Thứ Sáu, 15 tháng 8, 2014

Trong mưa xuân- Thơ Tân hình thức

Với định nghĩa Thơ Tân hình thức “sử dụng ngôn ngữ đời thường, có tính truyện, dùng lại những thể thơ truyền thống Việt, dùng kỹ thuật vắt dòng của thơ truyền thống Anh và kỹ thuật lặp lại của thơ Mỹ để thể hiện, tạo nhạc tính và hồi phục vần ở bất cứ chỗ nào trong bài thơ” (Hồ Đăng Thanh Ngọc), thơ Tân hình thức Việt xuất hiện cách đây khoảng 15 năm, như một trường phái thơ mới.



Hồ Đăng Thanh Ngọc



trong làn mưa xuân vòm long não
kể câu chuyện một ngàn lẻ một
về chiếc ô đi qua chiếc áo
mưa đi qua về chiếc ô đi
qua cùng cái mũ và cái mũ
đi qua cùng áo mưa và cái
mũ áo mưa chiếc ô đi qua
và cả cô gái để đầu trần
đi dưới mưa mái tóc ướt như
một bản hòa tấu puppet on a
string của Paul Mauriat
trong làn mưa xuân những li ti
giọt nước đang vô vàn chuyện kể
về những lời tỏ tình đã chảy
thành sông hôm qua đổ vào để
sáng nay đổ vào biển khơi thành
những đợt sóng triều dâng hôn khẽ
khàng lên những dấu chân chim trên
bờ cát vắng trong làn mưa xuân
trong những câu chuyện tình như có
lửa như chúng đang nở hoa

Thực tại tối hậu – Ý nghĩa đích thực của cuộc sống




Featured Image: Kevin Dooley


Tần Thủy Hoàng và giấc mộng trường sinh bất tử

Tần Thủy Hoàng (Qin Shih-huang-ti, 259-210 BC) là vị Hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc, thống nhất được cả sáu quốc gia Hàn, Triệu, Ngụy, Sở, Chu, Tề, bình định thiên hạ, kết thúc cục diện chư hầu phân tranh trong suốt gần 500 năm của thời Xuân Thu – Chiến Quốc. Ông cũng nổi tiếng là một vị Hoàng đế đầy mưu mô và tàn bạo. Từ khi triều Tần được thành lập cho đến khi sụp đổ thì chưa bao giờ triều Tần có được một cục diện chính trị ổn định, xã hội luôn ở trong tình trạng hỗn loạn. Để quản lý một quốc gia rộng lớn như vậy, Tần Thủy Hoàng đã xây dựng và bảo vệ quyền lực tuyệt đối qua một loạt các chính sách vô cùng hà khắc và nhẫn tâm. Ông là một vị Hoàng đế cô độc, không có bạn bè, cũng không có ai dám dũng cảm làm bạn với ông.

Do muốn ở mãi ngôi vị cao nhất , tột đỉnh của quyền uy, vị hoàng đế vốn giỏi binh nghiệp, đầy mưu lược nhưng rất tàn ác bạo ngược này đã ra lệnh cho đạo sĩ Từ Phúc mang theo 3000 đồng nam, đồng nữ từ Lang Nha – Sơn Đông xuống biển đi tìm cho bằng được đảo Bồng Lai và lấy được thuốc tiên “trường sinh bất tử” về cho ông để được sống mãi với quyền lực tối thượng. Từ Phúc sau đó đã trốn luôn khi đi đến xứ Nhật Bản và ở lại đó.

Giấc mộng trường sinh bất lão của Tần Thuỷ Hoàng rốt cuộc chỉ mãi là giấc mộng vì năm 210 TCN, Tần Thuỷ Hoàng đã mang theo giấc mộng đó với mình xuống cõi tuyền đài khi chỉ mới 49 tuổi. Tuy vậy với mong muốn là sau khi chết, linh hồn mình vẫn là hoàng đế nên ông đã cho xây dựng khu lăng tẩm đồ sộ và hoành tráng với hàng ngàn chiến binh và hàng vạn đồ dùng xa xỉ để ông sử dụng sau khi… phải băng hà!
Cái chết – ý nghĩa thực sự của cuộc sống

Ai trong chúng ta có lẽ cũng đều ham muốn có vinh quang tột đỉnh của Tần Thủy Hoàng. Quyền lực, giàu có, đầy phi tần mỹ nữ vây quanh. Mỗi người trong chúng ta đều luôn bị ám ảnh trong việc theo đuổi danh vọng và vinh hoa của bản thân. Không ngừng phấn đấu, không ngừng nỗ lực để đạt được các bậc cao hơn của bậc thang danh vọng. Khi đạt được danh hoa phú quý rồi, bạn và tôi có lẽ sẽ giống như Tần Thủy Hoàng, mong muốn mình bất tử, luôn mãi được đứng trên đỉnh cao danh vọng, luôn được mọi người kính sợ.

Ít khi chúng ta dừng lại để tự hỏi: “Cuộc sống của tôi chỉ toàn những thứ này thôi sao?” Dù chúng ta ở bất cứ địa vị nào trong xã hội, người giàu, người nghèo, người cao sang, kẻ tha hóa, thì đối mặt với cái chết, chúng ta đều như nhau.

Bây giờ giả thuyết rằng, loài người chúng ta bất tử. Theo các bạn điều đó sẽ đem lại điều gì? Với bản tính kiêu căng, tham lam, ghen ghét và ham muốn sẵn có trong chúng ta, có lẽ chúng ta sẽ chỉ đem lại đau khổ cho nhau mà thôi. Bất tử về thân xác nào có ích gì khi nhìn người yêu mình ngoại tình, xung quanh toàn lũ người nịnh hót, sống với nhau giả dối không có tình yêu, thậm chí biết mắc tội tày trời mà không bao giờ sửa chữa và sám hối! Cuộc sống như thế không hề có chỗ cho tình yêu đích thực, mà thực sự đó là địa ngục muôn đời!

Chính vì biết rằng mỗi người sinh ra rồi sẽ phải chết đi, nên mới thôi thúc chúng ta trả lời câu hỏi: Ý nghĩa của cuộc sống là gì? Chân lý của cuộc sống là gì? Tuy cái chết khiến cho chúng ta cảm thấy sợ hãi, hoang mang nhưng vì cái chiết khiến cho cuộc sống trở nên ngắn ngủi nên nó mới làm cho cuộc sống trở nên đáng quý. Khi chúng ta bắt đầu nghĩ đến cái chết là cuộc sống của chúng ta cũng bắt đầu trở nên có giá trị.

Bạn thử nghĩ xem nếu biết hôm nay một người thân của bạn qua đời, bạn sẽ làm gì? Bạn thử nghĩ xem nếu biết hôm nay bạn sẽ rời khỏi thế giới này vĩnh viễn bạn sẽ làm gì? Câu trả lời của bạn: Bỏ mặc tất cả hay cố gắng yêu thương người thân đó hay gửi lời thân thương, cử chỉ âu yếm đến tất cả mọi người bạn quen biết dù trước đây bạn đã không làm điều đó! Đó là quyết định của bạn.


Tôi xin những người nào, mà khi còn sống,

Tôi không giúp đỡ được gì, hãy tha lỗi cho tôi.

Tôi xin những người nào, mà khi còn sống,

Tôi đã nêu gương xấu, hãy tha lỗi cho tôi.

