Thứ Năm, 24 tháng 4, 2014

Chiếc lá cuối cùng

  O'Henry


Trong một khu nhỏ ở phía Tây quảng trường Washington, đường phố chạy ngoằn ngoèo và tự cắt thành những mảnh nhỏ gọi là "biệt khu". Những "biệt khu" này tạo thành những góc và đường lượn kỳ lạ. Mỗi con phố tự cắt một hoặc hai lần.

Một dạo, có nghệ sĩ đã khám phá ra khả năng hữu ích của con phố này. Thử hình dung, một người khi thu hoá đơn tiền sơn, tiền giấy và tiền vải vẽ đi qua phố ấy, bỗng nhiên nhận thấy mình quay lại mà chưa thu được lấy một xu nào. Vậy nên chẳng mấy chốc cánh nghệ sĩ đổ xô dến ngôi làng Greenwich cổ kính kì quặc đó, săn tìm những cửa sổ phía Bắc, những đầu hồi thế kỉ thứ mười tám và những căn phòng áp mái kiểu Hà Lan với giá thuê rẻ. Rồi họ nhập khẩu vài cái xô chậu đúc bằng hợp kim chì và thiếc, một hoặc hai cái bếp lẩu từ đại lộ Thứ Sáu rồi hình thành nên "khu hoạ sĩ". Áp mái tòa nhà gạch ba tầng thấp tịt, Sue và Johnsy có một xưởng vẽ. Johnsy là tên gọi thân mật của Joanna. Một người từ Maine đến, còn người kia đến từ California. Họ gặp nhau tại Table d'hôte trong tiệm Delmonico trên phố Thứ Tám và nhận thấy có cùng sở thích về nghệ thuật, về món salad rau diếp, về kiểu ống tay áo ngoài rộng và hợp nhau đến nỗi kết quả là một xưởng vẽ chung ra đời. Dạo ấy là vào tháng Năm. Tháng Mười Một, gã khách lạ chưa hề được thấy mặt, lạnh lẽo, mà bác sĩ gọi là gã Viêm Phổi, rình rập đến khu họa sĩ, thỉnh thoảng vươn những ngón tay lạnh buốt của mình chạm vào ai đó. Khắp mạn Ðông, kẻ hủy diệt ấy hùng dũng bước đi, quật ngã hàng chục nạn nhân; nhưng khi qua những "biệt khu" đầy rêu và những con phố hẹp loằng ngoằng, bàn chân gã bước đi dè dặt. Ngài Viêm Phổi không thuộc hàng chính nhân quân tử. Một phụ nữ mảnh mai, máu kiệt dần bởi những cơn gió Tây miền California khó có thể là đối thủ chính đáng của gã đần có nắm đấm đỏ, thở dốc, già nua kia. Nhưng gã vẫn quật ngã Johnsy; cô nằm, hầu như không động đậy trên chiếc giường sắt sơn của mình, nhìn qua những ô kính cửa sổ nhỏ kiểu Hà Lan lên bức tường trống trơn của ngôi nhà gạch đối diện. Sáng nọ, ông bác sỹ có đôi mày rậm, đốm bạc gọi Sue ra hành lang.


- Ta có thể nói cơ hội sống của cô ấy chỉ còn lại một phần mười, - ông nói khi lắc nhiệt kế để thuỷ ngân hạ xuống.

- Nhưng cái phần đó còn phụ thuộc vào việc cô ấy có muốn sống nữa hay không. Cái kiểu con người cứ sắp hàng bên cạnh ông chủ nhà hòm như thế thì thuốc men cũng chẳng có nghĩa lí gì. Cô bạn bé nhỏ của cô đã nghĩ rằng mình sẽ không bình phục nữa. Cô ấy có điều gì vướng mắc trong đầu không?

- Bạn ấy - bạn ấy mong ước có ngày vẽ được vịnh Naples, - Sue đáp.

- Vẽ ư? Hừ! Cô ấy không có điều gì đáng để bận tâm gấp bội lần hơn ư? - một chàng trai, chẳng hạn?

- Một chàng trai à? - Sue nói, cao giọng như thể tiếng đàn chợt buông dây. - Một người đàn ông thì tốt ư? Nhưng, không, thưa bác sỹ, không có chuyện đó đâu.

- À, vậy ra chỉ tại yếu thôi, - bác sỹ nói. - Tôi sẽ cố hết sức chữa chạy bằng tất cả vốn liếng y học của mình. Nhưng một khi bệnh nhận bắt đầu tính có bao nhiêu xe dự tang lễ của mình thì tôi phải trừ đi năm mươi phần trăm công hiệu cứu chữa của thuốc men. Nếu cô có thể làm cho cô ấy hỏi về những mốt mới mùa đông, tay áo chẳng hạn, thì tôi chắc trong mười phần cô ấy đã khá lên hai thay vì một như bây giờ. Sau khi bác sĩ ra về, Sue vào phòng làm việc, khóc ướt đẫm cả chiếc khăn Nhật. Rồi cô bình tĩnh mang bảng vẽ vào phòng Johnsy, miệng huýt sáo một điệu nhạc Jazz. Johnsy nằm, quay mặt về phía cửa sổ, tấm chăn trên người hầu như không gợn vết nhăn nào. Sue ngừng huýt sáo bởi tưởng bạn đã ngủ. Cô dựng bảng vẽ và bắt đầu vẽ bức minh họa cho câu chuyện tạp chí bằng bút sắt. Những họa sĩ trẻ phải lát con đường đến nghệ thuật bằng các bức tranh minh họa cho những truyện trên tạp chí do các cây bút trẻ đã lát xuống để đến với văn học. Khi Sue đang vẽ phác chiếc quần dài cưỡi ngựa trang nhã và chiếc kính một mắt cho nhân vật chính của truyện, anh chàng cao bồi Idaho, thì cô nghe có tiếng thì thầm lặp đi lặp lại nhiều lần. Cô bước vội đến bên giường. Mắt Johnsy mở to. Cô đang nhìn ra cửa sổ và đếm - đếm lùi lại. - Mười hai, - cô đếm, ngừng một lát, - "mười một", rồi "mười", "chín"; rồi gần như cùng một lúc "tám" và "bảy". Sue lo lắng nhìn ra ngoài của sổ. Ðếm cài gì ở ngoài đó? Trong tầm mắt chỉ có một cái sân trơ trụi, ảm đạm và bức tường trống trơn của ngôi nhà gạch cách chừng sáu mét. Một dây trường xuân già, rất già, gốc cong queo và mục nát, leo đến giữa bức tường gạch. Hơi thở lạnh lẽo của mùa thu đã bứt lá của nó ra khỏi thân cho đến lúc chỉ còn trơ đám cành cây gần trụi hết lá bám vào những viên gạch nẻ sứt.

- Cái gì vậy hả bạn? - Sue hỏi.

- Sáu, - Johnsy nói như thể là tiếng thì thào. - Giờ thì chúng rụng nhanh hơn. Ba hôm trước phải gần cả trăm. Nó làm đầu mình phát đau lên khi đếm. Nhưng bây giờ thì dễ rồi. Một chiếc nữa đã đi. Giờ chỉ còn năm.

- Năm cái gì hả bạn? Nói cho Sudie của bạn biết đi.

- Những chiếc lá. Trên cây trường xuân. Khi chiếc cuối cùng rơi, chắc mình cũng ra đi. Mình biết điều đó đã ba ngày nay. Bác sĩ không nói gì với bạn sao?

- Ồ, mình không nghe những chuyện nhảm nhí như vậy đâu, - Sue trách với vẻ ân cần quả quyết. - Mấy chiếc lá trường xuân già đó thì có liên quan gì đến việc bạn bình phục kia chứ? Tại bạn quá yêu các dây leo ấy, thế đấy, bạn hư quá. Ðừng có nói dại nữa! À, sáng nay bác sỹ bảo mình rằng cơ hội bình phục nhanh của bạn là - để mình nhớ chính xác lời ông ấy - ông nói cơ hội chiếm đến chín phần mười! À, đấy là cơ hội gần chắc chắn như khi chúng ta đi ô tô hay đi bộ vượt qua một tòa nhà mới ở New York. Bây giờ hãy cố ăn tí cháo và để Sudie quay lại với bức vẽ, có thế thì bạn ấy mới có thể bán cho người biên tập rồi mua rượu vang port cho cô bé ốm yếu của bạn và lườn lợn cho cái bụng háu ăn của bạn ấy.

- Bạn không cần phải mua rượu vang nữa đâu, - Johnsy nói, mắt vẫn nhìn ra ngoài cửa sổ. - Một chiếc nữa rơi rồi. Không, mình không muốn ăn cháo tí nào. Chỉ còn bốn chiếc lá. Mình muốn xem chiếc cuối cùng rụng trước khi trời tối. Rồi mình cũng sẽ đi theo. - Bạn Johnsy yêu quý ơi, - Sue cúi người xuống nói,

- bạn có hứa với mình là sẽ nhắm mắt và không nhìn ra ngoài cửa sổ cho đến khi mình làm xong việc không? Mình phải nộp mấy bức này vào ngày mai. Mình cần ánh sáng, nếu không thì mình đã buông rèm xuống.

- Bạn không thể vẽ ở phòng khác sao? - Johnsy hờ hững hỏi.

- Mình thích ở đây, bên bạn, - Sue đáp. - Hơn nữa mình không muốn bạn cứ dán mắt vào những chiếc lá trường xuân ngớ ngẩn ấy. - Khi nào bạn xong thì báo ngay cho mình nhé, - Johnsy nói, nhắm mắt lại và nằm im, tái nhợt như một pho tượng đổ, - bởi vì mình mình muốn xem chiếc lá cuối cùng rụng. Mình mệt mỏi vì chờ đợi. Mình rã rời vì suy nghĩ. Mình muốn tháo tung mọi thứ ràng buộc và dong buồm lướt đi, lướt đi tựa như một trong những chiếc lá mòn mỏi đáng thương kia.

- Hãy cố ngủ đi, - Sue nói. - Mình phải mời ông lão Behrman lên làm mẫu bức người thợ mỏ già khắc khổ. Mình sẽ đi một chốc thôi. Ðừng cố di chuyển cho đến khi mình quay lại. Ông lão Behrman là họa sĩ sống ở tầng trệt bên dưới nhà họ. Lão đã ngoài sáu mươi, có bộ râu xoăn như bức tượng Moses của Michael Angelo, lượn như tóc từ đầu của thần Satyr xuống thân hình một con quỷ nhỏ. Behrman không thành công trong nghệ thuật. Ðã bốn mươi năm múa bút mà lão chưa hề chạm tới được gấu áo Nữ thần của mình. Lão luôn ấp ủ ý định vẽ một kiệt tác, nhưng vẫn chưa bắt đầu. Suốt nhiều năm nay, lão chẳng vẽ được gì ngoại trừ thỉng thoảng làm mấy đường quảng cáo hay chào hàng. Lão kiếm được ít tiền bằng cách ngồi mẫu cho mấy nghệ sĩ trẻ trong khu "hoạ sĩ" ấy, những người không đủ tiền thuê người mẫu chuyên nghiệp. Lão uống gin quá độ, nhưng vẫn nói về kiệt tác sắp vẽ của mình. Còn những lúc khác, lão là một lão già nhỏ thó hung tợn, luôn chế nhạo tính nhu mì của bất kì ai và luôn tự xem mình như loại khuyển đặc biệt, canh phòng bảo vệ hai nghệ sĩ trẻ ở xưởng vẽ bên trên. Sue tìm thấy lão Behrman nồng nặc mùi rượu dâu nặng trong cái hang mờ tối của lão bên dưới. Trong góc phòng, một tấm vải trống, căng sẵn trên giá, vẫn đợi suốt hai mươi lăm năm nay chờ nét vẽ đầu tiên của bức kiệt tác. Cô kể cho lão nghe ý nghĩ lạ lùng của Johnsy và cái cách bạn ấy thực sự đuối đi, sắp lìa tung như một chiếc lá bay xa khi sự níu giữ mỏng manh của bạn ấy với thế giới này ngày một yếu hơn. Lão Behrman, đôi mắt đỏ ngấn lệ, oang oang biểu lộ sự khinh thường và công kích của mình trước chuyện tưởng tượng ngu ngốc như thế.

- Chà! Trên thế gian này còn có người ngốc đến độ muốn chết vì những chiếc lá lìa xa cái dây leo dớ dẩn kia ư? Ta chưa bao giờ nghe chuyện nào như thế cả. Không, ta sẽ không ngồi làm mẫu lão già đần độn khắc khổ ù lì của cô đâu. Sao cô lại để cái chuyện ngu ngốc ấy chui vào óc của cô ta? Ôi, tội nghiệp thay cho Johnsy bé bỏng.

- Bạn ấy ốm yếu lắm, - Sue nói, - và sốt đã làm đầu óc bạn ấy đâm bệnh hoạn, đầy rẫy những ý tưởng hoang đường. Thôi được, bác Behrman à, nếu bác không ngồi mẫu cho cháu thì cũng chẳng sao. Nhưng cháu nghĩ bác là một lão già cục cằn, ba hoa, lọm khọm.

- Cô đúng là đồ đàn bà! - lão Behrman hét lên. - Ai bảo ta không ngồi mẫu? Ði nào. Ta đi cùng cô. Ta đã nói suốt nửa tiếng đồng hồ rằng ta sẽ làm mẫu rồi cơ mà. Lạy Chúa! Ðây không phải là nơi để một người tử tế như cô Johnsy nằm dưỡng bệnh. Hôm nào đó ta sẽ vẽ kiệt tác đó và tất cả chúng ta sẽ giã từ chốn này. Lạy Chúa! Ðúng đấy. Johnsy đang ngủ khi hai người lên gác. Sue kéo rèm xuống che kín cửa sổ rồi ra hiệu cho lão Behrman sang phòng bên. Ở đấy, họ lo lắng nhìn ra cửa sổ, về phía cây trường xuân. Rồi hai người im lặng nhìn nhau một lát. Một cơn mưa lạnh, dai dẳng lẫn với tuyết đang rơi. Vận chiếc sơ mi xanh cũ, Behrman ngồi trên cái ấm lật úp, giả làm hòn đá trong tư thế người thợ mỏ khắc khổ. Sáng hôm sau, Sue thức giấc sau khi chợp mắt được một tiếng đồng hồ, cô bắt gặp đôi mắt mở to, vô cảm của Johnsy nhìn trân trân vào tấm rèm xanh nơi cửa sổ. - Kéo hộ nó lên đi; mình muốn nhìn, - cô thì thào giục. Sue miễn cưỡng nghe lời. Nhưng, kìa! Sau một đêm mưa quật, gió mạnh lồng lộng không ngớt, trên bức tường gạch kia chiếc lá trường xuân vẫn đứng nương vào vách. Ðấy là chiếc lá cuối cùng. Vẫn xanh thẫm nơi gần cuống lá, nhung quanh rìa đã ngả màu vàng sẫm và hư hoại; chiếc lá vững chãi bám chắc vào cành cây cách mặt đất chừng sáu mét.

