Chủ Nhật, 29 tháng 9, 2013

Yêu


Tình yêu có thật, tình bạn có thật, văn chương có thật. Tôi đã được gặp ở Paris mùa thu vừa qua. Sông Seine rung rinh ban chiều mịn phấn. Một thoảng gió ấm âu yếm ve vuốt nước sông. Trời đẹp.

*

Mày không tin nổi mắt mình khi đọc tờ fax của Linh. Linh sắp tới Paris. Linh đã xoay xở thế nào mà được cấp hộ chiếu ? Từ ngày ra tù, Linh bị quản thúc nghiêm ngặt. Eva sẽ từ New York qua để chào đón Linh. Một tuần nữa mày sẽ được nối vòng tay ôm bạn. Thế là lại được gần nhau. Để hoàn thành bản dịch tiểu thuyết mới nhất của Linh.

Sân bay, bạn bè đông đúc. Eva ôm một bó hồng khổng lồ.

Tao mới gặp Linh hè vừa qua ở Hà Nội. Linh rạng rỡ, mày gặp là mê liền.
Florence bật cười ngất, khiêu khích nhìn Eva.

– Tao sẽ nổ xâm banh, tặng một bông hồng cho người đàn bà nào biến được nó thành kẻ si tình. Nó không biết yêu.

– Đối với một nhà văn, thật hết nói !


Mọi người phì cười.

Mày sống với Florence đã hai mươi năm. Thỉnh thoảng Florence đi với một người đàn ông khác. Cũng có lúc mày mê một người đàn bà khác. Thiên hạ kêu ầm xìcăngđan. Thiên hạ nhìn mày, ánh mắt đượm chút khinh khi, tội nghiệp. Dù sao người đời cũng đành công nhận điều hiển nhiên, hai đứa thật tình yêu nhau. Và đàn ông ngấp nghé Florence. Và đàn bà lườm. Ao ước. Ganh ghen.

Florence chào đời ở Sàigòn, thời thực dân. Florence không sao quên được, nhớ mãi tiếng ru của bà vú, hy vọng có ngày trở về đó sống. Mày quen Florence trong thời chiến. Thuở ấy, Florence sống với Đức, một người hoạt động trong Hội Người Việt Nam Tại Pháp, hào quang của Hội, bằng chứng rực rỡ rằng trí thức Việt Nam gắn bó với cách mạng. Nó là cựu học sinh trường Polytechnique duy nhất đi theo phong trào với tư cách một người hoạt động cơ sở. Nó chẳng bao giờ đọc diễn văn trên khán đài, nó tình nguyện thực hiện những công việc tổ chức vật chất tối tăm hèn kém.

Florence cũng hoạt động, dũng cảm và đẹp. Tuy nhiên, mày cảm thấy lãnh đạo ngấm ngầm nghi ngạiFlorence. Một hôm, mày hỏi một người vì sao.

Mối tình này thật không phải lẽ, thế nào cũng hỏng. Không một người đàn bà Pháp nào có thể thích nghi với những điều kiện khắc nghiệt của nước ta, của cuộc cách mạng của chúng ta.

Mày phẫn nộ. Florence đã bỏ hết để đi theo lý tưởng. Mày không thấy vì sao Florence không thích nghi được tốt như chính mày. Ra thế, họ giả vờ thương Florence, nhưng họ sợ. Đức có thể bỏ cách mạng vì yêuFlorence. Mày hỏi Đức nó thấy thế nào ? Nó thở dài, cúi mặt, nói bóng gió cho mày hiểu rằng chủ nghĩa xã hội không tươi hồng như mày tưởng. Mày tưởng nó sợ điều kiện sinh sống khắc nghiệt trong một nước nghèo nàn, lạc hậu, bị hàng chục năm chiến tranh tàn phá. Mày giận nó dám coi thường người đàn bà nó yêu. Mày chẳng hiểu gì cả.

Đức về nước ngay sau khi Sàigòn được giải phóng. Nhân một chuyến đi, mày gặp lại nó tại một văn phòng tăm tối ở Bộ Ngoại Giao, đang dịch diễn văn vớ vẩn của lãnh đạo. Nó đã lấy con gái một quan chức của chế độ, có một con trai xinh đẹp, cư ngụ trong căn hộ hai phòng mục nát của một toà nhà lắp ghép ở ngoại ô Hà Nội. Nó phô trương niềm vui dễ lây, tinh thần lạc quan không sờn chút rạn nứt đối với tương lai của cách mạng. Một buổi chiều, hai đứa lang thang bên Hồ Hoàn Kiếm. Ve sầu đã lặng tiếng. Mặt trời tắt dần.

– Thỉnh thoảng mày thiếu Paris không ?

– Không. Nhưng tao thiếu Florence.

– Nó đang sống với tao, mày có biết không ?

– Dĩ nhiên tao biết, người ta đã cho tao biết ngay tức thì.

– Mày vẫn yêu nó phải không ?

– Ừ.

– Mày muốn tao nói lại cho nó không ?

– Để làm gì ?

– Tao tin nó vẫn yêu mày.

– Tao mong vậy, nhưng để làm gì bây giờ ?

– Trời ơi, sao mày bỏ nó ?

– Mày đừng giả vờ ngốc nghếch, mày đã về đây, mày đã thấy hết, làm sao nó có thể sống ở đây ?

– Mày biết điều ấy trước khi mày về ?

– Ừ. Chính vì vậy mà tao đoạn tình với nó. Tao không ân hận, hối tiếc. Còn kinh hoàng hơn tao đã từng tưởng tượng.

– Nghĩa là thế nào ?

– Thối nát từ bên trong.

– Sao mày không ở lại Pháp ? Ở đó, mày có ích hơn cả trăm lần ở đây.

Đức cười, mỉa mai.

– Mày không thay đổi bao nhiêu. Mày vẫn tin ở tự do, phải không ? Tao còn nhớ, tự do chỉ là khắc khoải lựa chọn.[1] Chúng ta, người Việt, chẳng đến nỗi khắc khoải cho lắm vì chúng ta không thể có được sự lựa chọn. Tuổi trẻ của chúng ta thú vị quá ! Dưới đá lát đường, bãi biển…[2] Mày cũng không sai, con người là sinh vật duy nhất biết tự tử. Nhưng mày vừa xa rời những khái niệm cúng trừu tượng, đối với chúng ta, những thằng Việt Nam chào đời trong giới tiểu tư sản, khả năng lựa chọn thật eo hẹp. Chúng ta vừa không có đôla vừa chẳng có người. Một mình, chúng ta chẳng có kilô nào trên mặt đất. Phải đi với quần chúng, và quần chúng, chúng nó nắm và điều hành. Mày cứ việc lựa chọn. Chung thân phận hay tự loại mình với vinh quang truy tặng trong sự thỏa mãn ghê tởm của kẻ đã có lý.

– Mày còn tin vào quyền năng của ý tưởng không ?

– Càng ngày càng bớt.

– Vậy sao không làm lại từ đầu ?

Nó nhìn mày, sững sờ.

Khi mình không còn khả năng đổi đời, dù chỉ bằng một hạt bụi sống, khi mình hết cả khả năng tạo ý nghĩa cho đời mình, dám yêu sao được ? Tao chưa là một con thú.

*

Sau khi Đức bỏ đi, Florence sống loạn xạ, vui, phù phiếm, gây xìcăngđan. Florence đẹp và coi dâm hơn bao giờ hết. Đàn ông vây bủa. Florence cứ tự tiện, lấy thằng này, bỏ thằng kia qua ngày. Cuối cùng Florence kết hôn với Châu. Mày mừng cho nó. Châu yêu nó đê mê. Họ như đã được tạo ra để cho nhau. Vừa cưới xong, Châu liền tra tấn Florence, phanh phui quá khứ, truy bức kỷ niệm, lôi những dan díu đã qua củaFlorence ra trách móc. Nó không ngừng tra hỏi Florence về quan hệ của Florence với Đức, giày xéo, làm ô uế mọi chuyện. Florence lồng lên, giải thích, cố khiến Châu hiểu mình. Cuối cùng, Florence đành khoá mình trong im lặng. Châu quay ra uống rượu, và đánh.

Thỉnh thoảng, mày gặp lại Florence ở quán cơm Maubert, nơi hò hẹn của tuổi dấn thân. Ăn với bạn, cười cợt những khoảnh khắc đã chung sống với nhau. Rồi mày dắt Florence dạo chơi bờ sông Seine. Florence cho mày biết tin về Đức. Florence biết rõ lạ lùng Đức đang sống thế nào ở Hà Nội. Florence nói về Châu, lửa ghen trầm uất của nó. Châu muốn có con. Florence do dự, cảm thấy mình mắc lưới, không biết nên định đoạt ra sao.

– Nó đã yêu tao, nó vẫn yêu tao. Có lẽ tao cũng vẫn yêu nó. Tao muốn có một gia đình, có con. Nhưng bây giờ, tao không biết tao muốn gì nữa.

– Mày vẫn yêu Đức ?

– Ừ, nhưng tao chỉ có khả năng sống với Châu mà thôi.

– Kết hôn là một thể chế đang chìm xuồng nơi nơi, thanh thiên bạch nhật cũng như lén lút, nhưng không ai biết thay thế nó bằng cái gì. Khi cưới một người đàn ông, mày cưới luôn cả thể chế ấy, sự bạo liệt muôn đời của nó, tất cả những niềm tin cũ kỹ của thế gian. Chiếm hữu, ghen tuông, tình yêu.

– Không có gì khác sao ?

– Tao không biết.


Thường thường mày chẳng có gì đáng nói với Florence. Florence cũng vậy. Chỉ có thú vui đi dạo bên nhau. Mày yêu những cuộc lang thang câm lặng kéo dài đó và sự hiện diện trìu mến thấm thía của Florence bên mày. Florence cũng thích có mày ở bên. Florence thấy dịu người.

Một hôm, Florence không tới quán cơm Maubert nữa.

Mày gặp lại Florence đêm Tết tại điện Maubert-Mutualité, trong dạ hội mừng Tết Nguyên Đán. Florence đã ly dị. Florence kể lại như kể một chuyện vặt. Mày cảm thấy Florence cô đơn. Mày chẳng biết nói gì. Mày mời Florence khiêu vũ. Florence lắc đầu. Mày thấy mình thừa thãi, khó chịu. Mày tìm cách hồn nhiên lẩn trốn. Florence vươn tay giữ mày lại.

Ở lại với tao, tao cần mày.

Thiên hạ nhảy. Đêm trôi đi. Tảng sáng, mày tiễn Florence về trong sương mù tháng hai trên bến hoang vắng dưới ánh đèn phờ phạc soi đường phố. Trước của nhà, Florence bảo : Mày lên với tao.

Mày ấp úng. Florence mỉm cười.

Mày đừng sợ, tao không có nhu cầu làm tình đâu.

Mày đỏ mặt. Florence ve vuốt má mày.

Mày đang mệt. Lên ngủ với tao.

Hôm sau, lần đầu tiên trong đời, mày đã dám xin.

Florence, mình sống chung với nhau đi. Tao cảm rõ, chúng ta sinh ra để hiểu nhau.
Florence trầm ngâm một lúc lâu, quay mặt ra cửa sổ, nhìn trời.

Để xem.

Và đã thế. Không tuần nào qua mà mày không gặp lại Florence. Thỉnh thoảng, Florence tới nhà mày ngủ. Thỉnh thoảng mày tới nhà Florence. Năm tháng trôi đi, Florence quyết định sống dưới cùng mái nhà với mày, mỗi đứa trong phòng riêng của mình. Florence không muốn có con. Rất hợp với mày. Mày thấy thế giới chẳng có gì hấp dẫn cả và mày không còn khả năng khát khao một thế giới nào khác. Thế giới Florencecho mày khiến mày toại nguyện. Có biết bao hạnh phúc nho nhỏ chung. Lang thang Paris. Du lịch tuỳ hứng. Rượu ngon, cơm ngon, sách đẹp. Thú vui tán gẫu đủ thứ chuyện, chẳng đáng gì, chẳng để làm gì. Và, thỉnh thoảng, làm tình, tuyệt vời. Có khi lúc hừng đông, Florence len lỏi vào giường mày, ve vuốt, mơn trớn, dịu dàng khiến mày căng cứng. Khoảnh khắc mày thích nhất. Mày thấy yên ả, thoải mái, tin cậy. Mày không yêu gì hơn là làm tình với Florence trong ban mai sơ sinh. Florence cũng thích tỉnh giấc trong ve vuốt chầm chậm của mày.

*

Không tin nổi mà vẫn thật. Linh đã tới. Eva và mày sẽ thực hiện được giấc mơ, một bản dịch hoàn hảo tiểu thuyết của Linh. Vẻ mặt rạng rỡ của Linh thôi miên mày. Giọng cười tươi vui, cử chỉ thân thiện của Linh khiến mày xôn xao. Nhưng khi Linh không cười, mặt Linh đanh lại, ánh mắt xa vời.

– Linh làm sao mà ra được khỏi nước ?

– Linh gửi một lá thư cho chính quyền, đòi quyền du lịch của Linh. Chắc họ ớn những khó khắn mà thiên hạ đã gây cho họ vì đã bỏ tù Linh. Họ để Linh đi.

– Họ có thể lợi dụng chuyện này để đày Linh luôn chăng ?

– Linh sinh ở Việt Nam. Ở đó, Linh sẽ sống, sẽ chết. Linh không cho ai phép cấm Linh điều ấy.
Mày hẹn hai người mỗi sáng trong vườn Luxembourg. Ốc đảo đầy lá lặng thinh ngay giữa Paris, một quán ăn nhỏ màu xanh dựng đứng giữa vườn, hoang vắng.

Linh kêu tách trà. Eva mê càphê Pháp. Đùa nó, mày đòi ly coca cola. Linh bật cười.

– Linh nên nếm thử càphê Tây, ngon nhất thế giới đó.

– Xưa kia, Linh rất mê. Bên mình, ở Blao, trên Tây Nguyên, đất đỏ sản sinh một loại càphê tuyệt hảo. Người ta sấy nó kiểu Pháp với một tí bơ và Cognac. Sáng nào Linh cũng uống.

– Tại sao bây giờ Linh không uống nữa ?

– Lúc đó Linh ở tù. Ngày nào cũng bị hỏi cung. Một kiểu tra tấn trí não. Những câu hỏi vớ vẩn trở đi trở lại, ám ảnh nhức nhói, hàng chục, hàng trăm lần. Đồ ăn thấy mà ghê người. Linh sụt nhiều cân. Một loại nấm gặm mòn da Linh. Linh đã chuẩn bị chịu đựng tất cả, phản kháng, tự sát. Linh sống sao cũng được, không còn nhu cầu, ham muốn. Nhưng Linh thèm càphê. Một buổi sáng, ra phòng hỏi cung, Linh ngửi thấy mùi càphê thơm. Họ đặt một tách trước mặt Linh. Tay đại tá lấy cung bảo : nếu chị muốn, chúng tôi sẽ hầu chị càphê mỗi sáng. Linh cười : xin khen, gián điệp của ông đã cho ông thông tin chính xác, đúng là tôi có một nhược điểm, tôi không thể thiếu càphê buổi sáng. Nhưng ông không nên phí công, từ nay tôi sẽ không bao giờ uống càphê nữa.

Linh bật cười, giọng cười vui vẻ khiến mày rùng mình.

