Gần đây có nhiều học giả Âu Châu đề cập đến vấn đề Âm Dương. Cái đó là lẽ dĩ nhiên, vì bất kỳ ai khảo cứu về Văn hóa hay Triết học Trung Hoa, chẳng ít thì nhiều cũng phải quan tâm đến vấn đề Âm Dương.
Marcel Granet trong quyển La Civilisation Chinoise có một đoạn dài nói về Âm Dương, nhưng không lấy gì làm sâu sắc. Khảo về Âm Dương, lý thú nhất có lẽ là René Guénon, một nhà Huyền học Âu Châu cận đại.
Réné Guénon giải thích Âm Dương theo đúng tinh thần Kinh Dịch, và nhận định rằng Âm Dương không phải là hai thực thể đối lập, mà là hai phương diện bổ khuyết lẫn cho nhau, của một thực thể duy nhất đó là Thái Cực.
Dương là căn cốt, là tinh thần; Âm là tùy thuộc, là vật chất. Dịch nói Âm Dương, thì Ấn Độ giáo nói Prakriti và Purusha. Sự giao thoa, hoán Dịch, tác dụng giữa Âm và Dương làm cho trời đất, vạn vật có những trạng thái khác biệt nhau.
Vũ trụ có hai mặt: mặt Dương, mặt Trời ở phía trong; mặt Âm, mặt Đất ở phía ngoài. Âm là những gì hữu hình, có thể nhận thức được bằng giác quan. Dương là những gì vô hình, chỉ có thể nhận định được bằng thần trí. Về phương diện nhận thức, ta có thể đi từ hữu hình lên dần tới vô hình, từ ngoài vào trong, từ chân lên đỉnh, từ hiển đến vi, nghĩa là từ Âm đến Dương.
Về phương diện suy tư, ta có thể đi từ phía siêu hình ra dần tới phía hữu tướng, nghĩa là từ Dương đến Âm.
Dịch cho rằng phía trái là phía Dương, là phía của tương lai, thời năm 1967 mới đây Ông Vilma Fritsch trong quyển La Gauche et la Droite cho biết rằng thánh thư Zohar của khoa Huyền học Do Thái cũng cho rằng thế giới hiện tại là thế giớiphải, thế giới tương lai là thế giới trái.
Sách Bách khoa tự điển Do Thái nhận định: Thật là kỳ dị khi thấy rằng theo sách Cabale thì phía trái lại biểu thị một trình độ cao hơn, tiến bộ hơn.
Phía trái là phía của tương lai, và của tiến bộ. Mà lạ lùng thay, đó cũng chính là đường hướng nhận định của triết học và chính trị ngày nay. Trong chính trường hiện tại người ta gọi những người bảo thủ là những người theo phái hữu, những người cấp tiến là những người theo phái tả. [1]
Có thể nói ngày nay thuyết Âm Dương lưỡng cực của Trung Hoa đã được Triết học và Khoa học Âu Châu mặc nhiên chấp nhận.
Gaston Bachelard muốn coi quan niệm lưỡng cực như là một nguyên lý mới, để nhận thức tri luận.
Ông cho rằng tính cách lưỡng cực tương thừa đã được ghi tạc trong căn cơ sự vật, ngược lại với quan niệm cổ xưa cho rằng vật thể là biểu dương của sự thuần nhất.
Khoa học ngày nay không còn tham vọng đi đến Nhất nữa, mà chỉ muốn đi đến Nhị.
Triết học cũng như Tâm lý học đều muốn theo đường hướng mới ấy. Nhiều Tư tưởng gia ngày nay muốn nói: Thoạt kỳ thủy là cặp đôi.
Schelling, dựa vào thần thoại Hi Lạp, và khai thác tư tưởng then chốt của Jacob Boehme là Nhất thể lưỡng phân(Selbsentzweiung) đã cho rằng Thượng Đế cũng là nhất thể lưỡng diện. [2]
Goethe theo chân Kant, cũng nhận định rằng ngay từ căn cơ vật chất đã có những sức hấp dẫn đun đẩy lẫn nhau, cho nên loại nào vật nào cũng lưỡng tĩnh, lưỡng cực. Đó là một hiện tượng phổ quát. [3]
Theo Agnès Cerber, thì nhà Sinh Lý Học mỗi bước đều gặp những cặp Âm Dương, lưỡng cực đối đãi nhau như một cặp trai gái khiêu vũ với nhau, chứ không phải như là hai kẻ thù địch trong một cuộc so gươm. [4]
Và Khoa học ngày nay, đã chứng minh được rằng không cứ loài người, loài vật, loài cây mới có trống mái, mà ngay các tinh thể cũng có phải, trái khác nhau. Pasteur đã phân biệt được hai loại acide tartique trái và phải, và công nhận rằng vạn vật ngay từ trong cơ cấu đã có trái phải, Âm Dương. [5]
Sử gia Toynbee, đã dùng thuyết Âm Dương, động tĩnh đắp đổi luân phiên nhau để giải thích lịch sử.
