Thứ Ba, 16 tháng 9, 2014

Ông Nguyễn Trần Bạt: Kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa?






Thời báo Kinh tế Sài Gòn hỏi: TBKTSG đang triển khai đề tài về kinh tế thị trường định hướng XHCN. Chúng tôi muốn cùng ông phân tích về vấn đề này.

Ông Nguyễn Trần Bạt trả lời: Tôi rất hoan nghênh vấn đề mà anh đặt ra. Từ xưa đến nay giới nghiên cứu của chúng ta cũng như giới báo chí chưa đặt ra vấn đề chủ nghĩa tư bản là gì, chủ nghĩa xã hội là gì. Vì không có một định nghĩa rõ ràng về chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội cho nên chúng ta cũng không biết kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là gì. Chủ nghĩa tư bản là một loại hình thể chế chính trị thừa nhận các quyền vốn hóa một cách tự nhiên của tất cả các chủ sở hữu hoặc tất cả các đối tượng sở hữu. Vốn hóa một cách triệt để chính là tư bản. Ở nước chúng ta cũng đã có những giai đoạn như thế, ngay cả trong những năm gần đây cũng có những biểu hiện như vậy nhưng rõ ràng các nhà nghiên cứu không chỉ mặt, không đặt tên.

Hỏi: Cụ thể là những biểu hiện nào trong giai đoạn hiện nay?


Trả lời: Chúng ta xây dựng thị trường chứng khoán chẳng hạn, chúng ta cổ phần hóa hay chúng ta bán cổ phần của các doanh nghiệp chẳng hạn. Mặc dù các doanh nghiệp ấy thực ra nó chưa có giá trị giống như giá trị mà người ta bán, nhưng người ta bán thì bản năng con người là mua cái đã và mua sự lạ lẫm của khái niệm ấy. Anh thấy thị trường chứng khoán của chúng ta có những giai đoạn chỉ số lên tới một nghìn mấy, đấy là thể hiện của vốn hóa, của tư bản hóa. Lập tức là tất cả các nhà cửa được mang thế chấp để có tiền, để vay vốn ngân hàng, dùng vốn vay ấy đem mua cổ phiếu. Rõ ràng là chúng ta tư bản hóa, tư bản hóa cái nhà, tư bản hóa tiền để dành, tư bản hóa nhiều thứ mà mình có.

Hỏi: Hoặc sự phát triển của khối doanh nghiệp tư nhân?

Trả lời: Tôi chưa nói đến chuyện tư nhân, tôi muốn nói đến cái đòi hỏi bán của thị trường chứng khoán. Rõ ràng đấy là cơ hội để tư bản hóa. Tất cả mọi cái đều được tư bản hóa. Ngay cả cái sổ đỏ nó không hẳn là một chứng chỉ sở hữu mà cũng được đem thế chấp, tức là kể cả các đối tượng chưa chuyên nghiệp, chưa chính xác, hay chưa đầy đủ về mặt định nghĩa sở hữu vẫn được đem ra để tư bản hóa. Tức là chủ nghĩa tư bản Việt Nam được xây dựng trên cơ sở của những lực lượng hoàn toàn không được quy định chặt chẽ, không được định nghĩa chặt chẽ. Tính nửa vời, tính không chuyên nghiệp của khái niệm sở hữu thể hiện ngay cả trong những hoạt động chuyên nghiệp nhất của chủ nghĩa tư bản, của kinh tế thị trường là chứng khoán. Bây giờ có những người như anh Vinh, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch Đầu tư đặt ra câu hỏi là, định hướng xã hội chủ nghĩa là gì, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là gì? Các anh ấy hiểu sai ý đồ của định nghĩa này, tức là xây dựng nền kinh tế thị trường nhưng tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Không phải thế. Xây dựng nền kinh tế thị trường luôn luôn sẵn sàng điều tiết để quay trở về chủ nghĩa xã hội, đấy mới là định nghĩa gần đúng. Để làm như thế thì người ta không cho phép chuyên nghiệp hóa các khái niệm sở hữu. Tức là hầu hết các khái niệm sở hữu, các đối tượng liên quan đến khái niệm sở hữu đều không được định nghĩa một cách chặt chẽ. Để làm gì? Để nhà nước có thể xoay sở trong trường hợp chủ nghĩa xã hội bị vứt bỏ bởi đòi hỏi phát triển của kinh tế thị trường. Tôi lấy một ví dụ rất nổi tiếng mà mọi người vẫn hay chỉ trích, đó là sở hữu toàn dân. Sở hữu toàn dân là một khái niệm sở hữu không có thật, hay nói cách khác là một khái niệm thể hiện đầy đủ tính do dự của người Việt Nam khi triển khai một trong những phổ quát quan trọng nhất của đời sống kinh tế là sở hữu. Sở hữu toàn dân là một khái niệm hết sức do dự, do dự để làm gì?

Để nhà nước có thể lộn trở lại được. Bây giờ rất nhiều người đả phá một số khía cạnh, ví dụ, đả phá khía cạnh định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng họ không biết định hướng xã hội chủ nghĩa là những biểu hiện có thể đo được, có độ đo hẳn hoi ngay trong chính giai đoạn mà chúng ta đang bàn. Mà độ đo ấy thường không triệt để, tức là nó thể hiện tính do dự của xã hội về khái niệm sở hữu. Chính vì chúng ta không hiểu chủ nghĩa tư bản, chúng ta không hiểu kinh tế thị trường, chúng ta cũng không hiểu chủ nghĩa xã hội, chúng ta cứ theo nó mà không biết nó là gì. Tôi lấy ví dụ, chúng ta biết là nhân loại đi từ nền kinh tế phát triển một cách tự nhiên đến nền kinh tế có điều tiết của nhà nước, mà người ta hay nói là bàn tay vô hình rồi bàn tay hữu hình.

Tôi không thích dùng những chữ như thế. Cần có vai trò của nhà nước trong nền kinh tế. Để làm gì? Để giải quyết những mâu thuẫn xuất hiện trong quá trình điều hành một nền kinh tế hay điều hành nền kinh tế thị trường. Ví dụ, giải quyết vấn đề khoảng cách giàu nghèo hay giải quyết vấn đề khủng hoảng, rõ ràng nhà nước buộc phải nhảy vào, phải điều tiết, phải sử dụng vai trò của mình để khắc phục những khiếm khuyết của thị trường.

Nhưng muốn nhà nước khắc phục được các khiếm khuyết của thị trường, muốn nhà nước có quyền lực trong việc khắc phục như vậy thì không thể đơn giản dùng công cụ hành chính được. Bởi công cụ hành chính đã bắt đầu lạc hậu trên toàn thế giới, công cụ hành chính chỉ là công cụ của những kẻ dốt nát hay không đủ năng lực điều hành một cách chuyên nghiệp. Do đó người ta mới bắt đầu sử dụng một số bán công cụ khác, chủ yếu nằm trong định nghĩa về sở hữu. Định nghĩa doanh nghiệp nhà nước là chủ đạo chẳng hạn. Lực lượng kinh tế nhà nước bây giờ cũng phải chiếm 60 – 70% toàn bộ lực lượng kinh tế Việt Nam. Cách đây khoảng 1-2 năm là 80-90%, mà 80-90% lượng dư nợ tín dụng là cho các xí nghiệp quốc doanh thì xã hội làm gì có tín dụng. Xã hội chỉ còn tín dụng đen là chính.

Nói như thế để bạn hiểu rằng nhà nước muốn điều tiết thì phải có công cụ, và công cụ hành chính đã lạc hậu cùng với toàn cầu hóa, vì nó mâu thuẫn, nó bị ức chế bởi tất cả các công ước quốc tế, các hiệp định quốc tế. Người Việt Nam không thể vô duyên mãi với việc dùng các công cụ hành chính được, người Việt Nam phải tham gia WTO, tham gia TPP, tham gia BTA, tham gia đủ hết, mà khái quát hóa là tham gia các hiệp định thương mại tự do (FTA). Người Việt Nam không thể dùng biện pháp hành chính được, vậy phải dùng biện pháp gì? Phải dùng lực lượng kinh tế nhà nước và phải dùng tính nửa vời của khái niệm về sở hữu mà Đảng ta hay gọi là lực lượng sản xuất, chế độ sở hữu các tư liệu sản xuất. Tính nửa vời của chế độ sở hữu và ưu thế của lực lượng kinh tế nhà nước trở thành một trong những công cụ cơ bản để nhà nước chúng ta giữ vai trò điều tiết nền kinh tế.

Hỏi: Xem xét lại quá trình sau đổi mới, theo ông vì sao đến bây giờ các nhà lý luận của Việt Nam vẫn không thể nào xác định được thế nào là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Trả lời: Đơn giản vì chúng ta đã có thực tế kinh tế đâu. Nếu nói một cách thật sự thì chúng ta chưa có nền kinh tế. Việt Nam có sản phẩm gì? Nền công nghiệp Việt Nam có những sản phẩm gì? Nền sản xuất Việt Nam có sản phẩm gì? Thị trường của nó ở đâu? Chúng ta cũng à ơi vậy thôi, chúng ta không có các nền kinh tế có thật, cho nên đôi khi chúng ta nói là kinh tế Việt Nam rơi vào bẫy trung bình, tôi thấy rất ngượng khi nói như thế. Chúng ta không có căn bệnh ấy, chúng ta chưa đủ, chưa đạt đến trình độ để có loại căn bệnh như thế. Chúng ta cũng nhận vơ một chút.

Muốn gì thì muốn, pha thứ nhất của nền kinh tế phải là nền kinh tế cứng, pha thứ hai là kinh tế mềm, cái mà đại sứ Trần Văn Thình trước đây về Việt Nam có nói. Giai đoạn thứ ba là giai đoạn hiện nay, đấy là kinh tế tài chính. Đấy là các pha khác nhau, Bắt đầu bằng kinh tế công nghiệp, lên một bước là kinh tế mềm, tức là kinh tế dịch vụ, và lên một bước nữa là nền kinh tế tài chính. Đầu những năm 90 thế giới gọi khu vực tài chính và ngân hàng là khu vực dịch vụ, nhưng năm 95 người ta đã bắt đầu gọi ngân hàng là khu vực đầu tư. Thế giới đã đi qua những chặng như vậy, những mức độ như vậy của phát triển kinh tế. Bây giờ chúng ta có gì?

Chúng ta chưa có nền kinh tế công nghiệp. Chính phủ nói cố gắng năm 2020 về cơ bản chúng ta thành một nước công nghiệp. Tôi nghĩ không có khả năng ấy. Nếu đến năm 2020 chúng ta không phấn đấu thì không cẩn thận là chúng ta không giữ được các trạng thái hiện nay của nền kinh tế Việt Nam, chứ không phải là chúng ta sẽ trở thành một nền kinh tế công nghiệp.

Hỏi: Tại sao ông bi quan thế?

Trả lời: Bởi vì chúng ta không hấp dẫn nữa.

Hỏi: Dù sao ít nhất kinh tế cũng phải tăng trưởng được 5 – 6%?

Trả lời: Tăng trưởng 5 – 6% không phải là sự phát triển. Mọi người vẫn nhầm lẫn giữa tăng trưởng và phát triển, không phải. Tăng trưởng là sự nở tự nhiên của một nền kinh tế, còn phát triển là những dấu hiệu chất lượng của một nền kinh tế. Chúng ta không có dấu hiệu chất lượng thì tại sao chúng ta lại nói là phát triển. Chúng ta sẽ có sự nở tự nhiên của nền kinh tế khoảng dăm ba phần trăm. Cái đó có quan trọng không? Có, vì nếu không có cái đấy thì chúng ta sẽ không thỏa mãn nhu cầu tăng dân số. Dân số tăng lên mà kinh tế không tăng thì chúng ta sẽ đói. Khi dự trữ trong dân nhiều như ở châu Âu hay ở Mỹ chẳng hạn thì người ta chỉ tăng 1 – 2% thôi. Bởi vì bản thân xã hội của nó đã đủ sức nuôi những sản phẩm nó đẻ ra, dự trữ trong một xã hội thu nhập bình quân đầu người tới 40 – 50 ngàn đô la/năm chẳng hạn thì làm sao mà con người tiêu hết được. Chúng ta chưa biết được 40 – 50 ngàn đô la/năm tính trung bình toàn quốc nó là cái gì, cùng với thời gian chúng ta sẽ thấy.

Tôi nhắc lại là chúng ta chưa có một nền kinh tế rõ rệt và chưa có một nền kinh tế có triển vọng rõ rệt, mà ta tạm lấy nghị quyết của TW Đảng về xây dựng công nghiệp hóa hiện đại hóa để làm tiêu chuẩn. Bởi nhà nước chính trị bao giờ cũng đẻ ra các tiêu chuẩn để phấn đấu. Năm 2020 chúng ta không có trạng thái ấy, nếu không cẩn thận thì chúng ta không giữ được trạng thái hiện nay. Không giữ không phải chỉ có nhà cao lên, cầu dài ra. Những thứ ấy cứ có tiền là làm, nhưng làm ra để làm gì, các công cụ ấy nó có đẻ ra lợi ích không.

Cơ sở hạ tầng ở Việt Nam tiêu rất nhiều tiền, nhưng không chỗ nào hoàn thiện. Tại sao lại như vậy? Bởi không có đòi hỏi về việc hoàn vốn. Tôi là một kỹ sư tôi biết rõ là khi nhận nhiệm vụ thiết kế cho một công trình chẳng hạn, người ta phải biết rằng công trình này bỏ ra ngần này tiền thì khấu hao hàng năm là bao nhiêu, nó phục vụ sự phát triển của khu vực kinh tế cụ thể nào. Hiện nay chúng ta xây là xây, không có mục tiêu phục vụ rõ ràng của các công trình cơ sở hạ tầng trên từng khu vực khác nhau, tức là chúng ta không có năng lực để hoàn vốn. Vì không có năng lực hoàn vốn cho nên chúng ta làm chậm hay làm nhanh cũng thế thôi. Hiện nay chúng ta không có sức ép của hoàn vốn.



Hỏi: Ý ông nói những công trình của nhà nước hay của tư nhân?

Trả lời: Tôi nói chung. Nhà nước hay tư nhân xây thì nó cũng thế. Chúng ta cứ cường điệu nhà nước hay tư nhân thì khác nhau. Tôi nghĩ ở nước ta không thế. Bây giờ chỉ cần cổ phần hóa 15- 20% của một doanh nghiệp khổng lồ của nhà nước thì nó không còn gọi là doanh nghiệp nhà nước nữa. Và nhà nước chúng ta cũng lợi dụng triệt để câu chuyện dây dưa như vậy để đỡ mang tiếng về cái gọi là doanh nghiệp nhà nước.

Hỏi: Tức là về bản chất không có thay đổi?

Trả lời: Bản chất không có gì thay đổi. Chúng ta tưởng rằng chúng ta giữ trạng thái sở hữu toàn dân mập mờ, chúng ta có các doanh nghiệp hùng mạnh thuộc sở hữu nhà nước, thế là chúng ta có quyền lực ghê gớm, nhưng không phải thế. Cách đây 30 năm trong một hội thảo tôi dự có anh Ba Huấn, Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân TPHCM chủ trì cùng với David Smith, trưởng đại diện của UNDP ở Việt Nam. Khi nói về tư nhân hóa kinh tế Việt Nam các anh ấy đề nghị tôi nói. Tôi nói rằng: bây giờ nếu không tư nhân hóa nền kinh tế Việt Nam được thì nền kinh tế Việt Nam sẽ tư nhân hóa quyền lực chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam thông qua hiện tượng tham nhũng. Tôi nói điều ấy vào năm 1987 và bây giờ nó xảy ra đúng như thế.

Có lẽ chúng ta phải kích lệ hay phải kêu gọi các cơ sở nghiên cứu, ví dụ Hội đồng lý luận TW Đảng phải giải quyết bài toán khái niệm, Ban kinh tế TW Đảng phải nghiên cứu để đưa ra một nội hàm đủ thỏa mãn mục tiêu thực hành xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Có nền kinh tế ấy, không phải không có. Nền kinh tế ấy là nền kinh tế được xây dựng trên cơ sở của việc tận dụng những định nghĩa rất do dự của Đảng ta đối với các đối tượng sở hữu để cản trở tốc độ tư bản hóa các tài sản quốc gia.

Bởi vì nếu không thì anh không làm chủ được quá trình tư bản hóa, không điều chỉnh được chủ nghĩa tư bản. Điều chỉnh được, làm chủ được tốc độ của quá trình tư bản hóa chính là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là anh dắt cổ chủ nghĩa tư bản đi theo tốc độ mà anh muốn. Muốn như thế thì phải có một lực lượng để áp tải nền kinh tế đó là doanh nghiệp nhà nước và có một lực lượng tham gia vào làm chậm lại quá trình tư bản hóa, đó là các định nghĩa nửa vời về sở hữu, ví dụ sở hữu toàn dân. Nếu không có các công cụ ấy, đảng ta vô phương, chính phủ vô phương, và chính phủ buộc phải sử dụng các công cụ hành chính.

Bây giờ công cụ hành chính không còn đất sống nữa cho nên người ta mới nói đến pháp quyền. Văn minh pháp quyền là một nền văn minh có thật, tức là anh điều chỉnh bằng luật pháp. Anh điều chỉnh bằng luật pháp thì anh phải luật pháp hóa mục tiêu chính trị mà anh muốn. Trước đây anh lười, anh ra lệnh cho nhanh, bây giờ anh buộc phải lập pháp để cho tất cả mọi người đều biết và được xử lý công bằng trước hệ thống luật pháp của anh, mặc dù hệ thống ấy cũng không tiến bộ lắm, nhưng nó vẫn phải công bằng. Phải làm như thế.

Hỏi: Ông có đề cập đến chuyện vẫn phải đề cao vai trò của doanh nghiệp nhà nước?

Trả lời: Đấy là tôi nói Đảng này, Nhà nước này muốn điều hành nền kinh tế Việt Nam thì phải như thế. Bây giờ ông Thủ tướng cũng khó mà quát mấy ông tư nhân được. Doanh nghiệp tư nhân to, vay vốn lớn thì anh còn dùng ngân hàng để anh siết nó, nhưng hàng chục triệu doanh nghiệp bé không động đến ngân hàng của anh thì anh không có quyền lực gì đối với nó. Đây là tư duy của đảng, và là tư duy của cả hệ thống kinh tế của chúng ta.