– Chúng nó hiểu chủ nghĩa duy vật biện chứng và thuyết duy thực như thế đấy. Thế là Linh đột ngột theo chủ nghĩa duy tâm và lãng mạn. Từ ấy, chúng nó còn muốn bẫy Linh kiểu khác : một thằng đực rựa. Từ khi ly dị, Linh chưa nếm thằng nào. Ở nước mình, không gì hơn là bép xép về đời sống tình dục để hại uy tín của một người đàn bà. Một tay thầy lang bán cho Linh một toa thuốc giết nhu cầu tình dục. Linh ngốn đều đều từ nhiều năm rồi. Nó phá tan hoang thận của Linh, nhưng cơ thể để Linh yên thân. Linh đã trở thành một thằng đàn ông 75%. Đúng hơn, một con người bị thiến.

– Linh uống một tách càphê với tôi đi. Lời thề của Linh có giá trị ở Việt Nam. Nhưng chúng ta đang ở Pháp và tôi không phải là một gã công an.

Linh lắc đầu. Và cười.

Ở tù, Linh học được chút từ Pháp trong từ điển. Eva biết nói tiếng Tàu nên đoán được phân nửa ý nghĩa những từ Việt Nam. Mày biết đủ tiếng Anh để đọc sách, không đủ quen để nói chuyện. Một tam giác lạ lùng thần diệu – Việt Nam, Pháp, Anh – tràn ngập tiếng cười ngất.

– Yêu.

– Aimer.

– To love.

– Plutôt loving, comme dans I can’t stop loving you.

– Alors, c’est aimant.

– Yêu c’est yêu, où est le problème ?

– Vấn đề ở chỗ chúng ta, người Việt, không chia thì động từ. Mọi người đều luôn luôn yêu y hệt mọi lúc.

Và ngôn ngữ sổ lồng loạn, hàng giờ, nhân một câu, một từ. Những ký ức pha trộn rối bời, ngôn từ thấm đậm kỷ niệm đọc sách, khát vọng, những cuộc đời. Việt Nam, Pháp, Mỹ. Chiến tranh, kiếp đọa đày, lang thang. Nỗi khắc khoải già cỗi của tuổi thơ, những lưỡng lự ngờ vực ở tuổi trưởng thành. Và khao khát yêu.

Rất nhanh Linh và Eva không cần tới mày để hiểu nhau. Chỉ nửa lời, họ đã hiểu nhau. Mày phát ghen. Giữa đàn bà có một sự đồng cảm vĩnh viễn loại mày.

Trong tình thân sâu kín của ngôn từ, chẳng còn gì bị cấm đoán, mọi chuyện đều có thể nói với nhau. Yêu và hiểu, giấc mơ của tình nhân… Mày không còn biết tình bạn ngưng ở đâu, tình yêu bắt đầu từ chỗ nào. Mỗi khi ánh mắt Linh lạc vào nơi xa vời, mày thèm ôm Linh trong vòng tay, ve vuốt Linh, kéo Linh trở về mày. Một lần, mày hé tay. Dịu dàng, Linh đẩy mày ra.

Đừng thử. Muộn quá rồi. Cho chúng ta. Bên kia, Linh dựa vào quá khứ để không bị hiện tại này đè bẹp. Ở đây, anh vươn tới tương lai để thoát nó. Đều vô vọng. Chúng ta sẽ không có một hiện tại chung. Với Eva, cũng thế.

Càng ngày mày càng khó che dấu tình cảm. Mày linh cảm thảm họa rập rình tới. Mày tự cấm mọi cử chỉ trìu mến. Mày không còn dám lướt mê bộ ngực kiêu kỳ của Linh, vành môi khiêu gợi của Eva.

Sửa bản dịch tiếng Anh, mày coi lại bản tiếng Pháp. Lần lần, mày thất lạc trong đó. Đó là giọng của Linh, của mày hay của Eva ?

– Văn mày quá hồn nhiên, không dịch được.

– Linh viết như mọi người để cho ai cũng đọc được. Đó là vũ khí. Linh dùng nó khi trắng tay.

Eva nhìn mày, vẻ lạ lùng.

– Còn mày, mày chẳng viết giống ai. Quá rõ ràng và chẳng rõ ràng tí nào. Luôn luôn có điều gì sổ thoát, chạy đi.

– Tao suy nghĩ với khái niệm Tàu, cảm xúc với từ ngữ Việt, lý luận như một thằng Tây và phục tùng văn phạm của Viện Hàn Lâm. Làm quái gì được với một mớ hẩu lốn như thế ? Chẳng gì hết… Văn chương… Văn gừng…

– Một cuộc gặp gỡ, có thể lắm chứ ?

Ngày ngày trôi đi. Chẳng ai ý thức cả. Quyển sách từ từ thành hình. Mày nhận thấy ở nó giọng cuồng nhiệt của Linh và giọng, yêu mến, của Eva, giọng của chính mày.

*

Khúc trưa, Florence và François tới nhập bọn. François là họa sĩ. Sợi dây tăm tối nào trói chặt nó với Việt Nam ? Nó mới chỉ độ ba mươi tuổi, chưa từng sống những năm tháng đam mê của thời chiến. Nó hầu như chẳng biết gì về nước Việt, lịch sử và văn hoá Việt Nam. Nhưng nó mê ăn chả giò, phở và sử dụng đũa điêu luyện. Nó gặp Florence trong một buổi khai mạc triển lãm tranh. Suốt buổi tối, nó không rời gót Florence. Nó yêu cầu Florence làm người mẫu cho nó. Florence đỏ mặt. Nó năn nỉ, gần như van lơn.

Từ ấy, nó chỉ vẽ Florence thôi, vẽ, rồi bỏ, rồi vẽ lại miên man vô tận chỉ một bức tranh. Tình yêu của François thôi miên Florence. Florence tìm lại được ở nó quyết tâm dữ tợn của Đức, nỗi đam mê hung dữ của Châu, và một điều gì đó mà chỉ có một họa sĩ mới tiết lộ cho Florence được, sự tôn thờ đắm đuối thân thể của Florence. Nhưng François làm Florence kinh hãi. Nó không cho Florence yên thân một phút nào, săn bắt ngày đêm, khắc khoải lo sợ không tìm ra Florence ở đầu bên kia dây điện thoại.

Florence đi với François từ một năm nay. Mày ít khi gặp. Thỉnh thoảng, Florence về nhà, mệt lử, cân não rã rời, nhưng vẫn hạnh phúc. Florence cuộn mình trong vòng tay mày, lấy lại sức, và lại ra đi.

*

Đại lộ Saint-Michel, nơi hò hẹn rạo rực, nhộn nhịp của tình yêu thuở sinh viên. Trước nhà thờ Đức Bà, mày chỉ ký hiệu cây số 0 của nước Pháp cho Linh.

– Tao hẹn tất cả ở đây, đúng ngày tân niên năm 2000, để chôn thế kỷ khốn nạn này. Tao hứa sẽ tặng đứa nào y hẹn một bông hồng đỏ. Trong khi chờ đợi, chúng ta đi nhậu.

– Rất tiếc, Linh và tao đã định đi dạo mua ít giẻ rách. Nếu muốn, chúng ta ăn cơm tối với nhau.

– Nghìn lần luyến tiếc, rượu Beaujolais Đầu Mùa đã tới ! Florence với tao đã thề cùng đón mừng nó mỗi năm. Rong chơi vui nhe, giẻ rách đẹp nhe, hẹn nhau ngày mai.

– Được, sáng mai tại vườn Luxembourg. Tao có một món quà bất ngờ tặng tụi bay.

Linh chẳng thể mơ tìm được người hướng dẫn hơn Eva. Eva lớn lên ở Paris, biết thành phố như đũng túi của nó, danh lâm thắng cảnh cho du khách, quán rượu nhỏ, khu phố cổ xưa, những khoảnh khắc Paris để lộ cho ai yêu nó một chút lòng thầm kín âu yếm xa xưa của nó. Mày chẳng biết gì về những cuộc rong chơi, trò chuyện giữa hai người. Linh không bao giờ đề cập tới. Eva che chở cẩn mật khu vườn bí mật của những mối tình bạn gái của mình.

*

Chiều hôm, mày gặp lại Florence ở quán Boul'mich. François có đó, khiến mày ngạc nhiên. Xưa nay, bữa tối uống Beaujolais Nouveau luôn luôn tay đôi. Florence nhìn mày, gương mặt hốc hác, mắt sưng vù. Căng thẳng, đen tối, François bắt tay mày, đứng dậy, bỏ đi, không một lời.

– Chuyện gì vậy ?

– Cũng vẫn chuyện ấy.

– Nó điên rồi. Nó ngủ với mày mà nó còn xa xỉ ghen tao ! Nó bệnh hoạn rồi, tống nó đi chơi chỗ khác là vừa.

– Tao xin mày, đừng nói bậy, nó yêu tao, nó muốn lấy tao làm vợ.

– Còn mày ?

– Không. Vừa rời xa nó, tao thấy thiếu nó ngay, nhưng hễ gặp lại nhau là cãi lộn. Hai đứa chỉ thực sự hợp nhau khi nó ôm tao làm tình. Nó âu yếm quá, kiên nhẫn quá, rộng lòng quá khi nó làm tình với tao. Nhưng khát vọng chiếm hữu của nó khiến tao khựng lại, lửa ghen của nó khiến tao kiệt quệ. Tao không thể sống được nếu thiếu nó, tao không thể sống được với nó. Chỉ với mày, tao mới cảm thấy được là chính mình. Mày yên ả quá, mày mang lại cho tao sự thờ ơ mà nếu không có được, tao sẽ không chịu đựng nổi kiếp sống này.

– Bỏ qua cho tao. Tao biết, mày yêu nó, nó mê mày điên cuồng. Nhưng mày đừng tới quá gần sự im lặng của một thằng đàn ông nhe, đừng bao giờ chịu bị nhốt trong nỗi cô đơn của nó. Nó sẽ huỷ diệt mày đó.

– Tao biết.

Mày ve vuốt tóc Florence. Màu sắc nó luôn luôn khiến mày ngỡ ngàng. Tên Florence gợi ở mày hình ảnh một người đàn bà tóc rất vàng, mắt rất xanh. Florence có cặp mặt xanh lơ đậm mãnh liệt, nhưng tócFlorence dài, mềm mại, óng ả đen tuyền. Mái tóc đàn bà của xứ sở mày. Những mặt trời thời thơ ấu của mày nhuộm tóc Florence. Florence co mình trên vai mày. Mày cảm thấy thân mình Florence duỗi ra, nhịp thở yên dần. Mày đề nghị hai đứa về nhà.

Trong càphê bên cạnh, từ đáy một bức gương, cặp mắt điên loạn của François đuổi theo mày.

*

Hôm sau, Eva tới vườn Luxembourg cùng với một tay khổng lồ tóc vàng, mắt xanh, râu ria rạng rỡ.

– Giới thiệu các bạn vị hôn phu của tôi.

Linh mỉm cười, sững sờ. Eva chưa từng nói đến người hôn phu này. Mày vờ đùa, che giấu lòng bối rối.

– Nàng Linh thân mến của tôi, nàng mê đàn ông râu ria, vậy là được toại nguyện nhé, kiếm một bộ râu chinh phục đến thế này chẳng phải chuyện dễ đâu.

Eva kêu hai tách càphê.

Tụi tao quen nhau từ nhỏ. Cha mẹ đôi bên là láng giềng và là bạn. Học chung đại học. Thất lạc nhau khi tao đi Trung Quốc. Mới đây, tình cờ gặp lại nhau ở New York, tụi tao khám phá rằng đã luôn luôn tìm nhau. Tao đã đi một vòng quả đất để chẳng được gì. Bây giờ tao rớt trở lại khởi điểm.
Eva cười ngất.

Tao để tụi mày làm việc nhe. Peter nhảy qua Paris để cùng tao chọn áo cưới.
Họ đi. Mày tiếp tục làm việc với Linh. Nhưng sự vắng mặt của Eva để lại một khoảng trống lạ lùng. Tiếng Eva đã phụt tắt. Rốt cùng, Linh cũng chán ngán.

– Thôi, bỏ đấy. Đợi tuần tới làm lại, khi Eva có mặt. Đi dạo thôi.

– Ừ. Ngôn từ chẳng là gì cả khi vắng mặt người.

– Khúc tình ca giữa mày với Eva chấm dứt ở đây thì phải.

– Chuyện này phải tới, không lúc này thì lúc khác. Hai đứa tới từ những chân trời quá xa lạ. Khao khát cùng một thế giới, nhưng lại không có quá khứ chung và chẳng bao giờ được có cùng một tương lai.

– Mày đau ?

– Ừ.

– Đó là điều may, mày biết chứ ?

– Ừ.

– Dù sao cũng cố giữ tình bạn.

Đảo Cité. Đêm ngả bóng. Những viên đá già nua óng ánh, lem nhem trắng. Cây lá cứng im. Gió mơn trớn. Vài ánh đèn chao đảo trong dòng nước im ắng đen. Dưới cầu Tournelle, sông Seine chảy. Lần đầu, Linh nói về mình với mày.

Khi tao quyết định ly dị, cha tao bắt tao quỳ úp mặt vào tường, tự phê, bỏ ý định ly dị làm ô nhục gia đình, tên họ tổ tông. Đến ngày thứ tư, tao tự thấy nhục, tao đứng dậy, nhìn thẳng vào mặt ông và nói : Từ nay con sẽ không bao giờ tự phê nữa. Và tao bỏ nhà ra đi.
Linh ngửng đầu, nhìn chân trời.

Ông ấy yêu tao. Đó là người đàn ông duy nhất mà tao quý trọng. Bây giờ tao hiểu tại sao tao đã chấp nhận chịu đựng bấy nhiêu năm khổ ải. Những ngôn từ cao thượng, những nguyên lý vĩ đại, tình yêu, cũng được dùng để trói chúng ta. Người ta trói thú bằng thừng, người ta trói người bằng chữ nghĩa. Tao yêu bố. Tao không hề giết bố, ngay cả một cách tượng trưng. Từ bỏ bố, tao đã giải phóng chính tao khỏi chính mình.

Mày rùng mình. Mày cực ghét trò tự phê, thú tội. Vũ điệu lột truồng tâm hồn ấy, mày chỉ chịu đựng được xuyên qua hành động – ca khúc của thể xác, hay văn chương – vũ khúc của ngôn từ.

– Thiên hạ biết đấu tranh của mày chống chiến tranh, độc tài, sự hèn nhát, gian dối. Nhưng hầu như không biết gì hết về chính mày. Sao mày không viết chính mình đi ? Những năm tháng kinh hoàng sẽ chẳng là gì cả nếu chẳng ai nhớ tới. Viết những gì mày đã nghiệm sinh đi.

– Tao không có nhu cầu kể lể đời tao.

– Điều ấy lại quan trọng đối với tao, với người đời.

– Mày sẽ làm gì với đống giấy ấy ?

– Tao không biết. Dịch nó, đăng nó như lời nhân chứng về thời đại của chúng ta. Hay biến nó thành tiểu thuyết, một tác phẩm thuần hư cấu. Xét cho cùng, tại sao không ? Chỉ có những ảo tưởng mới sống sót được trong ký ức loài người. Tao thèm viết mày thành tiểu thuyết. Tiểu thuyết chỉ là chuyện hoang đường, nhưng cũng là khao khát hiện thực của con người. Mày là hiện thực mà tao chúc cho tất cả những thằng đàn ông.

– Được, thế cũng là làm bạn.

