Chủ Nhật, 7 tháng 6, 2015

Giá Trị của Cuộc Sinh Tồn Nhân Bản


Cuộc tiến triển đời sống nhân loại như là một xã hội tổng thể chưa bao giờ ngưng nghỉ hay đến "đích". Nó là một chuỗi dài hầu như vô tận, mặc dù chúng ta nếu hiểu biết và nhận thức, đều biết sẽ đến một thời điểm "nhân loại: như chúng ta từng biết, sẽ chấm dứt như muôn loài đã từng có mặt trên địa cầu này và đã ra đi vĩnh viễn. Vì không như vũ trụ nhiên giới VÔ THỦY VÔ CHUNG, VÔ BIÊN và PHI THỜI GIAN của tính KHÔNG TUYỆT ĐỐI, "con người vật" ngẫu sinh từ TIẾN HÓA và đồng phát triển theo NHẬN THỨC và CÁCH MẠNG hướng theo ý niệm "Nhân Loại", rồi cũng đến hồi cáo chung vì nguyên nhân này hay nguyên nhân khác, tự hủy hay bị diệt. Không thể tránh!

Cuộc nhân sinh tiến hóa và cách mạng dẫu có "thủy chung", nhưng là một chuỗi dài NỐI TIẾP TƯƠNG TÁC NHAU của những cá nhân theo ý niệm thời gian của chính chúng ta đặt ra. Và mỗi một cá nhân chúng ta cũng chỉ nhận thức được trong một đoạn đời ngắn ngủi trong cái "ba vạn sáu ngàn này là mấy". Chính vì vậy, cá nhân mỗi chúng ta phải cực kỳ may mắn mới sống được trong thời điểm của một cuộc đổi dời của nhận thức nhân loại nơi GIÁ TRỊ NHÂN BẢN ĐỔI THAY, những cuộc đổi dời giá trị sống, kết quả của hàng hàng lớp lớp người nhận thức tương tác cấu thành từ bao thế hệ trước.

Lão tử, Trang tử không thể sống ngàn năm để thấy sáng kiến của mình đã lan rộng và được trân trọng. Những cá nhân sáng kiến nhân bản, tự do, bình quyền cũng không thể sống để thấy kết quả ứng dụng được chấp nhận phổ quát và đang lan rộng. Những viễn kiến dân chủ hay cả như khoa học như Nicolas Tesla cũng không thể sống để thấy kết quả của những khám phá của mình đã lên cao và đi thật xa.

Nhưng tất cả những con người viễn kiến này, họ nhận thức được nhu cầu của hạnh phúc con người cần phải có. Cái nhu cầu mà bất cứ "sinh vật người" nào khi nhận thức đều mong muốn và tận tâm gây dựng với kỳ vọng có người nối tiếp. Bởi chính họ, khi tư duy sáng kiến, họ không mưu cầu chính họ được thực tế sống với ao ước đó, nhưng nắm chắc những nhu cầu này nó phải đến -vì đó là nhu cầu của mọi "con người," chỉ là nhận thức sớm hay muộn. Đó là những điểm chung mà chúng ta thấy ở TẤT CẢ NHỮNG VĨ NHÂN THẬT SỰ CỦA NHÂN LOẠI trải dài khắp các thời điểm lịch sử. Và lịch sử đã minh chứng họ ĐÚNG bằng chính đời sống chúng ta đang thụ hưởng những phần thành quả của họ.

Họ đã thật sự SỐNG với áp xuất của tiến hóa và đáp ứng nhu cầu cách mạng của đời sống tư duy con người xã hội.

Nghệ thuật hội họa, âm nhạc, thơ văn, từ đâu mà nảy sinh? Phải chăng tất cả cũng từ những ý niệm nhận thức giá trị đời sống ngoài nhu cầu sinh tồn tự nhiên vô thức, và muốn tạo một cái gì đó thăng hoa cho đời sống bớt khổ hạnh, gia tăng hạnh phúc? Và càng ngày càng muốn nâng cuộc nhân sinh "vật người" lên một tầng cõi để san sẻ cùng nhau cái ý nghĩa thật sự KHÔNG tuyệt đối kia? Không có những "ý nghĩa nhân tạo" đó, cuộc nhân sinh này có gì hơn bản năng tự nhiên sinh tồn: tương tranh ăn ngủ truyền giống và chết một cách vô thức.

Cảm quan vá tác động nhận thức đã khiến một buổi bình minh, một cơn gió thoảng, làm tràn đầy tâm tư "con người", tạo sự thống khoái trải dài hơn cả một bữa ăn no sau một lần lượm nhặt hay săn bắn. Một cơn mưa có năng lực đem đến mừng vui cho một mùa hái gặt no ấm, nhưng hạnh phúc từ cơn mưa với những âm thanh của giọt nước, tiếng gió, sẽ miên man dàn trải khắp nội tâm của "nhóm người vật" khi nó được nhân hóa trở thành, lời thơ tiếng nhạc, bức tranh, nó san sẻ tận hưởng lan xa không chỉ một vài nhóm người, một thế hệ người, mà hạnh phúc ý nghĩa sự sống với gió mưa trăng sao, đã được nhân hóa giao truyền cảm quan về "cái sống" của con người tâm cảm qua bao thế hệ và vượt tất cả mọi biên giới chính trị.


Những giá trị "nhân tạo" mang tính cách mạng này, khác hẳn với nhu cầu từ động lực tiến hóa. Nó không chỉ tự tồn mà cộng hưởng. Nó không chỉ nâng "vật" lên thành "người", mà kéo người lại gần nhau, và rồi kéo cả vạn vật chúng sinh lại gần nhau hơn nữa khi nhận thức được, hay giúp "con người" nhận thức được giá trị tính không tuyệt đối trong cái bản năng sinh tồn tương tranh hữu hạn vô nghĩa. Nó giúp cho "con vật người" một ý nghĩa "con người" để sống thoải mái hạnh phúc trong cái hữu vi hữu hạn vô nghĩa vô thức. Đây chính là nền "văn minh" thật sự "nhân loại": hiện sinh phi hủy.

"Loài người" không thể quay ngược hủy bỏ nhận thức "nhân tạo" để sinh hoạt như một sinh chủng vô thức như muôn loài. Nhưng nó có khả năng sinh sống cộng hưởng với muôn loài và như muôn loài bằng "nhận thức" tính không tuyệt đối. Tính không tuyệt đối cho nó cái BIẾT của NHU CÀU TIẾN BỘ, và cái HIỂU của sự HOANG TƯỞNG TIẾN BỘ TỰ HỬY. Cho nên, Nó, con ngưởi nhận thức, có thể cày bừa trồng cấy tự nhiên đúng cách, không phải vì không biết "kỹ thuật khoa học" mà chính vì đã biết và đã hiểu tác hại của kỹ thuật nhân tạo gây ra cho hạnh phúc cộng hưởng của "đời sống" và "sự sống".


NÓ, con người nhận thức MUỐN TÌM HIỂU THÊM về VŨ TRỤ ĐỂ HIỂU THÊM VỀ CHÍNH NÓ CHỨ KHÔNG PHẢI ĐỂ CAO NGẠO ĐIÊN RỒ CHINH PHỤC hay SỐNG MÃI MUÔN ĐỜI trong Vũ trụ!

Nghĩa là nó hiểu ra được "cái biết nhân tạo" của chính nó, dùng "cái hiểu biết nhân tạo"để sống "tự nhiên hơn" giảm thiểu mức lụy vật nhân tạo. Sống tự nhiên với "sự hiểu biết kỹ thuật nhân tạo" khác với sống tự nhiên vì không biết hoặc chưa biết kỹ thuật nhân tạo. Bởi kẻ không và chưa biết kỹ thuật nhân tạo, sẽ vụng về phi tự nhiên, và rồi háo hức quay cuồng khi tiếp cận "kỹ thuật nhân tạo" không thấy được tác hại của nó. Kẻ biết và hiểu kỹ thuật nhân tạo, sẽ thuần phác đúng cách có nhận thức, và dửng dưng, né tránh kỹ thuật nhân tạo vì nhận thức hệ quả của nó.

Không phải chỉ có Lão Tữ hay Trang Tử cách đây hàng ngàn năm "điên rồ" coi việc "cơ khí cơ tâm" là nguy hiểm cho sự sống, cho hạnh phúc, mà ngay chính nhà sinh học tiến hóa Ernst Mayr cũng từng nhận định rằng chính cái "thông minh kỹ thuật nhân tạo" của con người sẽ giết chính họ nhanh hơn các loài sinh vật "ngu tối" khác. Theo nghiên cúu sinh học các loài sinh thực vật, Ernst Mayr nhận thấy các loài "thông minh tính toán" có đời sống ngắn và tuyệt chủng nhanh hơn các loải "ngu si nhỏ bé tự nhiên" như các vi khuẩn và các loài bọ. Riêng các loài "thông minh" tuổi tồn tại như một chủng loại chỉ khoảng 100 ngàn năm. Điều này đặc biệt ĐÚNG với loài người văn minh, chúng ta tự tạo điều kiện lối sống "văn minh kỹ thuật", không theo tiến hóa, khiến đời sống chúng ta hôm nay hoàn toàn nhân tạo lệ thuộc những "điểu kiện nhân tạo" (máy lạnh, lò sưởi, quần áo ấm, nấu nướng thức ăn, tẩy trùng v.v), đến nỗi một đứa trẻ hay ngay cả một người lớn KHÔNG THỂ SINH TỒN ngoài thiên nhiên nổi một tuần. Nắng không ưa, mưa không chịu, thức ăn, nước uống hơi lạ, không nấu không lọc là nhiễm trùng nhuốm bệnh, đi bộ một đoạn đã ngã gục vì đã quen xe cộ máy móc không xử dụng chân tay v.v chưa kể mất cả khả năng tự túc sản xuất lương thực, hoàn toàn lệ thuộc hệ thống máy móc mua bán nhân tạo. (Có những kẻ hôm nay, thức ăn có sẵn còn không biết cách nấu nướng, chứ chưa nói khi giao cho một miếng đất sẽ không biết trồng cái gì!)

(Mayr estimated the number of species since the origin of life at about 50 billion, only one of which "achieved the kind of intelligence needed to establish a civilization." It did so very recently, perhaps a hundred thousand years ago. It is generally assumed that only one small breeding group survived, of which we are all descendants, apparently with very little genetic variation. What we call "civilizations" developed near the end of this brief moment of evolutionary time, and are "inevitably are short-lived."

Mayr speculates that higher intelligence may not be favored by selection. The history of life on Earth, he concluded, refutes the claim that "it is better to be smart than to be stupid," at least judging by biological success: beetles and bacteria, for example, are far more successful than primates in these terms, and that is generally true of creatures that fill a specific niche or can undergo rapid genetic change. He also made the rather somber observation that "the average life expectancy of a species is about 100,000 years.")
Hôm nay, người nhận thức tìm biết và hiểu "kỹ thuật nguyên tử, hóa vi quang" để né tránh nó, ghê tởm nó. Kẻ chưa hiểu biết săn lùng mơ ước nó.

Như Carl Sagan đã mơ ước và nhắn nhủ vì Ông đã HIỂU cái BIẾT của mình:


""Người ta cho đến nay vẫn nói rằng khoa thiên văn học là một tiến trình(trải nghiệm) làm khiêm tốn và xây dựng nhân cách (người ta- vì hiểu biết thêm về vũ trụ sẽ nhận ra được sự nhỏ bé không chỉ của cá nhân mình mà của cả cái "thế giới tưởng là vĩ đại" của mình-người dịch chú thích). Có lẽ không còn minh chứng nào rõ rệt hơn về sự điên rồ tự phụ của con người bằng cái hình ảnh xa tít này của cái thế giới nhỏ xíu của chúng ta. Với tôi, nó nhấn mạnh trách nhiệm của chúng ta để đối xử tử tế với nhau hơn và giữ gìn và trân trọng cái dấu chấm xanh mờ nhạt đó, mái nhà duy nhất mà chúng ta từng biết đến. "" It has been said that astronomy is a humbling and character-building experience. There is perhaps no better demonstration of the folly of human conceits than this distant image of our tiny world. To me, it underscores our responsibility to deal more kindly with one another and to preserve and cherish the pale blue dot, the only home we've ever known. Carl Edward Sagan
Khi càng biết và càng hiểu về VŨ TRỤ, về "kỹ thuật nhân tạo" về cái "tưởng là vĩ đại tiến bộ" của mình, người ta lại càng gần với nhau, gần với nhiên giới hơn, hiện sinh hơn và bớt hoang tưởng điên rồ cao ngạo hơn. Và ngược lại khi không hoặc chưa hiểu, người ta càng thánh hóa "kỹ thuật nhân tạo" về hướng tự hủy, tự tạo bất hạnh cho chính mình bằng chính ước muốn điên rồ thành quả của mình.

Cuộc tử sinh của muôn vật, có con người trong đó, là một phần cực nhỏ của cái thế giới "có" cái hữu thể hữu vi, cái thế giới VẬT. Con người, từ cảm quan và rồi nhận thức tạo ra một thế giới TÂM (ý niệm), một thế giới NHÂN TẠO ĐẶC THÙ TRIỆT ĐỂ của TƯ DUY NHẬN THỨC, tự tạo cho chính mình để giảm thiểu bất hạnh, hay chính xác hơn tạo thêm một giá trị sống đẹp, trong một ý nghĩa tạo an hòa cộng hưởng với đồng loại và muôn loài trước khi trở về với cái KHÔNG TUYỆT ĐỐI, cái bản thể tuyệt đối thường hằng của vũ trụ.

Lão tử nhận thức thật rõ ràng. Lão tử không chỉ là người tiên khởi nhận thức được tác hại của "kỷ cương giềng mối" nhân tạo (chính trị- luân lý) và chủ trương phi quyền chính, mà còn đi xa hơn ở một tầng cách sống (nguyên lý của Đạo bước lên trên kỹ xảo). Tiếc rằng cái nhóm dân Đông phương cực kỳ thấp kém tối dạ bái vật tham sinh úy tử, đã không chỉ bỏ thêm tạp niệm vào Đạo Đức Kinh và Nam Hoa Kinh mà còn biến những tư tưởng tiến bộ này thành "tôn giáo" với cái ham muốn thấp hèn ngu muội "đi tìm trường sinh bất tử".