(Những dòng chữ được khắc trên bia mộ của Đức Cha Jean Cassaigne (1895 – 1973), người Pháp, người sáng lập Trại phong Di Linh, Đà lạt)
Sự sống đời sau

Khoa học không thể lý giải được cái chết và sự sống đời sau. Đơn giản vì khoa học luôn cần một bằng chứng khách quan, mà cái chết là một thực tại thật bí hiểm, không ai còn sống mà kinh nghiệm được. Và giả sử có ai kinh nghiệm được mà về nói lại thì không chắc đã có mấy người tin. Có nhiều lý do rất hợp lý để người ta không tin: Trước hết là nó có thể khác với những gì họ vẫn tin tưởng, hai là đã có nhiều người tự nhận mình có kinh nghiệm đó, nhưng những người này lại nói khác nhau (chẳng hạn những kinh nghiệm được gọi là Near Death Experience).

Chính các tôn giáo cũng nói khác nhau, mà tôn giáo nào cũng đầy uy tín! Lý do thứ ba là người ta không có cách gì kiểm chứng được nguồn tin nghe được gọi là kinh nghiệm đó xuất phát từ chính thực tại hay do thị kiến, do tâm thức biến hiện? Cuối cùng, cái chết vẫn luôn luôn là một bí hiểm, những gì người ta nói về cuộc sống sau cái chết đều chỉ là niềm tin.

Tôi đã từng nghe được một câu nói rất ý nghĩa:


“Một số người sợ chết đến mức mà không thực sự sống.” – Khuyết danh

Nếu các bạn đang đọc những dòng chữ này, các bạn đang sống đúng không nào? Theo tôi, có lẽ thay vì đặt câu hỏi “ý nghĩa của cuộc sống là gì?” thì ta nên đặt câu hỏi ta đã sống một cuộc đời có ý nghĩa chưa?”, thay vì đặt câu hỏi “liệu có sự sống đời sau hay không?” thì ta nên đặt câu hỏi “đời này ta nên sống với mọi người như thế nào?”, thay vì đặt câu hỏi “chân lý cuộc sống là gì?” ta nên tự biết mình, thay vì tìm một chân lý tuyệt đối, hãy tìm sự tuyệt đối nơi mình; vì chân lý để sống chứ không phải để dạy.
Tự biết mình – nguyên tắc quan trọng của cuộc sống

Chuyện kể rằng có một trí giả thích ngụy biện đến gặp Socrates, nhà hiền triết xứ Hy Lạp và đặt nhiều câu hỏi khó với mục đích làm cho ông bối rối. Trong đó có câu hỏi: “Trong các việc, việc nào khó nhất?” Socrates điềm tĩnh trả lời: “Tự biết mình.”

Có lẽ chúng ta cần đặt cho mình một câu hỏi tương tự. Hãy quan sát lòng mình một cách thành thật xem mình muốn gì? Chúng ta muốn bình an hay muốn kích động? Phải chăng chúng ta đều náo nức muốn cái gì? Mỗi buổi sáng, chúng ta vội vã lướt net, đọc báo để tìm các tin tức sôi nổi nhất. Nếu không có tin gì về chiến tranh, thiên tai, xáo trộn, khó khăn kinh tế.. thì chúng ta tắt máy, bỏ tờ báo đi và than rằng chả có gì đáng xem.

Chúng ta muốn sống yên ổn, không thích xáo trộn, nhưng rất thích thú nghe nói về các sự xáo trộn của người khác. Chúng ta dành nhiều giờ để bàn cãi sôi nổi về người này, người nọ, chê bai ông này, giễu cợt bà kia. Phải chăng chúng ta vẫn làm thế? Có bao giờ chúng ta đặt câu hỏi, tại sao chúng ta lại làm thế không ? Lòng chúng ta còn ham tiền bạc, danh vọng, địa vị, sức khỏe, và chỉ cầu bình an cho chính mình thôi, nên chẳng bao giờ thỏa mãn.


“Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại nói với người anh em: “Hãy để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt bạn.” Trong khi có cả một cái xà trong con mắt anh? Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em. – Chúa Jesus

Đã đến lúc loài người phải thực hiện một sự lựa chọn. Thế kỷ 21 chúng ta tự hào về khoa học kỹ thuật, tự hào về núi vật chất khổng lồ do mình tạo nên. Tuy nhiên, thử nghĩ xem, với mức độ tăng trưởng bình thường trong nhiều năm nay, nguồn lực và tài nguyên của trái đất chắc cũng đủ để nuôi sống nhân loại, không để ai phải chết đói hay sống vật vờ dưới ngưỡng nghèo đói. Nhưng tại sao con người không thể tỉnh táo để cùng nhau chia sẻ nguồn lực và tài nguyên ấy? Tại sao con người phải dùng đủ trăm mưu ngàn kế để làm giàu cho mình hơn một chút, đẩy đồng loại nghèo thêm một chút và cuối cùng lôi nhau xuống đáy khủng hoảng?

Từ khi con người có mặt trên trái đất này đã có hết cuộc chiến này đến cuộc chiến khác. Chiến tranh có bao giờ chấm dứt được? Hòa bình và thiện chí cần đi đôi với nhau, nên không ai có thể thực hiện hòa bình khi lòng còn đầy oán thù, ghen ghét, muốn bóc lột kẻ khác để mưu lợi cho cá nhân mình hay phe phái mình. Tất cả các hội nghị, các mưu tính để mang lại hòa bình cho nhân loại đều thất bại vì con người không chịu thực hiện hòa bình ở chính mình.

Bất bình đẳng xã hội hay chiến tranh chỉ là sự phóng đại các động tác hàng ngày của con người. Chúng bắt nguồn từ các tham vọng, giận dữ, oán hận, chủ nghĩa dân tộc, bộ lạc, tinh thần phe phái, đố kỵ, ganh ghét,… Tận diệt các thói xấu này là chấm dứt các tình trạng trên, và để làm được điều này là làm một cuộc cách mạng trong tâm hồn mỗi người trong chúng ta.

Nếu bạn mong muốn thay đổi xã hội, bạn phải thay đổi bản thân của mình trước tiên. Có thể bạn không phải là một chính trị gia, một nhà hoạt động xã hội, một Phật Tử, một tín đồ Ki – tô giáo, Hindu giáo, hay Hồi Giáo. Tuy nhiên ai trong chúng ta đều cũng là con người. Mỗi người đều phải có trách nhiệm đối với người khác trong xã hội. Bạn không thể mong chờ xã hội thay đổi tốt đẹp hơn khi mà tự thân bạn không thay đổi.
Chân lý cuộc sống – Thực tại tối hậu


“Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời,
Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển,
Triều đại Cha mau đến,
ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy,
Xin tha tội cho chúng con
như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con;
Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ,
nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ.”
(Kinh “Kính lạy cha)

Đây là bài kinh mà mỗi người Ki-tô giáo đều thuộc làu như thuộc bảng cửu chương vậy. Thế mà nó lại chứa đựng tất cả chân lý mà Chúa Jesus muốn truyền đạt cho các môn đệ!

Bạn và tôi, ngay trong phút giây hiện tại, chúng ta đứng tại chỗ hai cái vô tận gặp nhau: Cái dĩ vãng mênh mông có từ thời khai thiên lập địa và cái tương lai nó bắt đầu từ tiếng cuối cùng mà tôi vừa mới thốt. Chúng ta không thể sống trong cả hai cái vô tận đó được, dù chỉ là trong một phần giây. Chúng ta chỉ có thể sống trong giây phút hiện tại mà thôi.

Chúng ta không nên vướng bận vào những vấn đề của quá khứ. Quá khứ đã trôi qua, chúng ta không thể nào lấy lại được. Tương lai thì chỉ có thể hình thành trong hiện tại, ngay lúc mà chúng ta đang sống. Cuộc đời có quá nhiều biến động, quá nhiều thứ vô thường, làm sao chúng ta có thể biết tương lai sẽ như thế nào? Điều mà chúng ta có thể làm là chấp nhận giây phút hiện tại, sống hết mình ngay giây phút này.