Đó là một đêm thu ở Paris, trên bến đảo Saint-Louis. Có đá lem nhem trắng, có cây lặng cứng. Sông Seine trôi đi, im ắng, đen ngòm. Mày lững thững bước về parking ở công trường Maubert. Từ cầu Tournelle, mày nhìn mỏm Đảo Cité. Ở đó, dưới đất, có đài tưởng niệm những người bị đày ải vào lò sát sinh thời nhị thế chiến. Mày đã dịch cho Linh nghe một câu thơ của Aragon, một câu văn của Sartre khắc vào tường đá. Lún sâu trong lòng một cái hang, những vong hồn lấp lánh. Rất lâu, Linh ngắm chúng. Rất lâu, Linh nhớ sổ tay thầm kín của những chàng lính trẻ đang mục nát trong hang đá trên giải Trường Sơn. Mày đã ngắm sông Seine, mày đã thấy bóng người trôi theo dòng nước.

*

Cùng với Linh và Eva, mày tiếp tục sửa quyển sách. Im lặng ngấm ngầm len vào câu chuyện. Eva ở đâu khác. Càng ngày nó càng bớt nhận ra ngôn từ của mày. Càng ngày mày càng bớt hiểu câu chữ của nó. Mỗi lúc, hiểu nhầm nhau càng nhiều. Giải thích, khôn cùng, vô lối thoát. Tam giác thần tiên biến thành vực thẳm ma quái. Nói chuyện biến thành cãi nhau. Linh chấm dứt.

Quyển sách cơ bản đã xong. Mình ngừng ở đây. Eva cần được nghỉ ngơi.

Im lặng ụp xuống, nặng nề, ngột ngạt. Eva trơ trơ nhìn bã càphê.

Tao sợ… Tao ao ước, kêu gọi cuộc hôn nhân này. Xưa nay, tao vẫn muốn xây dựng đời tao với một người đàn ông mạnh, hào hiệp, âu yếm, biết yêu tao và hiểu tao. Lập một gia đình, có con, tạo hạnh phúc. Bây giờ, tao cảm như sắp lao mình vào khoảng trống.

Linh nghiến răng. Mày ngước mắt đi nơi khác. Eva đứng dậy.

Tao về. Tao cần một chút cô đơn.

Mày tiễn Eva. Trên thềm cửa, nó sụm người trong vòng tay mày.

Đừng bỏ tao.

Một lỗ hổng khoét thủng ngực mày. Mày đã hiểu. Đó là lời từ biệt.

*

Linh nhất định thăm một nghĩa địa của Paris trước khi về. Eva thích rong chơi giữa những nấm mồ. Mày dẫn hai người tới Père Lachaise. Dưới Mur des Fédérés, Linh im lặng ngắm mộ, nhớ những năm chinh chiến của chính mình, nhớ những người bạn đã mất. Trên bia đá trong khu Nghĩa Trang Cổ, vẫn đọc mò được những dấu ghi mà thời gian đã gặm mòn. Nghĩa địa Père Lachaise là nơi đậm tình anh em nhất thế gian, một mảnh đất ẩn náu cho người ngụ cư khắp năm châu, ở mọi thời đại… Họ gặp nhau ở đây, loạn xạ, từ người tiếng tăm nhất tới kẻ hèn mọn nhất, với những kiếp vô danh.

Nắng chiều ngả bóng. Mùa thu tàn tạ trên những vòm cây màu hung trong ánh sáng chao đảo của hoàng hôn. Linh yêu màu sắc mùa thu. Trời lạnh.

Những nấm mồ này có từ thế kỷ 15, có thể còn xưa hơn nữa. Chẳng ai chăm sóc, chẳng ai nhận đòi, chẳng ai biết ai an nghỉ ở dưới. Nhưng người ta vẫn tôn trọng chúng. Người ta có lý. Người chết đã tạo ra tiếng nói cho phép ta suy nghĩ, cảm nhận. Tinh thần của chúng ta, xét cho cùng, chỉ là một bãi tha ma từ mênh mông, nhưng không có bãi tha ma ấy thì chúng ta sẽ sủa như chó. Tao tin cậy văn chương. Nó chẳng là gì cả, nhưng chỉ nó mới nói được điều cơ bản nhất của con người ở thời đại chúng ta.

Linh thở dài.

– Bên mình, người ta biến chùa, đình, lăng miếu thành kho, chuồng lợn. Sắp tới, sẽ chẳng còn gì ngoài cái lăng xấu kinh người.

– Chúng ta được cùng nhau ở đây ngay giữa Paris, là một phép lạ. Hãy cứu nó, mỗi đứa mình viết một quyển sách nhé.

Eva mỉm cười. Linh cười vang.

– Hai người đàn ông yêu một người đàn bà.

– Hai người đàn bà yêu một người đàn ông.

– Một người đàn bà yêu hai người đàn ông.

– Một người đàn ông yêu hai người đàn bà.

– Và cứ thế ! Cuối cùng mọi người sẽ yêu mọi người, chúng ta sẽ xây dựng thiên đường ngay trên quả đất chẳng cần đến một phát súng canông.

– Ngay cả súng đôla.

– Chỉ bằng ngôn từ thôi.

Một niềm vui loé sáng rực hoàng hôn.

Điều này không tới nỗi ngu xuẩn, không có gì kháng cự được thời gian hơn là ngôn từ. Chúng ta là những thực thể duy nhất mà thời gian không vĩnh viễn tiêu diệt được. Chúng ta chỉ cần đã từng được yêu, và có người đã nói điều ấy cho người khác. Chỉ ngôn từ mới chống lại được cõi chết.

Eva thở dài.

Chỉ tiếc rằng nó quá thiếu máu thịt.

Một người canh gác hô : Đóng cửa !

Mày không có nhu cầu viết nhưng mày thấy ý đó hấp dẫn. Mày đưa tay về phía Linh.

Tao nhận lời thách thức này.

Linh nắm tay Eva.

Tao cũng vậy.

Eva siết tay mày.

Được, chúng ta làm đi.

Một ngày thu ra đi, lấp lánh ngũ sắc.

– Tao sẽ thử. Tao sẽ viết một quyển sách hạnh phúc mà không ngu xuẩn. Văn chương của chúng ta thống khổ, nhỏ nhen quá. Thế giới này cần hạnh phúc, tương lai.

– Mày mơ rồi đấy. Chính khách của chúng ta đều đã trở thành những con người của quyền lực, những con rối. Họ đã học khom lưng trước sức mạnh, tiền bạc, media. Còn bọn trí thức…

– Ngay lũ triết gia cũng lỗi thời đối với kiến thức, thời cuộc. Chúng nó thêu dệt, lải nhải suông.

– Chính vì thế mà ta nên thử hành văn. Chỉ văn chương mới có thể…

– Được bao lâu nữa ?

– Đủ một thời để yêu và một thời để chết. Thế cũng đủ để nhân hoá một cuộc đời.

– Vậy thì chúng ta thử đi !

*

Ngày Tết xích gần lại. Linh phải ra đi. Là con gái đầu lòng, Linh muốn về chuẩn bị ngày lễ lớn của gia đình, tôn kính bàn thờ tổ tiên. Eva đã về New York tổ chức đám cưới. Một mảnh đời đang khép lại.

Mày cảm thấy trống rỗng, rối loạn. Một lỗ trống kỳ dị gặm mòn lồng ngực mày. Có điều gì đang ngắc ngoải ở đời cứ đòi vượt sống ở mày. Mày cần chút cô đơn, chút lãnh đạm. Mày phải đi, phải ra khỏi những cơn lốc của tình bạn, tình yêu. Quên. Tự quên. Tìm lại mình. Nếu còn gì để tìm lại. Rời Paris, mảnh đất lục giác ngộp thở, những hình ảnh, ngôn từ liên tục lải nhải mỗi một điều : chẳng có gì. Và ngày ngày đè bẹp con người bằng báo chí, đài phát thanh, TV, một cách hiển nhiên : chẳng thể làm gì khác ngoài chấp nhận, chịu đựng, tự thích nghi, khuất phục, an phận. Và tự mua mình bằng chữ nghĩa.

*

Tôi gặp lại Florence co quắp lả người, mặt dúi giữa hai bàn tay. Tôi ôm em. Em oà khóc nức nở. François đã hoàn toàn phát khùng. Như trong tiểu thuyết nhà ga. Nó đã đập nát xưởng vẽ của nó, đập tan những điêu khắc, rạch tả tơi tranh, dọa tự tử. Tôi đặt Florence nằm xuống tràng kỷ. Tôi để em khóc. Tôi chuẩn bị một bồn nước nóng cho em tắm. Tôi bế em vào. Tôi chà lưng em với một chiếc găng bằng cước cứng, xoa nắn mãnh liệt vai và gáy em. Tôi cảm thấy gân bắp em giãn dần dưới ngón tay tôi, nhịp thở của em lần lần bình yên. Em nhắm mắt, buông mình trong nước và bọt xà phòng.

*

Florence uống trà xanh với tôi, chậm rãi.

– Mình cút khỏi nơi đây vài ngày. Anh ngộp thở. Mình đi nơi nào có mặt trời, nước và gió.

– Nhưng còn Linh ?

– Mình sẽ gặp lại trước khi nó về.

– Còn Eva ?

– Nó chuẩn bị đám cưới của nó ở New York. Nó sẽ trở lại Paris để tiễn Linh đi. Vinh đang hí hửng tổ chức một buổi chiêu đãi. Chúng ta sẽ được hưởng một buổi chia tay nhớ đời.

– Anh đau ?

– Ừ. Cũng như em. Thêm một lý do để yên ả đau nơi khác, trong một cái xó ít ô nhiễm hơn ở đây.

Florence ôm hôn tôi. Tôi đặt em xuống giường. Tôi ngả mình bên em. Bỗng nhiên người em lồng lên, run rẩy, khóc nức nở. Tôi rùng mình.

– Em thù anh, phải không ?

– Phải.

– Nhưng vì sao ?

– Vì anh yêu em. Em cần anh như khí trời. Xa anh, em ngộp thở.

– Nhưng ở bên anh ?

– Không đủ, không là tất cả.

– Anh không biết yêu cách khác. Chiến tranh sinh ra anh, người ta đã dạy anh trốn chạy, chưa ai dạy anh yêu. Anh cũng thấy đau.

– Tại sao anh không thử ?

– Anh ghê tởm sự giả dối.

– Trời ơi trời ! Tại sao ? Tại sao ?

*

Florence ngủ thiếp. Tôi nghe em thở yên ả, sâu đậm. Tôi luồn ra khỏi giường, đi vào đường phố, vẫy gọi taxi.

Xưởng vẽ của François như vừa bị một cơn bão xoáy tàn phá. Những mẩu thạch cao, thủy tinh, đồ gốm trải đầy mặt đất nhuộm nước sơn, đầy khung tranh gãy, tranh vải bị dao rạch, bị dẫm nát. Lưng tựa tường, François nhìn một mảnh vải trắng. Trên lò sưởi, vất vưởng một chai whisky. Tôi rót hai ly đầy, đưa cho François một ly. Nó uống ực cạn. Tôi lại rót đầy ly nó. Nó nhấp nháp, lặng thinh.

– Sao mày không để nó yên một lúc ? Nó yêu mày, mày thừa biết thế.

Nó nhìn tôi, căm hận.

– Tại sao nó không muốn tao ?

– Nó đã cho mày tất cả, tình yêu, thể xác, thời giờ, mày còn muốn gì nữa ?

– Chính nó.

– Là cái quái gì thế ? Ý thức của nó ? Cái ấy không có thực, không thể chiếm hữu được. Chẳng ai có thể chiếm đoạt hay vứt bỏ nó, chỉ có thể căm thù hay yêu nó và, nếu được, cùng đi với nó. Mày là nghệ sĩ đến mấy cũng vô ích, mày không là Đức Chúa Cha. Không bao giờ từ thạch cao hay khối đá của mày vươn ra được một thân người đích thực. Chẳng bao giờ bút cọ của mày khai sinh ra được một người đàn bà thực thụ. Yêu khó thế sao ? Nó rảnh lúc nào, nó đi tìm mày ngay lúc đó, nó luôn luôn nghĩ tới mày.

– Nhưng nó luôn luôn trở về với mày. Mày cho nó điều gì hơn tao ?

– Chẳng gì hết. Tao chưa hề cho nó cái gì cả. Tao cũng chẳng xin nó điều gì. Tao để cho nó yên thân. Nó trở về với tao khi mày làm nó kiệt sức.

– Mày cút đi !

– Tao cũng đang định thế. Ngày mai tao đi đảo Guadeloupe, tao mang nó theo. Nó cần được nghỉ ngơi. Mày đừng mất công điện thoại cho nó. Ở đầu dây sẽ chỉ có một cái máy hồi âm. Nó sẽ kêu mày khi nó trở lại Paris.

– Cút ngay đi !

Tôi cạn ly. Tôi đi ra. Tôi nghe thấy sau lưng chai whisky vỡ toang vào mặt gương gắn trên lò sưởi.

*

Trước sân bay, Florence chỉ cho tôi một cái cây.

– Anh thấy không, cây xoài đấy. Ở đây quả xoài không thuôn thuôn như ở nước mình, nó tròn, màu xanh, cắn vào rất giòn.
Tôi nhận ra cây xoài, lá xoài, nhưng không nhận ra quả xoài. Tôi nhớ độ đặc, hương vị của nó. Cách nói của Florence đập mạnh vào tôi. Em là người Pháp, nhưng hễ nói tới Việt Nam, em cứ nói nước mình. Còn tôi bây giờ, tôi nói tới nó như tới bất cứ một nước nào. Trong đầu hai đứa, không còn có cùng một mảnh đất. Đâu đó, ký ức tôi đã rạn nứt. Nhiều khi tôi tự hỏi, từ bao giờ và qua đâu, nhưng chẳng bao giờ tôi tìm được câu trả lời.

Anse Bertrand. Một vịnh thu nhỏ có núi đá đầy cây nhiệt đới vây quanh. Nhà sàn nho nhỏ nhô cao trên mặt vịnh. Bãi cát trắng nhỏ long lanh bên bờ nước xanh lơ. Gió khô thơm ngào ngạt ve vuốt phổi tôi, sưởi ấm má tôi. Từ ban công, tôi ngắm sóng chồm lên, trắng xốp, những đỉnh núi đen chạy thấu chân trời.

Florence tắm mình dưới vòi hoa sen, mặc áo dài nâu cũ. Em chẳng bao giờ khoả thân đi lại trong nhà. Tôi cởi áo em chầm chậm trong gió mát, tiếng ve sầu rên, dế gáy. Một nghi lễ thiêng liêng. Mỗi khi đậu xuống đâu, hai đứa làm tình. Thỉnh thoảng điều ấy khiến tôi nghĩ tới tập quán của thú vật. Có những mãnh thú đóng dấu lãnh thổ săn của chúng bằng nước đái. Tôi không còn một tổ quốc để bảo vệ. Florence là neo của tôi trong thế giới này. Bất kể tôi từ đâu tới, bất kể tôi sẽ đi đâu, ngày nào tôi còn cảm thấy em bên tôi, ngày nào tôi còn được làm tình với em, tôi chưa thất lạc trên quả đất này.

Tôi nghe thấy một con gà gáy, một con chó sủa, một con chó đáp lời. Thỉnh thoảng, một con cóc gào lên. Ve sầu đốt không gian với điệp khúc trước hoàng hôn của chúng, trong thoảng gió nóng phà ra lần cuối trong ngày.