Ông cho rằng lịch sử đi theo nhịp điệu nhất tĩnh, nhất động, tĩnh rồi lại động, động rồi lại tĩnh.
Lịch sử cũng như Âm Dương, có cảm lại có ứng, có động lại có phản, có vãng lại có lai; có phục lại có khởi, như vậy mới có thể đổi mới mãi mãi... [6]
Joseph Needham, trong tập hai, bộ Science and Civilisation in China đã cho rằng: Học thuyết Âm Dương không có màu thiện ác, nhờ thế mà nó có thể giữ được sự quân bình đích thực và thể hiện được những mục đích chân thực của đời người là hạnh phúc, khang kiện và trật tự.
Needham cũng chủ trương rằng: tư tưởng phi nhị nguyên của Trung Hoa này sẽ đóng một vai trò vĩ đại trong Khoa học. Hơn thế nữa, nó đã đóng vai trò đó rồi, qua trung gian Leibniz. Needham nhận định rằng cách phát triển tư tưởng, và cách dùng tượng hình của Trung Hoa có rất nhiều điểm tương đồng kỳ lạ với tư tưởng Khoa học tối tân nhất. Người Trung Hoa xưa tuy chưa tạo ra được Khoa học đích thực như nay, nhưng nhiều lần cũng đã tung mình lên được tới những chỗ mà sau này Niels Bohr, Max Planck, Einstein đã đạt tới.
Được vậy, là vì người Trung Hoa đã thoát được tật suy luận một chiều của người Âu Châu, hoặc là suy luận theo chiều hướng Duy vật, hoặc là theo chiều hướng Duy linh... [7]
Dịch Kinh cho rằng Âm Dương vừa tương khắc, vừa tương thừa, và Âm Dương giao thoa, tác động lẫn trên nhau nên phát sinh ra mọi biến hóa.
Karl Marx và Lénine cũng đã cho rằng mọi sự trong vũ trụ đều hàm tàng mâu thuẫn nội tại; vũ trụ được chi phối bằng định luật mâu thuẫn xã hội, vì lịch sử được chi phối bằng định luật mâu thuẫn. Vì thế người Mác xít đã cố gây mầm mống chống đối trong xã hội, và dùng đấu tranh giai cấp để làm cách mạng, để đả phá các cơ cấu xã hội hiện tại, ngõ hầu có thể xây dựng một xã hội vô sản.
Nhưng thực ra, người Các Mác chỉ gây mâu thuẫn ở những nước mà họ chưa chiếm được; còn khi đã chiếm được chính quyền rồi, thì họ lại ra sức diệt mâu thuẫn chống đối dưới mọi hình thức, tiêu diệt ngay từ khi chúng vừa mới mầm mộng lên.
Dầu sao thì biện chứng pháp với định luật mâu thuẫn mới là một nửa phần của Dịch lý Âm Dương, vì Dịch lý Âm Dương ngoài sự tương khắc, còn chủ trương tương thừa, ngoài sự mâu thuẫn còn chủ trương sự hòa hiệp của Âm Dương.
Dịch kinh cho rằng Âm sinh Dương, Dương sinh Âm, tán là Dương, tụ là Âm, thì Einstein với phương trình E=MC2 cũng cho rằng năng lực sinh vật chất, vật chất sinh năng lực; năng lực là vật chất phát tán, vật chất là năng lực cô đọng.
Dịch cho rằng Âm Dương tụ tán là một định luật vũ trụ, thời năm 1927, George Lemaître, giáo sư Đại học Louvain, cũng cho rằng vũ trụ hiện đang khuếch tán và giống như quả bong bóng đang được thổi phồng...[8] Nhiều nhà Thiên Văn Học hiện nay đã chủ trương vũ trụ khi tán khi tụ, biến hóa không ngừng.