Cuộc nhân thế vận chuyển không ngừng nghỉ từng sạt na. Khồng tử khi xưa nhận định như giòng nước chảy ngày đêm không ngưng nghỉ (thệ giả như tư phù bất xả trú dạ (逝者如斯夫, 不舍晝夜). Nhưng cuộc nhân thế sẽ chấm dứt, không chỉ với từng cá nhân "con người" mà cả cuộc "nhân thế"-mà- chúng- ta- đang- gấu- ó -tương- tranh- phát- minh- tàn- diệt-lẫn-nhau -rồi- ghi-chép "sách sử" cũng sẽ biến mất. Dài lắm cũng chỉ trăm ngàn năm. Chúng ta đã đến khoảng 70 ngàn năm rồi. Cái thái dương hệ cũng sẽ biến mất. Cái thiên hà cũng thay dổi biến dạng.

Kẻ kém trí, thấp hèn thiển cận, suy nghĩ theo "thời gian" nhân tạo, hàng ngàn triệu năm v.v cho là xa vời! Ngay với cái ý niệm. dù SAI về thời gian hàng ngàn tỉ năm cũng đã trôi qua để CÓ CHÚNG TA HÔM MAY. Và đương nhiên cái hàng- ngàn- tỉ-năm đang trôi nhanh đến để chúng ta biến mất và chẳng còn cái gọi là thời-gian nữa!

Ôi cái thời gian do chúng ta qui ước đặt ra để đo lường sự thay đổi thật hữu hạn trong vô thường. Sự thay đổi vô thủy, vô chung. Phật không thể mường tượng ra từ ngữ để diễn đạt hết được cái nhanh biến của nó, chỉ gọi là sạt na. Khoa học hôm nay cũng chỉ đo tạm đếm theo giây và năm ánh sáng (thời gian và không gian). Vũ trụ vô thủy vô chung phi thời gian. Không có cái tư duy của chúng ta, không có thời gian, sat na hay năm tháng, hay phần ngàn, phần tỉ của "giây".

So ra cuộc tử sinh "ba vạn sáu ngàn ngày" của mỗi cá nhân chúng ta , và ngay cả của chủng loại chúng ta (100 ngàn năm), quá ngắn ngủi so với vô thường vô thủy vô chung- để cuồng vọng bất cứ một điều gì, ngoài một đạo sống ngay hiện tại với chính nó: một nụ cười với đồng loại, san sẻ bớt bất hạnh, tháo gỡ bớt điên cuồng.

Nhân Chủ

“Hỏi ý dân” và “để dân quyết”, đừng nói dân trí thấp




Tác giả: Lê Kiên (thực hiện)
.
Một chế độ dân chủ đại diện càng được quản lý và kiểm soát tốt bao nhiêu thì cơ hội cho người dân sử dụng quyền TCYD của mình càng ít bấy nhiêu. Nhưng đất nước đang có nhiều vấn đề như tham nhũng, lợi ích nhóm thì việc TCYD sẽ làm cho những người được dân bầu ra buộc phải nghĩ đến dân, phải vì dân, nếu không muốn các hoạt động của mình thường xuyên bị TCYD. Đừng sợ dân đề nghị TCYD nhiều quá sẽ ảnh hưởng đến chế độ hay mất chế độ vì kết quả chỉ có hiệu lực khi không vi hiến
————–


GS.TS Nguyễn Vân Nam – Ảnh: Hữu Khoa


Vì trưng cầu ý dân (TCYD) quá mới mẻ, chưa được thực hiện ở nước ta nên có nhiều ý kiến trái chiều. Ai là người có quyền đề nghị, ai là người quyết định, các lĩnh vực nào sẽ được trưng cầu và hiệu lực của TCYD?

Tuổi Trẻ có cuộc trao đổi với chuyên gia Luật tổ chức nhà nước và công pháp quốc tế, GS.TS Nguyễn Vân Nam.

Bàn về bản chất của TCYD, ông Nam nhìn nhận: “Bản chất của TCYD là để người dân sẽ trực tiếp quyết định một vấn đề cụ thể nào đó của đất nước. Mọi điều kiện có thể hạn chế tính chất trực tiếp này đều khiến TCYD trở thành một cuộc thăm dò dư luận xã hội.

Có những lúc cơ quan nhà nước không thể hay không muốn ban hành một chính sách, đạo luật cần thiết cho xã hội. Đây chính là sự khiếm khuyết của nền dân chủ đại diện, khi những người đại diện của dân do áp lực hay lợi ích riêng không muốn ra quyết định.

Khi ấy, người dân, người chủ thật sự của đất nước, phải có cơ hội thực hiện quyền làm chủ, trực tiếp giúp các cơ quan này ra quyết định. Đó là hình thức trưng cầu “hỏi ý dân”.

Hình thức thứ hai là “để dân quyết”: người dân sẽ tự mình trực tiếp quyết định. TCYD phải gồm cả hai hình thức này. Kết quả của “hỏi ý dân” chỉ có giá trị tham khảo, không có hiệu lực buộc phải thi hành. Kết quả của “để dân quyết” có hiệu lực như một nghị quyết của Quốc hội.
Một chế độ dân chủ đại diện càng được quản lý và kiểm soát tốt bao nhiêu thì cơ hội cho người dân sử dụng quyền TCYD của mình càng ít bấy nhiêu. Nhưng đất nước đang có nhiều vấn đề như tham nhũng, lợi ích nhóm thì việc TCYD sẽ làm cho những người được dân bầu ra buộc phải nghĩ đến dân, phải vì dân, nếu không muốn các hoạt động của mình thường xuyên bị TCYD. Đừng sợ dân đề nghị TCYD nhiều quá sẽ ảnh hưởng đến chế độ hay mất chế độ vì kết quả chỉ có hiệu lực khi không vi hiến
GS.TS NGUYỄN VÂN NAM


Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIII đang diễn ra sôi nổi. Ảnh tư liệu TT.


Công cụ rất đặc biệt

* Có lập luận cho rằng Quốc hội là do nhân dân bầu ra làm đại diện cho mình. Vì vậy, khi Quốc hội đã biểu quyết thông qua một vấn đề gì thì cũng có nghĩa là nhân dân đã đồng tình…

– Một lập luận thú vị. Đúng là ở nền dân chủ đại diện, người dân đã trực tiếp bầu người đại diện của mình vào các cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất thì cần TCYD làm gì nữa, vì những quyết định của các cơ quan này cũng chính là quyết định của người dân.

Nhưng thực tế hầu như không có quốc gia nào lại không có quy định về TCYD. Rõ ràng TCYD phải giữ một vị trí, mang ý nghĩa và nhằm mục đích rất đặc biệt, được thực hiện theo các nguyên tắc khác với những nguyên tắc thực hiện dân chủ đại diện, quyết định theo đa số.

Cũng có lúc cơ quan công quyền – được điều hành bởi những đại diện do khối đa số bầu – ra một quyết định có thể sẽ không phù hợp với lợi ích của khối thiểu số.

Nhưng hiển nhiên là những người được khối đa số bầu vào cơ quan công quyền phải bảo vệ quyền lợi công dân, không phân biệt họ thuộc đa số hay thiểu số.

Cho nên khối thiểu số phải có cơ hội được làm chủ đất nước, ít nhất cũng là cơ hội có quyền nêu ra những vấn đề quan trọng của đất nước cho mọi người quyết định. Họ phải có quyền ấy trong cả hai hình thức “hỏi ý dân” và “để dân quyết”.

Quá trình phát triển đất nước sẽ nảy sinh những vấn đề đặc biệt quan trọng ảnh hưởng đến toàn xã hội mà quyết định xử lý của các cơ quan hiến định có thể không còn tính chính danh, không đủ thuyết phục toàn dân nữa. Khi đó, người dân phải có quyền thực hiện quyền làm chủ của mình, trực tiếp quyết định vấn đề đó.

Không nêu quá cụ thể những vấn đề cần trưng cầu



* Theo ông, những vấn đề nào nên được đưa vào quy định TCYD?

– TCYD là công cụ cần thiết để khắc phục thiếu sót cho nền dân chủ của đa số với những mục tiêu đã nói ở trên, nhưng là công cụ rất đặc biệt. Nó không được phép mở ra khả năng lạm dụng để cản trở hoạt động thường xuyên của bộ máy nhà nước.

Vì vậy phải giới hạn những vấn đề được trưng cầu. Nhưng giới hạn này cũng không được cứng nhắc đến mức vô hiệu hóa khả năng áp dụng TCYD.

Kinh nghiệm các nước là không nêu quá cụ thể những vấn đề được trưng cầu. Càng cụ thể thì khả năng áp dụng không được càng lớn. Bởi không ai có thể biết trước những vấn đề cụ thể quan trọng nào xảy đến vào lúc nào để đưa ra TCYD cả.

Nên quy định những lĩnh vực quan trọng (lĩnh vực chứ không phải vấn đề) mà những vấn đề thuộc lĩnh vực ấy sẽ được đưa ra TCYD như: sửa đổi hiến pháp, quyền công dân, quyền con người, hay an ninh quốc gia, chủ quyền lãnh thổ…

Trong hỏi ý dân nhất quyết phải có quy định cho phép người dân đề nghị tiến hành “hỏi ý dân” xem có đồng ý đưa vấn đề ra để thực hiện “để dân quyết” hay không.

* Có ý kiến cho rằng người dân không được quyền đề nghị TCYD?

– Đúng vậy. Hiến pháp quy định công dân VN chỉ có quyền biểu quyết khi Quốc hội quyết định trưng cầu. Nhưng quy định này hoàn toàn không áp dụng được cho một tập hợp công dân hay tổ chức phi chính phủ.

Hiến pháp cũng không có điều cấm công dân được đề nghị TCYD. Nghĩa là Luật TCYD bây giờ có thể cho một tập hợp công dân (100.000 người chẳng hạn) có quyền đề nghị trưng cầu là không vi hiến, cũng không cần phải đợi sửa đổi Hiến pháp.

Hiến pháp cũng quy định Quốc hội là cơ quan quyết định thực hiện TCYD. Nhưng nếu Quốc hội lại phải quyết định theo nguyên tắc đa số thì TCYD không còn ý nghĩa nữa.

Vì vậy, khi một đề nghị TCYD hội đủ điều kiện hình thức thì chỉ cần Ủy ban Thường vụ Quốc hội (thừa ủy quyền của Quốc hội) ra nghị quyết thực hiện. Như vậy vẫn là Quốc hội quyết định TCYD.

Kết quả của TCYD với hình thức để dân quyết có hiệu lực thi hành như nghị quyết Quốc hội, và một nghị quyết Quốc hội sẽ vô hiệu nếu nó vi hiến. Không cần phải thêm vào Luật TCYD là kết quả trưng cầu nào gây phương hại đến toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ là vô giá trị, bởi nó chỉ có hiệu lực khi không vi hiến.

TCYD khắc phục khiếm khuyết của dân chủ đa số, nên nó chỉ có ý nghĩa thật sự khi được thực hiện khác với những nguyên tắc dân chủ đa số. Đặc biệt không thể quy định phải có bao nhiêu phần trăm số người tham gia trưng cầu thì mới tổ chức thực hiện.

Nhiều nước trên thế giới không đặt ra quy định tỉ lệ bao nhiêu để xác định cuộc TCYD có hiệu lực hay không, vì như vậy là mặc nhiên xem những người không tham gia TCYD là bỏ phiếu chống. Nhưng tất nhiên họ có nhiều lý do khác nhau để không tham gia, chứ không phải chỉ là chống.


Phải giải thích cho dân hiểu

Nếu thông qua được Luật TCYD thì chắc chắn phải giải thích cặn kẽ cho nhân dân hiểu. Nếu không, nhân dân sẽ hiểu lầm nó giống như các cuộc lấy ý kiến, phong trào góp ý kiến trước đây. Họ sẽ làm qua loa, chiếu lệ trước việc vô cùng hệ trọng này.

Đặc biệt cũng đừng e ngại vấn đề dân chủ chưa hoàn thiện hay dân trí gì đó mà khoan ban hành luật này. Chính vì nền dân chủ còn khiếm khuyết nên mới càng cần TCYD để khắc phục khiếm khuyết của nó.

Cũng không thể nói dân trí ở mức độ chưa phù hợp, bởi một mặt đây là quyền công dân vô điều kiện, mà một nông dân hay một tiến sĩ cũng đều có và không ai có thể lấy mất của họ được.

Mặt khác, không trao quyền cho dân thì làm sao họ có thể hiểu, làm quen để rồi sử dụng hiệu quả được?

* Ông PHẠM THẾ DUYỆT (nguyên ủy viên thường vụ thường trực Bộ Chính trị, nguyên chủ tịch đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ VN):




Ông PHẠM THẾ DUYỆT – Ảnh tư liệu TT



Đừng nói Việt Nam dân trí thấp

Tôi cho rằng việc Quốc hội thảo luận, xem xét để thông qua dự án Luật TCYD có ý nghĩa rất lớn đối với việc phát huy quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân, trí tuệ và hiểu biết của dân, sẽ phản ánh được nguyện vọng chung của các tầng lớp nhân dân.

Về quyền được kiến nghị đưa nội dung, vấn đề ra TCYD, tôi đề nghị ngoài các chủ thể là Chủ tịch nước, Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội hoặc 1/3 trên tổng số đại biểu Quốc hội nên có thêm Ủy ban Trung ương MTTQ VN.

Có thể tôi làm chủ tịch Mặt trận nhiều năm nên thấy điều này là cần thiết chăng? Tôi nghĩ Quốc hội là cơ quan quyền lực đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân thì đúng rồi, nhưng Mặt trận là cơ quan đại diện cho lợi ích của nhân dân được tập hợp một cách rộng rãi nhất, vì vậy Quốc hội nên nghe kiến nghị, đề xuất của Mặt trận trong từng vấn đề đưa ra để TCYD.