- Ðấy là chiếc lá cuối cùng, - Johnsy nói. - Mình tưởng chắc nó đã rơi đêm qua rồi. Mình nghe tiếng gió. Hôm nay chắc nó sẽ rơi và lúc ấy mình cũng sẽ chết.

- Bạn yêu quý, - Sue nói, mặt hốc hác cúi xuống gối, - nếu bạn không nghĩ về bản thân thì hãy nghĩ đến mình. Mình biết làm gì bây giờ? Nhưng Johnsy không trả lời. Trên cõi đời này, cái cô độc nhất là một linh hồn đang chuẩn bị sẵn sàng để đi xa trên hành trình bí ẩn của nó. Ý nghĩ đó dường như chế ngự cô mạnh hơn khi từng tí, sợi dây ràng buộc cô với tình bạn, với thế gian này đang chùng ra. Ngày trôi qua và ngay đến khi trong ánh hoàng hôn họ vẫn còn thấy chiếc lá trường xuân cô đơn bám chặt lấy thân cây tựa trên bờ vách. Và rồi khi bóng đêm tràn đến, gió bắc lại lồng lên trong lúc mưa vẫn nặng hạt quật vào cửa sổ, rơi xuống từ mái hiên thấp kiểu Hà Lan. Lúc trời vừa hửng sáng, Johnsy tàn nhẫn yêu cầu kéo rèm lên. Chiếc lá trường xuân vẫn còn đó. Johnsy nằm nhìn nó hồi lâu. Lát sau cô gọi nhẹ Sue, đang nấu cháo gà cho cô trên cái bếp ga.

- Mình đúng là đồ tệ thật, Sudie à, - Johnsy nói. - Cái điều đã khiến chiếc lá cuối cùng kia nằm đấy đã cho mình thấy mình là kẻ nhẫn tâm như thế nào. Muốn chết là tội lỗi. Bây giờ bạn cho mình xin một tí cháo, ít sữa có pha tí rượng vang, và... khoan đã, đưa cho mình chiếc gương tay trước rồi sắp mấy cái gối quanh mình, mình sẽ ngồi dậy xem bạn nấu. Một giờ sau cô nói:

- Sudie à, hôm nào đó mình hi vọng sẽ vẽ vịnh Naples. Buổi chiều bác sỹ đến, khi ông về, Sue kiếm cớ để theo ra hành lang.

- Thoát rồi, - bác sỹ nắm bàn tay gầy guộc run run của Sue và nói. - Bằng tài chăm sóc khéo léo, cô đã chiến thắng. Bây giờ tôi phải đi thăm một ca khác ở dưới lầu. Behrman, tên ông ấy... tôi chắc đó là một nghệ sĩ. Cũng bị viêm phổi. Ông ấy đã già yếu mà bệnh tình thì lại nguy kịch. Không còn hi vọng, nhưng hôm nay ông ấy sẽ nhập viện để được chăm sóc kỹ càng hơn. Hôm sau bác sỹ bảo Sue:

- Cô ấy đã qua cơn hiểm nghèo. Cô đã thắng. Bây giờ chỉ cần bồi dưỡng và chăm sóc chu đáo, thế thôi. Chiều hôm ấy Sue đến bên giường, nơi Johsy đang nằm bình thản đan nhì nhằng chiếc khăn choàng len xanh thẫm và choàng tay ôm lấy người Johnsy với cả đống gối.

- Mình có chuyện kể đây, chuột bạch này, - cô nói. - Hôm nay, bác Behrman mất vì viêm phổi ở bệnh viện. Bác chỉ ốm có hai ngày. Sáng hôm đầu tiên, người gác cổng đã thấy bác quằn quại đau trong phòng của bác nơi tầng trệt. Giày và quần áo bác ướt sũng, lạnh băng. Họ không thể hình dung bác đã ở đâu vào cái đêm khủng khiếp như thế. Rồi khi họ tìm thấy chiếc đèn lồng, hãy còn sáng và cái thang đã bị kéo khỏi chỗ của nó, mấy chiếc bút lông vương vãi và một bảng pha mầu với xanh vàng hòa lẫn, và... nhìn ra cửa sổ kia, bạn, chỗ chiếc lá trường xuân cuối cùng ấy. Bạn không ngạc nhiên là tại sao nó chẳng hề rung rinh hay di chuyển khi gió thổi? Ồ, bạn thân thương ơi, đấy là kiệt tác của bác Behrman... bác vẽ nó ở đó vào cái đêm chiếc lá cuối cùng rơi.

O'Henry.

Thói quen làm việc tốt



Trong lúc lên cầu thang để lên phòng họp, tôi gặp một người phụ nữ mang bầu. Bạn ấy dừng chân để “thở” và nhìn những bậc cầu thang dài hun hút một cách “ngao ngán”, dưới chân để một chiếc túi xách. Tôi hỏi: “Bạn có cần không? Mình xách túi giúp.” Bạn ý gật đầu và giải thích: “Mình vừa đi khám về nên mệt quá bạn ạ!” Khi mình vào phòng họp, rất nhiều người nói mình vưa làm một ” nghĩa cử”. thật ngạc nhiên vì việc mình làm nhiều người thấy và họ quan tâm đến điều đó. Còn mình, mình thấy rất hiển nhiên việc đó không có gì đáng chu ý dù rất thất vọng với nhiều người đã nhìn thấy bạn gái mang bầu đó và bước qua.

Tôi tin rằng, trong số những người nhìn thấy phụ nữ kia chắc chắn hơn 1/2 muốn giúp, chỉ có rất ít nguời “vô cảm” bước qua không nghĩ suy gì. Nhưng họ không dám đề nghị. Vì sao? Vì họ ngại ngùng.

Không biết từ bao giờ, đa số mọi người ngại thực hiện một hành động tốt nhưng sẵn sàng thực hiện một hành vi xấu mà chẳng hề xấu hổ. Lỗi này, thói quen này là lỗi hệ thống giáo dục mà chủ yếu là giáo dục từ gia đình. Giáo dục trong gia đình là nền tảng hình thành nhân cách con người. Các hành vi con người thực hiện đều xuất phát từ việc được giáo dục tại gia ra sao? Người lớn thường kêu ca về việc con cái ngày càng khó bảo do môi trường xã hội phức tạp, do nhà trường, do văn hoá du nhập… nhưng căn nguyên của mọi vấn đề chính là xuất phát từ ý chí và mưu cầu của người lớn. Từ đâu mà các trường học ngày càng đề ra những chương trình học nặng nề, từ đâu mà con người càng ngày càng ích kỷ, càng ngày càng chỉ chăm chăm nghĩ đến những việc làm có lợi cho bản thân mình để những việc làm thiện tâm càng ngày càng trở nên phi lý và khó hiểu.

Chúng ta cứ đổ lỗi cho những cái chung chung, trừu tượng, đổ lỗi cho xã hội, môi trường… mà chẳng nhận thấy rằng tất cả những cái đó được tạo nên bởi con người. Ý thức hệ tư tưởng của lớp người trước truyền tụng và kế thừa cho lớp người sau. Nó dần trở thành đặc trưng, bản sắc, lối sống của dân tộc, quốc gia để phân biệt nhận biết giữa người của quốc gia này với người của quốc gia khác.

Nguoi Việt mình có cái rất lạ là luôn thấy mình vô can trong các vấn đề xấu, hoặc đổ lỗi, bao biện cho hành vi ứng xử của mình. Họ có thể lên án, chỉ trích vanh vách những hành động của cộng đồng: Nào là thiếu ý thức, hay chen lấn, vô ý thức nơi công cộng… nhưng chỉ trích, lên án là vậy những người chỉ trích lại luôn trừ mình ra. Tôi đã chứng kiến, một nhóm khoảng 3,4 người đàn ông ngồi bàn luận sôi nổi lên án gay gắt thói bẩn thỉu, thiếu ý thức của mọi người nơi công cộng. Nhưng xung quanh họ đầy rẫy những mẩu thuốc lá. Họ hùng hồn phê phán ngươi khác trong khi thản nhiên búng mẩu thuốc xuống sàn không chút đắn đo. Thật là lạ lùng…

Điều đáng buồn là phần lớn cộng đồng quốc tế nhìn nhận những hành vi xấu như một nét đặc trưng của người Việt Nam. Họ lấy những hành vi thiếu ý thức, vô văn hoá để phân biệt người Việt Nam với những người châu Á khác. Một nhóm người châu Á ồn ào trong nhà hàng nước ngoài, hầu hết những người trong đó đêu kết luận: Họ đến từ Việt Nam. Một người không chịu xếp hàng theo thứ tự, họ luôn nghĩ: Chỉ có người Việt Nam. Lấy đồ ăn dư thừa trong bữa tiệc, họ nói: Việt Nam là thế….

Có lần, người bạn sống lâu năm ở nước ngoài bóc chai nước lavie, anh ý nhìn quanh tìm thùng rác không thấy, liền bỏ vỏ bao vừa xé vào túi quần. Những lần sau, mình để ý anh ấy luôn mang theo một túi đựng rác nhỏ kiểu cuộn (rất tiếc lần đó, mình đã không lấy khi anh hỏi có cần nó không). Bạn chia sẻ: Tuy anh xa quê từ bé nhưng mỗi khi anh đi đến các nước thấy có những biển yêu cầu kiểu như: “Không ăn thừa, lấy thừa thức ăn phạt….” Hay “đái vào đây” hay “hãy xếp hàng” rồi “theo chỉ dẫn” anh thấy tức giận lắm! Có lần, anh tức quá, yêu cầu khách sạn nơi anh ở xé bỏ cái dòng mệnh lệnh “quỷ quái” kia trong WC. Trời ơi! Một khách sạn 5 sao mà sao bất công vậy? Phân biệt người nước này với nước khac là sao?

Anh ý phẫn nộ nói với người quản lý. Anh ta rất kinh ngạc hỏi: “Thưa ông! Ông là người Việt Nam sao?” Anh giận dữ nói: ” Ông có bao nhiêu năm kinh nghiệm mà không thể nhận ra tôi là người Việt Nam?” Người đó ôn tồn: “Tôi nghĩ rằng ông là người đã lâu không sống ở đó rồi.” Anh ý cứ thắc mắc với mình: Ông ta nói vậy là sao?

Tôi mỉm cười, không biết giải thích ra sao vì đúng là anh đã xa đất nước lâu quá rồi.

Trong cuộc sống hàng ngày, hầu hết chúng ta đều ý thức được việc tốt việc xấu. Những nhưng việc làm không tốt thường đem lại cho ta cái lợi tức thì hoặc thoả mãn nhu cầu của ta ngay lập tức. Trong khi đó, hệ thống giáo dục không chú trọng dạy con người hành vi tốt hay xấu gắn liền với danh dự, tự trọng của con người. Mỗi khi ta thực hiện một hành vi xấu xí, vi phạm những chuẩn mực đao đức cơ bản dù là nhỏ nhặt nhất như khạc nhổ nơi công cộng, chửi thề, phóng uế bừa bãi là chúng ta đang hạ cấp liêm sỉ của mình. Nhưng nó dần trở thành thói quen của nhiều người khi họ không bị một sự lên án nào và về cơ bản họ không được giáo dục từ ý thức.

Những hành động vô ý thức thường không bị đánh giá về mặt danh dự, tự trọng con người mà chúng được nhìn với con mắt “vờ như không thấy”. Chính vì vậy, cái xấu cứ đều đặn diễn ra hình thành thói quen bình thản khi làm việc xấu, bình thản thực hiên những hành vi thiếu văn hoá. Dần dà, con người ta ngại làm những việc tốt không hẳn họ sợ phải bỏ công sức mà họ xấu hổ khi việc thực hiện một hành động tốt trở nên khác biệt với số đông.

Điều nguy hại to lớn đối với xã hội, với dân tộc đó là nhưng hành vi xấu đã được chấp nhận một cách hiển nhiên đến nỗi ngươi ta không còn cảm thấy nó là xấu xa cần loại bỏ. Điều này, đang khiến chúng ta những người Việt Nam trở nên xấu xí trong mắt cộng đồng quốc tế. Sẽ có nhiều người thấy nóng mắt khi đọc bài viết này, sẽ có nhiều người nói ở đâu cũng có người này ngươi kia và không phải tất cả chúng ta đều như vậy. Vâng, đúng là như thế nhưng như tôi đã nói nhưng cái phổ biến, những cái chiếm đa số tạo nên sự đặc trung và cái nhìn tổng quát.

Bạn thân mến, tôi cũng như các bạn chẳng phải là người tri thức uyên thâm hay đạo đức nhân cách gì ghê gớm. Toi chỉ là một người bình thường với nhận thức cơ bản và đôi khi tôi cũng “buông” mình làm những việc “vô ý thức” ” thiếu văn hoá” viết lên những dòng này và chia sẻ với các bạn là cách để tôi tự kiểm điểm lại mình và mong muốn cùng mọi người thay đổi những thói quen ngại thực hiện những hành vi xấu, thay đổi thái độ thờ ơ khi gặp những hành vi xấu mà ta gặp trong cuộc sống.

Không cần phải làm việc gì to lớn chỉ cần bạn thay đổi chính mình và nhắc nhở người thân, bạn bè không thực hiện những hành vi trên thì văn hoá công cộng của chúng ta sẽ được cải thiện rất nhiều. Mỗi người một chút thôi, mỗi người suy nghĩ dành vài phút để suy nghĩ về điều này, dành vài giây để cân nhắc trước khi thực hiện một hành vi thiếu ý thức thì chúng ta sẽ có một cộng đồng văn hoá, một đặc trưng văn hoá, một dân tộc văn minh. Bạn thân mến, hãy để tâm tới những gì tôi chia sẻ bạn nhé!