*

Tôi rùng mình. Có ai đang ve vuốt tôi. Tôi mở mắt. Ngồi sắp chân vòng tròn trong ánh trăng, một người đàn bà nhìn tôi. Tôi cảm thấy mình trần trụi. Ai thế ? Florence, Linh, Eva ? Hay là người đàn bà vô danh vô diện ám ảnh lời ru tuổi thơ của tôi ? Nàng vươn tay khép mắt tôi. Tia nhìn của nàng thấm vào tôi, rung động trong xác thịt tôi. Da tôi rên rỉ sống lại. Miệng nàng hút tôi, nuốt tôi, chầm chậm, ray rứt, đòi hỏi, đam mê. Nhẫn nại, âu yếm, tha thiết vô cùng tận. Tôi mở mắt, ngước đầu lên. Nàng quyết liệt ép tôi xuống giường, khép mí mắt tôi, thủ thỉ : Cho em xin. Tôi buông trôi mình tự giao nộp tự giải phóng tôi hết còn ý chí cơ thể hình hài tôi không có thực nữa tôi là cơn rùng mình tới lui càng lúc càng mãnh liệt càng sâu càng dài tôi là nỗi chờ đợi trống vắng khát khao vô tận tôi là sự ve vuốt ám ảnh của một người đàn bà xa lạ. Nàng là cõi im lặng run rẩy của tôi. Tôi là nàng.

*

Em đứng một lúc lâu trên ban công ngắm biển, ngắm đêm. Rồi em đi vào ngủ. Tôi châm tẩu thuốc. Một mình. Tôi đưa mắt tìm chòm sao Đại Hùng, Tiểu Hùng, sao Vệ Nữ. Từ khi rời nước ra đi, tôi hết nhìn trời, tôi chưa hề thấy nhiều sao đến thế trên đầu tôi. Một ngôi sao chổi băng qua, rơi xuống, biến mất trong đại dương. Tôi yêu tia sáng sao băng. Tia sáng đầu tiên. Từ lâu lắm rồi.

Tôi ngắm trời, đất, nước. Rất lâu, tôi thấy những đường ranh. Ở đây, hết còn là đất. Ở đây, bắt đầu là biển. Ở đây, vùng trời vụt đứng. Tôi nghe thấy tim tôi đập nhịp thời gian, sự im lặng phập phồng. Tôi hết biết đất bắt đầu từ đâu, trời chấm dứt nơi nao, ở đâu biển hết rên rỉ và tôi đang ở đâu.

Cõi im lặng thấm thân xác lan trí não nhuộm cả màn đêm gầm trên bãi biển đen ngòm màu trời màu nước trắng xoá bọt biển long lanh ánh sao mênh mông, không sờ được, hoà tan tất cả. Tôi kiếm một từ để nêu danh nó. Tôi nhớ tiểu thuyết của Bảo Ninh, Nỗi buồn chiến tranh. Tôi thì thầm, nỗi buồn vì yêu. Một sự im lặng độc nhất, khoanh lại, khép kín, toán học, bao phủ cả vũ trụ. Sự im lặng của một thằng đàn ông. Chính tôi. Có thể nó như ánh sáng, làn sóng vô sắc, không mùi, vô vị, vô nhiệt, vô thanh. Nó toả ra xuyên suốt không gian, coi thường khoảng cách, chướng ngại vật, thời gian. Nó hoà trộn với làn sóng khác, tan loãng, đổi độ dài, hình thù, bất diệt, trường tồn. Như nỗi buồn vì yêu trong thời đại cách mạng không thể làm được. Thời đại của tôi, thời gian của tôi. Tôi chẳng thể có thời nào khác. Tôi phải sống nó và, dù sao, vẫn yêu, vượt những chuẩn mực một tí xíu, ở rìa những ý chung. Một bước bé tí vượt qua quy ước của loài người. Một động từ nho nhỏ thay vì một danh từ vĩ đại. Yêu. Thoạt tiên có Lời, sự gian trá tồi tệ nhất. Người ta đã thay yêu bằng một cái gì ấy. Người ta đã nhốt cuộc sống và nghệ thuật vào một chất thể lai căng, Tình Yêu. Lời là Tình Yêu. Từ ấy người ta có thể ra đi mà không chết trong lòng một tí. Tôi bỗng hiểu vì sao tôi thích gặp người đời ở thuở hoang mang. Trong thế giới ấy, có thể có một chỗ cho tôi. Tôi yêu những khoảnh khắc lang thang khi tiếng nói cá nhân vút lên từ sự im lặng. Sau đó, trong tiếng ồn ào nhốn nháo dai dẳng của cuộc tồn sinh, chỉ còn lại con đường chung của nhân loại, tiếng nói của những xác ướp.

Tôi nhớ sự gần gũi lạ lùng gắn bó Linh, Eva và tôi, chung quanh một hư cấu bằng ba thứ tiếng, ba giọng người. Tôi tìm một từ để nêu danh nó. Tôi chẳng kiếm được từ nào. Lần đầu tiên, tôi cảm thấy sự vắng mặt của hai người. Một lỗ hổng há miệng gặm mòn lồng ngực tôi. Thế là hết. Tình bạn âu yếm giữa chúng ta đang hấp hối. Chắc chắn, cuộc sống sẽ lơ đễnh giết nó mỗi ngày một tí. Rồi sẽ có ngày, không biết vì sao và như thế nào, sẽ chẳng còn gì giữa chúng ta, chỉ còn lại những ngôn từ thường ngày, nỗi đau của mọi người. Ngôn từ, rặt là ngôn từ. Để trao đổi thông tin, áp đặt ý chí, ra lệnh, dọa nạt, quyến rũ, van xin, thương lượng, gian dối, thoả hiệp, sống hoà đồng với xã hội. Giọng nói của ta sẽ chụm lại, tan rã trong đầm lầy của mọi ý thức, nơi hò hẹn say sưa của mọi sự gặp gỡ, mọi điều gian dối, ý chung của người đời. Sẽ chẳng bao giờ ta lại vươn nắm tay nhau bên trên hàng rào di động, không nắm bắt được, không vượt qua được ấy. Sẽ chẳng bao giờ ta gặp lại nhau phía bên kia thế giới ngôn ngữ, nơi vút lên những tiếng cười, những ngôn từ, những thì thầm mà ta có thể khẳng định : là tôi, là chúng ta.

Tôi nhớ cuộc thách đố giữa ba người. Mỗi chúng ta sẽ viết một quyển sách. Tôi sẽ trở về đây viết nó, giữa Thái Bình Dương, trên hòn sỏi xanh lam trôi giạt giữa màu xanh của trời và màu xanh của nước. Ở đây, mọi sự đều thanh tao tuyệt diệu. Màn trời, ngọn gió, lá cây, bông hoa, người đời. Và thèm khát hành văn đã tìm lại được. Nó không còn như xưa, đau đớn ám ảnh. Nó đậm đà sâu sắc. Nỗi khát khao dài bắt nguồn từ những khắc khoải tăm tối của thời thơ ấu. Tôi sẽ viết một quyển sách hạnh phúc. Tôi sẽ từ bỏ ngôn ngữ xiních của Sự Thật. Một nhân ngôn khác có lẽ khả thi. Tôi sẽ thử tạo nhân ngôn của tôi.

Một con gà cất tiếng gáy. Ban mai đang tới. Phía núi, một khối đen lộ nét. Thế giới đang thành hình. Bầu trời tách rời mặt biển, núi non chia lìa mặt nước. Tiếng biển gầm dựng mình thành sóng vỡ tan tành bọt. Lưng trời sáng dần màu xám, màu xanh, màu hồng. Từ sau dãy núi, một chùm tia sáng ngũ sắc vút ra đốt rực bờ quằn quại của một áng mây to. Áng mây trôi giạt ra đại dương, tan rã. Băng lưng trời, hình bóng con người con vật hình thành siêu vẹo biến dạng lẫn lộn với nhau. Mãi cuối cùng, một áng mây trắng. Ban ngày đã tới. Ba con dê con ôn tồn gặm cỏ trên một mỏm đá. Chúng ngước đầu vểnh tai nhìn tôi. Tôi hồi tỉnh. Đúng, không gian có ba chiều. Mặt trời nhô lên, chói loà. Lát nữa ve sầu sẽ làm rung động không gian. Florencenhúc nhích trong giường. Tôi mong muốn em ngủ thêm một chút. Nhưng Florence thức dậy rất sớm. Em ra ban công.

– Anh không ngủ hả ?

– Không. Anh không buồn ngủ.

– Anh đã ở đây suốt đêm ?

– Ừ, đẹp tuyệt vời, và đỡ mệt lắm.

Florence thả mình bên tôi. Tôi mở cánh tay. Em ngả đầu trên vai tôi, nắm tay tôi. Rất lâu, hai đứa im lặng thụ hưởng sắc đẹp của ban mai.

*

Ở quán ăn, bà Ardente thông báo có điện tín. Tôi rùng mình. Chỉ có thể là Linh.

Linh phải về Việt Nam gấp. Chẳng có gì nghiêm trọng cả. Vẫn tuồng xiếc cũ. Hãy chăm lo sức khỏe. Đừng quên cô em nhỏ Eva của Linh. Tuy nó hay quạu, nó rất trìu mến, mảnh dẻ. Và nó thương mày.

Tôi điện thoại cho Linh. Chẳng ai trả lời. Tôi gọi Vinh. Chính quyền dọa đày ải Linh ra nước ngoài vì những tuyên bố của Linh với báo chí. Linh đã quyết định giải quyết tức khắc tận gốc, lấy chuyến máy bay đầu tiên trở về Việt Nam.

Florence ve vuốt vai tôi.

– Ngày mai có một chuyến bay về Paris. Nếu may, anh còn một dịp gặp lại Linh trước khi Linh đi.
– Khả năng ít lắm, Linh quyết đoán nhanh và hành động cũng như vậy. Anh về tới nơi thì Linh đã đi mất rồi.

– Nếu họ lại bắt giam Linh thì sao ?

– Vinh và các bạn sẽ làm tất cả những gì làm được. Họ sẽ kêu chúng ta nếu cần.

– Có thể hai người sẽ chằng bao giờ gặp lại nhau nữa.

– Ai biết được ? Xét cho cùng, như thế là tốt nhất. Anh không thích những cuộc chia tay. Cứ như vậy, hai người chưa hề chia tay nhau. Mình cứ làm như mình đã định, quên cái thế giới điên khùng này đi, mình sẽ gặp lại nó sớm thôi, mình đi thăm hòn đảo này đi.

Sáng hôm sau, Vinh kêu lại.

Nó đã mời François dự buổi họp tại quán rượu Rhumerie để bàn về hành động phải tiến hành nếu Linh lại bị bắt. François nghe, tích cực tham gia thảo luận. Đột nhiên nó gục xuống bàn, chết say. Vinh lau mặt nó, định đưa nó về nhà. Nhưng François giãy giụa, gào thét những lời điên loạn. Người hầu bàn kêu cảnh sát tới.François chửi bới cảnh sát. Họ bẻ tay François quặt sau lưng, xích lại, lôi lên xe giam, nhốt nó trong một căn tù biệt lập sơn vàng sơn xanh. Sáng hôm sau, thấy nó nhớn nhác, người gục lả trên bệ bê tông, họ đưa nó đi nhà thương.

Florence ứa nước mắt kể lại sự việc. Em bắt đầu lắp bắp. Tôi nắm tay em.

– Kệ nó. Nếu nó muốn tự tử, chẳng ai cản nó được, nhất là em, em là người đau khổ nhất nếu nó chết.

– Không thể được. Em phải về Paris. Nếu nó mệnh hệ gì, em sẽ không bao giờ tha thứ mình được. Nó yêu em. Ngày nào nó chưa bỏ em, em sẽ không bỏ nó.

Tôi đã tiễn Florence ra sân bay. Tôi đã thấy em vững bước vào khu lên tàu bay. Trước khi biến mất, em đã quay lại, mỉm cười, kín đáo vẫy tay từ biệt.

Tôi hồi tưởng nỗi sợ hãi bị bỏ rơi xa xưa của tôi, sợ đột nhiên trơ trọi, nghẹn ngào giữa những đống điêu tàn cháy trụi bên lề đường tan nát trước những xe đầy thây người da bọc xương do những con bò xác xơ kéo đi. Đó là tuổi thơ của tôi, là thời đói kém, chinh chiến, cách mạng. Thời của Hy Vọng, sự phủ định chất người. Đó là thế kỷ 20, ít nhất là theo Chúa Jésus. Tôi bỗng hiểu vì sao ai ai cũng trách tôi lãnh đạm, chẳng quan tâm tí nào tới mọi sự, người đời, nhu cầu được khâm phục, được yêu của họ. Tôi không biết tôi đã đánh mất khả năng gắn bó ở đâu và từ bao giờ. Có thể phẩm chất quái dị ấy đã giúp tôi sống còn.

*

Tôi lại thức trên ban công. Tôi ngắm tia sáng cuối cùng của ban ngày biến đi, màn đêm hoà tan mặt đất, xoá sạch hình núi, nuốt chửng đại dương. Tôi thiếu Florence, tôi thiếu Eva, tôi thiếu Linh. Tôi thiếu em. Chưa bao giờ tôi cảm thấy tôi bị cắt xẻo, cụt cằn đến thế này. Tôi thèm được ôm em trong vòng tay tôi, thèm cảm thấy sự hiện diện âu yếm của em ở tôi. Tất cả đã bỏ đi. Mỗi người theo mối tình của mình. Một người đàn ông. Một gia đình. Một xứ sở. Tôi tự cảm thấy bị loại trừ ra khỏi mọi tình người, mờ ảo, mơ hồ. Có thực là tôi đã thực sự yêu không ? Trong tất cả những ngờ vực, đã ngờ vực tình yêu, chẳng thể nào trở lại cõi người được.

Tôi nhìn lại đời mình qua những biến động co giật của thế kỷ của tôi. Sẽ còn lại gì ? Một sắc thái của một ngôn từ thôi, có lẽ. Yêu. Tôi cảm thấy hàng nghìn nhân vật lột xác ở tôi. Mặt nạ đàn ông, đàn bà, người già, trẻ con, người sống, người chết. Những tôi khác nhau của tôi. Dường như họ đã có từ muôn thuở. Tôi đập tan mảnh sáp khắc ghi những bộ mặt của tôi. Đằng sau, chẳng bao giờ có gì cả. Tôi rùng mình, nhẹ nhõm. Nhưng sáp vụn cứ tụ lại, kết keo, phủ đầu tôi với một mặt nạ mới, luôn luôn khác, nhưng rất đỗi thân thuộc với bạn bè, kẻ thù và chính tôi. Mặt nạ nói, người ta nghe nó, trả lời nó. Nó có vẻ thật đến mức tôi giật mình phát hiện rằng tôi tin nó là tôi. Thỉnh thoảng vài ngôn từ, vài câu chữ len lỏi vào trong sáp, trượt xuống đáy quên lãng. Rồi có lúc chúng kết tinh, tua tủa mũi nhọn sắc, khoét mặt tôi, những hố đen không đáy. Những từ rỗng tuếch, háu ăn, khát máu thịt, khẩn thiết, cuồng loạn, day dứt, không hiểu được, nhẫn tâm. Có chiến tranh, tiếng kêu đầu nguồn thời thơ ấu, sự im lặng khắc khoải trốn chạy ban đêm dưới ánh lửa napalm trong tiếng máy bay rú tiếng đạn rít. Có một mẹ già ru xác chết bằng lời cầu nguyện. Có hàng triệu miệng người đòi chút hơi thở chút gạo ăn chút tương lai. Có những niềm tin chết người của thời đại, tiếng cười ngạo nghễ bi thảm hèn hạ của khoảnh khắc, lời ba hoa cam phận của bọn tri thức, quyền lực, sở hữu… Và sự im lặng của một người đàn bà, lời bập bẹ mê sảng yêu lúc da thịt tái sinh. Và có… những giới hạn… mãi mãi… yêu cầu hiểu… vô tận… Nhưng hiểu giới hạn của một thời đại không giảm được nỗi đau phải sống nó và tự do nói của tri thức, tự do làm nhờ hiểu biết sự vật không mang lại tự do yêu cho con người. Tôi chưa hề có thực. Tôi không có thực. Đó là một huyền thoại. Nhưng nó đáng thành danh, nỗi khắc khoải xa xưa của màn đêm vẫn thầm lặng rình rập. Biết đâu, sẽ có một ngày, một người đàn bà sẽ tới cây số 0 của tất cả các nền văn minh, đòi đoá hoa hồng đỏ mà tôi đã hứa cho nàng.