“…Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy…” Các bạn thấy đấy, câu kinh chỉ xin lương thực cho đủ một ngày thôi, cho ngày hôm nay thôi, chứ không xin cơm cho ngày mai hay phàn nàn về cơm của ngày hôm qua đâu nhé!

Theo phúc âm Mát – thêu, Chúa Jesus đã nói với các môn đệ và dân chúng rằng:


Vì vậy Thầy bảo cho anh em biết: ừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang không? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Salômôn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.

Người khuyên: “Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai, ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.” Có nghĩa đừng lo tới ngày mai chứ không phải là đừng nghĩ. Bạn cứ nghĩ tới ngày mai, cứ cẩn thận suy nghĩ, dự tính, sửa soạn đi, nhưng đừng quá lo lắng gì về tương lai vì nó vẫn chưa tới. Hãy sống chu toàn với thực tại và làm nó tươi đẹp hơn.


Khi người Pha – ri- sêu hỏi Chúa Jesus bao giờ Triều Đại Thiên Chúa đến. Người trả lời: “Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được. Và người ta sẽ không nói: “Ở đây này! Hay ‘Ở kia kìa!” Vì này Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông.

Mọi người thường nghĩ Thiên Đàng, hay Nước Chúa mà Chúa Jesus muốn nói có được sau khi chúng ta chết đi. Nhưng Người lại bảo: “Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông.” Trong tiếng Anh, từ “present” có nghĩa là món quà, nhưng nó lại mang một nghĩa khác là hiện tại. Thực tại tối hậu là một món quá vô giá mà Thượng Đế ban tặng cho chúng ta, tuy nhiên chúng ta lại không nhận thấy điều này. Lý do chính là vì chúng ta quá chìm đắm trong suy tư, chạy theo suy nghĩ miên man trong đầu, mê đắm trong thú vui vật chất mà quên mất chân lý luôn bên ta. Hết thảy chúng ta đều mơ mộng những vườn hồng diễm ảo ở chân trời thăm thẳm mà không chịu thưởng thức những bông nở kề ngay bên cửa sổ.


Stephan Leacock – một trong những nhà văn nổi tiếng với phong cách trào phúng và châm biếm đầu thế kỷ 20 đã viết: “Lạ lùng thay cái chuỗi đời ta. Trẻ em thì nói: “Ước gì tôi lớn thêm được vài tuổi nữa” nhưng khi lớn vài tuổi rồi thì sao? Thì lại nói: “Ước gì tôi tới tuổi trưởng thành.” Và khi tới tuổi trưởng thành lại nói: “Ước gì tôi lập gia đình rồi ở riêng”. Nhưng khi thành gia rồi thì làm sao nữa? Thì lời ước lại đổi làm: “Ước gì ta già, được nghỉ ngơi.” Và khi được nghỉ ngơi rồi thì lại thương tiếc quãng đời đã qua, và như thấy có cơn gió lạnh thổi qua quãng đời đó. Lúc ấy đã gần đất xa trời rồi, còn hưởng được gì nữa. Khi ta biết được rằng đời sống ở trong hiện tại, ở trong từng ngày một, thì đã quá trễ rồi mà.”

Bạn chỉ có thể tìm sự sống trong giây phút hiện tại, ngoài giây phút hiện tại không còn sự sống nào khác. Chúng ta không thể sống mãi trong ảo tưởng của quá khứ, sự lo lắng thái quá về tương lai được. Nếu kiên trì, chú tâm vào đời sống ở giây phút này, chúng ta chỉ còn thấy Sự Hằng Hữu, Sự Liên Tục của Đời Sống. Khi đó đời sống là vũ công còn chúng ta chỉ là vũ điệu. Vì vậy Chúa Jesus mới nói : “Trước khi có ông Áp – ra – ham, thì tôi, Tôi Hằng Hữu “ (Before Abraham was, I, I am). Trong tiếng Anh, thì hiện tại đơn giản được sử dụng để chỉ một chân lý, sự thật hiển nhiên đúng. Cụm từ tôi là (I am)- thì hiện tại đơn giản – được sử dụng trong một câu bắt đầu bằng thì quá khứ (Before Abraham was) biểu hiện một sự thay đổi tận gốc rễ, một sự bất liên tục trong cõi thế tục – cõi còn chịu sự chi phối bởi thời gian.

Cũng như vậy, bạn chỉ có thể tìm thấy sự thật trong phút giây hiện tại . Ngoài phút giây hiện tại ra, không còn một sự thật nào khác. Thế nên Chúa Jesus mới nói: “I, even I, am the way, I, even I, am the truth, I, even I, am the life” (Thầy là đường, là sự thật và là sự sống). Thì hiện tại “I am” được sử dụng tối đa!

Tuy nhiên, để thấy được Sự Hằng Hữu hay Thực Tại Tối Hậu, không phải là điều dễ dàng. Nó đòi hỏi bạn cần phải có một sự tập trung, tĩnh lặng hoàn toàn trong tư tưởng. Đừng dùng trí năng, sự suy tư hay suy luận logic để thấy được. Đơn giản là hãy loại bỏ vọng niệm, đạt được sự tĩnh lặng trong nội tâm. Một cách thực tập là mỗi khi bắt đầu ngày mới, bạn hãy cho rằng đây là ngày cuối cùng của cuộc đời mình, và cho rằng sau ngày hôm nay mình sẽ không hiện hữu nữa, khi đó bạn sẽ làm gì? Hãy sống thật trọn vẹn vào ngày hôm nay. Tôi tin chân lý sẽ tổ lộ cho bạn.


Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho. – Chúa Jesus

Chúc các bạn bước đi thành công trên con đường tâm linh của mình.



Khải Huyền

Thứ Tư, 13 tháng 8, 2014

Hoa Sứ Khô

Anh như hoa sứ khô rồi
mà vườn hương vẫn sáng ngời sao Khuê






Theo đường hương hoa sứ
Tôi tìm đến thăm anh
Bụi khói từ đô thành
Bỏ sau yên xe đạp
Bạn già lâu mới gặp
Tưởng lòng còn đang xuân
Chuyện làng báo, làng văn
Kể hoài thành ký ức

Trong lòng giặc trui rèn bút thép
Chữ thay gươm vạch tội kẻ thù
Trong xà lim vẫn mỡ chiến khu
Gối bản thảo nằm gai nếm mật
Cùng giấu mặt mỗi lần đối mặt
Trong bạn bè , ngoài giã người dưng
Cùng tìm nhau trong nghiệp văn chương
Cùng đau xót hay tin tù tội.

Ngày tôi " đi ăn mày"
Anh viết bài tường thuật
Giặc như lá lìa cây
Bút mình gây bão nổi
Sao Khuê ngời bông bưởi
Lòng ta như sao, hoa

Thế rồi ngày lại ngày qua
Biết ai còn nhớ hay là vội quên!

Đỗ máu không cần công hạn mã
Miễn trời mây lấp lánh cầu vồng
Từ anh trở lại ngôi nhà cũ
Giọt nước chảy về mạch nước trong.

Hương sứ lồng thảo bạc
Trà nhạt vẫn đậm tình
Vì đất nước hòa mình
Lòng thơ trùm vũ trụ.

Ngày tôi rời Tây ninh
Anh tặng chùm khế ngọt
Hẹn câu chuyện nghĩa tình
Lần sau cùng kể tiếp.

Tiễn tôi ra cửa ngoài
Lên xe nhìn ngoái lại
Anh nhặt hoa sứ rơi
Phơi đầy sân nắng mới.