Hỏi: Thế thì bây giờ phải làm cái gì?

Trả lời: Bây giờ phải định nghĩa rõ ràng, phải hiểu rõ ràng và phải nới dần hai đặc điểm ấy. Tức là làm giảm bớt tỷ trọng của khu vực kinh tế nhà nước, và nâng chất lượng hay giảm bớt tính mập mờ của các định nghĩa về sở hữu. Tức là cho phép các tài sản có quyền tự do biến thành tư bản. Đó là kết quả của một quá trình cải cách liên tục cả chính trị lẫn kinh tế. Nếu không có một quá trình cải cách liên tục cả chính trị và kinh tế để thay đổi dần dần các lực lượng trong cấu trúc của nền kinh tế Việt Nam, và thay đổi dần cấu trúc của các khái niệm liên quan đến chế độ sở hữu thì không có phát triển.

Hỏi: Nhưng ông cũng nhìn thấy sự lớn lên rất nhanh của khu vực kinh tế tư nhân, mà ông là một người biểu hiện cực kỳ rõ, từ một công chức nhà nước, sau đấy thì đến bây giờ là một doanh nhân rất thành công. Rõ ràng ông nhìn thấy câu chuyện đấy cũng làm cho Việt Nam thay đổi căn bản so với thời kỳ kinh tế kế hoạch tập trung. Ông nghĩ về câu chuyện đấy như thế nào?

Trả lời: Sự thành công của một vài người thông minh không định nghĩa tính tích cực, hay sự thay đổi tích cực của toàn bộ nền kinh tế. Chúng ta hay đi tìm một vài ví dụ cá biệt để cường điệu hóa, khái quát hóa để nói hay cho nền kinh tế của chúng ta là không đúng và không khoa học. Anh biết tôi không phải là người đối lập với Đảng và Nhà nước. Khi thảo luận với các bạn là tôi muốn cùng nhau tìm ra cách gì đó để có thể tạo ra sự phát triển. Tôi nghĩ đó là tiến hành các cuộc cải cách để điều chỉnh một số yếu tố mang chất lượng động lực đối với sự phát triển.

Giảm bớt tỷ trọng kinh tế nhà nước, xí nghiệp nhà nước thì nó sẽ tạo không gian cho khu vực tư nhân trồi lên như anh nói. Xác định rõ vai trò của nhà nước, của thể chế kinh tế, xác định rõ hệ thống luật pháp, và đặc biệt là chuyên nghiệp hóa các định nghĩa về khái niệm sở hữu. Cái đó vô cùng quan trọng. Chất lượng sở hữu là giấy thông hành cho các tài sản tham gia vào quá trình xây dựng thị trường, hay nói cách khác là tham gia vào quá trình tư bản hóa tất cả các tiềm năng kinh tế của Việt Nam. Chúng ta luôn nói rằng chúng ta phát triển không tương xứng với tiềm năng là bởi vì chúng ta trói các tiềm năng vào các định nghĩa nửa vời như sở hữu toàn dân. Sở hữu toàn dân là một dây trói. Làm sao con ngựa có thể chạy được khi nó vướng dây?

Có thể nói là tất cả các định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang có hiện nay chính là dựa trên kinh tế nhà nước hùng mạnh, cộng với các khái niệm nửa vời về chế độ sở hữu, về tư liệu sản xuất. Đấy chính là các công cụ cơ bản để định hướng xã hội chủ nghĩa, để hạn chế tốc độ tư bản hóa của tất cả các tiềm năng kinh tế. Chúng ta kêu rằng chúng ta không phát triển tương xứng với tiềm năng là bởi vì chúng ta trói tất cả các lực lượng của chúng ta vào để duy trì một tốc độ phù hợp với thẩm mỹ chính trị của nhà cầm quyền về một nền kinh tế.

Hỏi: Nhưng nếu có một thay đổi nhanh quá liên quan đến chính trị hay kinh tế chẳng hạn thì ông có sợ?

Trả lời: Đương nhiên là sợ. Tôi nói như vậy tức là tôi thể hiện sự thông cảm của tôi đối với nhà cầm quyền, đối với đảng lãnh đạo, đối với chính phủ là họ không thể nào thay đổi nhanh về mặt chính trị được. Bởi vì thay đổi nhanh về chính trị ở trong quan niệm của nhà cầm quyền và biến nó thành một sự thay đổi trong xã hội mà vẫn yên ổn là một việc vô cùng khó. Khi bắt đầu xảy ra việc thảo luận về hiến pháp, tôi đã cảnh báo rất nhiều trí thức là có thể đây là một dấu hiệu họ đang nghiên cứu về dân chủ hóa. Thế nhưng giới trí thức của chúng ta hùng hổ và cuối cùng họ co lại, họ hiểu rằng xã hội này chưa thích hợp với quá trình dân chủ hóa, vì họ không đủ năng lực để quản lý những trí thức có một thái độ hùng hổ như vậy đối với chủ nghĩa xã hội.

Thái độ đối với chủ nghĩa xã hội là vô cùng quan trọng để khuyến khích đảng cộng sản Việt Nam thực hiện các cải cách dân chủ. Nếu thái độ đối với chủ nghĩa xã hội thể hiện một cách thù địch thì họ co lại và tăng cường tất cả các mối quan hệ có chất lượng chuyên chính, giữ gìn ổn định và trật tự xã hội để tránh rủi ro, duy trì một trạng thái làm ăn vừa phải và chúng ta chắc chắn chậm hơn thiên hạ.

Tôi có một bài báo rất nổi tiếng nói về chuyện chúng ta chậm hơn Lào và Campuchia rồi. Chúng ta chậm hơn Lào và Campuchia là bởi vì chúng ta quan niệm về quản trị xã hội về mặt chính trị chặt chẽ hơn. Đương nhiên so với Campuchia thì chúng ta chặt chẽ hơn nhiều, so với Lào chúng ta cũng chặt chẽ hơn, bởi vì nước Lào là nước của các bộ tộc, nhu cầu quản lý chính trị cũng ở mức tượng trưng, còn xã hội Việt Nam đã trở thành xã hội đô thị rồi, nó đòi hỏi phải là quản lý chính trị chặt chẽ hơn.

Hỏi: Cơ sở nào để ông nhận định là Việt Nam thua Lào?

Trả lời: Anh để ý một chút thì anh sẽ thấy. Anh nghe các nhà đầu tư, anh đến Vientiane, ăn cơm tối ở Vientiane, anh sẽ thấy các nhà đầu tư người ta nói chuyện gì. Tôi có bảy năm làm giám đốc một quỹ đầu tư toàn bộ lưu vực sông Mê Kong từ Côn Minh đến Việt Nam. Một năm tôi có năm cuộc họp, Phnompenh, Vientiane, Mianma, Côn Minh và ở Anh. Bảy năm làm như vậy tôi tích lũy không biết bao nhiêu quan sát mới có nhận định đấy.

Lúc bấy giờ, trong một bữa cơm gồm chúng tôi, những nhà đầu tư tài chính và một số tướng lĩnh ở Miến Điện. Tôi hỏi một ông lúc ấy là phó cho ông Than Shwe rằng hệ thống luật pháp các ông thế nào. Ông ta bảo hệ thống luật pháp của chúng tôi là hệ thống luật Anh, và nếu chúng tôi cần thêm cái gì cho nó phù hợp với tình trạng hiện nay của Miến Điện thì chúng tôi thêm vào, còn về cơ bản tính hệ thống và tính lý luận của nó vẫn là luật Anh.

Tôi hỏi anh luật pháp của họ được xây dựng trên nền tảng của triết lý luật pháp nước Anh thì làm thế nào mà họ cải cách chậm hơn chúng ta được? Chúng ta cứ bảo tại sao Miến Điện làm được thế trong một thời gian ngắn mà chúng ta không làm được, chúng ta có đến một trăm năm nữa cũng không làm được như ông Thein Sein. Một trăm năm nữa chúng ta cũng không xem luật Anh là nền tảng của luật pháp Việt Nam. Để có được một nền văn hóa luật pháp kiểu như thế mất hàng trăm năm. Chúng ta hàng trăm năm nữa cũng không có điều ấy chứ không phải nói chơi. Đây là vì điếc không sợ súng nên đôi khi cứ nói liều, chứ chúng ta còn lâu mới có hệ thống luật pháp đủ để đảm bảo giúp chính phủ điều hành nền kinh tế này một cách bài bản .

Hỏi: Nhưng chẳng hạn khái niệm đất đai thuộc sở hữu toàn dân thì với câu chuyện thực tiễn các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm đến điều này như thế nào? Trên thực tế thì người ta không quan tâm?

Trả lời: Người nước ngoài họ cần gì, dễ thì người ta làm, khó thì người ta đi. Nhưng cái quan trọng là gì? Là họ mua được. Đối với tất cả những người làm ăn thì những cái nằm trong tay nhà nước dễ mua hơn cái nằm trong tay tư nhân. Nếu đất đai được tư nhân hóa thì người ta khó mua hơn và mua phải trả giá đắt hơn. Nếu đất đai nằm trong tay nhà nước bằng quyền sở hữu toàn dân thì người ta đút lót, người mua rất rẻ. Rất nhiều bằng chứng để nói rằng mua rất rẻ, mua 100 năm, thậm chí có nơi đề xuất bán 120 năm, bán lâu hơn cả Hồng Kông.


Hỏi: Theo ông lý do gì cơ bản nhất mà chúng ta vẫn cứ nói đến câu chuyện đất đai thuộc sở hữu toàn dân, tranh luận mãi để sửa hiến pháp cuối cùng chốt lại vẫn thế?

Trả lời: Đấy là kinh nghiệm của đảng cộng sản Liên Xô, nguồn gốc của tất cả cái mà chúng ta có, là di sản của đảng cộng sản Liên Xô, và một phần nào đó của Đảng cộng sản Trung Quốc. Vì Trung Quốc cũng chưa phát triển chính trị vào thời kỳ chủ nghĩa xã hội như Liên Xô. Nếu lấy chủ nghĩa xã hội làm tiêu chuẩn thì Liên Xô là một nước phát triển về chính trị hơn Trung Quốc. Cho nên Liên Xô lãnh đạo cuộc đối đầu chiến tranh lạnh chứ không phải Trung Quốc. Bây giờ tất cả bộ luật mà chúng ta có đều có dấu hiệu của Liên Xô, kể cả Hiến pháp của chúng ta cũng có những dấu hiệu của Liên Xô. Tẩy được cái đó ra khỏi văn hóa luật pháp Việt Nam không dễ, mất khoảng một trăm năm nữa.

Hỏi: Theo ông, nền kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa liệu nó có mâu thuẫn hoặc có triệt tiêu nhau không?

Trả lời: Không, mục tiêu của hai cái khác nhau. Không triệt tiêu nhau, vì cuối cùng nó hội tụ đến lợi ích của con người. Sớm hay muộn, dù có tham nhũng, có độc ác thì người ta cũng buộc phải hạ cánh trước các vấn đề về con người. Bản chất của nền văn minh chính trị của thế kỷ này là nền văn minh nhân quyền. Chính phủ chúng ta chắc chắn 100% phải tuân thủ đòi hỏi như vậy của thế giới. Tuy nhiên, các mặt này nó mâu thuẫn nội tại giữa nó với nhau, tức là các chất lượng của chủ nghĩa xã hội và sự cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường là hai yếu tố rất khó điều hòa. Điều hòa bằng cách cải cách theo hướng đối với thị trường càng ngày càng thả cho các lực lượng tham gia một cách tự do, tức là các tài sản được tư bản hóa một cách tự do, còn vai trò của nhà nước co lại một cách hợp lý.

Vai trò của nhà nước co lại một cách hợp lý là cải cách chính trị. Mở rộng khái niệm về sở hữu cho phù hợp với đòi hỏi của thị trường là cải cách chính trị. Cải cách chính trị ấy làm nền tảng cho cải cách kinh tế. Tức là Việt Nam tham gia một cách rộng rãi vào các cộng đồng kinh tế tự do, các hiệp định kinh tế tự do, và các FTA đó giúp kinh tế Việt Nam trở thành kinh tế thị trường. Hiện nay chúng ta vừa tham gia, vừa cưỡng lại nó. Chúng ta như cô gái đi theo anh đàn ông về khách sạn, nhưng vẫn níu cái dây đằng sau để đi chậm lại. Chúng ta không muốn mang tiếng là vào khách sạn sớm, nhưng chúng ta vẫn đi theo khuynh hướng vào khách sạn cùng với nó. Đấy là chính chúng ta bây giờ. Những hiệp định kinh tế tự do nào mà Việt Nam có thể tham gia là chúng ta tham gia hết, thế nhưng chúng ta vẫn cố gắng đi chậm, càng đi chậm càng tốt. Cuối cùng thì nó vẫn lôi mình vào khách sạn, nhưng mình nghĩ rằng mình càng đi chậm càng tốt để cho dần dần nhạt bớt sự ám ảnh của chủ nghĩa xã hội.

Tôi nghĩ cách đấy không phải là cách thông minh, bởi vì ám ảnh của chủ nghĩa xã hội sẽ thay đổi. Chủ nghĩa xã hội sẽ không có ý nghĩa chính trị giống như chúng ta nghĩ 7-10 năm về trước. Chủ nghĩa xã hội dần dần sẽ bình thường hơn. Chủ nghĩa xã hội có cả ở Mỹ, thậm chí đặc trưng chủ nghĩa xã hội ở Mỹ rõ hơn ở Việt Nam. Đặc trưng chủ nghĩa xã hội ở toàn bộ châu Âu cũng rất rõ. Chủ nghĩa xã hội là thế, còn chủ nghĩa xã hội Việt Nam là đảng phải lãnh đạo và duy nhất cầm quyền. Cái khó ở chỗ không phải là dân chủ, không phải là tự do, mà cái khó ở chỗ vậy thì dân chủ và tự do thì đảng ta không cầm quyền một mình nữa. Chúng ta giải thích là nếu không như thế thì mất ổn định. Có mất ổn định thật không? Có. Cái mất ổn định có thật ấy sẽ làm do dự cả những người thích cầm quyền lẫn những người hưởng thụ các kết quả như vậy. Nhiều người về hưu rồi cũng vẫn lo, nó tan rã rồi thì ai trả lương hưu. Đấy là một câu nói ra thì ngượng nhưng nó là có thật.

Hỏi: Câu chuyện xã hội chủ nghĩa gần đây được bàn luận lại, ngay cả giáo sư Stiglitz vừa sang đây gặp giới học giả Việt Nam cũng nói là các ông đúng chứ không phải không. Sau câu chuyện liên quan đến nhà nước Mỹ phải xử lý cuộc khủng hoảng bằng cách can thiệp ghê gớm vào thị trường thì rút cục lại là thế nào?

Trả lời: Stiglitz là một người cánh tả, tôi theo dõi nhân vật này lâu rồi. Trong xã hội phương Tây hay trong trung tâm của chủ nghĩa tư bản có những con người rất tài. Stiglitz là một người tỉnh táo chứ không chỉ là người tài. Những cách nhìn như vậy là cách nhìn cần phải tham khảo, vì họ thấy rằng chúng ta do dự như vậy là phải, bởi nếu không thì chúng ta sẽ lộn nhào cùng với nền kinh tế như nền kinh tế Mỹ.

Có lần tôi nói chuyện với các nhà ngoại giao có chức sắc của Mỹ, họ hỏi tôi: ông nghĩ thế nào về nước Mỹ? Tôi bảo: tôi nghĩ tổng thống Bush phải cân đối giữa việc truy đuổi bọn khủng bố với việc chăm sóc lại nền kinh tế Hoa Kỳ. Và họ bảo rằng: tôi sợ rằng bây giờ ông ấy vẫn còn lang thang để truy đuổi bọn khủng bố. Lợi ích bao giờ cũng là một áp lực để người ta nhận thức. Lợi ích là áp lực đối với tất cả mọi đối tượng, và những người cầm quyền không trong sáng đã kịp thay thế áp lực bằng tham nhũng. Sợ mất quyền lãnh đạo cho nên tham nhũng.

Chúng ta cũng phải cẩn thận. Có một quan chức rất cao cấp của Đảng đến đây hỏi tôi, có cách gì để chúng ta không cần động đến cải cách chính trị mà vẫn giải quyết được vấn đề phát triển kinh tế không? Tôi bảo: di chứng của sự không cải cách chính trị hiện nay ở Việt Nam là tham nhũng và lộng hành chính trị. Từ trên xuống dưới đều lộng hành chính trị, Đảng mất dần quyền lực thật sự, đôi khi chúng ta tưởng rằng khi Đảng mất dần quyền lực thật sự thì nó sẽ nhanh đến tự do. Không phải. Nó nhanh đến hỗn loạn, đến đổ vỡ. Bản thân tôi không ân oán giang hồ gì với những người cộng sản, tôi thấy lo cho họ. Lộng hành chính trị và tham nhũng là hai căn bệnh nguy hiểm. Đất nước nghèo đi bởi tham nhũng còn Đảng thì yếu đi bởi lộng hành chính trị. Tôi nói rằng để giải quyết hai căn bệnh này buộc phải cải cách chính trị.

Hỏi: Những biểu hiện của chủ nghĩa xã hội cũng rất đáng ca ngợi theo tinh thần nhân văn. Câu chuyện ví dụ như kìm giá chẳng hạn?

Trả lời: Kìm giá chính là điều chỉnh khoảng cách giàu nghèo.

Hỏi: Những chương trình mục tiêu quốc gia đang thực hiện, câu chuyện cho tiền dân nghèo dịp tết, những việcấy cũng tốt chứ?

Trả lời: Chủ nghĩa xã hội là một triết thuyết hết sức đẹp đẽ về mặt ý tưởng.

Hỏi: Nhưng đổi lại câu chuyện đấy thì phải mở rộng chi tiêu công?

Trả lời: Mở rộng chi tiêu công không phải do chủ nghĩa xã hội. Mở rộng chi tiêu công là do thúc bách của phần trăm, nó không liên quan gì đến chủ nghĩa xã hội. Chi tiêu trên thực tế không “công” bao giờ. Chi tiêu là chi tiêu, làm xong rồi thì có ai đếm xỉa đến thân phận của công trình, của hợp đồng, của dự án.