Lựa chọn vấn đề nào đưa ra để TCYD phụ thuộc vào đề nghị của các chủ thể có thẩm quyền này và quyết định thuộc về Quốc hội.

Vì vậy, kết quả của vấn đề đưa ra trưng cầu có phát huy hết được trí tuệ, sự đồng lòng nhất trí của nhân dân hay không phụ thuộc rất lớn vào sự chuẩn bị của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Tôi cũng từng phát biểu nhiều lần, đã phát huy dân chủ, trọng dân, tin dân thì chỉ có tốt mà thôi. Đừng chê dân dốt, đừng nói Việt Nam dân trí thấp mà cho rằng chưa nên làm việc này việc khác.

Dân mình là dân cách mạng, là dân yêu nước thương nòi, dân sống trong chế độ mới 70 năm nay rồi, đã kinh qua bao gian khổ rồi, dân mình tốt lắm, dân mình có trình độ, không biết có nên so sánh với các nước không chứ tôi nghĩ rằng dân mình không phải loại kém.

Đại biểu Quốc hội Lê Như Tiến (Quảng Trị) – Ảnh: Việt Dũng


* Ông LÊ NHƯ TIẾN (phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội):

Không chỉ là một tuyên ngôn chính trị suông

Để đạo luật này đi vào cuộc sống, không chỉ là một tuyên ngôn chính trị suông. Tôi nghĩ quan trọng nhất là quy định cụ thể, dễ thực hiện về cả nội dung TCYD và thủ tục TCYD.

Về nội dung, những vấn đề đưa ra TCYD trước hết phải là những vấn đề lớn, có phạm vi tác động sâu rộng đến đời sống nhân dân, đến sự phát triển của đất nước.

Về thủ tục, chẳng hạn như quy định tối thiểu 1/3 trên tổng số đại biểu Quốc hội đề xuất một vấn đề gì đó thì mới đưa vấn đề đó ra để TCYD, nếu không quy định cụ thể không bao giờ làm được, chẳng khác nào quy định tối thiểu 20% đại biểu Quốc hội đề nghị mới xem xét bãi nhiệm người giữ chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.

Trong trường hợp này, tôi đề nghị quy định vào luật hoặc tới đây quy định ở văn bản dưới luật là trước mỗi kỳ họp Quốc hội thì phát phiếu thăm dò ý kiến đại biểu xem có đề nghị TCYD vấn đề gì không, nếu đủ 1/3 đại biểu đề nghị trưng cầu vấn đề gì đó thì đưa ra để trưng cầu.

Nếu không quy định như vậy thì không bao giờ có chuyện khoảng 170 – 180 đại biểu cùng lúc gửi tờ trình lên Ủy ban Thường vụ Quốc hội. 


———–

http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/20150607/hoi-y-dan-va-de-dan-quyet-dung-noi-dan-tri-thap/758118.html

Thứ Bảy, 6 tháng 6, 2015

HÀNH TRÌNH CỦA MỘT CON KÉT BIẾT NÓI



Rừng quê tôi ngày càng gầy gò
Màu xanh quê tôi ngày càng thấp bé
Bụng phố quê tôi ngày càng to phình
Thân phố quê tôi ngày càng cao lớn
Mặt trời quê tôi ngày càng thức muộn và đi ngủ sớm
Lũ Két quê tôi bay đi ngày càng xa
Người làng quê tôi ngày càng lột xác nơi thị thành
Tôi cũng tập tành
Bỏ quê lên phố làm ăn nuôi mộng làm giàu với chú két con học nói
Người phố nhà cao sở hữu thực phẩm
Giờ vốn đã dư thừa nên  muốn sở hữu cả thiên nhiên
Nơi khuôn viên lớn hơn thửa ruộng tôi cày chưa hết buổi
Đủ loại cây và lũ thú hoang giá tính bằng  vàng


Tôi mót từng hạt lúa, hạt ngô nuôi chú Két nhỏ
Vo từng vọt mồ hôi thành đồng tiền sắm cho nó cái giá để trèo
Hy vọng đổi đời với 8 mét vuông một nhà trọ lè tè
Nuôi mộng làm giàu với chú Két xanh biết nói

Tôi qua mùa giáp hạt,
chú Két qua một mùa lông với ba lần lột lưỡi
mà chỉ két két mỗi khi tôi về với cái xe đạp cũng kêu rên ken két.

Ông chủ vựa chim chỉ bảo tôi đem nó nuôi chỗ đông người bởi chỗ tôi ở đâu có tiếng người mà học
Tôi đem chú Két thân thương mỗi ngày gửi cho anh bạn cùng làng hành nghề giá xe đạp
Nơi ngã tư đèn đỏ đèn xanh
Được một tháng anh bạn mừng rỡ báo tin
Sáng hôm nay con két của mày đã nói
Tôi nghe mà trái tim như muốn rớt ra ngoài
Phen này tôi có thể sắm hon-da về làng chở con Hoa lên phố mat -xa

Hai thằng tôi đứng ngồi chồm hổm
Cố van xin Két nói một tiếng người
Con Két nhìn tôi: ken két
Rồi như tội nghiệp tôi nó buông hai tiếng rõ ràng : Đồ chó!
Tôi nhảy tửng mừng vui chưa hết
Con két cũng hòa theo nói lịa nói lia:

-Đồ chó! Đồ chó! Đồ chó!

Bao vui mừng của tôi tự nhiên xẹp lép
Quay sang thằng bạn chửi thề
Thằng bạn tôi bực mình chửi lại
Bảo tao làm bỏ mẹ rảnh đâu mà dạy nó chửi mày.
Tôi bần thần nhìn người ào ào qua ào ào lại
Rồi đành lòng mang chú Két đến vựa chim

Tôi thật thà bảo với ông chủ Két tôi biết nói
Ổng mĩm cười bảo anh nói tôi đâu tin
Tôi năn nỉ Két ơi mau nói
Cho dù mày có chửi tao cũng được nửa giá thị trường.
Con két vẫn xàng qua xàng lại : két két mà nghe như thấy ghét!
Ông chủ không mua tôi đành rầu rầu mang Két về

Đi được một đoạn có một ông công chức chạy theo
Bảo tôi bán con két biết nói tiếng người
Tôi bực mình không thèm bán nữa
Ông cừ rà theo năn nỉ bán hoài
Tôi tức tối phán luôn giá gấp ba
Ông công chức hấp tấp móc tiền trả gấp
Tôi mơ màng như đang mớ ngủ
Két của tôi lên bỗng hét tiếng người: Đồ chó ! Đồ chó!
Ông khách mua cười toe toét miệng:

_ Sếp của tôi vốn thích chửi thề!

Ông đi rồi tôi bỗng buồn như mất của
Nhớ làm sao tiếng nói két của tôi

_ Đồ chó !

Tôi nằm mơ cũng không tin được
khi cầm số tiền dư mua một chiếc honda về chở con Hoa dạo phố

Sáu mươi năm vang vọng lời kêu cứu trái đất




Hoàng Hưng







Thật tình cờ, giữa những ngày lòng người trên toàn thế giới quặn đau và hoang mang vì những đại họa không thể tưởng tượng giáng liên tiếp, ngày càng khốc liệt xuống khắp các châu lục, tôi nhận được đề nghị từ Thụy Điển, thông qua các bạn ở Trung tâm Đông Tây: chuyển tiếng Việt một “sử thi” (epic) hiện đại của tác giả đoạt giải Nobel 1974 Harry Martinson, một “sử thi” mang nội dung “khoa học giả tưởng”. Tóm tắt nội dung của tác phẩm được coi là một trong những “sử thi” lớn nhất của thời hiện đại, tác giả được coi là nhà thơ đầu tiên của thời đại vũ trụ: Một trong số những con tàu vũ trụ khổng lồ mang tên Aniara chở người tỵ nạn thoát khỏi Trái Đất đã nhiễm xạ nguyên tử nặng nề và có nguy cơ bị hủy diệt bởi những vũ khí quái lạ khác do trí tuệ con người tạo ra, bị lạc trong không gian, bị kết án lưu đầy vĩnh viễn cho đến khi được cái chết giải thoát.

Tôi nhận lời dịch Aniara thoạt là do tò mò muốn biết một thiên “sử thi” mà nội dung lại là “khoa học giả tưởng” sẽ ra sao? Và quả thật, những khúc ca đầu không làm tôi hứng khởi lắm khi vấp phải không ít thuật ngữ về vũ trụ và công nghệ mà tác giả chế ra (neologism) miêu tả con tàu không gian độc đáo gondolde và kể về chuyến phiêu lưu bất tận của nó ở “ngoại trường”. Thú thật nhiều lúc không khỏi nản lòng thấy mình chắc khó có khả năng chuyển chúng thành “thơ” đúng nghĩa. Nhưng rồi cảm hứng bừng lên khi óc tưởng tượng mạnh mẽ của tác giả chiếu lên một cuốn phim cảnh tượng không gian siêu thực ám ảnh ma quái cõi trống không trong suốt, lạnh giá, bất động trân trân nhìn ta suốt ngày này sang ngày khác, năm nọ tiếp năm kia. Thành tựu đáng kể nhất về giả tưởng công nghệ có lẽ là “nhân vật” Mima, trí tuệ nghe-nhìn nhân tạo có khả năng bắt sóng của sự sống từ mọi hành tinh xa để chiếu lại qua màn hình của phi thuyền, với sự trung thực “không thể mua chuộc”, lại có thể tự sáng tạo độc lập với cả người thiết kế, một phúng dụ về vai trò của văn nghệ trong thời đại khoa học lạnh lùng.

“Khoa học giả tưởng” dẫu sao cũng chỉ là cái vỏ của một “sử thi” – bài thơ chép sử, tức là chép chuyện một cộng đồng người. Harry Martinson không chậm trễ đưa ta, càng lúc càng sâu, càng lúc càng dồn dập, vào đời sống bên trong của cộng đồng thuyền nhân. Từ nhớ thương, hy vọng, hoài nghi, đến hoảng loạn, bế tắc, cuồng hoan, hận thù, tuyệt vọng; thất tình lục dục của 8000 con người tị nạn bộc lộ cực điểm trong hoàn cảnh lưu đầy vĩnh viễn khỏi quê hương, nhốt chung trong một cỗ quan tài thủy tinh thường trực đối mặt với hư không và cái chết.

Nhiều người than rằng Aniara sao buồn, sao tuyệt vọng (đúng nghĩa từ cổ Hy Lạp aνιαρός từ gốc mà nó được phái sinh và cộng hưởng điệp âm “a” như tiếng kêu dài của tác giả). Không buồn, không tuyệt vọng sao được khi Doris - Trái Đất quê hương nhiễm xạ nặng nề không còn chỗ cho sự sống dung thân, rồi nổ tung vì những thứ vũ khí hủy diệt của chính con người sau khi vừa thoát khỏi ngàn năm băng giá do tinh vân băng hàn từ vũ trụ trút xuống. Thiên tai không giết nổi Trái Đất, thì nhân tai đã giết.


Ta được chở che khỏi bất cứ điều chi:
tàn phá, hỏa tai, bão bùng, băng giá,
hay bất cứ điều gì óc ta hình dung được -
nhưng chẳng được chở che khỏi chính loài người.





Harry Martinson viết một mạch 14 ngày 29 bài ca đầu tiên sau một đêm mùa thu tháng 8 năm 1953 ngắm qua kính thiên văn thiên hà Tiên Nữ, trong bối cảnh cuộc chạy đua vũ trang giữa hai cường quốc hạt nhân lên cao trào với việc chế ra bom H. Những trang kinh hoàng nhất là cảnh tượng hủy diệt thành Dorisburg qua ký ức của đá – người mù và người điếc hóa đá, của Kẻ Bị Nổ. Những trang đau đớn nhất được viết nên khi Mima, con mắt trí tuệ nhân tạo, sự an ủi thần thánh của nghệ thuật, từ chối phản ánh sự thực khủng khiếp là cái chết tan tành của Trái Đất – Thung Doris vì trận “bão quang”, và tự phân rã. Nhà thơ khóc cho sự bất lực của cái đẹp không còn thể cứu chuộc thế giới. (Ông sẽ dành ba năm nghiên cứu về vũ trụ và công nghệ để viết tiếp 74 bài ca nữa, và Aniara ra đời với 103 bài ca).

Tác giả rất ý thức về lời cảnh báo vô hiệu của mình, ông hiểu mình đồng số phận với nữ tiên tri Cassandre: “Giống như nàng, tôi biết rằng mình cảnh báo bằng thừa. Người ta nghe Cassandre được một lúc, rồi quên béng lời bà.” (trích theo các tác giả bản dịch tiếng Pháp Ylva Lindberg & Samuel Autexier). Hai dịch giả này cho rằng Aniara “tự đăng ký vào hàng ngũ cácdystopia” (ngược nghĩa với utopia, tạm dịch là xã hội không tưởng đen).

Lời cảnh báo vẫn còn nóng hổi đến hôm nay, khi Trái Đất biết đến nhiều nguy cơ gấp bội không chỉ từ chạy đua vũ trang mà còn, ghê gớm hơn, từ chạy đua bóc lột thiên nhiên vô độ.

Không chỉ tàn phá môi sinh ngoại cảnh, lối sống lầm lạc của con người hiện đại cũng tàn phá ngay tâm hồn của họ. Luận đề phê phán này được tác giả thể hiện qua những trang miêu tả sinh hoạt của cộng đồng thuyền nhân tị nạn ra không gian mà vẫn giữ nguyên những thói quen Trái Đất. Sự trống không của vũ trụ hóa ra không đáng sợ bằng sự trống rỗng nội tâm. Sự trống rỗng không thể đắp điếm bằng cách tự lừa dối với những tín điều như chiếc bàn thờ đã long sơn, với việc lao vào những lạc thú cuồng hoan, ngay cả bằng niềm tin vào khoa học thuần túy được chính tác giả gửi gắm thông qua nữ nhân vật Isagel mà ông không giấu lòng yêu mến.