Năm sau về thăm vườn sứ
Mới hay khuất bóng người xưa
Nương mây cởi hạc vào mơ tuyệt mù
Vườn hương hiu quạnh âm u
Khói trầm vờn khói tương tư chập chờn

Nâng niu từng cánh hoa khô
Tưởng anh ngồi trước áng thơ ngày nào
Tuần hương thay tiếng ly tao
Chúc anh yên giấc chiêm bao tuyệt vời

Tây ninh, đêm 14 sáng 15/7/86

Kiên Giang- Hà Huy Hà

Thứ Ba, 12 tháng 8, 2014

Ba điều kiện để xã hội dân sự phát triển


Xã hội dân sự hình thành và phát triển từ thế kỷ 18-19 song hành cùng sự phát triển của thương mại và nhà nước hiện đại. Ban đầu, nó như không gian hình thành bởi các quan hệ kinh tế và dần dần mở rộng qua các quan hệ dân sự khác như nghệ thuật, khoa học, và nhân đạo. Như vậy, xã hội dân sự là một sản phẩm tất yếu của sự phát triển xã hội, là nơi người với người hợp tác, giao lưu và hành động vì một mục đích chung. Trong bất cứ xã hội hiện đại nào, bất kể thể chế chính trị là dân chủ đa nguyên hay độc tài toàn trị, xã hội dân sự vẫn tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, sự lớn mạnh và hữu ích của nó phụ thuộc nhiều vào ba yếu tố, mà có lẽ cũng là ba nhóm giải pháp cần thực thi ở mỗi quốc gia.


Ảnh: Nguyên bộ trưởng thương mại Trương Đỉnh Tuyển cho rằng xã hội dân sự là sản phẩm của phát triển dân chủ và cần được thừa nhận (Nguồn: vneconomy.vn)

Thứ nhất là một khung pháp lý cởi mở, mang tính khuyến khích hoạt động dân sự tự do của người dân. Quyền lập hội, tự do tụ họp phải được bảo vệ để các nhóm xã hội khác nhau có thể hợp tác với nhau mà không bị ngăn cản. Quyền tiếp cận thông tin, chia sẻ thông tin và tự do thể hiện quan điểm qua các hình thức báo chí, nghệ thuật, văn học cần được bảo vệ để các ý tưởng mới, kiến thức mới, sáng tác mới được bàn luận, thách thức và lan tỏa trong xã hội. Đây chính là nền tảng pháp lý để khuyến khích các cá nhân tìm tòi cái mới, cái hay, cái đẹp làm giàu cho xã hội mà không sợ hãi.

Thứ hai là một cơ sở xã hội làm nền tảng cho các hoạt động dân sự phát triển, cụ thể là văn hóa dân chủ trong thảo luận, độc lập trong suy nghĩ và nhân văn trong hành xử. Một xã hội dân sự phát triển chỉ khi các giá trị mới, thậm chí mâu thuẫn với những giá trị phổ quát hiện tại được tranh luận thấu đáo. Trong quá trình này cái hiện tại, cái chính thống được làm mới, thay đổi để phù hợp với hoàn cảnh. Đây chính là một vai trò quan trọng của xã hội dân sự, vì dù nhiều nhóm đóng vai trò bên lề, ngoại vi nhưng giúp cho cái trung tâm, cái chính thống không trở thành độc đoán, áp đặt dẫn đến lạc hậu và mục ruỗng.

Bên cạnh đó, ngoài văn hóa tự nguyện của các nhóm thanh niên bảo vệ môi trường, giúp đỡ người già, hay trẻ em đường phố, xã hội dân sự cần văn hóa đóng góp của những người trí thức lớn và những doanh nhân thành đạt. Trí thức là người “bơm” các tư tưởng thời đại để làm mạnh cho xã hội dân sự, doanh nhân là người cung cấp nguồn lực để xã hội dân sự hoạt động vì lợi ích công. Nếu không có sự tham gia mạnh mẽ của hai nhóm đối tượng này, xã hội dân sự khó trở thành không gian tiên phong cho sự phát triển của đất nước.

Thứ ba là việc bảo vệ những người hoạt động trong lĩnh vực quyền con người và xã hội dân sự. Để bảo vệ công lý, hướng tới lợi ích công hoạt động của họ có thể động chạm đến lợi ích của các nhóm quyền lực. Khi đó, họ cần được bảo vệ bởi các công ước quốc tế cũng như Hiến pháp. Điều này đòi hỏi sự độc lập, công minh của các cơ quan tư pháp cũng như một thái độ đúng đắn của công chúng với những người “thổi còi”. Có như vậy, xã hội dân sự mới có những người đi tiên phong, không bị chùn chân bởi cường quyền.

Trong thời đại hiện nay khi nhà nước không thể chăm lo cho toàn bộ dân chúng vì nguồn lực có hạn cũng như nhu cầu đa dạng của các tầng lớp xã hội, thì sự phát triển của xã hội dân sự càng tất yếu và cần thiết. Càng để cho xã hội dân sự phát triển tự nhiên thì nó càng có khả năng tự điều chỉnh để phục vụ lợi ích của quần chúng nhân dân, đặc biệt các nhóm yếu thế. Ngược lại, càng cố gắng bóp nghẹt nó thì xã hội càng tích tụ sự bất mãn và nhiễm độc vì không có cơ chế thanh lọc, thải trừ bất công. Đây chính là lý do cần có khung pháp lý mở, văn hóa dân chủ và cơ chế bảo vệ những người tiên phong để xã hội dân sự phát triển và có ích.

Trung Hậu
http://dienngon.vn/Blog

NÓI VỚI MECGHI






Em đừng khóc khi nghe chim hót
Tiếng hót cuối cùng nơi những bụi mận gai
Gai nhọn rất dài
Đâm qua trái tim thổn thức
Và tiếng hót cất lên đẹp hơn ngàn lần nỗi đau trong lồng ngực
Em biết không?
Qua nỗi đau luôn là những thiên đường…
Bông hồng trong tay em còn ướt sương
Đừng tặng tôi khi em là bông hồng đẹp nhất
Tôi đã đọc trong mắt em một tình yêu rất thật
Tro của hoa hồng – xa mãi còn vương…

Dẫu biết rằng em đã dành cho tôi cả trọn vẹn yêu thương
Thì trái tim tôi vẫn chia thành hai nửa
Nửa của Chúa trời, nửa của riêng em
Em có thể giận dữ, hờn ghen
Như bao người từng khát khao một tình yêu tuyệt đối
Nhưng em có hiểu tôi không hề nói dối
Phía sau Chúa trời cuộc sống chỉ là em
Cuộc sống chỉ là em, duy nhất, thân quen
Từ thủa ấu thơ đến thời thiếu nữ
Tình yêu tôi chưa bao giờ là đủ
Có sự san sẻ nào trọn vẹn được đâu?

Những mùa thu đã xa lắc từ lâu
Chỉ những bông hồng vẫn sắc màu không đổi
Suốt một đời tôi mãi là người có tội
Khi đến bên em lại nghĩ tới Chúa Trời

Con chim kia đã chết để Thượng đế mỉm cười
Bằng tiếng hót cất lên cả nhân gian im lặng
Có phải thế không khi đi qua những niềm đau, cay đắng
Ta biết thiên đường là nơi có tình yêu!

nguoiduynhat83

Em chết trong nỗi buồn







Em chết trong nỗi buồn
Chết như từng giọt sương, rơi không thành tiếng
Trái tim em còn trẻ dại trắng trong
Ai cất giùm em cái nhìn già nua
Ai cất giùm em bàn tay cằn cỗi
Trong xứ sở của anh, hiếm hoi niềm vui
Nơi cô đơn khô khan đến nao lòng

Ai đã đánh mất em, hay tự em đánh mất
Phải chi em xấu xa?
Phải chi em xấu xa?
Không … Không … Không …
Trái tim trong trắng của em. Sao không ai nhận ra ?
Sao không ai nhận ra ?