Hỏi: Nếu đã nhìn thấy sự lấn cấn, do dự trong chủ thuyết phát triển của Việt Nam thì theo ông hình dung đất nước mình sẽ đi theo hướng nào?

Trả lời: Đất nước của chúng ta sẽ đi cùng với nhân loại, nhưng đi chậm hơn, nó bị nhân loại lôi cổ đi đến tương lai. Đừng hy vọng chúng ta sẽ đi bằng con đường khác, Trung Quốc không đi được con đường khác thì Việt Nam đừng hy vọng. Putin tưởng bở rằng mấy quả bom và một ít khí đốt làm cho mình trở thành một kẻ hùng mạnh, nhưng Putin đã phạm phải sai lầm, Putin đang bị nhân loại lôi cổ quay trở lại quỹ đạo cũ. Trung Quốc cũng thế. Còn Việt Nam là một nước bé bé, cho nên các nhà chính trị của chúng ta giống những cô gái bị bắt cóc về khách sạn, không kháng cự để chứng minh mình là kẻ đoan chính nữa mà thể hiện tính đoan chính bằng cách đi chậm lại.

Hỏi: Vì sao các nhà lý luận Việt Nam sau mấy chục năm đổi mới vẫn không muốn làm rõ chuyện này, người ta không thể làm rõ được hay người ta không muốn làm rõ?

Trả lời: Họ thông minh lắm, họ thừa sức làm rõ. Tôi nghe một số anh nói trên ti vi, tôi nhìn vào mắt tôi thấy mâu thuẫn giữa mắt của các anh ấy và cái miệng của anh ấy nói. Tôi nghĩ những nhà lý luận ấy họ chẳng ngốc, họ biết cả. Có những người có thừa khả năng để hiểu được những điều chúng ta vừa nói với nhau. Bài của tôi đã được đăng ở tạp chí lý luận của trường Đảng, ở tạp chí cấp ủy. Họ thông minh, họ biết cả, nhưng có ba loại người, dát không nói là một loại, loại thứ hai là khôn không nói, loại thứ ba là chưa đến lúc nói thì không nói. Những người còn tiếp tục giữ được sự tín nhiệm của các nhà lãnh đạo cao cấp nhất và vẫn là chỗ dựa về mặt lý luận của các nhà lãnh đạo của Bộ chính trị chẳng hạn thì họ không nói là bởi vì chưa đến lúc nói, vì họ biết rõ rằng sẽ có lúc nào đó có thể nói. Bây giờ ai là người biết rõ rằng sẽ có lúc được nói thì tôi không biết, nhưng tôi nghĩ rằng có ba loại như vậy.

Hỏi: Ông nhìn những chuyển động gần đây của nền kinh tế, của chính sách ông có thấy nó có hứa hẹn nào không, đặc biệt là câu chuyện phân bổ nguồn lực, chương trình tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước của Thủ tướng Chính phủ, câu chuyện cải cách môi trường kinh doanh thật tốt để các doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh thêm. Câu chuyện chi tiêu công của nhà nước làm sao phải chặt chẽ lại. Đấy là những cái ít nhiều nó cũng gắn bó với câu chuyện nhận thức về đường đi của đất nước, câu chuyện về thể chế. Những cái đấy có hứa hẹn gì không?

Trả lời: Nếu cô gái thường dân kia lấy việc đi chậm của mình đến khách sạn làm biểu hiện của sự đoan chính thì những nhà lãnh đạo của chúng ta cũng biết sử dụng những chương trình như vậy để thể hiện tính đoan chính về chính trị của mình. Về mặt công nghệ nó không khác gì cô gái mà tôi vừa nói, bởi vì với một nhiệm kỳ vài ba năm nữa thì những lời hứa 100 năm không cần phải chặt chẽ lắm. Để làm được việc xây dựng môi trường kinh tế Việt Nam, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia…phải mất 100 năm nữa. Các nhà lãnh đạo hiện nay chắc chắn không đủ sức khỏe để tồn tại 100 năm nữa cho những mục tiêu như vậy, cho nên Thủ tướng cứ nói thôi. Nhưng nói như vậy không phải hoàn toàn vô ích, nói như vậy để nói rằng người Việt Nam vẫn còn mong muốn tiến bộ.

Hỏi: Nếu nhìn vào hoàn cảnh đất nước hiện nay so với hồi trước ông thấy thế nào?

Trả lời: Chúng ta sẽ rất khó để mà đánh giá chuyện nhìn vào đất nước hiện nay nếu không nhìn vào các nước khác. Tôi luôn luôn nhìn vào các nước khác. Rất nhiều người có thói quen cũ cho rằng chủ nghĩa xã hội khủng hoảng và sụp đổ, mà không thấy rằng chủ nghĩa xã hội sụp đổ ở Liên Xô dẫn đến chiến tranh lạnh sụp đổ. Chiến tranh lạnh sụp đổ là nền tảng sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản ở phương Tây. Khủng hoảng tài chính 2008 cho đến bây giờ là sự sụp đổ của nền kinh tế phương Tây, hay nói cách khác, tất cả thế giới đều rơi vào tình trạng sụp đổ, đều bế tắc, đều khủng hoảng về mặt lý luận phát triển, và thế giới đang đi tìm lý luận cho sự phát triển.

Lúc này ai có ý định dự báo một cách độc lập một nền kinh tế tách rời khỏi toàn bộ thế giới thì đấy là người ngốc. Chúng ta không thể dự báo Việt Nam được nếu chúng ta không hình dung ra nhân loại. Việt Nam bán hàng đi đâu, Việt Nam vay tiền của ai, Việt Nam mua công nghệ của ai, Việt Nam chọn cái ô vũ trang nào để làm chỗ dựa để đối phó với Trung Quốc, tất cả những chuyện như vậy Việt Nam là một đối tượng lệ thuộc, và lệ thuộc thì không thể nói gì đến độc lập được. Nếu anh hỏi tôi như thế này thì đúng hơn: bao giờ Việt Nam đủ thông minh để có thể tận dụng được những biểu hiện có lợi của sự phát triển của thế giới. Tôi nghĩ rằng đấy là một vấn đề. Việc ấy phụ thuộc vào chất lượng của Bộ chính trị. Sang năm thôi là thế giới thay đổi, tháng sau thế giới đang thay đổi. Sự phát triển tình hình ở Ukraina làm châu Âu thay đổi, sự phát triển của Trung Quốc làm cho người Mỹ thay đổi. Việt Nam muốn tận dụng được các thuận lợi mà thế giới có thì Việt Nam buộc phải tự giác về những chuyện như vậy, buộc phải thay đổi.

Thay đổi theo hướng nào? Thay đổi theo hướng là phải xem tự do dân chủ và quyền con người là động lực chính trong việc xây dựng xã hội. Nếu không nhìn thấy tính động lực của các yếu tố vừa rồi đối với nền kinh tế Việt Nam tức là chẳng thấy gì hết. Rất nhiều người cho rằng nói chuyện ấy là nói chuyện lý thuyết lãng mạn nhưng tôi điều hành một công ty, tôi đã làm rất nhiều thí nghiệm về quyền con người ở trong công ty của tôi, tôi hiểu ra rằng, muốn nó lên, muốn nó xuống đều được, nếu chúng ta cải cách chính sách của chúng ta đối với quyền lợi của người lao động. Quyền lợi đối với con người là động lực của con người, mà con người không có động lực thì không thể có phát triển được. Không còn sự phát triển quốc gia nào nằm ngoài sự phát triển con người nữa. Nước Ukraina đã phá nát mình, giới trí thức Ukraina đã phá nát mình. Họ bất cẩn để cho những tên cướp chui vào đất nước mình và nó tạo ra tình trạng như hiện nay.

Hỏi: Ông nhìn thế nào về vai trò của xã hội dân sự mà bây giờ vẫn chưa được thừa nhận, cái mà ông Tuyển vừa nói tuần trước?

Trả lời: Xã hội dân sự là một khái niệm rất thú vị. Nhưng bản thân ông Tuyển không hiểu về xã hội dân sự.

Hỏi: Ông ấy nói có một lý do quan trọng, liên quan đến câu chuyện đàm phán TPP khi mà quyền của người lao động được thành lập hội là sức ép ghê gớm, không thể vượt qua được trong sự đàm phán này.

Trả lời: Những vấn đề chính trị, những vấn đề cải cách chính trị ở Việt Nam chịu rất nhiều sức ép của quốc tế. Nhưng ông Tuyển không phải là nhân vật chính trị đủ để hiểu rằng có những thứ, những đòn hóa giải khác liên quan đến những vấn đề chính trị trực tiếp hơn, sát sườn hơn đối với các lực lượng cho phép Việt Nam tham gia vào những chuyện như vậy. Vấn đề nhân quyền là vấn đề lâu dài, vấn đề xã hội dân sự là vấn đề lâu dài, vấn đề ấy không nên nói vào lúc này bởi nó sẽ làm nhiễu. Nói cái đấy cũng không sai nhưng tôi cho rằng vào lúc này không nên nói, bởi không làm được. Còn xã hội dân sự nó vẫn tồn tại.

Hỏi: Trên thực tế nó vẫn tồn tại nhưng địa vị của nó không được công nhận chính thức?

Trả lời: Đảng này vẫn lãnh đạo xã hội dân sự. Năm 1946 bố tôi là Chủ tịch Liên Việt của một tỉnh, đến khi những người Việt minh cầm quyền thật sự, ông vào Đảng và thôi mặt trận đó. Nó không đơn giản như anh Tuyển nói. Những nhà chính trị chịu trách nhiệm thật họ có nhiều cách đàm phán. Đối với người Việt không bao giờ được phép đưa các đòi hỏi quốc tế ra để nhân nhượng chính trị. Một nhà chính trị tinh khôn là người ta phải tránh nói những điều ấy.

Hỏi: Ông ấy nói ở lúc này cũng là một câu chuyện thúc đẩy nhận thức xã hội?

Trả lời: Xã hội hiểu hơn anh Tuyển về điều đó.

Hỏi: Khi còn đóng góp cho văn kiện Đại hội X năm 2006, không khí về thảo luận nó còn mạnh mẽ hơn, càng về sau càng chìm dần?

Trả lời: Đóng góp cho cách mạng Tháng Tám nó còn cảm hứng hơn nữa. Nhiệt tình chính trị là một đối tượng dễ già nhất. Các nhà lãnh đạo cũng khôn lắm, họ hiểu rằng đến lúc nào đó xã hội nó sẽ phát triển thành sức ép tập thể, sức ép cộng đồng thì họ sẽ theo. Họ không bảo thủ như mọi người tưởng.

Hỏi: Khái niệm của ông về ân xá kinh tế đưa ra vừa rồi có khá nhiều tranh cãi?

Trả lời: Đương nhiên tôi muốn đưa ra ở mức ấy thôi chứ không muốn hơn nữa. Ân xá kinh tế là một khái niệm đa chiều, rất hay và thú vị. Ân xá kinh tế có thể hiểu một cách thô thiển nhất là bắt được trộm, anh đưa đồ ăn trộm đây rồi tôi tha là cách đơn giản nhất. Hoặc treo nợ cũng là ân xá. Tình trạng này thì đảng ta không giải quyết nổi nợ xấu, 80% dư nợ tín dụng của Việt Nam là nợ xấu. Chúng ta có thể thấy rất rõ nếu nhìn sâu vào các đại dự án.

Hỏi: Một khi cho rằng kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo thì không một chính phủ nào làm sai được?

Trả lời: Nhưng nếu không phải nền kinh tế quốc doanh là chủ đạo thì cũng không làm được gì. Nhiều người cứ nói tại vì kinh tế nhà nước là chủ đạo nên nó mới thế, nhưng bây giờ kinh tế nhà nước không chủ đạo thì nó là gì không ai biết được. Nếu ai hiểu nền kinh tế Việt Nam thì sẽ thấy nó còn tệ hơn nhiều. Lý do là không ăn cắp thì cũng lãng phí, năng lực lãng phí của người Việt Nam chiếm vào khoảng 90% tổng số năng lực phá hoại kinh tế.

Hỏi: Nếu nói thế thì ngược với xu hướng của nền kinh tế? Cách đây 30 năm khi còn kinh tế kế hoạch hóa, không có tư nhân thì rõ ràng là rất kinh hoàng?

Trả lời: Không, anh nhầm to, nó không kinh hoàng gì cả, nó đủ năng lực để chúng ta tiến hành kháng chiến. Bởi vì lúc bấy giờ các bạn chưa biết gì, chưa có kinh nghiệm về nền kinh tế bao cấp. Lúc ấy người dân người ta khổ nhưng người ta phơi phới. Bây giờ thì cholesterol cao, mỡ máu nhiều, rồi béo phì, ngày xưa thì làm gì có ăn. Bà bác sĩ chữa bệnh cho tôi đề nghị là duy trì lại chế độ ăn thời kỳ bao cấp, tôi sẽ không còn mỡ máu nữa.

Đừng nghĩ thế. Nếu suy nghĩ như vậy tức là chúng ta tưởng là đã tìm được lối ra. Tôi nghĩ là chúng ta chưa tìm thấy lối ra.

Hỏi: Tìm làm gì nữa, cả thế giới người ta đi theo kinh tế thị trường?

Trả lời: Thế giới có cả những dân tộc sụp đổ như người Maya. Tại sao người Mông Cổ sụp đổ? Tại sao Thành Cát Tư Hãn vĩ đại, Hốt Tất Liệt vĩ đại như vậy mà lại sụp đổ?

Hỏi: Thế tại sao mình không đi theo những cái mà thế giới người ta đi, tìm làm gì?

Trả lời: Đi làm sao được, anh tưởng thế giới người ta đi là mình đi theo được? Đi theo thì phải có năng lực tương tự. Chúng ta làm gì có năng lực tương tự mà đi theo. Đấy là những câu hỏi mà rất nhiều đại trí thức hỏi tôi. Tôi trả lời là không đi theo được.

Hỏi: Nhưng mới chỉ là đi theo những dấu hiệu ban đầu, mở rộng cho tư nhân, rồi một số biểu hiện như chứng khoán mà nó làm thay đổi ghê gớm?

Trả lời: Động cơ của nó là thu tiền về thì nó làm được, còn nếu phát tiền đi thì nó không làm được. Làm sao mở rộng được các quyền. Thời kỳ mới mở cửa, như tôi là cán bộ cấp vụ của nhà nước ra ngoài, đổi địa vị cấp vụ lấy một sự tự do bên ngoài rất oai. Rất nhiều thứ trưởng, bộ trưởng chơi với tôi hơi tị, nhưng đến bây giờ nhìn bộ trưởng, thứ trường thì chúng ta thấy rằng mình không là cái gì so với họ. Họ chỉ cần nhón tay một cái thì bằng mình làm cả năm. Chúng mình biết điều ấy, người ta biết điều ấy. Chúng mình như là cảnh sát với kẻ trộm, nhìn vào mắt nhau là biết nhau ngay. Không phải tôi tưởng tượng đâu, tôi sang Trung Quốc, tôi hỏi chủ tịch một tập đoàn hóa chất phân bón Trung Quốc. Ông ta bảo: bạn tôi là bộ trưởng, cậu ấy bảo tôi oai vì có quyền trả lương 5.000USD một tháng, còn cậu ấy không có quyền ấy. Và ông ta bảo với bạn là: anh thì không có quyền trả lương, nhưng anh có quyền bán cái ghế đấy để thu tiền.

Cho nên phải nói với bạn, để có thể nói được đôi điều nói với mọi người tôi phải đi khảo sát mọi chuyện, tôi không nói cái gì chơi chơi. Tôi hỏi phó thống đốc ngân hàng Trung Quốc tại sao các ông duy trì một trạng thái tỷ giá rất điều tiếng. Ông ấy bảo người phương Tây và người Mỹ không hiểu kinh tế Trung Quốc, trong cấu trúc của giá thành xuất xưởng của hàng hóa Trung Quốc có độ rỗng rất lớn mà chúng tôi chưa kịp khai thác hết, chưa kịp cải tiến quản lý để độ xốp này bớt đi, thì tại sao chúng tôi phải động đến vấn đề tỷ giá. Tức là còn nhiều lựa chọn khác. Mình cứ tưởng thế thôi chứ mình không theo được, theo Trung Quốc thì không theo được.

Trung Quốc không có chuyện là mấy anh tị với nhau, không anh nào coi anh nào ra cái gì. Anh nào mà vênh váo được là vênh váo, biết vênh váo cũng không để làm gì nhưng vẫn thích thế. Cái đó gọi là âm mưu, là bản lĩnh thì không phải, gọi là thắng lợi, là uy thế cũng không, đấy là trẻ con. Tất cả ngồi trong một cái thuyền, anh nào cầm búa to là phải thật cẩn thận. Anh tự do nhất, hung hăng nhất cầm búa to thì cái thuyền phải vỡ. Một số người cơ hội thì vỗ tay hoan nghênh những anh cầm búa to và vung búa lớn mà quên mất rằng nó vỡ thuyền thì tất cả đều chết. Để làm một người Việt tiên tiến và một người Việt có ích là rất khó. Làm người Việt có ích thì rất nhiều người Việt không thích mình, họ sẽ bảo tại sao nó hèn thế, tại sao nó lại không nói thẳng. Như tôi chẳng hạn, mặc dù tôi rất thích ông Tuyển nhưng tôi không thích những câu nói vừa rồi. Phải ở vào địa vị ấy mới biết là nó khó thế nào.

Bây giờ đảng ta phải nghiên cứu thật sự về vấn đề này. Tôi nghĩ có những cơ sở có thể nghiên cứu được như Hội đồng lý luận trung ương là nên chủ động. Viện kinh tế của anh Trần Đình Thiên, Viện quản lý kinh tế Trung ương của anh Nguyễn Đình Cung hoặc Viện chiến lược phát triển… Tất cả những cơ sở ấy hùn vào, đưa ra khái niệm, định nghĩa rõ ràng giúp Đảng ta xác định định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là gì. Thực chất là duy trì mối liên lạc giữa xã hội Việt Nam với chủ nghĩa xã hội. Bằng gì? Bằng điều chỉnh các khái niệm.