Sự lầm lạc của con người hiện đại còn bị tác giả phê phán mạnh mẽ ở tổ chức xã hội méo mó mà nó tạo ra: chế độ chuyên chế, từ phát xít đến toàn trị, qua những hình tượng khu trừng giới, lò hơi ngạt, “phiếu đục lỗ” kiểm soát con người, Sếp Số Một mà ông định danh một cách sáng tạo là “kẻ tự thực” (autophage)… Một âm hưởng của Trại Súc vật, 1984 (Georges Orwell) bằng thơ…


Họ bị đập tan thành những tế bào của một nhà nước
luôn yêu sách họ như thói đã quen
dù đã làm tan chảy cấu trúc tâm thần
đã được họ giữ làm vật cống.”


Song, màu đen tuyệt vọng không trùm kín Aniara đến ngạt thở. Trong quá trình dịch, nhiều phen ngón tay tôi trên bàn phím cao hứng chạy như mê theo những dòng tràn đầy xúc cảm hướng thượng của tác giả. Những dòng về Nobby người con gái hiện thân của Phước Thiện, tác giả mượn lời một thủy thủ không gian nói rằng nếu không có nàng, thì “chẳng đáng sống làm gì cái cuộc đời tôi”. Những trang xuất thần về người ca sĩ mù đã được tôn làm nữ tư tế của Thần Ánh sáng:


Trong thế giới này xuất hiện một nữ thi nhân
với những bài ca nâng chúng tôi hướng thượng
vượt bản thân, lên cõi tinh thần.
Đem lửa thếp vàng vách nhà tù tăm tối
và đem trời cao vào tận buồng tim
lời tro nguội bỗng biến thành lửa cháy.”


Và đối lập với niềm tin mê muội vào tôn giáo, vào giáo điều của mọi thứ “lý tưởng” trừu tượng luôn có sản phẩm phụ là lòng thù hận, Martinson đề cao “niềm vui trần thế”:


Tranh đấu vì trời cao là tranh đấu cho niềm vui:
Thiên đường là mục tiêu của mọi trái tim người.
Nhưng ác nỗi những thế lực đầy hắc ám
dẫn dắt cuộc đấu tranh và tập họp dưới cờ
lũ ích kỷ đầy lòng căm giận
khiến đường đi u tối bởi oán thù,
bởi trả hận, bởi bạo hành khoái cảm.
Nhân loại khó lòng cảm nhận về chân lý
như sự thực hành niềm mê đắm tự nhiên.”



Mê đắm tự nhiên trước hết là mê đắm thiên nhiên, một thiên nhiên chưa bị tàn phá, đủ sức “sắp xếp” nhu cầu cho con người. Ta gặp lại ở thiên sử thi “khoa học” những khúc ca tuyệt đẹp về thiên nhiên hoang dã, đặc biệt là thiên nhiên Bắc Âu, với bút pháp quen thuộc của một Martinson “nguyên sơ” (primitivist) nhưng tha thiết hơn nhiều trong bối cảnh giả tưởng là tất cả đã bị tiêu vong. Tôi không thể nhịn trích một đoạn thơ tuyệt vời của ông về cảnh thu trong tưởng tượng của cô gái mù:


Thu về rồi. Người ta bảo những cây phong bốc lửa.
Và đôi người tôi nghe bước chân qua
khoe cảnh chiều tà trong thung gần đấy.
Họ tả cảnh chiều rực đỏ
với những sọc dài màu tím hoàng hôn.
Và đối diện là cánh rừng, họ nói,
rực lên trên nền bóng đêm.
Họ cũng bảo dưới tàng cây, bóng tối
trắng lên vì giá đọng,
cỏ giống như tóc mùa hè
bạc đi vì tuổi tác.
Đây là cảnh qua lời họ tả:
Một tấm phông màu trắng giá sương
trên nền vàng kim rực lên khi mùa hạ
trả hết cho cái lạnh món nợ đời.
Và họ nói về sự hào phóng của mùa thu:
Tất cả vàng kim rắc trên mồ mùa hạ.
Vẻ huy hoàng trải trước mắt ta
giống một lễ tang của đám digan đó:
Những giẻ vụn màu vàng màu đỏ
và những băng vải vàng kim từ xứ Ispahan.”


Mê đắm tự nhiên cũng là mê đắm sự vui sống trẻ trung, ở đây được hiện thân nơi cô nàng “Daisi róc rách, vô tư và hạnh phúc/ và tất cả con người nàng được tạo hóa sinh ra/ để hát ngợi ca quay cuồng điệu yurg.” Thiên sử thi về chuyến trường chinh lạnh giá nhiều lúc nóng lên những khúc tình ca say đắm, hoan lạc ngất ngây mà Bài ca của Dục Nương chỉ là một thí dụ:


Hỡi người kỵ sĩ từ hoang mạc Thiên Cầm
cứ cưỡi ngựa tới cửa em và gõ cửa.
Hãy để sự sống của em nảy mầm với chủng tử của anh,
sự sống nhỏ xinh mà anh có thể tìm vào được.

Trời chằm chằm nhìn ta. Cái nhìn lạnh băng ngoài cửa.
Hãy vào đây, em sưởi ấm anh mà.
Giá anh cùng em làm tan cái lạnh
- ý nghĩ này nóng bỏng giữa không gian.”


“Sự khôn ngoan của bánh mì mộc mạc”, minh triết mà nhân vật nam chính của Aniara xin được trở về một kiếp nào xa lắm để học lại, chính là điều tác giả gửi gắm để “phản biện” lối sống “hiện đại” quá dư thừa thông minh đến trở thành tàn phá. Triết lý giản dị ấy thật dễ hiểu với Harry Martinson (1904-1978), một con người ra đời trong cùng khổ, trưởng thành trong lam lũ. Nhà thơ tương lai sớm bị đưa vào trại trẻ mồ côi cùng với sáu anh chị em của mình, trở thành thủy thủ, công nhân, đủ nghề luân lạc, một Maxim Gorki của Bắc Âu, tự học và viết, để rồi trở thành Viện sĩ Hàn lâm của xứ sở đương cai giải Nobel. Minh triết quá giản dị mà những siêu trí tuệ hiện đại không biết hoặc quên mất từ lâu.


Chúng ta vốn người Địa cầu, Doris,
hòn ngọc sáng ngời trong hệ thái dương,
quả cầu độc nhất dành mảnh đất lành
đầy sữa, mật dâng cho Sự sống.
Hãy miêu tả tạo vật xinh tươi
đã may áo liệm cho nòi giống
cho đến khi Chúa Trời và Quỉ vương tay nắm tay
khắp xứ sở tan hoang, nhiễm độc,
chạy lên núi và nhào xuống vực
để trốn khỏi loài người – vua của tro than.”



Lời cảnh báo của Harry Martinson không thừa. Hành tinh của chúng ta vẫn chưa bị khai tử chính là nhờ những hồi chuông báo động liên tục, kế tiếp nhau không mệt mỏi như thế. Nhưng những “kẻ tự thực” tham lam và đầy quyền lực không biết rằng ăn thiên nhiên, ăn đồng loại là ăn chính mình, vẫn đầy nhóc khắp nơi để sẵn sàng hủy diệt Trái Đất. Bộ Văn hóa Thụy Điển chọn Aniara để giới thiệu với bạn đọc Việt Nam hôm nay chắc không hề ngẫu nhiên. Cuộc chiến cuối cùng của cả nhân loại chính là cuộc chiến để cứu lấy ngôi nhà chung hành tinh đang lâm nguy này.

Hoàng Hưng

Ta xin làm viên đá cuội




Kiều Giang



Đêm nay ta tan vào ánh trăng diệu thường
lắng sâu vào thăng trầm nhân thế
chìm vào nỗi đau ngàn năm dâu bể, lật áo vô thường
để tìm nghĩa yêu thương

Ta đi qua biển xanh, băng qua đồi non,
tình em thấp thoáng ở cuối chân trời
cuộc tạo tác của đất trời một đời làm rộn rã trăng sao

Tình yêu ở mãi tầng cao
Ta nhớ về một nẻo xa xôi tiền kiếp
nơi khung cửa hẹp
em dắt ta đi qua cánh cổng thiên đường

Tình yêu lắng trong mù sương
nơi trần gian em trở về cho ta bầu trời đầy thương tích
Tình yêu ở nơi vườn khuya, dưới ánh trăng cô tịch
ta nhầm lẫn tiếng lá khô là tiếng chân người.

Ta cũng hiểu rằng trần thế trêu ngươi
nhưng làm sao cưỡng lại nụ cười của em lãng đãng ở cuối chân trời, mắt khuya ta vén mây ngàn để nhìn em đắm đuối, đã bao năm ta làm viên đá cuội lăn dài theo bước chân em.

Yêu em, ta gánh con tim mãi mãi lưu đày
và bao nhiêu khát thèm cũng chỉ còn thắp lửa vào thơ…

KHOẢNH KHẮC CỦA SỰ THẬT


KHOẢNH KHẮC CỦA SỰ THẬT

truyện ngắn Nguyễn Thanh Hiện




Rồi, như bây giờ thế giới là một nơi chốn tồi tệ,
những kẻ trơ tráo có thể quanh đi quẩn lại trong
đó, cả những kẻ nhu nhược, những kẻ khốn khổ
thích ứng với mọi thứ nữa…


Jorge Luis Borges-Công Cuộc Nghiên Cứu Của
Averroes



Nàng là tất cả của sự lãng mạn. Của trinh khiết. Của khao khát tràn ngập. Một quá khứ phồn thực âm thầm chảy giữa tồn sinh.


Dòng chảy phát xuất từ chân dãy núi Tưa. Dấu vết của mong muốn. Tạo tác đã lỡ mong muốn về một dòng sông. Con sông vẫn phơi lòng cát sỏi giữa cuộc tắm gội của thời gian. Thỉnh thoảng mới nhìn thấy, sau những cơn mưa xối xả, hay sau một đợt lũ mùa đông, một dòng chảy cạn hối hả tuôn về phía cánh đồng hạ nguồn, và sau đó, lâu lắm cũng chỉ năm ba hôm, cát sỏi lòng sông lại tiếp tục bày ra giữa cuộc càn khôn. Người ta cũng chẳng biết gọi thế nào, về một dòng sông, nhưng cũng chưa phải là dòng sông. Bắt đầu từ dãy núi Tưa, nên cứ gọi là sông Tưa.


Nàng là tất cả của sự chờ đợi. Để dâng hiến. Nàng là niềm khao khát dâng hiến. Sự khao khát tột cùng.


Tôi vẫn ra bờ con sông Tưa đợi nàng. Bây giờ là tôi đợi nàng. Tôi vẫn đợi nàng như một cách đào thoát khỏi trùng vây của u buồn.


Đọc sách thấy miền đất cằn phía nam tỉnh, nơi chôn nhau cắt rốn của tôi, là thuộc vùng địa chất hình thành vào thời tạo sơn Himalaya. Cứ thử tưởng tượng: Sự đun đẩy của vỏ địa cầu, không ngẫu nhiên, cũng không tất nhiên, làm dịch chuyển đất đai về một phía có độ cao hơn hẳn bốn phía, sự làm ra núi non. Núi Tưa là cái tên mãi những triệu năm về sau con người đã gán cho một tư thế đất đai. Núi là có thực. Nhưng con sông bắt đầu từ đây lại là sự lỡ tay của tự nhiên. Thì cứ gọi là sự giả định về một dòng sông. Dòng sông cùng tên với núi. Sông Tưa.


Người đời gọi là nàng Khang. Hay em Khang. Nàng Khang vốn sống thầm lặng.Nhưng đôi mắt có vẻ u buồn lại là cửa ngõ mở ra niềm khao khát tột cùng. Khao khát một tình yêu ở bên ngoài mọi biến đổi của tạo tác. Giữa thứ quá khứ dày đặc biến cố bỗng hiện ra một người con gái, cuộc gặp cũng quá mong manh, bỡi những gì biết được về nàng, hình dáng ấy, tựa sự thoảng qua của ngọn gió ít oi. Một cuộc sống thầm lặng. Một ánh mắt u buồn. Một khao khát tình yêu vĩnh cửu. Vào những năm đầu thế kỷ mười chín, một nhà khảo cổ học người Pháp đã đặt chân lên vùng núi Tưa và đã gặp được nàng Khang nơi một phiến đất nung đào được ở bờ con sông Tưa. Cũng chỉ là nghe kể lại.


Tôi vẫn ra bờ con sông Tưa nằm dài trên những vết tích cổ xưa như những khoảnh khắc đào thoát khỏi thứ không khí u ám của thời đại. Như có sự cắt ngang dòng chảy tài hoa cái thế, bên trong miền đất đạm bạc cơm áo dưới chân dãy núi Tưa, nơi làng Cù tôi, bỗng nổi lên những tay chúa đất lòng tham không tả nổi. Chúng là loài sâu mọt đương đại. Để tiêu phá cho hết niềm vui cướp bóc được từ cuộc trần thế, chúng đã tìm đến kẻ chợ, thâu đêm suốt sáng vùi đầu nơi vầng ngực căng đầy của các cô gái luôn đổ thừa sự sa cơ của mình cho thời thế. Quả là có sự đứt đoạn truyền thống vẻ vang của một miền đất. Thì chỉ mỗi nhà giảng pháp, ông Năm Thông Thống, cũng đủ khiến cho thế giới đương đại kinh ngạc. Ông Năm Thông Thống là vị tổ thứ chín dòng họ nhà tôi. Thì cũng chỉ nghe nói vậy. Ông giảng về các pháp chế ngự sông núi, chế ngự mưa nắng, chế ngự ma quỉ. Để cho anh ngửa nón làm thuyền đưa em sang sông. Sau này, đám hậu thế lãng mạng bắt chước ông, nói với nhau lúc yêu đương. Còn thuở ấy, ông tổ chín đời nhà tôi, qua sông Tưa thì ngửa nón làm thuyền, muốn bắt ma quỉ thì chỉ việc phùng mang trợn mắt, cho đã tức giận, rồi gọi đích danh lũ ma. Cũng chỉ là nghe kể lại. Tôi vẫn ra bờ sông Tưa nằm dài trên những dấu vết cổ xưa. Để mà tiếc nuối.