Hỡi anh em, những con người sẽ sống sau chúng tôi,[3] xin tha thứ cho chúng tôi tội thất bại. Chúng tôi đã đấu tranh, chúng tôi đã cố yêu. Cũng như anh em, chúng tôi sẽ chết. Cũng như anh em, chúng tôi đã từ chối chết luôn. Và chúng tôi đã dám yêu. Bất kể tương lai sẽ thế nào, chúng tôi đã thành tâm sống, và chúng tôi đã từng hạnh phúc. Mỗi người chúng tôi sẽ viết một quyển sách, trong một ngôn ngữ không cần phải dịch. Sẽ có một ngày, ở đâu đó, có người mở ra đọc, và khao khát yêu, tranh đấu, hành văn. Lúc đó, chúng tôi đã không sống thừa. Từ những chân trời xa xăm đã khai sinh ra chúng tôi, từ tình bạn, tình yêu của chúng tôi, sẽ còn lại một điều gì đó ngay trong trái tim trâng tráo, nặng nề, buồn tẻ, ngộp thở, nặng trĩu của thế giới này. Bên kia sự im lặng.

Nguyên tác : Aimer




L'Épitaphe de Villon ou " Ballade des pendus "


Frères humains, qui après nous vivez,
N'ayez les coeurs contre nous endurcis,
Car, si pitié de nous pauvres avez,
Dieu en aura plus tôt de vous mercis.
Vous nous voyez ci attachés, cinq, six :
Quant à la chair, que trop avons nourrie,
Elle est piéça dévorée et pourrie,
Et nous, les os, devenons cendre et poudre.
De notre mal personne ne s'en rie ;
Mais priez Dieu que tous nous veuille absoudre !

Se frères vous clamons, pas n'en devez
Avoir dédain, quoique fûmes occis
Par justice. Toutefois, vous savez
Que tous hommes n'ont pas bon sens rassis.
Excusez-nous, puisque sommes transis,
Envers le fils de la Vierge Marie,
Que sa grâce ne soit pour nous tarie,
Nous préservant de l'infernale foudre.
Nous sommes morts, âme ne nous harie,
Mais priez Dieu que tous nous veuille absoudre !

La pluie nous a débués et lavés,
Et le soleil desséchés et noircis.
Pies, corbeaux nous ont les yeux cavés,
Et arraché la barbe et les sourcils.
Jamais nul temps nous ne sommes assis
Puis çà, puis là, comme le vent varie,
A son plaisir sans cesser nous charrie,
Plus becquetés d'oiseaux que dés à coudre.
Ne soyez donc de notre confrérie ;
Mais priez Dieu que tous nous veuille absoudre !

Prince Jésus, qui sur tous a maistrie,
Garde qu'Enfer n'ait de nous seigneurie :
A lui n'ayons que faire ne que soudre.
Hommes, ici n'a point de moquerie ;
Mais priez Dieu que tous nous veuille absoudre !
(1431-?)


BÀI CA CỦA NHỮNG KẺ BỊ TREO CỔ



Hỡi anh em, những con người sẽ sống sau chúng tôi,
Xin chớ khe khắt tấm lòng với chúng tôi,
Vì nếu anh em thương hại chúng tôi, những con người tội nghiệp
Thượng Đế sẽ sớm khoan dung đối với anh em.
Anh em thấy đấy, chúng tôi, năm sáu người bị trói nơi đây :
Còn xác thịt mà chúng tôi đã quá nuôi nấng,
Từ quá lâu rồi, nó đã bị ngấu nghiến thối rữa,
Và chúng tôi, mớ xương, đang thành tro bụi.
Xin đừng ai cười nỗi khốn khổ của chúng tôi,
Mà hãy lạy Chúa xin mọi người tha thứ chúng tôi !

Nếu chúng tôi gọi các bạn bằng anh em, xin đừng
Khinh miệt chúng tôi, dù chúng tôi đã bị công lý
Giết. Dù sao anh em cũng biết
Đâu phải mọi người ai cũng đầu óc điềm tĩnh như ai.
Hãy thay mặt chúng tôi, vì chúng tôi đã chết,
Để xin lỗi con của Đức Mẹ Marie,
Sao cho lòng ân xá của ngài không cạn đối với chúng tôi,
Sao cho ngài che chở chúng tôi khỏi bị sét địa ngục đánh.
Chúng tôi chết rồi, xin đừng ai hành hạ nữa,
Mà hãy lạy Chúa xin mọi người tha thứ chúng tôi !

Mưa đã tẩy rửa chúng tôi
Và nắng đã nung chúng tôi khô cháy ;
Chim ác là và quạ đã khoét mắt
Nhổ râu bứt lông mày chúng tôi.
Chưa bao giờ chúng tôi được ngồi yên một khắc,
Đây đó, phó mặc theo chiều gió,
Gió không ngừng tuỳ hứng xô đẩy chúng tôi,
Chúng tôi bị chim mổ thủng chi chít hơn các lỗ đê khâu
Vậy hãy đừng bao giờ nhập phường chúng tôi,
Mà hãy lạy Chúa xin mọi người tha thứ chúng tôi !

Hỡi Đức Hoàng Jésus, hỡi Đấng toàn năng,
Hãy khiến chúng tôi thoát quyền uy địa ngục :
Chúng tôi không có nợ nần gì với nó.
Hỡi người ơi, đây không phải chuyện đùa,
Mà hãy lạy Chúa xin mọi người tha thứ chúng tôi.


[1] La liberté, c'est l'angoisse du choix. Sartre.
[2] Sous les pavés, la plage… Thơ vẽ trên tường Paris, tháng 5-1968.
[3] Frères humains, qui après nous vivez, thơ François Villon. Theo truyền thuyết tác giả làm bài thơ này trong tù, trong khi chờ đợi bị treo cổ.

Vẫy gọi nhau làm người


Nhìn sự vật, nhìn người, nhìn mình, nhìn nhau, nhìn sự thật.

Những thế nhìn đó thể hiện người trong vũ trụ, thái độ của người đối với người, thể hiện một thế giới quan, một nhân sinh quan. Viết là bày tỏ những điều đó bằng ngôn ngữ.

Người thường, nhà văn dùng chung một ngôn ngữ. Cái gì khiến ngôn ngữ có lúc thành văn ? Khác nhau ở điểm nào ?

Bình thường, khi nói chuyện với người khác, mục đích của ta là làm cho người khác hiểu rõ ý nghĩ, tình cảm của ta. Ta dùng ngôn ngữ để thông tin. Nhà văn không chỉ muốn vậy. Nhà văn còn đeo đuổi mục đích khác : khơi lại trong mắt người khác cách nhìn của mình. Nhà văn dùng ngôn ngữ để quyến rũ.
Thử xem câu : chiều hôm ấy nắng nhạt, buồn bã.
Nếu một chiều nào đó, nắm tay người yêu, nhìn sắc nắng, tôi thấy lâng lâng buồn, nếu người yêu tôi cảm nhận nỗi buồn ấy trong tôi, người ấy sẽ hiểu, sẽ cảm câu nói kia. Nó tả một sự kiện đã có, đã qua, một sự kiện chúng tôi đều biết : một buổi chiều, một sắc nắng, một nỗi buồn, chúng ta. Câu đó, tự nó, không phải một câu văn.

Một buổi chiều nắng nhạt là một buổi chiều nắng nhạt, chẳng buồn, chẳng vui. Ðâu phải thêm hai chữ buồn bã mà biến được nó thành một buổi chiều buồn bã. Ngay cái nắng nhạt kia, người đọc cũng khó tưởng tượng nó nhạt thế nào. Vậy mà có khi nhà văn chỉ viết chiều hôm ấy, nắng nhạt đã khơi ngay cảm giác buồn trong người đọc. Ðiền thêm hai chữ buồn bã, hoặc chẳng khơi được nỗi buồn : văn bất lực, hoặc thừa : văn vụng.

Dĩ nhiên, chuyện không đơn giản như vậy. Trong bất cứ tiếng nước nào cũng có những từ hình như tự nó có hồn. Có nhiều người Việt Nam dễ liên tưởng chiều với cảm giác buồn. Cũng lạ. Phải chăng vì trong những tác phẩm lớn, trong ca dao, có nhiều cảnh chiều buồn ? Dù sao, cứ lôi chiều ra để tạc cảnh buồn thì cũng chỉ đạt mức văn hà hứa.

Ðọc truyện, cái gì làm cho chiều hôm ấy, trong lòng ta, buồn ? Dĩ nhiên là hoàn cảnh dẫn đến chiều hôm ấy, đã được tác giả bố trí trước. Nhưng hoàn cảnh ấy cũng được tạo bằng những câu văn đại loại như vậy, làm sao dẫn tới nỗi buồn ? Một vòng luẩn quẩn. Văn khác lời nói thường ở chỗ nào ? Cần phải trở lại gốc vấn đề, thử phân tích cái nhìn của con người.

Nhìn sự vật rất dễ, rất tự nhiên. Tự nhiên ? Không hẳn. Ta vừa mở mắt, đã thấy trong đầu cả một khoảng không gian lúc nhúc sự vật. Không gian đó, ta "thấy" nó một cách tổng hợp, lờ mờ. Ta chỉ thấy thật rõ một sự vật, sự vật ta đang nhìn, cái chìa khoá chẳng hạn. Nhìn thể hiện một sự lựa chọn. Thấy là kết quả của sự lựa chọn ấy. Chính sự lựa chọn ấy làm cho ta có thể thấy được cái không có thực : sự vắng mặt chẳng hạn. Ta đảo mắt tìm người yêu và thấy không có người yêu. Sự thiếu hụt đó làm thế giới quanh ta lùi lại, mờ đi, thành sa mạc :

Un seul être vous manque et tout est dépeuplé[1]

Lựa chọn thể hiện tự do, bản chất đặc trưng của con người. La liberté, c'est l'angoisse du choix[2]. Sự lựa chọn đó tùy thuộc mục đích của con người. Vì ta muốn mở cửa, chìa khoá kia như chờ ta ở một chỗ nào đó. Nó hiện lên giữa muôn vật như một sự hứa hẹn, vẫy gọi. Cách nhìn của ta làm cho thế giới này đượm nhân tính. Tuy ta chỉ là một bộ phận trong nó, nó đã biến thành khả năng của ta. Nó sẽ thực sự trở thành phương tiện của ta khi ta hành động : nắm chìa khoá, mở cửa, đi tới tương lai của mình.

Bản thân chìa khoá kia cũng không hoàn toàn "vô tình". Ðã có một con người làm ra nó vì một mục đích riêng (kiếm ăn), tạo cho nó một chức năng nhất định (mở ống khoá). Chức năng ấy là lời hứa hẹn, sự vẫy gọi ẩn núp trong một khối sắt. Nó "hiện lên" khi ta muốn mở cửa, đi ra. Nó trở thành hiện thực khi ta nắm chìa khoá sỏ vào ổ khoá. Mục đích của người khác đã trở thành phương tiện của ta. Sự vật cũng có hồn ở nghĩa đó.

Khi tả sự vật, mục đích của nhà văn không bao giờ là tả đầy đủ, trọn vẹn, khách quan, sự vật. Ðiều đó không ai làm được. Sự vật là sự vật, văn là văn. Viết một nghìn trang sách cũng không thể tả hết thực tế của một cái ly. Nói cho đúng, nhà văn chẳng bao giờ tả sự vật. Chẳng ai ôm giấy bút ngồi trước một cái cây màtả được vẻ đẹp của một cái cây, tả được một cái cây ra hồn như người Việt ta thường nói.

Nhà văn tạo vẻ đẹp của một cái cây bằng cách bịa một khung cảnh, một hình hài, một mầu sắc... Quá trình bịa đặt, sắp xếp đó là quá trình tạo chi li những bẫy nhỏ, dẫn dắt người đọc tới mục đích cuối cùng của nhà văn là tái tạo trong hồn người khác cách nhìn, sự lựa chọn của mình : vẻ đẹp của một cái cây. Quá trình viết văn là quá trình gài bẫy để lừa gạt, hướng dẫn người đọc. Quá trình đọc văn là quá trình tái tạo một thế giới ảo, tạo một hồn người thực dưới sự "điều khiển" của người khác. Không phải tình cờ mà người ta coi những nhà văn lớn như những kẻ dẫn dắt linh hồn của đồng loại. Nghệ thuật là giả dối trong nghĩa đó.

Sự lừa gạt kia có một đặc điểm : người bị lừa hoàn toàn tự nguyện. Ðộc giả chỉ ngáp một cái, những bẫy kia tan tành ngay. Còn lại một trang giấy lem nhem mực, chẳng nghĩa lý gì. Chuyện đó xẩy ra khi, đọc truyện, ta ngáp ngủ. Sự tự nguyện đó không gì ép được, mua được. Chỉ có thể đồng tình với nhau. Tình chỉ có thể có giữa những con người tự do, tự nguyện : cho hay không cho, nhận hay không nhận. Người ta có thể ép nhau đủ thứ chuyện, không ai ép người khác yêu mình được. Vì thế, nhân tình là nội dung cơ bản của văn. Nó đòi hỏi nhân cách tự do của cả người viết lẫn người đọc. Không phải vì ta thích vậy, muốn vậy. Ðó là điều kiện hình thành của văn.

Nhân cách không có giá trị trao đổi. Không ai đo được giá trị của một tác phẩm là bao nhiêu : số không hay... tuyệt, đều là vô giá. Nó cũng chẳng có giá trị sử dụng. Không ai có thể dùng nó vào việc cụ thể nào. Quan hệ giữa nhà văn và độc giả không phải quan hệ trao đổi. Nó là quan hệ cho-nhận.

Cho-nhận cái gì ? Khi ta mua một quyển sách, chắc chắn ta nhận được một quyển sách. Tác giả đã cho ta gì ? Chẳng cho gì cả. Ðọc truyện, ta nhận được gì ? Có khi chỉ mất thời giờ. Có khi ta nưng niu nó suốt đời ta. Ðây là sự cho-nhận một thứ không có hình thù, trọng lượng, giá trị sử dụng, giá trị trao đổi, một thứ không có thực. Tác giả chỉ có thể cho ta và ta chỉ có thể nhận những gì do chính ta tạo ra trong quá trình đọc. Tác giả "cho" ta một số ký hiệu, như Phật giơ tay chỉ trời. Trong bầu trời ấy, chẳng có gì ngoài ta. Gần quan hệ cho-nhận này nhất là quan hệ yêu đương, quan hệ chơi. Văn chương là một nhu cầu tinh thần, là tình người, là trò chơi trong nghĩa đó. Nó hoàn toàn vô dụng, vô giá. Nó là sự vẫy gọi nhau giữa những con người tự do. Vẫy gọi nhau làm người. Nhu cầu viết, nhu cầu đọc, đều là nhu cầu làm người, nhu cầu sáng tạo, nhu cầu yêu. Thế giới văn chương là thế giới của tình người cho không.