Hỏi:Ông có thấy một đặc thù là mỗi khi đảng nới ra, mở rộng tự do kinh tế cho người dân, chẳng hạn qua câu chuyện làm kinh tế thì kinh tế đất nước có thay đổi?

Trả lời: Có nhưng mà qua rồi. Nới cho người dân ở mức độ nào đó thì nó chưa có biến dạng chính trị, nhưng nới quyền tự do tới một ngưỡng nào đó rộng hơn thì nó sẽ diến biến thành những biến dạng chính trị. Cho nên tôi mới nói rằng đất sống chung giữa chủ nghĩa xã hội về mặt chính trị và chủ nghĩa tư bản về mặt kinh tế đã bắt đầu hết. Bắt đầu hết đến năm 2000 là hết.

Hỏi: Nhưng năm 2000 mới có luật doanh nghiệp?

Trả lời: Thành lập luật doanh nghiệp là biểu hiện tập trung của sự tự giác của xã hội về kinh doanh. Tôi tham gia vào quá trình xây dựng luật ấy và luật đầu tư. Tôi cũng có làm việc với anh Trần Xuân Giá. Có nhiều người người thông minh, hiểu chính phủ, hiểu nhà nước nhưng không hiểu đời. Bởi nhà nước hay chính phủ có hai mặt, mặt nhà nước và mặt đời. Nói chuyện với mặt đời của nó thì các nhà báo cũng phải cẩn thận.

Xin cảm ơn ông!


Dạy con làm quan

Sáng Cu Tí ngồi nhơi hoài vẫn chưa hết tô phở. Bố Cu Tí thì thoáng cái tô phở sạch bóng. Mẹ Tí bảo '' Ráng ăn cho hết đi con. Nhìn bố xem đã hết sạch rồi kia". Bố Tí vừa chùi mép vừa rầy cu Tí " Có một tô phở còn ăn không hết thì sau này làm sao làm quan chứ? ". Cu Tí thắc mắc " Sao phải ăn hết mới làm quan được hả Bố?" Mẹ Tí xoa đầu cười bảo " Làm quan thì cái gì cũng phải ăn hết con ạ". Bố Cu Tí gật gù đắc ý " Đúng, Mẹ mày nói rất đúng. Làm quan thì cái gì cũng phải ăn hết" Mẹ tí cười vui vẻ " Thôi, cố ăn hết đi con, sau này làm quan giống Bố chứ!"

Để chạm vào hạnh phúc


Để chạm vào hạnh phúc

Featured Image: Gummi Stóri



Với người Việt Nam thì từ hạnh phúc đã trở thành câu cửa miệng trong mỗi lời chúc. Nó cũng là từ được đưa lên làm tiêu ngữ của quốc gia. Vậy tại sao, mỗi khi đọc báo hay lướt web ta vẫn thấy nhan nhãn những chuyện đời bất hạnh, những tiếng thở dài và cả những cõi lòng rách nát… Vậy hạnh phúc là gì, sao nhiều người tìm mãi vẫn chưa ra?

Sáng thức dậy là một status chán đời, trưa là tiếng thở dài kêu than mệt mõi, tối đi ngủ là một loạt bức xúc với bạn bè, sếp, đồng nghiệp. Đó là những dòng newfeed tôi thường đọc được trong mỗi lần lướt Facebook. Ôi! Sao với nhiều người cuộc sống y như một ngục tù tăm tối vậy? Sao hạnh phúc trở nên xa xỉ và hiếm hoi đến thế?

Tất thảy, tôi kết luận trong hai từ ngắn gọn, đó là do chúng ta luôn ĐÒI HỎI và KHÔNG HÀI LÒNG. Chúng ta muốn mọi thứ đều theo ý mình, không hài lòng với những gì đang có, luôn sân si, hận thù oán ghét… Tóm lại, chúng ta tự BÓP CHẾT HẠNH PHÚC của mình bằng những cảm xúc tiêu cực mà lẽ ra bất cứ ai cũng có thể làm chủ được.

Dù là một ông tổng thống hay một kẻ bần hàn, tàn tật. Vì hạnh phúc là trạng thái cảm xúc bên trong tâm hồn ta chứ không phải là những thứ xa xôi ngoài tầm với. Bởi vậy, ta vẫn thường bắt gặp những hình ảnh trái ngược là những ông giám đốc mang vẻ mặt cau có và phẫn uất với những chú đạp xích lô rạng rỡ nụ cười hiền từ và ánh mắt rạng ngời. Hay những ca sỹ, diễn viên luôn phải đau khổ vì những con Mụn và lời đàm tiếu với những người tật nguyền luôn cười nói vô tư và an nhiên chấp nhận một cuộc sống thực vật.
Vậy hạnh phúc là gì?

Với nhiều người hạnh phúc là khi họ lên đến đỉnh cao quyền lực, còn nhiều người khác thì hạnh phúc là khi chinh phục được những mục tiêu về tài chính, học vị và danh tiếng, cũng có những người coi hạnh phúc chỉ đơn giãn là khi mình được yêu thương và chia sẻ yêu thương… Nhưng theo tôi nếu chỉ chờ đến khi ta đạt được những thành quả ấy mới cảm thấy hạnh phúc thì xem như cả cuộc đời ta sống trong đau khổ và bất hạnh.

Vì mỗi cuộc đời có mấy lần được bước lên đỉnh vinh quang cao ngất ấy, khi thời gian mà ta dành để chinh phục nó chiếm gần hết cuộc đời mình và phải trải qua bao thử thách gian truân, bao đắng cay tủi hổ. Nếu ta đánh đỗi nó để lấy những khoảnh khắc hạnh phúc ngắn ngủi như vậy thì quả là quá đắt đỏ và chẳng xứng đáng chút nào. Bởi vì sau khoảnh khắc lên đỉnh ngắn ngủi ấy ta lại phải trở về với nhiều mối bận tâm và những vấn đề hóc búa khác của cuộc sống.

Nhưng có một điều chắc chắn rằng, nếu bạn cũng như tôi khi được ngồi gõ bàn phím, được kết nối internet, được ăn ba bữa mỗi ngày, được ngủ trên một chiếc giường êm ái, có công việc để làm và được sống trong hoà bình tự do thì chúng ta đã may mắn hơn 3/4 dân số trên thế giới này. Với những điều kiện như vậy mà nếu ta vẫn không tìm được hạnh phúc thì thử hỏi 5 tỷ người còn lại họ sẽ sống ra sao?

Như vậy chúng ta đã hiểu rằng, hạnh phúc không phải chỉ có được qua những khoảnh khắc “lên đỉnh” hay xuất thần mà nó là một trạng thái cảm xúc an bình, tĩnh tại trong sâu thẳm tâm hồn mỗi người. Ở đó mỗi chúng ta đều có thể làm chủ hay điều khiển được nó mà không hề phụ thuộc vào ta là ai, thuộc tầng lớp xã hội nào.

Nhưng qua 25 năm được sống, đã nhiều lần rơi xuống tận đáy cuộc đời, cũng đôi lần đạt được chút vinh quang. Đến giờ, tôi hiểu thêm một điều rằng, nếu chúng ta cảm nhận hạnh phúc bằng cách thoả hiệp với những gì mình đang có và ngừng khát khao đòi hỏi thì cảm giác như thứ hạnh phúc ấy là khá gượng gạo. Bởi khi ta luôn nghĩ rằng: “Ừ, vậy là được rồi…” Thì chính là lúc mà ta ngừng nỗ lực, ngừng cống hiến để làm cho cuộc sống bản thân và cộng đồng của mình tiến về phía trước. Những cái “biết đủ” và sự hài lòng dễ dãi này sẽ dễ làm ta chán ngán. Và rồi, thứ hạnh phúc “thoả hiệp” ấy sẽ dần biến mất khi ta không hiểu được ý nghĩa cuộc đời mình nằm ở nơi đâu.

Qua trải nghiệm đó, tôi nghĩ rằng, để cảm nhận được thứ hạnh phúc tự nhiên và viên mãn nhất thì ta vẫn phải khát khao, phải phấn đấu, phải sống có mục tiêu và lý tưởng. Nhưng không phải đợi đến lúc ta đạt được mục tiêu hay hoàn thành lý tưởng mới cảm thấy hạnh phúc mà ta phải luôn hạnh phúc với công việc của mình, với thực tại, và với cả chiều dài cuộc hành trình của đời ta.

Với xã hội mở ngày nay thì cuộc đời này không ai còn nhỏ bé nữa, trừ khi tự mình muốn nhỏ bé. Ai cũng có thể trở thành những con người lớn bằng cách, làm được những việc lớn hoặc làm những việc nhỏ với một tình yêu cực lớn. Và khi biết chọn cho mình một lẽ sống phù hợp rồi sống hết mình và cháy hết mình với nó, mỗi người sẽ có được một hạnh phúc trọn vẹn. Khi đó, ta không chỉ có những khoảnh khắc hạnh phúc, mà còn có cả một cuộc đời hạnh phúc. Khi đó, tôi hạnh phúc, bạn hạnh phúc và chúng ta hạnh phúc. Đó cũng là lúc ta thực sự “chạm” vào hạnh phúc!



Nguyễn Văn Thương

Thứ Năm, 11 tháng 9, 2014

GIỐNG LOÀI KHỐN KHỔ




Featured Image: Rupam Das




“Bản chất của giống loài khốn khổ của chúng ta đó là những kẻ bước đi trên con đường được trải nhựa êm ái luôn ném đá những kẻ chỉ ra những con đường mới.” – Voltaire
Tự do – bình đẳng – bác ái

Tự do – bình đẳng – bác ái là các giá trị loài người có được sau Cách mạng dân chủ Pháp (1789 – 1799), khi lực lượng dân chủ và cộng hòa lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế. Bước sang thế kỷ XXI, triết lý thịnh hành nhất là “dân chủ” và “quyền con người”. Các học giả phương Tây từ lâu đã nhấn mạnh hai khái niệm này và xem chúng như là động lực cơ bản cho sự phát triển của thế kỷ XXI.

Thực chất, các khái niệm này đã có từ xa xưa. Cách đây hơn 2500 năm, đã có những bậc thầy xuất hiện cùng lúc ở nhiều nơi, giao giảng tầm quan trọng của tình yêu, lòng từ bi, sự yêu thương đồng loại. Ở Ấn Độ là sự xuất hiện của Gautama Buddha, ở Trung Quốc là Lao Tzu, ở Hy Lạp là Socrates …

Đặc biệt phải kể đến sự xuất hiện của Chúa Jesus ở vùng Galilee miền bắc Israel. Người rao giảng tầm quan trọng của việc sám hối tội lỗi, thay đổi lối sống, yêu thương và chia sẻ với nhau.


“Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật. Thật thế, các điều răn như: Ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy. “(Rô-ma 13,8)

Người phản đối các lãnh đạo tôn giáo Do Thái là Sadducees và Pharisees, cho rằng họ quá quan tâm đến tiền bạc và quyền lực. Thích thú với những giáo lý và những việc làm bác ái của Người, người dân đã tin theo và thay đổi lối sống. Mọi người dần cảm nhận được những giá trị của tự do, bác ái và bình đẳng đem lại. Do được người dân tôn là đấng Messiah (người được thần linh lựa chọn), Người đã bị những lãnh đạo Do Thái khác coi là kẻ khiêu khích chính trị và bị kết án là “dị giáo”. Chính những lãnh đạo này đã thỏa hiệp với nhà chức trách La Mã và Chúa Jesus bị trao cho thái thú La Mã Pontius Pilate. Ông ta đã cho phép kết tội và đóng đinh Chúa Jesus trên thập giá, hình phạt thường chỉ dành cho các tội phạm giết người.

Mặc cho cái chết tàn khốc của Chúa Jesus, các môn đệ của Người vẫn giảng dạy giáo lý của Người. Do muốn duy trì chế độ quân chủ, các lãnh đạo chính trị và tôn giáo thời đó đã cấu kết nhau bách hại những ai rao giảng giáo lý của Chúa Jesus. Tuy nhiên, giáo lý của Chúa Jesus vẫn tồn tại mạnh mẽ và vẫn lưu lại cho đến ngày nay.
Giống loài khốn khổ

Đến đây chúng ta có thể đặt ra câu hỏi: tại sao các giá trị tự do – bình đẳng – bác ái đã xuất hiện lâu như vậy, mà chế độ quân chủ vẫn duy trì đến hơn 1700 năm sau. Chỉ đến khi có cách mạng dân chủ Pháp, những giá trị này mới được chấp nhận rộng rãi?

Có hai lý do chính. Thứ nhất một thực tế phải hiểu là trong lịch sử loài người, luôn luôn có một đẳng cấp thống trị nhỏ nhoi, cố gắng lợi dụng quyền lực và tiền bạc của mình để áp đặt “giải pháp” của mình trên đại đa số quần chúng. Họ thực hiện nhiều biện pháp, như sử dụng bạo lực, tuyên truyền nhồi sọ để thuyết phục đông đảo nhân dân. Bất kỳ ai đứng lên nói sự thật thì sẽ bị họ bôi nhọ và đàn áp.

Nguyên nhân thứ hai quan trọng hơn. Đó là ý thức hạn chế của đông đảo người dân. Sợ hãi trước cường quyền, im lặng hờ hững trước cái ác, ngu dốt nghe theo những lời hứa hão của giai cấp cầm quyền tham lam và ích kỷ. Đành rằng “nhân vô thập toàn”, tuy nhiên đa số luôn nhìn đến lợi ích trước mắt mà quyên đi lợi ích lâu dài. Những tư tưởng lớn đi trước thời đại bao giờ cũng bị cho là “dị giáo”, tuy nhiên thực tế luôn chứng minh chân lý luôn thuộc về thiểu số.


Khi các người thấy mây kéo lên ở phía tây, các người nói ngay: ‘Mưa đến nơi rồi.’ Và xảy ra đúng như vậy. Khi thấy gió nồm thổi, các người nói: ‘Trời sẽ oi bức.’ Và xảy ra đúng như vậy. Những kẻ đạo đức giả kia, cảnh sắc đất trời, thì các ngươi biết nhận xét, còn thời đại này, sao các người lại không biết nhận xét? Sao các người không tự mình nhận xét xem cái gì là phải? Thật vậy, khi anh đi cùng đối phương ra tòa, thì dọc đường hãy cố gắng giải quyết với người ấy cho xong, kẻo người ấy lôi anh đến quan tòa, quan tòa lại nộp anh cho thừa phát lại, và thừa phát lại tống anh vào ngục. Tôi bảo cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó trước khi trả hết đồng kẽm cuối cùng.” – Chúa Jesus)

Trong những xã hội trì trệ và bảo thủ, con người phải tự mình trang bị một tư duy độc lập. Tư duy độc lập bắt đầu bằng những câu hỏi là tình trạng hiện tại do ai duy trì và họ có những ích lợi gì vào sự ù lì của tình thế? Kế đến, ta phải sẵn sàng đối phó thường trực với những ù lì rồi phá phách của những thành phần không muốn đổi thay hay tiến bộ của xã hội vì lợi ích cá nhân, gia đình hay phe nhóm. Không có một tinh thần bất khuất và kiên trì, chúng ta sẽ bỏ cuộc không chóng thì chày, vì sức đề kháng của phe bảo thủ rất mạnh.
“Tôn giáo” tư bản

Quay trở lại với cuộc cách mạng dân chủ Pháp. Lý do dẫn đến cuộc cách mạng này cũng không lấy gì làm vẻ vang. Tất cả chỉ vì hai chữ: Đồng tiền.

Khoảng thế kỷ 17, thương mại phát triển mạnh mẽ và số lượng các thành phố gia tăng nhanh chóng. Điều đó đã hình thành nên cộng đồng hùng mạnh của các thương gia và chủ đất. Phẫn nộ trước mức thuế mà quốc vương áp đặt, những nhà tư sản giàu có hình thành ý tưởng về một chính phủ đại diện khi họ tìm cách chống lại quyền lực nhà vua.

Bắt đầu khởi nguồn từ Cách mạng Huy hoàng của vương quốc Anh rồi lan đến sang Pháp. Dĩ nhiên, để làm một cuộc cách mạng, phải có một học thuyết “lọc lừa” để mê hoặc dân chúng nghe theo. Đi tiên phong là bá tước người Anh John Locke (1632-1704). Trong các tác phẩm của mình, Locke lập luận rằng con người phục tùng chính quyền không phải vì xu hướng phục tùng một lãnh đạo chuyên chế là bẩm sinh nội tại của con người, mà vì một chính quyền hợp pháp sẽ bảo vệ quyền sở hữu của họ. Nếu không được bảo vệ, những người có tài sản có quyền thôi ủng hộ chính quyền này và lập ra một chính quyền khác. Không phải nhà vua thì có quyền cai trị mà là chính người dân có quyền chấp thuận hay không. Thomas Jefferson (1743-1826) đã sử dụng các ý tưởng của Locke trong Tuyên ngôn Độc lập (1776) để bênh vực cho cuộc nổi dạy của các thuộc địa Anh ở châu Mỹ, với cụm từ “mưu cầu hạnh phúc” (nói trắng phớ là “mưu cầu tài sản” cho nhanh).

Quá thuyết phục với lý tưởng tự do, bình đẳng, được quyền sở hữu tài sản và theo đuổi tích lũy tài sản, người dân ở các nước phương Tây đã đồng loạt hưởng ứng với hàng loạt cuộc nổi dậy và các phong trào giành độc lập. Rốt cuộc, sau 3 thế kỷ, chế độ quân chủ đã biến mất khỏi thế giới phương Tây.

Miễn nhiễm với phong trào này là Liên Xô và Trung Quốc. Có lẽ người dân ở hai đất nước này thánh khiết, không coi trọng đồng tiền, tin tưởng một mực vào chế độ sẽ đem lại hạnh phúc cho muôn dân!

Khác hẳn với các chế độ độc tài dùng roi vọt gông cùm để thúc đẩy, “tôn giáo” tư bản đã lợi dụng điểm yếu cố hữu của con người để buộc người dân làm nô lệ với tinh thần hoàn toàn “tự nguyện”: lòng tham tiền bạc và những món nợ ngập đầu. Mục đích chung quy vẫn là lợi dụng công sức và tài sản của quần chúng “ngu ngơ” để làm đầy túi tiền cá nhân và phe nhóm. Các thủ thuật ăn cắp thì vô cùng tinh vi, chẳng hạn in thêm tiền để gây lạm phát (anh có 10 đồng, tôi muốn lấy 1, tôi chỉ việc làm cho tiền mất giá 10% là anh đã bị móc túi mà không hề biết); chính phủ đi vay bừa bãi để thế hệ sau phải gánh nợ chồng chất; đầu cơ, làm giá hay lướt sóng trên các thị trường tiêu thụ hay tài chính; ….


