Thứ Hai, 8 tháng 6, 2015

Giữa Đen Và Trắng



Thời cổ đại, triết gia Hy Lạp Aristotle đã liệt kê ra mười ba loại ngụy biện khác nhau. Trong đó có ngụy biện trắng -đen, hay như trong logic học có đề cập đến sự lựa chọn sai ( false alternatives ).
http://linglogic.wikia.com/wiki/False_alternatives

Nguỵ biện trắng- đen giống một cái bẫy, bẫy sập và kiềm tỏa tư duy con người trong đời sống tương tác chính trị xã hội. Ngụy biện này mang công thức logic học rất dễ hiểu và đơn giản, và nhân loại thường mắc sai lầm căn bản khi đưa ra lựa chọn và nhận định.

Đại loại, ngụy biện đó dựa trên dạng suy luận mà trong đầu người đó đã có mặc định sẵn những khả năng và sự việc đối lập nhau, qua đó người lập luận đưa ra một nhận định nếu không phải A thì tất nhiên phải là B, nếu không phải B thì tất nhiên phải là A, tuy rằng, trên thực tế vẫn có C, D,E, vv….

Hay, nếu A xấu thì hiển nhiên B phải là tốt, vì A và B đối lập nhau, trên thực tế, A xấu không hẳn B sẽ tốt.

Hoặc, nếu A là chính thể độc tài nào đó, thì B, chính thể đối lập với A ắt hẳn là chính thể tự do dân chủ, ngược lại, nếu B là chính thể tự do dân chủ thì A, hắt hẳn phải là chính thể độc tài.

Chẳng hạn, CSVN đối đầu với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa từ thời Ngô Đình Diệm đến thời Dương Văn Minh, song trên thực tế lịch sử đã chứng minh, Việt Nam Cộng Hòa chưa bao giờ được coi là chính quyền mang màu sắc tự do dân chủ cho dù dưới bất kỳ nhà lãnh đạo nào. Tuy nhiên, bọn ngụy ngục chống cộng vẫn ngày tháng giơ cao ngọn cờ vàng giẻ rách để tuyên dương giá trị tự do dân chủ dưới thời VNCH, đơn giản vì VNCH đối đầu với CSVN, và cờ vàng giẻ rách ba que là đối trọng đầy ý nghĩa thiêng liêng với cờ đỏ của CSVN.

Ngụy biện trắng- đen trong những quốc gia còn thần thánh hóa chủ nghĩa dân tộc, lòng yêu nước.

Đối với những cá nhân và cộng đồng sống trong quốc gia có quá trình chống giặc ngoại xâm lâu dài , hay trong những quốc gia có những chính thể độc tài sát máu thì người dân có lề lối suy nghĩ quan niệm rơi vào ngụy biện trắng đen dễ nhất, nhanh nhất và dễ thấy nhất.

Trải qua những quá trình lịch sử, người dân thường bị ám ảnh , đe dọa bởi thảm họa đô hộ của ngoại bang, từ đó họ đã tự huân tập thói quen chính đáng hóa , thậm chí thần thánh hóa quyền lực sức mạnh của kẻ cầm quyền. Tự nguyện làm nô lệ, làm con cừu cho  nhà nước chăn dắt với tâm thế tự hào, tin tưởng vào sức mạnh quyền lực của  nhà nước sẽ mang lại đời sống tự do hạnh phúc như chúng vẫn thường rêu rao qua phương tiện truyền thông.

Tệ hại hơn, là không thiếu những cá nhân tin vào chính nghĩa quốc gia mang niềm tự hào và sẵn sàng hy sinh tính mạng cầm súng chiến đấu với giặc ngoại xâm vì cái gọi là độc lập tự do, để rồi cuối cùng nếu bỏ mạng ngoài chiến trường thì là hy sinh cho tổ quốc, phục vụ cho tổ tò vò, nếu còn sống thì thành anh hùng , được tung hô ca ngợi nhưng khi nhận ra sự thật thì cũng đành ngậm ngùi vì thấy lý tưởng của mình đã bị phản bội,. Xương máu của bao nhiêu thanh niên đã ngã xuống vì ngộ nhận cái gọi là tự do độc lập, nhưng bọn cầm quyền là nhóm hưởng lợi, tự chúng nó thần thánh hóa chúng , tự chúng  cho rằng  có công và tự ca ngợi công lao thành quả mà thật ra, đó là xương máu, công sức của toàn bộ dân tộc.

Đơn giản là A: ngoại bang là xấu vì đô hộ và xâm chiếm, thì B, quyền lực, sức mạnh của Nhà nước là tốt và cần, cũng như A là ngoại bang, là xâm chiếm, là phi nghĩa, thì B, lực lượng quân đội cầm súng chống giặc ngoại xâm là chính nghĩa.

Nhưng trên thực tế, cái mà gọi là chính nghĩa đó thường là trò bịp. Sau khi kết thúc một cuộc chiến, đất nước tan hoang, tâm lý con người mệt mỏi và toàn bộ xã hội phải dốc sức xây dựng lại đất nước thì đó là thời điểm thích hợp để bọn cầm quyền thiết lập và tăng cường nền độc tài với công cụ đắc lực nhất là cảnh sát và quân đội
Quân đội và cảnh sát trước đó được dùng để chống lại ngoại bang, thì cũng sẽ được dùng để đàn áp những phong trào phản kháng đòi hỏi quyền lợi của dân chúng. Xin đừng quên vụ Thiên An Môn, cũng là quân đội được dùng để đàn áp, giết hại thường dân theo lệnh của bọn nắm quyền. Hàng trăm ngàn sinh viên biểu tình tại quảng trường Thien An Môn bị lực lượng quân đội xả súng giết hại , chỉ sau gật đầu của Đặng Tiểu Bình.



Hãy nhìn vào tấm gương điển hình của các nhà độc tài quân phiệt như Gaddafi, Saddam Hussien, những nhà độc tài đến từ Chile như Pinoche..., những tên độc tài này giống nhau một yếu tố dùng sức mạnh quân đội đàn áp, giết hại các phong trào đối kháng tôn giáo hay quan điểm chính trị để củng cố quyền lực của chúng

Tại Hàn Quốc, Chun Doo Hwan đã dùng cả cảnh sát và quân đội đàn áp phong trào dân chủ Gwangju (1 ), kết quả là 144 thường dân thiệt mạng, chưa kể thường dân bị thương và số lượng cảnh sát, quân đội bị giết trongsuốt quá trình đàn áp phong trào dân chủ được khởi xướng bởi Kim Dea Jung, đó là những con số ‘’ chính thức’’ (2 )
Những tên độc tài này trong quá khứ không ngần ngại sử dụng lực lượng quân đội bắn vào đám đông biểu tình, bắn vào người dân của chúng không chút do dự

Chủ nghĩa yêu nước thần thánh hóa từ nhu cầu thống trị của bọn cầm quyền, kết hợp với não trạng bị bó hẹp của người dân ,được đóng khung sẵn trong ngụy biện và nhận định giữa trắng và đen, giữa ta với địch , giữa chính nghĩa và phi nghĩa, giữa cảnh sát và tội phạm, giữa an ninh xã hội và bất ổn xã hội vẫn hiện hữu, miên viễn tại những xã hội độc tài và ngay cả những xã hội dân chủ.

Ngụy biện trắng- đen đối với an ninh xã hội và quyền lực cai trị của bọn quyền chính cùng với công cụ bạo lực là công an cảnh sát
Giữa công an và tội phạm đe dọa an ninh trật tự xã hội, thì trước hết, kẻ đe dọa tính mạng người dân và gây hoảng loạn trong xã hội là những kẻ xấu, những kẻ đó cần phải bị trừng trị để giữ cho xã hội được an toàn,để con người sống với nhau môt cách bình đẳng và không có sự chà đạp từ những kể mạnh và có tâm thế sẵn sàng phạm tội để đạt được mục đích.
Thế nên cần phải có sức mạnh quyền lực từ phía nhà cầm quyền để mang lại yên ổn tâm lý cho cộng đồng, và công cụ đắc lực thực hiện sức mạnh bạo lực đó chính là công an tay sai. Nhưng, nếu một ai trong đám đông tối dạ bị kiềm tỏa tư duy phải lựa chọn giữa trắng và đen thì họ sẽ chọn, A: tội phạm xấu, thì tất nhiên B, công an trấn áp và dẹp truy bắt tội phạm phải là tốt.

Hoặc là A: khủng bố là xấu, thì B: lực lượng an ninh quân đội phải tốt, vì phải tận thiện để bảo vệ an ninh xã hội

Nhưng trên những tờ báo độc lập không thiếu những vụ công an đánh chết thường dân vô tội rất dã man, ngay cả ở Mỹ, một quốc gia mà bọn chống cộng ca ngợi là tự do nhân bản hàng năm vẫn xảy ra hàng trăm vụ cảnh sát an ninh xả súng giết dân thường, mà đa số nạn nhân là những người da đen. http://rt.com/usa/180648-police-shootings-african-american/

Con người , với nhận xét thiếu lý tính đều cho rằng ít có nhà nước nào lại đàn áp, thậm chí giết người dân của mình, vì dù sao cũng là cùng dòng máu, cùng nòi giống và tiếp hưởng từ tiền nhân những giá trị văn hóa và giá trị xã hội.

Thế nên sự đe dọa từ bên ngoài bằng nhiều hình thức khác nhau, chẳng hạn những màn khủng bố giả địch là chiêu trò lợi hại của bọn nhà nước Mỹ và Tây phương. Thứ nhất, chúng đánh vào niềm tin của người dân rằng ít có nhà nước nào chà đạp, thậm chí giết người dân của mình, do vậy những kẻ đe dọa anh ninh xã hội phải là những kẻ đến từ bên ngoài , nếu không phải là nhà nước, tất nhiên, phải là khủng bố ( lại là ngụy biện trắng- đen ) nhằm mục đích gây hoảng loạn, sợ hãi trong dân chúng trước sự đe dọa an ninh từ những nhóm đến từ bên ngoài quốc gia lãnh thổ, qua đó bọn nhà nước quyền chính có lý do chính đáng xết chặt tự do chung của người dân, tăng cường lực lượng công an và quân đội, sẵn sàng đàn áp những cá nhân nổi dậy đối kháng khi cần thiết.

Ở đây, ta thấy một điều, bọn nhà nước tạo ra đen ( khủng bố ) để người dân chọn lựa trắng ( quyền lực nhà nước ) nhà nước, sẵn sàng chịu sự kiểm soát tự do cá nhân , tự do thân thể , đổi lại là được an toàn mà không mảy may, nghi ngờ chất vấn.

Trên đời không chỉ có A và B, cũng như không chỉ có hai gam màu đen- trắng. Chúng ta còn những gam màu xanh, đỏ tím vàng và rất nhiều màu sắc khác. Hiểu được như vậy, tức đã đặt chân trên con đường đến với tự do, thứ tự do thực sự không bám víu vào định chế quyền lực của bọn nhà nước, cảnh sát và quân đội, có như vậy chúng ta mới có thể hy vọng trở thành những công dân của địa cầu, sẵn sàng bước qua khỏi gianh giới của quốc gia, chính nghĩa dân tộc để hướng tới nền tự do chung của nhân loại.

Nguyễn Mạnh Chung


(1). Phong trào đấu tranh dân chủ của sinh viên Hàn Quốc diễn ra vào đầu tháng 3 năm 1980 đến tháng 5 năm 1980 tại thành phố Quang Châu ( Gwangju ), Hàn Quốc. Ngày nay, người ta thường nhắc đến phong trào dân chủ Gwangju với chủ đích nhắm tới sự kiện này.
(2 ) Trích từ ‘’ Hàn Quốc, Dân Chủ Và Độc Tài’’ của Hồ Sỹ Quý, Viện Nghiên Cứu Đông Á.

Chủ Nhật, 7 tháng 6, 2015

còn đâu Ô thước chở sầu





Ta chờ em đã mấy mùa Ngâu
mà sao xây mãi nhip cầu không đâu
có phải vì mưa quá nặng sầu
nên bầy Ô thước đớn đau bỏ mình

Ta chờ em lạc cả bóng hình
mà sao mưa vẫn vô tình đổ Ngâu
có còn đâu Ô thước chở sầu
cho Ngâu nát cả nhịp cầu nhân duyên

Đêm mưa say một giấc mơ tiên
tỉnh ra bảy sắc đảo điên cầu vồng
nhân duyên trời định có hay không
cho Ngâu trút mãi nhớ mong nhịp cầu

"Ở một thế giới khác" - Chùm thơ của Nguyễn Nhật Huy




Tác giả trẻ Nguyễn Nhật Huy




NHỮNG ĐỨA TRẺ HÌNH VUÔNG



Không còn thửa ruộng nào cho lũ trẻ chăn trâu
Tuổi thơ thả diều trên cánh đồng máy tính
Không còn con dế nào hát về nhiệm màu
Đôi mắt tròn
lăn trên màn ipad
Câu chuyện cổ cũng thành nhàn nhạt
Bà mẹ ru con bằng khúc nhạc thị trường
Những đứa trẻ vuông
lớn lên bằng nỗi niềm góc cạnh.



NÓI VỚI CON PHIÊN BẢN FACE



Rồi sau này tôi nói với con tôi
Con hãy lên facebook mà chơi
Nhưng nhớ like một cách thành thực
Đừng vì lấy lòng ai mà click chuột
Cũng đừng hùa vào đám đông mà thóa mạ con người
Đừng lột đồ cho họ ném đá con ơi
Bởi face hay đời cũng đều cần tự trọng

Cha sẽ dạy con
Đừng để trang quảng cáo nào lừa lọc
Họ giật tít mà kiếm ăn trên những nỗi buồn
Và nhớ điều này hơn con
Đừng đem sỉ nhục vào những status con nhé

Sống trên đời là cần mạnh mẽ
Nhưng không phải dìm nhau cho thỏa giận hơn
Và nếu một ngày con muốn làm ơn
Cứ viết đi những bao dung thật đẹp.



Ở MỘT THẾ GIỚI KHÁC



Ở một thế giới khác
Người ta yêu thường bằng hành động nhiều hơn
Và những đứa trẻ không bao giờ bị miệt thị

Ở một thế giới khác
Không có ánh mắt thăm thẳm nào
Đức tin dắt con người đến thung lũng màu xanh
Những người nghèo vẫn còn nhưng không lừa dối
mà tự trọng với vốn có của đời

Ở một thế giới khác
Những người giầu không quá chật chội
Khi sẻ chia một chút tiếng cười
Người đi chợ
mua thơ chứ không phải oto hay iphone hàng hiệu

Ở một thế giới khác
khi tắc đường người ta biết nhường nhau

Một thế giới khác ở đâu
một thế giới khác
thánh thần không biết

Hình như mình đã ngủ mệt
Chuông hẹn giờ
thức dậy đi thôi.



CHỢT NGHĨ



Đêm nằm chợt nghĩ, một ngày khi từ giã cõi đời
Lời mình nói sẽ là điều gì
Không muốn nghĩ
nhưng thanh âm cứ dội từ đâu đó

Mình sẽ nói gì
Chắc không phải là lời tỏ tình
Cũng không phải kiểm điểm cuối năm
Không phải...nhà lầu, xe hơi...không phải....

Mình sẽ nói gì trước cái chết
Khi cả cuộc đời theo đuổi những không đâu
Mình không muốn nghĩ đâu
Mình sợ
Cuối cuộc đời trên nấm mồ xanh cỏ
Chỉ có một nỗi buồn lớn hơn bia mộ
Và gạch nỗi trống không hai con số
Có ai nghĩ bao giờ
Sẽ nói gì với bia đá của mình

Trịnh Công Sơn- Đặng Tiến




Báo Văn Học số 39, tháng 4-1989, có ghi lại một buổi tọa đàm về bộ truyện Mùa Biển Động của Nguyễn Mộng Giác, nhà văn Nhật Tiến đã phát biểu ngoài đề :

"Nói về tác phẩm văn nghệ mà ảnh hưởng rõ nét nhất, tôi nghĩ có lẽ mình chỉ có nhạc Trịnh Công Sơn, nó gây cái tâm lý phản chiến. Còn tác phẩm văn thơ của chúng ta nó chỉ bàng bạc thôi". Anh còn khẳng định : "nó đi thẳng vào đời sống". Nhà văn Hoàng Khởi Phong vùa vào: "Riêng với nhạc Trịnh Công Sơn, tôi nghĩ có đi thẳng vào lòng người" (tr. 55).

Trong văn chương, ngoài đề có khi là lời tâm huyết. Nhật Tiến nổi danh về lòng ngay thẳng và nghĩa khí. Hoàng Khởi Phong là cựu đại úy quân cảnh, một binh chủng mà Trịnh Công Sơn thường phải dè chừng ...

Cái thời làm nhạc phản chiến ... thời đại bác ru đêm ...