Đi bên anh em còn lạc lối về
Có đôi khi muốn mình như chiếc bóng
Tan lắng vào đêm
Không ai nhận ra mình

Em chết trong nỗi buồn
Em chết trong nỗi buồn
Em chết trong nỗi buồn



Hiếm có bài hát nào tôi “sợ” nghe như bài hát Romance 2 của Phú Quang. Lạ lùng là thế. Mỗi khi quyết định nghe, có nghĩa là một lần can đảm, chấp nhận một khoảng thời gian khi nghe bài hát ấy, sau khi nghe bài hát ấy, sẽ “chết trong nỗi buồn”.

Tôi sợ, bởi vì mỗi lần nghe, là một lần nhìn thấu tỏ lại lòng mình, thấy lại nỗi đáng thương của mình. Thấy mình không được an toàn trong cảm giác trốn tránh nữa.

Không phải lúc nào, dù là khi ta đối diện với chính ta, ta cũng có thể can đảm nhìn lại vết thương của chính mình, phải không, những người bạn gái?

Lần đầu tiên nghe bài hát này, và biết nó phổ thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ, tôi đã lên mạng tìm kiếm. Tôi vốn rất yêu mến cô, cô là nhà thơ với tôi, nữ tính vô cùng. Kết quả tìm chỉ cho thấy đây là 1 bài thơ chưa xuất bản…Tôi từng nghe nói, khi cô được nghe chính Phú Quang hát bài hát này, cô đã khóc, vì lẽ, bài hát đã nói đúng về giấc mơ, về khao khát trong trái tim cô, tâm hồn cô…

Lạ một điều, khi nghe bài hát này lần nào, tôi cũng ước mình có thể khóc. Nhưng không, chỉ da diết buồn, chìm sâu bất tận, àh, ví von thì có thể như người ta dùng dao cùn để cứa vào 1 vết thương không lành miệng vậy.

Người đàn bà trong bài thơ ấy, bài hát ấy, là người đàn bà mang trên mình những dấu ấn thời gian, đôi mắt già nua, bàn tay cằn cỗi, những điều mà ai cũng thấy. Nhưng trái tim người đàn bà ấy “trái tim em còn trẻ dại trắng trong” thì không ai nhận ra, không ai cả, thậm chí là “anh”, người bạn cùng đường, người mà “đi bên anh em còn lạc lối về…”

“Em chết trong nỗi buồn, em chết trong nỗi buồn…” điệp khúc ấy trở đi trở lại, nó gợi cho tôi nhớ tới một câu thơ của Nguyễn Phong Việt “Chúng ta đã nhiều lần chết đi dù vẫn đang tồn tại giữa bao người”… Cái chết ấy, trong nhiều khoảnh khắc, là những phút tê đắng của tâm hồn, là những phút lịm đi, như nỗi cô đơn của một người muốn chìa bàn tay mà không ai buồn nắm lấy, là những khi bước trên đường mỏi mệt một mình đơn lẻ, là những khi trong đám đông trong nói cười ồn ã mà thấy trống rỗng tận cùng, là những khi mong chờ một yêu thương nhỏ bé không bao giờ thành hiện thực, là những khi nhắm chặt mắt mà không thể nào chợp mắt, thấy mình bé nhỏ, cô đơn… Người đàn bà ấy khản giọng nói rằng “trái tim em còn trẻ dại trắng trong, sao không ai nhận ra, sao không ai nhận ra”…

Tôi yêu cái sự tuyệt vọng ấy biết bao. Người đàn bà nào trong cuộc đời không từng có ý nghĩ mình xứng đáng được hưởng hạnh phúc, tùy từng tính cách mà họ nghĩ về nó với sự khiêm nhường hay tự kiêu… Thế nhưng, trong cuộc đời này, có mấy người tìm được hạnh phúc thật sự, tình yêu thật sự? Và khi không tìm thấy, họ âm thầm chịu đựng. Chẳng có mấy người cất lên tiếng nói chân thành như thế. “Sao không ai nhận ra”, “Sao không ai nhận ra…” Và tại sao? Tại sao anh – cũng – không – nhận – ra?

Cõi trần gian này, tình yêu này, và số phận này, đã đánh cắp biết bao thời thanh xuân thiếu nữ. Trên con đường mỏi mệt tìm hạnh phúc, đến một lúc, người đàn bà ngơ ngẩn hỏi rằng “Ai đã đánh mất em hay tự em đánh mất”….Trong phút xa xót ấy, sững sờ ấy, thảng thốt ấy, chỉ có mình người đàn bà đứng lặng nhìn mất mát của chính mình. Dẫu rằng không biết vì đâu, và không biết vì ai, nhưng đã “đánh mất” rồi, đánh mất “chính em” . …“Phải chi em xấu xa, phải chi em xấu xa…” người đàn bà ấy đã cay đắng nói rằng, giá mà chị xấu xa thật sự, xứng đáng thật sự với nỗi cô đơn đắng ngắt này, để phải nhận nỗi “lạc lối” này…Nhưng không, đó là người đàn bà ý thức được bản thân mình biết bao, ý thức được sự trong trắng của trái tim mình, ý thức mình xứng đáng để nhận hạnh phúc, nhận tình yêu. Nhưng hạnh phúc đâu rồi, tình yêu đâu rồi và anh đâu rồi?

Cho nên “em chết trong trong nỗi buồn”, cho nên có những khi “muốn mình như chiếc bóng – Tan lắng vào đêm – Không ai nhận ra mình”….

Hạnh phúc của một người phụ nữ được đo bằng định nghĩa của người đàn ông về mình. Nhưng có biết bao phụ nữ trong cuộc đời này, từng ngước lên bầu trời và tự hỏi “Trái tim em còn trẻ dại trắng trong – sao không ai nhận ra. Sao không ai nhận ra”.

http://nguoiduynhat83.wordpress.com/

Chủ Nhật, 10 tháng 8, 2014

Sóng Tình Yêu



Tuệ Thiền










Ta yêu nhau: cây đời xanh hơn
Tầng ô-dôn bớt những vết thương
Lũ chim gọi nhau về đất hứa
Gã bụi đời giũ áo bất lương

Ta yêu nhau: niềm tin ló dạng
Rét nứt mùa, xuân đã nhú lên
Kẻ ô trọc theo đàn sâu nhỏ
Cởi tối đen hoá cánh bướm vàng

Ta yêu nhau: đất trời độ lượng
Rớt hận thù khỏi ánh mắt đau
Sóng tình yêu toả lan vô tận
Tim bình yên, quên thuở nát nhàu



Ta yêu nhau: lòng ta trong hơn

Không để tình yêu hoá oán hờn

Nụ hôn thương nỗi đau trái cấm

Người gặp người giữa cõi bán buôn.

---

Chuyến tàu băng giá





Đạo diễn:Joon-ho Bong
Diễn viên:Chris Evans, Tilda Swinton, Jamie Bell

Một bộ phim hay xem và suy ngẫm. Bộ phim mang tính triết lý sâu sắc về nền Văn minh phương Tây
Thật là thú vị khi con tàu với động cơ vĩnh cửu này bị phá vỡ, hai kẻ sống sót còn lại để khởi đầu lại cho thế giới mới của loài người chính là một cô gái Châu Á với khả năng dùng tâm trí nhìn xuyên thấu vạn vật và một cậu bé Châu Phi hoang dã

Xem bộ phim này rồi không biết những tín đồ sùng bái Văn minh Phương Tây sẽ nghĩ gì?