Nhà khảo cổ học người Pháp lại trở lại mảnh đất cằn dưới chân núi Tưa. Tôi cứ thấy người con gái ấy trong tâm tưởng. Ông nói với người làng Cù tôi. Và lần này thì tìm thấy nơi bờ con sông Tưa một mảnh hồn kỳ dị. Em vẫn chờ người em yêu. Chờ suốt nắng mưa. Con chim nhạn kêu buồn nơi bầu trời trống trải. Đã mòn con mắt rớm máu vẫn chưa tìm thấy người để em sinh cho những đứa con sức vóc cho đời. Nhà khảo cổ đa cảm cặm cụi tìm cách đọc một mảnh hồn sóng gió. Và quả quyết rằng văn bản đất nung này với văn bản đất nung khai quật được hai năm trước là cùng một chủ nhân: nàng Khang. Từ đó, người con gái người đời vẫn tưởng tượng là đẹp tuyệt trần, đã trở thành biểu tượng của sự lãng mạn bão táp.


Nàng là tất cả cho một tình yêu vĩnh hằng và sóng gió.


Thế giới vẫn cứ diễn ra sự sa sút về cách thế của con người. Sự sa sút thảm khốc của thế kỷ. Những nhà thiết kế chân lý vẫn đam mê tìm kiếm những con đường ở bên ngoài Mặt Đất cho con người thời đại. Những nhà thiết kế tâm hồn vẫn ngày đêm lo thiết lập những phương án chấn hưng lòng trắc ẩn. Nhưng con người của thời đại hôm nay có vẻ như vẫn muốn hận thù nhau. Có vẻ như chẳng còn muốn tin nhau.


Đêm tháng tư. Tôi ra bờ con sông Tưa nằm dài trên những vết tích cổ xưa. Trăng non đầu tháng buồn bã nơi lưng trời. Tôi nhìn trời. Nhìn trăng. Và biết là mình đang nghĩ đến người con gái có sức lan tỏa sự lãng mạn bão táp. Tôi nghĩ đến nàng Khang. Và cũng không thể nói là tôi nằm mơ. Ông đang chờ em? Nàng hỏi. Tôi nói là tôi đang chờ nàng. Tôi nói và nghe như người tôi sắp tan thành cát sỏi. Nàng còn đẹp hơn những gì tôi từng tưởng tượng. Em sẽ sinh cho ông những đứa con xinh đẹp như em từng ước mơ. Nàng nói. Và nằm xuống bên tôi. Như tất cả sự lãng mạn của thế giới đã thuộc hết về tôi. Thuộc về cái giây phút như tôi đã bước ra khỏi cuộc trần thế đỏ đen. Tôi biết sau đó là cuộc ái ân viễn tưởng lớn nhất trong mọi viễn tưởng của con người. Tôi biết là tôi đang ôm chặt lấy nàng Khang, ôm chặt lấy người con gái tôi từng mơ tưởng như một cách đào thoát, trong khoảnh khắc, khỏi cảnh u ám của thời đại. Nhưng tôi cũng biết tất cả những chuyện đó chỉ là nội dung của một trang viết cổ xưa bị vùi lấp đâu đó.

Tôi mất dần Hà Nội từng ngày




Vi Thuỳ Linh



Tháng Tư sinh nhật tôi, tháng giao mùa Xuân - Hạ, tôi cho mình sống chậm hay vì Hà Nội, thành phố cổ kính của tôi đang đau sững vết thương chất chồng lạc vào bão giông mất mát.

Sắc lá, hương cây, mùa hoa - những tín hiệu mùa thành áo của phố phường, tiết điệu cuộc sống. Đông Đô - Thăng Long - Hà Nội trong lịch sử hơn nghìn năm tuổi là chốn địa linh nằm trong sông Cái Nhĩ Hà - vành tai lượn dòng phù sa ấp ôm kinh thành cổ vô số ao hồ, cây cối, làng lúa, làng hoa. Ngoài tên hành chính, nhiều đô thị trên thế giới gắn với tên công trình kiến trúc, sản phẩm văn hóa, vật chất, tinh thần, thiên nhiên,... Hà Nội là thành phố Cây Hồ. Xem những tư liệu ảnh của người Pháp chụp Hà Nội từ thế kỷ XIX cách nay trên dưới trăm năm, Hà Nội thời ấy vắng và thơ hơn bây giờ bội phần. Hồ Gươm, hồ Tây, hồ Thiền Quang (Halais), Bảy Mẫu... đều rộng hơn hiện thời nhiều lần. Bao nhiêu hồ ao bị lấp, cây bị cưa đốn đã vĩnh viễn biến mất?!







Sau 2 tháng gần 600 cây bị chặt phá (thực tế chắc nhiều hơn), tôi mới tạm nén được nỗi xúc động để viết Thư gửi Cây. Dẫu cho được đào tạo viết báo chuyên nghiệp, nắm vững về thể loại, tôi cũng biết mình mãi mãi không bao giờ viết nổi phóng sự về việc cưa phá, chặt xẻ những hàng cây Hà Nội. Sau mỗi lần mưa bão, nhìn cây bị gãy cành, bật gốc, sõng soài bên đường, tôi còn dừng xe không cầm lòng được vì xót tiếc; huống hồ phải chứng kiến tường tận, miêu tả, thống kê cảnh bạo hành thực vật giữa thanh thiên bạch nhật! Vì đâu cây hay bật gốc? Vì vỉa hè thường xuyên được lát lại bất thường dù đang tốt, rồi đào đường, cống, lấp ổ gà hay hàng chục lý do của những sự vụ lẽ ra cần phối hợp thì lại làm ngược, chênh nhau gây lãng phí, tốn kém và tàn phá. Mỗi lần khoan đào hè phố, đường xá, xà beng, cuốc xẻng, máy xúc lại thúc nát những rễ bị đau, cụt, bị đổ chất thải, dầu, muối, phế liệu chèn ép liên hồi làm cây yếu đi, sao chịu nổi cơn mưa lớn. Sau đó, nó bị khoác tội “gây nguy hiểm” để nhận phán quyết hành hình, đốn hạ trước / trong mùa mưa bão. Rồi cơ man “cớ” khác khiến người ta nhẫn tâm, thản nhiên cho chặt dần những cây lâu năm của Hà Nội. Nét đẹp Thủ đô được nhân dân trong nước và quốc tế đánh giá là lãng mạn cổ kính chính nhờ những cây - hồ trăm tuổi đã trở thành đặc trưng, biểu tượng của thành phố, dấu hiệu đặc thù để phân biệt và được nhắc nhớ so với các đô thị khác trong nước và trên thế giới. Từ thế kỷ XIX, Bà Huyện Thanh Quan đã cảm thán trước Thăng Long không còn cung điện, kiến trúc vương triều: “Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo / Nền cũ lâu đài bóng tịch dương”. Thành Thăng Long sang thế kỷ XXI chỉ có nền móng Hoàng thành với những di vật vụn vỡ và bậc thềm điện Kính Thiên đơn lẻ, nếu còn gì để gợi vẻ cổ kính thì là nhờ kiến trúc đô thị do người Pháp quy hoạch với các khu phố có những công trình văn hóa, biệt thự và những hàng cây cao lớn, tán rợp. Như thế, cây đã thành di sản đô thị.

Thấm thoát gần nửa thế kỷ kể từ khi thi sĩ tài danh Lưu Quang Vũ (1948 - 1988) xuất bản tập Hương cây - Bếp lửa (cùng Bằng Việt), chàng trai phố Huế ấy đã truyền tải sức sống tuổi trẻ, những khát vọng mơ mộng và tình yêu với Hà Nội, với cuộc sống những năm chiến tranh chống Mỹ để cất lên tiếng thơ hòa bình và tình yêu. Hà Nội của Vũ và của nhiều nghệ sĩ ngày ấy, dù bom đạn tàn khốc vẫn đẹp và có nhiều cây cho bối cảnh mơ mộng, sáng tác. Bom đạn vũ khí của đế quốc siêu cường số 1 thế giới không hạ sát được màu xanh Hà Nội. Nên Vũ đã luôn đắm say và viết Vườn trong phốthành vẻ đẹp mãi mãi: 

“Trong thành phố có vườn cây mát  
Trong triệu người có em của ta”.
 
Em là cô gái, thiếu nữ và có thể là cây hò hẹn, cây kỷ niệm. Bây giờ nếu Lưu Quang Vũ còn sống, ông sẽ không nhận ra nhiều con đường thân quen mà ông đạp xe, đi bộ ngàn lần. Không phải do đô thị phát triển, tốc độ xây dựng đã cho thành phố dung mạo mới mà là chân dung Hà Nội đang bị tàn phá. Hà Nội là công trường ngổn ngang kéo dài, mở rộng bao nhiêu cũng không xuể vì quá tải nhập cư, chen chúc ngột ngạt thành “chuyện thường ngày”. Hiếu chiến, đua chen đi lại, trẻ con thiếu sân chơi, đô thị thiếu nơi sinh hoạt cộng đồng. May có cây xanh gánh đỡ nỗi mệt nhọc tinh thần. Hà Nội, thành phố vì hòa bình mà lại là nơi phá cây dữ nhất, tại ai? Vì đâu? Nếp lệ lâu nay là loanh quanh đổ trách nhiệm, khiển trách lấy lệ, sẽ không ai bị mất chức, chỉ có chúng ta và con cháu chúng ta bị mất mát và trả giá bởi những quyết định phản nhân văn. Tôi từng đến các nước châu Âu, nơi con người dù khốn khổ bần hàn cũng không bao giờ xử tệ, tàn ác với thiên nhiên. Trình độ quản lý đô thị và văn hóa đã quyết định tư duy, quyết sách vì lợi ích lâu dài, phát triển bền vững - xu hướng toàn cầu. Nước mắt, xót xa sao cho đủ số cây ngã gục dưới những lưỡi cưa máy hùng hục vô tình? Bà con bảo trông thợ xẻ cây chẳng khác “lâm tặc về phố”. Lâm tặc, sát thủ, đao phủ thực vật - nếu có giận dữ gọi những công nhân nhiệt tình phá hoại kia như thế cũng oan cho họ. Họ làm theo lệnh mà. Có nhiều kiểu đao phủ, kẻ cầm cưa chỉ là đao phủ thực thi... Bao cây cổ thụ đã ngã xuống, mấy chục năm, trăm năm cống hiến sinh lực che chở cho nhiều thế hệ người, không chết vì bom đạn, bão lụt mà bị cướp đoạt sự sống một cách thản nhiên lạnh lùng với đủ kiểu bao biện giữa thời bình. Thành phố mất gần hết vẻ duyên dáng, nên thơ. Ở khắp các ngã tư đều xây cầu vượt gù lưng chắn mặt. Phá cây để làm đường, làm cầu vượt, cây xanh thành phố ít dần. Mật độ cây trên đầu người càng thấp, mà vẫn chưa yên. Chúng chịu nhận phán quyết hạ sát vội vàng, không hề có trưng cầu dân ý trước một quyết sách ảnh hưởng dân sinh, môi trường, cảnh quan. Chỉ đến khi nhân dân, công luận Hà Nội và cả nước lên tiếng bất bình, mới có lệnh tạm ngừng. Sao lại tạm ngừng? Phải ngừng ngay, ngừng khẩn cấp cũng không kịp chuộc tội nữa rồi! Không gì mang lại, bù đắp được sự vắng hụt cây xanh lâu năm. Cái lệnh trí trá kia thực chất để che đậy cho một dự án phá cây để trồng mới tốn kém thời gian, sức lực, tiền bạc. Chẳng gì thay thế được họ - cả ngàn cây đã bị đốn hạ. Tôi đồng tình với thi sĩ Nguyễn Quang Thiều khi gọi cây là họ. Cây có số phận, linh hồn. Số phận và linh hồn cây liên đới tới con người. Nhìn vân thớ, thớt gỗ, độ cao của cây mà đoán tuổi, mấy ai tường minh cây này, cây kia có từ lúc nào, dù cây đó được trồng ngay trước cửa nhà hay nhiều năm gắn bó. Cây sống cùng người, người lãng quên và ác với nhau thì lấy ai nhớ sinh nhật cây?! Nhưng ngày giỗ cây thì sẽ nhiều người nhớ. Tháng 2, tháng 3 năm 2016 sẽ là giỗ đầu của những cây xà cừ, sữa, bằng lăng đã bị chết oan năm 2015.

 Lãnh tụ Hồ Chí Minh hơn một lần đề cao vai trò của cây xanh: “Vì lợi ích mười năm trồng cây”; “Mùa Xuân là tết trồng cây / Làm cho đất nước càng ngày càng xuân”. Những người có chức trách hô hào sống và làm việc theo tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại lại điềm nhiên cho phá cây xanh Hà Nội vào mùa Xuân (!). Nhiều người dân khi được VTV1 phỏng vấn về những hàng cây bị chặt hạ, đa số chỉ tiếc bóng mát, sợ cái nóng chói chang khi mùa Hè đến. Chúng ta sẽ sống ra sao giữa rừng bê tông, thép kính, khói bụi mịt mù? Tôi thương quý cây, cây cần được bảo vệ đâu chỉ vì lợi ích bóng mát. Những tàng cây, tán lá, búp xanh tươi, nơi đất tốt, cố gắng sinh tồn tới khi phải lìa cành, không vì vàng úa mà bởi bị cành bị chặt lúc đang khỏe, xanh. Màu sắc, hương thơm, mùi cây làm nên đặc trưng phố, thậm chí là biểu tượng thành phố, cây đồng hành và gắn với lịch sử của phố phường, mỗi quê làng, nông thôn và thành thị. Cây là điểm hẹn, là bối cảnh của những kỷ niệm, là chi tiết động, nhân chứng của bao ký ức tâm hồn. Đường vỉa hè với hàng cây cổ kính và đẹp nhất Hà Nội - Phan Đình Phùng rợp xanh sấu cổ thụ, đường Hoàng Diệu xà cừ tỏa bóng, bên Hoàng Thành Thăng Long những hàng liễu, sấu, lộc vừng, đa phượng bên hồ Gươm mà Tô Hoài đã gọi đấy là miền cổ tích, phố hoa sữa Quang Trung - Nguyễn Du - Quán Thánh, phượng đôi hàng ngắm nhìn đôi lứa đường Thanh Niên giữa Trúc Bạch - hồ Tây thơ mộng..., dãy cơm nguội trên phố Yên Phụ, Phan Chu Trinh. Hàng sao thẳng tắp trên phố Lò Đúc gọi cò về...