“Ngoài xã hội, không ít người nhận ra những thủ thuật ăn cắp này. Tuy nhiên “tôn giáo” tư bản vẫn sử dụng một tuyệt chiêu khác: mua trước trả sau. Không nơi nào mà một người tay trắng có thể mua nhà, tậu xe, sắm sửa tiêu xài như ở xứ Mỹ. Có thể bạn không muốn nợ, nhưng chắc chắn là vợ con và đa số thành viên gia đình bạn bè sẵn sàng “shop” dùm bạn. Đòi hỏi duy nhất: bạn phải có công việc và phải nô lệ nghiêm túc. Mất công việc là mất tất cả.
Vì lòng tham và vì cái giây xích nợ vô hình này, cả trăm triệu nô lệ Mỹ đã đẩy nền kinh tế và xã hội Mỹ lên đỉnh cao thế giới dưới danh nghĩa”thị trường và tự do”. Trong khi đó các xã hội “phong kiến cổ hủ” phải trì trệ trong đống bùn vì ngu xuẩn. Các lãnh đạo nơi đây không hiểu rằng con ngựa sẽ chạy nhanh hơn nếu bạn treo trước đầu nó một củ cà rốt tươi ngon; chứ không thể dùng roi siết cương suốt chặng đường dài.” – TS. Alan Phan (sáng lập viên của Alan Phan Associates)

Trong các lần thuyết giảng trước dân chúng, Chúa Jesus đã nói: “Thầy bảo thật anh em, người giàu có khó vào Nước Trời.” Trong kinh thánh, đã kể một câu chuyện về người thanh niên có nhiều của cải đến gặp Chúa Jesus như sau:


Bấy giờ có một người đến thưa Đức Jesus rằng: ‘Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì đó tốt để được sự sống đời đời?’ Đức Jesus đáp: ’Sao anh hỏi tôi về điều tốt? Chỉ có một Đấng tốt lành mà thôi. Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn. Người ấy hỏi: ‘Điều răn nào?’ Đức Jesus đáp: ‘Ngươi không được giết người. Ngươi không được ngoại tình. Ngươi không được trộm cắp. Ngươi không được làm chứng gian. Ngươi phải thờ cha kính mẹ’, và ‘Ngươi phải yêu đồng loại như yêu chính mình.’ Người thanh niên ấy nói:’Tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ, tôi còn thiếu điều gì nữa không?’ Đức Jesus đáp: ‘Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.’ Nghe lời đó, người thanh niên buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.

Con người hầu như ở thời đại nào cũng vậy. Tham lam, ham muốn thật nhiều tài sản. Khi đã ăn no mặc ấm thì tiếp tục kiếm tìm thêm của cải. Chúng ta nô lệ cho những gì mình sở hữu (We are possessed by what we possess). Judas đã phản bội Chúa Jesus cũng chỉ vì 30 đồng bạc!
Vượt qua những giới hạn của sự nhận thức
Đã có quá nhiều cuộc tranh cãi giữa các ý thức hệ là chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản. Theo quan điểm của tôi, cả ba chủ nghĩa trên là những biến thể của công nghiệp hóa. Chủ nghĩa tư bản là công nghiệp hóa do tư nhân chủ động, chủ nghĩa cộng sản là công nghiệp hóa do nhà nước chủ động, còn chủ nghĩa xã hội là sự pha trộn của cả hai.

Công nghiệp hóa mang lại của cải, chăm sóc y tế, giáo dục, giao thông, sự hào hứng và lạc thú. Tuy nhiên, công nghiệp hóa có thể không bền vững nếu không có thuộc địa để khai thác. Các quốc gia đã công nghiệp hóa đang phải vất vả duy trì mức sống của họ. Với các quốc gia mới đang nỗ lực công nghiệp hóa, nguồn lực cần thiết để thực hiện quá trình này càng trở nên khan hiếm hơn.

Để phục vụ mưu đồ khai thác thuộc địa của mình, các quốc gia đã công nghiệp hóa tung ra học thuyết “thị trường tự do” và “toàn cầu hóa”. Như các thấy, các học thuyết “lọc lừa” luôn đi trước để thuyết phục quần chúng “ngu ngơ”. Mục tiêu của hai học thuyết này là kêu gọi các nước mở cửa tối đa thị trường, giảm bớt sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế.

Hãy mở rộng tầm nhìn, chúng ta thấy gì? Kinh tế thị trường làm ra của cải tiền bạc nhưng chúng không đồng nghĩa với sự thịnh vượng. Những nhà máy khổng lồ sản xuất hàng hóa tiêu dùng khắp thế giới không đồng nghĩa người dân nơi đặt nhà máy hưởng đồng lương cao như lẽ ra họ phải được hưởng. Bởi lợi nhuận làm ra phần lớn bị hút vào những công đoạn vẫn được duy trì ở nước giàu. Điều làm cho người dân ở nhiều nước phẫn nộ là trong khi các tập đoàn tài chính phải nhận tiền đóng thuế của họ để tiếp tục tồn tại, các tay điều hành từng dẫn dắt họ đến con người nguy khốn hiện nay lại vẫn hưởng những khoản lương kếch sù.

Hiện nay, 20 phần trăm dân số giàu có nhất kiểm soát hơn 80 phần trăm tổng tài sản của thế giới. Phần lớn của cải trên Trái đất không còn do chính phủ của các quốc gia kiếm soát và điều tiết. Chúng thuộc về các công ty đa quốc gia dưới một số hình thức nằm ngoài quyền kiểm soát của các quốc gia và có giá trị lớn hơn tài sản của rất nhiều quốc gia trên thế giới.


Nếu đơn giản hóa vấn đề, có thể thấy mô hình sản xuất xoay quanh một chữ V, dưới đáy là khâu sản xuất hay lắp ráp, ở hai đầu là các công đoạn “cao cấp” hơn như nghiên cứu, thiết kế hay tiếp thị, xây dựng thương hiệu. Toàn cầu hóa, với nhiều công ty đa quốc gia, là cố gắng đẩy các công đoạn nằm ở dưới đến các nước giá nhân công rẻ và giữ lại phần trên cho mình. Các nước cũng cố gắng trèo lên bậc thang giá trị để phát triển nhanh hơn. Vấn đề của toàn cầu hóa, vì vậy, chính là ở chỗ định giá một cách bất công các khâu sản xuất này, giá tiền công sản xuất lúc nào cũng thấp hơn nhiều lần, chiếm một tỉ trọng rất nhỏ trong một chiếc giày thời trang chẳng hạn.

Toàn cầu hóa được xem là đem lại cơ hội cho mọi người nhưng giá trị của cơ hội đó hoàn toàn khác nhau trong khi sản xuất đi liền với ô nhiễm môi trường, tài nguyên cạn kiệt, xáo trộn xã hội vì các dòng chảy lao động. Ở các khâu “cao cấp”, vũ khí bảo vệ “giá trị” chính là quyền sở hữu trí tuệ, được các nước phát triển bảo vệ bằng mọi giá – bởi chỉ bằng cách này họ mới định được giá cao. Chính rào cản sở hữu trí tuệ làm cho các nước nghèo khó lòng bứt phá lên được, trong khi làm ra bao nhiêu tiền phải đổ vào hết để trả cho các khâu “thiết kế” hay “xây dựng thương hiệu”.

Và để các nước chịu tham gia vào sự phân công khiên cưỡng này, luật lệ thương mại, mở cửa thị trường, tạo thuận lợi cho đồng vốn đầu tư được đặt ra và giám sát bằng cách định chế quốc tế. Kết quả là cả thế giới trở thành bãi thử sản phẩm với hàng loạt đời máy tính, điện thoại di động… đua nhau ra đời. Thử hỏi nếu chỉ vì thỏa mãn nhu cầu sử dụng, liệu toàn bộ số máy tính hay máy điện thoại đã sản xuất có quá đủ cho 6,4 tỉ người trên toàn thế giới sử dụng hay không? Một công việc bàn giấy bình thường cách đây mấy chục năm chỉ phải tiêu tốn một lần tiền cho một chiếc máy đánh chữ; nay ắt phải tiêu gấp mấy chục lần và tiêu liên tục cho cùng phương tiện làm việc – chiếc máy tính.” – Nguyễn Vạn Phú (Tổng thư ký Thời báo Kinh tế Sài Gòn)


Và trong kế hoạch thực hiện mưu đồ, không thể không kể đến kẻ tiếp tay: phương tiện truyền thông. Phương tiện truyền thông ngày đêm dội bom kích thích lòng ghen tỵ, ước muốn chiếm hữu, muốn hơn người khác. Nó tung ra hàng loạt các quảng cáo về các sản phẩm và được quảng bá biến từ “cái người ta muốn có” thành “cái người ta cần có”. Chính cái mô hình biến ước muốn của người tiêu dùng thành nhu cầu rồi tìm cách thỏa mãn cái nhu cầu đó đã làm tài nguyên trái đất ngày càng cạn kiệt, ô nhiễm xảy ra khắp nơi trong khi không thể giúp hàng trăm triệu người khác có đủ cơm ăn áo mặc theo đúng nhu cầu rất sơ đẳng của họ.


“Khắp mọi nơi, từ văn hóa đại chúng cho đến hệ thống tuyên truyền, luôn có một sức ép khiến người ta cảm thấy rằng họ vô dụng, rằng vai trò duy nhất họ có thể có chỉ là thông qua những quyết định và tiêu thụ.” – Noam Chomsky

Hãy quan sát xung quanh chúng ta xem chúng ta cần làm gì vào lúc này. Với mức tăng trưởng kinh tế trong nhiều năm qua, nguồn lực và tài nguyên của trái đất chắc cũng đủ để nuôi sống nhân loại, không để ai phải chết đói hay sống vật vờ dưới ngưỡng nghèo. Nhưng thử hỏi xem tại sao con người không đủ tỉnh táo để cùng nhau chia sẻ nguồn lực và tài nguyên ấy? Tại sao người giàu lại dùng đủ trăm phương ngàn kế để làm cho túi tiền của mình đầy hơn, đẩy đồng loại của mình nghèo đi? Thế giới đang cần lắm tình yêu, sự sẻ chia, sự yêu thương giữa người và người trong thời điểm này.

Rất nhiều những học giả, các bậc thiện tri thức, những chính trị gia và các nhà khoa học chân chính đã cảnh báo. Nhưng loài người làm gì. Ngoảnh mặt đi không thèm nghe. Con người hoa mắt với những đánh bóng hư ảo của các “nhân vật” xã hội, chỉ ước ao bắt chước mọi hành vi lố lăng của họ, đam mê các màn xiếc và trò giác đấu (thời La Mã) hay các giải bóng đá và những cuộc thi hoa hậu, lễ hội (thời nay) …


Thật vậy sẽ đến thời người ta không còn chịu nghe giáo lý lành mạnh, nhưng theo những dục vọng của mình mà kiếm hết thầy này đến thầy nọ, bởi ngứa tai muốn nghe. Họ sẽ ngoảnh tai đi không nghe chân lý, nhưng hướng về những chuyện hoang đường.” (Ti – mô – thê 4,3)
Hãy mang ánh sáng đến với thế giới

“Người ta nói vô tâm thì vô lo, những gì bạn không biết thì không thể làm hại bạn. Chúng ta thường chỉ muốn thu mình trong cái thế giới nhỏ nhoi của ta, tránh xa những gắng nặng mà sự thật có thể đem lại. Người mù đâu thể nhìn thấy cái xấu, người điếc chẳng thể nghe điều tệ hại, còn người vô tâm thậm chí không có khái niệm gì.” – Trần Hùng John (tác giả cuốn sách John đi tìm Hùng)

Bạn có thể lựa chọn cuộc sống vô tâm, lựa chọn sự dối trá hay lựa chọn sự thật. Đó là quyền mà Đấng Tạo Hóa đã ban cho bạn. Tôi không có quyền phán xét. Với tôi, tôi chọn sự thật. Sự thật đem lại nhiều cay đắng nhưng lại mang tới sự khai sáng và nhận thức đúng đắn. Nhận thức đúng sẽ dẫn tới hành động đúng. Hành động phát sinh hành động. Sự thật giúp chúng ta có được con mắt tinh tường, phân biệt phải trái đúng sai, đem lại sự khôn ngoan chân thật.


Đèn của thân thế là con mắt. Vậy nếu mắt anh sáng, thì toàn thân anh sẽ sáng. Còn nếu mất anh xấu, thì toàn thân anh sẽ tối. Vậy nếu ánh sáng nơi anh lại thành bóng tối, thì tối biết chừng nào.” – Chúa Jesus
Hãy cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn. Hãy hy sinh. Hãy dấn thân. Chúng ta hãy mang tình yêu và ánh sáng của sự nhận thức đi khắp mọi nơi. Chúng ta hãy trở thành những người đi gieo giống. Tôi tin chúng ta sẽ thành công. Vì chúng ta là thế hệ trẻ.


Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.” (Những lời nói cuối cùng của Chúa Jesus với các môn đệ trước khi Người bị đóng đinh vào Thập Tự)

Để kết thúc bài viết , tôi xin trích dụ ngôn người đi gieo giống trong kinh thánh, các bạn hãy thử tự mình giải thích nhé. Chúng các bạn thành công trên con đường bạn đã chọn.


“Người đi gieo giống đi ra gieo giống. Trong khi người ấy gieo, thì có những hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất. Có những hạt rơi trên nơi sỏi đá, chỗ đất không có nhiều; nó mọc ngay, vì đất không sâu; nhưng khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết khô. Có những hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt. Có những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nên sinh hoa kết quả: hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục. Ai có tai thì nghe.” – Chúa Jesus



Khải Huyền

Thứ Hai, 8 tháng 9, 2014

Động lực để Việt Nam phát triển thần kỳ




 VIENHANLAM

“Cách đây bốn, năm mươi năm thì Việt Nam và Hàn Quốc có trình độ phát triển tương đương. Sau mấy mươi năm tôi rà lại tư liệu thì thấy Hàn Quốc hiện có khoảng 90.000 người sống tại Việt Nam, và Việt Nam hiện có 90.000 người sống tại Hàn Quốc. Chỉ khác nhau ở chỗ hầu hết người Hàn Quốc ở Việt Nam làm ông chủ, còn người Việt Nam ở Hàn Quốc thì làm ôsin. Nghe mà xót lòng.”


Đó là chia sẻ gần đây của Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Vũ Ngọc Hoàng trên báo Tuổi Trẻ.

Đồng tình với quan điểm trên, ông Vũ Minh Khương – tiến sỹ về “kinh tế học phát triển” tại Đại học Harvard, giáo sư đại học quốc gia Singapore – chia sẻ công thức để đi tới sự thịnh vượng cho VIệt Nam. Theo đó, động lực phát triển của một đất nước có thể gói gọn trong ba chữ EEC – emotion (cảm xúc), enlightenment (sự khai sáng) và coordination (tính phối thuộc).

Năm 1960, Hàn Quốc và Philippines tương đồng về mọi mặt. Thậm chí, Philippines lợi thế hơn rất nhiều như sự hỗ trợ của quốc tế, dân trí khá tốt, tiếng Anh thông thạo. Lúc đó mọi người dự báo rằng, một ngày nào đó Hàn Quốc sẽ kém xa Philippines và Philippines đã sẵn sàng cho sự phát triển thịnh vượng. Thế nhưng ba mươi năm sau, nhìn lại Hàn Quốc đã tổ chức được Olympic thế giới và khẳng định được vị thế một dân tộc đang trỗi dậy rất mạnh mẽ.

Vì sao đất nước họ đi được nhanh như thế? Việc trì trệ có thể nhiều lý giải, nhưng để cất cánh thì rõ ràng có bài học rất lớn mà các nước muốn trỗi dậy phải học hỏi. Robert Lucas, một giáo sư Mỹ nổi tiếng, kinh tế gia đoạt giải Nobel có nói rằng: “Nếu ta hiểu được thấu đáo con đường đi đến phồn vinh của một đất nước, thì chắc chắn ta sẽ làm ra được một cái thần kỳ khác tương tự như thế”.



Theo ông Vũ Minh Khương, quá trình phát triển của mỗi quốc gia tổng kết lại bằng tiếng Anh chỉ có 3 chữ “EEC”. E thứ nhất là emotion, trong tiếng Anh người ta còn chơi chữ tốt hơn: “E stands for Energy” nghĩa là năng lượng, motion là chuyển động. Đây là cội nguồn và động lực trung tâm của mọi quá trình cải biến. Bởi vì phát triển kinh tế không phải chỉ là quá trình đầu tư đơn thuần mà đây là công cuộc cải biến vĩ đại đòi hỏi sự chuyển động rất lớn, nói cách khác con người phải có xúc cảm rất cao.

Emotion có hai trạng thái quan trọng. Trạng thái thấp của emotion chỉ đơn thuần là cảm xúc, thường là nghi kỵ, bi quan, ức chế. Nếu chỉ đơn thuần giải phóng năng lượng xúc cảm ở trạng thái thấp như thế sẽ gây ra những rối loạn, thậm chí phức tạp và bất ổn. Chẳng hạn chúng ta thấy ở cấp độ quốc gia, công ty thì đơn từ kiện tụng triền miên.

Tuy nhiên, nếu nâng được xúc cảm lên cấp độ cao hơn, “aspiration”, là khát vọng, là sự lo lắng cho vận mệnh quốc gia và ý thức trách nhiệm với tương lai. Khi xúc cảm ở dạng này được giải phóng ra thì năng lượng vô cùng lớn. Tổng thống Park Chun Hee khi khởi xướng cuộc cải cách cho Hàn Quốc, đã tuyên bố rõ: “Tôi mong muốn từng ngày làm cho Hàn Quốc đuổi kịp Nhật Bản”. Đó là lời thề thiêng liêng, lời tuyên thệ về phồn vinh của đất nước. Động lực xúc cảm này truyền tải rất mạnh mẽ đến giới tinh hoa. Cái hay là dưới thời Tổng thống Lý Thừa Vãn trước đó, các tập đoàn, công ty tham nhũng triền miên nhưng ông Park Chun Hee không bắt tù họ, mà mời họ cùng ngồi với chính phủ để bàn bạc làm gì để dân tộc Hàn Quốc tiến lên, đối phó được với sự đe doạ của bên ngoài và tình thế thế giới đang khắc nghiệt như thế. Họ đã chụm đầu với nhau và đi những bước thần kỳ.