Dùng chữ nhạc phản chiến, theo kiểu anti-guerre, anti war, là nói cho gọn, và đã có người phản bác, cho rằng mông lung, vì người nghệ sĩ chân chính nào mà không chống chiến tranh ? Ngoài ra, những ca khúc Trịnh Công Sơn tố cáo chiến tranh, gào gọi hoà bình còn bày tỏ khát vọng thống nhất đất nước, tình tự dân tộc, tình yêu nhân loại, niềm tin vào cuộc đời, tình người và hạnh phúc lứa đôi. Những tình cảm này đan quyện vào nhau. Hơn nữa một số nhạc tình thuần tuý, nội dung không quan hệ gì đến chiến tranh, khi nghe trong đám đông, cũng tạo nên một cảm giác thời thế, từ một thời phản chiến.

Vì vậy, gọi là nhạc "phản chiến" là nói tắt, trong điều kiện bất túc của ngôn ngữ. Gọi cách khác, là ca khúc tranh đấu cho hoà bình, tuy dài dòng mà vẫn không đủ ý.

Nói chung, những ca khúc "phản chiến" của Trịnh Công Sơn gia tăng số lượng và cường độ dài theo cuộc chiến, đồng thời cũng chuyển mình theo từng giai đoạn ngắn của thời cuộc thập niên 1963-1973. Nhưng là tiếng nói tự phát, phản ứng tự nhiên của một cá nhân, một công dân, không thuộc đảng phái hay tổ chức chính trị nào. Đây là điều kỳ lạ trong hoàn cảnh chính trị thời đó và chính nó đã tạo ra hào quang của Trịnh Công Sơn: người ta hát, và yêu Trịnh Công Sơn, tạo ra hiện tượng Trịnh Công Sơn, một là vì ca khúc của anh đáp ứng lại những khát vọng của thời đại, hai là người nghe, trực cảm rằng những lời ca ấy không mang một ý đồ chính trị nào. Bây giờ, hơn ba mươi năm sau các sự cố, nghe lại ca khúc Trịnh Công Sơn, so sánh với những yêu sách thời đó, chúng ta có thể tin được vào chứng từ của họa sĩ Bửu Chỉ, bạn thân với Trịnh Công Sơn trong nhiều giai đoạn, trước và sau 1975,

"Tắt một câu, trong dòng nhạc phản chiến của mình, Trịnh Công Sơn đã chẳng có một toan tính chính trị nào cả. Mà tất cả làm theo mệnh lệnh của con tim mình (...). Trái tim nhân ái, nhạy cảm, chỉ biết nói lên những cảm xúc nồng nhiệt của mình đối với quê hương, dân tộc, dù thiếu vắng một thái độ chính trị, nhưng trung thực. Nghĩa là tự đáy lòng mình thì mình nói".(1)

Bửu Chỉ đã tham dự vào Phong Trào Sinh Viên đấu tranh cho hòa bình, trực diện chống đối chính quyền Sài gòn, bị bắt 1971 và chỉ được phóng thích năm 1975. Anh sinh hoạt với Trịnh Công Sơn tại Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên những năm 75-79, cho đến nay vẫn được xem như là một tiếng nói trung thực. Khi Bửu Chỉ nhận thấy - hay thật ra là phản ánh một dư luận - cho Trịnh Công Sơn là "thiếu vắng một thái độ chính trị, nhưng ..." thì chúng ta có thể hiểu thêm được một hoàn cảnh, để từ đó tìm hiểu vị trí Trịnh Công Sơn trong thế sự, giữa những âm thanh và cuồng nộ.

Và phải chăng vì chỉ viết "theo mệnh lệnh của con tim", chứ không theo một thứ mệnh lệnh khác, mà ngày nay những ca khúc tranh đấu của Trịnh Công Sơn, dù đã đóng góp lớn lao vào biến chuyển của đất nước, đã không được in lại, hát lại trong nước, như một số tác phẩm khác, của các vị Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn, v.v. Và những văn bia, những kỷ yếu chính thức ghi lại thành tích cách mạng thời đó, ngày nay cũng không nhắc nhở gì đến Trịnh Công Sơn.

Ngoài ra, nếu nhạc thời thế của Trịnh Công Sơn xuất phát từ cảm xúc, thì ta có thể lần theo lịch trình sáng tác để tìm đến những biến chuyển trong tâm tư tác giả trước thời cuộc sôi động lúc đó. Tuy nhiên chúng tôi khó nắm chắc thời điểm thành hình của từng ca khúc, dù đã cố gắng. Chỉ mong đề xuất những nét chính.

Sau đệ nhị thế chiến, nhiều tư trào hoà bình trên thế giới đã tạo ra giòng thơ nhạc phản chiến như bài Barbara, thơ Prévert, Kosma phổ nhạc, đã thịnh hành tại Miền Nam những năm 1950, với lời ca thật mạnh "ôi ngu xuẩn chiến tranh" nguyên văn tiếng Pháp khá tục "quelle connerie la guerre". Tiếp đó, là những bài hát phản chiến thô bạo của Boris Vian đã vang dội một thời trong tuổi trẻ Trịnh Công Sơn. Theo sau là nhạc phẩm của Bob Dylan và Joan Baez. Chúng tôi đã nhắc qua điều này trong một bài trước đây(2) .

Có lẽ những suy nghĩ về dân tộc, đất nước, số phận con người trong chiến tranh đã manh nha từ lâu ở Trịnh Công Sơn, và đã được khơi động từ những biến cố tại Huế và miền Trung năm 63, mà bạn bè anh đã tham gia tích cực và sôi nổi. Bản thân Trịnh Công Sơn không dự cuộc trực tiếp, nhưng khó có thể nói là không giao động. Sau những bản nhạc tình đã nổi tiếng, thì 1964, Trịnh Công Sơnđưa vào Lời Mẹ Ru một vài âm hưởng xót xa, báo hiệu cho những ru khúc đau thương về sau :

Lời mẹ ru con nghe ra nỗi niềm
Đời mẹ ru con mây kia cũng buồn
Con ngủ trên mây
Tiếng khóc ban đầu còn đau, còn đau
Ru con khôn lớn ...Con Rồng cháu Tiên
Một đời ru con, nên mắt ưu phiền


Về thời điểm, tư liệu của Hoàng Nguyên Nhuận, bút danh của Hoàng văn Giàu, xác nhận "năm 1963, trong lúc anh chị em chúng tôi lận đận trong tù, sau chiến dịch Nước Lũ thì Trịnh Công Sơn vẫn còn mơ màng Nhìn Những Mùa Thu Đi. Đến năm 1964, sau khi nhập Tuyệt Tình Cốc, thì Trịnh Công Sơn hầu như đã trở thành một người mới".(Bài viết tháng 10.1995, và tháng 8.2001).

Lối hát ru Việt Nam, như ru con Nam Bộ, thỉnh thoảng cũng có câu thắt thẻo ruột gan, nhưng ít khi diễn tả buồn đau trong thân phận làm người như ở Trịnh Công Sơn, càng về sau càng da diết.

Vết Lăn Trầm, 1965, là một ca khúc đậm đặc phong cách Trịnh Công Sơn, đau thương và huyền bí :

Vết lăn trầm vết lăn trầm
Hằn lên phiến đá nâu thêm ưu phiền
Như có lần chim muông hằn dấu chân
Người đi phiêu du từ đó chưa thấy về quê nhà
Người chợt nhớ mình như đá
Đá lăn vết lăn trầm
Từ cơn đau ấy lưu thân mỏi mòn
Ôi mắt thầm van xin lời thánh đêm
Bài ca dao trên cồn đá
Trên ngai vàng quê hương ...

Ca từ rệu rã, u hoài, xa vắng, nhưng cô đọng cả tâm giới Trịnh Công Sơn, lúc ấy và về sau. Về sau, sẽ có hằng vạn chuyến xe claymore lựu đạn, hằng vạn tấn bon trút xuống đầu làng, cũng chỉ là âm vang lăn trầm vết đá. Hoàng Phủ Ngọc Tường, bạn thân Trịnh Công Sơn đã tinh ý nhận xét :

"Vết Lăn Trầm bắt đầu tiếp cận nỗi bất hạnh của một tuổi trẻ bị cuốn hút vào cơn lốc của chinh chiến, và đây là bài hát mở đầu nội dung phản chiến của nhạc Trịnh Công Sơn" (3)

Chọn 1965 làm thời điểm cho nhạc thời thế Trịnh Công Sơn, còn có những lý do khác: đó là cao điểm của chiến tranh Việt Nam, thời của những Người Chết Trận Đồng Xoài, Pleime ... thời người Mỹ đổ bộ lên Miền Nam, bắt đầu ném bom miền Bắc. Cũng là cao trào tranh đấu miền Trung trước khi bị dập tắt vào năm 1966.

Thời đó, ca khúc Trịnh Công Sơn, nhạc tình và nhạc tranh đấu, được in ronéo, chuyền tay. Năm 1966, nhà An Tiêm xuất bản tập Ca Khúc Trịnh Công Sơn, Thần Thoại Quê Hương, Tình Yêu và Thân Phận, 12 bài, ngoài Tuổi Đá Buồn làm từ 1961, những bài khác làm vào 1965-1966, đều mang nội dung : thân phận trong chiến tranh.

Cuối năm 1966 và sang 1967, Trịnh Công Sơn đã sáng tác một loạt ca khúc chống chiến tranh nổi tiếng: Người con Gái Việt Nam Da Vàng, Đại Bác Ru Đêm, Tình Ca của Người Mất Trí, ...Tác giả tự ấn hành lấy, do đó không ghi năm xuất bản, thành tập Ca Khúc Da Vàng. Về sau, sau Mậu Thân, 1968, anh thêm 2 bài : Hát Trên Những Xác Người và Bài Ca Dành cho Những Xác Người, ghi là Ca Khúc Da Vàng 2, dự tính in trong tập Kinh Việt Nam, tự xuất bản 1968. Những bản in lại về sau, không thấy 2 bài này. Vậy ta có thể xem Ca Khúc Da Vàng gồm 12 hay 14 bài, tùy phương pháp.

Gần đây Khánh Ly có hát và phát hành ba đĩa hát CD lấy tên Ca Khúc Da Vàng I (1996), II (1998) và III (1999), mỗi CD gồm 10 bài, có đủ 14 bài da vàng chính danh. Những bài khác là nhạc phản chiến nổi tiếng của Trịnh Công Sơn.

Tập Kinh Việt Nam mở đầu bằng lời tựa, tác giả bày tỏ khát vọng hoà bình, viết 1968, có lẽ sau Mậu Thân và tin tức về hòa hội Paris ; tập nhạc gồm có 12 bài, bắt đầu bằng Dân Ta Phải Sống và khép lại với Nối Vòng Tay Lớn.

Năm 1970, dưới tên nhà xuất bản Nhân Bản, anh tự ấn hành Ta Phải Thấy Mặt Trời, gồm 11 bài, như : Việt Nam ơi Hãy Vùng Lên, Huế Sài Gòn Hà Nội, v. v.

Năm 1972, sau Mùa Hè đỏ lửa, anh cho in tập Phụ Khúc Da Vàng, vẫn dưới tên nhà xuất bản Nhân Bản, gồm 9 bài : Một Ngày Vinh Quang, Một Ngày Tuyệt Vọng, Xác Ta Xác Thù, Chưa Mất Niềm Tin. ...

Bửu Chỉ sau khi nhắc lại thư mục, đã ghi: "tổng kết 5 tập với 58 ca khúc, chưa kể những bài rời được sáng tác ngay trong những cuộc xuống đường, cùng thanh niên, sinh viên, học sinh Huế" (bài đã dẫn).

Trong một tiểu luận Cao học đệ trình tại Đại Học Paris 7, 1991, Michiko Yoshi, cũng là bạn , được Trịnh Công Sơn giúp đỡ và hướng dẫn, đếm được 69 bài phản chiến. Trên tổng số 136 bài làm từ 1959 đến 1972 mà cô ấy sưu tầm được, tỷ lệ là 51 %. Nếu chỉ tính từ 1965 đến 1972, tỷ lệ còn cao hơn nữa. Nghĩa là trong một thời gian dài, thời gian sáng tác khoẻ nhất, rung cảm chính của Trịnh Công Sơn là thời thế. Và ngược chiều, chính những ca khúc kêu gọi hoà bình đã làm nên danh tiếng Trịnh Công Sơn, đã tạo nên huyền thoại Trịnh Công Sơn, trong một thời điểm nhất định của miền Nam Việt Nam vào những năm 1966-1972.

Thời điểm sáng tác hay in ấn một nhạc bản không quan trọng bằng việc công chúng phổ biến, hưởng ứng những bài hát đó trong giai đoạn, hoàn cảnh nào. Chúng tôi ghi cặn kẽ thời điểm để làm tư liệu về sau.

Hoàng Nguyên Nhuận nhắc lại "nếu Huế là thánh địa của Phật Giáo và nếu bản nhạc Phật Giáo Việt Nam của Lê Cao Phan là nhịp đạo hành của thanh niên Phật tử, thì Trịnh Công Sơn chính là nhịp đập con tim của phong trào thanh niên trên đường vận động hoà bình, độc lập và an lạc cho đồng bào đồng loại" (b.đ.d) tại các thành phố miền Nam từ 1963 đến 1966.

Từ 1965, theo trí nhớ Đinh Cường, Trịnh Công Sơn mới trực tiếp "xuống đường" tham dự vào những buổi hát của sinh viên, học sinh Sài Gòn, bắt đầu từ khuôn viên trường Đại Học Văn Khoa. Sau đó Trịnh Công Sơn thường hát với Khánh Ly, từ 1967, theo lời Khánh Ly kể, cho đến sự cố nổ súng tại trường Đại Học Văn Khoa cuối năm 1967. Sau biến cố này, Sơn thôi đi hát "cho đồng bào tôi nghe" hát trước quần chúng đông đảo, chủ yếu là thanh niên, sinh viên Sài Gòn. Nhưng vẫn còn về hát cho sinh viên Huế cho đến 1970-1971.

Nhiều người đã nhắc đến giai đoạn này, nhưng ít ai còn nhớ cụ thể : Trịnh Công Sơn và Khánh Ly đã hát những bài gì. Michiko còn giữ cuộn băng thu lại một buổi hát cộng đồng, có lẽ một trong các buổi cuối cùng tại Quán Văn Sài Gòn, tháng 12 năm 1967, với cả không khí quần chúng:

Trịnh Công Sơn hát: Người Già Em Bé, Đêm Bây Giờ Đêm Mai, Ngày Dài Trên Quê Hương, Ngụ Ngôn Mùa Đông, Tôi Sẽ Đi Thăm, Đi Tìm Quê Hương, Người Con Gái Việt Nam Da Vàng.

Khánh Ly hát: Diễm Xưa, Mưa Hồng, Ru Em Từng Ngón Xuân Nồng, Gọi Tên Bốn Mùa, Còn Tuổi Nào Cho Em, Tình Ca Của Nguời Mất Trí, Xin Cho Tôi, Xin Mặt Trời Ngủ Yên, Tuổi Đá Buồn.

Trịnh Công Sơn và Khánh Ly song ca: Nhìn Những Mùa Thu Đi, Ca Dao Mẹ.

Chúng ta lưu ý đến nội dung xen kẽ của những ca khúc, được trình diễn trong các buổi hát công cộng, đông đảo đến hàng trăm, hàng ngàn người nghe hay trong những cuộc họp mặt bỏ túi giữa bạn bè. Tình khúc được hát giữa những bài chống chiến tranh, tự dưng cũng mang tác dụng "phản chiến". Đây là hậu quả tâm lý tự nhiên, mà ngày nay lý thuyết liên văn bản đã thừa nhận. Những bài hát ca ngợi tình yêu, tiếc thương hạnh phúc, những Diễm Xưa, Tuổi Đá Buồn bỗng nhiên mang một nội dung hòa bình. Từ đó xác định được trong sự nghiệp Trịnh Công Sơn bài nào là nhạc "phản chiến", không phải là việc đơn giản về mặt thực tế. Dù rằng về mặt sách vở, ta có thể đếm được 58 bài như Bửu Chỉ hay 69 bài như Michiko.

Làm sao em biết bia đá không đau...
Này em đã khóc chiều mưa đỉnh cao...
Tóc em như trời xưa đã qua đi ngàn năm...
Tuổi nào ngồi khóc tình đã nghìn thu...
Rồi mùa xuân không về, mùa thu cũng ra đi ...

Những câu hát, trích từ tiếng hát Khánh Ly thời 1967 ca ngợi tình yêu, nhưng có nhất thiết là tình yêu trai gái ?

Gọn hơn nữa : tình yêu như trái phá, là chuyện tình yêu, hay trái phá?

