên thế giới này chỉ là phiến diện, còn sự thân ái, hòa hợp mới là then chốt, mới là căn bản.

Trong cơ thể chúng ta chẳng hạn làm gì có sự mâu thuẫn nhau triệt để, mâu thuẫn nhau thực sự. Nếu có sự mâu thuẫn kiềm chế nhau chăng nữa, thời cũng chỉ cốt để khang kiện cho toàn thân.

Âm Dương chẳng qua là hai phương diện, hai mặt trái phải của một thực thể. Chúng hỗ tương ảnh hưởng, tác dụng trên nhau để sinh ra thiên biến vạn hóa, nhưng đều qui hướng về mục đích là phát huy vũ trụ cho đến hoàn mỹ. Cho nên sự phân biệt Âm Dương của Dịch Kinh chỉ là một sự phân biệt tương đối. Âm Dương không phải là hai tử thù, mà chính là hai người bạn.
Cũng một lẽ, Đối với Dịch, thì ở đời này thiện, ác, cát hung đều là tương đối. Thời này cho thế này là hay là phải, thời khác cho thế kia mới là hay, là phải, còn thế này là dở, là trái. Vả trong cái hay vẫn có cái dở, trong cái thiện vẫn có cái ác.

Lão Tử viết:

Khi đời thấy đẹp biết khen
Thế là cái xấu đã chen vào rồi.
Điều hay mà rõ khúc nhôi,
Âu đành dang dở, lôi thôi sinh dần.
Mới hay không, có chuyên vần,
Dễ sinh ra khó, vắn nhân thành dài.
Thấp cao, tùy ngó ngược xuôi,
Tiếng ca trầm bổng, dòng đời trước sau...


Trang Tử cũng cho rằng: Muốn cái hay mà không muốn cái dở, muốn trật tự mà không muốn hỗn loạn, tức là không biết định luật của trời đất. [6]

Héraclite cũng cho rằng: Vũ trụ biến hóa để đi đến sự hòa hợp của mọi mâu thuẫn. Ông còn cho rằng nếu chúng ta coi lành dữ như hai sự kiện mâu thuẫn, sung khắc, chính là vì quan điểm ta còn hẹp hòi, và vì ta chưa biết qui chúng về toàn bích, toàn thể. Qui tụ được chúng về toàn thể, toàn bích, chúng sẽ hòa hiệp với nhau.

Đối với Thượng Đế, mọi sự là đẹp, là phải, là hay. Nhưng con người cho rằng cái này phải, cái kia không phải.[7]

Thay vì hai chữ Âm Dương, Âu Châu dùng hai chữ bóng tối, và ánh sáng. Khảo thư tịch Âu Châu, ta cũng thấy hai quan niệm khác biệt nhau về Tối Sáng, Thiện Ác.

1. Một quan niệm cổ hơn, sâu sắc hơn cho rằng Tối Sáng, Thiện Ác là Nguyên Lý Song Sinh do Thượng Đế sinh xuất.

Ta thấy dấu vết này trong Đạo giáo cổ Ai Cập với Lưỡng Thần Osiris-Isis, hoặc trong đạo Bái Hỏa với những quan niệm Ánh Sáng, Bóng Tối, Tinh thần và Vật chất. [8]

Sách Ecclésiastique trong Cựu Ươc cũng viết: Thiện và Ác, Sống và Chết, nghèo và giàu tất cả đều do nơi Chúa ( Eccl. 11. 14 )

2. Một quan niệm mới hơn, phiến diện hơn, có tính cách thực dụng hơn coi Sáng, Tối; Thiện, Ác như hai thực thể hoàn toàn đối kháng, thù địch nhau.

Bái Hỏa Giáo về sau này cũng cho rằng có thần Thiện là Ahura-Mazdah hay Ormud và có thần Ác là Angra Manyu hay Ahriman. [9]

Đạo Mani cũng chủ trương vũ trụ có hai căn nguyên: Ánh sáng và Tăm tối. Phía Bắc là giang sơn của Ánh sáng, là nơi ngự trị của đấng Hằng Cửu. Phía Nam là giang sơn của Tăm tối là nơi Satan ngự trị... [10]

Quan niệm Thượng Đế và Satan như là căn nguyên thiện ác cũng được thấy trong giáo lý Công giáo...