Phải nói rằng đất nước Hàn Quốc ngày đấy còn đói khát, khổ sở hơn nước ta rất nhiều. Đầu tư nước ngoài không đáng kể, chỉ có một số trợ giúp nhất định của Mỹ và bồi thường chiến tranh của Nhật Bản. Nhưng người dân họ tràn đầy xúc cảm, khát vọng vươn lên, từ người lãnh đạo đến các doanh nhân và người dân.

Chữ E thứ 2 là Enlightenment, nghĩa là độ khai sáng, mà độ khai sáng phải luôn luôn trau dồi, phải nhận thức rõ bối cảnh thế giới, tri thức về thế giới của mình phải thông suốt. Tư duy của mình phải học hỏi, mở mang, quý trọng đồng bào mình, quý trọng các cộng đồng xung quanh, phải liên tục học hỏi. Chúng ta có thể thấy rõ tầm quan trọng của sự khai sáng từ cuộc cải cách Minh Trị của Nhật Bản đến các cải cách của các nước sau này như Hàn Quốc, Singapore, thậm chí Trung Quốc với cải cách của Đặng Tiểu Bình.

Điều quan trọng nhất là người lãnh đạo phải khai sáng, nếu không sẽ bị sa lầy vào những khủng hoảng không cần thiết như Nga hoặc Trung Quốc hiện nay. Những biểu hiện có thể thấy là họ hà khắc với dân tộc thiểu số, không coi trọng láng giềng, coi thường quy luật phát triển của lịch sử. Ngay cả trong chống tham nhũng, lẽ ra phải xây dựng những cơ chế khiến người ta không tham nhũng được, thay vì phát động đại chiến dịch “đả hổ diệt ruồi”. Khi độ khai sáng có dấu hiệu đi xuống, chắc chắn đất nước ấy sẽ gặp khó khăn trên con đường phát triển trong thời gian tới.

Tôi muốn lưu ý rằng, enlightenment là yếu tố luôn luôn tự khai sáng chính mình chứ không phải anh có khai sáng rồi là yên tâm. Đây là quá trình học hỏi không ngừng, luôn luôn xem lại mình và nhìn lại người khác, nhìn sang người khác để thấy cái hay của người khác để học hỏi, cái dở của người khác để tránh. Đấy là trách nhiệm của người lãnh đạo, trách nhiệm của tri thức, trách nhiệm của doanh nghiệp, trách nhiệm của từng người dân.

Chữ C – chân kiềng thứ ba là Coordination – tính phối thuộc, đòi hỏi đội ngũ có năng lực. Động lực phát triển của đất nước phải được hiện thực hoá thành những chương trình cụ thể, dưới sự dẫn dắt, điều hành và phối hợp của những con người cụ thể.

Tổng hợp

Thứ Sáu, 5 tháng 9, 2014

Chủ nghĩa xã hội thật sự là gì?



Tác giả: Trần Xuân Bách
.



.
Talawas: Ông Trần Xuân Bách, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng trong giai đoạn 1986-1990, khi hệ thống xã hội chủ nghĩa trên toàn thế giới đứng trước những biến đổi nền tảng và cuối cùng tan vỡ, là một trong những nhà lãnh đạo cao cấp của Đảng Cộng sản Việt Nam công khai đưa ra sớm nhất yêu cầu về đa nguyên chính trị, về cải tổ chính trị song song với cải cách kinh tế, nhưng không tìm được sự ủng hộ trong Đảng và buộc phải nghỉ hưu từ tháng 8.1990. Ngày 01.01.2006, ông qua đời tại Hà Nội, thọ 83 tuổi, tang lễ đã được cử hành ngày 07.01.2006. Nhân dịp này, chúng tôi xin giới thiệu một bài phát biểu cuối năm 1989 của ông về chủ nghĩa xã hội. Ở thời điểm này, bức tường Berlin đã sụp đổ.
.
Chủ nghĩa xã hội thế giới đang đứng trước những thử thách lớn
Một điểm rất thống nhất của toàn xã hội, toàn thể nhân dân hiện nay là trăn trở với tình hình trên thế giới và trong nước. Muốn đưa dân tộc ta tiến lên. Trong Đảng Cộng sản Việt Nam, nếu ta bình chân như vại trước tình hình hiện nay là thiếu trách nhiệm.



Chủ nghĩa xã hội trên thế giới đang đứng trước những thử thách lớn và những triển vọng lớn. Do từ những thử thách của thời đại và những triển vọng lớn cũng là do thời đại. Tất cả các dân tộc đều trong hoàn cảnh bức xức, cả chủ nghĩa tư bản, cả chủ nghĩa xã hội, cả loài người đều như vậy. Có hai lý do của sự bức xúc:
Chỉ còn 10 năm nữa là bước sang thế kỷ XXI, dân tộc nào bị tụt hậu vào giữa thế kỷ XXI là nguy hiểm vô cùng, vì đây là thời đại của cách mạng khoa học kỹ thuật, của bùng nổ thông tin và giao lưu quốc tế.

Xử lý vấn đề này không thể một nhóm, một người nào làm được. Cả dân tộc phải chuẩn bị và làm công việc này.
Diễn biến chính trị ở các nước xã hội chủ nghĩa đang căng thẳng, phức tạp và dây chuyền. Vì sao có tính dây chuyền? Vì ta ở trong thời đại thông tin, không thể bưng bít thông tin được. Ai bưng bít thông tin là lạc hậu nhất. Phải cung cấp thông tin đầy đủ để người ta lựa chọn.

Không thể nghĩ rằng ở châu Âu thì sôi sục, còn châu Á thì ổn định. Không thể chủ quan cho mình là ổn định. Tất cả các nước xã hội chủ nghĩa đều nằm trong sự vận động để tiến lên, đều có những mâu thuẫn lớn, đều phải phá vỡ sức đè nén của những cái cũ, không anh nào có thể yên trí mình ổn định được. Có khi tuần này còn huênh hoang, tuần sau đã bị đảo lộn.

Tình hình chung hiện nay là biểu hiện của tư duy khoa học đang lấn át tư duy giáo điều, tư duy khoa học đang thay thế tư duy giáo điều. Lịch sử đang thay đổi mạnh. Mác trao cho chúng ta vũ khí biện chứng duy vật và biện chứng lịch sử, chớ không phải trao ta Kinh Thánh! Việc vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản phải căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử đương thời như Mác nói.

Mác sống thời chủ nghĩa tư bản cổ điển, ngày nay là chủ nghĩa tư bản hiện đại, có nhiều cái khác với thời Mác. Ngay thời Lê-nin, khi đề ra chính sách kinh tế mới (NEP), cũng đã đổi khác với những dự báo của Mác rồi.
Phải có tư duy khoa học. Tụng từng câu „Kinh Thánh“ trong sách Mác không bảo vệ được chủ nghĩa Mác đâu. Ngay cả về chủ nghĩa xã hội hiện nay đang có những cuộc tranh luận để hiểu nó thế nào cho đúng. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là đi tới một xã hội, trong đó sự phát triển toàn diện của mọi người là điều kiện cho sự phát triển toàn diện của xã hội [1] như Mác và Ănghen nói trong „Tuyên ngôn Cộng sản“. Còn cụ thể như thế nào thì ta phải tìm. Trong Hội nghị Trung ương lần thứ 7, có thảo luận một vấn đề thú vị: Ban Văn hoá Tư tưởng đề nghị nêu những thuộc tính của chủ nghĩa xã hội, nhưng bị bác bỏ.

Ta phải nhận lỗi trước Mác vì đã làm méo mó chủ nghĩa Mác
Cho đến nay ta thấy có nhiều kiểu chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội kiểu Staline, chủ nghĩa xã hội kiểu Mao Trạch Đông, kiểu Pôn Pốt. Bây giờ đang có nhiều ý kiến khác nhau về chủ nghĩa xã hội. Những dòng ý kiến khác nhau là quá trình trưởng thành, không sợ gì cả. Ở Liên Xô, người ta đang tranh luận Liên Xô ở vào thời kỳ nào của chủ nghĩa xã hội, và khái niệm chủ nghĩa xã hội phát triển bị bác bỏ vì nó được dùng để che đậy cho tình trạng trì trệ. Ta phải nhận lỗi trước Mác vì đã làm méo mó chủ nghĩa Mác. Ta đã chọn một mô hình, mà mô hình đó là sự lai ghép chủ nghĩa xã hội phương Tây với chủ nghĩa xã hội phương Đông. Bây giờ ta phải gỡ ra khỏi hai thứ giáo điều ấy.

Phải tiếp tục hoàn thiện tư duy khoa học của Đại hội 6
Vấn đề của mọi vấn đề hiện nay là tư duy khoa học. Đại hội 6 đã khởi động theo hướng này và phải tiếp tục hoàn thiện thêm. Đại hội 6 đúc kết bốn bài học có tính lý luận, tuy mới ở dạng sơ chế, lấy dân làm gốc, nắm vững quy luật khách quan, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Đảng phải ngang tầm nhiệm vụ lịch sử. Bản thân Đảng phải trở thành trí tuệ tiên phong của cả dân tộc, muốn thế phải có lý luận tiên phong.
Những gì đang diễn ra ở thế giới chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan, là sự phát triển tiến bộ, là thời kỳ thai nghén chủ nghĩa xã hội đích thực (dân chủ, khoa học,nhân đạo, hiện đại).
Hai xu thế chủ yếu chuyển sang kinh tế hàng hóa và dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa, đó cũng là hai cái mà Đại hội 6 khởi động.

Dân chủ không phải là ban ơn
Dân chủ không phải là ban ơn, không phải là mở rộng dân chủ (mở rộng). Đó là quyền của dân, với tư cách là người làm nên lịch sử, không phải là ban phát, do tấm lòng của người lãnh đạo này hay người lãnh đạo kia. Thực chất của dân chủ hóa là khơi động trí tuệ của toàn dân tộc để tháo gỡ khó khăn và đưa đất nước đi lên kịp thời đại.
Từ hai vấn đề đó, xẩy ra một vấn đề quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là thế nào? Có nước tự cho mình không cần đổi mới, đã bị bục vỡ. Có nước coi đổi mới kinh tế phải làm nhanh, còn đổi mới chính trị thì chầm chậm cũng bục chuyện. Có nước chỉ đổi mới kinh tế, không đổi mới chính trị, đã bục to. Có nước làm cả hai, nhưng không nhịp nhàng, gặp khó khăn. Hai lãnh vực này phải nhịp nhàng, không chân trước chân sau, không tấp tểnh đi một chân.
Từ nay đến hết thế kỷ XX, chủ nghĩa xã hội thế giới sẽ hoàn thiện và trưởng thành một bước lớn. Trong quá trình biến động này, mất đi cái gì? Mất chủ nghĩa xã hội kiểu quan liêu–hành chánh, bao cấp, mất tư duy giáo điều. Và như thế là đúng lý luận của Mác, là phủ định của phủ định.
Đây là thời kỳ thai nghén chủ nghĩa xã hội đích thực. Phải có bà đỡ là dân chủ xã hội chủ nghĩa. Có bà đỡ khéo tay, có bà đỡ vụng tay, nhưng phải có bà đỡ.

Cần phải khách quan, bình tĩnh và đổi mới
Ở Trung Quốc, Giang Trạch Dân đọc diễn văn coi là đã giải quyết được cơ bản vấn đề ăn no mặc ấm. Tôi rất nghi ngờ điều đó, Giang lại nêu lên độc lập tự chủ, tự lực cánh sinh, kế hoạch hóa tập trung và tư tưởng Mao Trạch Đông. Cuộc cải cách của Trung quốc như vậy là đi theo chu kỳ vòng tròn, không phải theo đường xoáy trôn ốc. Sau vụ đàn áp Thiên An Môn, Trung Quốc không tuyên truyền về cải tổ ở Liên Xô nữa.
Ở Liên Xô, Gocbachốp coi cải tổ là cuộc cách mạng với các thành phần và các nhân tố khác nhau, đan xen nhau, thống nhất với nhau và độ dài của cải tổ có thể là hàng chục năm. Đồng chí Gocbachốp nêu lên ba vấn đề chính của cải tổ dân chủ hóa, hạch toán kinh tế và cải tổ Đảng, cải tổ để có chủ nghĩa xã hội nhiều hơn. Đặt vấn đề như vậy là đúng chứ không sai. Kinh tế Liên Xô năm 1989 phát triển chậm. Nhưng theo Rưgiơcốp, mặc dù căng thẳng, song không thể quay lại con đường cũ, vì đó là ngõ cụt. Năm 1989 là năm khó khăn nhất của Liên Xô, nhưng rồi sẽ trở lại bình thường. Liên Xô rất thận trọng trong vấn đề xử lý giá và tỉ giá, vì đây là một nước rất lớn.
Trước cuộc khủng hoảng ở các nước xã hội chủ nghĩa, cần phải khách quan, bình tĩnh và phải đánh giá theo quan niệm đổi mới. Sau hội nghị 7 của trung ương, chúng tôi đã rút kinh nghiệm. Ngày 25-11-1989 Bộ Chính trị chúng tôi đã họp và đánh giá tình hình các nước Đông Âu theo quan điểm đổi mới. Cuộc khủng hoảng ở các nước đó diễn ra trong bối cảnh khoa học kỹ thuật và giao lưu quốc tế phát triển mạnh, ý thức độc lập và dân chủ tăng nhanh và thông tin bùng nổ. Tập thể Bộ Chính trị phân định có hai loại mâu thuẫn cần chú trọng: mâu thuẫn nội tại tích tụ lâu ngày của chủ nghĩa xã hội và mâu thuẫn giữa hai hệ thống. Nguyên nhân khủng hoảng là lãnh đạo sai lầm, vi phạm dân chủ, duy ý chí, bảo thủ trì trệ, đổi mới lệch lạc, đội ngũ đảng viên cán bộ thoái hóa, hư hỏng. Trong khi đó thì chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động triệt để lợi dụng. Bọn đế quốc ngay từ khi chủ nghĩa cộng sản ra đời, đã kịch liệt chống lại và luôn nói tới cái chết của chủ nghĩa cộng sản, không có gì mới.
Thái độ của Đảng ta là rút kinh nghiệm hội nghị 7, cần tránh cả hai thái độ hốt hoảng (cho chủ nghĩa xã hội đang có nguy cơ mất ở Đông Âu) và chủ quan (cho mình chẳng có vấn đề gì lớn, vẫn giả định).

Phải thực hiện dân chủ từ trên xuống dưới
Bộ Chính trị quyết định: Phải tiếp tục đổi mới, phải thực hiện dân chủ mạnh mẽ trong Đảng từ trên xuống dưới, từ Bộ Chính trị trở đi. Cần quán triệt và thực hiện nghị quyết Đại hội 6, nghị quyết 13 của Bộ Chính trị về công tác đối ngoại và nghị quyết trung ương lần thứ 6 về cơ cấu kinh tế.

Không thể dùng quyền lực thay cho năng lực
Vấn đề năng lực của Đảng nổi lên hàng đầu trong lúc này. Không thể dùng quyền lực thay cho năng lực. Thời đại nào có trí tuệ của thời đại ấy. Đảng phải có năng lực trí tuệ.
Xã hội ta đã chớm vui vì sức ép lạm phát và thị trường có giảm đi nhưng lòng dân vẫn còn chưa yên. Dân đang đòi hỏi dân chủ hóa, đòi hỏi công bằng xã hội, đòi hỏi cán bộ, đảng viên và Đảng phải vươn lên vị trí tiên phong. Đảng phải kết tinh truyền thống dân tộc và trí tuệ thời đại, không như thế thì không giữ được vai trò lãnh đạo.
Đừng đổ lỗi cho cải tổ, đổi mới, cải cách. Đổi mới là cái gương để ta soi. Nếu mặt bị nhơ chỉ rửa mặt chứ không phải là đập vỡ gương.
Vấn đề đặt ra lúc này là phải đổi mới đồng bộ, tổng thể, cả cơ chế kinh tế lẫn cơ chế chính trị. Hai vấn đề chủ yếu của cơ chế kinh tế là vấn đề sở hữu và vấn đề thị trường (luận đề: Kế hoạch nằm trong chứ không nằm ngoài và đứng trên thị trường). Hai vấn đề chính của cơ chế chính trị là: quản lý nhà nước và quản lý kinh doanh, vai trò lãnh đạo của Đảng và quyền lực của nhân dân (luận đề: Đảng nằm trong chứ không nằm ngoài và đứng trên xã hội).