Về ý nghĩa, âm hưởng của một bài hát tuỳ thuộc vào bối cảnh, trong lý thuyết liên văn bản. Nhìn Những Mùa Thu Đi là một bản nhạc tình, không can dự gì đến thế sự. Nhưng Thái Kim Lan đã kể lại một kỷ niệm súc tích : Ngày 20/8/1963, chính quyền Sài Gòn tấn công vào chùa chiền khắp nước, chị bị bắt tại Huế cùng với nhiều thanh niên sinh viên Phật tử và nhiều người bị tình nghi, như Hoàng Phủ Ngọc Tường, tình cờ trong túi có mảnh giấy ghi bài hát:

"Huế dạo ấy đang độ vào thu, ban đêm mưa sầm sập trên mái ngói, buổi sáng sớm trời trong trẻo, một thứ trong suốt như đóng đinh vạn vật dừng lại ở một điểm cố định, cây bàng độc nhất trong sân đứng với mấy chiếc lá đỏ trên cành, chúng tôi ngồi tay trơn trên nền nhà, trẻ măng là mái tóc và vầng trán, trẻ măng là sự ôm ấp những lý tưởng, những hoài vọng, những ước ao, những chờ đợi của tuổi hai mươi - và chúng tôi đã đếm ngày tháng bằng Nhìn Những Mùa Thu Đi .."

Và trong tù, sáng trưa, chiều tối, ngày này qua ngày khác, các bạn trẻ đã huýt sáo hay ngân nga bài này.

"Trong đời tôi, đã nghe và đã hát một bài chưa bao giờ nhiều lần và trong một quãng thời gian dài liên tiếp trong 3 tháng như thế(...)

Có thể nói hành trình ca khúc Trịnh Công Sơn thực sự bắt đầu từ Nhìn Những Mùa Thu Đi chứ không phải Ướt mi dù Ướt Mi đã làm cho người ta biết đến Sơn" (4)

Chị nói vậy là chủ quan. Nhưng vô hình trung, đã tiết lộ một sự thật : Nhìn Những Mùa Thu Đicó thể là tác phẩm đầu tay, dưới dạng thức một bài thơ, làm từ 1957, Trịnh Công Sơn đã tự phổ nhạc nhiều lần, nhưng chỉ mới chép tay cho bạn bè. Do đó mà tình cờ nó nằm trong túi Hoàng Phủ Ngọc Tường đêm 20/8/1963, khi anh đang ngủ ở nhà thì bị công an đến bắt. Nếu không có sự cố, có thể là bản thảo sẽ bị thất lạc, như nhiều sáng tác của Trịnh Công Sơn, có thể lên đên 50 % trên tổng số.

Về nội dung bài hát, không phải chỉ một mình Thái Kim Lan nhận ra niềm u hoài của một thế hệ, khi hát và nghe trong hoàn cảnh đặc biệt. Bản thân tôi không tranh đấu, không tù tội gì, cũng đã cảm nhận được tâm sự của một lứa tuổi :

Gió heo may đã về
Chiều tím loang vỉa hè
...

Thương cho người rồi lạnh lùng riêng

Nó không tình lụy như Chiều tím chiều nhớ thương ai của thơ Đinh Hùng, Đan Thọ phổ nhạc, mà là vết bầm tím trong tâm tư một thời đại. Bây giờ tôi còn cảm động khi nghe lại bài hát, do chính Sơn hát cùng với Khánh Ly :

Chuyện chúng mình ngày xưa
Anh ghi bằng nhiều thu vắng
Đến thu này thì mộng nhạt phai

Tình và Mộng ở đây, không nhất thiết phải dính dáng gì đến phụ nữ.

Thêm một liên văn bản khác: Nguyễn Quốc Trụ trong bài viết tưởng niệm Trịnh Công Sơn, kể lại rằng cho đến khoảng 1966 :

"Chưa để ý đến nhạc Trịnh Công Sơn, nói rõ hơn, nó chưa thấm vào tôi.Phải khi đứa em tôi mất, tới lượt tôi vào Trung Tâm Ba Quang Trung, trong những đêm cận Tết, nằm trên chiếc giường sắt lạnh lẽo, một anh chàng nào đó, chắc quá nhớ bồ, cứ huýt sáo bài ỏTình Nhớ, gần như suốt đêm, thế là tiếng nhạc bám riết lấy tôi, rứt không ra. Lúc này tiếng nhạc của anh, đối với riêng tôi, qua lần gặp gỡ trên, như trút hết những âm tiết địa phương, và trở thành tiếng nói chung của Miền Nam, tức là của cả thế giới, vào thời điểm đó, khi cùng nói : hãy yêu nhau thay vì giết nhau. Bởi vì chưa bao giờ và chẳng bao giờ Miền Nam chấp nhận cuộc chiến đó. Chính vì vậy, họ lãnh đạm với chính quyền, ưu ái với Miền Bắc, vì họ đều tin một điều : Miền Bắc sẽ kết thúc cuộc chiến, và người Mỹ sẽ ra đi. Nhạc Trịnh Công Sơn nói lên tiếng nói đó.

Tính phản chiến của nhạc anh, chính là tính phản chiến của cả một miền đất" .(5)

Giữa một rừng than khóc ki khu, thì bài Nguyễn Quốc Trụ, nhanh, ngắn nhưng giá trị. Vì chính xác và dũng cảm. Ai đó nói: hình học là nghệ thuật lý luận đúng trên một hình vẽ ... sai. Nguyễn Quốc Trụ khởi đi từ một bản nhạc tình ... ngoài đề. Tình Nhớ thì can dự gì đến phản chiến? Bài hát đại khái :

Người ngỡ đã xa xăm
Bỗng về quá thênh thang
Ôi áo xưa lồng lộng
Đã xô dạt trời chiều ...

Nói về nhạc phản chiến , cứ gì phải dựa vào Đại Bác Ru Đêm ?

Một ví dụ liên văn bản nữa, bài Cõi Tạm, thường được nghe sau này,

Nhân gian về trọ nhiều nơi
Bâng khuâng là những đôi môi rất hồng

Là một câu hát nhẹ nhàng, vui tươi, nhưng gợi đau thương cho những kẻ đã từng biết tiền thân câu này :

Nhân gian về trọ nhiều nơi
Riêng đây là chốn chưa nguôi máu đào


Tác phẩm được làm năm 1973, hoà ước Paris đã được ký kết mà bom đạn vẫn tiếp tục rơi trên đất nước.

Nếu chỉ làm nhạc tình, thì Trịnh Công Sơn sẽ là Lê Uyên Phương hay Từ Công Phụng ; nếu chỉ làm nhạc đấu tranh Trịnh Công Sơn sẽ là Nguyễn Đức Quang hay Tôn Thất Lập ; nếu pha pha tình yêu và thân phận, Trịnh Công Sơn sẽ là Vũ Thành An. Nếu chỉ phản chiến, e chỉ hơn Nguyễn văn Đông.

Nhưng Trịnh Công Sơn đã tổng hợp một thời đại và xây dựng được một sự nghiệp riêng, gắn bó với vận mệnh đất nước.

Rào nhạc phản chiến Trịnh Công Sơn vào một ấp chiến lược, là việc không sát với thực tế xã hội. Trong thời gian 1967-1972, Sơn sáng tác khoảng 70 bài hát kêu gọi hòa bình, và khoảng một nửa được phổ biến rộng rãi. Nhưng những ca khúc thuần tuý thế sự đó đã được kết hợp với hàng trăm tình khúc khác, cùng phong cách, trong một hoàn cảnh xã hội và chính trị đặc biệt, đến với quần chúng thanh niên cùng tâm trạng. Những điều kiện đó đã hội tụ vào thời hoàng kim của kỹ thuật thu âm bằng máy ghi âm gọn nhẹ, từ băng cối chuyền sang băng cassette, phổ biến từ trong nước ra đến hải ngoại. Từ những Trung Tâm Băng Nhạc và ... Đài Phát Thanh Sài Gòn !

Nghệ thuật Trịnh Công Sơn xét trong toàn bộ, nội dung, hình thức, chủ đề, thể loại, hội với những điều kiện khách quan về chính trị, xã hội, kinh tế, kỹ thuật đã tạo danh tiếng Trịnh Công Sơn trong một thời gian kỷ lục, như Phạm Duy đã nhắc : "Tình khúc Trịnh Công Sơn ra đời, từ giàn phóng là Quán Văn được hoả tiễn Khánh Ly đưa vút vào phòng trà, rồi vào băng casette và chỉ trong một thời gian rất ngắn đã chinh phục được tất cả người nghe..So sánh với những tình khúc ba bốn chục năm qua, ngôn ngữ trong nhạc Trịnh Công Sơn rất mới" (6) .

Sở dĩ đi nhanh như thế vì nhạc tình yêu đã kết hợp với nhạc đấu tranh, được hát trực tiếp, hát cộng đồng. Tác giả hoà nhập vào quần chúng, rồi trở thành một hiện tượng phút chốc thành thần tượng. Đã có lúc thính giả mộ điệu xâu xé để chia nhau mỗi mảnh áo măng tô cũ rách của Trịnh Công Sơn, theo lối "fan" ở phương Tây.

Ngoài ra, hiện tượng Trịnh Công Sơn cũng đã thành hình qua vài yếu tố phụ : dáng người mảnh khảnh, nho nhã, bạch diện thư sinh làm người ta yêu mà không làm người ta sợ. Anh chăm sóc kỹ lưỡng cách ăn mặc, "sang" một cách kín đáo, "thàng" khi trình diễn. Nói năng nhỏ nhẹ, giọng Huế dịu dàng, trung lập, không phải là giọng Bắc Kỳ toàn trị, hay Nam Kỳ tự trị, mà với một giọng Huế trung dung, thường thường là phát âm đúng. Lối nói thân mật, tạo ra ảo tưởng ở nhiều người : mình là người thân thiết của Trịnh Công Sơn, không "nhất" thì cũng gần gần như vậy. Cái cảm giác "gần gần" không phải lúc nào cũng lành mạnh.

Lối sống đơn giản : cà kê bạn bè, khề khà quán sá. Thịnh thời 1967, đêm đi hát, khuya về, kê ghế bố ngủ với bạn bè ở hội Hoạ Sĩ Trẻ, sáng dậy ra quán đợi bạn đãi tách cà phê, mời điếu thuốc lá. Rượu chè, thuốc lá cũng là cách đến, cách ở lại với đời, đãi đưa bè bạn, dần dần tới chỗ đãi đưa số mệnh. Nghiện mà không ngập. Lữ Quỳnh, bạn thân, cho rằng Sơn không nghiện. Nói thế là để bao che, nhưng cũng có cơ sở.

Thêm vào hình ảnh Khánh Ly, "Ôi tóc em dài đêm thần thoại ..." , khi hát đi chân đất - nữ hoàng chân đất, la comtesse aux pieds nus - của một thời - giọng hát rũ rượi, da diết, diễn tả nỗi trầm thống vô vọng: "tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người". Hai người đi với nhau, tạo nên hình ảnh "đôi lứa", một đôi trai/gái trong tình bạn hồn nhiên, vô tội, nhắc lại trong giới thanh niên trí thức tiểu thuyết Đôi Bạn chưa xa của Nhất Linh. Cũng có quê hương, tình yêu, thân phận, nhiệm vụ với đất nước, trong đó, mùa thu cũng ra đi, mùa đông vời vợi, mùa hạ khói mây, tình yêu dấu chim bay. Lời ca như nhắc lại một cô Loan tựa cửa nhìn xa ... Mây vẩn từng không chim bay đi ... (Xuân Diệu).

Truyền thuyết uyên ương là một ước mơ cao đẹp của Á Đông ; nhưng giới hạn tình cảm trong vòng nam nữ, vợ chồng, tính dục. Chuyện Khánh Ly-Trịnh Công Sơn dường như không vậy. Ngày 8/4/2001, Khánh Ly kể lại "một mối liên hệ cao hơn, đẹp đẽ hơn, thánh thiện hơn là những tình cảm đời thường"(7) . Hình ảnh đôi bạn trẻ, một couple ở đây rất mới, đáp lại ước mơ hiện đại của một thế hệ thanh niên muốn phá vỡ quan niệm nam nữ thọ thọ bất thân còn đè nặng lên xã hội Việt Nam. Và muốn lìa bỏ kỷ niệm những mối "tình nghèo, anh cày thuê, em dắt trâu" kiểu đồng hương Ngọc Cẩm-Nguyễn Hữu Thiết.

Trong dư luận, họ cũng không bị nghi ngờ hay tai tiếng, dù người đời có kẻ thắc mắc, tò mò. Những tâm hồn phóng khoáng và "hiện đại" thì gạt phăng đi loại "tò mò bệnh hoạn" ấy. Và đặc biệt Trịnh Công Sơn là người tăm tiếng mà không tai tiếng. Thính giả yêu thương ái ngại cho anh chàng nhạc sĩ tài hoa ngần ấy mà bao giờ cũng bị tình phụ mà không nghe nói phụ tình : Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ. Mà sự thật cũng gần gần như thế, dù rằng không ai đi tìm hiểu vì sao mà "lúc đưa em về là biết xa nghìn trùng".

Hơn nữa, ca khúc Trịnh Công Sơn gây được tiếng vang là nhờ giọng hát Khánh Ly: "Một giọng hát có thể xuống rất thấp, rất trầm, mà cũng có thể lên rất cao, một giọng hát khoẻ, dài hơi, giàu nhạc tính. Khánh Ly bao giờ cũng hát đúng giọng, đúng nhịp, ngân, láy đúng lúc, cách phát âm tiếng Việt chuẩn xác - càng về sau càng già giặn thêm - một giọng hát ngay từ thời ấy, tuy vẫn còn nguyên cái chất tươi mát, hồn nhiên của tuổi đôi mươi, nhưng dường như đã mang nặng sầu đau ; một giọng hát vừa có thể lẳng lơ một cách đáng yêu, trong các bản tình ca lãng mạn, lại vừa có thể phẫn nộ, bi ai, trong các bài ca phản chiến"(8) , như nhận xét của Văn Ngọc. Bạn Văn Ngọc, theo sự hiểu biết của chúng tôi, là một người uyên bác về âm nhạc.

Cuối cùng, Trịnh Công Sơn và Khánh Ly thường đi hát cộng đồng, nghĩa là hát không công, không lấy thù lao, chủ yếu là cho thính giả trẻ, tại các giảng đường, giáo đường. Họ tạo, hay tái tạo, một hình ảnh lý tưởng cho nghệ thuật, nhất là nghệ thuật ca hát - mang theo lý tưởng nhân đạo, tình yêu và chính trị. Trong khi đó, đa số nhạc sĩ khác hát để lấy ca-sê, lấy tiền, hay lãnh lương. Có khi lãnh lương để hát "cho đồng bào tôi nghe".

Trong một dư luận - và hoàn cảnh xã hội - thuận lợi, nhạc Trịnh Công Sơn còn đáp ứng lại nhiều nhu cầu tâm lý khác của Miền Nam, bằng nội dung và nghệ thuật trong ca khúc.

*

Tâm lý thời đó, chủ yếu là chống chiến tranh.Và nói như Phạm Duy, ai mà chẳng phản chiến, cứ gì là Trịnh Công Sơn ?

Như vậy, từ đâu mà nhạc kêu gọi hoà bình của anh lại tạo nên hiện tượng? Phải chăng từ vị trí Trịnh Công Sơn chọn lựa để tố cáo chiến tranh. Không nên nói giản lược: tự quan điểm nhân dân, vì nhân dân là một khái niệm chính trị khó định nghĩa, thậm chí còn bị nhân danh trong những mưu đồ đen tối.

Ở Miền Nam, vào thời điểm 1970, người dân không còn tin cậy vào chính quyền và những tổ chức chính trị. Họ có tín ngưỡng, nhưng không tin cậy vào tôn giáo như là những thế lực chính trị. Thiên Chúa Giáo, Cao Đài, Hoà Hảo, đã từng được võ trang từ thời chiến tranh Việt Pháp. Phật giáo nổi tiếng chủ trương bất bạo động, cũng có thời kỳ được vũ trang, dù chỉ trong giai đoạn ngắn, 1965 ; đường lối đưa bàn thờ Phật xuống đường không phải là ai cũng tán thành. Phạm Duy đã hát những bài Tâm Ca tâm huyết "tôi sẽ hát to hơn tiếng súng bên bờ ruộng già" nhưng mặc bà ba đen đứng chung với những đoàn Xây Dựng Nông Thôn. Tôn Thất Lập Hát cho Dân Tôi Nghe, thì không mấy người hát theo, vì "dân tôi" nhận ra tiếng gọi đến từ phía "bên kia".