Cùng một đoạn đường, trước và sau khi chặt cây (ảnh Interrnet)


Kể làm sao hết sự gắn quyện ấy khi cây đi vào nỗi nhớ, miền tự hào, lời kể của những ai sinh tụ và khách đến nơi này. Cây chịu đựng nhẫn nhịn và đáp lại sự vô tình, bạc đãi của con người bằng tận hiến. Loài người đã nói quá nhiều, chúng ta đã nói quá nhiều trong đó vô vàn lời gây chiến và giả dối. Nhân loại ngày càng ít, ngày càng giảm khả năng lắng nghe, nghe đồng loại, nói gì đến nghe lời kêu cứu, tiếng gọi tuyệt vọng từ thiên nhiên. Cây chứng kiến và sẻ chia với chúng ta thăng trầm cuộc đời trong sự hiện diện lặng lẽ của cây, chỉ người có tâm hồn nhân ái may ra mới nghe thấy tâm tình của họ. Họ, những hàng cây các loài, số tuổi sống không theo đặc thù sinh học, mà phụ thuộc vào đối xử của con người và sự hiểu biết, sự thực dụng hay giận dữ, sự ngu cuồng hay điên loạn của loài ác nhất - loài người. Cây rì rào gieo hay khóc thầm bằng lá trong sự gắn kết với bạn thân: nắng - gió - mưa. Cây chẳng dám chờ đợi gì ở sự tử tế của người, ở những hứa hẹn lấy lệ và bốc đồng của người, chúng cố sống với chức phận cống hiến. Người hít oxy, thở ra carbonic, còn cây thì hít carbonic và thở ra oxy nên người ta mới coi cây xanh là lá phổi của thành phố. Ô nhiễm trầm trọng tại các đô thị bởi khí thải các loại chỉ có thể cải tạo khi chăm chút và giữ gìn hệ sinh thái thực vật. Giữa xô bồ ngột ngạt, náo loạn của xã hội không ít sự xuống cấp, tôi biết ơn cây. Nếu tất cả chúng ta đều biết ơn cây và bảo bệ thiên nhiên thì cuộc sống êm ả biết bao. Đấy chính là cách bảo vệ sự sống Trái đất, bảo vệ chính mình và con cháu mình. Khi làm mẹ, xem những thông tin, phóng sự về địa cầu bị tàn phá, tài nguyên Việt Nam bị khai thác cạn kiệt ở mọi khu vực: biển, rừng, năng lượng, động vật, thực vật. Lòng tôi đầy lo lắng: 20 - 30 năm nữa khi con tôi trưởng thành, thế hệ của cháu sẽ còn gì? Những tư duy hám lợi trước mắt, vơ vét mọi giá, man rợ vô tình cần gì nghĩ đến tương lai! Cây - nhân tố cân bằng của cảnh quan vẫn âm thầm quang hợp. Hà Nội sau mở rộng gần 7 năm, tôi chưa và sẽ chẳng khi nào đi hết. Những làng hoa đã mất. Những cánh đồng đã mất. Những hàng cây đã mất. Chúng lần lượt bị điểm danh bởi loạt dự án bê tông thay thế thiên nhiên, quỹ đất của thành phố dành quá nhiều để xây chung cư, cao ốc, quỹ đất lấy từ thiên nhiên nghìn đời. Đấy là sự thay thế xóa sổ. Trước đây, thỉnh thoảng lại thấy cây xanh bị đốn, cho lên xe tải chở đi. Một cây đã xót lắm rồi. Lý do trá hình cưa cây sâu bệnh tránh nguy hiểm cho dân chúng không ngụy biện được cho quyết định phá hoại gần 7.000 cây xanh theo cái gọi là “Quy hoạch hệ thống cây xanh, công viên, vườn hoa đến năm 2030” do Viện Quy hoạch xây dựng lập. Các bạn trẻ thành phố Hồ Chí Minh đã thắt nơ vàng lên thân cây xà cừ cổ thụ làm lời tiễn biệt trước khi cây bị cưa xẻ thành khúc, trên đường Tôn Đức Thắng, để làm cầu Thủ Thiêm 2. Nhưng Hà thành không thể như Sài thành, bị sát thủ cây đột ngột vung cưa mau lẹ không ai kịp buộc nơ, chỉ kịp nhìn những chữ X đánh dấu bằng vôi trắng trên những thân cây bị hành quyết. Cuộc sống sẽ nghèo nàn nhàm tẻ và đáng sợ thế nào nếu người ta chỉ biết đến tiền!

Thăng Long nức nở gọi Hà Nội xác xơ diệp lục. Tình tự cây, hồ lẽ nào chỉ là xúc cảm hoài niệm. Cây ơi, tôi không dám nhìn lưỡi cưa sắc lẹm lìa vào thân cây tuôn nhựa máu. Nhựa cây trắng chẳng làm động lòng những kẻ muốn đoạn tuyệt xanh. Hà Nội xây dựng Thủ đô xanh sạch đẹp, phấn đấu văn minh hiện đại mà lại để việc chặt phá cây bạo tàn gây phẫn nộ, chấn động trong và ngoài nước. Phố trơ trụi, với cây mới cụt lủn lá cành trồng thay thế. Đô thị văn minh không thể thiếu cây. Khắp thế giới đang cố gắng bảo vệ rừng để cứu hành tinh và loài người thì Hà Nội 1.005 tuổi lại từ biệt diệp lục. Tâm hồn chúng ta quang hợp thế nào trong thành phố bê-tông, di sản đô thị còn gì để trao truyền thế hệ kế tiếp? Thi hào Đức Goethe (1749 - 1832) khẳng định: “Mọi lý thuyết trên đời đều màu xám, còn cây đời thì mãi mãi xanh tươi”
Hà Nội của tôi ơi, tôi thương Hà Nội quá! Thương Hà Nội mà càng thương mình, con cháu mình. Những người yêu cây hình như hơi muộn tập hợp nhau trong sự đồng tình mãnh liệt làm gì cho thiên nhiên thành phố, phải làm gì hơn là chỉ biết tiếc, phải làm gì trước những đồng loại vô tâm, tàn bạo ô nhiễm tinh thần. Không gian địa lý và văn hóa đô thị cần hệ thống cây xanh, công viên, vườn hoa nó càng cần cho ký ức cá nhân và cộng đồng ở thành phố văn hiến. Chính cây xanh đã góp phần giữ lại vẻ đẹp, những chi tiết lịch sử dẫu những biến động của hoàn cảnh xã hội của thời gian. Thành phố với vẻ đẹp tự nhiên (tất nhiên được con người chăm sóc) của cây xanh tạo nên không gian sống không gì thay thế được. Chúng ta được cân bằng, điều hòa cả tâm lý lẫn không khí qua cảnh sắc theo mùa với cảm xúc bình yên thơ mộng, trầm mặc và sâu sắc. Ai giữ lại những thân cổ thụ nằm rạp dưới những lưỡi cưa? Phép màu nào đem lại sự sống, trả lại xanh cho những chỗ trống, hố gốc cây khi đoàn xe tải nối nhau chở thân gỗ vài vòng ôm ra bãi tập kết. Ai bán - ai mua số gỗ ấy? Một anh bạn ở Viện Khoa học Lâm nghiệp cho tôi biết một lượng gỗ lớn bị chặt nằm ngổn ngang tại gần Cầu Diễn. Tôi không dám đến tận nơi để nhìn những “chiến sĩ cây” bị hại giữa thời bình. Cuộc sống là liên tục chuyển động, nhưng những giá trị tốt đẹp cần được luân lưu, trong đó có hệ di sản vật thể, phi vật thể.

Cây xanh trong mỗi đô thị là một phần di sản, đâu chỉ ở lợi ích về bóng mát mà ở giá trị tinh thần. Việt Nam đang có trào lưu phát triển du lịch, tuyên truyền bảo vệ di sản, xây dựng văn hóa sống, xây dựng văn hóa người Hà Nội thời đại mới. Vậy sao ngay ở Thủ đô - Trung tâm văn hóa đất nước lại có những ứng xử ngược đãi với cây - những lá phổi sự sống? Đời cây kết những kỷ niệm, sự kiện và là nhân chứng trường kỳ của Quá khứ và Tương lai. Hà Nội những năm chiến tranh, phố phường và con người lại đẹp, thơ, thư thả và bình yên hơn, dù loạn lạc và nghèo khổ. Giá trị lớn nhất của di sản là giá trị lịch sử. Số phận của cây xanh gắn với lịch sử ấy. Cây cần được nâng niu trân trọng, thậm chí được nhận sự thành kính. Không ai cấm ước mơ, nhưng giờ thì tôi chẳng dám ước mơ rừng trong phố. Kể cả dự định dắt con đi trên vỉa hè rợp bóng cây cùng là tưởng tượng bất an: liệu vài năm nữa còn cây cổ thụ không? Phá rừng làm thủy điện, phá cây để trồng bê-tông, người ta đang cắt đi từng thùy phổi của lá phổi thiên nhiên, làm sao có không khí trong lành cho những giấc mơ. Một đời cây có thể là một hoặc nhiều đời người. Đi chậm qua những thân cây gắn biển xanh đề tên và số. Đọc tên lên mà lại như nghe thấy âm vọng tương phản của những quy hoạch lạnh lùng, vô lối có thể sẽ gọi tên hàng trăm cây kết liễu. Trên những con đường trần trụi, không bóng mát, không bóng cây, người nhốn nháo, phạc phờ dưới nắng, lếch thếch dưới mưa. Cây bị hại bầy đàn và cây luôn cô độc. Người quá đông, mà lại thật cô đơn. Càng nhiều người giàu lên thì lại đông người nghèo tinh thần. Người thật đáng thương, chẳng có thanh thản nào cho tâm hồn khi những cây gắn với ký ức chúng ta không trở lại, dù chỉ là bóng thôi, trong những tưởng tượng chống đỡ mất mát và thương tổn của đất thiêng Hà Nội.

Vi Thuỳ Linh

Thứ Sáu, 5 tháng 6, 2015

Tòa bồi thường ông Nguyễn Thanh Chấn 7,2 tỷ







Tác giả: Chung Hoàng- Hồng Nhì

. Chánh án TANDTC cho biết tòa án đã xin lỗi và ông Nguyễn Thanh Chấn đã đồng ý mức bồi thường 7,2 tỷ đồng.

Phát biểu tại phiên thảo luận báo cáo giám sát của QH về tình hình oan sai và bồi thường chiều nay, Viện trưởng VKSNDTC Nguyễn Hòa Bình cho hay: Còn một vụ oan chúng tôi cũng đau như người dân. Chúng tôi xin lỗi những người bị oan và gia đình, và sẽ tiếp tục quyết liệt hơn nữa để hạn chế đến mức thấp nhất các vụ oan.

Ông cũng cho biết ngành đã áp dụng nhiều biện pháp để giảm thiểu oan sai, vì biết rằng “làm hàng chục vụ án chưa chắc có thành tích, nhưng oan sai một vụ là chắc chắn bị kỷ luật”.

Viện trưởng VKSNDTC Nguyễn Hòa Bình xin lỗi người bị oan và các gia đình


Để hạn chế oan sai và loại trừ bức cung, nhục hình, ngành thậm chí đã áp dụng những biện pháp mà như ông nói đến lúc này là lần đầu tiên áp dụng trên thế giới. Đó là nối mạng phòng xét xử với phòng làm việc của Viện trưởng VKS cấp tỉnh để họ quan sát diễn biến phiên tòa, từ đó đánh giá năng lực và trách nhiệm của các công tố viên; nối các phòng xét xử với giảng đường của cơ sở đào tạo để sinh viên tiếp cận thực tế các vụ án.

Ông Nguyễn Hòa Bình cho hay việc xử lý nội bộ những người để xảy ra oan sai là khá nhiều, kiểm soát nội bộ và kiểm soát chéo giữa ba ngành cũng được tăng cường. Hầu hết các vụ mà các ĐBQH nêu ra như Nguyễn Thanh Chấn, Trần Đề… đã có cán bộ tư pháp, kể cả điều tra viên, kiểm sát viên và thẩm phán, bị khởi tố, không có bao che hay xử nhẹ.

Giải pháp của Viện trưởng nhấn mạnh vào việc sửa luật Tố tụng hình sự: minh bạch quá trình tố tụng, tăng cường sự giám sát của cơ quan dân cử, của dân; tăng trách nhiệm của điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán; đảm bảo cho luật sư tiếp cận quá trình tố tụng sớm hơn, rộng hơn, thuận tiện hơn…

“Đề cao nguyên tắc trong Hiến pháp là nguyên tắc tranh tụng, trao cho tòa án quyền phán quyết dựa trên việc tranh tụng và đưa ra chứng cứ tại tòa, quyền không mở phiên tòa khi phát hiện quá trình tố tụng có vi phạm. Nguyên tắc suy đoán vô tội cũng sẽ được tôn trọng”, ông Nguyễn Hòa Bình nhấn mạnh.

Là người phát biểu cuối cùng trong phiên thảo luận, Chánh án TANDTC Trương Hòa Bình cung cấp thông tin, liên quan vụ ông Nguyễn Thanh Chấn đòi bồi thường oan sai, tòa án đã xin lỗi và thương lượng bồi thường. Ông Chấn đã đồng ý mức 7,2 tỷ đồng, hiện đang làm thủ tục để các cơ quan tài chính chi trả.

Điều tra viên phải thụ lý 70 vụ/năm

Trước đó, Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang cho biết, mặc dù số vụ oan sai giảm nhưng hoạt động điều tra xử lý tội phạm vẫn còn một số hạn chế, thiếu sót. Cá biệt ở nơi này nơi khác còn xảy ra một số vụ oan sai, thậm chí vẫn còn việc bức cung nhục hình, ảnh hưởng đến uy tín các cơ quan tiến hành tố tụng gây bức xúc trong dư luận.