Thứ Sáu, 8 tháng 8, 2014

Khi luật sư chỉ là cái bóng của công lý




Tác giả: Lê Chân Nhân

Trong tất cả các tội ác mà con người có thể gây ra, thì bức cung nhục hình để ép bị can nhận tội là tội ác ghê tởm nhiều khi còn hơn cả giết người.
>> Cơ quan điều tra không nên quản lý giam giữ

(Minh họa: Ngọc Diệp)

Bởi vì, có những trường hợp giết người vì không làm chủ được bản thân, vì tự vệ, vì bộc phát nhất thời. Còn dùng nhục hình để ép án là hành vi có chủ đích, kéo dài ngày này qua tháng khác, hành hạ người vô tội. Người dùng nhục hình và bức cung là cán bộ điều tra, hiểu biết pháp luật, có quyền sinh sát đối với số phận người khác. Chính vì họ được đào tạo, được nhà nước giao trách nhiệm điều tra tội phạm, nhưng họ dùng quyền và sức mạnh được giao để nhục hình một công dân nên mới đáng ghê tởm



Xâm phạm hoạt động tư pháp để đẩy người khác vào tù tội, phải chịu án chung thân, tử hình thì những điều tra viên đó không còn nhân tính. Thậm chí, có trường hợp dùng nhục hình đến nỗi can phạm bị tử vong ngay trong trại tạm giam.

Vụ án Nguyễn Thanh Chấn với những lời tố cáo nhục hình chưa làm rõ. Vụ án Hàn Đức Long cũng ở Bắc Giang cũng tương tự. Hàn Đức Long bị ghép tội hiếp dâm, giết người nhưng một mực kêu oan. Cán bộ điều tra bức cung bằng cách dùng bút bi kẹp vào các kẽ ngón tay, đốt bằng bật lửa gas…

Vụ án ở Phú Yên còn tệ hơn, nghi can bị 5 công an đánh chết tại trại tạm giam.

Không lên tiếng cảnh tỉnh thì sẽ còn bức cung nhục hình nhiều và theo đó là án oan sai chồng chất. Chính vì vậy nên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang – Trưởng ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương đã yêu cầu khắc phục tình trạng này. Bộ Công an cũng ban hành Thông tư, trong đó quy định nghiêm cấm điều tra viên, cán bộ điều tra bức cung, mớm cung hoặc dùng nhục hình dưới bất kỳ hình thức nào.

Các quy định bằng văn bản quy phạm pháp luật là cần thiết, nhưng chưa đủ để ngăn chặn hành vi bức cung, nhục hình, mà phải thực hiện những cải cách cụ thể hơn. Ví dụ, đã có nhiều ý kiến đề xuất lắp đặt camera trong phòng hỏi cung. Tuy nhiên, nếu cơ quan điều tra vừa điều tra vừa giam giữ thì khó có thể minh bạch trong chuyện lấy thông tin từ camera. Nếu như điều tra viên không dùng nhục hình trong phòng lấy cung mà ở nơi khác thì sao?

Cho nên, đề xuất tách cơ quan quản lý giam giữ độc lập với cơ quan điều tra là một biện pháp phù hợp.

Ngoài ra, một quy định vô cùng khoa học và có khả năng ngăn chặn nhục hình rất thực tế, đó là sự có mặt của luật sư trong các cuộc hỏi cung. Thiếu vai trò của luật sư, khó có thể nói đến sự minh bạch của các bản cung. Nhìn vào thực tế, luật sư còn chưa được tạo điều kiện để thực hiện công việc vô cùng quan trọng, đó là tiếp cận với thân chủ trong các cuộc hỏi cung. Thiếu vai trò này, luật sư chỉ là cái bóng của công lý mà thôi.

Hãy như quốc gia văn minh, trước khi thẩm vấn, cảnh sát sẽ nói với nghi phạm bằng “Lời cảnh báo Miranda”: “Anh có quyền giữ im lặng và từ chối trả lời câu hỏi. Bất cứ điều gì anh nói cũng sẽ được dùng để chống lại anh trước tòa. Anh có quyền có luật sư trước khi khai báo với cảnh sát và luật sư sẽ hiện diện khi cảnh sát thẩm vấn anh. Nếu anh không thể tìm luật sư, anh sẽ được cung cấp một luật sư trước khi trả lời các câu hỏi. Anh có thể trả lời câu hỏi khi không có luật sư, nhưng anh vẫn có quyền ngưng trả lời bất cứ lúc nào để chờ đợi sự có mặt của luật sư”.

Có lẽ “Lời cảnh báo Miranda” nên được áp dụng khắp nơi trên địa cầu này, đặc biệt là những nơi còn bóng tối.

———–

Theo Dân trí, ngày 07/8/2014

Văn hóa Việt Nam khác văn hóa Tàu




GS Lưu Trung Khảo

 Trong các yếu tố để dân tộc ta tồn tại được, để dân tộc ta được độc lập, để dân tộc ta thoát khỏi cái gọng kềm, cái móng vuốt của Bắc phương, thì cái yếu tố rất quan trọng là yếu tố Văn Hóa. Chính là nhờ yếu tố Văn Hóa này, mà chúng ta mới giữ được sự độc lập về tư tưởng cũng như văn chương ngôn ngữ và các phương diện khác.

Quan niệm về vương quyền và tổ chức đất nước của ta khác người Trung Hoa. Họ quan niệm rằng vua là thiên tử, là con Trời, được Trời sai xuống để cai trị muôn dân. Và vì thế cho nên họ có quyền sinh quyền sát (giết) và quyền tổ chức hoàn toàn theo ý muốn của đấng thiên tử tức là con Trời như văn chương ngôn ngữ và các phương diện khác.


Quan niệm tuyệt đối trung thành với ông vua là quan niệm phổ cập trong xã hội phong kiến Trung Hoa. Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung, phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu, vua sai bảo bầy tôi chết thì bầy tôi phải chết, nếu không chết là bất trung. Cha bảo con chết, con không chết là con bất hiếu. Chính quyền đó được "tập trung" và người ta có quan niệm "trung quân là ái quốc". Nhưng người Việt Nam chúng ta không quan niệm như vậy.

Theo quan niệm của người Việt Nam chúng ta, Quốc tổ như đằng lạc, đất nước giống như dây mây quấn vào với nhau chặc chẽ, không phân biệt vua tôi hay thứ dân gì hết. Tất cả đều là một mối để tạo thành đất nước. Vua Trần Nhân Tông đã họp các bô lão lại tại Hội nghị Diên Hồng để hỏi ý kiến toàn dân là nên hòa hay nên chiến. Tất cả các bô lão đều thưa: Quyết Chiến! Đấy là một thứ quốc hội sơ khai của Đất Nước chúng ta.

Nhìn vào cách tổ chức làng xã ở Việt Nam, thì chúng ta thấy rằng chế độ làng xã đó là những nước cộng hòa nhỏ bé, họ có thể đặt ra những luật lệ cho riêng trong làng, với các bản hương ước ở trong làng. Cho nên trong thành ngữ Việt Nam mới có câu "phép vua thua lệ làng". Phép tắc của vua nhu khi đến các lũy tre phải dừng lại, nếu trái với với những luật lệ ở trong làng.

-- Một nhà nghiên cứu người Pháp đã nói rằng đồng bằng sông Hồng Hà được kết hợp bởi 800 tiểu quốc cộng hòa. Bởi vì trong những tiểu quốc đó, sau những lũy tre xanh đó người ta có những luật lệ, và những luật lệ đó nhiều khi trái với những luật lệ của triều đình.