[1]Câu trong nguyên bản tiếng Đức „[…] worin die freie Entwicklung eines jeden die Bedingung für die freie Entwicklung aller ist“ („trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người“), nguồn: MEW, Dietz-Verlag, Berlin, 1956 ff., Bd. 4, S. 482, hoặc website: http://www.mlwerke.de/me/me04/me04_459.htm(Chú thích của talawas)
Nguồn: Bài phát biểu ngày 13.12.1989 do „Câu lạc bộ những người kháng chiến cũ“ quay ronéo và phổ biến, Những vấn đề Việt Nam, Nhà xuất bản Trăm Hoa, California, 1992, trang 389-393


http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=6228&rb=0403


PS/ BÀI VIẾT CỦA MỘT NGƯỜI CỘNG SẢN ĐÁNG KÍNH

Tâm đàm về cái Sự học, Tri thức và Trí thức




 Nguyễn Tất Thịnh
(Giảng viên Học viện Hành chính Quốc gia)



Ngày xưa, người có trình độ như ông Giáo Thứ ( trong Sống Mòn của Nam Cao ) có thể được xem là Trí thức. Nói chúng họ có vẻ như là người học rộng biết nhiều, và có trình độ được đào tạo cao hơn mặt bằng chung, thuộc tầng lớp được xã hội gọi là ‘Thày’, như Thày Giáo, Thày cãi, Thày thuốc…

Ở xã hội ta, nhiều chục năm nay, mặc định trong nhìn nhận của xã hội, Trí thức là ‘một tầng lớp học cao của xã hội’ có bằng cấp từ Đại học trở lên. Nhưng kì lạ hơn nữa, khi theo điều tra của cá nhân tôi, tầng lớp này, dường như, một cách phổ biến trong nhiều năm, được hầu hết cộng đồng xem rằng họ thường ở trong biên chế các Cơ quan Nhà nước hoặc các tổ chức lớn ( NGO chẳng hạn ). Đến nay thậm chí đương nhiên còn có sự so sánh – phải nói là có lý nhưng rất kì quái – Bằng Đại học Tại chức không bằng Chính qui, Trí thức trong biên chế Nhà nước được đào tạo tốt hơn Trí thức ở các tổ chức ngoài Nhà nước, Phó Tiến sĩ tức là Tiến sĩ và Tiến sĩ khoa học…



Giuyn Vecnơ viết: Biết quan sát, tận dụng từng điều nhỏ nhặt quanh ta tất có ngày đắc dụng. Có bà mẹ, nhà khá giả, muốn con hơn người, nhờ tìm Thày giỏi dạy cho con mình. Được giới thiệu đến Thày, chưa yên tâm, bà ấy hỏi lại: thế Thày của ông là ai, tôi muốn cho con tôi học người ấy cơ… Cuối cùng được dẫn đến Khổng Tử, bà cũng hỏi vậy. Khổng Tử bảo: Thày của ta là Hạng Thác, 7 tuổi, bên hàng xóm đó. Ý nghĩa của việc học là vậy ! Nhờ học mà tích lũy được Tri thức. Học ở mọi chỗ, học ở mọi người, ở mọi nơi, ở mọi lúc. Đi đến tổng kết thành các Qui luật, hình thành nên Qui tắc, xác định những Quy phạm. Nhưng điều mấu chốt là tạo trong Não khả năng tư duy, tôi tạm gọi là ‘Opening Source Knowledge’

Cụ Huỳnh Thúc Kháng, một Nho sĩ, có tư tưởng : học cho có Đạo đức, học cho có hiểu biết, học để giỏi ứng dụng. Thật là hay. Nhưng tôi muốn thêm vào cái sự học, từ thấp đến cao là : Biết -> Hiểu -> Hành -> Cải -> Đạo

Tri thức là hiểu biết mà Nhân loại đã tích lũy liên tục trong lịch sử phát triển, cần được chia sẻ rộng rãi và các nền giáo dục cần có trách nhiệm phổ cập dần để nâng cao dân trí theo hướng Minh Sáng, Thông Huệ, Trí Hành. Nhưng Trí thức luôn là tầng lớp tinh hoa của nền dân trí đó,khẳng định mình trên tòa nhà của Tri thức cao.

Triết lý làm việc của Trí thức là : SỰ THẬT + PHẢN BIỆN + CÁCH TÂN

Phương pháp làm việc của Trí thức là : CƠ SỞ KHOA HỌC + KHẢO SÁT NGHIÊN CỨU + ĐỀ XUẤT HỌC PHÁP

Những phẩm chất giá trị của Trí thức là: CHÍNH HỌC + CHÍNH KHÍ + CHÍNH NHÂN ( Lưu ý : Chữ Chính – đúng đắn + chuẩn mực + ngay thẳng ! Đó là ngược nghĩa với chữ Tà )

Nếu một bộ phận lớn Nhân dân bị đẩy, cuốn vào quan niệm Tri thức là cái nơ vang vàng tim tím, Trí thức là người có mảnh bằng cấp xanh xanh đỏ đỏ, hết thảy có thể đi tắt đón đầu mà xì tiền mua ngay được ở những góc phố chợ để leo lên những ‘cái ghế quan chức’ … thì tận cùng của sự suy đồi về Dân trí rồi

Chân lý có Một, Sự thật có Hai, Cuộc sống có Đúng có Sai và có Cái Khác. Sách vở ghi chép những hữu hạn của Tri thức, nhưng nếu Trí thức là một cái đầu ai đó chứa đầy chữ nghĩa trong một đống sách vở mà đã có thể dương dương tự đắc là có học vấn hơn người, rồi trích dẫn, rồi đưa ra những lý luận giáo điều, những công thức sơ cứng mà phán xét, phủ định những cách khác thì đó là hủ nho vậy. Ghê sợ hơn là cản trở sự tươi mới, những thay đổi và phát triển bằng những danh bằng học vị hay bằng những ngụy biện ‘uyên thâm’ khiến người khác khó cãi cho được, mà thực ra là để giữ cái ghế của mình – đó chính là hủ bại vậy. Trí thức như thế nếu làm Lãnh đạo thì nguy khốn, mạt vận cho xã hội lắm thay!


Có Tri thức, là Trí thức mà khó sống tốt, khó được trọng dụng, khó phát triển thì lỗi tại điều gì ? Và tai họa sẽ là gì? Câu trả lời muôn thưở là đã quá rõ ràng. Nhưng nếu Xã hội có Tri thức và Trí thức thật sự và không chỉ là một vài lớp người mà thành một giai tầng, một đội ngũ thì tình hình đó nếu có chỉ là số ít, nhất thời, không diễn ra lâu dài được, không thế lực nào vùi dập được…Chúng ta mới hiểu thế nào là Sức mạnh của Tri thức và Quyền lực của Trí thức ( quyền lực Thứ Tư ), mới biết vì thế bất chấp sai lầm khủng khiếp Cách mạng Văn hóa của Trung Quốc, những tai họa đày ải biệt xứ đến Siberia băng giá của Nước Nga, họ vẫn có những Tàu Vũ trụ, Năng lượng Nguyên tử…vẫn là Cường Quốc!

Trí thức một cách chính đáng và chính thống phải có mặt ở mọi tuyến đầu của Cuộc sống, ở vị trí quan trọng nhất trong xã hội, tham gia tiên phong giải quyết tích cực, trên cơ sở khoa học và thực tiễn những vấn đề, những bài toán Mới mẻ / Nóng bỏng / Phát triển. Có được vậy, nhờ vậy Nước Non Việt này mới khỏi tủi nhục. Nhưng có được như thế hay không lại phụ thuộc vào Thể chế chính trị, Cơ chế dùng người và Nhân sinh quan của Lãnh đạo được sinh ra từ đó rồi!!!

Cuối bài, tôi có vài lời tâm can:

Thứ Năm, 4 tháng 9, 2014

LÊ VĂN LANG-Động vật tạp chủng lê văn lang bàn về chữ lễ- đúng là thiên hạ đệ nhất ngu




SAU KHI BỊ LÒI RA CÁI DỐT VỀ NGÔN NGỮ VIỆT THẰNG ĐỘNG VẬT TẠP CHỦNG  LÊ VĂN LANG  TẠP VỘI KHOÁT LÊN NGƯỜI CÁI ÁO RA VẺ NHÀ ĐẠO ĐỨC GIÁO DỤC BÀN VỀ 5 ĐIỀU BÁC HỒ DẠY NHƯ SAU

Tóm lại, từ những đúc kết trên, xét thấy rằng "5 điều Bác Hồ dạy" này hình như không thích hợp cho bất cứ giới quần chúng nào của nhân dân Việt Nam. Lý do: từ trước cái ngày mà cái mốt văn hoá XHCN chào đời ở Paris, vào năm 1848, nhân dân Việt Nam đã có một nền văn hiến vững vàng - trải qua mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Họ có đủ kinh nghiệm và trí tuệ để đối phó với mọi biến động của thời cuộc để trường tồn và phát triển.


Nếu cho rằng 5 khuôn vàng thước ngọc này chỉ dành riêng cho lớp thiếu niên nhì đồng, những mầm non của đất nước, thì e rằng không được ổn - bởi nó thiếu hẳn chữ "Lễ"!

Truyền thống văn hoá của dân tộc ta luôn lấy chữ "Lễ" làm đầu. "Tiên học lễ, hậu học văn"! "Lễ" trong gia đình, "Lễ" ngoài xã hội. Cái "Lễ" của "quan nhất thời, dân vạn đại"! Có "Lễ" mới có "Nhân"! Có thành "Nhân" mới có "Nghĩa", có "Trí", có "Tín"!

Người xưa có câu: "Nhất niên chi kế mạc nhược chủng cốc; thập niên chi kế mạc nhược chủng mộc; bách niên chi kế mạc nhược chủng nhân." (Vì lợi ích một năm thì phải trồng cốc; vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây; vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người). Trồng người "vô lễ" thì có khác gì là huỷ đi cái công cuộc trăm năm!


ĐỌC ĐOẠN NÀY TÔI KHÔNG KHỎI BẬT CƯỜI VÌ NÓ LẠI TIẾP TỤC KHOE DỐT NÊN COM CHO NÓ MỘT CÂU
He he...
YÊU TỔ QUỐC YÊU ĐỒNG BÀO ĐÓ LÀ CÁI LỄ ĐẦU TIÊN CỦA NGƯỜI VIỆT RỒI THẰNG NGU DỐT VÀ LÁO XẠO.
HA HA... CÁI THẰNG TẠP CHỦNG NHƯ MÀY LÀM SAO BIẾT NGƯỜI VIỆT CÓ CÁI BÀN THỜ TRỜI ĐẤT CHỨ.


VẬY LÀ THẰNG ĐỘNG VẬT TẠP CHỦNG NÀY LIỀN COM MỘT MẠCH



Công Tử Rừng Phong

07:02


1
Trả lời



Này, ngợm +PHAMDINH TRUCTHU!
Đối với loại ngợm đê tiện, chỉ quen giở thói lưu manh, mất dạy như chú mày, nếu mang chuyện chữ nghĩa hoặc những đạo lý làm người ra mà nói thì quả là làm cái chuyện "nước đổ đầu vẹt" - uổng lời! Nhưng nếu không mắng vào mặt chú mày một trận thì chú mày cứ phun ra toàn những rác rưởi dơ bẩn, khó ngửi lắm lắm!

Có câu: "Tiểu biện hại nghĩa, tiểu ngôn phá đạo", chú mày có hiểu không? Chú mày cứ lấp liếm trơ trẽn, cãi chày cãi cối bằng những ngôn từ đầu đường xó chợ, và bằng những hành vi bỉ ổi, chỉ càng tố cáo rõ thêm cái bản chất vô lại, mất dạy của chú mày!

Tới giờ này, chú mày đã học thuộc 27 chữ ghi phụ âm đầu của tiếng Việt chưa? Hay chú mày vẫn còn trơ trẽn chày cối "22 phụ âm đầu" bằng cái đầu tôm to đùng của chú mày?!

Chỉ vì để trả thù cá nhân mà chú mày đã trơ trẽn khoác lên người cái áo "yêu nước, yêu đồng bào"! Để rồi bằng cái đầu tôm to đùng, chú mày trơ trẽn phun ra những lời chửi bới tục tĩu - y hệt bọn du thủ du thực đầu đường xó chợ! Thậm chí chú mày cũng không chừa bất kỳ một thủ đoạn bỉ ổi nào, cố đặt điều bôi nhọ đối phương cho bằng được! Chú mày có biết rằng khi chú mày cố tình "ngậm cứt phun người" như thế, cái mồm của chú mày sẽ ra sao không?

Thật là vinh dự cho cả dòng họ Phạm Đình ở Tây Ninh đã sanh dạy ra một thằng ngợm như chú mày nhể! Nói theo cách hiểu chữ "Lễ" của chú mày, phải chăng Phạm Đình Trúc Thu chú mày đang "đãnh lễ" cho tổ tiên nhà Phạm Đình bằng cái thói lưu manh mất dạy, cộng với những ngôn từ đầu đường xó chợ ấy?!

Tiện đây, dạy cho cái đầu tôm chú mày vài chữ của Thánh Hiền: "Lễ chi dụng, hoà vi quý" ! Công dụng của "lễ" cốt là để giữ lấy chữ "hoà." Tuy nhiên, nếu vì mưu cầu chữ "hoà" mà phải khom lưng cúi đầu, dâng đất cho giặc ngoại xâm thì đó chỉ là cái "lễ" của phường sâu dân mọt nước!

"Yêu" khác xa với "lễ"! Ví như việc phụng dưỡng cha mẹ già, nếu chỉ yêu thương chăm sóc mà không "kính" thì có khác gì chăm sóc con chó, con mèo cưng yêu?!
Tương tự, "yêu đồng bào" mà không tôn trọng ý dân, ấy là coi thường nhân dân! Không thể gọi là "lễ"!

"Tế" và "lễ" là hai phạm trù khác nhau. Chú mày không nên dùng cái đầu tôm to đùng ấy mà suy từ cái "bàn thờ trời đất" của việc cúng tế ra phép tắc của "lễ nghĩa"! Tư duy theo kiểu đầu tôm của chú mày, không lẽ những người theo đạo Thiên Chúa, Tin Lành, đạo Hồi, v.v... họ không có cái "bàn thờ trời đất" tức là họ không biết lễ nghĩa là gì chắc?!

Tóm lại, từ "yêu" tới "lễ", con đường cách xa hàng vạn vạn cánh rừng cao su bạt ngàn! Chú mày chớ có quanh quẩn bên gốc cao su ở miệt Tây Ninh mà đoán già đoán non về gốc cao su ở tận lưu vực Amazon!

Quan trọng hơn hết, chú mày nên bắt đầu từ"tiên học lễ" kẻo thiên hạ nhìn vào cưới khinh cả dòng họ Phạm Đình ở miệt Tây Ninh đã sanh dạy ra một thằng ngợm mất dạy như chú mày!

HA HA... TÔI LẠI PHẢI CƯỜI ĐẾN ĐAU BỤNG. THÔI THÌ CŨNG CHÉP RA ĐÂY ĐỂ LŨ ĐỘNG VẬT CHÚNG NÓ ĐỌC VẬY


 Lễ Nghĩa trong Tư Tưởng Việt



Sau khi đã lướt qua ý nghĩa của lễ, cũng như sự chuyển biến của nó trong một số giai đoạn lịch sử của Nho giáo, chúng tôi xin được trở lại điểm mà chúng tôi muốn chứng minh, đó là sự biến hóa của lễ khi du nhập vào trong nền văn hóa phương Nam. Như các quan niệm Nho học khác, lễ khi du nhập vào Việt Nam đã không còn giữ lại cái ý nghĩa nguyên thủy của nó như từng được thấy trong Luận Ngữ, hay trong Mạnh Tử. Lễ trong Việt Nho cũng không hẳn đồng nhất với lễ trong Lễ Ký, hay của nhóm pháp gia. Như chúng ta sẽ thấy, lễ trong tư tưởng Việt không chỉ là những hình thức nghi lễ mà thôi, nó nói lên cái nhân cách của con người; lễ cũng không chỉ hạn hẹp trong những sinh hoạt cúng tế, hay sinh hoạt công cộng, nhưng đã biến thành sinh hoạt toàn diện của con người dù ở bất cứ nơi nào, thời gian nào. Câu tục ngữ "cái nết đánh chết cái đẹp" nói lên sự trọng lễ của người Việt nơi đây. Tương tự, câu "tiên học lễ, hậu học văn" không chỉ biểu tả tầm quan trọng của nghi lễ, mà thực ra nói lên sự kiện là con người có lễ phép là con người trung thực xứng đáng là con người. Ðể phát triển những ý nghĩa của lễ nơi người Việt, chúng tôi sẽ phân tích một số quan niệm ảnh hưởng sâu rộng tới nhân cách và cuộc sống của người Việt. Nơi đây chúng tôi xin được hạn hẹp những luận điểm qua việc phân tích ba quan niệm lễ phép, lễ chế và lễ nghĩa.

1. Từ Lễ Ký tới Việt Lễ
Ðạo Nho ở Việt Nam luôn trong một trạng thái chuyển biến. Nó không chỉ là Khổng Học, hay Nho học, mà đã biến thành Cửa Khổng Sân Trình, và nhất là Nho Giáo, [40] hay đúng hơn, Ðạo Nho. [41] Sự biến thiên này không phải ngẫu nhiên như chúng tôi đã chứng minh trong các luận văn khác. [42] Từ một sự chuyển biến như vậy, chúng ta bắt buộc phải suy luận một cách rất luận chứng (logic) là chữ lễ cũng biến đổi. Do đó, xin nhấn mạnh nơi đây là chữ lễ trong văn hóa Việt không hoàn toàn đồng nhất với chữ lễ mà chúng ta thấy trong nền triết lý của Nho gia, hay Nho học, đặc biệt sau thời Tuân Tử và thời Ðông Hán. Nói một cách minh bạch hơn, chữ lễ của người Việt đã biến đổi, vừa phong phú hơn, nhưng - nếu chúng tôi không lầm - vẫn còn trung thực với nền Nho học nguyên thủy, và nhất là gần với tư tưởng của Mạnh Tử. [43] Ðàng khác chữ lễ của người Việt không hẳn mang tính chất hình thức. 