Bộ trưởng Công an Trần Đại Quang

Đối với cán bộ chiến sĩ công an đã có những hành vi vi phạm trong quá trình điều tra xử lý tội phạm, Bộ trưởng khẳng định quan điểm nhất quán của Đảng ủy Công an TƯ và lãnh đạo Bộ là xử lý nghiêm theo pháp luật.
“Từ 1/1/2011 đến nay, đã có 40 cán bộ chiến sĩ bị khởi tố, điều tra, truy tố xét xử về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp. Đồng thời lãnh đạo chỉ huy các đơn vị để cán bộ chiến sĩ có hành vi xâm phạm hoạt động tư pháp đều bị xử lý trách nhiệm liên đới”, ông thông tin. Ông Quang đưa ra ví dụ cụ thể vụ bắt tạm giam oan 7 người trong vụ án giết người tại Sóc Trăng năm 2013. Bộ Công an đã chỉ đạo khởi tố 2 điều tra viên về tội nhục hình, xử lý kỷ luật 25 cán bộ của công an tỉnh Sóc Trăng có liên quan bằng nhiều hình thức như cách chức, giáng cấp, cảnh cáo, khiển trách, miễn nhiệm… Theo Bộ trưởng Trần Đại Quang, việc dẫn đến oan sai là do tình hình tội phạm diễn biến phức tạp, số vụ án bị can khởi tố điều tra tăng, tính chất tội phạm ngày càng nghiêm trọng, thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi. Bên cạnh đó biên chế lực lượng điều tra còn thiếu, nhiều cơ quan điều tra có điều tra viên thụ lý từ 30 – 50 vụ án/năm, thậm chí có điều tra viên thụ lý 70 vụ án/năm gây áp lực lớn tới cán bộ điều tra, ảnh hưởng đến chất lượng điều tra, xử lý tội phạm.

Ngoài ra, một số điều tra viên ở địa phương còn tư tưởng chủ quan, nhất là trước áp lực công việc yêu cầu công việc cần kết thúc sớm vụ án hoặc do áp lực của dư luận. Hay có những cán bộ còn có tư tưởng thành tích dẫn đến nóng vội trong thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ. Chưa coi trọng đầy đủ việc thu thập chứng cứ rõ tội…

Bộ trưởng Công an cam kết ngành kiên quyết phòng chống oan sai, không bỏ lọt tội phạm, không để oan, sai, nghiêm cấm dùng bức cung nhục hình.

Vũ Khí Nguyên Tử Đã Nổ Tại Trung Đông?



Giáo sư Michel Chossudovsky của nhóm nghiên cứu toàn cầu Canada cho biết có chỉ dấu Mỹ đã dùng vũ khí nguyên tử chiến thuật (tactical nuke) hay nguyên tử loại nhỏ (mini -nuke) trong trận chiến tại Yemen.


Ngoài đoạn phim quay được từ xa, chưa có một nỗ lực điều tra nào từ phía chính qui về vụ nổ lớn này. Cũng không có thêm chi tiết gì khác để xác minh tác dụng và tác hại của nguyên tử.

Tuy nhiên, chủ trương dùng nguyên tử chiến thuật (mini nuke) đã trở thành chính sách công khai trong 20 năm qua với sự sản xuất hàng loạt do các công ty vũ khí lớn của Mỹ trách nhiệm.

Vấn đề còn lại là những bằng chứng mang tính hậu quả của chủ trương này của Mỹ và NATO tại Trung Đông.

 

Theo Nhân Chủ, việc Mỹ đã sử dụng nguyên tử chiến thuật tại Yemen có xác suất cao. Vỉ nó không chỉ là nhu cầu giải quyết quân sự mà trọng tâm chính là khủng bố tâm lý toàn diện nhân loại về một viễn cảnh chiến tranh nguyên tử . Bọn nhà nước quân sự đang rò rỉ để thăm dò dư luận trước khi mặc nhiên coi như đã dùng nguyên tử chiến thuật.

Cuộc "chạy đua vũ trang" được Nga Mỹ tái dấy động không chỉ đơn thuần là tài chính hay tương tranh như đang được loan tải, mà chính là KHẲNG ĐỊNH VAI TRÒ CHỦ THỂ BẠO LỰC của ĐỊNH CHẾ NHÀ NƯỚC CHÍNH PHỦ QUÂN ĐỘI AN NINH.

Sau cuộc chiến tranh "lạnh", chưa bao giờ dư luận quần chúng Âu Mỹ hãi sợ co cụm và núp sau lưng nhà nước quân đội an ninh như hôm nay. Họ tê liệt ngay cả với những tàn bạo ngang nhiên của quân đội an ninh xảy ra trong đời sống xã hội của chính họ.

Người dân Âu Mỹ và thế giới nói chung đã từng chính đáng hóa "quyền nhà nước cứu nhân loại" bằng nguyên tử tại Hiroshima, Nagazaki- Từng chính đáng hóa " "quyền nhà nước cứu nhân loại" bằng cách giết 500 ngàn trẻ em Iraq- Từng chính đáng hóa " "quyền nhà nước cứu nhân loại" bằng cuộc chiến phá hoại với lý cớ dối trá "Vũ Khí Toàn Diệt Sadam Husein" v.v Nhà nước Mỹ chẳng còn gì sợ hay e dè khi dùng nguyên tử chiến thuật.

Các lực lượng đối kháng Mỹ mới thật sự là điều mà Âu Mỹ e dè. Nếu Âu Mỹ chính đáng hóa việc dùng nguyên tử chiến thuật và được quần chúng dư luận thế giới cho qua... các nhóm phiến quân đối kháng thật sự (không phải "khủng bố" làm tại Langley USA) cũng chẳng còn ngần ngại e dè tìm cách sở hữu và tận dụng nó trong tương lai.

Vũ khi nguyên tử chiến thuật là một phương tiện hữu hiệu nhất của Âu Mỹ trong chiến lược khủng bố tâm lý quần chúng toàn cầu. Nó muốn nhắn nhủ các "con em nhà nước chính phủ lẹp tẹp "như Nam Dương, Việt Nam, Úc, Ba Lan, Tiệp, Ý v.v cứ mua các loại vũ khí máy bay mà bảo vệ tổ cò... nhưng đừng mơ mòng đối kháng "cường quốc" nếu không có "Mỹ chúng ông". Và phải coi chừng, bọn "khủng bố của chúng ông" cũng sẽ có những vũ khí này!

Tại sao nhân loại vẫn tôn thờ bọn băng hoại tâm thần tác giả của những trò tàn sát con người kinh khủng đến thế?

Mỗi cá nhân chúng ta phải tự truy vấn để có câu trả lời cho chính bản thân mình.


Nhân Chủ
=

The War on Yemen, America’s Plans to Use Nuclear Weapons against the Middle East
By Prof Michel Chossudovsky
Global Research, June 02, 2015
Url of this article:
http://www.globalresearch.ca/the-war-on-yemen-americas-plans-to-use-nuclear-weapons-against-the-middle-east/5453065
Unconfirmed reports based on a video release dated May 20, 2015 point to a massive and unprecedented bomb explosion in Yemen.
The reports suggest without corroborating evidence that the explosion could have been the result of a nuclear strike, using a tactical nuclear weapon. There is no evidence to that effect.
Whatever the nature of this explosion, it constitutes a crime against humanity.
While there is no concrete evidence that the US led alliance has used nukes against Yemen, the broader issue of nuclear war against the Middle East is, nonetheless, of utmost relevance.
Washington’s nuclear agenda as defined by the 2001 Nuclear Posture Review (2001) consists in developing its tactical nuclear arsenal for use against non-nuclear States.
Since 2002, US-NATO tactical nuclear weapons targeting the Middle East are fully deployed.
Tactical nuclear weapons or so-called “mini-nukes” are bunker buster bombs equipped with a nuclear warhead. Their explosive capacity (e.g. the B61-11) varies between one third and six times a Hiroshima bomb.
The image (right) is a B61-11 tactical nuclear bomb, which can be launched either from a B-2 bomber or an F-16.
The B61-11 is a bon fide thermonuclear bomb, a Weapon of Mass Destruction (WMD) in the real sense of the word.
Sofar the evidence is scanty. There are no reports on the aftermath of the alleged strike in Yemen which would provide further information.
The mainstream media has not covered the issue. The matter requires further investigation in the context of a longstanding US agenda to use nuclear weapons against targets in the Middle East.
Video: The Yemen Bomb Explosion
Nuclear Attacks against countries in the Middle East
The alleged yet unconfirmed use of mini-nukes against Yemen raises the broader issue of US nuclear doctrine:

Tactical nuclear weapons or mini-nukes are part of the US-NATO arsenal.
They were cleared for use in the conventional war theater by the US Senate in 2002.
They can be used without the approval of the Commander in Chief;
The US military contends that “mini-nukes” are “humanitarian bombs” which minimize “collateral damage”. According to scientific opinion on contract to the Pentagon, they are “harmless to the surrounding civilian population because the explosion is underground”.While the scanty “evidence” of a nuclear attack against Yemen remains unconfirmed, the use of mini-nukes against countries in the Middle East has been on the Pentagon’s drawing board for almost 20 years. In 1996 under the Clinton administration, the B61-11 tactical nuclear weapon was slated to be used by the US in an attack against Libya.



B61-11The man behind this diabolical project to nuke Libya was Assistant Secretary of Defense Harold Palmer Smith Junior. “Even before the B61 came on line, Libya was identified as a potential target”. (Bulletin of the Atomic Scientists – September/ October 1997, p. 27, emphasis added)

Harold Palmer Smith had been appointed by President Bill Clinton to oversee nuclear, chemical, and biological defense programs with a focus on “the reduction and maintenance of the US arsenal of nuclear weapons”. From the outset, his actual mandate, was not to “reduce” but to “increase” the nuclear arsenal by promoting the development of a new generation of “harmless” mini-nukes for use in the Middle East war theater.

The Department of Defense’s objective under Harold Smith’s advice was to fast-track the “testing” of the B61-11 nuclear bomb on an actual country in the Middle East.

Five months after [Assistant Defense Secretary] Harold Smith called for an acceleration of the B61-11 production schedule, he went public with an assertion that the Air Force would use the B61-11 [nuclear weapon] against Libya… (http://www.nukestrat.com/us/afn/B61-11.htm,)While the Pentagon later denied its intention to bomb Libya’s Tarhunah plant, it nonetheless confirmed that “Washington would not rule out using nuclear weapons [against Libya]“. (Ibid., emphasis added.)
What is the relevance of the history of the B61-11 tactical nuclear bomb and the earlier threats directed by the Clinton administration against Libya?
Was the project to nuke Libya shelved?
Are countries in the Middle East potential targets for a nuclear attack? (For further details, see Michel Chossudovsky, Dangerous Crossroads: Is America Considering the Use of Nuclear Weapons against Libya? Global Research, April 2011).
The tactical nuclear weapons were specifically developed for use in post Cold War “conventional conflicts with third world nations”. In October 2001, in the immediate wake of 9/11, Defense Secretary Donald Rumsfeld envisaged the use of the B61-11 in Afghanistan. The targets were Al Qaeda cave bunkers in the Tora Bora mountains.
Rumsfeld stated at the time that while the “conventional” bunker buster bombs “‘are going to be able to do the job’, … he did not rule out the eventual use of nuclear weapons.” (Quoted in the Houston Chronicle, 20 October 2001, emphasis added.)
The use of the B61-11 was also contemplated during the 2003 bombing and invasion of Iraq as well as in the 2011 NATO bombings of Libya.
In this regard, the B61-11 was described as “a precise, earth-penetrating low-yield nuclear weapon against high-value underground targets”, which included Saddam Hussein’s underground bunkers:

”If Saddam was arguably the highest value target in Iraq, then a good case could be made for using a nuclear weapon like the B61-11 to assure killing him and decapitating the regime” (.Defense News, December 8, 2003).There is no documentary evidence, however, that the B61-11 was used against Iraq.
The use of mini-nukes against non-nuclear states in the Middle East as defined by the 2001 Nuclear Posture Review remains on the Pentagon’s drawing board. Moreover, the B61-11 tactical nuclear weapon (Made in America) as well as the B61 12 upgrade have been deployed for use against targets in the Middle East including Iran, Syria and Libya by several European countries including five non-nuclear states (Belgium, Germany, Italy, Netherlands, Turkey). The new B61 12 is a 50 kiloton weapon, which would be delivered by the F-35 fighter jet.
According to reports, Israel also has an arsenal of tactical nuclear weapons.


Source: Federation of American Scientists
The Nature of The Yemen ExplosionWhile the Yemen explosion in the video (above) appears similar to that of a B61-11 tactical nuclear bomb with a mushroom cloud, it is worth noting that the conventional Mass Ordnance Penetrator (MOP) bomb triggers a similar explosion.
The largest conventional bomb in the US arsenal is the so-called Mass Ordnance Penetrator (MOP) or the Mother of All Bombs (MOAB) (see images below). The explosion of a MOP (which is a conventional weapon) is (according to photographic evidence) similar to that recorded in the Yemen video. Moreover, according to unconfirmed reports, the MOP was used during the war on Iraq.
In other words, the nature of the explosion does not in itself prove that it was the result of a (tactical) nuclear strike. It could have been a MOP or a bunker buster bomb explosion. But even in this case, the evidence is scanty.
Both the MOP and the mini nukes are bunker buster earth penetrating bombs. The MOP however is a conventional weapon. It does not have a nuclear warhead.
It is worth noting that in mid January 2015, two months prior to the onslaught of the Saudi bombing campaign against Yemen, “the Pentagon was involved in the testing of the largest bomb in its arsenal”, an improved version of the bunker buster Mass Ordnance Penetrator (MOP), developed by Boeing.archive photo of MOAB explosion
According to reports, The Mass Ordnance Penetrator e.g. MOP GBU-57, would be delivered with either a B-52 or a B-2 bomber due to its weight. The decision to undertake a MOP strike would emanate from US “Global Strike Command”.