Chu Hi đã cho rằng: Âm Dương chẳng qua là những trạng thái khác nhau của một nguyên khí. Ngày 27-3-1847, Helmholtz đã đệ trình lên Hội Lý Học ở Berlin một tiểu luận nhan đề là: Sự duy trì năng lực. Trong tiểu luận này, ông cho rằng vũ trụ này tràn đầy một khối lượng năng lực khổng lồ và bất biến. Điện, hóa, quang, nhiệt, lực, tất cả những cái đó đều là những trạng thái khác nhau của một năng lực duy nhất. [9]
Dịch từ ngàn xưa không hề phân tách Âm Dương như hai thực thể riêng biệt, nhưng luôn chủ trương Âm Dương là hai chiều, hai mặt của một thực thể duy nhất, trong Âm có Dương, trong Dương có Âm... Gần đây, các nhà Khoa Học đã chấp nhận vũ trụ là một thực thể duy nhất, nhưng có hai mặt, lúc thì là ba động, lúc thì là phân tử. [10] Dịch Kinh gọi Âm là chẵn, Dương là lẻ, và chủ trương có thể dùng hai ký hiệu Âm Dương mà diễn xuất mọi con số.
Gần đây Leibniz, nhà toán học, đã phát minh ra khoa Toán Pháp Nhị Nguyên, đã phải bỡ ngỡ khi nhận thấy rằng 64 quẻ trên vòng Dịch Tiên Thiên của Phục Hi từ Khôn đến Cấu, rồi lại từ Phục đến Kiền có thể mã thành những con số từ 0 cho đến 63 theo đúng như ký hiệu, và phương pháp Toán Học Nhị Nguyên, nên Ông đã nghĩ rằng người Trung Hoa xưa có thể đã biết khoa Toán học này từ lâu rồi. Ngày nay khoa Toán Học Nhị Nguyên với hai ký hiệu 0 và 1 đã được áp dụng trong các loại máy toán điện cơ, điện tử ở Âu Mỹ...
Các sự kiện trên cho thấy rằng, về phương diện Triết học cũng như về phương diện Khoa học, Âu Châu càng ngày càng gặp gỡ các quan điểm của Dịch Kinh, và Nguyên lý Âm Dương có thể dùng làm như một thứ chìa khóa để mở các điều huyền bí của vũ trụ và của cuộc đời.
Kết luận
Vấn đề Âm Dương thực ra bao la man mác, vì bất kỳ Thiên Văn, Địa Lý, Tử Vi, Lục Nhâm, Thái Ất, Tướng Số, Y Lý nhất nhất đều đã dùng Âm Dương và Ngũ Hành để phân loại. Trong thiên khảo luận này chúng ta không thể đi vào những chi tiết của mỗi môn nói trên để trình bày về Âm Dương được. Tuy nhiên những nhận xét tổng quát của chúng ta sẽ soi sáng cho chúng ta trong bất kỳ bộ môn nào mà chúng ta sẽ định khảo cứu. Lý do là vì Dịch thời dạy những nguyên lý tổng quát, còn các môn Lý Số khác đều đem Dịch lý áp dụng vào những bộ môn riêng biệt mình mà thôi.
Đằng khác, trọng tâm của công trình khảo sát của chúng ta là làm sáng tỏ những vấn đề trọng đại hơn, quan thiết đến đời sống tâm thần con người hơn, chính vì vậy mà chúng ta không được phép lạc lõng vào những chi tiết vụn vặt. Chúng ta có thể tóm tắt về Âm Dương, và sau đó rút tỉa một vài bài học về Âm Dương như sau:
Toàn thể duy nhất là Thái Cực, sau khi phân cực, sẽ sinh ra Âm Dương và như vậy, ta có:
Thế giới bản thể
|
Thế giới hiện tượng
|
Tuyệt đối
Hằng
Viên mãn
Chân
Chính
Ngã
Thường
|
Tương đối (Âm Dương)
Biến
Khuy khuyết
Giả
Tà
Vô ngã
Vô thường
|
Trên bình diện hiện tượng tương đối, biến thiên, ta thấy bất kỳ cái gì cũng có hai chiều, hai mặt, trên dưới, trước sau, hay dở, trong ngoài, phải trái, lưng mặt, giàu nghèo, sang hèn, mạnh yếu, già trẻ, ngày đêm, nóng lạnh, sáng tối; tự do, kiềm tỏa; cá nhân, xã hội; tinh thần, vật chất; trai gái; đực cái; trời đất; tiến thoái; vãng lai; Thánh phàm; Tiên tục; sướng khổ v.v...