Nó phản ảnh một cách trung thực cái tâm (conscience), cái tình (sense, sensibility), cái tư (lối suy tư, logic) và cái cảm (tức cách cảm nhiệm, taste) của người Việt. Lễ được diễn tả qua những hình thức mà chúng ta gọi là văn (tức vẻ đẹp, beauty), hoa (tính chất cao thượng, elegance) của cách sống và lối suy tư. Và sau cùng, lễ cũng là một phương thế giáo hóa biến con người thành người có văn, có học, tức người quân tử, người trượng phu. Ðây chính là một trong những ý nghĩa căn bản nhất của nền văn hóa hóa Việt, khác biệt với nền văn hóa cơ khí hay công cụ (tức văn minh), lấy công cụ chứ không phải chính con người để đo lường cuộc sống.
Phần sau đây của luận văn nhắm chứng minh những quan điểm trên, qua những phân tích về chữ lễ, và về sự liên quan mật thiết giữa lễ và nghĩa trong tư tưởng Việt, cũng như vai trò của lễ nghĩa trong cuộc sống toàn diện của họ. Chỉ trong một mạch văn như vậy, chúng ta mới có thể nhận ra được rằng, người Việt hiểu lễ (giống như người Tầu) ở những điểm sau: lễ như là quy tắc (lễ pháp), lễ như là hình thức trong những cuộc tương giao (lễ nghi), lễ như là một thể chế (lễ chế), lễ như là hình ảnh của lương tâm (lễ nghĩa), lễ như là một thước mực đo lường tư cách con người (lễ độ), và lễ như là một phương thế giáo dục cũng như quản lý xã hội (lễ trị). Nhưng hơn người Tầu, người Việt coi lễ nghĩa không chỉ là cái lý, mà là chính là những hình ảnh, những phương thế, những quy luật nội tại (không phải là pháp luật, như chúng tôi sẽ giải thích sự khác biệt giữa lễ pháp và lễ phép, cũng như lễ độ và chế độ) của cuộc sống. Nói cách khác, lễ nghĩa là chính cách sống biểu hiện tâm thức, tinh thần, tình cảm, cảm vị (cảm nhận) của người Việt. Hơn thế nữa, lễ cũng được coi như một động lực làm con người thăng tiến, gần giống như vai trò của nhạc mà Khổng Tử rất chú trọng: "hưng ư lễ, thành ư nhạc". Hưng, thành là những điều kiện tất yếu đảm bảo lễ. Thiếu thành, thiếu tín, thiếu hưng, hay nói cách chung, thiếu đạo đức, lễ chỉ là những nghi thức trống rỗng, vô bổ. Ðể chứng minh những điểm trên, chúng tôi xin được phép phân tích hai quan niệm mà chúng ta thường thấy trong nền văn hóa Việt, đó là lễ phép và lễ nghĩa. Chỉ với hai quan niệm này, chúng ta cũng đã có thể nhận ra một cách dễ dàng sự khác biệt tư duy và lối sống của người phương Bắc và người phương Nam.

2. Lễ Phép


Thứ nhất, chúng ta hiểu lễ phép không hoàn toàn theo nghĩa lễ pháp của những nho gia thủ cựu. [44] Khi ca tụng người nào đó rất lễ phép, chúng ta không chỉ muốn nói ông (bà) ta theo đúng lễ, đúng phép, đúng tắc, mà còn muốn nhấn mạnh đến tư cách của người đó (một con nhà gia giáo, một người tốt, một con người lịch sự, biết cách xử thế...). Sự khác biệt này đòi buộc chúng ta phải tìm hiểu sự biến đổi từ pháp sang phép, từ lễ pháp sang lễ phép trong nền văn hóa Việt. Theo thiển kiến của người viết, không hẳn là đúng, thì phép là một loại quy luật không lệ thuộc hình thức, trong khi pháp là quy luật theo hình thức. Nếu, pháp luật đòi buộc chúng ta phải theo những quy định từng có, từng được viết hay từng đã được thi hành, thì phép không hoàn toàn như thế. Phép (hay quy phép, hay khuôn phép) là những quy tắc do chính chúng ta và cho chính chúng ta, không cần ghi chép, cũng không cần phải theo một mẫu mực cố định. Phép thường biến đổi tùy theo sự tương giao, tùy theo tầm quan trọng, tùy theo tình cảm. Thế nên, chúng ta có phép làng, phép cha, phép mẹ, phép thầy. Chúng ta cũng có phép làm con, phép làm dân, phép làm chồng, phép làm vợ, phép làm trò, vân vân. Và đặc biệt hơn cả, ngay cả trong giới giang hồ, người ta cũng có những phép tắc, tức những quy luật bất thành văn tự, Chúng ta biết, trong Luận Ngữ, Khổng Tử chỉ đòi phải chính danh "quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử", nhưng không có một quy pháp nào nhất định về chính danh cả. Phải đợi tới kỳ Pháp trị của nhóm pháp gia, nhất là Thương Ưởng, người ta mới thấy những quy luật rề rà nhưng tỉ mỉ xác định nguyên tắc chính danh. [45] Ðiều này khiến một số học giả như Kim Ðịnh xác quyết tư tưởng Việt nho gần gũi hơn với tư tưởng nguyên Nho. Mà quả thực, phép không bị hình thức ràng buộc. Nói cách khác phép không nhất thiết là pháp mặc dù là một loại quy luật; và nếu suy cho tới cùng thì phép cũng không luôn phải là phép, bởi lẽ, phép thay đổi tùy người, tùy quan hệ, tùy hoàn cảnh. Nếu có quy tắc do lường, hay xác định phép, thì đó chính là cái mà ta goi là thành tâm, tín, nghĩa và nhất là nhân nghĩa. Thế nên, giữ phép, giữ tắc có nghĩa là thành tâm, thành tín tuân theo cái mà ta phải làm, tức là phải theo nghĩa vậy. [46] 


Theo mạch văn này, lễ phép có nghĩa là một người biết cư xử đúng với địa vị, với tư thế, với sự tương quan với những người khác. Ðúng lễ nơi đây có nghĩa là đúng với địa vị, đúng với vị thế, đúng với cá tính, vân vân. Ðúng lễ cũng có nghĩa là tùy nơi, tùy thời, đúng với cảm tình, vân vân. Nói một cách khác, giữ phép giữ tắc luôn luôn tuân theo nguyên lý siêu hình của thiên thời, địa lợi và nhất là nhân hòa. Chính vì vậy mà cùng một hành động tôn trọng, tôn kính chúng ta có những lễ khác nhau.

Bái (vái, lạy) cha mẹ là một hành vi lễ phép, cúi đầu chào bạn bè là một hành động lễ phép. Nhưng nếu chỉ cúi đầu chào cha mẹ mình thì chưa đủ lễ phép. Bởi lẽ, với bạn bè, ta cùng đồng hàng, nhưng đối với cha mẹ, chúng ta là bậc dưới. Lối bắt tay với cha mẹ, với thầy dậy giống y hệt lối bắt tay bắt chân với bạn bè ngày nay không phản ánh được cái phép tắc của người Việt là như vậy. Bởi khi với một hành vi như thế, chúng ta coi cha mẹ và bạn bè "cá mè một lứa"; [47] chúng ta đã không còn giữ được cái mà cha ông chúng ta gọi là "tôn ti trật tự."

Tuy thế, hình thức vái lạy vẫn chưa hẳn nói lên được tinh thần lễ phép. Lễ phép đòi hỏi chúng ta phải thành tâm, chứ không chỉ theo một hình thức một cách vô ý thức, hay một cách máy móc, hay vì bị áp lực từ bên ngoài. Chính vì vậy mà Khổng Tử từng nhận định về hiếu thảo qua chính lòng thành, đại khái một con người thiếu thành tâm (tức thiếu tinh thần lễ nghĩa) thì việc nuôi cha mẹ (tức hình thức) vẫn chưa nói lên được ý nghĩa thâm sâu của hiếu thảo. [48] Một lối nhìn như vậy thấy rõ ràng nơi các nho gia Việt. Lòng thành của một Lục Vân Tiên đôi với mẹ (khóc thương mẹ tới độ mù mắt), lòng hiếu thảo chân thật của Thúy Kiều đối với phụ thân (bán mình chuộc cha) đã thay đổi được cái mệnh của tài nhân "Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau." Chính vì sự thành tâm, mà "Tâm thành đã thấu tới Trời", và kết quả là "Xưa nay nhân định thắng Thiên cũng nhiều." Ngoài thành tâm, còn có thành tín, thành thực, những đức tính này mới biến lễ thành một lối sống toàn diện, chứ không chỉ là những hình thức trống rỗng nữa.

3. Lễ Chế

Thường chúng ta hiểu lễ chế như một thể chế dựa trên lễ. Ðiều này không sai, bởi lẽ Khổng Tử vốn trọng lễ, và ngài coi lễ như biểu hiện của một con người đạo đức, một xã hội hoàn hảo. [49] Thực vậy, cuộc đời của ngài gắn liền với lễ. Từ khi còn giữ một chức quan nhỏ coi lễ nghi, tới những lời giảng dạy của ngài về sau, luôn gắn liền với lễ. 

Ðiểm quan trọng nơi đây là ngài không hiểu lễ chế như là một thể chế xây dựng trên những nghi thức, nhưng trên một nền đạo đức với những đức tính thành tâm, nhân ái, trung hiếu, tín nghĩa làm nền tảng. [50] Vậy thì, lễ chế phải được hiểu theo một ý nghĩa sâu hơn là chế độ dựa vào hình thức bề ngoài của lễ nghi. Như chúng tôi đã giải thích ở đoạn trên, nếu lễ đồng nghĩa với đạo đức, và nếu lễ nghi phản ánh những hành vi đạo đức, thì lễ chế là những nghi thức, tập tục, hay hành vi biểu tả cái tinh thần đạo đức này. 

Thí dụ để tỏ lòng biết ơn công sinh thành, dưỡng dục của bố mẹ, hành vi bái, lạy, quỳ... là những hành vi có thể diễn tả một cách đầy đủ nhất lòng thành của con cái. Ðể tỏ lòng kính trọng và cảm tạ ơn giáo dục của thầy giáo, cử chỉ cúi đầu, khoanh tay... nói lên một cách trung thực tấm lòng biết ơn của cậu học trò. Những thí dụ tương tự như trên cho chúng ta thấy, mỗi nghi thức đều có cái lý của nó. Nhưng tất cả những nghi thức này phải dựa trên nền tảng đạo đức, tức dựa trên những đức tính thành tâm, nhân nghĩa, trung hiếu, vân vân. Nhưng ngược lại, nếu những hình thức nghi lễ thiếu nội dung, hay khi thi hành những nghi lễ mà thiếu thành tâm, thì thể chế dựa trên những nghi lễ như vậy quả là rườm rà, thừa thãi. Những giới trẻ ngày nay, nhất là những bạn trẻ không được giáo dục trong cái nôi văn hóa của Viễn Ðông, sẽ coi thường và ghét bỏ nghi lễ là như vậy. Hiểu như thế, chúng ta có thể khẳng định là lễ chế không hẳn đồng nghĩa với lễ trị, bởi lẽ lễ chế chỉ là những biểu hiện hình thức bên ngoài của nền đạo đức bên trong mà thôi. Chúng không thể đồng nhất chúng. Khổng Từ từng nói: "Ðạo chi dĩ chính, tề chi dĩ hình, dân miễn nhi vô sỉ. Ðạo chi dĩ đức, tề chi dĩ lễ, hữu sỉ thả cách." [51] Chỉ mãi về sau, lễ chế bị hiểu đồng nghĩa với lễ trị như thấy trong tư tưởng của Tuân Tử và trong Lễ Ký đời Hán (mà chúng tôi đã trình bày trong phần trên). Nhưng một lối hiểu như vậy đã bóp mép cái nguyên tính của lễ. Khi tách rời lễ khỏi nghĩa, lễ chỉ là một nghi thức, vô thưởng vô phạt mà thôi.

Trong tư tưởng Việt, tuy bị ảnh hưởng của nhóm Ðổng Trọng Thư, và nhất là hai anh em họ Trình, và sau này, bởi Chu Hy, ta thấy người Việt vẫn không hẳn hiểu lễ chế như lễ trị. Lễ chế không hẳn là một chế độ lấy lễ để trị dân, hay để khống chế dân như trong tư tưởng của Tuân Tử và nhất là của nhóm pháp gia. Lễ chế được hiểu như cách sống, một lối sống phù hợp với phong tục tập quán và nhất là cá tính của mỗi địa phương, mỗi sắc dân "nhập giang tùy khúc, nhập gia tùy tục". Ðạo vợ chồng ở Việt Nam không còn theo cái lễ mà chúng ta gọi là tam tòng. Người phụ nữ Việt không hẳn coi tứ đức như khuôn vàng thước ngọc. Những phụ nữ anh hùng như Trưng Trắc, Trưng Nhị, Triệu Âu, và ngay cả hai Cô Giang, Cô Bắc không hẳn theo dúng đạo tam tòng tứ đức, nhưng lại là những người phụ nữ được kính trọng hơn cả.

4. Lễ Nghĩa

Ðối với người Việt, hai chuẩn mực quan trọng nhất, có lẽ là nhân nghĩa và lễ nghĩa. Nói là quan trọng nhất, bởi lẽ hiếu nghĩa, trung nghĩa, tín nghĩa đều được xây dựng trên nhân nghĩa và lễ nghĩa. Ta không thể có hiếu nếu thiếu nhân [52] ta cũng không thể có trung, có tín nếu thiếu nhân nghĩa. 


Tương tự, hành vi hiếu chỉ có thể biểu hiện qua lễ, qua thái độ (lễ độ), qua hành vi (lễ phép), qua lối suy nghĩ đạo đức đòi buộc (lễ nghĩa). Và cũng trong một mạch văn trên, lòng thành tín, lòng trung thành cũng chỉ có thể dãi bày ra được qua ngôn ngữ, cử chỉ, hành động hợp lễ. Một người yêu kính cha mẹ không thể có những ngôn ngữ vô lễ đối với đấng sinh thành. Một người trung quân không thể "cá mè một lứa" với nhà vua, y hệt một người học sinh tốt không thể "coi thầy bằng vung" bởi lẽ "không thầy đố mày làm lên." Từ đây, chúng ta nhận ra được là nhân nghĩa và lễ nghĩa là nền tảng cho mọi nhân đức khác.

Như phân tích trong tiết về lễ, nền tảng của lễ nghĩa mang tính chất bản thể, tức tính chất gắn liền với sự hiện hữu của con người. Như vậy, ta có thể nói là lễ nghĩa gắn liền với bản tính. Ðây là lý do tại sao nho gia Việt hiểu hay giải thích lý thuyết tính bản thiện của Mạnh Tử theo cái ý nghĩa của lễ nghĩa và nhân nghĩa, và theo đạo nhân cuả Khổng Tử. Là bản tính, lễ nghĩa không thể tách rời con người. Một người thiếu lễ nghĩa là "ngợm" như dân gian thường nghĩ. 


Sự việc làm con người siêu việt trên vạn vật chính là vì con người có lễ nghĩa. Ðiều mà chúng ta hãnh diện gọi là văn hóa Việt, thực ra là những cách sống, cách xử thế, cách tổ chức theo lễ nghĩa. [53] Ðiều mà chúng ta nâng lên hàng tinh thần, cũng chính là lễ nghĩa: hồn nước, lễ gia tiên, lễ giỗ tổ. Ðiều mà chúng ta coi như một yếu tố quyết định tương lai dân tộc, lại cũng chính là lễ và nghĩa. Lễ: "Tiên học lễ, hậu học văn" chứ không phải là "tiên học võ", hay "tiên học thuật" và sau đó mới học lễ. 

Và đây cũng là điều giúp chúng ta hiểu được tại sao, người Việt chúng ta chấp nhận "cái nết đánh chết cái đẹp"; họ hiểu cái sắc đẹp của phụ nữ theo hạnh, theo ngôn, theo dung và theo công. Trong khi nghĩa: cái nghĩa khí của những anh hùng liệt nữ, cái nghĩa của Lê Lai khi cứu Lê Lợi, cái nghĩa khí của Trần Quốc Toản, của Lê Văn Duyệt. Chính cái nghĩa này mới làm cho cái lễ phát huy được công năng của nó: tức làm con người có nhân cách, tức xứng đáng làm người.

Chỉ trong một mạch nguồn như thế, câu nói "Tiên học lễ, hậu học văn" mới được hiểu một cách trung thực hơn. Câu nói này không có nghĩa là lễ đi trước, văn đi sau, hay lễ quan trọng hơn văn (như ngay cả Giáo sư Kim Ðịnh từng hiểu, và cụ tìm cách chứng minh ngược lại), [54] nhưng muốn nói lên tầm quan trọng của lễ nghĩa: lễ nghĩa chính là nền căn bản của đạo làm người. Mà khi nói đạo làm người, người Việt muốn nhấn mạnh đến một con người (1) theo đúng cái đạo ai cũng phải theo, đó là: đạo con người trung thực, một con người thăng tiến, một con người tiếp tục và phát sinh ra giá trị của nhân loại. (2) Một con người trung thực đòi ta không được phản bội với những bản tính bẩm sinh của con người, mà bản tính đó vốn là nhân nghĩa, hay tính bản thiện, hay dĩ hòa vi qúy. (3) Một con người thăng tiến là một con người văn hoá (biến thành tươi đẹp theo đúng nghĩa của "văn nhân hóa thành"). Mà yếu tố quyết định văn hóa lại chính là lễ nghĩa. (4) Một con người toàn vẹn cũng là con người biết sáng tạo, hay cộng tác vào sự sáng tạo, làm con người và xã hội hoàn bị hơn. Sự sáng tạo, sự hoàn hảo được thấy rõ rệt hơn cả là sự hoàn bị của lễ. Ðây chính là lý do tại sao Khổng Tử yêu thích nhạc, lễ, và múa. Người Việt chúng ta cũng hiểu như vậy, khi lễ tế, lễ cúng, lễ bái, hôn lễ, tang lễ, vân vân, luôn là trung tâm sinh hoạt của con người Việt trong qúa khứ, và cả hiện nay. Nói cách khác, lễ nghĩa tạo ra nhân cách con người.


GS.Trần Văn Ðoàn
Ðại Học Quốc Gia Ðài Loan

* những chữ nghiêng đậm trong bài thay cho sự trả lời về Lễ đối với lũ động vật Tuấn Anh, Phan An, Lê Bùi Lân...nhất là động vật tạp chủng THIÊN HẠ ĐỆ NHẤT NGU LÊ VĂN LANG.

RIÊNG NGƯỜI VIỆT LẬP BÀN THIÊNG TRƯỚC NHÀ MỖI NGÀY ĐỐT NHANG THÌ THẰNG ĐỘNG VẬT TẠP CHỦNG LÊ VĂN LANG THIÊN HẠ ĐỆ NHẤT NGU NÀY HIỂU LÀ TẾ THÌ THẬT HẾT Ý. HA HA...KHÔNG BIẾT LŨ ĐỘNG VẬT NÀY ĐỌC CÓ HIỂU HAY KHÔNG NỮA

YÊU TỔ QUỐC, YÊU ĐỒNG BÀO CHÍNH LÀ CÁI LỄ ĐỀU TIÊN CỦA NGƯỜI VIỆT. CỐ MÀ HIỂU NHÉ LŨ ĐỘNG VẬT CÒN CỐ MÀ KHÔNG HIỂU THÌ BỌN MÀY CÀNG CHỨNG TỎ CHỈ LÀ LŨ CHÓ MÀ THÔI