GBU-57A/B Mass Ordnance Penetrator (MOP)
There are indications, however, that a lighter MOP missile has been developed. According to Air Force Magazine, USAF Lt. Gen. Phillip Breedlove (currently Commander in Chief of NATO) stated in June 2010 that “the Next-generation Penetrator Munition should be about a third the size of the Massive Ordnance Penetrator so it could be carried by affordable aircraft”.In the image below a B52 bomber releases a MOP, escorted by a F-16. The MOP is a tele-guided missile.



B-52 dropping a MOP escorted by an F-16 during a test trail.
The B-2 bomber operates out of a US Air force base in Missouri. With refuelling it can be deployed Worldwide. The B2 can be used to deliver a Mass Ordnance Penetrator (MOP) missile or a tactical nuclear bomb.




“Mother of All Bombs” (MOAB)
Copyright © 2015 Global Research



Military Madness: US Officials Consider Nuclear Strikes against Russia
By Niles Williamson
Global Research, June 05, 2015
World Socialist Web Site
Region: Russia and FSU, USA
Theme: Militarization and WMD, US NATO War Agenda
In-depth Report: Nuclear War


260
38 0
409
US Defense Secretary Ashton Carter is meeting today at the headquarters of the US European Command in Stuttgart, Germany with two dozen US military commanders and European diplomats to discuss how to escalate their economic and military campaign against Russia. They will assess the impact of current economic sanctions, as well as NATO’s strategy of exploiting the crisis in eastern Ukraine to deploy ever-greater numbers of troops and military equipment to Eastern Europe, threatening Russia with war.
A US defense official told Reuters that the main purpose of the meeting was to “assess and strategize on how the United States and key allies should think about heightened tensions with Russia over the past year.” The official also said Carter was open to providing the Ukrainian regime with lethal weapons, a proposal which had been put forward earlier in the year.
Most provocatively, a report published by the Associated Press yesterday reports that the Pentagon has been actively considering the use of nuclear missiles against military targets inside Russia, in response to what it alleges are violations of the 1987 Intermediate-range Nuclear Forces (INF) treaty. Russia denies US claims that it has violated the INF by flight-testing ground-launched cruise missiles with a prohibited range.
Three options being considered by the Pentagon are the placement of anti-missile defenses in Europe aimed at shooting Russian missiles out of the sky; a “counterforce” option that would involve pre-emptive non-nuclear strikes on Russia military sites; and finally, “countervailing strike capabilities,” involving the pre-emptive deployment of nuclear missiles against targets inside Russia.
The AP states: “The options go so far as one implied—but not stated explicitly—that would improve the ability of US nuclear weapons to destroy military targets on Russian territory.” In other words, the US is actively preparing nuclear war against Russia.
Robert Scher, one of Carter’s nuclear policy aides, told Congress in April that the deployment of “counterforce” measures would mean “we could go about and actually attack that missile where it is in Russia.”
According to other Pentagon officials, this option would entail the deployment of ground-launched cruise missiles throughout Europe.
Pentagon spokesman Lt. Col. Joe Skewers told AP, “All the options under consideration are designed to ensure that Russia gains no significant military advantage from their violation.”
The criminality and recklessness of the foreign policy of Washington and its NATO allies is staggering. A pre-emptive nuclear strike against Russian forces, many of them near populated areas, could claim millions of lives in seconds and lead to a nuclear war that would obliterate humanity. Even assuming that the US officials threatening Russia do not actually want such an outcome, however, and that they are only trying to intimidate Moscow, there is a sinister objective logic to such threats.
Nuclear warmongering by US officials immensely heightens the danger of all-out war erupting accidentally, amid escalating military tensions and strategic uncertainty. NATO forces are deploying for military exercises all around Russia, from the Arctic and Baltic Seas to Eastern Europe and the Black and Mediterranean Seas. Regional militaries are all on hair-trigger alerts.
US officials threatening Russia cannot know how the Kremlin will react to such threats. With Moscow concerned about the danger of a sudden NATO strike, Russia is ever more likely to respond to perceived signs of NATO military action by launching its missiles, fearing that otherwise the missiles will be destroyed on the ground. The danger of miscalculations and miscommunications leading to all-out war is immensely heightened.
The statements of Scher and Carter confirm warnings made last year by the WSWS, that NATO’s decision to back a fascist-led putsch in Kiev in February, and to blame Russia without any evidence for shooting down flight MH17, posed the risk of war. “Are you ready for war—including possibly nuclear war—between the United States, Europe, and Russia? That is the question that everyone should be asking him- or herself in light of the developments since the destruction of Malaysian Airlines Flight MH17,” the WSWS wrote .
In March, Putin stated that he had placed Russian forces, including its nuclear forces, on alert in the aftermath of the Kiev putsch, fearing a NATO attack on Russia. Now the threat of war arising from US policy has been confirmed directly by statements of the US military.
These threats have developed largely behind the backs of the world working class. Workers in the United States, Europe and worldwide have time and again shown their hostility to US wars in Iraq or in Afghanistan. Yet nearly 15 years after these wars began, the world stands on the brink of an even bloodier and more devastating conflict, and the media and ruling elites the world over are hiding the risk of nuclear war.
US President Barack Obama is expected to escalate pressure on Russia at the G7 summit this weekend, pressing European leaders to maintain economic sanctions put in place in response to Russia’s annexation of Crimea last year. The latest outbreak in violence in Ukraine this week, which the US blames on Russia, is to serve as a pretext for continuing the sanctions.
Speaking to Parliament on Thursday, Ukrainian President Petro Poroshenko warned of a “colossal threat of the resumption of large-scale hostilities by Russian and terrorist forces.” He claimed without proof that 9,000 Russian soldiers are deployed in rebel-held areas of Donetsk and Luhansk, in eastern Ukraine.
“Ukraine’s military should be ready for a new offensive by the enemy, as well as a full-scale invasion along the entire border with the Russian Federation,” Poroshenko said. “We must be really prepared for this.” He said the Ukrainian army had at least 50,000 soldiers stationed in the east, prepared to defend the country.
Poroshenko’s remarks came a day after renewed fighting in eastern Ukraine between Kiev forces and Russian-backed separatists resulted in dozens of casualties. This week’s fighting marked the largest breach to date of the cease-fire signed in February.
Kremlin spokesman Dimitry Peskov told reporters on Thursday that Russia believed the previous day’s hostilities had been provoked by Kiev to influence upcoming discussions at the G7 summit this weekend and the EU summit in Brussels at the end of the month. “These provocative actions are organized by Ukraine’s military forces, and we are concerned with that,” he stated.
Each side blamed the other for initiating fighting in Marinka, approximately nine miles west of the rebel stronghold of Donetsk. Yuriy Biryukov, an adviser to Poroshenko, reported on Thursday that five Ukrainian soldiers had been killed in the fighting, and another 39 wounded. Eduard Basurin, deputy defense minister and spokesman for the Donetsk People’s Republic (DPR), told Interfax that 16 rebel fighters and five civilians had been killed.
Ukrainian forces also fired artillery at the rebel-held city of Donetsk on Wednesday. Shells landed in the southwest districts of Kirovsky and Petrovsky, killing 6 people and wounding at least 90 others. The city’s Sokol market was severely damaged, with several rows of shops burned to the ground.
Responding to Wednesday’s developments, members of the fascistic Right Sector militia have been called to mobilize for battle. Andrey Stempitsky, commander of the militia’s paramilitary battalion, posted a message on Facebook calling on those who went home during the cease-fire to “return to their combat units.” He warned that the Right Sector would “wage war, ignoring the truce devotees.”- See more at: http://www.globalresearch.ca/us-officials-consider-nuclear-strikes-against-russia/5453655#sthash.0oKWAK6r.dpuf




Military Madness: US Officials Consider Nuclear Strikes against Russia
By Niles Williamson
Global Research, June 05, 2015
Url of this article:
http://www.globalresearch.ca/us-officials-consider-nuclear-strikes-against-russia/5453655
US Defense Secretary Ashton Carter is meeting today at the headquarters of the US European Command in Stuttgart, Germany with two dozen US military commanders and European diplomats to discuss how to escalate their economic and military campaign against Russia. They will assess the impact of current economic sanctions, as well as NATO’s strategy of exploiting the crisis in eastern Ukraine to deploy ever-greater numbers of troops and military equipment to Eastern Europe, threatening Russia with war.
A US defense official told Reuters that the main purpose of the meeting was to “assess and strategize on how the United States and key allies should think about heightened tensions with Russia over the past year.” The official also said Carter was open to providing the Ukrainian regime with lethal weapons, a proposal which had been put forward earlier in the year.
Most provocatively, a report published by the Associated Press yesterday reports that the Pentagon has been actively considering the use of nuclear missiles against military targets inside Russia, in response to what it alleges are violations of the 1987 Intermediate-range Nuclear Forces (INF) treaty. Russia denies US claims that it has violated the INF by flight-testing ground-launched cruise missiles with a prohibited range.
Three options being considered by the Pentagon are the placement of anti-missile defenses in Europe aimed at shooting Russian missiles out of the sky; a “counterforce” option that would involve pre-emptive non-nuclear strikes on Russia military sites; and finally, “countervailing strike capabilities,” involving the pre-emptive deployment of nuclear missiles against targets inside Russia.
The AP states: “The options go so far as one implied—but not stated explicitly—that would improve the ability of US nuclear weapons to destroy military targets on Russian territory.” In other words, the US is actively preparing nuclear war against Russia.
Robert Scher, one of Carter’s nuclear policy aides, told Congress in April that the deployment of “counterforce” measures would mean “we could go about and actually attack that missile where it is in Russia.”
According to other Pentagon officials, this option would entail the deployment of ground-launched cruise missiles throughout Europe.
Pentagon spokesman Lt. Col. Joe Skewers told AP, “All the options under consideration are designed to ensure that Russia gains no significant military advantage from their violation.”
The criminality and recklessness of the foreign policy of Washington and its NATO allies is staggering. A pre-emptive nuclear strike against Russian forces, many of them near populated areas, could claim millions of lives in seconds and lead to a nuclear war that would obliterate humanity. Even assuming that the US officials threatening Russia do not actually want such an outcome, however, and that they are only trying to intimidate Moscow, there is a sinister objective logic to such threats.
Nuclear warmongering by US officials immensely heightens the danger of all-out war erupting accidentally, amid escalating military tensions and strategic uncertainty. NATO forces are deploying for military exercises all around Russia, from the Arctic and Baltic Seas to Eastern Europe and the Black and Mediterranean Seas. Regional militaries are all on hair-trigger alerts.
US officials threatening Russia cannot know how the Kremlin will react to such threats. With Moscow concerned about the danger of a sudden NATO strike, Russia is ever more likely to respond to perceived signs of NATO military action by launching its missiles, fearing that otherwise the missiles will be destroyed on the ground. The danger of miscalculations and miscommunications leading to all-out war is immensely heightened.
The statements of Scher and Carter confirm warnings made last year by the WSWS, that NATO’s decision to back a fascist-led putsch in Kiev in February, and to blame Russia without any evidence for shooting down flight MH17, posed the risk of war. “Are you ready for war—including possibly nuclear war—between the United States, Europe, and Russia? That is the question that everyone should be asking him- or herself in light of the developments since the destruction of Malaysian Airlines Flight MH17,” the WSWS wrote .
In March, Putin stated that he had placed Russian forces, including its nuclear forces, on alert in the aftermath of the Kiev putsch, fearing a NATO attack on Russia. Now the threat of war arising from US policy has been confirmed directly by statements of the US military.
These threats have developed largely behind the backs of the world working class. Workers in the United States, Europe and worldwide have time and again shown their hostility to US wars in Iraq or in Afghanistan. Yet nearly 15 years after these wars began, the world stands on the brink of an even bloodier and more devastating conflict, and the media and ruling elites the world over are hiding the risk of nuclear war.
US President Barack Obama is expected to escalate pressure on Russia at the G7 summit this weekend, pressing European leaders to maintain economic sanctions put in place in response to Russia’s annexation of Crimea last year. The latest outbreak in violence in Ukraine this week, which the US blames on Russia, is to serve as a pretext for continuing the sanctions.
Speaking to Parliament on Thursday, Ukrainian President Petro Poroshenko warned of a “colossal threat of the resumption of large-scale hostilities by Russian and terrorist forces.” He claimed without proof that 9,000 Russian soldiers are deployed in rebel-held areas of Donetsk and Luhansk, in eastern Ukraine.
“Ukraine’s military should be ready for a new offensive by the enemy, as well as a full-scale invasion along the entire border with the Russian Federation,” Poroshenko said. “We must be really prepared for this.” He said the Ukrainian army had at least 50,000 soldiers stationed in the east, prepared to defend the country.
Poroshenko’s remarks came a day after renewed fighting in eastern Ukraine between Kiev forces and Russian-backed separatists resulted in dozens of casualties. This week’s fighting marked the largest breach to date of the cease-fire signed in February.
Kremlin spokesman Dimitry Peskov told reporters on Thursday that Russia believed the previous day’s hostilities had been provoked by Kiev to influence upcoming discussions at the G7 summit this weekend and the EU summit in Brussels at the end of the month. “These provocative actions are organized by Ukraine’s military forces, and we are concerned with that,” he stated.
Each side blamed the other for initiating fighting in Marinka, approximately nine miles west of the rebel stronghold of Donetsk. Yuriy Biryukov, an adviser to Poroshenko, reported on Thursday that five Ukrainian soldiers had been killed in the fighting, and another 39 wounded. Eduard Basurin, deputy defense minister and spokesman for the Donetsk People’s Republic (DPR), told Interfax that 16 rebel fighters and five civilians had been killed.
Ukrainian forces also fired artillery at the rebel-held city of Donetsk on Wednesday. Shells landed in the southwest districts of Kirovsky and Petrovsky, killing 6 people and wounding at least 90 others. The city’s Sokol market was severely damaged, with several rows of shops burned to the ground.
Responding to Wednesday’s developments, members of the fascistic Right Sector militia have been called to mobilize for battle. Andrey Stempitsky, commander of the militia’s paramilitary battalion, posted a message on Facebook calling on those who went home during the cease-fire to “return to their combat units.” He warned that the Right Sector would “wage war, ignoring the truce devotees.”

Copyright © 2015 Global Research