Sinh trưởng từ một gia đình Phật giáo, Trịnh Công Sơn vẫn giữ khoảng cách với các cao trào chính trị do Phật giáo chủ động, dù về sau, Hoàng Nguyên Nhuận có khẳng định "phong trào đấu tranh của thanh niên sinh viên học sinh Huế bùng nổ tự mùa Hạ 1963, đã đẻ ra Trịnh Công Sơn"(bđd). Thời điểm đó, lời nhạc Trịnh Công Sơn mang từ vựng Thiên chúa giáo nhiều hơn từ vựng Phật giáo: như giáo đường, lời buồn thánh, vùng ăn năn, cát bụi, địa đàng ... Nhưng đây là chữ nghĩa văn chương nhiều hơn là rung cảm tôn giáo, gọi là khuôn sáo cũng được, dùng để đẩy đưa câu hát cho có vẻ "hiện đại". Khi cần phải khẳng định một thái độ chính trị giữa những biểu ngữ, gậy gộc thì Trịnh Công Sơn chọn lựa minh mẫn:

Đợi chờ yêu thương trên cây thánh giá
Đợi xoá sân si dưới bóng bồ đề

(Đợi có một ngày),
trong Phụ Khúc Da Vàng, 1972

Không theo giáo phái, Trịnh Công Sơn không phải là người đảng phái. Không nghe anh nói, mà không nghe ai nói là anh dây dưa với một chính đảng nào, cái đảng của Miền Nam đã để lại kỷ niệm hãi hùng gần nhất là đảng Cần Lao. Còn đảng Cộng Sản thì không dễ gì tiếp xúc, mà nói thực tình, nghe qua đã ớn.

Anh Nguyễn văn Trung, trong nhiều bài báo trên Văn Học gần đây, có nhắc lại giai đoạn đó và cho biết các "phong trào sinh viên thời đó do Thành Đoàn, một tổ chức của Đảng Cộng Sản, chỉ đạo, triển khai điều khiển" (9). Lê văn Nuôi, chủ tịch Tổng Đoàn Học Sinh Sài Gòn hồi đó kể lại rằng, trong ban Chấp hành Tổng Hội Sinh Viên, nhiệm kỳ 69-70, gồm có 7 người thì đã có 4 là người của Thành Đoàn, như chủ tịch Nguyễn văn Quỳ, phó chủ tịch Huỳnh Tấn Mẫm. Và có lúc phó tổng thống Kỳ đã cho mượn nhà làm trụ sở (10).

Tuy nhiên, anh Trung không nhắc, có lẽ vì là ngoài đề, vô tình thôi, là những phong trào đó phát triển được là có sự khuyến khích của người Mỹ, với những Chương Trình Công Tác Hè, Lên Đường, Quận 8, v.v, chưa kể những tổ chức Thanh Niên Thiện Nguyện, Thiện Chí "nằm vùng" từ trước.

Và dĩ nhiên, chính sách của người Mỹ được chính quyền Sài Gòn thực thi. Đó là thời Nguyễn Cao Kỳ, với nội các chiến tranh, chính phủ của Người Nghèo, của người Trẻ, làm Cách Mạng Xã Hội, v.v.Ông Kỳ muốn lấy lòng thanh niên trí thức tiến bộ, trong đó có Nguyễn văn Trung. Ông Kỳ lại muốn dựa vào khối Phật giáo ấn Quang, và có cảm tình với đám tranh đấu miền Trung mà ông đã thẳng tay đàn áp năm 1966. Hoàng Nguyên Nhuận mới đây còn nhắc lại (11) .

Riêng với Trịnh Công Sơn, tướng Kỳ lại có tình riêng, một cảm tình nghệ sĩ liên tài. Ngoài những chai rượu, ông còn cho đi máy bay về Huế để ... hát nhạc phản chiến !

Dài dòng như vậy để người đọc thấy tại sao một nhạc sĩ không hợp lệ quân dịch, lại có thể ngang nhiên hát nhạc phản chiến tại trường Đại Học Văn Khoa, ngay trước dinh Độc Lập, và dõng dạc : gia tài của Mẹ một bọn lai căng, gia tài của Mẹ một lũ bội tình.

Trịnh Công Sơn sống giữa những tranh chấp chính trị mà không dính líu đến chính quyền hay đảng phái, giáo phái, phe phái. Mặc dầu anh thích bạn bè, ưa đàn đúm.

Quần chúng biết ngay điều đó. Chúng ta ngày nay mất công nghiên cứu văn bản, khổ tâm truy tầm tư liệu để tìm hiểu, chứ quần chúng thì họ rất nhạy bén, và nhận ra đâu là tiếng nói vô tư, ngay thật, đâu là tiếng nói có dụng ý, mưu đồ.

Đây là lý do chính giải thích sự thành công nhanh chóng của Trịnh Công Sơn, một sớm một chiều đã thành hiện tượng.

Ví dụ bài Tình Ca Của Người Mất Trí, 1967, đã được tiếp nhận và truyền bá tức khắc :

Tôi có người yêu chết trận Pleime
... chết ngoài Hà Nội
... chết không hận thù
Nằm chết như mơ ...

Quần chúng hiểu ra ngay biểu tượng "mất trí", một bài hát không có lập trường theo bên này, hay được chỉ đạo từ phía bên kia. Lời ca dội vang chiến sự, nhưng không có mưu đồ, quả là lời người mất trí. Mất trí là mất tất cả, không còn gì, ngoài cái trí của mình, của riêng mình. Cái trí xa lìa thực tại, bị sa thải ra ngoài thực tại. Trí tuệ ấy chỉ yêu Một Người, nhưng người yêu duy nhất đã chết trên khắp chiến trường, chết mọi kiểu, mọi cách, thậm chí nằm chết như mơ. Chết như mơ ?

Người ta thường nói: đẹp như mơ, chứ ai nói chết như mơ.

Tinh nghịch đổi vài chữ, câu hát vẫn hợp lý, vẫn hay, dù ý nghĩa bị lật ngược :

Tôi có người yêu gặp tại Ba Gia
Tôi có người yêu vừa mới đêm qua
Yêu thật tình cờ, yêu chẳng hẹn hò
Yêu chẳng thề nguyền hạnh phúc như mơ

Lật ngược hay xếp xuôi, tỉnh trí hay mất trí, tình ca hay chiến ca, ai biết đâu là đâu.

Cũng như bài sau này: Hát Trên Những Xác Người, làm sau Mậu Thân 1968 :

Mẹ vỗ tay reo mừng chiến tranh
Chị vỗ tay hoan hô hoà bình
Người vỗ tay cho thêm thù hận
Người vỗ tay xa dần ăn năn ...

Không biết phải giải thích ra sao, ngoài cơn điên loạn của một thời đại.

Nói về những oan khốc chiến tranh, Trịnh Công Sơn đã có lời nhập đề tưng tửng :

Đại bác đêm đêm dội về thành phố
Người phu quét đường ngừng chổi lắng nghe


Nghe như là nghe nhạc, nghe quen như câu dạo buồn. Nhạc không lời, một loại romance sans parole. Thậm chí: đại bác như kinh không mang lời nguyện.

Đại bác như kinh ?

Bài hát kết thúc bằng cụm từ có mẹ có em. Cũng như những thành ngữ: có mẹ có cha, có anh có em, có vợ có chồng, có mẹ có em, diễn tả cảnh sum họp, ấm cúng, nhưng ở đây là một đống xương thịt bầy nhầy :

Từng vạn chuyến xe claymore lựu đạn
Hàng vạn chuyến xe mang vô thị thành
Từng vùng thịt xương có mẹ có em

Sơn có những lời tưng tửng tàn độc như thế, hay đèn thắp thì mờ, ám ảnh cả một đời bạn mình là Bửu ý. Nguyên tác trong bài Đi Tìm Quê Hương (1967) :

Người nô lệ da vàng ngủ quên
Ngủ quên trong căn nhà nhỏ
Đèn thắp thì mờ ...

Dĩ nhiên, trong văn cảnh, câu hát có nghĩa: đèn không đủ sáng. Nhưng lìa văn cảnh, lời ca dội vào tim : đèn thắp thì sáng, chứ sao đèn thắp thì mờ ?

Nhẫn nhục trong những cơ cực trầm kha truyền kiếp, người phụ nữ Huế có câu hát não nùng :

Ví dầu đèn tắt, có trăng
Khổ thì em chịu, biết mần răng đặng chừ ?


Nhưng cũng không đoạn trường bằng đèn thắp thì mờ. Bây giờ Sơn đã đi xa, nhớ câu hát xưa mà thương những người bạn cũ, những người còn ở lại, trong cuộc đời mà Tản Đà đã định nghĩa: đời là cõi bắt con người phải sống.

Những ngọn đèn. Thắp thì mờ...

Năm 1968 là khúc quành trong thời sự Việt Nam, đồng thời là bước ngoặt trong nhạc cảm Trịnh Công Sơn. Có thể có những lý do riêng chung.

Trước hết, là sự kiện nổ súng đêm hát 20/12/1967, tại Quán Văn trong khuôn viên trường Đại Học Văn Khoa. Để tuyên bố kỷ niệm ngày thành lập Mặt Trận Giải Phóng, một nữ khán giả đã cướp micro ; nhân viên ban tổ chức giành lại, và bị bắn trọng thương. Cô gái lên xe Honda bỏ đi. Khoảng hai trăm thính giả - trong đó có nhiều quân nhân - đã dương mắt nhìn theo. Trịnh Công Sơn cùng với Khánh Ly, từ đêm đó không còn đi hát như thế tại Sài Gòn. Nhưng về Huế vẫn hát với sinh viên, đến 1970-1971 thì lại hăng hái tham gia tích cực những sinh hoạt cộng đồng tại Huế.

Do đó, vụ Tết Mậu Thân 1968, anh ở Huế, và đã ẩn thân ở thư viện Đại Học Huế. Phe cộng sản dường như có lùng kiếm, dĩ nhiên, để yêu cầu tối thiểu là làm một bài hát ca ngợi "Ngôi sao trên đỉnh Phu văn Lâu". Sơn đã không làm điều ấy, và ngược lại đã sáng tác hai bài tố cáo cảnh giết người, chôn người là Hát Trên Những Xác Người và Bài Ca Dành Cho Những Xác Người, với địa danh bãi chôn người chính xác : Chiều đi qua Bãi Dâu ... Sau đó Trịnh Công Sơn vẫn ở Huế, làm một số bài ca gửi vào Sài Gòn, mà sinh viên, thanh niên tiếp tục hát trong những phong trào xuống đường lúc đó rất sôi nổi.

*

Hiệu quả chính trị của vụ Tổng Công Kích 1968 là hoà hội Paris mở ra để kết thúc chiến cuộc. Khả năng hòa bình đã ló dạng và Trịnh Công Sơn chuyển hướng, làm những ca khúc có nội dung chính trị rõ rệt, trực tiếp kêu gọi hoà bình, với tập Kinh Việt Nam (1968) và Ta phải thấy Mặt Trời (1969).

Thời điểm này, họa sĩ Trịnh Cung, bạn anh, đã vẽ bức tranh nổi tiếng: Đứa Trẻ Du Ca, tay ôm đàn cầm, có con chim đậu trên mái tóc, ý muốn nói hòa bình đang về trong thôn xóm. Hoà bình là khát vọng chung của thanh niên, và người dân thời đó, mà ca khúc Trịnh Công Sơn đã vang vọng qua những tiêu đề : Ngày Mai Đây Bình Yên, Cánh Đồng Hoà Bình, Đồng Dao Hoà Bình. Và đặc biệt là Nối Vòng Tay Lớn.

Cho đến ngày hoà hội Paris, nhạc thời thế Trịnh Công Sơn chủ yếu là oán trách chiến tranh, một cách thụ động, tố giác những oan khiên vừa tàn khốc vừa phi lý, cảnh một chiếc xe tang, trái mìn nổ chậm, người chết hai lần, thịt da nát tan (Ngụ Ngôn Mùa Đông). Hay than vãn : ôi quê hương đã lầm than, sao còn, còn chiến tranh (Du Mục).

Trong Kinh Việt Nam, từ 1968, anh tích cực kêu gọi: Dân ta phải Sống, Dựng lại Người, Dựng lại Nhà, Hãy đi cùng nhau, và cụ thể hơn nữa Nối Vòng Tay Lớn. Hay ít nhất cũng là Chờ nhìn Quê Hương sáng chói và tra vấn Ta thấy gì đêm nay ? Sao mắt Mẹ chưa vui ? Đấy là tên những bài hát, những Hành Ca trong tham vọng trở thành một hành khúc Việt Nam:

Đoàn người đi miên man
Tìm ánh sáng cho Việt Nam
Tìm quê hương xưa
Giống Tiên Rồng, giống da vàng ...
Nối cho liền, nối hai miền ...

Nói là "quốc ca hụt" là đùa vui, nhưng cũng không sai bao nhiêu (giá dụ: nếu đám tranh đấu Miền Trung thành công trong dự tính ly khai năm 1965, rồi từ đó nắm được chính quyền Miền Nam, thì chúng ta e phải đứng nghiêm, nghe nhạc Trịnh Công Sơn khi chào cờ. Chuyện đã không xảy ra, nhưng không phải là không có khả năng xảy ra trong tuyệt đối).

Thời điểm 1968, hội nghị Paris thật sự đã tạo nên niềm hy vọng vô biên. Trịnh Công Sơn viết lời tựa Kinh Việt Nam :

Kinh Việt Nam là những tiếng kêu thương thống thiết, khởi sự tự một thực trạng máu xương ... Những bài ca được viết từ những hân hoan lắng nghe được trong lòng người. Đó là nỗi hân hoan của đám đông chờ mong ngày hồi sinh ...

Đã có điều gì không thật suốt hai mươi năm nay (...) Chúng ta, dù muốn dù không, bị biến thành những mũi tên định hướng được bắn đi từ những đồ hình huy hoàng tưởng tượng và ngắn hạn. Dân ta tàn phế hai mươi năm. Nước mắt và máu đã làm thành những con suối lớn chảy mòn tiềm lực sáng tạo (...)

Xin hãy dừng tay và cùng chờ nhìn một mặt trời tươi trẻ sẽ đựoc khai sinh ở phương đông(...)

Xin hãy dừng tay để được nghe ba mươi mốt triệu tiếng hò reo trong cùng một phút hân hoan (...)

Tiếng hát đã có thể cất lên để nuôi lớn ước mơ (...)

Một ước mơ vĩ đại, làm bằng những đau thương nối dài vào hoang tưởng ịmột ngày mà lòng mình vui sướng hơn muôn nghìn năm (Cánh Đồng Hoà Bình).

Bây giờ, nhớ lại mà thương cho một thế hệ thanh niên đã dở sống dở chết trong hoang tưởng :

Hai mươi năm hận thù đã qua
Hôm nay thấy mặt người đổi mới
Ta yêu Trời, ta yêu ta, ta yêu em
Ta yêu nắng hòa bình vừa đến ...
Hai mươi năm chờ đợi từng phút giây
Hôm nay tiếng Hòa Bình đã thấy
Trên môi người trên môi ta, trên môi em
Trên môi những người Việt nghèo khốn
Hai mươi năm chờ đợi đã lâu ...


(Đồng Dao Hòa Bình)


Hai mươi năm là tính từ 1948, hay trước đó nữa, nghĩa là không kể Điện Biên Phủ, không kể đến hiệp định Genève, dù sao cũng tạo được cảm giác hoà bình trong đôi ba năm. Nhưng nền hoà bình tạm bợ ấy đã phải mua bằng cái giá chia đôi Nam Bắc, mầm mống cho một cuộc chiến tranh khác, lâu dài hơn, thảm khốc hơn, gây nhiều thù hận hơn. Khi Sơn viết hai mươi năm nội chiến từng ngày, thì hằng triệu người đã hát, từ năm này qua năm khác, dù có lúc bị cấm. Hai chữ nội chiến, nếu không có lý, cũng có cơ sở tình cảm của nó. Và đáp ứng lại với tâm lý quần chúng không bị chính trị hóa, không bị giáo dục chính trị, những người dân đau lòng vì cảnh nồi da xáo thịt, mà không truy tầm đến căn nguyên phức tạp.

Có lúc anh bộc trực, chính xác hơn :

Hai mươi năm là xác người Việt nằm
Làm sao ta giết hết những đứa con Việt Nam ?
Xưa ta không thù hận
Vì đâu tay ta vấy máu ?


(Tuổi Trẻ Việt Nam) 1969



Không dễ dàng gì trả lời câu hỏi vì đâu, nếu không đơn giản lặp lại luận điệu bên này hay bên kia. Không có cuộc chiến tranh nào mà lý do đơn giản, chỉ có những đầu óc đơn giản. Thời Nam Bắc Triều, Trịnh Nguyễn phân tranh, Nam Hà Bắc Hà, cuộc chiến chưa chắc đã bắt nguồn từ những lý do đơn giản. Giữa lòng thế kỷ XX, hoàn cảnh càng phức tạp. Chiến tranh Việt Nam, khởi sự là dân tộc giành quyền tự quyết, chống ngoại xâm, nhưng cũng là chiến tranh ý thức hệ, nối dài biên giới chiến tranh lạnh, với sự can thiệp của nước ngoài. Nhưng đồng thời cũng có tính cách nội chiến :

Triệu người đã chết, hãy mở mắt ra
Lật xác quân thù, mặt người Việt Nam trên đó
Đi trên những xác người : bao năm thắng những ai ?