CHÚ THÍCH

[1] Pour la Métaphysique en effet, les objets et les phénomènes sont homogènes et au repos; leurs formes et leurs catégories sont fixées, isolées les uns des autres. Les changements possibles ne sont qu'augmentation ou diminution mécanique. A est A, il ne peut y avoir que répétition. La Métaphysique est de la terre, elle porte sa croix. — Dr. Jean Choain, La Voie Rationnelle de la Médecine chinoise, p.73.

[2] Pour la Dialectique, au contraire, cette vue est fausse, parce que l'expérience nous prouve la réalité du devenir de toutes choses. A ne restera pas A. il faut donc qu'il soit à là fois A et non-A. Ainsi A n'est pas mais devient. La Cause du devenir des choses est en elle-mêmes, elle n'est pas purement extérieure...Les Tibétains ont deux mots pour signifier cause: Rgyu, cause principale, Rkyeu, cause secondaire. De la graine d'un abricotier, jamais un sapin ne naitra, la graine est le Rgyu. Cependant il faut différentes conditions externes de la terre et de climat pour faire naître un abricotier et pour le faire robuste ou chétif. — Dr. Jean Choain, La Voie Rationnelle de la Médecine chinoise, p.73.

[3] Pour le Psychologue anglais F.W. Myers (1843 - 1901) le vulgaristeur de la formule Moi-Subliminal, l'expérience mystique consiste dans l'invasion de le conscience par le Subconscient, ce Subconscient, étant l'âme du monde.

[4] W. James fait sienne la théorie de Myers. Les croyants dit-il, ont leur vision, et ils savent - cela leur suffit que nous sommes plongés dans un invisible milieu spirituel d'où une aide nous vient, notre âme ne faisant mystérieusement qu'un avec un Moi plus grand d'où lui vient la délivrance. Le Moi conscient ne fait qu'un avec un Moi plus grand d'où lui vient la délivrance.

[5] Henri Bergson... rejette l'explication des faits mystiques par l'Inconscient et les attribue à Dieu lui-même. L'intelligence, dont l'objet propre est la matière, ne peut atteindre directement Dieu. Mais nous savons qu'autour de l'intelligence est restée une frange d'intuition vague et évanouissant. Grâce à cette intuition se réalise l'union de l'âme avec Dieu, l'âme étant pénétrée par Dieu comme le fer par le feu qui le rougit. — Paul Foulquié, Métaphysique, p. 324.

[6] Vouloir le Bien sans le Mal, l'ordre sans le désordre, c'est méconnaître les lois de l'univers, et la nature des êtres. C'est comme si on voulait le Ciel sans la Terre, le Yin sans le Yang, ce qui est inconcevable.

Tchouang Tseu cité p. R. Bremond, La Sagesse selon le Tao, p. 65

La Voie Rationnelle de la Médecine chinoise, p. 20.

[7] L'opposition des principes inférieure est elle irréductible? Le bien et la mal, en particulier, sont-ils en face l'un et l'autre à jamais? C'est tout notre problème. Héraclite le résout par l'unité, par la domination d'un principe suprême dont les lois humaines, aussi bien que les lois de la nature, ne sont qu'une participation. Toutes les lois humaines sont nourries par la seule loi divine, écrit-il; celle-ci prévaut autant qu'elle le veut, suffit à toutes choses sans même s'y épuiser. Le bien et le mal sont un, ajoute-il; si nous les opposons, c'est en raison de nos vues étroites et partielles, et faute de les rapporter au tout où ils s'unissent dans une harmonie parfaite. Pour Dieu, toutes choses sont belles, bonnes et justes; mais les hommes tiennent certaines choses pour justes, certaines autres pour injustes. — A.D. Sertillanges, Le Problème du Mal, p. 82.

[8] Si nous tournons, nos regards vers l'Egypte, nous y trouvons, dès l'Antiquité la plus reculée, la Trinité bien connue: Ra, le Père; puis la Dualité, Osiris-Isis, comme deuxième Logos; enfin Horus. — Annie Besant, La Sagesse Antique, p. 32

... Le Docteur Haug, dans ses Essais sur les Parsis (trad. en Anglais par le docteur West et formant le Vol. V des Trubner's Orientales Series) - dit que Ahuramazda (Aôharmazd ou Hôrmard) est l'Être Suprême, et qui de Lui furent engendrées deux causes primordiales qui bien que différentes, étaient unies, et produisirent le monde des choses matérielles, aussi bien que le monde de l'esprit.