May1980

Dân phản ứng công an



Tác giả: Theo Minh Hòa (Người Đô thị)

Công an, cảnh sát, an ninh là lực lượng bảo vệ, giữ gìn trật tự xã hội trên tinh thần “do dân, vì dân”: họ hưởng lương từ thuế của dân, được nhà nước trao quyền lực, phương tiện để giữ gìn kỷ cương phép nước. Trong quá trình tác nghiệp, lực lượng này và người dân đôi khi có khúc mắc là khó tránh khỏi, nhưng một tình trạng bất thường đang diễn ra ngày một nhiều và nghiêm trọng hơn, đó là quan hệ giữa công an và nhân dân không còn thuận thảo, nhiều trường hợp trở thành đối đầu quyết liệt.




Ảnh: GDVN


Niềm tin không còn, dân tự xử 

Nguyên nhân đầu tiên và có lẽ là quan trọng nhất: niềm tin của người dân vào cơ quan và nhân viên công lực đã sút giảm nghiêm trọng.
Hãy bắt đầu từ một vụ gần đây nhất: câu chuyện bắt đầu từ việc người dân xã Bắc Sơn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh phản đối việc xây nghĩa trang rộng 28ha làm mất đất sản xuất của dân và ảnh hưởng đến môi trường khi mở rộng quy mô lớn hơn.

Khi 6 công an đến bắt anh Trương Văn Trường, một người bị nghi là cầm đầu gây rối chống lại việc triển khai dự án làm mất trật tự công cộng thì hàng trăm người dân phản ứng, bắt giam 4 công an và sau đó còn làm bị thương một số công an đến giải vây.
Bên trong câu chuyện chắc còn những uẩn khúc khác, nhưng rõ ràng là làng xóm bà con của anh Trường làm vậy vì không tin chắc anh có trở lại và trở lại lành lặn như trước khi bị bắt không!


Bởi trong thời gian gần đây, không ít trường hợp bị bắt vào đồn công an đến khi trở về nếu còn sống thì thân tàn ma dại, dở điên dở khùng, khiến người dân (mà ở quê thì toàn là anh em trong nhà, bà con dòng họ, lối xóm cả) không còn niềm tin vào những người đại diện cho công lý!

Một chuyện khác nữa mà xã hội bất bình lên án là chuyện bắt được trộm chó thì thay vì giao cho công an người dân lại đánh đến chết, khi công an đến dẫn giải người dân hành hung luôn công an, có trường hợp cả làng cùng nhau đứng đơn nhận đánh chết người trộm chó!

Chuyện chưa có tiền lệ này chứng tỏ người dân không tin vào những người thực thi công vụ nên thay cho luật quốc gia, quy trình xét xử theo phép nước là cách hành xử của thời mông muội, nhưng lại làm người dân hả hê.
Họ có lý của họ, rằng quan xử không nghiêm thì để dân xử theo kiểu của dân cho xã hội bớt đi những kẻ xấu, cho dù họ thừa biết hành động của mình là phạm luật.


Chừng nào các vị công bộc chưa thực sự hiểu rằng chỗ ngồi của họ là do dân bầu lên, họ sống bằng thuế của dân, thì dân chúng vẫn bị coi là đối tượng cần phải giáo dục, dạy dỗ, trừng phạt, chứ không phải là đối tượng phục vụ trong sự tôn trọng.

Luật rừng thay phép nước: đại loạn

Kinh nghiệm cho thấy bất cứ mâu thuẫn nào ở bất cứ cấp độ nào từ cá nhân đến quốc gia đều có thể hòa giải được nếu các bên cùng tôn trọng nguyên tắc: công khai, minh bạch, công bằng, nhân nhượng và tôn trọng lẫn nhau.
Mọi chuyện về quy hoạch, đất đai, tranh chấp, đền bù giải tỏa, bắt bớ phải được công khai, minh bạch với dân, mọi khuất tất đều dẫn đến nghi ngờ sẽ làm cho “một lần bất tín, vạn lần bất tin” và rồi “cái sảy nảy cái ung”.
Mọi giải pháp thiên vị, nghiêng vê các nhà đầu tư, đi đêm với các “đại gia” để ép dân chỉ làm cho tình trạng mất lòng tin càng thêm trầm trọng. Trong trường hợp ở xã Bắc Sơn, ông bí thư Đảng ủy xã phát biểu:
“Hiện nay quần chúng nhân dân đã mất lòng tin rất lớn đối với cấp ủy, chính quyền vì tính chất của dự án không hợp với lòng dân” và đã báo cáo lên lãnh đạo huyện, tỉnh. Nhưng cấp trên không những không nghe mà còn đưa lực lượng xuống cưỡng chế, vậy là thảm họa xảy ra mặc dù được báo trước.
Ở các nước phát triển, chính quyền bao giờ cũng ưu tiên cho giải pháp đối thoại, tiếng nói của người dân được tôn trọng, người dân được quyền bày tỏ chủ kiến thông qua diễn đàn nhân dân trong hội họp, ngoài công viên, qua trưng cầu dân ý, thăm dò dư luận xã hội và biểu tình.

Bắt bớ, đàn áp chỉ là giải pháp cuối cùng, mà việc này hầu hết phải được sự phê chuẩn của các cơ quan có thẩm quyền với sự chứng kiến của luật sư, chứ không phải muốn bắt ai thì bắt.
Trong trường hợp chính quyền ra quyết định sai thì phải thực sự cầu thị, xin lỗi dân và thu hồi quyết định (lâu nay tồn tại một tư duy thẳng băng là các quyết định của chính quyền bao giờ cũng đúng và người dân chỉ có “quyền” chấp hành).

Chừng nào các vị công bộc chưa thực sự hiểu rằng chỗ ngồi của họ là do dân bầu lên, họ sống bằng thuế của dân, thì dân chúng vẫn bị coi là đối tượng cần phải giáo dục, dạy dỗ, trừng phạt, chứ không phải là đối tượng phục vụ trong sự tôn trọng.

Chỉ khi nào điều này thay đổi thì khi đó mới giảm và chấm dứt hẳn tình trạng công an và dân đứng về hai phía đối kháng nhau. Công an khi ấy trở về đúng với lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh cho ngành công an: “Vì Nước quên thân, vì Dân phục vụ”.

—————


http://motthegioi.vn/Columnist/nghi-tu-chuyen-dan-phan-ung-cong-an-65374.html

Thứ Tư, 23 tháng 4, 2014

..:TÔI VẪN ĐỢI CHỜ:..



Tác giả: Xuân đức









Tôi vẫn đợi chờ
Một điều gì đó...
Từ xoay vần vũ trụ?
Từ thế sự nhân gian?
Từ đức tin?
Hay cõi tục trần?

Tôi không biết, nhưng tôi vẫn đợi
Con tim vẫn nhói thắt từng canh
Giấc ngủ vẫn chập chờn
Ai cho tôi giấc mơ hoải cố?

Với tôi, tất cả đã trở nên lặng lẽ
Chuyến tàu muộn đi qua trút lại hồi còi
Lòng tôi- một cõi ga khuya.

Mà sao tôi vẫn đợi
Bất ngờ có thể tiếng còi tàu
Có thể bất ngờ ai đó cất tiếng chào
Chào ai cũng được
Không nhất thiết là tôi.
Miễn sao ga xép này vẫn còn có ai..

:NHẬT KÍ NGƯỜI GỠ MÌN




Tác giả: Xuân Đức








Một tiếng nổ?
Mặt đất rùng mình. Tai Phú sôi ù ì dẫu rằng tiếng nổ không to lắm vì khoảng cách từ đây tới đó khá xa. Anh ấy đã làm sai quy cách? Anh ấy liều? Anh ấy đã không giữ đúng lời hứa? Anh ấy đã?...
Câu hỏi xoắn xuýt rối mù như khói. Phú chạy sấp ngửa, chạy xiêu vẹo, miệng đắng khô trong cảm giác đổ vỡ tất cả. Đó là một điều lạ lùng chưa hề thấy ở người nữ Xã đội trưởng đã tròn tuổi ba mươi này. Lạ lùng tới mức chính Phú cũng không tự hiểu nổi mình nữa!
Phú vẫn chạy, lập bập như một người dẫm chân tại chỗ. Vẫn chưa thấy khói, chưa thấy mặt đê vỡ toác ra, nước lũ xối òa ra lênh láng mặt ruộng... Chưa thấy chi trơn! Có lẽ điều Phú cảm được sớm nhất là những cảm xúc kỳ quặc trong người. Anh ấy... chưa bao giờ chị gọi Đản bằng những tiếng ấy. Thường thì "đồng chí Đản", vui hơn thì gọi "ông", lúc có nhiều người, nhất là đám bạn gái thì Phú lại gọi "chú"... Phú rất thích dùng tiếng "chú" để gọi những anh con trai ít tuổi hơn mình, thậm chí cả với người ngang tuổi. Chẳng ai mất lòng cả. Dù Phú chưa có con những đã có một đời chồng. Hơn nữa, cái chết của chồng chị - người Xã đội trưởng đầu tiên của ấp Ba Thung này - mãi mãi vẫn là điều thiêng liêng của toàn xã. Chị xin với huyện, xin như một sự van nài được thay thế chức vụ chồng. Chẳng ai cười chị dở hơi, chỉ thấy thương đến ứa nước mắt. Bởi vì đó là một việc hết sức trọng đại. Chị bỗng thấy mình già hơn cái tuổi vốn có. Đối với nhiệm vụ thì sự già dặn ấy là một điều hết sức cần thiết.

Sự già dặn nghiêm trang ấy đang bị một tiếng nổ phá vỡ.

Sao mình lại kỳ cục vậy? Có phải vì mình đã lỡ xem những dòng nhật ký của anh ấy? Không phải! Không phải! Đừng có mà nghĩ lung tung...

Đúng là "ông ta" đang làm sai quy cách? - Phú có phần bình tĩnh hơn. - Nhưng sao Đản lại có thể sai quy cách được? Người Trung đội trưởng công binh giàu kinh nghiệm, một tay đã phá hàng trăm quả bom, mìn, giải phóng hàng chục héc ta đất... Nhưng với quả bom này, cách chân đê chưa tới 5 mét thì việc phá nổ nó tai hại biết chừng nào? Đản đã hứa là không cho nó nổ. Chắc lại thiếu kiên trì? Chao ôi sự kiên trì quý giá và khắc nghiệt biết bao, nhất là sự kiện trì im lặng!

"Phải! Tôi không phải là người say tiếng nổ. Nhưng tôi không sợ nó. Thực ra sự im lặng mới đáng sợ hơn! Tôi nhận ra điều ấy gần như đồng thời với sự nhận ra điều nguy hiểm đang phập phồng bên tôi. Điều nguy hiểm - xin đừng hiểu là trong những quả bom chưa nổ. Nó chính là trái tim tôi..."

Tôi không hiểu gì cả. Những dòng chữ này cũng đầy bí hiểm như một bãi mìn. Nhưng anh đừng tưởng tôi không hiểu tý gì cả đâu. Tôi hiểu, có điều không phải từ những trang nhật ký ấy, mà chính từ ánh mắt chớp vội nhìn tôi trước mỗi lần lao các hút bom. Ánh mắt né tránh dưới lớp mi dày. Thường thường thì tôi không kịp tới gặp nó. Mi anh đã nép xuống lặng im. Rồi cả người anh tụt sâu vô hút bom, trút lại cho tôi sự lặng im đến khủng khiếp. Cứ thế, gần bảy năm rồi!... 

Một người đâm sầm lại phía Phú chắn ngang đường, hai tay quờ ra tóm lấy vai chị. Giọng miền Bắc run, nhòe nước mắt.

- Chị ác lắm! Chị ác lắm! Chị ơi!...

Mặt Phú đanh lại, miệng há tròn:

- Kim Hà?? Chuyện gì vậy em? Nói mau đi!...

- Anh ấy... Chị không biết gì cả. Chị... vô tâm... Chị ác lắm...

- Đồng chí không được phép nói như rứa! Anh Đản làm sao rồi? Hứ?

Kim Hà ngừng lay vai Phú, ngẩn ra, mắt lóng lánh nước. Rồi bất ngờ cô áp cả người sang ngực Phú giọng bối rối theo nhịp đập loạn xạ từ tim chị truyền sang.

- Anh ấy kéo... kéo bom ra khỏi hút... Kéo... kéo ra xa... lẽ ra lăn xuống cái hố bên cạnh, thì anh vẫn kéo... Bên kia đê nước nó vẫn cứ rập... rập rình... thành thử anh vẫn kéo... Nhưng mà trời ơi!...

Phú gạt mạnh tay như quặt một mái chèo giữa con nước xoáy. Người Kim Hà xiêu qua một bên. Phú lao vù đi. Có cảm giác như tiếng nổ ấy đang nổ hoặc chưa kịp nổ, chuẩn bị nổ... Lạy trời còn kịp bịt nó lại. Mau lên!...

Kim Hà đứng sững người không còn đủ minh mẫn để gọi giật người Xã đội trưởng lại. Còn gì chỗ ấy nữa mà chạy đến hả chị? Người ta đã khiêng anh ấy lên bệnh viện Đông Hà rồi. Lẽ ra em phải nói ngay điều ấy cho chị yên tâm. Tại sao em lại quýnh lên như thế? Em lại nỡ mắng chị nữa. Em tệ quá, thô bạo quá!

Kim Hà không còn đủ sức để nói và cũng không còn sức để chạy theo Phú. Phía trước khói đã loãng dần. Người trong thôn đổ ra mỗi lúc một đông. Những dáng người chờn vờn, những bước chân thậm thịch đâu đó. Kim Hà bước chênh vênh trên con đừng lổn nhổn bước chân trâu. Con đường sẫm đen giữa một vùng nước bạc. Thỉnh thoảng loi thoi ngọn cỏ năn nhô lên ngơ ngác.

"Quê anh nghèo lắm bạn ạ! Tất nhiên cái nghèo ấy không phải lỗi tại đất đai. Hình như anh đã nói với bạn rồi. Dạo chúng mình mới biết nhau ở làng Vân Côn ấy. Anh sinh ra và lớn lên chưa thấy mảnh đất quê mình có lấy được một ngày hít thở gió lành khí trong. Bom đạn liên miên. Xóm làng tan nát. Người dân quanh năm bới đất, đào hầm... Anh đã kể với bạn rất nhiều điều tương tự như thế. Bạn còn nhớ không?"