(Những Ai còn là Việt Nam) 1969

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn không nghị luận chính trị, vì nghị luận sẽ không thành bài hát ; anh chỉ nói lên cảm xúc :

Ôi bom đạn cày trên những xác
Ôi da vàng Việt Nam vỡ nát
Xương thịt đó thiêng liêng vô cùng

(Đêm Bây Giờ, Đêm Mai) 1967



Bây giờ lý luận rằng nguồn gốc của chiến tranh Việt Nam không phải là nội chiến là việc của người làm chính trị, phân tích "bản chất" theo chính kiến, "chính nghĩa" của mình. Người nghệ sĩ chỉ nói lên hiện tượng.

Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ phản chiến ; quần chúng có hai con đường đến với anh : một là đến với người nhạc sĩ, hai là đến với người phản chiến ; họ chọn con đường thứ nhất, nếu anh có tài ; họ chọn con đường thứ hai, nếu anh đáp lại tâm tư của họ. Còn những người đi tìm một đồng chí hay chiến hữu, thì dĩ nhiên là thất vọng rồi công phẫn.

Cả hai chính quyền Nam Bắc đã trả công hậu hĩ, và trả ơn đầy đủ cho những cán bộ "hát cho dân tôi nghe". Dân tôi không nghe, lỗi đâu phải tại "cánh vạc bay" ?



*

Từ 1968, trong những gào gọi hoà bình, thêm một ý tưởng hiện ra rõ nét, là thống nhất đất nước.

Hoà bình là một ước vọng của nhân sinh, ai ai cũng chia sẻ. Thống nhất là một đòi hỏi chính trị, người muốn thế nọ, kẻ muốn thế kia, đại khái qua hai câu hỏi : thống nhất bằng cách nào ; và ai chủ động thống nhất ? Trịnh Công Sơn nói lên niềm mơ ước công dân, và không trả lời hai câu hỏi chính kiến, cũng như nhiều nhạc sĩ khác : Phạm Đình Chương viết Hội Trùng Dương, Phạm Duy viết Con Đường Cái Quan, đều chia sẻ một nguyện vọng.

Khát vọng thống nhất đã bàng bạc trong những bản nhạc của Sơn trước đó :

Đêm sông Hương nhung nhớ
Ngày Cửu Long mơ, mơ thấy gì
Mơ một ngày Hồng Hà góp Hội Trùng Dương
Đây quê hương trông ngóng và mẹ chờ mong


(Lại Gần Với Nhau) (1966)



Nhưng phải đợi đến Kinh Việt Nam (1968) yêu sách ấy mới được diễn đạt chính xác :

Chờ ngày Việt Nam thống nhất

(Chờ Nhìn Quê Hương Sáng Chói)

Reo vui cờ thống nhất
Chân bước đi trên ba Miền

(Những Ai Còn Là Việt Nam)

Chính chúng ta phải có mọi quyền
Đứng lên đòi thống nhất quê hương

(Chính Chúng Ta Phải Nói)

Bắc Nam Trung ơi đoàn kết một miền

(Huế, Sài Gòn, Hà Nội)

Thậm chí anh đã hát rất quyền uy: Hỡi Ba Miền vùng lên Cách Mạng.

Nói Một Miền Rưỡi, thì không sao; nói Ba Miền là đã có vấn đề ; nói Hai Miền "vùng lên cách Mạng" sẽ còn nặng tội hơn nữa! ôi ! Sơn ơi là Sơn ơi !

Những bài hát rền vang khí thế. Quan điểm chính trị rõ nét, dù là tự phát, cũng có thể thành hình qua những thảo luận với bạn bè. Vì không dễ gì mà trong vài tháng, Sơn đã sáng tác được hằng chục bài hát đồng quy về một nội dung chính trị nhất quán.

Mưu cầu hoà bình đi đôi với ước mơ thống nhất là khát vọng chung. Và đến 1968, người dân thấy rõ không thể có hoà bình mà không có thống nhất. Không cần am tường chính trị cũng thấy điều ấy. Vài ba năm trước, những người thân thiết với Trịnh Công Sơn trong phong trào tranh đấu Miền Trung còn mơ tưởng: "tạm thời Nam Bắc làm hoà, để có lý do cho Mỹ rút chân ra khỏi Việt Nam. Miền Nam Trung Lập trong vòng hai mươi năm (...) Nam Bắc hiệp thương" (12 )như Hoàng Nguyên Nhuận đã tuyên bố trên báo Chuyển Luân.

Khi tại Paris hoà hội bốn bên đang tiếp diễn, thì trên danh nghĩa Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đã biến thành Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời. Rõ ràng là Nam Bắc thế vô lưỡng lập: muốn có hoà bình thì phải thống nhất Nam Bắc bằng cách này hay cách khác.

Cách nào đi nữa thì cũng dưới một màu cờ, do đó Trịnh Công Sơn đã hát: Ta thấy gì trong đêm nay ? Cờ bay trăm ngọn cờ bay ... Anh mong sớm Dựng lại Người, Dựng lại Nhà : tình ta bay theo sóng ngọn cờ ...

Không thể tránh được câu hỏi: ngọn cờ gì ? Thật tâm thì Trịnh Công Sơn cũng không biết là cờ gì. Trả lời câu hỏi đó, là thêm một lần chia rẽ, đau thương.

Nhạc sĩ rất bén nhạy, từ 1968 đã linh cảm :

Đêm nay hoà bình, sao mắt mẹ chưa vui
Nhìn quanh anh em không ai còn lại
Anh thầm gọi tên ai. Gọi tên ai ...
Anh đi trận về nghe lại chuyện kể
Ngỡ giấc mơ ...

(Sao mắt Mẹ Chưa vui)

Năm ấy, bài hát thành công nhất là Nối Vòng Tay Lớn:


Rừng núi dang tay nối lại biển xa
Ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà

(...)

Thành phố nối thôn xa vời vợi
Người chết nối linh thiêng vào đời ...


Nhạc điệu phong phú, hào hùng, phóng khoáng và lời ca vừa nhẹ nhàng vừa súc tích, nối liền con người với nhau, với đất nước, thành phố với thôn quê, quá khứ với hiện tại, người chết với tương lai. Nhà văn Nguyễn văn Thọ, một bộ đội "phía bên kia", kể lại rằng khi tiến quân vào Sài Gòn ngày 30/4/1975, nghe bài này anh đã chùng tay súng :

"Mặt đất bao la, anh em ta về
Gặp nhau mừng như bão cát quay cuồng trời rộng


Lời ca không phải là tiếng thách thức tử thủ. Lời ca không phải là tiếng bể máu như kết cục thường của chiến cuộc, lời ca khi ấy làm chùng xuống không khí thù hận và hằn học". (13)

Nhưng đây là chuyện về sau - nói ra đây -để thấy tác dụng của một khúc nhạc phản chiến.

*

Năm 1969, Bửu Chỉ kể lại: "thỉnh thoảng người ta lại nghe phong thanh đâu đó về một giải pháp hoà bình cho Việt Nam, rồi tại tắt ngấm...Phong trào đấu tranh hoà bình Việt Nam ở các đô thị lại bùng lên mãnh liệt" (Bài đã dẫn), nhạc khúc Trịnh Công Sơn gắn bó với hoàn cảnh, mang một nét mới : chính chúng ta phải nói : chính người dân Việt Nam phải có quyền quyết định về vận mệnh dân tộc, trên cơ sở hoà bình-thống nhất :

Khi tim người rực lửa cầu mong
Chính chúng ta phải có mọi quyền
Đứng lên đòi thống nhất quê hương
Quyết chối từ chém giết anh em
Chính chúng ta phải nói hoà bình
Đất nước này chỉ còn lại người điên


Tháng 8/1969, anh viết: "Hai mươi năm qua con người Việt Nam khốn khổ đã hiểu được thấm thía rằng không còn một nhân danh nào đủ ý nghĩa và xứng đáng để còn một chỗ đứng trên cái điêu tàn to lớn phủ ngập đời sống nơi đây nữa" (14)

Trịnh Công Sơn kêu gọi Ta Đi Dựng Cờ, Đừng Mong Ai Đừng Nghi Ngại. Lời ca hùng hồn, khẩu hiệu, có lúc đại ngôn: đã đến lúc cách mạng tiến lên. Bài Ta Quyết Phải Sống :

Còn sống xin các anh quyết còn cách mạng
Đời ta ta lo, xin xếp vũ khí ...

Quyết làm cách mạng và phải xếp vũ khí: nguyện vọng thành khẩn và ngây thơ của một nghệ sĩ giữa những thế lực vô minh, với hằng triệu tay súng mỗi bên, với pháo đài bay, xe tăng, hoả tiễn. Cách mạng, trong mơ ước Trịnh Công Sơn là cuộc đổi đời triệt để, tự bóng tối ra ánh sáng, từ xương máu ra hoà bình "một rạng đông mới sẽ được khai sinh. Nhựa mới sẽ luân lưu cuồn cuộn trong những thân thể Việt Nam"(14).

Trong Những Giọt Máu Trổ Bông, sau khi tính sổ hằng tỷ tỷ giọt máu đã chảy thành suối thành sông hay đã khô cằn trên đất nước, đã che khuất mặt trời, nhạc sĩ quyết định :


Những giọt máu đến ngày trổ bông
Nở hoà bình cho đêm vắng xôn xao tiếng người
Ngày dân ta đi dành lấy hoà bình
Ta phải thấy mặt trời


Và Mặt Trời là biểu tượng ánh sáng, hơi ấm, sự sống và phương hướng: phương Đông, phía mặt trời mọc: "Tuổi trẻ Việt Nam, trời sáng phương Đông". "Một mặt trời tươi trẻ sẽ được khai sinh ở phương Đông".Sơn có lần giải thích : người phương Tây, khi định hướng, dùng chữ orientation, nghĩa là nhắm hướng orient, phương Đông. Việt Nam là chiến trường giữa những thế lực mê chấp đến từ phương Tây. Trong khi đó, phương Đông nguồn cội của đức tin, là quê hương của hoà bình, hoà giải và hoá giải.

Anh và bạn bè anh ở Huế, trong giới Phật tử, đã tin như vậy, theo hồi ký gủa Giáo sư Erich Wulff khi ông kể lại vụ xe thiết giáp đàn áp dân lành tại Huế tháng 5/1963 mà ông đã mục kích. Ông nói về thanh niên Huế và chiến tranh: "Họ xem như là một cuộc chiến tranh tôn giáo (...)càng ngày càng cổ võ cho một nền văn hoá dân tộc mang tính cách Phật giáo và một sách lược chính trị trung lập"(15).

Tư tưởng Phật giáo tiềm ẩn nơi Trịnh Công Sơn, có lẽ đã khởi sắc từ ý thức chính trị, xã hội và văn hoá, trong một thời điểm nhất định. Do đó, tâm hướng về nguồn, về phương Đông, về Đạo trong nghĩa Phật giáo hay Lão Trang, ở Trịnh Công Sơn khác với Hơi Tàn Đông á nơi Vũ Hoàng Chương ba mươi năm trước, và cách nhau hai cuộc chiến tranh ; rồi ý hướng về Đạo, vài ba năm sau, từ 1973, sẽ đơm hoa kết nụ thành những đoá hoa vô thường trong nhiều ca khúc.

Phật tính là mạch nước ngầm trong tâm hồn Trịnh Công Sơn, gặp một hố bom, nó chợt Thấy Mặt Trời, và tuôn trào thành Nguồn Thơ Suối Nhạc.

*

Phụ Khúc Da Vàng,xuất bản 1972, gồm 9 bài, với Người Mẹ Ô Lý, bài hát tặng người Mẹ già đã gặp trong đoàn người từ Quảng Trị về Huế ; và Mùa áo Quan, tặng những thành phố Việt Nam, có một lần không còn bóng dáng con người, phản ánh chiến trường Trị Thiên khốc liệt những năm 1971-1972, với mặt trận Nam Lào, Đường 9, Cổ thành Quảng Trị, Mùa Hè Đỏ Lửa. Xa hơn nữa, trên khắp chiến trường miền Nam, đi đâu cũng thấy xác người Trị Thiên, theo lời Phan Nhật Nam : Kontum thì dân dinh điền, An Lộc là dân cạo mủ cao su, Bình Giả là dân Cam Lộ, Khe Sanh mới đến định cư. Những phận người nằm chết cong queo, chết vào lòng đèo, chết cạnh gầm cầu, chết nghẹn ngào mình không manh áo. Phan Nhật Nam "nhìn tận mắt những thảm cảnh trên vùng đất quê hương: một bộ xương trẻ con trong chiếc thau nhựa bạc màu ... Một người đàn bà đưa bàn tay trước từng miếng thịt, xoa trên chiếc đầu lâu của người chồng xấu số" (16)

Khi các phe phái hoà đàm tại Paris thì bom đạn vẫn ác liệt. Chiến xa miền Bắc đã tràn qua sông Bến Hải, mục tiêu vừa quân sự, vừa chính trị là bôi xoá tàn tích hiệp định Genève và vĩ tuyến 17, chứng tỏ chiến trường Việt Nam là một, trong khi chờ đợi nước Việt Nam là một.

Bề ngoài Trịnh Công Sơn vẫn hô hào "Chưa mất niềm tin, vì quê hương sẽ có ngày hoà bình (...), trong lòng nhau thấp thoáng bóng cờ chung". Nhưng ở thâm tâm anh đã bi quan lắm khi "đợi con kên kên trên cành nhỏ lệ":

Bao nhiêu năm chờ đợi
Oán thù là khí giới
Trong con tim lời nói yêu thương
Đã mất rồi

(Đợi Có Một Ngày)



Trịnh Công Sơn gói ghém nỗi hoang mang chán chường một thế hệ :


Mười lăm năm em có buồn không ?
...Đường anh em đi hoài không tới
Đường văn minh xương cao cùng với núi
Đường lương tâm mênh mang hoài bóng tối

... Hãy nhìn lại anh em trên chiến trường
Tìm đâu ra những nét mặt thù
Được hay thua những thắng bại kia
Mặt quê hương tan nát từng giờ

(Hãy Nhìn Lại)

Khúc hát ngắn đã quy chiếu mọi góc cạnh, kích thước một cuộc chiến tranh, thuộc loại khốc liệt nhất mà dân tộc phải trải qua. Nếu ai đó chê trách Trịnh Công Sơn lờ mờ về chính trị, thì phải hiểu chính trị theo nghĩa lập trường, phe phái. Đứng trên lương tâm dân tộc mà nói, ít có sử gia hay nhà bình luận chính trị nào, mà thu vén được cả bi kịch của đất nước trong cả chiều dài, chiều rộng lẫn chiều sâu bằng bấy nhiêu câu chữ, được giai điệu của nhạc thuật xoáy sâu vào tâm khảm của thời đại.

*

Đã nhiều người nói Trịnh Công Sơn là thiên tài. Sự đánh giá thành tâm, nhưng mơ hồ, sử dụng một khái niệm khó định nghĩa và không có tiểu chuẩn. Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, chữ thiên tài bao hàm một ngụ ý chính trị. Nhưng nhìn dưới ánh sáng nào đi nữa, sự nghiệp Trịnh Công Sơn cũng là một khối tài tình. Tài và tình sinh ra nhau, nuôi dưỡng lấy nhau bằng lương thực một trần ai khổ ải. Chữ tài, phần nào, là của trời cho ; chữ tình là khối đau thương khổ luyện trong khổ nạn.
Và chính khối đau thương - qua những lời ca phản chiến - đã vinh danh Trịnh Công Sơn trong khổ nạn, vinh danh bên ngoài ý muốn của nhiều quyền lực thế trị ; và sau này nữa, bên ngoài những mê chấp sân si.
Song song với ca khúc hoà bình làm trong một thời điểm đặc biệt, Trịnh Công Sơn vẫn sáng tác nhạc phẩm ca ngợi tình yêu, tình bạn, thiên nhiên và cuộc đời. Tất cả tâm cảm ấy cùng chiếu rọi về tình người, nổi bật trong khổ nạn.



*

Nhân đề tài Ca khúc đòi hỏi Hoà Bình của Trịnh Công Sơn, chúng tôi nhắc lại từng giai đoạn trong quá trình nhạc phẩm và bối cảnh chính trị, xã hội của miền Nam chủ yếu từ 1965 đến 1972. Trong những điều kiện tạo nên hiện tượng Trịnh Công Sơn, có yếu tố lớn lao với kích thước lịch sử, có chi tiết bình thường như cách ăn mặc hay ăn nói. Trong tâm tưởng người nghe khó đo lường được cái gì là chính, cái gì là phụ trong những điều kiện làm nên danh phận một tác gia. Điều này bổ sung cho điều kia, chúng tôi ghép lại như những mảnh vỡ của một thời đại.

Và cũng lưu ý dè dặt: bài nào chính xác là phản chiến ? Đối với những người từng nghe, từng sống những ca khúc Trịnh Công Sơn thời thịnh hành, thì khó trả lời.

Với nhiều người, toàn bộ nhạc Trịnh Công Sơn thời đó đều diễn tả khát vọng hoà bình. Những bản nhạc tình, dù chỉ hoà tấu không lời, cũng vang vọng ít nhiều âm hưởng của niềm mong ước đó. Nhưng có một cách phân biệt, nghịch lý nhưng thiết thực : bài nào mà ngày nay không được in lại, đồng thời không được trình diễn trong nước, thì nó là nhạc ... phản chiến !