Ces deux principes furent appelés jumeaux, et ils sont présents en toutes choses, dans Ahuramazda aussi bien que dans l'homme. L'un engendre le Réel, l'autre le Non-réel; et ce sont ces aspects qui dans le Zoroastrisme postérieur devinrent les deux Génies antagonistes du Bien et du Mal.

Mais dans l'enseignement primitif, ils formaient évidemment de Deuxième Logos, dont le signe caractéristique est la Dualité.

Le Bon et le Mauvais sont simplement la Lumière et les Ténèbres, l'Esprit et la Matière, les jumeaux essentiels de l'Univers, le Deux procédant de l'Un. — Annie Besant, La Sagesse Antique, p. 35,36.

[9] La théologie zoroastrienne classique est dualiste: le Dieu bon Ahura-Mazdâh ou Ormud s'oppose au Dieu mauvais Angra Mainyu ou Ahriman... — E. Royston Pike, p. 328.

....Critiquant l'idée postérieure (des deux Génies), le Docteur Haug dit: Telle est la notion zoroastrienne originelle des Esprits créateurs, qui forment simplement deux parties de l'Etre divin. Mais ultérieurement, par suite d'erreurs et de fausses interprétations, cette doctrine du grande fondateur fut modifiée et corrompue. Spentômainyush (l'Esprit bon) fut considéré comme un des noms d'Ahuramazda Lui-même, puis comme de raison, Angrômainyush (l'Esprit mauvais) se trouvant entièrement séparé d'Ahura-Mazda, fut regardé comme son perpétuel adversaire. Ainsi naquit de dualisme de Dieu et du Diable. (p. 205) — Annie Besant, La Sagesse Antique, p. 36.

[10] Les doctrines fondamentales du système manichéen sont d'une part la distinction de deux Racines ou Principes fondamentaux, la Lumière et les Ténèbres (qui sont des réalités tangibles, palpables, rigoureusement antagonistes et de puissance égale.)

A l'Origine des temps deux régions nettement tranchées; Au nord, le Royaume de Lumière, où règne le Père de la Grandeur, L'Éternel; au Sud, le Royaume de Ténèbres, pure matière sans aucune organisation...

E. Royston Pife, Dictionnaire des Religions, p. 202, 203.

thơ Hoàng Thúy







HOÀNG THÚY

Thành phố như một giấc mơ đi

Thành phố nằm nghe đêm hát lời tự tình bên ngực trái
cậu bé có đôi mắt sâu thẳm lang thang mang ngơ ngác vào đời
thành phố bồng bềnh
dòng sông vẫn chảy, đôi cánh thuyền lạc ở phía khơi xa không
người dẫn hướng
những con sóng dập dềnh
cạn
vơi…

thành phố nối những chuyến đi hờ hững
nắng cháy rồi màn đêm tóc bạc
thành phố hát cho đất, cho cây, cho bầu trời cho mỗi đôi chân
duy nhất một bài ca rực khát
đen đúa
những nét cười trần trụi!

thành phố cô đơn
thành phố buồn
thành phố khờ khạo giấu nỗi nhớ không tên
mùa chín đỏ rồi xanh, ước nguyện qua bao lần thay lá
định mệnh xoay vần, vội vàng cuốn theo những tính toan
giữa lưng trời
chẳng có hình hài nào vẹn nguyên
thành phố lên đèn ngả vàng hiu hắt,
con đường bình minh xa lạ quá
cậu bé có đôi mắt sâu thẳm lang thang giấu chút bình yên bên
ngực phải
nửa mùa thương bỏ lại
thành phố như một giấc mơ đi.




Thôi đừng viết về đàn bà

cuốn sách nằm ngoan trên giá
viết về người đàn bà
dày bốn nghìn chín chín lời ca ngợi
triệu triệu con chữ mù lòa chạy đường thẳng
lối về kết thúc bằng dấu chấm

người đàn bà có trong những người đàn bà
ngoài nỗi đa đoan và nụ môi mềm run như cỏ
là bờ ngực khát hạnh phúc

thôi đừng viết về người đàn bà
cuốn sách rồi sẽ bị bỏ quên bụi thời gian kết mạng nhện quanh co
thôi đừng hoài nghi nữa
gấp lại
ném đi
chạy đến mà níu những ngón gầy…!