Dĩ nhiên là em nhớ. Nhưng nhớ nhất chưa hẳn đã phải là những điều anh kể, mà lại là cái dáng ngồi của anh bên bờ sông Đáy. Anh rất hay ngồi một mình. Thoạt đầu em cứ ngỡ anh đang nhớ nhà, nhớ bạn... Bởi vì đó là thời gian anh mới xa quân ngũ về trường... Trường lại sơ tán lên mãi tận Vân Côn. 


Phú đã quay trở lại từ lúc nào, đứng lạnh như chết trước mặt Kim Hà, miệng mím chặt. Có cái gì ghê gớm lắm đang dâng lên hừng hực trong người chị. Có lẽ là nước mắt? Nhưng Phú không khóc. Chị bất ngờ chụp mạnh đôi tay lên mái tóc phi zê của Kim Hà vít mạnh xuống. Rồi đôi vai tròn rung lên. Tiếng Phú thì thào như tiếng gió:
- Hà ơi! Chị có lỗi... Chị có lỗi với anh ấy...với em. Em mắng chị là đúng... Em cứ mắng chị nữa đi!...
Sao lại thế hả chị? Chị không hề có lỗi với anh ấy. Bởi việc đi phá quả bom này là ý kiến tự nguyện của anh. Mà công bằng ra, chỉ có anh Đản mới đủ trình độ tháo quả bom ấy. Còn đối với em, chị lại càng không thể có lỗi... Sao chị lại nghĩ là thế! Anh Đản với em chỉ là bạn. Bao nhiêu lần em gọi to lên tiếng "bạn" ấy. Vì sao em phải gọi to lên, chị biết không? Bởi vì em sợ một tiếng khác sẽ âm thầm len lỏi lặn vào người em lúc nào đó không hay. Bởi vì em quý chị như một người chị ruột. Từ ngày em vào thực tập ở đất này, được gặp chị, hiểu chị, được chị giúp cho bao nhiêu bài học vô giá. Bài học lớn nhất chính là tình yêu của chị. Thực ra em biết chị trước cả khi vào đây. Anh Đản đã kể với em về một người phụ nữ - một người vợ của bạn anh ấy. Chính những điều anh ấy kể về quê hương, kể về chị, cả cái việc anh ấy nhất quyết xin thôi học để trở về xây dựng lại thôn xóm đã khiến em dám chọn cái nơi xa quê mình hơn nửa ngàn cây số để thực tập những bài học lớn lao cho cuộc đời mình. May mắn làm sao, em lại được gần chị.

Kim Hà chợt ngẩng dậy, Phú cũng ngẩng lên. Hình như cả hai đã bắt gặp ý nghĩ của nhau. Kim Hà chợt lúng túng.

- Chị... Chị có định lên viện không?

- Nhất định phải lên rồi! Còn Hà?

- Em cũng nhất định ...

Hà bỗng ngậm vội lại. Sao mình lại cứ lặp lại nguyên xi như vậy? Mình là bạn, còn chị ấy?...

- Thôi, về đi em! Chị cần hội ý với Đảng ủy, Ủy ban, huy động bà con ra đắp lại khúc đê ấy.

- Khúc đê vẫn an toàn mà. Quả bom đã được kéo ra mười lăm mét...

- Chị biết rồi. Lúc nãy chị đã xem rất kỹ. Sức chấn động của tiếng nổ lớn lắm, ruột đê có khả năng bị rạn. Phải phòng xa em ạ.

Rõ ràng chị có lý. Bởi ngay cả lúc rối rắm nhất chị cũng dành được những phút trầm tĩnh để nhìn con đê, để suy nghĩ, dự phòng tới cái điều xấu nhất do chấn động của tiếng nổ. Trách gì chị có gan im lặng suốt bao nhiêu năm trước anh ấy!... Nhưng chị có dự phòng tới sự bùng xé hôm nay không? Tội anh ấy quá chị ơi! Cho đến phút này rồi anh ấy vẫn không được một lời đáp lại. Cuốn nhất ký mà em chuyển qua tay chị đó, nó đã thành tiếng vọng sâu xa gấp trăm ngàn lần tiếng bom...
"K.H ơi! Bạn hỏi tôi điều ấy thật khó trả lời. Có thể người ta biết, mà cũng có thể không. Tôi không bao giờ ngộ nhận. Tôi có thể làm tất cả, hy sinh tất cả vì tình yêu ấy; bởi một điều rất dễ hiểu là chị ấy với mảnh đất này đã là một trong tâm tưởng của tôi...
Tôi chưa nói với người ta tất cả những suy nghĩ của mình vì một lý do nữa. Chưa có thời gian! Những bãi mìn, bãi bom do kẻ thù để lại đang phơi đầy trước mặt. Tôi không muốn, dù chỉ một giây, chị ấy lại phải rối trí vì những việc không đâu. Nhưng tôi lại muốn nói riêng với bạn. Tôi cần nói vì không muốn mang sự rối rắm ấy trong mình để bước vào cái nơi cần sự thanh thản nhất. Thôi, tôi đi đây. Quả bom thứ ba mươi đang chờ. Có thể là một sự hiểm nghèo nhất đang chờ. Nhưng dù sao cũng mong rằng đêm nay bạn được ngủ ngon..."


Quả bom thứ ba mươi, Đản lại an toàn.

Quả bom thứ bốn ba, Đản bị thương nhẹ ở tay.

Quả thứ sáu mươi chín, anh bị choáng và ngất...

Quả một trăm lẻ bảy đã kích thích một quả khác bị vùi gần đó cùng nổ nên Đản bị một mảnh to cắm vào đùi. Đi viện gần một tháng...

Quá thứ một trăm ba tư...

Trăm sáu chín...

Trăm bảy hai...

Quả bom nằm cạnh chân đê này là quả một trăm chín sáu. Chỉ còn bốn quả nữa là "kỷ niệm" hai trăm lần gỡ bom. Anh đã cố im lặng vượt qua!

Phải. Vấn đề đặt ra là im lặng. Quả bom này gắn với sinh mệnh của sáu trăm nóc nhà, gần hai nghìn người dân trong xã. Năm nay không ngờ nước lũ lên cao và ngâm lâu đến thế.

Hơn bảy năm làm Xã đội trưởng thay chồng, thời chiến cũng như thời bình, Phú luôn luôn sống trong tâm trạng thấp thỏm, nín thở như vậy. Ngày còn Mỹ, Ngụy ở cái nơi giáp ranh này, người Đảng viên, nhất là Đảng viên ở trong cương vị chủ trì thì lúc nào cũng như thường trực đầu kíp nổ. Lỡ tay một tý là tan tành. Những năm hòa bình đầu tiên, trên vùng đất cỗi cằn chai sạn này, bát cơm chẳng khác chi bát nước, bưng lên tận miệng rồi cũng rất dễ bị một cơn gió trái hắt đi. Không phải không có lúc chị cảm thấy mỏi mệt. May thay có "người ấy". Đản vừa sục sôi lại vừa âm thầm như một đường dây cháy chậm. Lửa không lúc nào bốc cao ngùn ngụt, nhưng lại cháy hết sức bề bỉ kiên gan. Nhìn ngọn lửa ấy vừa thấy yên tâm, vừa rất bối rối. Bởi rằng dù có chậm đến mấy thì cũng sẽ tới cái phút giây lửa tiến gần vào kíp nổ. Nhưng mà trời ạ, với quả bom nằm cạnh chân đê này, vấn đề đặt ra là không được phá nổ. Đản đã đào được nó lên, kéo nó ra xa. Lẽ ra hất xuống một hố bom gần đó. Nhưng có lẽ do nhận thấy khoảng cách ấy vẫn chưa đảm bảo an toàn cho đê, nên Đản vẫn kéo, kéo ra nữa...

"Có thể chị ngạc nhiên vì sao tôi say mê những bãi mìn? Không, tôi không thuộc loại người ưa mạo hiểm! Chắc chị còn nhớ chuyện xảy ra hồi tháng bảy năm ngoái chứ? Một quả mìn đã nổ giữa đám đông đang khai hoang làm năm người dân trong thôn bị chết. Chị khóc, còn tôi lúc đó thì thắt ruột lại. Thương năm bà con đã ngã xuống là một lẽ. Còn lẽ nữa, chắc chị không hiểu nổi đâu, tôi thương chị. Lúc đó nhiều người dân xấn xổ vào chị mà xỉa xói... kêu rên... Làm cách nào để giải thích cho bà con kiên quyết khai hoang phục hóa mảnh đất này? Tôi thoáng thấy một phút giây lúng túng của chị (có lẽ chỉ có tôi nhận ra thôi) trước sự phản ứng quyết liệt của những người tiêu cực. Nhiều người chưởi đổng, thể không bao giờ thèm đặt nhát cuốc xuống những thửa ruộng chết người ấy nữa! Có lẽ gần chục năm bám trụ chưa lúc nào chị khổ tâm như lúc ấy! Cũng như những người dân này, trong những lúc hoạn nạn nhất trước đấy đã đùm bọc che chở cho chị. Sao bây giờ họ nỡ phụ chị? Mà phụ chị tức là phụ bạc với đất này rồi!

Tôi thương chị nhưng không thể nói ra điều ấy. Vì vậy mà tôi đã ra đi. Quả bom tôi gỡ hôm ấy là quá thứ một trăm bảy lăm. Có lẽ chị không thể nào nhớ nổi...!"

Không. Phú rất nhớ! Bởi có lần ra đi nào của anh mà chị không đằng đẵng dõi theo, không thắt thẻo ngóng chờ! Có tiếng nổ nào từ tay anh mà không dội vào buốt tận tim chị.

Tiếng nổ! Chị gặp nó quá nhiều rồi mà lúc nào cũng y như mới. Cái đêm anh Mông chồng chị vượt rào vào ấp và vấp phải trái mìn định hướng cách đây đã bảy năm... Vậy mà tiếng nổ ấy cứ ngỡ như đang sắp sửa nổ lại trong từng giây, từng phút hôm nay? Chồng chị đã ngã xuống! Chị đã cắn răng nhận ngập tiếng nổ đau đớn ấy vào trong lòng. Ai ngờ bảy năm nay nó vẫn cứ luôn luôn chực bùng xé ra!
Có phải bàn tay anh đã chạm vào đầu kíp? Nhưng lẽ nào lại trách anh! 


Gần mười hai giờ đêm thì những bó đuốc trên đê mới tản ra trôi dọc theo bờ ruộng, chảy như những nhánh suối lửa vào các ngã của xóm Ba Thung.
Phú quay lại nhìn con đê lần cuối. Nước trắng đục như sữa ăm ắp ém vào chân cỏ. Con đê trầm tĩnh nằm. Không gian vắng lặng, yên hàn ngỡ như chưa hề có một xáo động nào cuộn lên.
Chính lúc ấy ruột gan người Xã đội trưởng cồn cào nhất.
Chị thắt lại múi khăn trùm đầu, kéo cao hai ống quần lội tọt qua bờ ruộng loang loáng nước, vượt lên mặt lộ 74. Từ đây xuống tới bệnh viện Đông Hà rất xa. Nhưng điều đó không đáng ngại. Nỗi lo lớn nhất của chị là phút gặp mặt. Cái gì sẽ xảy ra? Một nỗi đau ghê gớm hay một nỗi mừng quá mức? Cả hai đều rất dễ dàng bùng ra một tiếng nổ. Hoặc là tiếng khóc, hoặc là một tiếng gọi khó mà kìm nén nổi: Anh yêu!

"Tôi biết chị đang giận dỗi. Nhưng vì sao chị lại giận nhỉ. Tôi có làm điều gì xúc phạm đến chị đâu. Lần ra đi này của tôi cũng như hàng trăm lần khác trước đó, tôi đều mong mỏi được để lại sau lưng mình những gì yên tĩnh nhất. Những gì yên tĩnh nhất đều ở sâu trong đáy mắt của chị. Tôi đã tự cho phép mình một phút được đắm mình vào đấy... Có phải vì thế mà chị giận tôi không? Nếu thế thì trách nhiệm hoàn toàn thuộc về tôi. Chị có thể yên tâm như thế..."

Có cơn gió lạnh bất ngờ ùa đến. Những lùm cây như những hình người đứng thu lu trên đường bất giác rùng mình. Có tiếng loạc xoạc của lá rơi như thể cây cỏ cũng trở mình sau một giấc dài thiếp lạnh. Phú dừng lại, ngửa mặt lên trời, thở. Trăng cuối tháng lu mờ một vệt mỏng trước mặt, vừa đơn chiếc vừa muộn màng. Phú đi chậm lại, chị đã tròn tuổi ba mươi!

Có thể có vài người nhầm tuổi chị. Bởi Phú có dáng người mập, mặt tròn, bắp tay, bắp chân đều rất thon và chắc. Nói chung chị tự hiểu được rằng mình có chút sắc đẹp. Nhưng chị đã tròn tuổi ba mươi. Chưa bao giờ chị tự nhầm lẫn với chính mình.

"Có thể sẽ chẳng bao giờ chị yêu tôi! Và cũng chẳng bao giờ chị hiểu ra điều này: suốt đời tôi yêu chị! Như thế có gì là tội lỗi? Không. Chị có quyền giận tôi nhưng chị không thể oán trách tình yêu của tôi được. Chính tình yêu ấy đã cho tôi một sức mạnh bền bỉ suốt bao năm trường.

Chị không hiểu cũng đúng thôi. Và chị không bao giờ yêu tôi cả, cũng hoàn toàn đúng..."

Một làn hơi nóng ứa tràn lên mi mắt Phú. Gần như là một nỗi uất ức, hờn tủi! Chính anh mới không hiểu gì cả. Không bao giờ tình yêu lại có thể tồn tại từ một phía. Tôi yêu anh! Đó mới thực sự là điều anh chưa bao giờ biết đến. Anh cực đoan vô cùng!...

Anh có biết rằng, lẽ ra chẳng bao giờ tôi để cho anh xa tôi mà đi tới những những cái hút bom ấy cả. Chẳng bao giờ! Nhưng tôi lại cần anh đi. Chỉ có anh, đôi tay anh, đôi vai anh mới gánh vác nổi công việc nặng nề đến dường ấy. Chỉ có anh đi tôi mới yên tâm. Nhưng anh đi, anh đi, tôi lại thấp thỏm biết chừng nào!...

Cho đến quả bom thứ một trăm chín mươi sáu này thì tôi không thể ghìm lòng mình được nữa. Tôi đã dứt khoát không để anh đi. Lẽ ra anh phải hiểu vì sao như thế. Nhưng anh đã không chịu hiểu. Chính anh giận tôi trước.. Tại sao lại giận tôi kia chứ!

Tôi có nói:

- Đồng chí nên hiểu quả bom này có một vị trí cực kỳ nguy hiểm. Nhất thiết không được phá nổ. Nhất thiết phải im lặng!... (Lẽ ra anh nên hiểu, tôi không dám cho anh đi lần này nữa, bởi tôi sợ giữa chúng ta sẽ không thể giữ được sự im lặng).

Anh lại nói

- Tôi sẽ bắt nó phải im lặng.

- Tôi khó tin...

- Sao? Chị không còn tin tôi nữa ư?

Lạy trời, sao anh lại nói ác như vậy? Tôi uất quá, uất vì anh đã không hiểu được lòng tôi. Tôi nói:

- Tôi sẽ tự đi lần này...

Anh trợn mắt lên. Trời ơi, sao mà tôi sợ đôi mắt ấy đến thế!

- Tôi là công binh. Tôi không cho phép ai vi phạm công việc của mình...

- Nhưng ở đây tôi là người có quyền quyết định cao nhất? Rõ chưa?

Tôi có hét lên như vậy thật. Tôi có tội với anh. Nhưng sao anh lại nỡ giận tôi. Chỉ vì tôi lo cho anh, tôi không thể thiếu anh. Tôi yêu anh! Có thế thôi mà... 


Đản bị mổ sáu vết thương và nằm bất tỉnh. Phú thức với anh từ hơn nửa đêm đến quá giờ cơm sáng. Đản vẫn nằm lặng yên trong vòng băng trắng xóa. Ở đây tất cả đều trắng và yên lặng. Mấy cô hộ lý trong y phục bờ - lu lặng lẽ bê những chiếc khay lấp loáng bước vào, bước ra như những chiếc bóng. Phú không thể nhận rõ mặt họ vì những chiếc khẩu trang đã che phần lớn khuôn mặt. Chỉ còn có những đôi mắt là sinh động nhất. Và chỉ còn một mùi thuốc phả ra ngây ngây, lành lạnh là có thể gợi nghĩ nhiều nhất. Phú ngỡ như mình đã hòa tan vào cái yên lặng trắng xóa ấy. Chị ngồi im không hỏi, không nói. Bác sĩ vào, khẽ cúi xuống, rồi bác sĩ lại ra. Ai đó lại vào, lại ra. Tất cả đang dâng lên, đang rập rình hệt như màu nước bạc chập chờn ngoài chân đê...

Kim Hà đến muộn hơn nhưng lại có thì giờ ngồi lâu hơn. Phú về. Nửa chiều hôm đó lại đến. Ngày sau cũng vậy. Biết bao nhiêu công việc bộn bề đang đợi chị ở xã.

Sáng ngày thứ ba, khi Phú vừa rời bệnh viện được một lúc thì Đản tỉnh dậy. Anh mở mắt nhanh và nụ cười cũng nở nhanh trên môi y như vừa thức dậy sau một giấc ngủ no nê!

- Kim Hà phải không? Tài thật!

Kim Hà thoáng bối rối:

- Tài gì cơ, anh?

- Nghĩa tôi có biết Hà ngồi bên cạnh...

- Anh biết?

- Đúng thế. Trong lúc ngủ tôi cũng nghĩ rằng Kim Hà đang ngồi bên cạnh. Đúng thế không?

Kim Hà nín lặng. Anh ấy nói gần đúng. Nhưng tại sao anh ấy lại nghĩ như vậy? Tại sao anh không nghĩ rằng người luôn bên cạnh anh là chị ấy?

"K.H. ơi! Bạn nghĩ về anh như vậy có thể có lý đấy! Anh gàn? Anh phong kiến? Anh lập dị? và vân vân nữa... Anh xin nhật tất. Nhưng không hiểu sao anh vẫn không thể nói chuyện với chị ấy được. Mặc dầu chẳng có gì sánh nổi tình yêu trong anh, chẳng có một nguy hiểm nào ngăn cản nổi tấm lòng anh yêu thương chị ấy... Nhưng, thú thật với bạn, chị ấy đối với anh vừa rất gần, vừa rất xa. Đến nỗi chưa bao giờ anh hình dung trọn vẹn khuôn mặt chị ấy. Còn đối với bạn lúc nào anh cũng thấy bạn ở rất gần..."

- Hà nghĩ gì thế?

- Không...

- Có. Nhìn mặt thì biết...

- Em thì em... nghĩ rằng... anh phải thật yên tâm mà điều trị. Nhất định anh sẽ chóng khỏi. Thật thế! Anh sẽ trở về... trở về với... các đồng chí trong xã. Và nói chung anh đừng bắt nọn em như thế...

Đản cười rất khẽ. Ít ra những lời loanh quanh của Kim Hà đã làm cho anh vui.

Nắng mai hắt vào nửa thềm nhà. Mảnh tường quét vôi bỗng ngời lên lấp lóa. Khuôn mặt của Đản cũng có nét gì gần giống với sắc nắng trên tường. Chỉ có đôi môi xám chợt cười, chợt tắt hệt như có vệt bóng râm rất bé từ chiếc lá bạch đàn ngoài cửa sổ quệt vào,lay lay...

- Con đê có an toàn không em?...

- Có...

- Nước đã rút chưa?

- Đã...

- Tốt lắm!

- Vâng...

- Thế... cho anh xin lại... cái ấy...

- Cái gì cơ?

- Cuốn sổ.

Kim Hà ngẩng hẳn dậy, khóe mắt cô nhòe nước tự lúc nào:

- Em... em đưa cho chị ấy rồi...

Một thoáng lo âu lướt nhanh qua hố mắt sâu của Đản. Giọng anh bé hẳn lại:

- Sao lại thế, em?

Kim Hà quay ngoắt người lại, mái tóc phi - zê như bồng cao thêm lên:

- Còn sao nữa. Anh tệ lắm! Anh có biết chị Phú đã khổ vì anh đến mức nào không?

Đản có vẻ như ngạc nhiên. Nhưng liền ngay đó là một tiếng thở ra rất khẽ.

- Biết đâu được...

- Còn biết đâu gì nữa... Anh hấp lắm, thật đấy. Mà phong kiến nữa cơ, thật đấy!...

Đản cười, lần này tiếng cười có vẻ to hơn một chút

- Thì anh đã nhận hết rồi đó thôi...

- Nhưng em vẫn phải nói lại, vì anh ngoan cố lắm. Hoặc là vì anh không yêu chị ấy... Thật đấy! Anh không dám yêu một người con gái lớn hơn mình một vài tuổi, hoặc không dám yêu một người đã có một đời chồng... vân vân nữa! Nghĩa là em cho rằng anh đã vượt qua hàng trăm bãi mìn, bãi bom một cách vẻ vang, thế mà không dám, hoặc không vượt qua nổi một cái... nghĩa là một cái gì đấy thật vô hình nhưng cũng thật là ghê gớm...

- Nhưng mà... người ta có yêu tôi đâu...

- Thôi đi! Có ai mà không yêu anh - Kim Hà chợt đỏ ửng vành tai - Chỉ có... chỉ có anh ngốc thôi. Anh không biết tý gì về tình yêu cả. Cái gì anh cũng biết, nhưng riêng về tình yêu thì chưa, chưa biết gì hết, thật đấy!...

Kim Hà nói một thôi một hồi rồi bất ngờ quay lại. Cô hốt hoảng ngậm chặt môi. Khuôn mặt Đản đã tái đi một cách đột ngột. Kim Hà vùng người dậy, suýt nữa kêu lên. Nhưng xung quanh đều rất yên lặng. Có đám mây nào đó đang che mất khoảng nắng trên đồi này. Mảng tường trắng dịu xuống. Có lẽ khuôn mặt Đản vì thế mà trở về với màu da thật của anh ?

Hay là do mình nói quá xô bồ? Kim Hà nghĩ vậy và bỗng thấy ân hận. Nhưng không nói không chịu được. Phải làm sao cho anh ấy biết chị ấy rất yêu anh. Bao nhiêu điều nữa... Tất nhiên không phải là điều gì em cũng nói ra được đâu!...

- Hà?

- Dạ...

- Những điều em vừa nói có đúng không? - Đản gượng hỏi, và biết là sức mình đã kiệt hẳn. Song người con gái ngồi bên anh không nhận ra điều ấy. Cô vẫn sôi nổi trả lời:

- Đúng...

- Nhưng vì sao em biết?

Kim Hà nín lặng. Cô úp mặt vào hai lòng bàn tay, giọng cô quẫn lại:

- Tại vì... tại vì em cũng là con gái... 


Nghĩa trang liệt sĩ Ba Thung đặt trên một gò đất cao phía bên kia mặt đê. Một vườn cây bạch đàn vừa trồng dạo mới giải phóng nay lên chưa quá đầu người nhưng cành lá xanh đậm xum xuê trông như khung ảnh khổng lồ úp lên mặt đồi rộng.

Những người nằm xuống vì đất này đã được người đang sống chăm nom tận tình trên những ngôi mộ luôn tươi rói màu đất non và xếp rất ngay ngắn thẳng hàng tựa như đội ngũ lúc còn chiến đấu.

Gần đê nhất có hai ngôi mộ nằm song song và ngang nhau. Hai tấm bia, một đã cũ, một còn rất mới:

"Liệt sĩ Trần Văn Mông. Xã đội trưởng

Đã anh dũng hy sinh tháng 8 năm 1971"

"Liệt sĩ Nguyễn Phúc Đản. Trung đội trưởng

Đã anh dũng hy sinh tháng 9 năm 1978"

Trước hai nấm mộ ấy chiều nay có hàng trăm em thiếu nhi quàng khăn đỏ, tay cầm những nhành hoa trang, hoa chuối, hoa tứ quý chầm chậm đi qua và khe khẽ đặt xuống. Mùa này, có lẽ cũng là mùa đầu, xã Ba Thang được mùa to. Gặt đập xong rồi, đội thiếu niên tổ chức đi viếng nghĩa trang liệt sĩ.

Đi nép cạnh đoàn thiếu niên là hai người con gái. Một người có dáng thon và chắc, mái tóc thả dài. Một người có vẻ mảnh hơn, tóc phi - zê. Đoàn thiếu niên đi qua. Hai người vẫn đứng lại. Họ cứ đứng thế rất lâu, không nói. Hai bó hương to cháy rần rật trước gió xao xuyến cả vùng đồi. Lúc này đã gần sáu giờ chiều. Ráng đỏ từ phía mặt trời hừng lên hắt vào hai tấm bia, hắt vào hai đôi tròng mắt, hồng tím.

"... Có thể sự im lặng của anh sẽ gây nên tội lỗi cho chị ấy... Nhưng dù sao anh vẫn chưa thể nói được. Bởi chưa bao giờ anh thấy mình xứng đáng với chị ấy. Hay nói cho đúng hơn, anh chưa xứng đáng được với người đã ngã xuống trước đây - người Xã đội trưởng kính yêu đã dìu dắt anh đi theo cách mạng, đã dạy cho anh bài học về tình yêu đất đai và con người.

...Nhất định sẽ đến ngày anh nói được điều thiêng liêng đó với chị ấy. Nhưng bây giờ, mong bạn cho phép anh im lặng. Và nếu cần anh sẽ im lặng mãi mãi..."

Anh sẽ im lặng mãi mãi...Có thể nào như thế chăng?

Kim Hà thì thầm như tự hỏi mình:

- Chị Phú! Chị có nghĩ rằng dưới đất này vẫn còn những tiếng nổ chưa nổ không?

Phú không ngẩng lên, cũng không quay sang bạn, nhưng giọng chị thì lại bình tĩnh đến không ngờ:

- Có chứ!

- Thế thì... em sẽ quay trở lại.

Đến đây Phú mới quay hẳn người lại:

- Sao? Ngày mai em phải trở về trường rồi kia mà?...

Kim Hà đột ngột vuốt gọn mái tóc ra sau, cử chỉ nhanh như một sự quyết đoán:

- Vâng. Em về trường... nhưng rồi em sẽ xin trở lại. Nhất định em sẽ trở lại. Chị có tin em không?

Vì sao em ăn cắp!?







Kính thưa các anh chị cô chú bác đang hau háu hoặc thờ ơ trước vụ của em!

Tại sao em ăn cắp, xin thưa đó là do em tập đấy ạ! Em quan sát thấy một Xã hội mà em sẽ phải bước vào ai cũng ăn cắp cả, ai ăn cắp càng nhiều càng giỏi thì càng giàu có sung sướng!

- Thầy cô em ép em học thêm thì chả phải ăn cắp tiền của ba mẹ em và tuổi thơ của em còn gì!

- Trong siêu thị bán toàn hàng nhái nhẵn hiệu và sách in lậu thì chả phải ăn cắp bản quyền là gì?

- Chị hai em đi làm việc ở Thành Phố nơi gần 100% dân văn phòng xài các phần mềm bẻ khóa thì chả phải ăn cắp là gì!



- Mọi người load phim trên mạng về xem thì chả phải là ăn cắp chớ là gì!

- Mọi người đi làm trễ về sớm, lén lên mạng Facebook trong giờ làm việc thì chả phải là ăn cắp giờ làm của chủ là gì!

- Đưa hối lộ cho công an giao thông thì cả hai chả phải đang ăn cắp tiền Nhà Nước là gì?

- Rồi ai cũng lách, né, trốn thuế kinh doanh, thuế thu nhập cá nhân thì chả phải ăn cắp là gì!

- Rồi ôi thôi mấy vụ nghìn nghìn tỉ gì đó nữa, chả phải là ăn cắp vĩ đại là gì!

Đứng trước một xã hội như vậy, em nghĩ mình phải tập từ bé để có được kỹ năng ăn cắp nhằm làm hành trang bước vào đời! Em mà không biết ăn cắp chắc em chệt!

Nhưng em vốn lơ ngơ chậm phát triển nên mới tập đã bị bắt, bị hạ nhục gì đó như mọi người nói, nhưng thật ra em chả nhục gì! Bạn bè em đứa nào chả ăn cắp, nhục gì, xui thôi!

Em bù lu loa lên cho đúng kịch bản chớ thật sự em đang rất khoái vì em đã có số má từ đây! Có mấy chú bên mấy tập đoàn Nhà Nước hứa sẽ tuyển dụng nhân tài như em vào giúp mấy chú!

Túm cái quần lại, em chả nhục gì cả và sẽ còn tiếp tục tập luyện ăn cắp để có thể tồn tại được trong xã hội này!

Thôi em đi lấy sách quyên tặng cho em đây, sao hông tặng tiền cho gọn, tặng sách em cũng bán hà!

Chúc cô chú anh chị vui khi đọc thư này! Mà em nghĩ mấy cô chú anh chị vui hông nổi đâu!

( Sưu tầm)

LUẬN VĂN ĐỖ THỊ THOAN VÀ NHỮNG LỜI BÀN


NGUYỄN XUÂN ĐỨC



Tôi biết về nhóm Mở Miệng từ hơn mười năm trước, nhất là thời rầm rộ “khoan cắt bê tông”; cũng có trong tay bản luận văn của Đỗ Thị Thoan từ lâu (trước cả khi “phát súng” đầu tiên nổ vào chị), nhưng không thích om sòm, vả lại nhận thấy đã có các tổ chức và cả một Hội đồng “chăm lo” công việc văn chương nên chỉ đàm đạo bên bàn trà với một số bạn bè đồng nghiệp, hoặc trao đổi thông tin cùng đôi điều bình luận khi có người hỏi. Suốt cả thời gian qua tôi đã có dịp đọc gần như hầu hết các bài viết trên các báo viết, báo mạng, blog; suy ngẫm về những lời bênh vực, bao che, những lời phê phán - thậm chí đến mức thóa mạ, cũng như những phát biểu nhằm “chính trị hóa” vấn đề ở cả hai chiều.


“Tình hình” lắng dịu xuống một dạo, nay lại bùng lên với cả những lời kêu gọi, kêu cứu, những tiếng nói của người trong cuộc và trong Hội đồng chấm luận văn lần 1 (HĐ1),... Tự thấy, đã đến lúc có thể góp đôi điều trên cách nhìn bình tĩnh, thân thiện và khoa học về nhiều vấn đề chung quanh luận văn của Đỗ Thị Thoan và những lời bàn.

Khái quát chung về những ý kiến đã công bố, có thể thấy sự việc đã được đẩy lên cực đoan ở cả hai phía. Bên nào cũng cố tìm những sơ hở, những sai sót của phía bên kia rồi cắt xén, phân tích,… khiến độc giả hết sức hoang mang, nhất là khi họ chưa có trong tay bản luận văn của Đỗ Thị Thoan. [Bản luận văn ấy giờ đã được đưa lên mạng, nhưng chắc nhiều người chưa có điều kiện tìm đọc. Hãy vào google, gõ: [pdf] đỗ thị thoan vị trí của kẻ bên lề,sẽ tìm thấy].

1. Trước hết xin nói đôi lời về nhóm thơ Mở Miệng.

(Ở đây tôi chỉ nói về những vấn đề liên quan đến luận văn Đỗ Thị Thoan).

- Cái tên “Mở Miệng” đã phản ánh ý tưởng của những người sáng lập nó, muốn tỏ một thái độ phản ứng về việc không được tự do “mở miệng”, mà ở đây là không được tự do công bố tác phẩm không qua kiểm duyệt. Tuy nhiên, đọc diễn ngôn và thực hành thơ của họ còn thấy một thái độ khác, đó là ý muốn cách tân thơ, làm mới thơ cả nội dung lẫn hình thức biểu đạt. Khi trả lời Thụy Du về “thuật mở miệng”, Bùi Chát – một thành viên nhóm Mở Miệng, có rất nhiều thơ dơ và là người sáng lập nhà xuất bản Giấy Vụn, bày tỏ: “Mở Miệng trước hết là một thái độ phản ứng lại lối sinh hoạt máy móc của 1 cơ chế văn nghệ hết sức suy đồi, sau nữalà cách làm nghệ thuật của những người mang tinh thần tự do”. “Bổn thân tôi vốn thích dùng khái niệm Nghịch thơ hơn là Làm thơ”. “Từ trước đến giờ tôi chưa bao giờ làm thơ để cố gắng hoàn thiện 1 bài thơ hay 1 tập thơ. Cái mà tôi cố gắng hoàn thiện chính là những ý niệm về thơ” (damau.org/).

Trong thực tế, khát vọng “cách tân thơ” đã được Trần Dần khởi xướng cách đây hơn nửa thế kỷ và theo đuổi đến “trọn đời”, nhưng nhìn lại những bài thơ “cách tân” của ông, chẳng thấy bài nào được độc giả hồ hởi đón nhận, lạ hơn, chẳng thấy ai học tập ông (hay là không ai học được?), kể cả những người tán dương, ủng hộ Trần Dần hết lời. Những người thuộc thế hệ 6-7X của nhóm Mở Miệng cũng theo cái lối diễn đạt thơ không thuần tiếng Việt ấy, nhưng mạnh bạo hơn Trần Dần, họ còn đưa vào “thơ” những nội dung tục tĩu mà chính Bùi Chát đã nhận, đó chỉ là“Nghịch thơ, Thơ rác, Thơ nghĩa địa”, thơ dơ.

Về mặt xã hội, phải thừa nhận rằng nhu cầu thay đổi/cách tân thơ là có thật từ cả hai phía: người sáng tác và người đọc, chứ không riêng mấy người “Mở Miệng”. Đọc những bài viết của Inrasara về thực trạng thơ sẽ thấy rõ điều đó.
Một thực tế hiện nay là độc giả thấy mệt mỏi với thơ. “Ra đường là gặp nhà thơ” đã đành, trong nhà có khi cũng gặp “nhà thơ”, đến mức, ngày nay, khi những người bạn tóc điểm sương gặp nhau, họ không hỏi nhau đã nghỉ hưu chưa, mà hỏi“đã làm thơ chưa?”.
Gặp các nhà/quán/lều/ điếm/… thơ, cứ phải nhận thơ họ tặng, phải ngồi im nghe họ đọc, rồi lại phải nghe họ than phiền về nổi “khổ” của lòng đam mê, của “nghiệp chướngnghệ thuật”họ đã mang vào thân... Thế nhưng thơ của họ cứ na ná nhau, nên xẩy ra tình trạng có thể chép lại của nhau rồi sửa đi chút ít, mà chẳng ai nhận ra. Tình trạng người làm thơ, làm văn nghệ cả hai tay trái ấy cũng được các tổ chức Hội, các phương tiện thông tin đại chúng ủng hộ. Chép thơ nhau, sửa đi chút ít rồi đăng/in, đưa dự thi và… được giải cao! Nhiều đài truyền hình địa phương có chương trình cho hội viên các “câu lạc bộ thơ” xóm, xã, phường đọc. Không riêng gì mảng sáng tác, khó như lý luân phê bình mà nhiều đêm, mở VTV cứ thấy một ông hoa chân múa tay chém gió, sang sảng luận bàn về thơ văn, nghệ thuật,… mà mở trong lý lịch quan chức của ông ra không thấy có dòng nào khai, được đào tạo về văn học, nghệ thuật. Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới đã nói về tình trạng “Một bộ phận cán bộ lãnh đạo, tham mưu, quản lý văn nghệ thiếu hiểu biết về văn học, nghệ thuật, ít học tập,…”, vậy mà tình trạng ấy vẫn không có gì thay đổi, dù Nghị quyết đã “đi vào đời sống” hơn nửa thập kỷ! Xã hội tự do dân chủ, ai cũng có quyền làm thơ, quyền bốc thơm thơ nhau, chỉ có độc giả, khán giả là không được tôn trọng. Ngay cả những người trong nhóm Mở Miệng cũng vậy, cứ tưởng các anh cách tân thơ thế nào, hóa ra các anh cũng không tôn trọng độc giả, may mà các anh đang thực hành thơ và samizdat bằng cách phô tô 50 bản tặng nhau.

Nói ra thực tế đó là để chia sẻ với ý tưởng cách tân thơ của nhóm Mở Miệng. Nhưng “cách tân” như ở nhiều bài thơ các anh làm thì trước hết là các anh, sau nữa là những “nhà lý luận hiện đại/hậu hiện đại”,… hãy chứng minh xem nó có phải là “thơ” không đã. Công bằng mà nói các anh “Mở Miệng” cũng tự biết mình, khi gọi sáng tác của mình “là tác phẩm nghệ thuật”, vẫn thừa nhận “còn nó có phải là thơ hay không thì tuỳ vào quan điểm của mỗi người khi tiếp cận” (Bùi Chát).

Xin nói về phía “bạn đọc”. Trong khi Đỗ Thị Thoan khẳng định và đề cao giá trị của thơ ca Mở Miệng như một hiện tượng văn hóa có sức mạnh đột phá, có thể/sẽ phá vỡ trung tâm già cỗi của văn học cách mạng Việt Nam, còn nhà lý luận Nguyễn Hoàng Đức (người rất bênh vực Đỗ Thị Thoan), lại mở đầu bài viết của mình rằng: “Trước hết tôi xin nói rõ quan điểm của mình: tôi cũng chẳng thấy thơ của nhóm mở miệng có gì hay cả, như họ thừa nhận thơ họ chỉ là thứ rác rưởi” (diendanxahoidansu). Có bạn đọc còn vạch hết ra “Những thứ của nhóm “Mở miệng” không phải là thơ”, rằng “một nhóm người chuyên viết ra những câu chữ quái dị rồi đặt cho chúng một cái tên gọi khá kêu: "thơ" (Việt Nam văn đàn quán).

Trở lại với vấn đề thử nghiệm đổi mới thơ ca của nhóm Mở Miệng, thiết nghĩ việc thực hành, thử nghiệm “cách tân” trước hết cần có những nguyên tắc/lý thuyết nhất định. Tỷ như người muốn cách tân cái máy bay không thể nhét cái thùng rác vào thay cho bộ máy rồi đem ra “thử nghiệm”. Thơ (Việt), dù là một hình thức giao tiếp đặc biệt, thì để đảm bảo “chất lượng” giao tiếp, để truyền được cảm xúc đến người đọc, trước tiên nó cần đảm bảo khả năng thông báo (dù rất phong phú) của tiếng Việt. Trong trường hợp thơ là sản phẩm văn hóa tinh thần (phi vật thể), muốn “thử” hãy xem số đông công chúng có “ngửi được” không đã.

Đành rằng với nghệ thuật, số lượng công chúng ưa thích nhiều/ít chưa hẳn là căn cứ tốt/duy nhất để khẳng định nghệ thuật ấy cao hay thấp. Ngay như nhạc giao hưởng, tranh lập thể, ở châu Âu, số người yêu thích cũng không nhiều so với fan của những dòng nhạc, dòng tranh khác, nhưng không phải vì thế mà nhạc giao hưởng, mà tranh lập thể thấp về nghệ thuật. Tuy nhiên, cũng đừng cường điệu hóa câu nói chỉ có lỗ tai âm nhạc mới nghe được nhạc, đừng vỗ ngực rằng thơ tôi là sự giải tỏa tôi, để rồi saman hóa thơ ca, để rồi như một “nhà lý luận” nọ đề nghị phải dạy độc giả cách đọc tác phẩm văn chương mới. Hãy đừng bắt độc giả đọc mà không hiểu thơ ca nói gì như nghe lời lẽ các thầy Saman vậy.

Tóm lại, “thơ” của nhóm Mở Miệng mới chỉ là thái độ, là mong muốn cách tân, là những ý niệm về thơ, là thực hành cách biểu đạt “phá rối trật tự” như các anh tuyên bố/chủ trương, mà “sản phẩm làm ra” chưa mấy người đọc thấy hay. Chính người chủ trương – Bùi Chát – cũng khẳng định với Thụy Du: “Nhiều người cho rằng chúng tôi đang làm cách mạng thơ, thật ngớ ngẩn. Chị thử tưởng tượng nếu cả nền văn chương mà lại như chúng tôi thì sao, ai mà ngửi cho nổi” (damau.org/).

Điều dễ nhận thấy là trong các bài viết của những người ủng hộ Đỗ Thị Thoan, vấn đề thơ Mở Miệng có phải là văn học không, thường được né tránh/làm ngơ, kể cả ai đó lên tiếng ở tư cách “người Hội đồng”. Còn trong những bài viết phê phán luận văn Đỗ Thị Thoan, nhiều người kêu lên rằng: không thể dẫn ra những dòng thơ của nhóm Mở Miệng cũng như những lời bình của tác giả luận văn. Có người còn thách thức giáo viên hướng dẫn và người thực hiện luận văn này, cho cháu-con đọc những bài thơ đó. Quả thật, rất khó chỉ ra được giá trị nghệ thuật của những bài thơ chưa được tác giả cố gắng hoàn thiện hoặc quá dơ bẩn đến mức ngửi không nổi (Bùi Chát). Trong trường hợp này, những từ ngữ của người nghiên cứu như “nguyên sơ”, “thô ráp”, khi nơi khác được dùng để chỉ một đặc điểm, một giá trị của đối tượng, thì ở đây cũng không thể che phủ được cái nguyên sơ thô lậu đến mức lợm giọng khi đọc “thơ” và nhiều trang viết trong luận văn.

Thật đáng tiếc, trò nghịch thơ và tâm thế nổi loạn đã làm hỏng đi cái ý tưởng làm mới thơ của những người “khát khao mở miệng”.

- Vấn đề chính mà nhóm Mở Miệng hướng tới làđòi hỏi tự do ngôn luận, được giải thích là “thái độ phản ứng lại lối sinh hoạt máy móc của 1 cơ chế văn nghệ hết sức suy đồi” (damau.org).

Cả ước muốn làm mới thơ lẫn đòi hỏi tự do ngôn luận đều được nhóm Mở Miệng thể hiện trong tâm thế nổi loạn của kẻ bên lề. Khi nổi loạn, bên cạnh thơ dơ, thơ rác, nhóm Mở Miệng còn làm những bài thơ phản ứng chế độ, diễu nhại cả các anh hùng dân tộc, những người được nhân dân cả nước kính trọng và nhân dân thế giới tôn vinh, ngưỡng mộ, điều đó khác nào xúc phạm cả dân tộc?Đón nhận và cộng hưởng tâm thế đó trong luận văn của mình nên Đỗ Thị Thoan đã trở thành tâm điểm của nhiều bàn luận gay gắt với cả những qui kết chính trị.

2. Về luận văn của Đỗ Thị Thoan

- Trước hết, không nên sợ tiếng, hoặc mượn tiếng “nhà khoa học bị vùi dập” mà đôn lên rằng thạc sĩ là “nhà khoa học” và luận văn thạc sĩ là một công trình khoa học (dù thi thoảng có những luận văn có giá trị khoa học). Nếu luận văn là “công trình khoa học” và người viết nó là “nhà khoa học”, chắc chẳng cần có người hướng dẫn. Dường như qua”vụ luận văn Đỗ Thị Thoan”, người mượn tiếng thì đẩy thành tội “cộng sản Việt Nam xâm hại tự do học thuật”, người sợ tiếng thì qui tội người viết “nhân danh khoa học để làm phản động”, mà ít ai chỉ ra cái đúng, cái sai của luận văn và của người thực hiện, ít ai đánh giá vấn đề toàn diện trong cái phông trường học Việt Nam.

Ở Liên Xô (và ở cả hệ thống XHCN Đông Âu) trước đây, trên đại học có 2 cấp đào tạo mà chúng ta dịch sang tiếng Việt là phó tiến sĩ và tiến sĩ. Gốc tiếng Nga của hai từ này là căng-đi-đát na-úc và đốc-tơ na-úc. Trong tiếng Nga, nghĩa gốc của chữ căng-đi-đát là chưa chính thức (dự bị, dự khuyết). Như vậy, chữ căng-đi-đát na-úc của Nga nên được hiểu là người dự bị/tập sự khoa học. Cũng chính vì thế khi gọi các căng-đi-đát là tiến sĩ thì các đốc-tơ na-úc phải được gọi là tiến sĩ khoa học. Hiện nay chúng ta chỉ đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ (không đào tạo tiến sĩ khoa học). Như vậy, dù thạc sĩ có được ngầm hiểu tương đương với căng-đi-đát na-úc thì nó cũng chỉ là dự bị/tập sự khoa học. Luận văn của họ, theo yêu cầu, cần có tính khoa học (nhất là phương pháp tiếp cận, xử lý vấn đề), nhưng trong đào tạo chưa yêu cầu nó là một công trình khoa học, mà chỉ là bài tập thực hành hoạt động khoa học. Ở nhiều trường Đại học Australia mà tôi biết, với cấp học thạc sĩ, học viên chỉ trả đủ các bài tập chuyên đề, không làm luận văn. Ngay cả cấp tiến sĩ mà Hoàng Ngọc Hiến từng đánh giá một cách hình tượng rằng: bằng tiến sĩ chỉ là cái phao để rơi xuống nước không chìm, muốn bơi được còn phải đọc, học nhiều.

- Trở lại với luận văn Đỗ Thị Thoan, phải chăng cụm từ “từ góc nhìn văn hóa” làm người đọc hiểu lệch định hướng nội dung. Nhưng thật hài hước, khi tác giả luận văn luận bàn về văn hóa (theo hướng khẳng định/ca ngợi) một sản phẩm mà chính người sinh ra nó thừa nhận “ai mà ngửi cho nổi”. Còn bàn về một sản phẩm thuộc “tiền ngôn ngữ” (chứ chưa phải tiền/cận nghệ thuật) như lời Bùi Chát, thì chỉ có thể bàn về thái độ/khát vọng “mở miệng” của những người sinh ra nó, tức là bàn về vấn đề mở miệng, chứ khó có thể bàn về văn chương như có bạn viết yêu cầu. Và cũng chính vì thế triển khai luận văn của mình, tác giả đã hướng vào 2 nội dung chính, đó là vị trí kẻ bên lề và samizdat.

* Vấn đề “vị trí kẻ bên lề” được quàng vào thuyết “trung tâm và ngoại biên”, “hậu hiện đại”. Cái trung tâm ở đây được hiểu là văn học cách mạng [mà hiện nay như tôi thấy, khung lý thuyết của nó đã trở nên “chật chội”/khó chịu đối với khá đông những người sinh ra sau các cuộc chiến tranh cách mạng giải phóng dân tộc]. Còn cái “ngoại biên” thì chỉ thấy mấy người Mở Miệng. Hóa ra cái gọi là “những tiếng nói ngầm” chỉ là “những” của mộtngoại biên! Đỗ Thị Thoan đã cố gắng chứng minh rằng cái ngoại biên [duy nhất] này sẽ phá vỡ cái trung tâm, đồng nghĩa với việc nó sẽ là cái trung tâm. Tôi đọc nhận xét của một thành viên HĐ1, trong mục trao đổi thêm với tác giả, thấy anh đã cảnh báo học viên 2 điều: một là - mượn lời học giả nước ngoài - anh căn dặn: hậu hiện đại là mãnh đất cư trú những thiên tài và kẻ bất tài; hai là nếu cái bên lề muốn thay thế cái trung tâm để trở thành toàn trị thì với thái độ cực đoan, sự thất thố rất dễ xẩy ra bởi thái độ coi mình là một điển phạm (canon) buộc tất cả mọi giá trị phải ngước nhìn và thừa nhận/phục tùng.

Xin lưu ý thêm với Đỗ Thị Thoan rằng, chính những người Mở Miệng tự nhận sáng tác của mình “có phải là thơ hay không thì tuỳ vào quan điểm của mỗi người khi tiếp cận”, tức họ cũng chưa hồ đồ khẳng định thơ mình đích thị là nghệ thuật. Họ (Bùi Chát) khẳng định nó là “tiền ngôn ngữ”, vậy hẳn nhiên nó chưa phải là nghệ thuật, nó chỉ mới là “mở miệng” do có nhu cầu. Cứ cho đó chỉ là lời khiêm tốn đi thì công việc phải làm trong luận văn này, như đã nói ở trên, là phải chứng minh những giá trị nghệ thuật đích thực của nó. Tôi không hiểu tác giả luận văn dùng khoa học gì để chứng minh cái “ngoại biên” chưa phải là nghệ thuật này là “tiếng nói ngầm” về nghệ thuật, để có thể thay thế cái trung tâm hoặc tạo ra một trung tâm nghệ thuật mới trong tương lai văn nghệ nước nhà? Nếu hiểu “những tiếng nói ngầm” là thái độ phản ứng của nhóm Mở Miệng, thì trên thực tế họ đã bươi hết từ thân thể họ đến cả vùng kín của đám con gái ngủ với họ (Bùi Chát, phờ phạc với một người không phải là sony), họ cũng đã nói toẹt hết mọi suy nghĩ, kể cả việc diễu nhại, xúc phạm đến những người mà cả dân tộc kính trọng như Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh,… Vậy có gì là “ngầm” nữa đâu? Có chăng sự úp mở của Đỗ Thị Thoan, cố biến nó thành “tiếng nói bị bịt miệng”, để vấn đề có vẻ nghiêm trọng hơn. Mặt khác, nếu hiểu những tiếng nói ngầm là thái độ chính trị, thì đó chỉ là đòi hỏi thay thế cái trung tâm chứ không phải bản thân nó thay thế trung tâm. Độ vênh có tính khoa học về phương pháp tiếp cận này dường như được chúng ta bỏ qua (chứ không hẳn không ai nhìn thấy) khi đánh giá luận văn.

* Nội dung thứ 2 được quan tâm trong luận văn là samizdat.

Thứ này có lâu lắm rồi, dù đến giữa thế kỷ trước, người Nga mới đặt tên cho nó và dùng như một thuật ngữ. Trước đây (và mãi đến bây giờ), người dân lao động đã “samizdat” tác phẩm của mình bằng phương thức truyền miệng. Khi có chữ viết, xuất hiện thêm hình thức “xuất bản chui” loại tác phẩm được thể hiện bằng văn bản. Ngày nay công nghệ thông tin đã đem đến cho con người hình thức samizdat bằng “truyền mạng”. Có hàng trăm/ngàn tác phẩm văn học, nghệ thuật đã được đưa lên mạng, quảng bá toàn cầu trong rất nhiều mạng tiếng Việt như Tiền vệ, Gió O, Evăn, Talawas, Da màu,… mà với tôi, có những trang đem lại rất nhiều thông tin, tư liệu như Talawas. Bổ sung vào hệ thống samizdat đó, ngày nay còn có hàng trăm Blog văn nghệ cũng không kém phần lý thú của các cá nhân như Nguyentrongtao, Trannhuong, Nguyenquanglap,… Cái cách phô tô 50 bản biếu bạn bè mà “Nhà xuất bản” Giấy Vụn làm chỉ là “trò vui” trong xã hội hiện đại, chẳng có gì mới mẻ, cũng chẳng có gì ghê gớm cả. Có chăng chỉ ẩn chứa khát vọng, thái độ đòi tự do công bố tác phẩm (bằng văn bản) không qua kiểm duyệt - điều mà các bác Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm,… đã thể hiện khi cho ra đời các Giai phẩm… hồi 1956.

Công bằng mà nói, chương II (viết về samizdat) là chương có vấn đề để viết, khi mà lý thuyết samizdat không có gì phức tạp, khi mà hệ thống Internet toàn cầu đã mở rộng khả năng và chân trời cho samizdat, khi mà những “tường lửa” của các quốc gia (trong đó có Việt Nam) không đủ sức rào chắn độc giả, nhất là với những người có trí tuệ,... Tuy nhiên Đỗ Thị Thoan viết lòng thòng suốt nhiều trang đầu chương theo dạng mô tả lịch sử đối tượng, còn phần cuối lại hào hứng sa vào những bài thơ nổi loạn của nhóm Mở Miệng mà bỏ qua vai trò thử nghiệm của samizdat. Do tính chất không định bản, ngoài vai trò vượt qua rào cản kiểm duyệt về nội dung tư tưởng, samizdat còn là nơi có thể công bố những bài viết về cái tục (một cái nằm giữa văn văn hóa và phản văn hóa, rất khó viết), đặc biệt dó còn là sân chơi để văn nghệ sĩ, nhất là lớp trẻ, thử nghiệm những sáng tạo mới. Chính nhóm Mở miệng cũng đã tận dụng tác dụng thử nghiệm/thực hành của samizdat để công bố những bài thơ nổi loạn, những bài thơ chứa cái tục, thử nghiệm hình thức phá cách trong thơ,... Chính cũng qua samizdat-truyền mạng, nhiều tên tuổi đã định hình trong làng văn như Phạm Lưu Vũ, Nguyễn Hữu Hồng Minh,… Phải chăng tố chất nổi loạn có trong Đỗ Thị Thoan (như nhận xét của một thành viên HĐ1) đã kéo chị về với những bài thơ nổi loạn, mà quên đi vai trò mới không kém phần quan trọng của samizdat-internet?

- Đến đây cũng xin nói cụ thể thêm đôi chút về những trang viết trong bản luận văn này. Cũng là một nhà giáo lâu năm trong ngành sư phạm, tôi thật ngỡ ngàng khi đọc những trang luận văn của Đỗ Thị Thoan. Tôi không ngờ một nữ sinh mới ngoài hai mươi tuổi lại có thể tiếp cận rồi đưa vào “con đẻ tinh thần” của mình những trang/chữ tục tĩu đến mức tôi không muốn dẫn ra đây (xin bạn đọc hãy đọc trực tiếp các trang 66, 67, 68 của luận văn). Phải chăng, có thế mới “hậu hiện đại”? Dù thật sự có phải bàn đến “mĩ học của cái tục” thì người ta vẫn có cách thể hiện tế nhị hơn những từ, ngữ ấy trên văn bản cơ mà. Vấn đề còn là ở chỗ cái thứ thơ phú dơ dáy trăm phần trăm ấy đâu phải là thơ, đâu phải là nghệ thuật, chỉ có tác giả luận văn mặc nhiên gọi nó là nghệ thuật để bàn về cái gọi là “mĩ học của cái tục” mà thôi. Việc khai thác khía cạnh tinh thần nổi loạn được gửi gắm trong đó, dù cần phải đem ra bàn luận thì cũng đâu cần dẫn ra hàng mấy trang viết những dòng thơ tục tằn như vậy.

Không ai cấm cũng không ai sợ những từ ngữ ấy, nhưng từ khi thoát khỏi lốt thú, biết dùng vật liệu che kín một số chỗ trên thân thể, con người gọi đó là “vùng kín” và đỏ mặt khi để lộ ra hoặc khi phải nói, phải viết, phải đọc những từ ngữ ấy. Những nữ bác sĩ, y tá hàng ngày tiếp xúc với “vùng kín” con người trong phòng điều trị, mà ngoài đời họ vẫn e dè kín đáo. Có lẽ chỉ có trong thế giới người điên “chuyện ấy” mới được thể hiện “hồn nhiên” như vậy, như được phản ánh trong phóng sự điều tra của Đỗ Doãn Hoàng: “Điên nam - điên nữ ta cùng hân hoan” (dantri).

3. Về đánh giá luận văn.
- Tôi chia sẻ với ý kiến một số thầy trong HĐ1 rằng, Đỗ Thị Thoan là một học viên thông minh, có lòng say mê, có năng lực nghiên cứu, có khát khao tự khẳng định mình,… Nhưng đọc bản luận văn cũng thấy sự đồng điệu của Đỗ Thị Thoan với tâm thế nổi loạn, khiêu khích, “phá rối trật tự”, thực hành sứ mệnh giải thiêng, giải trung tâm,… mà nhóm Mở Miệng tự nhận mình. Thậm chí bằng sự đồng điệu và cộng hưởng của mình, chị còn đẩy tinh thần ấy lên mức cao hơn, căng hơn, khi không làm được như Bùi Chát là “giảm nhiệt” bằng cách thi thoảng bộc lộ phản ứng qua ngôn từ tếu táo.

Ở cương vị người thầy giáo, việc tôn trọng, ghi nhận năng lực học viên là cần thiết, nhưng cũng cần chỉ rõ những sai sót để họ vươn lên chứ không thể “động viên” họ, nhất là vì họ trẻ, bằng thang điểm tuyệt đối, trong khi khi luận văn còn những sai sót lớn.