Đây lại là một cách gián tiếp minh xác vị trí chính trị của Trịnh Công Sơn trong giai đoạn anh làm khoảng 70 bài hát được gọi là phản chiến.

Và ca khúc duy nhất của Trịnh Công Sơn mà chúng tôi có thể xác định thời điểm sáng tác là Ra Đồng Giữa Ngọ làm tại Huế tháng 12 năm 1974, vào những ngày năm cùng tháng tận của một chế độ, chế độ đã sinh trưởng ra anh. Bài hát tiên tri về nhiều mặt :

Thằng bé xinh xinh chơi diều giữa Ngọ
Ngờ đâu hội ngộ tan giữa hư không

Sơn qua đời ngày 1 tháng Tư, vào giờ Chính Ngọ, như con diều bay mà linh hồn lạnh lẽo, con diều rơi cho vực thẳm buồn theo ...

Đối với một số bạn bè, Sơn bao giờ cũng như đứa bé, suốt đời buồn vui như một đứa bé. Và họ, ngày nay, còn hát theo Sơn :


Thằng bé xinh xinh bay vờn giữa Ngọ
Ngờ đâu hội ngộ tan giữa hư không

...Tan trong trời hồng làm giọt mưa trong
Tan trên cuộc đời làm lời ru êm

...Tan trong nụ cười gọi mời yêu thương
Tan trong cội nguồn.


Vậy thôi, thôi nhé, vậy nhé, Sơn nhé. Khi khác gặp lại Toa.

Đặng Tiến

Giá Trị của Cuộc Sinh Tồn Nhân Bản


Cuộc tiến triển đời sống nhân loại như là một xã hội tổng thể chưa bao giờ ngưng nghỉ hay đến "đích". Nó là một chuỗi dài hầu như vô tận, mặc dù chúng ta nếu hiểu biết và nhận thức, đều biết sẽ đến một thời điểm "nhân loại: như chúng ta từng biết, sẽ chấm dứt như muôn loài đã từng có mặt trên địa cầu này và đã ra đi vĩnh viễn. Vì không như vũ trụ nhiên giới VÔ THỦY VÔ CHUNG, VÔ BIÊN và PHI THỜI GIAN của tính KHÔNG TUYỆT ĐỐI, "con người vật" ngẫu sinh từ TIẾN HÓA và đồng phát triển theo NHẬN THỨC và CÁCH MẠNG hướng theo ý niệm "Nhân Loại", rồi cũng đến hồi cáo chung vì nguyên nhân này hay nguyên nhân khác, tự hủy hay bị diệt. Không thể tránh!

Cuộc nhân sinh tiến hóa và cách mạng dẫu có "thủy chung", nhưng là một chuỗi dài NỐI TIẾP TƯƠNG TÁC NHAU của những cá nhân theo ý niệm thời gian của chính chúng ta đặt ra. Và mỗi một cá nhân chúng ta cũng chỉ nhận thức được trong một đoạn đời ngắn ngủi trong cái "ba vạn sáu ngàn này là mấy". Chính vì vậy, cá nhân mỗi chúng ta phải cực kỳ may mắn mới sống được trong thời điểm của một cuộc đổi dời của nhận thức nhân loại nơi GIÁ TRỊ NHÂN BẢN ĐỔI THAY, những cuộc đổi dời giá trị sống, kết quả của hàng hàng lớp lớp người nhận thức tương tác cấu thành từ bao thế hệ trước.

Lão tử, Trang tử không thể sống ngàn năm để thấy sáng kiến của mình đã lan rộng và được trân trọng. Những cá nhân sáng kiến nhân bản, tự do, bình quyền cũng không thể sống để thấy kết quả ứng dụng được chấp nhận phổ quát và đang lan rộng. Những viễn kiến dân chủ hay cả như khoa học như Nicolas Tesla cũng không thể sống để thấy kết quả của những khám phá của mình đã lên cao và đi thật xa.

Nhưng tất cả những con người viễn kiến này, họ nhận thức được nhu cầu của hạnh phúc con người cần phải có. Cái nhu cầu mà bất cứ "sinh vật người" nào khi nhận thức đều mong muốn và tận tâm gây dựng với kỳ vọng có người nối tiếp. Bởi chính họ, khi tư duy sáng kiến, họ không mưu cầu chính họ được thực tế sống với ao ước đó, nhưng nắm chắc những nhu cầu này nó phải đến -vì đó là nhu cầu của mọi "con người," chỉ là nhận thức sớm hay muộn. Đó là những điểm chung mà chúng ta thấy ở TẤT CẢ NHỮNG VĨ NHÂN THẬT SỰ CỦA NHÂN LOẠI trải dài khắp các thời điểm lịch sử. Và lịch sử đã minh chứng họ ĐÚNG bằng chính đời sống chúng ta đang thụ hưởng những phần thành quả của họ.

Họ đã thật sự SỐNG với áp xuất của tiến hóa và đáp ứng nhu cầu cách mạng của đời sống tư duy con người xã hội.

Nghệ thuật hội họa, âm nhạc, thơ văn, từ đâu mà nảy sinh? Phải chăng tất cả cũng từ những ý niệm nhận thức giá trị đời sống ngoài nhu cầu sinh tồn tự nhiên vô thức, và muốn tạo một cái gì đó thăng hoa cho đời sống bớt khổ hạnh, gia tăng hạnh phúc? Và càng ngày càng muốn nâng cuộc nhân sinh "vật người" lên một tầng cõi để san sẻ cùng nhau cái ý nghĩa thật sự KHÔNG tuyệt đối kia? Không có những "ý nghĩa nhân tạo" đó, cuộc nhân sinh này có gì hơn bản năng tự nhiên sinh tồn: tương tranh ăn ngủ truyền giống và chết một cách vô thức.

Cảm quan vá tác động nhận thức đã khiến một buổi bình minh, một cơn gió thoảng, làm tràn đầy tâm tư "con người", tạo sự thống khoái trải dài hơn cả một bữa ăn no sau một lần lượm nhặt hay săn bắn. Một cơn mưa có năng lực đem đến mừng vui cho một mùa hái gặt no ấm, nhưng hạnh phúc từ cơn mưa với những âm thanh của giọt nước, tiếng gió, sẽ miên man dàn trải khắp nội tâm của "nhóm người vật" khi nó được nhân hóa trở thành, lời thơ tiếng nhạc, bức tranh, nó san sẻ tận hưởng lan xa không chỉ một vài nhóm người, một thế hệ người, mà hạnh phúc ý nghĩa sự sống với gió mưa trăng sao, đã được nhân hóa giao truyền cảm quan về "cái sống" của con người tâm cảm qua bao thế hệ và vượt tất cả mọi biên giới chính trị.


Những giá trị "nhân tạo" mang tính cách mạng này, khác hẳn với nhu cầu từ động lực tiến hóa. Nó không chỉ tự tồn mà cộng hưởng. Nó không chỉ nâng "vật" lên thành "người", mà kéo người lại gần nhau, và rồi kéo cả vạn vật chúng sinh lại gần nhau hơn nữa khi nhận thức được, hay giúp "con người" nhận thức được giá trị tính không tuyệt đối trong cái bản năng sinh tồn tương tranh hữu hạn vô nghĩa. Nó giúp cho "con vật người" một ý nghĩa "con người" để sống thoải mái hạnh phúc trong cái hữu vi hữu hạn vô nghĩa vô thức. Đây chính là nền "văn minh" thật sự "nhân loại": hiện sinh phi hủy.

"Loài người" không thể quay ngược hủy bỏ nhận thức "nhân tạo" để sinh hoạt như một sinh chủng vô thức như muôn loài. Nhưng nó có khả năng sinh sống cộng hưởng với muôn loài và như muôn loài bằng "nhận thức" tính không tuyệt đối. Tính không tuyệt đối cho nó cái BIẾT của NHU CÀU TIẾN BỘ, và cái HIỂU của sự HOANG TƯỞNG TIẾN BỘ TỰ HỬY. Cho nên, Nó, con ngưởi nhận thức, có thể cày bừa trồng cấy tự nhiên đúng cách, không phải vì không biết "kỹ thuật khoa học" mà chính vì đã biết và đã hiểu tác hại của kỹ thuật nhân tạo gây ra cho hạnh phúc cộng hưởng của "đời sống" và "sự sống".


NÓ, con người nhận thức MUỐN TÌM HIỂU THÊM về VŨ TRỤ ĐỂ HIỂU THÊM VỀ CHÍNH NÓ CHỨ KHÔNG PHẢI ĐỂ CAO NGẠO ĐIÊN RỒ CHINH PHỤC hay SỐNG MÃI MUÔN ĐỜI trong Vũ trụ!

Nghĩa là nó hiểu ra được "cái biết nhân tạo" của chính nó, dùng "cái hiểu biết nhân tạo"để sống "tự nhiên hơn" giảm thiểu mức lụy vật nhân tạo. Sống tự nhiên với "sự hiểu biết kỹ thuật nhân tạo" khác với sống tự nhiên vì không biết hoặc chưa biết kỹ thuật nhân tạo. Bởi kẻ không và chưa biết kỹ thuật nhân tạo, sẽ vụng về phi tự nhiên, và rồi háo hức quay cuồng khi tiếp cận "kỹ thuật nhân tạo" không thấy được tác hại của nó. Kẻ biết và hiểu kỹ thuật nhân tạo, sẽ thuần phác đúng cách có nhận thức, và dửng dưng, né tránh kỹ thuật nhân tạo vì nhận thức hệ quả của nó.

Không phải chỉ có Lão Tữ hay Trang Tử cách đây hàng ngàn năm "điên rồ" coi việc "cơ khí cơ tâm" là nguy hiểm cho sự sống, cho hạnh phúc, mà ngay chính nhà sinh học tiến hóa Ernst Mayr cũng từng nhận định rằng chính cái "thông minh kỹ thuật nhân tạo" của con người sẽ giết chính họ nhanh hơn các loài sinh vật "ngu tối" khác. Theo nghiên cúu sinh học các loài sinh thực vật, Ernst Mayr nhận thấy các loài "thông minh tính toán" có đời sống ngắn và tuyệt chủng nhanh hơn các loải "ngu si nhỏ bé tự nhiên" như các vi khuẩn và các loài bọ. Riêng các loài "thông minh" tuổi tồn tại như một chủng loại chỉ khoảng 100 ngàn năm. Điều này đặc biệt ĐÚNG với loài người văn minh, chúng ta tự tạo điều kiện lối sống "văn minh kỹ thuật", không theo tiến hóa, khiến đời sống chúng ta hôm nay hoàn toàn nhân tạo lệ thuộc những "điểu kiện nhân tạo" (máy lạnh, lò sưởi, quần áo ấm, nấu nướng thức ăn, tẩy trùng v.v), đến nỗi một đứa trẻ hay ngay cả một người lớn KHÔNG THỂ SINH TỒN ngoài thiên nhiên nổi một tuần. Nắng không ưa, mưa không chịu, thức ăn, nước uống hơi lạ, không nấu không lọc là nhiễm trùng nhuốm bệnh, đi bộ một đoạn đã ngã gục vì đã quen xe cộ máy móc không xử dụng chân tay v.v chưa kể mất cả khả năng tự túc sản xuất lương thực, hoàn toàn lệ thuộc hệ thống máy móc mua bán nhân tạo. (Có những kẻ hôm nay, thức ăn có sẵn còn không biết cách nấu nướng, chứ chưa nói khi giao cho một miếng đất sẽ không biết trồng cái gì!)

(Mayr estimated the number of species since the origin of life at about 50 billion, only one of which "achieved the kind of intelligence needed to establish a civilization." It did so very recently, perhaps a hundred thousand years ago. It is generally assumed that only one small breeding group survived, of which we are all descendants, apparently with very little genetic variation. What we call "civilizations" developed near the end of this brief moment of evolutionary time, and are "inevitably are short-lived."

Mayr speculates that higher intelligence may not be favored by selection. The history of life on Earth, he concluded, refutes the claim that "it is better to be smart than to be stupid," at least judging by biological success: beetles and bacteria, for example, are far more successful than primates in these terms, and that is generally true of creatures that fill a specific niche or can undergo rapid genetic change. He also made the rather somber observation that "the average life expectancy of a species is about 100,000 years.")
Hôm nay, người nhận thức tìm biết và hiểu "kỹ thuật nguyên tử, hóa vi quang" để né tránh nó, ghê tởm nó. Kẻ chưa hiểu biết săn lùng mơ ước nó.

Như Carl Sagan đã mơ ước và nhắn nhủ vì Ông đã HIỂU cái BIẾT của mình:


""Người ta cho đến nay vẫn nói rằng khoa thiên văn học là một tiến trình(trải nghiệm) làm khiêm tốn và xây dựng nhân cách (người ta- vì hiểu biết thêm về vũ trụ sẽ nhận ra được sự nhỏ bé không chỉ của cá nhân mình mà của cả cái "thế giới tưởng là vĩ đại" của mình-người dịch chú thích). Có lẽ không còn minh chứng nào rõ rệt hơn về sự điên rồ tự phụ của con người bằng cái hình ảnh xa tít này của cái thế giới nhỏ xíu của chúng ta. Với tôi, nó nhấn mạnh trách nhiệm của chúng ta để đối xử tử tế với nhau hơn và giữ gìn và trân trọng cái dấu chấm xanh mờ nhạt đó, mái nhà duy nhất mà chúng ta từng biết đến. "" It has been said that astronomy is a humbling and character-building experience. There is perhaps no better demonstration of the folly of human conceits than this distant image of our tiny world. To me, it underscores our responsibility to deal more kindly with one another and to preserve and cherish the pale blue dot, the only home we've ever known. Carl Edward Sagan
Khi càng biết và càng hiểu về VŨ TRỤ, về "kỹ thuật nhân tạo" về cái "tưởng là vĩ đại tiến bộ" của mình, người ta lại càng gần với nhau, gần với nhiên giới hơn, hiện sinh hơn và bớt hoang tưởng điên rồ cao ngạo hơn. Và ngược lại khi không hoặc chưa hiểu, người ta càng thánh hóa "kỹ thuật nhân tạo" về hướng tự hủy, tự tạo bất hạnh cho chính mình bằng chính ước muốn điên rồ thành quả của mình.

Cuộc tử sinh của muôn vật, có con người trong đó, là một phần cực nhỏ của cái thế giới "có" cái hữu thể hữu vi, cái thế giới VẬT. Con người, từ cảm quan và rồi nhận thức tạo ra một thế giới TÂM (ý niệm), một thế giới NHÂN TẠO ĐẶC THÙ TRIỆT ĐỂ của TƯ DUY NHẬN THỨC, tự tạo cho chính mình để giảm thiểu bất hạnh, hay chính xác hơn tạo thêm một giá trị sống đẹp, trong một ý nghĩa tạo an hòa cộng hưởng với đồng loại và muôn loài trước khi trở về với cái KHÔNG TUYỆT ĐỐI, cái bản thể tuyệt đối thường hằng của vũ trụ.

Lão tử nhận thức thật rõ ràng. Lão tử không chỉ là người tiên khởi nhận thức được tác hại của "kỷ cương giềng mối" nhân tạo (chính trị- luân lý) và chủ trương phi quyền chính, mà còn đi xa hơn ở một tầng cách sống (nguyên lý của Đạo bước lên trên kỹ xảo). Tiếc rằng cái nhóm dân Đông phương cực kỳ thấp kém tối dạ bái vật tham sinh úy tử, đã không chỉ bỏ thêm tạp niệm vào Đạo Đức Kinh và Nam Hoa Kinh mà còn biến những tư tưởng tiến bộ này thành "tôn giáo" với cái ham muốn thấp hèn ngu muội "đi tìm trường sinh bất tử".

Cuộc nhân thế vận chuyển không ngừng nghỉ từng sạt na. Khồng tử khi xưa nhận định như giòng nước chảy ngày đêm không ngưng nghỉ (thệ giả như tư phù bất xả trú dạ (逝者如斯夫, 不舍晝夜). Nhưng cuộc nhân thế sẽ chấm dứt, không chỉ với từng cá nhân "con người" mà cả cuộc "nhân thế"-mà- chúng- ta- đang- gấu- ó -tương- tranh- phát- minh- tàn- diệt-lẫn-nhau -rồi- ghi-chép "sách sử" cũng sẽ biến mất. Dài lắm cũng chỉ trăm ngàn năm. Chúng ta đã đến khoảng 70 ngàn năm rồi. Cái thái dương hệ cũng sẽ biến mất. Cái thiên hà cũng thay dổi biến dạng.

Kẻ kém trí, thấp hèn thiển cận, suy nghĩ theo "thời gian" nhân tạo, hàng ngàn triệu năm v.v cho là xa vời! Ngay với cái ý niệm. dù SAI về thời gian hàng ngàn tỉ năm cũng đã trôi qua để CÓ CHÚNG TA HÔM MAY. Và đương nhiên cái hàng- ngàn- tỉ-năm đang trôi nhanh đến để chúng ta biến mất và chẳng còn cái gọi là thời-gian nữa!