-- Chính vì thế mới có một bài vè, vào thời Vua Minh Mạng, nhà vua muốn thống nhất y phục, cho nên đã ra lệnh cho phụ nữ phải mặc quần. Mà phụ nữ ở miền bắc thì thường mặc váy. Thế cho nên trong ca dao mới có một bài diễu cái chỉ dụ của nhà vua:

Chiếu vua mồng sáu tháng ba
Cấm quần không đáy người ta hãi hùng
Không đi thì chợ không đông
Đi thì lột lấy quần chồng sao đang?
Có quần, ngồi quán bán hàng
Không quần ra đứng đầu làng xem quan

Thành ra cái chỉ dụ đó, tuy ra, mà không có hiệu lực. Cho đến thời chúng tôi còn ở lại miền Bắc thì chúng tôi vẫn còn thấy phụ nữ miền Bắc mặc váy, thay vì mặc quần.

-- Người Trung Hoa có quan niệm về nam nữ và đời sống gia đình cũng khác biệt. Tại Trung Quốc, thì người ta tôn trọng nam quyền. Người ta gọi là "nam tôn nữ ti", tức là người nam thì được tôn trọng, còn người phụ nữ ở địa vị thấp hèn. Sinh được người con trai để nối dõi tông đường là quý. Có một người con trai cũng kêu là có, sinh 10 người con gái cũng coi như không. Bởi con gái là con người ta, con trai mới nối dõi tông đường, phụng thờ Tổ Tiên, thì mới coi là có con.

-- Chuyện nam nữ Trung Hoa cũng cách biệt nhau ngay trong gia đình. Con gái Trung Hoa tới tuổi cập kê là phải ở riêng. Ở Việt Nam, nam nữ tuy không được bình quyền 100% như thời đại bây giờ, nhưng nữ quyền đã được tôn trọng. Bộ Luật Hồng Đức có quy định những điều bắt người đàn ông không có quyền ly dị vợ. Có 7 điều không cho phép người đàn ông ly dị vợ, khi người vợ đã chịu tang bố mẹ chồng 3 năm, khi người vợ giúp cho ghé đến nhà chồng từ lúc nghèo đến lúc giàu sang phú quý..

-- Những chi tiết như vậy chứng tỏ rằng Việt Nam rất trọng nữ quyền, như pháp luật đời Hồng Đức. Người chồng cũng không được phép ly dị vợ nếu người vợ không có chỗ nào nương tựa. Theo luật, chúng ta thấy người Việt Nam tôn trọng nữ quyền, coi nữ quyền không thua gì nam quyền cả.

-- Chúng ta thấy mối liên hệ nam nữ của người Việt Nam được giữ trong vòng lễ giáo, không có sỗ sàng, rất là lãng mạng, rất là tế nhị, và ở trong vòng đạo lý. Nếp sống luân lý của người Việt Nam có tính cách nhân bản hơn, không bị gò bó một cách quá cứng rắn chặc chẽ không tuân thủ được như là ở bên Trung Hoa.

-- Về ngôn ngữ văn tự của ta cũng khác với người Trung Hoa. Người Việt Nam đã dùng chữ Nôm từ thế kỷ thứ 11, 12. Do nhu cầu. Không phải người Việt Nam ai cũng tên là Bạch Ngọc, Cẩm Hường, Hùng Dũng, Anh Hào vân vân. Còn những tên như là Thị Mít, Thị Xoài, Thị Nở, Tám Kèo, Tư Cột... chẳng hạn. Những cái tên đó, chữ Hán không có để viết. Những cái tên như thôn Miễu thôn Mường của người Việt Nam thì không có chữ để viết. Do đó người ta phải tạo ra một số chữ để ghi âm các chữ Việt Nam đó.

-- Về thực tế, cần phải có một thứ chữ để ghi âm tiếng Việt. Chữ Hán không có đủ để ghi các âm đó, cho nên Tổ Tiên ta đã phát minh ra một thứ chữ mới. Thứ chữ mới này một phần mượn chữ Hán, một phần khác do các cụ sáng tạo ra, chế ra, gọi là chữ Nôm. Chữ Nôm đó sau này được các cụ dùng để sáng tạo thi văn.

-- Những từ ngữ mà chúng ta đang nói như là "chính trị khoa học triết học kỹ thuật" là những từ ngữ chúng ta mượn của người Trung Hoa và chúng ta phiên âm theo Tiếng Việt. Những từ ngữ này, sau này, đến thời Việt Cộng thì họ đã lạm dụng một cách quá đáng.

-- Mặc dù rằng nhà cầm quyền hô hào là phải làm cho Tiếng Việt trong sáng, nhưng trái lại, nếu chúng ta có dịp đọc những báo cáo chính trị trong những kỳ đại hội, thì chúng ta thấy hầu như là họ viết những bài diễn từ đó từ đầu đến cuối toàn là những từ ngữ Hán Việt ! Có nhiều từ ngữ rất là xa lạ với người Việt Nam, mà người Việt miền nam chúng ta không quen dùng!

-- Chẳng hạn như chữ "sự cố kỹ thuật". Sự cố là gì ? Là việc. Vì "lý do kỹ thuật" là được rồi, họ bày đặt bắt chước Tàu mà dùng chữ "sự cố kỹ thuật"! Hay là "khẩn trương lên". Khẩn trương lên là "nhanh lên", có gì đâu, dùng tiếng Việt cũng được, nhưng mà họ (Việt Cộng) lại cắt cớ bày ra là "khẩn trương"! Rồi ghi danh học thì gọi là "đăng ký", rồi khai triển trong quy mô lớn, thì họ gọi là "triển khai đại trà" ... Tất cả những lề lối dùng chữ bắt chước Tàu một cách vô lối như vậy đã làm cho Tiếng Việt nhiều khi trở nên khó hiểu và ngớ ngẩn.

-- Chúng ta đã có những kho từ ngữ rất là phong phú. Có đủ từ ngữ để diễn tả, và có những từ ngữ văn hoa, xác đáng, chính xác, để mà diễn tả mọi sự, mọi tình huống. Nhưng mà họ (Việt cộng) lại làm ra vẻ khác đời khác người. Thí dụ từ trước chúng ta vẫn dùng "thuỷ quân lục chiến", họ dùng "lính thủy đánh bộ", máy bay trực thăng thì "máy bay lên thẳng", hoả tiễn thì là "tên lửa" , hàng không mẫu hạm thì là "tàu sân bay". Tất cả những điều nô lệ Tàu, hoặc cải cách một cách vô lối như vậy, đã làm cho Tiếng Việt trở thành ra ngô nghê và nhiều khi nặng mùi Trung Quốc!

-- Phép đặt câu trong Tiếng Việt cũng thật là đặc biệt. Chúng ta có lối phát âm cũng như lối đặt câu có thể thích hợp với ngôn ngữ quốc tế. Người Trung Hoa cũng có cố xem, để bắt chước, để mà sửa đổi chữ viết, nhưng mà cũng không sửa đổi được. Tôi nhớ là năm 1958 khi Mao Trạch Đông cầm quyền được 9 năm thì có lập một ủy ban nghiên cứu, La Mã hóa chữ Trung Hoa, và họ đã nghiên cứu Tiếng Việt và đặc biệt là các dấu giọng của Tiếng Việt để áp dụng vào việc La Mã hóa chữ Trung Hoa. Nhưng mà không nổi, bởi vì chữ Trung Hoa có rất nhiều chữ đồng âm, và chương trình đó bị thất bại.

-- Chúng ta nhìn nhận rằng trước khi chúng ta có chữ Nôm, chữ Nôm khó, bởi vì phải thông chữ Hán thì mới biết chữ Nôm. Rồi chúng ta có được món quà, có được một thứ "quốc bảo" do các giáo sĩ Tây Phương mang lại: đó là chữ Quốc Ngữ mà bây giờ chúng ta đang dùng. Dễ học, dễ nhớ và dễ phổ biến.