Chúng ta nhận thấy chỉ có Tuyệt đối, chỉ có Toàn thể mới thoát khỏi vòng Âm Dương tương đối, vì nó bao quát và siêu xuất Âm Dương. Ở trong vòng hình thức, sắc tướng, tức nhiên phải chịu định luật Âm Dương tương đối, tương đãi, biến thiên, thăng trầm...Ở trong vòng biến thiên, tiêu chuẩn phán đoán về Âm Dương, hay dở, cao thấp đều là tương đối, nghĩa là nó biến đổi tùy quan niệm mỗi nơi, mỗi thời.
Sau cùng chúng ta nhận định rằng tiêu chuẩn Âm Dương của thường nhân khác với tiêu chuẩn Âm Dương của Thánh Hiền. Thường nhân cho là Dương trước, Âm sau, Dương ngoài, Âm trong, cá nhân khinh, xã hội trọng, còn Thánh Hiền thời lại cho rằng Âm trước Dương sau, Âm ngoài, Dương trong, cá nhân trọng, xã hội khinh v.v...
Cho nên, Thánh Hiền khác với thường nhân ở chỗ: lúc trẻ thì lưu tâm đến Âm, đến trí lực, xác thân, ngoại cảnh, cố trau giồi cho trí lực trong sáng, xác thân khang kiện, ngoại cảnh thuận tiện. Lúc đứng tuổi sẽ lưu tâm đến tinh thần, đến nội tâm, để sống khinh khoát, thung dung, thoát vòng kiềm tỏa của trí lự, xác thân, ngoại cảnh.
Thánh nhân, khác với thưòng nhân vì cho rằng Dương hay Tinh thần, hay tinh hoa con người thời ở phía bên trong, nên càng ngày càng chú trọng đến đời sống tinh thần, đến đời sống nội tâm hơn ngoại cảnh, sau khi đã tạo cho mình được một đời sống vật chất khả quan. Thánh nhân cũng khác với thường nhân ở chỗ cho rằng mình trọng hơn xã hội, cho nên coi xã hội là phương tiện giúp cho mình hoàn thành xứ mạng tu luyện, thần thánh hóa bản thân, chứ không coi xã hội là cứu cánh để đến nỗi phải bán mình làm tôi mọi xã hội và ngoại cảnh.
Thường nhân, thì cố chấp, đã cho cái gì hay thì nhất định mãi mãi sẽ hay. Còn Thánh nhân thì uyển chuyển và cho rằng trong cái hay có cái dở, trong cái dở có cái hay, hay dở là tùy ở lòng mình, tùy ở từng hoàn cảnh. Vì thế nên Lão Tử mới viết:
Mới hay không, có chuyển vần,
Dễ sinh ra khó, vắn nhân thành dài.
Thấp cao tùy ngó ngược xuôi,
Tiếng ca trầm bổng, dòng đời trước sau.
Ước gì đời chúng ta đi đúng chiều Âm Dương, mà chiều Âm Dương chính là: Hậu thăng tiền giáng định nhất chu(Trước giáng sau thăng định một vòng). Nói cách khác, nửa đời đầu chúng ta cần phải lưu ý đến trí não, đến xác thân, đến ngoại cảnh, phải góp mặt với đời. Còn nửa đời sau, phải đặc biệt chú trọng đến tâm thần, lo tu luyện để trở nên con người công chính, toàn thiện, toàn mỹ...
Gẫm đạo lý có sau có trước,
Lẽ Âm Dương có ngược có xuôi.
Xuôi là gió cuốn bụi đời, [11]
Đẩy đưa vào chốn trần ai cát lầm.
Có thử thách mới phân vàng đá,
Có lầm than mới rõ chuyện đời.
Ngược là sấm chớp tơi bời, [12]
Tầng sâu bày giãi căn trời nội tâm [13]
Trông tỏ đích chí nhân, chí chính,
Biết mục phiêu sẽ định sẽ an. [14]
Rồi ra suy xét nguồn cơn,
Con đường phối mệnh chu toàn tóc tơ. [15]
CHÚ THÍCH
[1] L'idéogramme chinois pour droit: main + bouche, nous suggère, par exemple, immédiatement les Chinois, droitiers comme nous, se servent de la main droite pour manger. Il ne reste alors comme côtés des arts et de la magie que la gauche, et la gauche s'exprime en effet par la combinaison de signes main + équerre. — Vilma Fritsch, La Gauche et la Droite, p. 33.