Ôi cái thời gian do chúng ta qui ước đặt ra để đo lường sự thay đổi thật hữu hạn trong vô thường. Sự thay đổi vô thủy, vô chung. Phật không thể mường tượng ra từ ngữ để diễn đạt hết được cái nhanh biến của nó, chỉ gọi là sạt na. Khoa học hôm nay cũng chỉ đo tạm đếm theo giây và năm ánh sáng (thời gian và không gian). Vũ trụ vô thủy vô chung phi thời gian. Không có cái tư duy của chúng ta, không có thời gian, sat na hay năm tháng, hay phần ngàn, phần tỉ của "giây".

So ra cuộc tử sinh "ba vạn sáu ngàn ngày" của mỗi cá nhân chúng ta , và ngay cả của chủng loại chúng ta (100 ngàn năm), quá ngắn ngủi so với vô thường vô thủy vô chung- để cuồng vọng bất cứ một điều gì, ngoài một đạo sống ngay hiện tại với chính nó: một nụ cười với đồng loại, san sẻ bớt bất hạnh, tháo gỡ bớt điên cuồng.

Nhân Chủ

“Hỏi ý dân” và “để dân quyết”, đừng nói dân trí thấp




Tác giả: Lê Kiên (thực hiện)
.
Một chế độ dân chủ đại diện càng được quản lý và kiểm soát tốt bao nhiêu thì cơ hội cho người dân sử dụng quyền TCYD của mình càng ít bấy nhiêu. Nhưng đất nước đang có nhiều vấn đề như tham nhũng, lợi ích nhóm thì việc TCYD sẽ làm cho những người được dân bầu ra buộc phải nghĩ đến dân, phải vì dân, nếu không muốn các hoạt động của mình thường xuyên bị TCYD. Đừng sợ dân đề nghị TCYD nhiều quá sẽ ảnh hưởng đến chế độ hay mất chế độ vì kết quả chỉ có hiệu lực khi không vi hiến
————–


GS.TS Nguyễn Vân Nam – Ảnh: Hữu Khoa


Vì trưng cầu ý dân (TCYD) quá mới mẻ, chưa được thực hiện ở nước ta nên có nhiều ý kiến trái chiều. Ai là người có quyền đề nghị, ai là người quyết định, các lĩnh vực nào sẽ được trưng cầu và hiệu lực của TCYD?

Tuổi Trẻ có cuộc trao đổi với chuyên gia Luật tổ chức nhà nước và công pháp quốc tế, GS.TS Nguyễn Vân Nam.

Bàn về bản chất của TCYD, ông Nam nhìn nhận: “Bản chất của TCYD là để người dân sẽ trực tiếp quyết định một vấn đề cụ thể nào đó của đất nước. Mọi điều kiện có thể hạn chế tính chất trực tiếp này đều khiến TCYD trở thành một cuộc thăm dò dư luận xã hội.

Có những lúc cơ quan nhà nước không thể hay không muốn ban hành một chính sách, đạo luật cần thiết cho xã hội. Đây chính là sự khiếm khuyết của nền dân chủ đại diện, khi những người đại diện của dân do áp lực hay lợi ích riêng không muốn ra quyết định.

Khi ấy, người dân, người chủ thật sự của đất nước, phải có cơ hội thực hiện quyền làm chủ, trực tiếp giúp các cơ quan này ra quyết định. Đó là hình thức trưng cầu “hỏi ý dân”.

Hình thức thứ hai là “để dân quyết”: người dân sẽ tự mình trực tiếp quyết định. TCYD phải gồm cả hai hình thức này. Kết quả của “hỏi ý dân” chỉ có giá trị tham khảo, không có hiệu lực buộc phải thi hành. Kết quả của “để dân quyết” có hiệu lực như một nghị quyết của Quốc hội.
Một chế độ dân chủ đại diện càng được quản lý và kiểm soát tốt bao nhiêu thì cơ hội cho người dân sử dụng quyền TCYD của mình càng ít bấy nhiêu. Nhưng đất nước đang có nhiều vấn đề như tham nhũng, lợi ích nhóm thì việc TCYD sẽ làm cho những người được dân bầu ra buộc phải nghĩ đến dân, phải vì dân, nếu không muốn các hoạt động của mình thường xuyên bị TCYD. Đừng sợ dân đề nghị TCYD nhiều quá sẽ ảnh hưởng đến chế độ hay mất chế độ vì kết quả chỉ có hiệu lực khi không vi hiến
GS.TS NGUYỄN VÂN NAM


Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIII đang diễn ra sôi nổi. Ảnh tư liệu TT.


Công cụ rất đặc biệt

* Có lập luận cho rằng Quốc hội là do nhân dân bầu ra làm đại diện cho mình. Vì vậy, khi Quốc hội đã biểu quyết thông qua một vấn đề gì thì cũng có nghĩa là nhân dân đã đồng tình…

– Một lập luận thú vị. Đúng là ở nền dân chủ đại diện, người dân đã trực tiếp bầu người đại diện của mình vào các cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất thì cần TCYD làm gì nữa, vì những quyết định của các cơ quan này cũng chính là quyết định của người dân.

Nhưng thực tế hầu như không có quốc gia nào lại không có quy định về TCYD. Rõ ràng TCYD phải giữ một vị trí, mang ý nghĩa và nhằm mục đích rất đặc biệt, được thực hiện theo các nguyên tắc khác với những nguyên tắc thực hiện dân chủ đại diện, quyết định theo đa số.

Cũng có lúc cơ quan công quyền – được điều hành bởi những đại diện do khối đa số bầu – ra một quyết định có thể sẽ không phù hợp với lợi ích của khối thiểu số.

Nhưng hiển nhiên là những người được khối đa số bầu vào cơ quan công quyền phải bảo vệ quyền lợi công dân, không phân biệt họ thuộc đa số hay thiểu số.

Cho nên khối thiểu số phải có cơ hội được làm chủ đất nước, ít nhất cũng là cơ hội có quyền nêu ra những vấn đề quan trọng của đất nước cho mọi người quyết định. Họ phải có quyền ấy trong cả hai hình thức “hỏi ý dân” và “để dân quyết”.

Quá trình phát triển đất nước sẽ nảy sinh những vấn đề đặc biệt quan trọng ảnh hưởng đến toàn xã hội mà quyết định xử lý của các cơ quan hiến định có thể không còn tính chính danh, không đủ thuyết phục toàn dân nữa. Khi đó, người dân phải có quyền thực hiện quyền làm chủ của mình, trực tiếp quyết định vấn đề đó.

Không nêu quá cụ thể những vấn đề cần trưng cầu



* Theo ông, những vấn đề nào nên được đưa vào quy định TCYD?

– TCYD là công cụ cần thiết để khắc phục thiếu sót cho nền dân chủ của đa số với những mục tiêu đã nói ở trên, nhưng là công cụ rất đặc biệt. Nó không được phép mở ra khả năng lạm dụng để cản trở hoạt động thường xuyên của bộ máy nhà nước.

Vì vậy phải giới hạn những vấn đề được trưng cầu. Nhưng giới hạn này cũng không được cứng nhắc đến mức vô hiệu hóa khả năng áp dụng TCYD.

Kinh nghiệm các nước là không nêu quá cụ thể những vấn đề được trưng cầu. Càng cụ thể thì khả năng áp dụng không được càng lớn. Bởi không ai có thể biết trước những vấn đề cụ thể quan trọng nào xảy đến vào lúc nào để đưa ra TCYD cả.

Nên quy định những lĩnh vực quan trọng (lĩnh vực chứ không phải vấn đề) mà những vấn đề thuộc lĩnh vực ấy sẽ được đưa ra TCYD như: sửa đổi hiến pháp, quyền công dân, quyền con người, hay an ninh quốc gia, chủ quyền lãnh thổ…

Trong hỏi ý dân nhất quyết phải có quy định cho phép người dân đề nghị tiến hành “hỏi ý dân” xem có đồng ý đưa vấn đề ra để thực hiện “để dân quyết” hay không.

* Có ý kiến cho rằng người dân không được quyền đề nghị TCYD?

– Đúng vậy. Hiến pháp quy định công dân VN chỉ có quyền biểu quyết khi Quốc hội quyết định trưng cầu. Nhưng quy định này hoàn toàn không áp dụng được cho một tập hợp công dân hay tổ chức phi chính phủ.

Hiến pháp cũng không có điều cấm công dân được đề nghị TCYD. Nghĩa là Luật TCYD bây giờ có thể cho một tập hợp công dân (100.000 người chẳng hạn) có quyền đề nghị trưng cầu là không vi hiến, cũng không cần phải đợi sửa đổi Hiến pháp.

Hiến pháp cũng quy định Quốc hội là cơ quan quyết định thực hiện TCYD. Nhưng nếu Quốc hội lại phải quyết định theo nguyên tắc đa số thì TCYD không còn ý nghĩa nữa.

Vì vậy, khi một đề nghị TCYD hội đủ điều kiện hình thức thì chỉ cần Ủy ban Thường vụ Quốc hội (thừa ủy quyền của Quốc hội) ra nghị quyết thực hiện. Như vậy vẫn là Quốc hội quyết định TCYD.

Kết quả của TCYD với hình thức để dân quyết có hiệu lực thi hành như nghị quyết Quốc hội, và một nghị quyết Quốc hội sẽ vô hiệu nếu nó vi hiến. Không cần phải thêm vào Luật TCYD là kết quả trưng cầu nào gây phương hại đến toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ là vô giá trị, bởi nó chỉ có hiệu lực khi không vi hiến.

TCYD khắc phục khiếm khuyết của dân chủ đa số, nên nó chỉ có ý nghĩa thật sự khi được thực hiện khác với những nguyên tắc dân chủ đa số. Đặc biệt không thể quy định phải có bao nhiêu phần trăm số người tham gia trưng cầu thì mới tổ chức thực hiện.

Nhiều nước trên thế giới không đặt ra quy định tỉ lệ bao nhiêu để xác định cuộc TCYD có hiệu lực hay không, vì như vậy là mặc nhiên xem những người không tham gia TCYD là bỏ phiếu chống. Nhưng tất nhiên họ có nhiều lý do khác nhau để không tham gia, chứ không phải chỉ là chống.


Phải giải thích cho dân hiểu

Nếu thông qua được Luật TCYD thì chắc chắn phải giải thích cặn kẽ cho nhân dân hiểu. Nếu không, nhân dân sẽ hiểu lầm nó giống như các cuộc lấy ý kiến, phong trào góp ý kiến trước đây. Họ sẽ làm qua loa, chiếu lệ trước việc vô cùng hệ trọng này.

Đặc biệt cũng đừng e ngại vấn đề dân chủ chưa hoàn thiện hay dân trí gì đó mà khoan ban hành luật này. Chính vì nền dân chủ còn khiếm khuyết nên mới càng cần TCYD để khắc phục khiếm khuyết của nó.

Cũng không thể nói dân trí ở mức độ chưa phù hợp, bởi một mặt đây là quyền công dân vô điều kiện, mà một nông dân hay một tiến sĩ cũng đều có và không ai có thể lấy mất của họ được.

Mặt khác, không trao quyền cho dân thì làm sao họ có thể hiểu, làm quen để rồi sử dụng hiệu quả được?

* Ông PHẠM THẾ DUYỆT (nguyên ủy viên thường vụ thường trực Bộ Chính trị, nguyên chủ tịch đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ VN):




Ông PHẠM THẾ DUYỆT – Ảnh tư liệu TT



Đừng nói Việt Nam dân trí thấp

Tôi cho rằng việc Quốc hội thảo luận, xem xét để thông qua dự án Luật TCYD có ý nghĩa rất lớn đối với việc phát huy quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân, trí tuệ và hiểu biết của dân, sẽ phản ánh được nguyện vọng chung của các tầng lớp nhân dân.

Về quyền được kiến nghị đưa nội dung, vấn đề ra TCYD, tôi đề nghị ngoài các chủ thể là Chủ tịch nước, Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội hoặc 1/3 trên tổng số đại biểu Quốc hội nên có thêm Ủy ban Trung ương MTTQ VN.

Có thể tôi làm chủ tịch Mặt trận nhiều năm nên thấy điều này là cần thiết chăng? Tôi nghĩ Quốc hội là cơ quan quyền lực đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân thì đúng rồi, nhưng Mặt trận là cơ quan đại diện cho lợi ích của nhân dân được tập hợp một cách rộng rãi nhất, vì vậy Quốc hội nên nghe kiến nghị, đề xuất của Mặt trận trong từng vấn đề đưa ra để TCYD.

Lựa chọn vấn đề nào đưa ra để TCYD phụ thuộc vào đề nghị của các chủ thể có thẩm quyền này và quyết định thuộc về Quốc hội.

Vì vậy, kết quả của vấn đề đưa ra trưng cầu có phát huy hết được trí tuệ, sự đồng lòng nhất trí của nhân dân hay không phụ thuộc rất lớn vào sự chuẩn bị của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Tôi cũng từng phát biểu nhiều lần, đã phát huy dân chủ, trọng dân, tin dân thì chỉ có tốt mà thôi. Đừng chê dân dốt, đừng nói Việt Nam dân trí thấp mà cho rằng chưa nên làm việc này việc khác.

Dân mình là dân cách mạng, là dân yêu nước thương nòi, dân sống trong chế độ mới 70 năm nay rồi, đã kinh qua bao gian khổ rồi, dân mình tốt lắm, dân mình có trình độ, không biết có nên so sánh với các nước không chứ tôi nghĩ rằng dân mình không phải loại kém.

Đại biểu Quốc hội Lê Như Tiến (Quảng Trị) – Ảnh: Việt Dũng


* Ông LÊ NHƯ TIẾN (phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội):

Không chỉ là một tuyên ngôn chính trị suông

Để đạo luật này đi vào cuộc sống, không chỉ là một tuyên ngôn chính trị suông. Tôi nghĩ quan trọng nhất là quy định cụ thể, dễ thực hiện về cả nội dung TCYD và thủ tục TCYD.

Về nội dung, những vấn đề đưa ra TCYD trước hết phải là những vấn đề lớn, có phạm vi tác động sâu rộng đến đời sống nhân dân, đến sự phát triển của đất nước.

Về thủ tục, chẳng hạn như quy định tối thiểu 1/3 trên tổng số đại biểu Quốc hội đề xuất một vấn đề gì đó thì mới đưa vấn đề đó ra để TCYD, nếu không quy định cụ thể không bao giờ làm được, chẳng khác nào quy định tối thiểu 20% đại biểu Quốc hội đề nghị mới xem xét bãi nhiệm người giữ chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.

Trong trường hợp này, tôi đề nghị quy định vào luật hoặc tới đây quy định ở văn bản dưới luật là trước mỗi kỳ họp Quốc hội thì phát phiếu thăm dò ý kiến đại biểu xem có đề nghị TCYD vấn đề gì không, nếu đủ 1/3 đại biểu đề nghị trưng cầu vấn đề gì đó thì đưa ra để trưng cầu.

Nếu không quy định như vậy thì không bao giờ có chuyện khoảng 170 – 180 đại biểu cùng lúc gửi tờ trình lên Ủy ban Thường vụ Quốc hội. 


———–

http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/20150607/hoi-y-dan-va-de-dan-quyet-dung-noi-dan-tri-thap/758118.html

Thứ Bảy, 6 tháng 6, 2015

HÀNH TRÌNH CỦA MỘT CON KÉT BIẾT NÓI



Rừng quê tôi ngày càng gầy gò
Màu xanh quê tôi ngày càng thấp bé
Bụng phố quê tôi ngày càng to phình
Thân phố quê tôi ngày càng cao lớn
Mặt trời quê tôi ngày càng thức muộn và đi ngủ sớm
Lũ Két quê tôi bay đi ngày càng xa
Người làng quê tôi ngày càng lột xác nơi thị thành
Tôi cũng tập tành
Bỏ quê lên phố làm ăn nuôi mộng làm giàu với chú két con học nói
Người phố nhà cao sở hữu thực phẩm
Giờ vốn đã dư thừa nên  muốn sở hữu cả thiên nhiên
Nơi khuôn viên lớn hơn thửa ruộng tôi cày chưa hết buổi
Đủ loại cây và lũ thú hoang giá tính bằng  vàng


Tôi mót từng hạt lúa, hạt ngô nuôi chú Két nhỏ
Vo từng vọt mồ hôi thành đồng tiền sắm cho nó cái giá để trèo
Hy vọng đổi đời với 8 mét vuông một nhà trọ lè tè
Nuôi mộng làm giàu với chú Két xanh biết nói

Tôi qua mùa giáp hạt,
chú Két qua một mùa lông với ba lần lột lưỡi
mà chỉ két két mỗi khi tôi về với cái xe đạp cũng kêu rên ken két.