-- Thế nhưng mà sau này thì người ta lại cố tình làm cho Tiếng Việt thêm khó khăn, bày đặt ra, tạo ra những từ ngữ chẳng có nghĩa lý gì cả! Thành ra chúng ta thấy Tiếng Việt bây giờ ở trong nước Việt Nam, nhất là đọc các báo điện tử, chúng tôi thấy có nhiều bài viết có những từ ngữ rất khó hiểu!

-- Chính người Pháp cũng phải ngạc nhiên rằng một dân tộc đã bị ngoại thuộc Tàu hơn 1000 năm, bị (Tàu) dùng đủ mọi biện pháp để đồng hóa. Minh Thành Tổ đã hạ lệnh cho các quan lại không sang xâm chiến Việt Nam thì phải tìm đủ mọi cách tiêu hủy mọi di sản văn hóa Việt, không được để một mẫu giấy có chữ do người Việt Nam viết. Các bia ở các đình chùa cũng phải (Tàu) đập phá. Các đình chùa miếu mạo cũng phải đập phá cho mà chết. Chỉ có các sách Trung Hoa là còn để lại.

-- Cái âm mưu đồng hóa đó, chúng ta thấy từ thời Mã Viện khi họ tịch thu các trống đồng, khi họ bắt người Việt phải tuân theo luật Hán. Rồi lại còn dựng các cột đồng "đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt", để cho người Việt Nam khi mà qua đó thì có người phải bỏ một nắm đất nắm sỏi vào đó, để cho cột đồng khỏi đổ.

-- Cái âm mưu đồng hóa đó, sau này chúng ta còn thấy ở Sĩ Nhiếp, Tích Quang, Nhâm Diên. Có những người ca ngợi là những người này chịu ảnh hưởng của người Hán, ca ngợi đó là những văn quan có đức, đã đem văn hóa Trung Hoa mà truyền bá cho Việt Nam, mà không nghĩ rằng đó là những âm mưu ác độc của người Trung Hoa muốn đồng hóa dân ta! Cũng như họ đã đồng hóa biết bao tộc Việt khác ở phía nam sông Dương tử !

-- Trong số những dân tộc phía nam sông Dương tử thuộc dòng Việt như Mân Việt, Ưu Việt bị đồng hóa, thì chỉ riêng giống dân Lạc Việt là hậu duệ này là họ không đồng hóa nổi mà thôi! Chúng ta vẫn giữ được ngôn ngữ, chúng ta vẫn giữ được phong tục. Chúng ta vẫn giữ được nếp sống văn hóa. Và nếp sống văn hóa đó sẽ là yếu tố rất là quan trọng để giữ được bản sắc dân tộc.

-- Trong bài Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi có viết rằng "dẫu cường nhược có lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có" (tuy cường nhược thì hữu bất đồng, nhi hào kiệt thế vị thường phạp), chúng ta đối với Tàu có lúc cường lúc nhược, nhưng mà hào kiệt của chúng ta không bao giờ thiếu.

-- Mặc dù rằng có những lúc "nhân tài như lá mùa thu" nhưng mà cuối cùng, người Việt chúng ta cũng vượt (việt), vượt khổ, vượt khó, đứng lên! Có lúc vác cần câu mà đánh giặc, nhưng mà lúc nào cũng "gắn bó một lòng phụ tử , rót rượu ngọt để khao quân".

-- Do vậy mà cuối cùng, nền độc lập đã dành lại được. Hiện giờ, chúng ta biết, ở Biển Đông, người Trung Hoa ngang ngược, ngang nhiên chiếm Hoàng Sa năm 1974 và chiếm Trường Sa năm 1984. Và đã sát hại biết bao nhiêu chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa cũng như lính của cộng sản Việt Nam! Rồi bây giờ ở ngoài Biển Đông, cái "lưỡi bò", tức là đường dây ranh giới trên mặt biển mà người Trung Hoa vẽ ra, đã ngăn cản không cho ngư phủ Việt Nam ra đánh cá ở Biển Đông.

-- Chúng ta thấy có những tàu Việt Nam đã bị những tàu hải quân Trung Quốc bắt mang về đòi tiền chuộc, không khác gì hành động của bọn hải tặc bắt cướp thuyền để đòi tiền chuộc. Thêm nữa, có những tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam đã bị tàu tuần cảnh của hải quan Trung cộng húc chìm. Rồi họ bỏ mặc cho ngư dân Việt Nam ngoi ngóp giữa biển. Nếu không có các tàu khác cứu kịp thì tất cả các ngư dân đó bị làm mồi cho cá biển.

-- Việc khai thác mỏ dầu lửa ở Biển Đông cũng bị Trung cộng tìm mọi cách ngăn cản. Những bãi, những mỏ, như Tư Chính ở Côn Sơn từ trước đến giờ là thuộc chủ quyền Việt Nam, không bao giờ có các vấn đề khó khăn đặt ra, nhưng mà bây giờ khi thăm dò dầu khí ở đó là bị Trung cộng ngăn cản.

-- Đất Nước bị áp bức, bị chiếm đoạt ở trên mặt biển, trên các hải đảo, ở đất liền và việc cắm mốc ở biên giới đã mang đến cho Trung cộng rất nhiều lợi lộc. Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, và biết bao nhiêu đất ở Hà Giang, ở Cao Bằng, ở Lạng Sơn, ở Lai Châu... đã bị Trung Quốc chiếm đoạt. Đường biên giới chạy lui về phía Việt Nam, khiến cho bây giờ chúng ta muốn coi ải Nam Quan thì phải xin hộ chiếu sang Trung Quốc thì mới coi được!

-- Chúng ta mất rất nhiều đất ở dọc biên giới. Không những thế, sự ngang nhiên láo xược của công nhân Trung Hoa ở ngay trên Đất Nước chúng ta cũng là một vấn đề tủi nhục, mà nhà cầm quyền Việt Nam đã nhắm mắt làm ngơ! Có những làng được dựng lên, của công nhân Trung Quốc sang khai thác ở Việt Nam. Trong các làng đó, các quán văn nghệ, quán nước, hàng ăn, đều dùng chữ Trung Hoa để đề tên các bảng. Bảng tên đường cũng đã dùng chữ Trung Hoa.

-- Tôi nhớ năm 1945 khi quân của Tưởng Giới Thạch kéo qua để tước khí giới quân đội Nhật, thì Hà nội cũng đã đề các bảng tên bằng chữ Hoa, nhưng đó là trên những bảng gỗ chiều dài khoảng độ 30 cm, chiều dọc khoảng 10 cm, đóng một cách thô sơ để chỉ cho các quân tàu biết mà khỏi lạc đường. Chứ không có tính cách như là bảng chỉ đường hiện giờ mà chúng ta thấy ở các làng ở tây nguyên (cao nguyên trung phần) mà dân Trung cộng đang trú đóng.

-- Ngoài chuyện khai thác bauxite ở tây nguyên ra, theo tiến sĩ Mai Thanh Truyết, thì còn có thể Trung cộng đang khai thác Uranium là một nguyên liệu rất cần thiết để chế tạo nguyên tử, rất cần dùng trong kỹ nghệ mới của thời hiện đại, vừa dùng để làm vũ khí, còn có thể dùng cho điện năng.

-- Không những ở tây nguyên, mà còn dọc theo duyên hải trung phần, từ Đà Nẵng tới Hội An, có nhiều làng người Hoa làm chủ và đã thuê công an đứng gát! Chỉ có người Trung Hoa mới được phép vào làng đó, người Việt Nam thì không được phép.
.........

nsvietnam.blogspot.com.au/2014/08/van-hoa-viet-nam-khac-van-hoa-tau-gs.html#more