Vì thế, nhà văn không thể đạt yêu cầu của mình nếu không tôn trọng, quý mến tự do của người đọc, nếu tìm cách áp đặt tình cảm, tư duy của mình. Ðộc giả đã đồng tình trước khi đọc thì viết làm gì ? Ðộc giả không đồng tình, ngáp một cái, toi mạng văn chương, nghị quyết của Trung Ương cũng không cứu nổi. Nhà văn chỉ có thể khơi tình, mời mọc, rủ rê, quyến rũ, vẫy gọi. Nghệ thuật hành văn là nghệ thuật chinh phục lòng người trong nghĩa đó. Và cũng chỉ trong nghĩa đó thôi. Trong quan hệ giữa họ, người viết và người đọc chẳng thể được bất cứ gì ngoài cái mình sáng tạo. Cơ sở của nghệ thuật ấy là nhân cách tự do của độc giả.Nhân cách tự do của độc giả là sinh mạng nghệ thuật của nhà văn.

Cùng một mớ chữ, cùng một nguyên liệu, có người viết thành văn, có người, dù tay nghề khéo léo, viết cạn đời cũng không tạo được một tác phẩm văn chương. Tại sao ? Nhà văn, thợ chữ, khác nhau chỗ nào ? Vấn đề không chỉ ở kỹ thuật dựng truyện, gọt câu, mài chữ. Nó còn ở nhân sinh quan của tác giả. Nhân sinh quan ấy, không chóng thì chầy, bộc lộ ngay trong văn phong. Nó làm ta ngáp dài, vui vui tiêu khiển và quên, hay nó cứ man mác trong ta cảm giác vừa gặp một người, vừa gặp lại ta.

Nhân sinh quan ấy thể hiện qua cách nhìn : nhìn người, nhìn mình, nhìn nhau.

Nhìn người, thấy gì ?

Trước hết thấy một động vật của thế giới tự nhiên.

Nhìn người có thể ngừng ở đó. Ðó là cách nhìn của người bác sĩ trong ca mổ : thớ thịt có thể cắt, sợi gân phải tránh né, đường đưa dao tới mục đích. Ðó là cách nhìn của người kỹ sư điều hành một dây chuyền sản xuất : con người là một bộ phận của một cái máy. Ðộ bền, độ chính xác, độ nhanh của nó đều có thể đo, đếm, điều chỉnh. Thậm chí ta có thể thay nó bằng một người khác hay một cái máy. Ðó là cách nhìn của ông chủ hãng kinh doanh : con người, một tư liệu trong quá trình kinh doanh, có giá thành, giá bán như mọi tư liệu khác. Với cách nhìn này, con người hoặc là một đối tượng nghiên cứu của khoa học, hoặc là một công cụ phục vụ một mục đích của ta. Sự thực của nó nằm ngay trong thân xác nó. Giá trị sử dụng của nó là toàn bộ những chức năng của một loại động vật. Giá trị trao đổi của nó là số tiền cần thiết để mua sức lao động của nó. Nó là một con vật biết nói.

Nói thế, tưởng đùa. Tuy vậy, đó là sự thực xẩy ra hàng ngày. Ðó cũng là quan điểm của một số nhà chính trị, một số nhà văn. Khi Lênin khẳng định nghệ thuật phải là một bộ phận, một con ốc trong guồng máy cách mạng[3], ông khẳng định cách nhìn này. Có khác chăng, chỉ khác ở một chi tiết : động vật này không phục vụ mục đích cụ thể của một con người (như thế dễ hiểu và, mặt nào đó, trong thời tiền sử của nhân loại[4] này, phải chấp nhận). Nó phục vụ một khái niệm trừu tượng không kém gì Thượng Ðế : Quy luật khách quan của Lịch sử. Ðây là nguồn gốc của sự nhạt nhẽo trong "văn" của những tác giả tưởng mình là người cộng sản.

Nhưng, thỉnh thoảng, nhìn một người, ta thấy nó đẹp, nó buồn, nó quyến rũ.

(Cái) đẹp kia, chẳng ai nói được nó là gì : nó không có thực. Nó chỉ là hồn ta thấm vào một nét mặt, tạo thành một vẻ đẹp. Vẻ đẹp ấy (có) thật đối với ta. Nó là ta tuy ta không phải là nó (ta có thể rất xấu xí). Nóở người khác mà lại là ta. Nó là ta ở người khác. Nó là Esméralda trong mắt Quasimodo, hay đúng hơn, là hồn Quasimodo "lồng vào" nét mặt Esméralda.

(Cái) buồn kia cũng không có thực. Nó phảng phất đằng sau một gương mặt, một cử chỉ, một tiếng than, một tập hợp ký hiệu lờ mờ. Ta cũng cảm thấy nó một cách lờ mờ. Dù sao ta cũng đã buồn. Ta chỉ có thể "thấy" nỗi buồn của người khác qua nỗi lòng lâng lâng buồn trong ta. Ta là nỗi buồn đó tuy nó không phải của ta. Nó của người khác mà nó đã biến thành ta. Nó là người khác ở ta.

Như thế, nhìn người mà thấy mình, thấy mình ở người khác, thấy người khác ở mình. Người ta chỉ có thể thấy rõ cái gì người ta tìm. Nhìn người là nhìn mình, là tìm mình ở người khác, là tìm người khác ở mình.

(Cái) mình ở người khác ấy, người khác có thể trả lại cho ta. Ta linh cảm điều đó khi ta thấy người kia quyến rũ. Tất nhiên (cái) quyến rũ không có thực. Tất nhiên nó là ta ở người khác, người khác ở ta. Nhưng nó còn là sự thèm muốn người khác thấy ta, thấy mình trong ta, thấy ta trong mình. Nó là sự mời mọc, kêu gọi nhìn nhau, là sự khát khao được người khác trao lại cho ta phần hồn của ta. Nó là giấc mơ được là người trong mắt người khác.

Con đường ngắn nhất đưa ta về ta xuyên qua lòng em là như vậy.

Nhìn mình, thấy gì ?

Trước hết thấy một động vật của thế giới tự nhiên.

Ðó là cách nhìn của ta khi ta cắt móng chân, móng tay, đánh răng, rửa mặt, soi gương. Ðộng vật ấy, tự nó chẳng đẹp, chẳng xấu, chẳng vui, chẳng buồn, chẳng quyến rũ, chẳng vô duyên.

Cũng có lúc, ta cảm thấy người khác đang nhìn ta và bỗng nhiên ta thấy ta đẹp, ta xấu, ta sạch, ta bẩn... Ðó là nhìn mình mà thấy mình ở người khác, thấy người khác ở mình.

Nhắm mắt lại, thấy gì ?

Liên miên một luồng ý, vô hình, vô sắc, vô âm. Phải chăng ta là luồng ý đó ? Nếu ta là luồng ý đó làm sao ta có thể thấy (ý thức) nó ? Ta thấy người khác vì ta không phải là người ấy. Ta thấy thân xác ta vì, ở mặt nào đó, ta không là thân ta. Ta thấy ý nghĩ của ta vì, mặt nào đó, ta không phải là ý nghĩ đó. Vậy, ngoài thể xác, ngoài ý nghĩ, có gì ? Không có gì cả. Nhìn mình chỉ thấy hư vô, thấy hẫng hụt. Ðó là thân phận của con người. Con người là một sự thiếu hụt. Mặt trái của thiếu hụt là sự khao khát, đòi hỏi được trọn vẹn, được có thực, được tồn tại. Nó là nền tảng của mọi giá trị nhân bản. Nó là giấc mơ ta trở thành ta.

Những câu :

Je suis belle, ô mortel, comme un rêve de pierre[5]

Tel qu'en Lui-même enfin l'éternité le change[6]

khơi giấc mộng đó.

Nhưng nếu ta có thực, nếu ta là ta, như cây là cây, cỏ là cỏ, ta không thể thấy ta được, ta không còn nữa. Tồn tại là giấc mơ nguyên thủy không thể thực hiện được của con người.

L'homme est une passion inutile[7].
Ta là giấc mơ đó, khát vọng đó.

Giấc mơ không bao giờ thực hiện được đó, xuyên qua hành động, ta có thể khắc nó vào đời qua dấu tay ta để lại trên mặt đất, qua nỗi vương vấn ta để lại trong lòng người. Nó phảng phất trong một cái nhà, sau một bức tranh, một câu thơ, một nỗi nhớ. Ðó là hồn người tồn tại trong sản phẩm, trong hồn người khác, trong ngôn ngữ, văn chương và nghệ thuật.

Nhìn nhau, thấy gì ?

Thấy tất cả những gì thấy được trong hai thế nhìn kia. Nhưng khác một cách căn bản : thấy mình qua mắt người khác. Trả lại người khác cái gì của người khác và đón nhận từ người khác chính mình.

Thấy bạn, tôi vui vẻ cười. Bạn nhìn tôi, cười vui vẻ. Bạn trả lại cho tôi nỗi vui của tôi. Ðương nhiên, nỗi vui đó là tôi. Nhưng nó không còn là cái tôi lờ mờ, huyễn hoặc, khó tin. Nó là cái tôi đã được người khác xác định, chứng nhận. Nó vừa hoàn toàn là tôi vừa có sự tồn tại ngoài tôi, trong mắt bạn. Tôi vẫn là tôi nhưng đồng thời cũng là nó. Tôi đã nhận từ bạn bản thân tôi với một cái gì khác làm cho nó trọn vẹn hơn, thực hơn. Ðối với bạn cũng vậy. Bạn vẫn là bạn, nhưng một cách trọn vẹn hơn, thực hơn. Nỗi vui đó là tôi, là bạn, vì nó là chúng ta.

Ðĩ nhiên, con người không chỉ nhìn nhau trong niềm vui. Thằng khốn nạn kia đã dùng tôi làm công cụ thực hiện một ý đồ của nó, không được tôi chấp thuận. Tôi căm thù nhìn nó. Trong mắt nó có một con vật biết nói : tôi. Trong mắt tôi có sự đểu giả của con người : nó. Bắn nó một phát, tôi chiếm lại tôi : một con người, và trả lại cho nó sự đểu giả đã thấm vào hồn tôi : nó. Vì thế con người có thể giết nhau, không chỉ vì miếng ăn. Trong đời người, hiếm có ai chưa từng muốn giết một người.

Trong một đời người, thỉnh thoảng cũng có giây phút thần tiên. Liếc mắt nhìn trộm người yêu, gặp một ánh mắt, bỗng nhiên say đắm, ngơ ngất.

Một sự đắm đuối kỳ lạ. Một cơn ngất xỉu kỳ lạ.

Không nghẹt thở, hoàn toàn tỉnh táo mà không nhìn, không nghe thấy gì nữa, không biết trời biết trăng gì nữa, chỉ cảm thật rõ, thật mãnh liệt : ta là tất cả đối với em. Giây phút em trao lại cho ta chính bản thân ta, một cách trọn vẹn tới mức chính ta cũng có thể yêu ta được, là giây phút ta lại là ta[8] xuyên qua tình yêu của người khác. Nó chỉ có được khi tình yêu đó tuyệt đối, vô điều kiện, vô lý lẽ : biểu hiện của một sự lựa chọn tự do, của một con người. (Chẳng mấy ai thích được yêu vì mình đẹp, vì mình thông minh, giàu sang, duyên dáng v.v.). Nó chỉ có được khi ta cảm thấy ta được yêu vì ta là ta. Cái niết bàn trong đó ta chỉ là ta mà là tất cả, ta là tất cả mà vẫn được là ta, chỉ có người yêu mới cho nhau được. Ðã nếm mùi, không sao quên được, cứ muốn em đừng bao giờ chớp mắt. Em ngoảnh mặt đi, ta lại chỉ còn là ta, ta chăng còn làgì nữa :

Regarde-moi, ne cesse pas un instant de me regarder : le monde est devenu aveugle ; si tu détournais la tête, j'aurais peur de m'anéantir[9].
Nhìn sự vật, nhìn mình, nhìn người, nhìn nhau gắn bó với nhau trong những quan hệ phức tạp. Có khi nhìn sự vật là tìm người, nhìn người là tìm mình, nhìn mình là tìm người, nhìn nhau như nhìn sự vật...

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa ?
Buồn trông ngọn nước mới xa
Hoa trôi man mác biết là về đâu ?

Buồn trông ngọn cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một mầu xanh xanh


Nỗi buồn thấm vào cảnh vật ấy, chính là ta. Cái ta không trọn vẹn. Cái ta mơ hồ vì thiếu một người khác. Hai câu hỏi kia, dĩ nhiên, không phải câu hỏi thật. Thuyền của ai, hoa trôi về đâu, cả tác giả lẫn độc giả đều không cần biết. Chức năng thật của chúng là biến tâm hồn ta thành một câu hỏi. Ta là ai, là gì ? Không là gì cả. Là một câu hỏi không có giải đáp trong tự nhiên. Là nỗi cô đơn vô phương cứu chữa. Là sự thiếu hụt miên man. Là một tín hiệu thấp thoáng đằng xa, là mầu xanh xanh kỳ ảo giữa đất trời. Là sự hẫng hụt, thiếu thốn, sự khao khát được yêu. Thử bỏ hai câu hỏi ấy đi, nỗi buồn kia nhạt nhẽo vô cùng. Thật ra, bỗng nhiên, hồn ta, câu hỏi, nỗi buồn đã thành một. Nguyễn Du đã khiến ta tự biến mình thành một câu hỏi vu vơ, man mác buồn. Một cách hồn nhiên. Vì sao ? Vì lúc đầu, sự vật là sự vật, người là người, không lẫn lộn, không nhập nhằng. Rồi cảnh vật tiếp tục hiện lên trong mắt ta. Quá trình đó đồng thời là quá trình lòng người lenvào cảnh vật, qua những câu hỏi vu vơ, không cần trả lời, nhẹ nhàng lướt qua, nửa thực nửa ảo (thấp thoáng, xa xa), rồi thấm vào cảnh vật (man mác), xóa nhòa biên giới giữa khách quan, chủ quan, đến nỗi cuối cùngngọn cỏ rầu rầu cũng thấy tự nhiên (!) và mầu xanh xanh kia như vừa là mầu của trời đất, vừa là sắc thái của một tâm hồn.

Dĩ nhiên, đây là một hình thái quan hệ giữa người với thiên nhiên, ai cũng đã từng nghiệm sinh. Nhưng ta cũng thừa biết trong đời làm gì có chuyện tình cảm thấm vào sự vật. Chính cảnh vật kia cũng chẳng thực tí nào. Cảnh vật là cảnh vật, văn là văn. Tác giả đã dùng ngôn ngữ khơi (sáng tạo) một cảnh vật ảo, dùng nó làm một nhịp cầu thật giữa người viết và người đọc, chuyền cho nhau điều chỉ có thể có trong con người : nỗi buồn. Ðiều đó có thể làm được vì ngôn ngữ là quan hệ giữa người với người xuyên qua tự nhiên và lịch sử, xuyên qua tiếng nói : thế giới này, thân phận này, nỗi buồn này, là Nguyễn Du, là ta, vì chúng là ...tiếng Việt. Với bút pháp kia, cái mà Nguyễn Du xóa được, không phải là ranh giới giữa chủ quan và khách quan (làm sao xóa được !), mà là sự cách biệt giữa hai con người, người viết và người đọc. Ông đã làm nỗi buồn của ông thấm vào hồn người đọc. Nhịp cầu ông tạo ra không là gì khác hơn quá trình đọc của ta. Quá trình đó vừa khoa học nên dễ chấp nhận, vừa nhân bản nên dễ cảm.

Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một mầu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai ?

Sự nhìn nhau hẫng hụt ấy cũng kết thúc bằng một mầu xanh xanh kỳ ảo và một câu hỏi. Dĩ nhiên, cũng không phải câu hỏi thật. Ai điên mà tìm cách đo lường độ buồn của nhau ! Sự nhìn nhau hẫng hụt kia đột nhiên đuổi ta về ta, một câu hỏi đau điếng : chàng còn yêu ta không ? Ta còn là ta không ? Một câu hỏi chỉ có câu trả lời nếu chúng ta lại được nhìn nhau. Trong khi chờ đợi chỉ thấy xanh xanh...

Nhìn người, nhìn mình, nhìn nhau. Ba thế nhìn đó nhà văn đều thể hiện được qua mọi thể hành văn : tả, bày tỏ, suy luận.

Tả là dùng ngôn ngữ để thuật lại những gì mắt có thể thấy, tai có thể nghe : một sự vật, một sự kiện, một dáng người, một hành động, một lời nói. Tả tình cảm, ý nghĩ ắt vô duyên. Nếu muốn hiện thực, hay nhất là gửi cho "độc giả" một tấm hình, một băng ghi âm, một cuộn phim. Ngay thế cũng không đảm bảo nổi tính khách quan : dù muốn dù không, người chụp hình đã chọn một góc độ, một cái khung, đã phần nào xuyên tạc "sự thực".

Như ta đã thấy, khi nhà văn tả sự vật, mục đích không phải là sao chụp hiện thực gửi cho ta, mà là dẫn dắt ta tái tạo cảnh vật theo lối nhìn của mình. Và điều kiện thực hiện là tôn trọng tự do của ta. Do đó, áp đặt nhân tính của mình vào cảnh vật trong tả cảnh là điều tối kỵ. Ðó là lối hành văn của thời ấu trĩ : cái cầu bước qua sông, con đường chạy ngoằn nghèo trên sườn núi... Trên đời này làm gì có một cái cầu biết đi, biết bước, một con đường biết chạy. Phải viết làm sao ta thấy hết sự thèm muốn, sự cố gắng của con người để qua sông. Lúc đó, cái cầu biến thành một bước đi của con người trong trời đất. Lúc đó, chẳng cần nói nó cũng bước qua sông.

Trong tiểu thuyết Người và dã thú có nhiều trang tác giả tả một con hổ với đầy đủ tư cách, tình cảm, suy nghĩ của một con người. Vẫn biết là ngụ ngôn mà đọc vẫn cứ khó chịu, muốn lướt cho qua. Mãi tới cuối truyện tôi mới hiểu : nhân tính của nhân vật không do tôi, độc giả, tái tạo. Nó do sự di truyền của ông tổ : người hay vượn. Tác giả hiểu rõ điều đó nên có thể khoác nhân tính hay thú tính cho nhân vật của mình. Kể cả một con hổ, vì nó được một con người nuôi nấng, đó là nguồn gốc của nó. Là sản phẩm của người, tự nó đã là người. Như vậy, ta, độc giả, đã thành thừa. Khi ta thấy ta thừa thì ta ... cút. Còn lại một tập giấy lem nhem mực, giá thành, giá bán, tỷ lệ lời lỗ, nhà xuất bản tính toán phân minh, khoa học.

Tả sự kiện trong thế giới tự nhiên cũng vậy.

Tả người khó ở chỗ tả cho ra hồn. Một câu như Nàng là một cô gái đẹp và hiền lành chẳng khiến người đọc thấy nàng đẹp và hiền lành. Anh nói vậy, tôi biết vậy, thế thôi. Tác giả khoác nhận xét của mình vào nhân vật không thể tạo nhân tính cho nó, chỉ bày tỏ tình cảm, suy nghĩ của mình. Tình cảm, suy nghĩ đó chẳng thể áp đặt vào độc giả. (Cái) đẹp, (cái) hiền lành kia không phải là một thuộc tính của một động vật. Không thể thể hiện nó qua hình thù, nét mặt, so sánh...

Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh


Dù ta thích những khuôn mặt tròn trĩnh ta cũng không thấy Vân đẹp. Mấy câu thơ kia chỉ nói lên học thức kinh điển của Nguyễn Du, không tạo một vẻ đẹp đặc biệt nào.

Vẻ đẹp, vẻ hiền lành của nhân vật chỉ có thể nở trong ta qua quá trình hình thành của nó. Quá trình đó có thể có sự cấu tạo hình hài và cũng có thể không cần tới sự cấu tạo đó. Trong truyện Những người thợ xẻcủa Nguyễn Huy Thiệp có một nhân vật nữ, chị Thục, không có nét mặt mà vẫn rất đẹp. Quá trình đó gồm toàn bộ những nhân tố hình thành một thân phận : hình hài, hoàn cảnh, lời nói, hành động, quan hệ với những nhân vật khác... Những nhân tố ấy đều có thể tả được. Quá trình đó, chính là quá trình đọc của độc giả. Chính độc giả phải tái tạo vẻ đẹp, tâm hồn hiền lành kia qua quá trình cấu tạo lại nhân vật, dưới sự hướng dẫn của tác giả. Trò chơi này không có phương pháp, nhưng có một luật chơi : tác giả không được áp đặt quan điểm của mình, không được bắt ta thấy nàng đẹp khi bản thân ta chưa tái tạo vẻ đẹp ấy. Khi ta đã tái tạo nó, chữ đẹp thành thừa.

Tả hành động là tả sự hoà nhập của con người vào vũ trụ, vào loài người. Bằng hành động, con người chiếm hữu vũ trụ, khắc vào thiên nhiên giấc mộng của mình, xâm nhập vào người khác. Hành động vô cùng thuận lợi cho nghệ thuật viết văn : nó có hình thái rõ ràng, có thể tả được. Ðồng thời nó là ký hiệu của một con ngưòi trong một hoàn cảnh. Nó là hồn người đang đọng lại trong không gian và thời gian. Một cái tát, một cái hôn, có thể nói lên cả một kiếp người. Hành động là tiếng nói không lời của nhân vật. Trong Ngoại tìnhcó một cảnh cắn và một cảnh tát đẹp, chẳng cần giải thích dài dòng, đọc tới, thấm ngay. Trong Ngoài khơi miền đất hứa có một cảnh hôn thật khôi hài, cay đắng. Trong Bên kia bờ ảo vọng cảnh Nguyên đưa tờ giấy ly khai cho vợ, bình thản thở khói thuốc, bất ngờ và đẹp vô cùng : nó là lời tự nguyện làm người.

Dĩ nhiên, một hành động, tự nó, không có ý nghĩa. Ý nghĩa của nó đã được chuẩn bị, bố trí qua quá trình dẫn tới nó. Nhưng nó chẳng bao giờ là kết quả máy móc của quá trình đó. Giây phút nhập cuộc là giây phút con người chọn tương lai của mình và đồng loại, tự tạo định mệnh, tự tạo nhân cách. Hành động là một sự lột xác đột ngột, sáng tạo một hồn người. Nó là biểu hiện của nhân cách, của tự do. Nghệ thuật tả hành động không chỉ ở quá trình thai nghén nó. Còn là nghệ thuật biểu hiện tự do, nhân cách của con người qua một sự kiện. Trong Les misérables[10], khi Javert đưa súng lên đầu, có một thế giới sụp đổ, có một thân người gục xuống, có một hồn người vươn lên.

Tả lời nói, đối thoại là lãnh vực khó nhất trong nghệ thuật hành văn. Nó vướng tất cả những khó khăn của các thể loại trên, vì lời nói cũng là sự kiện, là hành động. Nhưng nó là hành động trong thế giới của tâm hồn. Lời nói là sự phát triển vô hình, vô sắc, của một tâm hồn đọng lại trong ngôn ngữ. Sự phát triển thầm kín, hoàn toàn riêng tư đó lại phải thể hiện qua một công cụ hoàn toàn công khai, thô thiển : lời nói bình thường trong cuộc sống. Do đó, trong văn, lời nói phải nói được cái muốn nói và đồng thời khơi được cái không thểtả được qua định nghĩa của từ ngữ trong từ điển : một hồn người.

Vở kịch Hồn Trương Ba da Hàng thịt chấm dứt bằng hai tiếng không. Chữ không ta dùng hàng ngày, hơn cơm bữa, lắm khi nó chẳng còn nghĩa lý. Thế mà đọc tới đó cứ lặng người : nó đã thể hiện được cả một kiếp người, một thân phận, một khát vọng, một ý chí, một nỗi đau. Nó là một kiếp đàn bà, suốt đời quanh quẩn giữa miếng ăn và ông chồng thô bạo, đột nhiên đòi tình yêu, đòi làm người. Nó là tiếng chào đời của một nhân cách.

Cuộc đối thoại giữa Mai và Hương trong Ngoài khơi miền đất hứa cũng đẹp như vậy. Nó không chỉ là lời an ủi bạn phải bán trinh để cứu mẹ (điều muốn nói). Nó còn là niềm kiêu hãnh, chí làm người trong một hoàn cảnh chó má.

Ngoài việc tả sự vật, sự kiện, nhân vật, hành động, lời nói, có khi nhà văn phải bày tỏ tình cảm. Ðiều này cần mỗi khi nghệ thuật tả không đủ sức nói cạn tình cảm. Nếu chỉ có nhu cầu nói lên tấm lòng mình, nên viết một bài ta thán, không nên viết truyện. Bày tỏ tình cảm chỉ xuôi tai khi nó bày tỏ tình cảm của nhân vật. Nhưng nhân vật lại do độc giả tái tạo. Bày tỏ tình cảm của nhân vật chỉ thành công khi tình cảm đó đã nhen nhóm trong lòng người đọc, sẵn sàng bộc lộ qua ngôn ngữ. Ðây là phương pháp tế nhị, khó khăn, nguy hiểm, khó dùng đạt.

Có những vấn đề, chỉ tả, chỉ bày tỏ tình cảm, không thể nói cạn. Ðó là những suy nghĩ vô tận của con người trước cuộc sống. Muốn nói thẳng ý nghĩ của mình cho người khác, nên viết một bài nghị luận, hay một bài suy nghĩ vẩn vơ như bài này. Trình bầy suy nghĩ trong truyện là trình bầy suy nghĩ của nhân vật, trong hoàn cảnh của nó, qua quá trình hình thành nó. Nhưng ở đây cũng vậy, hoàn cảnh đó, quá trình đó cũng do độc giả tái tạo. Những suy nghĩ đó chỉ xuôi óc khi nó đã bước đầu là suy nghĩ của bản thân người đọc hay, ít nhất, khi người đọc đã thấm nhân vật tới mức thấy : trong hoàn cảnh ấy, đương nhiên phải nghĩ vậy. Và, một lần nữa, để được vậy, nhà văn phải tôn trọng nhân cách tự do của người đọc. Ðây cũng là phương pháp tế nhị, khó khăn, nguy hiểm, khó dùng đạt.

Trong Gặp gỡ cuối năm, (nhân vật của) Nguyễn Khải nói :

Mấy chục năm qua, tự xét mình, tôi thuộc về sức đẩy, chứ không thuộc về sức cản nhưng cũng chỉ như thế thôi, chẳng là cái gì cả trong cái dòng chẩy ồ ạt, vĩnh viễn của Lịch Sử !

Lịch sử chẩy về đâu ? Ai khiến nó chẩy ? Ta không biết, nhưng thấy lâu lâu Nó lại xuất hiện để bảo lãnh cho nhân vật.

Ðằng sau tay nghề vững vàng của tác giả, ta đã nhận diện quá rõ một nhân sinh quan biến con người thành công cụ đơn thuần của một khái niệm, thành một con vật biết nói. Ngay tình cảm khiêm tốn kia cũng làm ta dửng dưng. Nó là sự an phận của kẻ đã vĩnh viễn (?) chấp nhận. Hoặc nó là sự khiêm tốn giả tạo của kẻ ngạo mạn : ta là (một bộ phận) của sự thật vĩnh viễn, của Sự Thật. Ðây không phải chuyện người. Ðây là kinh thánh. Ai thích thì tụng. Ai không thích, tắt đèn, đi ngủ. Ai đã bắt đầu lý sự như tôi đang lý sự là đã bước ra ngoài thế giới văn chương. (Thú thực, vừa chuẩn bị bước vào đã văng ra).

Dĩ nhiên, tác giả hoàn toàn có quyền có quan điểm đó về lịch sử. Trong đời, không thiếu người có quan điểm đó. Nhân tính của quan điểm đó chỉ ở chỗ đó. Vấn đề không phải nó đúng hay sai. Ðiều đó nhường các nhà triết học tranh luận. Vấn đề là làm sao, qua quá trình hình thành nhân vật phát biểu ý đó, ta cảm nhận những ước ao, khao khát, ý chí làm người đã dẫn nhân vật tới quan điểm đó, sẵn sàng sống chết vì nó. Nhưng nhân vật của Nguyễn Khải, chưa thành hình đã thủ sẵn bảo bối đó trong mình. Nó là Samson ra đời với bộ tóc không dao nào cắt được. Nó không phải là nhân vật tiểu thuyết. Nó là khái niệm ngụy trang tiểu thuyết, là một tuồng minh họa vô vị. Ðọc Tuyên ngôn Ðảng Cộng sản thú vị hơn nhiều.

Cũng đề tài đó, dù chính kiến của ta khác chính kiến của tác giả, truyện Le zéro et l'infini[11]vẫn làm ta quên ăn, mất ngủ. Trong truyện Vie et Destin[12] của Vassili Grossman có cảnh một người lính bị bắn, lúc tỉnh dậy, thu sức tàn lết về đơn vị đã bắn mình để được chết cạnh bè bạn, đồng chí. Ðọc tới, không thể không miên man thổn thức. Có những lúc, sống, chết vì lý tưởng đều là sự bế tắc không cùng.

Tới đây ta có thể đề cập tới một vấn đề trọng yếu trong văn chương, vấn đề sự thật. Nhìn sự thật trong văn chương là nhìn cái gì ? tìm cái gì ?

Rõ ràng sự thật trong văn chương không phải sự thật về sự vật. Ðó là đối tượng của khoa học, công việc của nhà khoa học. Nó cũng không phải sự thật về sự kiện. Ðó là đối tượng điều tra của phóng viên, đối tượng phân tích của sử học, công việc của nhà báo, của sử gia. Nó là sự thật của con người. Ðó là mục đích, cạm bẫy nguy hiểm nhất đối với nhà văn.

Sự thật của con người ở đâu ? Chắc chắn không thể ở ngoài nó : ta sẽ thấy được, đo được, tả được. Chắc chắn cũng không ở trong thân xác nó : xẻ thân, bửa óc nó, chỉ có xương, thịt, máu... Nó ở trong quan hệ giữa con người với trời đất, với đồng loại, ở trong ánh mắt nhìn đời của mỗi con người. Cái nhìn đó, như ta đã thấy, (là) tự do, (là) sáng tạo giá trị, sáng tạo nhân tính trong trời đất, trong hồn người. Sự sáng tạo ấy tự do nên con người có thể sáng tạo những giá trị đẹp và xấu. Sự thật của một thời đại gồm toàn bộ những giá trị đó. Ðộ nhân của một nền văn minh ở mức độ đảm bảo cho mọi người, một cách bình đẳng, quyền tự do sáng tạo giá trị. Ðộ phong phú, chiều sâu của một nền văn học cũng từ đó mà ra.