Ông chủ vựa chim chỉ bảo tôi đem nó nuôi chỗ đông người bởi chỗ tôi ở đâu có tiếng người mà học
Tôi đem chú Két thân thương mỗi ngày gửi cho anh bạn cùng làng hành nghề giá xe đạp
Nơi ngã tư đèn đỏ đèn xanh
Được một tháng anh bạn mừng rỡ báo tin
Sáng hôm nay con két của mày đã nói
Tôi nghe mà trái tim như muốn rớt ra ngoài
Phen này tôi có thể sắm hon-da về làng chở con Hoa lên phố mat -xa

Hai thằng tôi đứng ngồi chồm hổm
Cố van xin Két nói một tiếng người
Con Két nhìn tôi: ken két
Rồi như tội nghiệp tôi nó buông hai tiếng rõ ràng : Đồ chó!
Tôi nhảy tửng mừng vui chưa hết
Con két cũng hòa theo nói lịa nói lia:

-Đồ chó! Đồ chó! Đồ chó!

Bao vui mừng của tôi tự nhiên xẹp lép
Quay sang thằng bạn chửi thề
Thằng bạn tôi bực mình chửi lại
Bảo tao làm bỏ mẹ rảnh đâu mà dạy nó chửi mày.
Tôi bần thần nhìn người ào ào qua ào ào lại
Rồi đành lòng mang chú Két đến vựa chim

Tôi thật thà bảo với ông chủ Két tôi biết nói
Ổng mĩm cười bảo anh nói tôi đâu tin
Tôi năn nỉ Két ơi mau nói
Cho dù mày có chửi tao cũng được nửa giá thị trường.
Con két vẫn xàng qua xàng lại : két két mà nghe như thấy ghét!
Ông chủ không mua tôi đành rầu rầu mang Két về

Đi được một đoạn có một ông công chức chạy theo
Bảo tôi bán con két biết nói tiếng người
Tôi bực mình không thèm bán nữa
Ông cừ rà theo năn nỉ bán hoài
Tôi tức tối phán luôn giá gấp ba
Ông công chức hấp tấp móc tiền trả gấp
Tôi mơ màng như đang mớ ngủ
Két của tôi lên bỗng hét tiếng người: Đồ chó ! Đồ chó!
Ông khách mua cười toe toét miệng:

_ Sếp của tôi vốn thích chửi thề!

Ông đi rồi tôi bỗng buồn như mất của
Nhớ làm sao tiếng nói két của tôi

_ Đồ chó !

Tôi nằm mơ cũng không tin được
khi cầm số tiền dư mua một chiếc honda về chở con Hoa dạo phố

Sáu mươi năm vang vọng lời kêu cứu trái đất




Hoàng Hưng







Thật tình cờ, giữa những ngày lòng người trên toàn thế giới quặn đau và hoang mang vì những đại họa không thể tưởng tượng giáng liên tiếp, ngày càng khốc liệt xuống khắp các châu lục, tôi nhận được đề nghị từ Thụy Điển, thông qua các bạn ở Trung tâm Đông Tây: chuyển tiếng Việt một “sử thi” (epic) hiện đại của tác giả đoạt giải Nobel 1974 Harry Martinson, một “sử thi” mang nội dung “khoa học giả tưởng”. Tóm tắt nội dung của tác phẩm được coi là một trong những “sử thi” lớn nhất của thời hiện đại, tác giả được coi là nhà thơ đầu tiên của thời đại vũ trụ: Một trong số những con tàu vũ trụ khổng lồ mang tên Aniara chở người tỵ nạn thoát khỏi Trái Đất đã nhiễm xạ nguyên tử nặng nề và có nguy cơ bị hủy diệt bởi những vũ khí quái lạ khác do trí tuệ con người tạo ra, bị lạc trong không gian, bị kết án lưu đầy vĩnh viễn cho đến khi được cái chết giải thoát.

Tôi nhận lời dịch Aniara thoạt là do tò mò muốn biết một thiên “sử thi” mà nội dung lại là “khoa học giả tưởng” sẽ ra sao? Và quả thật, những khúc ca đầu không làm tôi hứng khởi lắm khi vấp phải không ít thuật ngữ về vũ trụ và công nghệ mà tác giả chế ra (neologism) miêu tả con tàu không gian độc đáo gondolde và kể về chuyến phiêu lưu bất tận của nó ở “ngoại trường”. Thú thật nhiều lúc không khỏi nản lòng thấy mình chắc khó có khả năng chuyển chúng thành “thơ” đúng nghĩa. Nhưng rồi cảm hứng bừng lên khi óc tưởng tượng mạnh mẽ của tác giả chiếu lên một cuốn phim cảnh tượng không gian siêu thực ám ảnh ma quái cõi trống không trong suốt, lạnh giá, bất động trân trân nhìn ta suốt ngày này sang ngày khác, năm nọ tiếp năm kia. Thành tựu đáng kể nhất về giả tưởng công nghệ có lẽ là “nhân vật” Mima, trí tuệ nghe-nhìn nhân tạo có khả năng bắt sóng của sự sống từ mọi hành tinh xa để chiếu lại qua màn hình của phi thuyền, với sự trung thực “không thể mua chuộc”, lại có thể tự sáng tạo độc lập với cả người thiết kế, một phúng dụ về vai trò của văn nghệ trong thời đại khoa học lạnh lùng.

“Khoa học giả tưởng” dẫu sao cũng chỉ là cái vỏ của một “sử thi” – bài thơ chép sử, tức là chép chuyện một cộng đồng người. Harry Martinson không chậm trễ đưa ta, càng lúc càng sâu, càng lúc càng dồn dập, vào đời sống bên trong của cộng đồng thuyền nhân. Từ nhớ thương, hy vọng, hoài nghi, đến hoảng loạn, bế tắc, cuồng hoan, hận thù, tuyệt vọng; thất tình lục dục của 8000 con người tị nạn bộc lộ cực điểm trong hoàn cảnh lưu đầy vĩnh viễn khỏi quê hương, nhốt chung trong một cỗ quan tài thủy tinh thường trực đối mặt với hư không và cái chết.

Nhiều người than rằng Aniara sao buồn, sao tuyệt vọng (đúng nghĩa từ cổ Hy Lạp aνιαρός từ gốc mà nó được phái sinh và cộng hưởng điệp âm “a” như tiếng kêu dài của tác giả). Không buồn, không tuyệt vọng sao được khi Doris - Trái Đất quê hương nhiễm xạ nặng nề không còn chỗ cho sự sống dung thân, rồi nổ tung vì những thứ vũ khí hủy diệt của chính con người sau khi vừa thoát khỏi ngàn năm băng giá do tinh vân băng hàn từ vũ trụ trút xuống. Thiên tai không giết nổi Trái Đất, thì nhân tai đã giết.


Ta được chở che khỏi bất cứ điều chi:
tàn phá, hỏa tai, bão bùng, băng giá,
hay bất cứ điều gì óc ta hình dung được -
nhưng chẳng được chở che khỏi chính loài người.





Harry Martinson viết một mạch 14 ngày 29 bài ca đầu tiên sau một đêm mùa thu tháng 8 năm 1953 ngắm qua kính thiên văn thiên hà Tiên Nữ, trong bối cảnh cuộc chạy đua vũ trang giữa hai cường quốc hạt nhân lên cao trào với việc chế ra bom H. Những trang kinh hoàng nhất là cảnh tượng hủy diệt thành Dorisburg qua ký ức của đá – người mù và người điếc hóa đá, của Kẻ Bị Nổ. Những trang đau đớn nhất được viết nên khi Mima, con mắt trí tuệ nhân tạo, sự an ủi thần thánh của nghệ thuật, từ chối phản ánh sự thực khủng khiếp là cái chết tan tành của Trái Đất – Thung Doris vì trận “bão quang”, và tự phân rã. Nhà thơ khóc cho sự bất lực của cái đẹp không còn thể cứu chuộc thế giới. (Ông sẽ dành ba năm nghiên cứu về vũ trụ và công nghệ để viết tiếp 74 bài ca nữa, và Aniara ra đời với 103 bài ca).

Tác giả rất ý thức về lời cảnh báo vô hiệu của mình, ông hiểu mình đồng số phận với nữ tiên tri Cassandre: “Giống như nàng, tôi biết rằng mình cảnh báo bằng thừa. Người ta nghe Cassandre được một lúc, rồi quên béng lời bà.” (trích theo các tác giả bản dịch tiếng Pháp Ylva Lindberg & Samuel Autexier). Hai dịch giả này cho rằng Aniara “tự đăng ký vào hàng ngũ cácdystopia” (ngược nghĩa với utopia, tạm dịch là xã hội không tưởng đen).

Lời cảnh báo vẫn còn nóng hổi đến hôm nay, khi Trái Đất biết đến nhiều nguy cơ gấp bội không chỉ từ chạy đua vũ trang mà còn, ghê gớm hơn, từ chạy đua bóc lột thiên nhiên vô độ.

Không chỉ tàn phá môi sinh ngoại cảnh, lối sống lầm lạc của con người hiện đại cũng tàn phá ngay tâm hồn của họ. Luận đề phê phán này được tác giả thể hiện qua những trang miêu tả sinh hoạt của cộng đồng thuyền nhân tị nạn ra không gian mà vẫn giữ nguyên những thói quen Trái Đất. Sự trống không của vũ trụ hóa ra không đáng sợ bằng sự trống rỗng nội tâm. Sự trống rỗng không thể đắp điếm bằng cách tự lừa dối với những tín điều như chiếc bàn thờ đã long sơn, với việc lao vào những lạc thú cuồng hoan, ngay cả bằng niềm tin vào khoa học thuần túy được chính tác giả gửi gắm thông qua nữ nhân vật Isagel mà ông không giấu lòng yêu mến.

Sự lầm lạc của con người hiện đại còn bị tác giả phê phán mạnh mẽ ở tổ chức xã hội méo mó mà nó tạo ra: chế độ chuyên chế, từ phát xít đến toàn trị, qua những hình tượng khu trừng giới, lò hơi ngạt, “phiếu đục lỗ” kiểm soát con người, Sếp Số Một mà ông định danh một cách sáng tạo là “kẻ tự thực” (autophage)… Một âm hưởng của Trại Súc vật, 1984 (Georges Orwell) bằng thơ…


Họ bị đập tan thành những tế bào của một nhà nước
luôn yêu sách họ như thói đã quen
dù đã làm tan chảy cấu trúc tâm thần
đã được họ giữ làm vật cống.”


Song, màu đen tuyệt vọng không trùm kín Aniara đến ngạt thở. Trong quá trình dịch, nhiều phen ngón tay tôi trên bàn phím cao hứng chạy như mê theo những dòng tràn đầy xúc cảm hướng thượng của tác giả. Những dòng về Nobby người con gái hiện thân của Phước Thiện, tác giả mượn lời một thủy thủ không gian nói rằng nếu không có nàng, thì “chẳng đáng sống làm gì cái cuộc đời tôi”. Những trang xuất thần về người ca sĩ mù đã được tôn làm nữ tư tế của Thần Ánh sáng:


Trong thế giới này xuất hiện một nữ thi nhân
với những bài ca nâng chúng tôi hướng thượng
vượt bản thân, lên cõi tinh thần.
Đem lửa thếp vàng vách nhà tù tăm tối
và đem trời cao vào tận buồng tim
lời tro nguội bỗng biến thành lửa cháy.”


Và đối lập với niềm tin mê muội vào tôn giáo, vào giáo điều của mọi thứ “lý tưởng” trừu tượng luôn có sản phẩm phụ là lòng thù hận, Martinson đề cao “niềm vui trần thế”:


Tranh đấu vì trời cao là tranh đấu cho niềm vui:
Thiên đường là mục tiêu của mọi trái tim người.
Nhưng ác nỗi những thế lực đầy hắc ám
dẫn dắt cuộc đấu tranh và tập họp dưới cờ
lũ ích kỷ đầy lòng căm giận
khiến đường đi u tối bởi oán thù,
bởi trả hận, bởi bạo hành khoái cảm.
Nhân loại khó lòng cảm nhận về chân lý
như sự thực hành niềm mê đắm tự nhiên.”



Mê đắm tự nhiên trước hết là mê đắm thiên nhiên, một thiên nhiên chưa bị tàn phá, đủ sức “sắp xếp” nhu cầu cho con người. Ta gặp lại ở thiên sử thi “khoa học” những khúc ca tuyệt đẹp về thiên nhiên hoang dã, đặc biệt là thiên nhiên Bắc Âu, với bút pháp quen thuộc của một Martinson “nguyên sơ” (primitivist) nhưng tha thiết hơn nhiều trong bối cảnh giả tưởng là tất cả đã bị tiêu vong. Tôi không thể nhịn trích một đoạn thơ tuyệt vời của ông về cảnh thu trong tưởng tượng của cô gái mù:


Thu về rồi. Người ta bảo những cây phong bốc lửa.
Và đôi người tôi nghe bước chân qua
khoe cảnh chiều tà trong thung gần đấy.
Họ tả cảnh chiều rực đỏ
với những sọc dài màu tím hoàng hôn.
Và đối diện là cánh rừng, họ nói,
rực lên trên nền bóng đêm.
Họ cũng bảo dưới tàng cây, bóng tối
trắng lên vì giá đọng,
cỏ giống như tóc mùa hè
bạc đi vì tuổi tác.
Đây là cảnh qua lời họ tả:
Một tấm phông màu trắng giá sương
trên nền vàng kim rực lên khi mùa hạ
trả hết cho cái lạnh món nợ đời.
Và họ nói về sự hào phóng của mùa thu:
Tất cả vàng kim rắc trên mồ mùa hạ.
Vẻ huy hoàng trải trước mắt ta
giống một lễ tang của đám digan đó:
Những giẻ vụn màu vàng màu đỏ
và những băng vải vàng kim từ xứ Ispahan.”


Mê đắm tự nhiên cũng là mê đắm sự vui sống trẻ trung, ở đây được hiện thân nơi cô nàng “Daisi róc rách, vô tư và hạnh phúc/ và tất cả con người nàng được tạo hóa sinh ra/ để hát ngợi ca quay cuồng điệu yurg.” Thiên sử thi về chuyến trường chinh lạnh giá nhiều lúc nóng lên những khúc tình ca say đắm, hoan lạc ngất ngây mà Bài ca của Dục Nương chỉ là một thí dụ:


Hỡi người kỵ sĩ từ hoang mạc Thiên Cầm
cứ cưỡi ngựa tới cửa em và gõ cửa.
Hãy để sự sống của em nảy mầm với chủng tử của anh,
sự sống nhỏ xinh mà anh có thể tìm vào được.

Trời chằm chằm nhìn ta. Cái nhìn lạnh băng ngoài cửa.
Hãy vào đây, em sưởi ấm anh mà.
Giá anh cùng em làm tan cái lạnh
- ý nghĩ này nóng bỏng giữa không gian.”


“Sự khôn ngoan của bánh mì mộc mạc”, minh triết mà nhân vật nam chính của Aniara xin được trở về một kiếp nào xa lắm để học lại, chính là điều tác giả gửi gắm để “phản biện” lối sống “hiện đại” quá dư thừa thông minh đến trở thành tàn phá. Triết lý giản dị ấy thật dễ hiểu với Harry Martinson (1904-1978), một con người ra đời trong cùng khổ, trưởng thành trong lam lũ. Nhà thơ tương lai sớm bị đưa vào trại trẻ mồ côi cùng với sáu anh chị em của mình, trở thành thủy thủ, công nhân, đủ nghề luân lạc, một Maxim Gorki của Bắc Âu, tự học và viết, để rồi trở thành Viện sĩ Hàn lâm của xứ sở đương cai giải Nobel. Minh triết quá giản dị mà những siêu trí tuệ hiện đại không biết hoặc quên mất từ lâu.


Chúng ta vốn người Địa cầu, Doris,
hòn ngọc sáng ngời trong hệ thái dương,
quả cầu độc nhất dành mảnh đất lành
đầy sữa, mật dâng cho Sự sống.
Hãy miêu tả tạo vật xinh tươi
đã may áo liệm cho nòi giống
cho đến khi Chúa Trời và Quỉ vương tay nắm tay
khắp xứ sở tan hoang, nhiễm độc,
chạy lên núi và nhào xuống vực
để trốn khỏi loài người – vua của tro than.”



Lời cảnh báo của Harry Martinson không thừa. Hành tinh của chúng ta vẫn chưa bị khai tử chính là nhờ những hồi chuông báo động liên tục, kế tiếp nhau không mệt mỏi như thế. Nhưng những “kẻ tự thực” tham lam và đầy quyền lực không biết rằng ăn thiên nhiên, ăn đồng loại là ăn chính mình, vẫn đầy nhóc khắp nơi để sẵn sàng hủy diệt Trái Đất. Bộ Văn hóa Thụy Điển chọn Aniara để giới thiệu với bạn đọc Việt Nam hôm nay chắc không hề ngẫu nhiên. Cuộc chiến cuối cùng của cả nhân loại chính là cuộc chiến để cứu lấy ngôi nhà chung hành tinh đang lâm nguy này.

Hoàng Hưng