... Si le Zohar assimile la Thora à la droite, il donne à la tradition orale qu'il ne tient pas moins en honneur la place à gauche. Suivant ce même ouvrage, le monde actuel serait le monde droit, et le monde futur le monde gauche. Il est curieux, commente la Jewish Encyclopedia, que dans la Cabale, la gauche représente un stade supérieur plus avancé.
Côté du coeur, côté de l'avenir et du progrès - certaines symbolisations philosophique de nos jours s'annoncent ici d'une manière indiscutable. — Ibid. 55.
[2] Reprenant l'idée fondamentale de Jacob Boehme, de la Selbsentzweiung, il reconnaît en Dieu une duplicité essentielle. —La Gauche et la Droite, p. 13.
[3] J'avais retenu des idées scientifiques de Kant, dit par exemple Goethe, que les forces d'attraction et de répulsion font partie de l'essence même de la matière. Il en résulte une polarité originelle de tous les êtres, qui pénètre l'infinie multiplicité de tous les phénomènes et leur bonne vie. — Ib. 25.
[4] Le biologiste recontre à chaque pas des unités bipolaires opposées l'une à l'autre comme les deux partenaires dans un couple de danseurs, et point comme les deux antagonistes d'un pugilat. — Ib. 26.
[5] Et comme chacun sait, l'exploit mémorable de Pasteur fut justement de mettre en évidence une différence: les cristaux de l'acide tartique, celui du raisin, sont tous dissimétriques à droite; les cristaux de l'acide paratartique, celui du chimistre sont pour moitié dissimétriques à droite, et pour moitié dissimétrique à gauche. Ceci explique que ce dernier soit optiquement inactif: l'un des deux acides dont il se compose dévie le plan de la lumière polarisée à droite dans la même mesure que l'autre le dévie à gauche...
... Ceci s'explique, selon Pasteur, par leur genèse même: dès que les principes immédiats de la vie prennent naissance, les atomes ou les molécules se rangent dissimétriquement, sous une influence mystérieusse qui semble toucher aux conditions les plus secrètes de l'origine de la vie... — Ib. 110.
[6] Que dire de ces mouvements de Yin et de Yang, de défi et de riposte, de retraite et de retour, d'ascendance et de filiation que nous avons mis en lumière?... Il est certain que dans le mouvement de toutes ces forces qui tissent la toile de l'histoire humaine, on rencontre un élément très net de renouveau... — Ib. 280.
[7] Joseph Needham souligne lui aussi, dans le deuxième tome de sa monumentale encyclopédie Science and Civilisation in China, que l'on ne sent aucune teinte de bien ou de mal dans la doctrine du Yin et du Yang. C'est cela même qui la rend capable de maintenir un véritable équilibre et d'aider à réaliser les véritables buts de l'existence humaine, qui sont le bonheur, la santé et le bon ordre. Selon une thèse hardie de Needham, cette pensée non-manichéenne est destinée à jouer grâce à la médiation de Leibniz. Needham voit dans un certain style de pensée et de symbolisation en Chine ancienne, d'étonnantes analogies avec la pensée scientifique la plus moderne. Incapable de produire la science classique, les Chinois auraient, d'après lui, envoyé maintes flèches vers l'endroit où devaient se tenir plus tard Niels Bohr, Max Planck, Albert Einstein et bien d'autres. Et cela parce qu'ils ont pu échapper à cette schizophrénie typiquement européenne qui nous a rendu inaptes pendant des siècles, à penser autrement que dans les termes du matérialisme mécanique ou du spiritualisme thélogique platonicien. — Vilma Fritsch, La Gauche et la Droit, p. 18.
[8] L'Abbé Lemaître publia cette théorie d'un univers en expansion dans un article des Annales de la Sociéte scientifique de Bruxelles... — Pierre Rousseau, Histoire de la Science, p. 763.
[9] Le 23 juillet 1847, date mémorable dans les Annales de la science, il présenta son premier mémoire à la Société de physique de la capitale allemande.
Dans ce mémoire, intitulé: Sur la conservation de la force, Helmholtz se posait dans son ensemble le problème de la thermodynamique. Puisque travail, chaleur, électricité peuvent se changer l'un dans l'autre, y disait-il, c'est que ce ne sont là que des formes différentes de quelque chose qui ne varie pas, quelque chose que nous voyons tantôt sous forme de chaleur, tantôt sous forme de lumière, tantôt sous forme de travail mécanique, d'énergie chimique ou
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét