truyện ngắn của TẠ XUÂN HẢI
Cầu Sòng là một nơi hoàn toàn vắng vẻ. Nếu có công chuyện thật sự cấp bách phải qua sông, người ta vòng xuống phía hạ nguồn khoảng nửa cây số, ở đó có một chiếc cầu khác. Hoặc người ta chèo thuyền. Cũng có thể người ta bơi khi con nước hiền lành. Nhưng nhất định người ta không đặt chân lên cây cầu ấy. Không biết từ bao giờ, người ta kinh khiếp nó như kinh khiếp một con ác quỷ. Mà quả thật dân làng tin rằng ở đó có một con ác quỷ trú thân. Để vỗ về và để tỏ ra kính sợ, người ta đã lập một cái am thờ ngay chỗ chân cầu, và tôn xưng nó là Ngài. Lời nguyền của Ngài vẫn còn được truyền lại đến tận hôm nay:
"Nửa bàn chân chạm cầu Sòng
Đàn bà chết sáng, đàn ông chết chiều"
Cây cầu Sòng nằm đó, quên lãng, bình thản, già cỗi, như một con người đã đi đến tận cùng đau khổ, gối tay lên đầu và duỗi thẳng hai chân, thôi không đợi chờ, thôi không hy vọng, thôi không cần sự sẻ chia hay thấu hiểu của người đời.
Nhưng một ngày nọ, có một ông lão từ phương xa vừa đến ngôi làng đã đi qua cây cầu ấy. Ông lão có thân hình nhỏ thó, tay cắp túi vải, đội một chiếc mũ nồi bạc phếch. Ông không hề biết đến lời nguyền đáng sợ kia. Ông đang đi tìm một chốn bình yên để nghỉ ngơi sau những giông bão của cuộc đời. Trong buổi chiều hôm ấy, ông đã tìm được một căn nhà nhỏ ở rìa làng. Bà chủ nhà, ở cách đó năm cái ngõ, bảo với ông rằng chồng bà khi còn sống đã xây nó cho đứa con trai duy nhất. Nhưng cách đây ba năm, một căn bệnh bất ngờ đã cướp nó khỏi tay bà. Bà đã giữ gìn cho ngôi nhà sạch sẽ tinh tươm. Bà không muốn nó trở nên hoang phế. Bà cũng không nghĩ sẽ cho bất cứ một người lạ nào đến ở, nhưng không hiểu sao vừa gặp ông, bà đã thấy mến ngay. "Ông ạ", bà nói, "nhiều lúc tôi cứ nghĩ đó chỉ là một cơn ác mộng, và khi tỉnh dậy, tôi sẽ lại thấy nó đứng đó, mỉm cười với tôi. Tôi cứ sang đây suốt, quét dọn, lau chùi. Tôi sợ nhỡ nó về, nó sẽ không vừa ý khi thấy cái sân đầy lá rụng, và cái nhà thì mạng nhện chăng đầy. Ông thấy tôi có lẩm cẩm không". Ông lắc đầu. Ông nói rằng trước đây ông cũng từng có cảm giác như vậy, khi vợ và đứa con gái của ông bị chết trong một tai nạn ô tô. Ông không tin rằng họ đã ra đi vĩnh viễn. Ông châm một điếu thuốc, ngồi xuống bậc thềm và hướng mắt ra phía dòng sông xanh thẳm. Bà ngồi xuống bên ông, họ cùng im lặng để chia sẻ với nhau những nỗi mất mát lớn lao trong quá khứ. Một lúc như vậy rồi bà đứng dậy. Bà bảo ông đợi bà một lát. Bà về nhà và lúc sau trở sang, khệ nệ xách theo một cái túi lớn. "Ấy là một số đồ đạc cần dùng. Tôi thấy ông chẳng mang theo gì cả. Ít nhất ông cũng cần chúng để nấu ăn, và một chỗ ngủ tươm tất. Nếu muốn sắm thêm gì, thì có một cái quán nhỏ phía đầu làng, ông cũng có thể mua thức ăn ở đó vào mỗi buổi sáng. Chợ thì hơi xa, mà hai ngày mới có một phiên". Ông mỉm cười cảm động. "Cám ơn trời đã đưa tôi đến một ngôi làng xinh đẹp, và gặp được một người tốt bụng như bà", ông nói, "cũng chẳng cần phải sắm sửa thêm gì nữa. Ở tuổi chúng mình, người ta đâu có cần nhiều, đúng không bà?". Bà gật đầu và cười làm cho khuôn mặt nhăn nheo. "Ông đừng lo gì về chuyện tiền thuê nhà", bà nói, "trả bao nhiêu và bao giờ trả cũng được. Tôi cảm thấy vui vì có ông ở đây, mỗi đêm căn nhà sẽ sáng ánh đèn, nó làm cho lòng tôi bớt lạnh lẽo". Ông cười buồn, thấy khóe mắt cay cay. Rồi bà chào ông và ra về. Ông nhìn theo bóng bà cho đến khi bà rẽ ra con đường lớn và khuất hẳn. Ông đưa điếu thuốc lên môi rồi nhẹ nhàng thả khói. Ông thấy lòng mình dìu dịu. Cuối cùng thì ông đã có một nơi chốn yên ổn để sống nốt những tháng ngày còn lại của kiếp người.
Nhưng ông lão không biết rằng vào chiều hôm đó, khi ông đi qua chiếc cầu Sòng, một số người câu cá ở bờ sông đã nhìn thấy. Họ tức tốc chạy về và kể lại cho mấy người già mà họ gặp trên đường. "Lão già ngu xuẩn ấy", họ nói, "hẳn lão ta không biết mình vừa làm một điều khủng khiếp". Họ bàn luận sôi nổi. Lúc sau có một người đàn ông chạy đến. "Hình như lão thuê ngôi nhà bỏ trống phía rìa làng", hắn vừa nói vừa vuốt ngực, "có nên đến và cho lão biết không?". Mấy cụ già ra chiều nghĩ ngợi. Họ nói hãy khoan đã, cần phải có đủ mặt các vị trưởng lão. Một số người được cắt cử đi làm nhiệm vụ báo tin. Và một cuộc họp khẩn cấp được tiến hành ở đình làng.
Khi họ đến nơi thì ông lão vẫn còn ngồi nơi thềm hút thuốc, đôi mắt lim dim. Mãi đến khi họ cất tiếng chào thì ông lão mới giật mình và mở mắt ra. Ông tươi cười chào họ, ông xin lỗi vì đáng ra ông phải là người đến thăm họ trước. Họ bảo họ không đến thăm chơi, họ đến vì có việc quan trọng. Họ hỏi có phải ông đã qua sông trên chiếc cầu Sòng không. Và khi ông lão bảo có, họ cho ông biết rằng ông đã gặp phải tai họa nghiêm trọng. Ông lão ngơ ngác không hiểu. Họ kể cho ông lão về lời nguyền đáng sợ của Ngài, ai vi phạm lời nguyền ấy đều sẽ chết vào ngày hôm sau. "Ông sẽ chết vào chiều mai", họ giải thích, "bởi Ngài cần có thời gian để tỉnh ngủ và nghĩ ra một hình phạt ghê rợn chưa từng có. Ngài không thích sự lặp lại. Ngài luôn có những kế hoạch hoàn hảo". Họ lo sợ thay cho ông lão, trong khi ông lão đã lấy lại được vẻ bình thản, tay đưa điếu thuốc lên môi và mỉm cười lịch sự. Họ nhấn mạnh với ông rằng đó không phải chuyện để đùa. Họ khuyên ông nên đem lễ vật đến am thờ và tạ lỗi với Ngài, hoặc đi tìm một thầy pháp đủ mạnh để có thể thông tri với Ngài, nhằm cứu lấy tính mạng, dù họ không dám chắc là nó có mang lại kết quả hay không. "Dù sao cũng nên thử mọi cách, còn hơn ngồi yên chờ chết". Khi thấy ông lão vẫn chỉ lặng yên, họ kể cho ông nghe về những người trước đây dám đặt chân lên cây cầu đã phải nhận một cái chết đau đớn khủng khiếp như thế nào. "Mọi người đã thực sự được chứng kiến những cái chết đó?", ông lão hỏi. Họ hơi bối rối, nhưng hầu như ngay lập tức, họ lấy lại được bình tĩnh. Họ nói với ông rằng một vài người trong số họ đã từng được thấy, và còn thêm nhiều người nữa. Họ liệt kê ra một loạt những cái tên. "Ông phải tin mới được, vì đó là sự thật mười mươi". Rồi khi thấy ông vẫn không có vẻ gì sợ sệt, họ tức giận vô cùng. "Lão xem chúng mình như đám trẻ con", một gã trẻ tuổi nhổ nước bọt xuống sân và lẩm bẩm. Mấy cụ già thì nhìn chằm chằm vào mặt ông lão. Khi biết chẳng còn cách nào để làm cho ông lão tin về chuyện đó, họ kéo nhau ra về, lòng đầy tức tối. "Nếu đã như vậy", họ nói với nhau, "cứ để lão chết đi!". "Tội nghiệp", một cụ già nói, "tội nghiệp cho những kẻ mất lòng tin". Mấy người còn lại nhao nhao: "Tội nghiệp cái mẹ khỉ! Lão muốn thế mà, cho lão trắng mắt ra!". Họ chào nhau rồi ai về nhà nấy.
Lúc trời chập choạng tối, khi ông già đang khêu bấc để thắp cái đèn dầu thì bà chủ nhà đến. Bà cất tiếng ngay từ ngoài sân. "Ông ơi, ông đâu rồi? Tôi vừa nghe chuyện. Ôi chao! Thế này thì nguy tận mạng!". Ông lão bước ra cửa, cất tiếng chào bà. "Ôi trời, thế mà ông vẫn còn bình thản được sao. Ông sắp chết đến nơi rồi. Ma xui quỷ khiến thế nào mà ông lại dám đi qua cây cầu chết chóc ấy. Nửa bàn chân chạm cầu Sòng, đàn bà chết sáng, đàn ông chết chiều. Ôi chao, khốn nạn cái thân ông". Ông nói rằng bà đừng hoảng lên như thế. Ông chẳng khi nào tin vào những kiểu lời nguyền vớ vẩn ấy. "Vớ vẩn ư? Không đâu ông ơi, có thật đấy. Ngài thiêng lắm. Giờ phải làm thế nào đ…â…y..?". Bà kéo dài câu nói thành một tiếng rên. "Bà này", ông chậm rãi ngồi xuống thềm, "trước nhất là tôi không tin một lời nguyền có thể giết chết người ta, thứ nữa, nếu nó có giết được đi chăng nữa, thì tôi cũng chẳng có gì phải sợ. Tôi chẳng còn sống được mấy nỗi, chết trước hay chết sau vài năm đâu có nghĩa lý gì. Dạo trước, khi vợ con tôi mới ra đi, tôi đã tìm cách để được đi theo họ, thế mà cả ba lần đều không thành. Nếu mà lời nguyền có thực, thì tôi phải cảm ơn nó mới phải. Tôi sẽ được đoàn tụ với vợ con tôi. Bà ạ, tôi hỏi cái này chí không phải, nếu bà có điều gì phiền hà, tôi có thể ra đi ngay tối nay. Tôi không muốn ngôi nhà mà bà yêu quý bị cái thân già này làm cho vấy bẩn". Bà già xua tay lia lịa, bà nói rằng bà không hề có ý đó. Bà chỉ lo cho ông thôi. Bà sang là muốn khuyên ông nên tìm cách cách gì đó để hóa giải lời nguyền. Nhưng nếu ông đã nghĩ như vậy, bà cũng không năn nỉ nữa. "Ừ thì sống chết có số, giàu sang tại trời", bà nói vậy. Ông mỉm cười: "tôi cảm ơn bà nhiều lắm, một lần nữa tôi phải nói rằng bà là một con người tốt bụng vô cùng. Bà làm tôi nhớ đến nhà tôi, và làm tôi có cảm giác như thể đây là quê hương của mình vậy". Bà già cúi đầu. Bà thấy ông thật biết cách làm yên lòng người khác. Bà cố để không cho ông thấy mình đang cười. Rồi bằng một câu chào vội vã, bà bước ra ngõ và rẽ vào đường lớn.
Chiều hôm sau, cả đám dân làng đều thấp thỏm chờ đợi lời nguyền sẽ ra tay với lão già lỳ lợm ngu xuẩn. Họ tụ tập thành từng nhóm, đứng ngoài đường và chốc chốc lại nhìn vào trong nhà của người đàn ông nọ. Bà chủ nhà thì không dám đến, bà nói rằng bà sẽ không chịu nổi khi nhìn cảnh ông lão bị hành hạ cho đến chết. Ông lão ngồi ở chiếc bàn gỗ nhỏ ngoài hiên, đôi mắt chăm chú nhìn vào một vật gì đó. Tay phải của ông thỉnh thoảng lại đưa điếu thuốc lên môi và rít một hơi dài. Có lúc ông mỉm cười một mình, có lúc ông đưa hai tay lên bưng mặt. Dường như ông không biết đến đám người đang tụ tập ngoài kia và chờ đợi cái chết của ông. Trong một lần sơ ý, ông làm rơi chiếc ly thủy tinh có tay cầm xuống nền gạch. Một tiếng choang khô khốc vang lên làm cả đám đông giật mình kinh hãi. ‘Bắt đầu rồi đấy", họ xì xào. Họ cố nhướng cổ thật cao, có một số người còn chạy vào tận cổng. Một số kẻ thì thầm gì đó vào tai kẻ khác. Mấy bà già lầm rầm khấn vái. Một số kẻ nhắm mắt không dám nhìn. Ông lão chậm chạp bước ra khỏi ghế, đi lấy một cái chổi và nhóm những mảnh vỡ thủy tinh lại một chỗ. Sau đó ông hất chúng vào cái thùng đựng rác bằng nhựa có nước sơn màu xanh nhạt. Ngay lúc đó ông mới phát hiện ra ở ngoài đường có bao nhiêu là người đang đứng đó, nhìn mình. Ông mỉm cười chào họ, nhưng không ai mỉm cười đáp trả. Ông dựa cái chổi vào tường và trở lại bàn, châm một điếu thuốc mới rồi cúi xuống chăm chú như chưa có điều gì xảy ra.
Đám đông bắt đầu sốt ruột khi mặt trời sắp lặn. Một số phụ nữ đành luyến tiếc trở về nhà để chuẩn bị bữa tối. "Hét lên thật to khi chuyện đó xẩy ra nhé", họ dặn những kẻ ở lại. Lũ trẻ con cũng bị kéo về, dù một số đứa cứ nằng nặc không chịu. Chúng nằm ra giữa đất và khóc rống lên cho đến khi người lớn dọa chúng rằng, nếu không về, Ngài cũng sẽ đến tìm cả chúng nữa. Còn lại một đám khoảng vài chục người, trong đó có ba bốn cụ già. Họ ngồi thành một vòng tròn trên đám cỏ dưới một gốc cây xà cừ lớn.
- Nó chắc chắn sẽ xảy ra với lão già chứ? Một gã mặt non choẹt hỏi.
- Chắc chắn nó sẽ xảy ra. Chỉ là không biết đích xác lúc nào thôi. Có thể Ngài đang gắng nghĩ ra một hình phạt thật khủng khiếp, bởi lâu rồi ngài chưa được ra tay. Một cụ già nói.
- Có khi nào Ngài đã quên lời nguyền của mình không? Một gã mặt đầy tàn nhang xen vào.
- Quên thế nào được! Chỉ là Ngài suy nghĩ hơi lâu một chút. Hẳn Ngài đã già rồi, không còn minh mẫn và khỏe mạnh như xưa. Một gã trẻ tuổi khác tinh nghịch.
- Báng bổ! Ngài không bao giờ già! một cụ già dỗ cái điếu thuốc lào xuống đất, chờ mà xem, kiểu gì cũng trong chiều nay.
Một vài kẻ đứng dậy và nhìn vào trong nhà của ông lão. Nhưng ông vẫn chúi mũi xuống bàn. Họ lắc đầu với mấy người khác và lại ngồi xuống.
Trời đã nhá nhem tối. Đám đông chỉ còn lại khoảng mươi người. Vẫn không có chuyện gì xẩy đến. Ông lão đã đứng dậy, vào bếp nhóm lò chuẩn bị bữa tối. Ngọn lửa rực lên soi chiếu khuôn mặt nhăn nheo và bình thản. Đám người bắt đầu chán nản. Họ truyền tay nhau điếu thuốc lào và ngáp dài liên tục. Một số kẻ đánh ben bét vào chân để xua muỗi. Một số kẻ ngó vào ngôi nhà lần cuối rồi phủi đít đi về. Đến bảy giờ tối thì không còn một ai ở lại nữa. Tuy vậy, trong đêm, người ta vẫn dỏng tai lên nghe ngóng. Họ vẫn hy vọng tai họa sẽ xảy đến với ông lão xa lạ kỳ quặc kia, muộn còn hơn không. Họ ngóng chờ nó như ngóng chờ lễ hội mùa xuân. Rồi họ chìm vào giấc ngủ đầy những băn khoăn khó tả, đầy những mộng mị kinh khiếp thỏa thuê.
Suốt cả buổi chiều hôm ấy, bà chủ nhà cũng đứng ngồi không yên. Bà đi ra sân, ra ngõ, định ra đường lớn rồi lại trở vào nhà. Một tiếng chó sủa cũng khiến bà hoảng hốt. Lúc chiều tàn, bà như trút được gánh nặng khi biết ông lão vẫn bình an vô sự. Bà muốn sang nhà ông để chia vui với ông, nhưng bà lại thôi. Bà nghĩ ông chẳng cần đến những lời chia vui ấy, vì ông đâu có sợ phải chết. Vả lại, ai mà biết được rằng tai họa đã thực sự đi qua hay vẫn còn rập rình đâu đó ngoài kia? Tốt nhất, với tâm trạng này, bà nên ở nhà và để ông được yên tĩnh một mình.
Ngày hôm sau, rồi hôm sau nữa, ông già vẫn bình an vô sự. Tất nhiên người vui mừng nhất là bà chủ nhà. Bà nghĩ Ngài đã động lòng trắc ẩn trước con người đáng mến kia. Những người phụ nữ khác cũng chẳng còn bận tâm. Trẻ con thì hoàn toàn quên béng. Nhưng đối với một số người thì sự việc không đơn giản như vậy. Đó là một sự xúc phạm không thể tha thứ. Làm sao mà một con người lạ mặt, vừa đến từ một nơi xa xôi nào đó lại dám dẫm lên lời nguyền mà cả dân làng đã phải kiêng sợ từ bấy lâu nay? Và dẫm lên mà không hề bị trừng phạt? Ông ta đã làm cho tập tục bị xáo trộn. Ông ta đã làm cho niềm tin của dân làng vào các vị bô lão bị lung lay. Rồi mọi chuyện sẽ đi đến đâu, khi mà lời nói của các vị không còn được cháu con tuân phục? Thế nghĩa là đâu chỉ lời nguyền bị vô hiệu hóa, mà ngay cả nề nếp kỷ cương cũng bị đe dọa. Người đàn ông kia hẳn nhiên phải bị trừng phạt. Và một cuộc họp nữa được triệu tập ngay lập tức. Người đàn ông bị buộc phải dời đi. Ông ta không phải là người, ông ta là một con quỷ dữ đội lốt người. Vì sao ư? Vì đến cả Ngài cũng không dám ra tay trừng phạt hắn. Hắn quá cao tay ấn. Hắn chế ngự được cả lời nguyền. Hắn chế ngự được Ngài. Nhưng còn dân làng? Sẽ phải làm sao khi Ngài tức giận và trút tất cả nỗi tức giận đó lên đám người vô tội? Ngài sẽ hủy hoại cả cái làng này nếu như còn tiếp tục chứa chấp kẻ thù không đội trời chung của Ngài.
Chiều hôm đó, một số người đã đến ngôi nhà ông lão ở và báo cho ông biết quyết định của dân làng. "Thế đã là quá tử tế với lão rồi đấy nhé". Họ quan sát thái độ của ông. Ông ngồi yên lặng, mắt nhìn ra phía bờ sông, một cái nhìn xa xăm vời vợi. "Lão phải dời đi ngay chiều nay, nhớ nhé, ngay chiều nay đấy", họ nhắc lại lần nữa để chắc chắn là ông đã nghe thủng lỗ tai rồi ra về. Ông lão vẫn ngồi nhìn vào xa xăm. Đoạn ông lôi bức ảnh nhỏ từ trong túi áo ra, vuốt ve nó và giơ lên ngắm nghía. Ông nghĩ đến vợ và đứa con gái của mình. Ông đã rời bỏ thành phố và đi thật xa về những miền quê để không phải nhìn thấy những con đường lớn và những chiếc ô tô, và khi gặp được ngôi làng này, gặp bà già tốt bụng ấy, ông những tưởng mình sẽ được yên tâm sống nốt quãng đời còn lại, giữa cỏ cây và dòng sông tươi mát, giữa những người nông dân bình dị. Ông đã chuẩn bị tâm thế để nằm xuống nghỉ ngơi dưới bầu trời rộng rãi trong lành. Nhưng điều đó giờ đây là không thể. Ông là kẻ có tội, hay đúng hơn, người ta bắt ông phải là kẻ có tội. Một kẻ dám chà đạp lên lời nguyền, chà đạp lên sự bình yên của những người khác. Giờ thì ông sẽ lại phải ra đi. Ông không thể sống trên nỗi lo sợ và căm ghét của người đời. Mà họ cũng chẳng đời nào để ông yên, nếu ông cứ cố tình ở lại. Chân ông run lên khi nghĩ đến con đường phía trước. Ông uể oải đứng dậy, vào nhà. Ông nhét mấy bộ quần áo vào chiếc túi vải cũ nát, chụp chiếc mũ nồi bạc phếch lên đầu. Khi trở ra, ông gặp bà chủ nhà đang đứng dưới sân và nhìn ông. Ông cố tỏ ra bình thản. Bà bảo bà rất lấy làm tiếc, nhưng ông biết đấy, dân làng đã đồng ý với quyết định của các vị trưởng lão. Ông mỉm cười với bà. "Tôi hiểu mà, đó đâu phải là lỗi của bà, cũng chẳng phải lỗi của ai. Tôi không thuộc về nơi này, đơn giản vậy thôi. Hẳn sẽ còn nhiều chỗ khác mà tôi có thể đến và sinh sống. Tôi chỉ buồn khi phải xa bà, người bạn già tốt bụng của tôi". Bà bảo bà rất lo lắng khi để ông ra đi lúc trời sắp tối như thế này. "Chẳng sao đâu", ông nói, "đêm tối có còn xa lạ gì đối với tôi. Trước khi đến đây, tôi đã trải qua biết bao nhiêu là đêm tối trên đường". Bà im lặng. Bà đưa mắt nhìn bao trùm toàn bộ người ông. Bà muốn lưu giữ hình ảnh của con người dễ mến này, con người đã làm cho căn nhà thôi hoang vắng. Rồi bà chào ông và ra về. Bà không muốn nhìn thấy cảnh chia ly. Chờ cho bà đi khuất một lúc lâu, ông mới đứng dậy, khép cửa lại, châm một điếu thuốc và bước xuống sân. Không hiểu tại sao, ông lại muốn leo lên cây cầu Sòng một lần nữa. Ông xuyên qua bóng tối của ngôi làng và hướng ra phía bờ sông. Gió thổi mạnh từng cơn, mang theo không khí ẩm lạnh của một cơn giông sắp đến. Trên môi ông lão, điếu thuốc lập lòe như một con đom đóm lạc bầy.
Mấy ngày sau, họ tìm thấy xác ông lão dạt vào bãi ngô non ở bờ sông phía bên kia. Có người buồn, có kẻ vui, riêng bà chủ nhà thì quay mặt đi và khóc. Nhưng tất cả dân làng đều đồng ý với nhau rằng: cuối cùng thì lời nguyền đã ra tay.