- Tôi đồng ý rằng Mở Miệng là một hiện tượng văn hóa hiện hữu,nhưng bản thân nó lại mang tính phản văn hóa, nên nó chỉ tồn tại trong quan hệ chung với tư cách cái khác biệt (theo cách nói: tôi khác biệt là tôi tồn tại). Việc chỉ ra tác động của hiện tượng văn hóa này vào cái trung tâm là có thể, bởi dẫu phản văn hóa thì “hành vi” phá phách của nó, ngoài “tác dụng phụ”, còn tham gia làm rạn nứt/phá vỡ tính bảo thủ của cái trung tâm vốn tồn tại như một thực thể toàn trị.

Có thể thấy, với văn phong rất tốt tác giả luận văn cảm hóa người đọc bằng lối trình bày ngụy biện, tư biện, chứng minh cái bên lề [dậy non], phản văn hóa này sẽ thay thế cái trung tâm như một qui luật của vận động và phát triển. Tuy nhiên, tác giả chỉ dùng diễn ngôn/“nói lấy được” chứ chưa/(thực ra là)không thể thể hiện bằng những luận chứng, luận cứ khoa học có sức thuyết phục. Bởi chính những người chủ trương Mở Miệng cũng hiểu giới hạn của mình, của thứ thơ dơ, thơ rác, thơ nghĩa địa ấy như một sự quậy phá hầm bà lần để gây chú ý. Trong trả lời phỏng vấn của Thụy Du trên damau, Bùi Chát từng nói: “Ở khía cạnh nào đó chúng tôi cổ vũ cho cái gọi là tính thiểu số trong nghệ thuật” và “Chúng tôi chấp nhận thế đứng bên lề”. Như vậy, người đọc có thể suy ra rằng: ý tưởng “giải trung tâm” thuộc về người phân tích hoặc ít ra nó được cường điệu qua lời phân tích của tác giả luận văn.

- Luận văn đã mắc lỗi qui phạm học đường.

Để hiểu vấn đề này cần nói rộng ra về nguyên lý giáo dục, rằng giáo dục là một cơ chế “cưỡng chế”. Cơ chế “cưỡng chế” này ở một số nước là qui định/luật buộc lứa tuổi học sinh phải đến trường [Chúng ta còn nhớ, tháng 5-2012, nữ sinh lớp 11, Danien Tran, người Mĩ gốc Việt, đã bị tòa án bang Texas phạt giam 24 tiếng đồng hồ cùng tiền phạt 100 USD về lỗi nghỉ học quá qui định]. Tính “cưỡng chế” của giáo dục được bộc lộ rõ nhất là ở nội dung chương trình học, cùng những qui định về thi cử. Tính cưỡng chế của giáo dục có cơ sở từ nghĩa vụ con người với xã hội, từ chức năng đào tạo nhân lực cho xã hội của ngành giáo dục. Bất kỳ nhà nước nào bỏ tiền làm giáo dục cũng nhằm đào tạo nhân lực cho xã hội theo mô hình mà nhà nước đó hướng tới. Theo đó, nhà nước cộng sản Việt Nam cũng đào tạo nhân lực theo mô hình xã hội của mình, trong đó có vấn đề quan điểm chính thống đối với những vấn đề thuộc các khoa học xã hội và nhân văn. Chưa bàn đến quan điểm đó đúng hay sai, nhưng người làm giáo dục và người hưởng thụ giáo dục có bổn phận quán triệt, tuân thủ nó. Một bài thi sẽ “phạm qui” nếu trái với quan điểm chính thống. “Luật thi cử” của nhà nước Phong kiến Việt Nam xưa còn quá mức đến nỗi phạt mạnh nhất – đánh trượt ngay - với lỗi phạm húy. Theo họ, người được đào tạo để làm quan cho triều đình mà không biết tên húy kỵ của người đứng đầu – vua – thì không thể cho đậu làm quan. Quan niệm này ngày nay không phù hợp nhưng nói ra để thấy giáo dục mang tính chính trị mạnh mẽ thế nào. Chắc có bạn đọc sẽ cật vấn tôi: vậy cái quan điểm chính thống ở đây là gì? Xin thưa, về chuyên môn - những gì trái với văn học cách mạng là trái chính thống, về đao đức – những gì trái với đạo đức truyền thống của dân tộc (trong đó có xúc phạm đến các anh hùng dân tộc) là trái chính thống. Ở đây có thể có cái nhìn khác, nhưng với nhà trường, khi quan điểm đó chưa thay đổi thì vẫn phải tuân thủ. Có người cho rằng: bất kỳ hiện tượng văn học nào nẩy sinh trong xã hội cũng cần được nghiên cứu. Tôi không bác bỏ, nhưng đó là công việc của nhà khoa học chứ không phải của học sinh. Tôi có thể ủng hộ một hội thảo khao học bàn về hiện tượng văn học ngoài lề/bên lề/không chính thống; tôi không phản đối có bài viết trên tạp chí chuyên ngành về những hiện tượng văn học “bên lề”/“ngoại biên”, thậm chí một công trình khoa học dày dặn về những hiện tượng văn hóa đó, nhưng chắc chắn đó không phải và không thể là công việc của học sinh được thể hiện qua một bài thi. Học viên, khi thực hiện luận văn phải được hiểu điều này, và về phần mình - cơ sở đào tạo mà trực tiếp là giáo viên hướng dẫn cũng phải nhắc nhỡ họ.

Như vậy, ý kiến của một thành viên HĐ1 (được phát trên mạng) về 3 yêu cầu đánh giá luận văn của Đỗ Thị Thoan, đúng nhưng chưa đủ. Mà một quan niệm không đầy đủ sẽ dẫn đến một kết quả đánh giá không đầy đủ/sai lệch. Tôi không rõ những thành viên của Hội đồng đánh giá lại luận văn Đỗ Thị Thoan lần sau (HĐ2) có đề cập đến sai sót này không.

Một thành viên khác của HĐ1 lại nhận xét tinh tế rằng: tôi đánh giá cao khát vọng của người viết, cho dù không phải không còn những điểm có thể tranh luận (chúng tôi nhấn mạnh-NXĐ). Phải chăng anh đã nhận ra những lỗi trên đây của học sinh nhưng khoan dung bỏ qua? [Ở vào cương vị anh, dù có thể khoan dung bỏ qua khi Hội dồng thảo luận bỏ phiếu thông qua luận văn, thì trong khi bảo vệ tôi cũng sẽ phân tích đến tận cùng và cho học sinh giải trình/tranh luận cho đến khi nhận ra những sai sót trong luận văn của mình].

4. Về những thao tác xử lý liên quan luận văn Đỗ Thị Thoan.
Theo tôi, trong vụ việc này, dù làm đúng nguyên tắc, các cơ quan có trách nhiệm, cả Bộ Giáo dục & Đào tạo, nhất là trường Đại học sư phạm Hà Nội, cũng đã có những sai sót đáng tiếc.

- Bộ Giáo dục & Đào tạo đã có qui chế, qui định đối với hoạt động đào tạo trên đại học. Từ khi giao quyền xuống cho cơ sở đào tạo thì mỗi cơ sở (Trường, Học viện) đều ban hành qui chế nội bộ. Có những qui định, qui chế được cơ sở đào tạo phổ biến hàng năm đối với từng khóa đào tạo như vấn đề hình thức trình bày (cỡ chữ, font chữ, lề trái-phải-trên-dưới,…), nhưng ít nhắc học viên tuân thủ quan điểm chính thống trong một bài thi/luận văn, luận án. Vào giữa thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI đã có một luận văn thạc sĩ được bảo vệ tại trường Đại học Qui Nhơn nói trái quan điểm chính thống về cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, được báo chí nêu ra, phê phán nhưng Trường Đại học Qui Nhơn và Bộ Giáo dục & Đào tạo lại không có ý kiến gì.

Những qui định về việc chấm lại, thu hồi văn bằng,… đối với người học cũng không được nêu đầy đủ, hoặc không thông báo cho học viên trong quá trình học.

- Một số sai sót trong xử sự và trong các văn bản (có khi là lỗi soạn thảo) của trường Đại học sư phạm Hà Nội cũng như của một số cơ quan Trung ương về vấn đề luận văn Đỗ Thị Thoan cũng gây dị ứng, mất lòng tin của công chúng về cách giải quyết.

Việc có một Hội đồng nào đó đánh giá luận văn, luận án không chính xác là chuyện thường tình, thế mới dẫn đến thực tế: hiện có quá nhiều thạc sĩ, tiến sĩ chất lượng không tương xứng. Trong hoạt động đào tạo, việc lập Hội đồng phúc tra, phúc khảo, đánh giá lại bài thi/luận văn, luận án khi có dư luận cũng là chuyện thường tình, cần thiết và đúng nguyên tắc. Bộ Giáo dục & Đào tạo đã từng thông báo cho các cơ sở đào tạo tiến sĩ về việc Bộ sẽ lập Hội đồng chấm lại một số luận án đạt điểm tối đa, và điều này đã được thực hiện trong mấy năm qua. Cơ sở pháp lý của việc lập lại Hội đồng phúc khảo không chỉ nằm trong các văn bản qui định quyền hạn Hiệu trưởng mà trước hết ở tư cách, nhiệm vụ của Hội đồng. Các Hội đồng chấm thi (cả chấm luận văn, luận án) chỉ có tư cáchtư vấn để Hiệu trưởng ra các quyết định… và “tự giải thể sau khi hoàn thành nhiệm vụ”. Do HĐ chỉ có tư cách tư vấn nên việc cần thêm tiếng nói tư vấn bằng việc lập thêm HĐ mới cũng như sử dụng kết quả của Hội đồng nào là công việc của Hiệu trưởng. Kết quả cuối cùng, sau khi chấm lại, có thể là “180 độ ngược”, như phàn nàn của một tác giả trên mạng, cũng không có gì ngạc nhiên.

Việc trong thông báo ở một văn bản nào đó của cơ quan Trung ương nói rằng “Hội đồng ra quyết định thu hồi luận văn và không công nhận học hàm thạc sĩ” của học viên Đỗ Thị Thoan là không đúng (dù đó là lỗi soạn thảo văn bản thì cũng là sơ suất đáng tiếc). Hãy nghĩ xem, nếu HĐ2 có quyền hạn to như vậy thì đến lượt mình, HĐ1 lại có quyền (tương đương) công nhận lại học vịthạc sĩ cho Đỗ Thị Thoan, vụ việc này sẽ đi đến đâu? Tư cách và quan hệ công việc của hai HĐ như nhau và độc lập với nhau, không thể HĐ nọ có quyền phủ quyết kết quả của HĐ kia. Kết quả của 2 HĐ đều được Hiệu trưởng cân nhắc lựa chọn và ra quyết định cuối cùng. Ở đây, luận văn cũng được chấm lại chứ không phải/không thể thu hồi. Chất lượng luận văn được thẩm định lại chứ không phải bảo vệ lại, vì thế HĐ2 có thể yêu cầu học viên đến giải trình những nội dung thấy chưa rõ, nhưng cũng có thể không. [Xin nói thêm rằng ở một số nước tư bản, luận án (tiến sĩ) cũng chỉ được chấm, không có hình thức bảo vệ].

Những nội dung vừa nêu nếu học viên được cung cấp trong quá trình đào tạo chắc chắn sẽ tốt hơn là: để cho vụ việc xẩy ra rồi mới giải quyết, nhất là những bước giải quyết vội vã trước sức ép dư luận.

***

Như vậy, với trường hợp luận văn thạc sĩ của Đỗ Thị Thoan, tôi nghĩ, cần đặt trong hệ qui chiếu của hoạt động giáo dục đào tạo để xem xét. Có thế, học viên sẽ thấy rõ cái sai của mình, người đọc cũng dễ lượng thứ, các thầy cô, các cấp quản lý cơ sở giáo dục đào tạo cũng ý thức được đầy đủ hơn về trách nhiệm ban hành và quán triệt những qui chuẩn, qui phạm trong nhà trường. Trên tinh thần đó những vụ việc như luận văn của Đỗ Thị Thoan sẽ không ầm ỹ lên như hiện nay.

Thứ Ba, 22 tháng 4, 2014

Chia đôi






Tờ giấy đã kí
đủ nhân chứng vật chứng
và cái gật đầu đồng thuận
với lý do thường nhật
“mình không hợp nhau”

con mình thành con riêng
con anh con em con cha con mẹ
căn nhà đêm đêm tiếng cười giòn giã
lặng lẽ chiếc vách vô hình
len lén cặp mắt con thơ nhìn nhau
thèm được chơi chung
thèm được trêu đùa
thèm được bên mâm cơm ấm cúng

em lục tìm nơi thiêng liêng
lôi ra kỷ vật ngày gặp gỡ
lời nhớ lời thương lời yêu lời hẹn
đua nhau đổ về
đôi vai em bé nhỏ
bên nào cũng nặng nợ yêu thương

giọt nước đã tràn ly
làm sao mà hốt lại
em giữ lòng mình tê tái
những đớn đau không nói thành lời

tờ giấy đã ký rồi
mọi thứ đã chia thành hai nửa
anh là chú chim bay tìm tổ mới
có ấm không anh?

giọt nước mắt em rơi
nhỏ vào đêm chồng vợ

tiếng con thơ vẫn hồn nhiên hát
“ba là cây nến vàng
mẹ là cây nến xanh
con là cây nến hồng
ba ngọn nến lung linh
…thắp sáng một gia đình”.

Ngô thị Thanh vân

ý tưởng trước biển



Khaly Chàm



có thật ánh sáng là một tia chớp
khi con người phỏng đoán hay là sự khẳng định
theo dải tần sóng vô thanh
có phải em cũng là một tia sáng chói chang
biểu hiện sự sống trong tôi tình yêu vĩnh cửu
tin chắc là như vậy
nên không cần phải nói những gì…

có mấy ai đã cảm thụ
hàng ngàn năm lời biển hát vinh danh trời đất
hỡi những rong rêu đang bám trên ghềnh đá
hỡi những hạt cát đang phiêu du khắp cùng
hỡi những hạt muối tích tụ ở nơi nào đó
hỡi những sinh vật đang tồn tại
hãy cùng tôi vươn lên để nhìn thấy mặt trời
như thế tất cả đều thỏa mãn khát vọng
hãy tự nhũ chính mình
đừng bao giờ khắc khoải, bi thương, tử, sinh và phẫn nộ
mặt trời đúng theo thời khắc rực rỡ sắc màu