Trong nghĩa đó, con người là sự thật khốn nạn duy nhất của vũ trụ. Rừng núi, cỏ cây, trăng sao, không có sự thật. Chúng có thực, tồn tại và vận động theo những quy luật khách quan của thế giới tự nhiên. Về mặt đó, thân xác của ta cũng vậy. (Cái) tốt, (cái) xấu không có thực : nó là giá trị, là sáng tác tự do của con người, nó thật đối với con người trong một thời đại. Nhưng nó không thể là sự thật về hồn người. Hồn người đã không có, làm sao có được sự thật về hồn người. Bi kịch, sự thật đau đớn của con người ở đó : nó là nền tảng của mọi giá trị, mọi sự thật trong đời, nhưng trong bản thân nó không có sự thật. Tóm lại, nhân tính (là) tự do, (là) sáng tạo, (là) tự do sáng tạo. Nếu con người không tự do, bàn luận về sự thật là chuyện vớ vẩn. Con người, tự do, sáng tạo, đồng nghĩa.

Các bậc thầy văn chương thường khuyên nhủ đồ đệ : chớ giải thích, chớ gán tình cảm của mình vào nhân vật, chớ nhét lý luận của mình vào mồm nhân vật, phải tôn trọng nhân vật. Những lời xác đáng đó thật khôi hài, khó hiểu. Tôn trọng một nhân vật sinh ra từ ngòi bút của mình, chưa thành hình đã biến dạng, là tôn trọng cái gì ? Tôn trọng ai ? Tôn trọng người đọc.

Ðó là nguyên tắc không thể chà đạp, là cốt lõi của văn chương : tôn trọng nhân cách tự do của người đọc, nhìn nhận người đọc, cũng như người viết, là nền tảng, là tác giả của mọi giá trị trên đời, đẹp cũng như xấu. Trên cơ sở đó, hoàn lại cho văn chương chức năng muôn thủa của nó : vẫy gọi nhau cùng làm người, cùng tái tạo nhân giới, cùng sáng tạo giá trị cho thời đại mình.

Trần Đạo



[1] Chỉ vắng bóng một người đã chẳng còn ai. Lamartine, Le Lac

[2] Tự do, chính là khắc khoải lựa chọn. J.P.Sartre, L'Être et le Néant.

[3] theo trí nhớ

[4] Marx, Phê phán Kinh tế chính trị học.

[5] Hỡi con người hữu hạn, ta đẹp như mộng đá. Baudelaire

[6] Chịu thua, phải là nhà thơ mới dịch được. Mallarmé.

[7] Con người là một khát vọng hão. Sartre, l'Être et le Néant

[8] Tố Hữu

[9] Hãy nhìn anh, xin đừng bao giờ ngoảnh mặt : thế giới đã mù lòa ; nếu em ngước mắt đi, anh sợ bị tiêu vong. J.P.Sartre, Le Diable et le Bon Dieu. Ác quỷ và Thiên thần.

[10] Những kẻ bần cùng. Victor Hugo.

[11] Số không và vô tận.

[12] Cuộc sống và Ðịnh mệnh.

Thứ Bảy, 28 tháng 9, 2013

Câu hỏi, ba giờ sáng



tôi gõ cửa phòng vào ba giờ sáng
nàng áo trầm hương mở cánh đã khép
nhiều năm tháng hỏi vì sao ba giờ ?
tôi chỉ bảo đó là giờ định mệnh

không ngạc nhiên trong đôi mắt đêm tối
căn phòng nở một đoá hồng kỳ diệu
qua ánh kính thoáng vườn khuya nàng nói
tiếng cất sau lưng nỗi lặng lẽ rằng
ba giờ đêm đã là điều tiên nghiệm
nàng chờ suốt từ cơn mưa buổi sáng
dội đầm đìa trên thân thể hoang thơ

nàng đã biết vì sao tôi gõ cửa

giờ này cho câu hỏi ấy sớm mai
thắp lên ngọn đèn nhỏ nhoi khoảnh sáng
cello âm u hoài vọng giấc mơ
qua đêm lỡ có bầy chim thức giấc
vụt cánh theo đường mã vĩ vút cao
điều hiển linh vừa bay ra khuya tối

cuốn cặp cánh thiên nga đang hấp hối
giữa điệu ballet bao nhiêu thiên thần
một chàng điên vụng về rối tóc bay
thầm thì với nàng những câu nói cuối
dường cũng điên chẳng kém mấy tình yêu
khán giả dưới kia là những hàng ghế
trống không đời trên sân khấu ngao ngán
cảnh tượng ưu phiền bi kịch ngàn năm
bỗng choàng thức vỗ tay ồn ào tán thưởng
tình thơ ngây không thể ngờ sống sót

từng dãy ghế bật ngã rầm cuồng loạn
chiêng trống ngoài phố hội rước đi qua
người ngợm ngựa xe súc vật ùa ra
cuộc diễn hành thế vận hội thời trung cổ

tôi bắt gặp nàng ngơ ngác đám đông
khuôn mặt lạc loài là điều có thật
còn chàng điên đang ngất ngưởng trên xe
đọc bản tuyên ngôn giữa rừng hồng úa
bao mắt người trố hỏi hắn là ai

chỉ có sao nai đeo trên ngạnh sừng
lũ hoàng oanh nhởn nhơ dụi mỏ
mải mê nghe chàng điên vì tưởng ngỡ
là mưa gió là lá rừng xao xuyến

mặc những còi xe bò rống người gào
cổ chim hươu nàng say lời tự thú
chàng điên ngất ngây tình ca diễm ảo
lễ hội biến đi vụt cuốn về trời
không để gì dấu vết ngoài mưa đêm
đang ướt đỏ sân xưa hàng gạch tàu
nàng kể tôi nghe một thời bé dại

tôi đi ra khi nàng nhẹ nhàng thiếp
ngủ trong giọng cello chùng âm vương
điệu Bach tràn sau cánh cửa tôi khép
chợt mở mắt nàng bảo rằng ba giờ
sáng cùng chàng điên là điều có thực


Mai Ninh

Ân oán của người ăn mày

Năm 1965, lúc đó tôi 23 tuổi đang là sinh viên sư phạm để ra làmmột ông thầy dạy văn chương trung học . Sáng hôm đó làmột buổi sáng sớm mùa Xuân, tôi đang ngồi học trong phòng mình trong căn hộ ở tầng 6một tòa chung cư . Đây là tòa nhà chung cư duy nhất trong dãy phố .
Hơi lo ra, tôi ngồi học mà cứ thỉnh thoảng lơ đãng nhìn ra cửa sổ . Bên dưới nhà tôi là đường phố . Bên kia đường là căn nhà ngay góc đường của ông Sĩ-giang. Ông này khó tính nhưng nhà ông này có mảnh vườn tuyệt đẹp mà tôi cứ hay nhìn xuống . Kế bên nhà ông Sĩ-giang là căn nhà cũng rất đẹp của gia đình Bình-nam . Gia đình Bình-nam là gia đình hiền lành, thân thiện, luôn làm những chuyện tử tế . Gia đình này có 3 cô con gái, mà tôi thì si tình cô lớn nhất, là Diễm-an . Sáng sớm lắm nên tôi biết Diễm-an chưa có ra ngoài nhà nhưng mà thỉnh thoảng tôi cứ liếc sang đó . Có lẽ chỉ vì trái tim sai khiến .
Theo thói quen, ông Sĩ-giang sáng sớm là đã tưới nước và dọn dẹp cho căn vườn yêu quý của ông ta . Căn vườn này nằm ngay trước nhà, có hàng rào sắt phía trước, cách đường phố phía dưới là 3 bậc tam cấp bằng đá .
Đường xá đang còn vắng tanh . Tôi thấy cómột người đàn ông đang đi từ xa tới bên phía lề đường của nhà Sĩ Giang và Bình Nam . Tôi bị lôi cuốn vì ông ta có vẻ làmột người ăn xin hay là dân du cư, áo quần là những tấm giẻ cũ kỹ đủ màu như cầu vồng .
Ốm yếu, râu ria, trên đầu thì đội cái mũ rơm màu vàng . Dù trời nóng, ông ta cũng khoác cái áo choàng rách rưới, xam xám . Ông ta còn mang thêm cáimột bị lớn, dơ dáy . Chắc là để đựng đồ ăn xin được và thức ăn thừa .
Tôi tiếp tục nhìn theo tay ăn mày . Ông ta ngừng trước nhà ông Sĩ Giang, leo lên bậc tam cấp, rồi hỏi hay xin cái gì đó với ông Sĩ Giang qua khe hở của cái hàng rào sắt . Tính ông Sĩ Giang làmột người thô lỗ , khó chịu cho nên trông ông có vẻ không muốn nghe người ăn xin nói gì mà chỉ hất tay đuổi ông ta đi . Nhưng ông ta cứ đứng nguyên đó nói gì không rõ . Rồi tôi nghe ông Sĩ Giang to tiếng :
- Đi ! Đi ngay ! Đừng có làm phiền nữa !
Tuy nhiên, không hiểu sao ông ăn mày cứ đứng đó, tay vịn vào hàng rào, kèo nài, lẩm bẩm . Giận dữ và mất hết kiên nhẫn, ông Sĩ Giang dùng hết sức đẩy mạnh ông ăn mày ra khỏi hàng rào . Kẻ ăn mày tuột tay khỏi hàng rào , trật chân lên bậc tam cấp, ngã chỗng chân lên trời, đầu đập mạnh vào bậc đá xanh .
Ông Sĩ Giang hoảng hốt chạy ra, cuối người lên lão ăn mày, tay để lên tim ông ta lắng nghe nhịp đập . Chắc không nghe thấy gì nên ông Sĩ Giang sợ hãi chạy xuống chân ông ăn mày rồi nắm chân kéo ông ta sền sệt xuống lề đường . Bỏ ông ta nằm đấy nhưmột người say rượu . Sau đó ông Sĩ Giang đi vào nhà, đóng khóa cửa vườn, cửa nhà lại, như là không biết gì xảy ra . Ông ta chắc cũng nghĩ rằng chẳng ai thấy cái tội ác vô tình ông gây ra cả .
Người nhân chứng duy nhất là tôi .
Không lâu sau đó có người đi ngang qua và thấy người ăn mày nằm chết bên đường . Cảnh sát đến và xe cứu thương được gọi đến . Xác người ăn mày được cho vào xe cứu thương va ` chở đi mất .
Mọi việc diễn ra như vậy . Ngoài người ăn mày thì đã chết, ông Sĩ Giang thì sống để bụng chết mang theo, chẳng ai còn nhắc đến cái chuyện người ăn mày chết đường chết chợ đó nữa .
Còn tôi, tôi rất cẩn thận không bao giờ hé ramột lời về chuyện này cho bất cứ ai . Có lẽ như vậy là không chính trực lắm nhưng tôi sẽ được gì khi tố cáo ông Sĩ Giang, người dù sao chẳng có làm gì xấu với tôi cả ? Hơn nữa, cũng không phải ông Sĩ Giang cố tình muốn sát hại người ăn mày kia . Tất cả chỉ là chuyện vô tình , lầm lỡ . Tôi nghĩ để cho ông Sĩ Giang đã lớn tuổi phải gánh chịu những phiền phức, rắc rối với pháp luật, có thể còn phải đi tù về chuyện này thì thật có gì đó hơi bất nhẫn . Tốt hơn hết là để cho ông ta chịu sự phán xử của lương tâm ông ta .
Lâu dần tôi cũng quên đi cái bi kịch thương tâm đó . Nhưng mỗi khi gặp ông Sĩ Giang tôi lại thấy xao xuyến bàng hoàng chút gì đó trong người vì nghĩ rằng ông ta không thể ngờ tôi là người duy nhất đã chứng kiến toàn bộ cái bí mật có lẽ ghê gớm nhất của cuộc đời ông . Sau đó tôi tránh mặt ông và không bao giờ còn dám nói chuyện với ông nữa .
***
Banăm sau, tôi đã 26 tuổi, tôi đã lấy bằng sư phạm về ngành ngôn ngữ và văn chương Tây ban nha . Diễm-an không lấy tôi làm chồng mà lấy 1 kẻ may mắn khác . Tôi cũng chẳng biết kẻ ấy yêu Diễm-an hơn tôi hay là xứng đáng với nàng hơn tôi hay không .
Thời gian đó, Diễm-an đang mang thai, sắp đến ngày sinh nở . Nàng vẫn sống trong căn nhà tuyệt đẹp đó và chính nàng vẫn đẹp hơn bao giờ hết .
Mộtbuổi sáng tháng 12 tôi đang dạy kèm văn phạm ở nhà cho vài em học sinh trung học , cũng trong căn phòng ngày xưa chứng kiến vụ án mạng . Cũng như ngày nào, thỉnh thoảng tôi lại liếc nhìn xuống con đường phía trước dưới nhà .
Bỗng nhiên tim tôi nhảy lên loạn xạ . Tôi tưởng như mình bị ảo ảnh .
Trên con đường trước mặt, cómột người đang đi về phía nhà gia đình Diễm-an, chính là người ăn màyba năm trước bị ông Sĩ-giang giết chết . Không thể lẫn lộn vào đâu được . Bộ quần áo màu mè giẻ rách, chiếc áo choàng xám, cái mũ màu vàng, cái bị túi dơ bẩn .
Quên cả đám học sinh, tôi vội đi tới bên cửa sổ . Người ăn mày đang đi chậm lại , như là đang sắp đến nơi ông ta muốn đến .
“Ông ta trở về.” Tôi nghĩ “Và trở về để báo thù ông Sĩ-giang đây .”
Nhưng ông ta không ngừng lại trước nhà ông Sĩ-giang . Ông đi băng qua hàng rào vườn nhà ông Sĩ-giang . Ông ta đứng trước cửa nhà của Diễm-an, mở chốt cửa rồi đi vào nhà .
Tôi điên lên vì lo lắng . Tôi bảo đám học trò :
“Tôi sẽ trở lại ngay !”
Tôi chạy ra thang máy và đi ngay ra phố, băng qua đường, chạy vội tới nhà của Diễm-an ,
Mẹ cô ta, đang đứng trong nhà, ngay cửa chính . Bà nhìn tôi ngạc nhiên rồi nói :”Ủa ? Chào cháu ! Cháu đó ư ? Thật làmột phép lạ !”
Mẹ Diễm-an luôn luôn có cảm tình với tôi . Bà ôm hôn tôi . Nhưng tôi chưa hiểu gì cả . Tại sao bà lại nói phép lạ gì ở đây ? Té ra là Diễm-an vừa mới lâm bồn . Và bà tưởng tôi đến thăm đúng lúc . Ai trong nhà cũng vui mừng . Tôi bèn đành bắt tay chúc mừng kẻ đã đánh bại tôi .
Tôi chưa biết phải hỏi thế nào và đang suy nghĩ không biết có nên giữ im lặng cho qua luôn không . Rồi sau đó tôi nghĩ ramột cách . Tôi bèn vờ hỏimột cách hơi lơ đãng :
“Thật ra thì tôi bước vào nhà mà không bấm chuông vì tôi thấymột ông ăn mày vớimột cái bị to mà dơ dáy lắm lẻn vào nhà này . Tôi sợ ông ta ăn cắp đồ trong nhà .”
Mọi người trong nhà nhìn tôi ngạc nhiên : ăn mày ? bị túi ? ăn trộm ? Hầu như cả nhà đang ở trong phòng khách này từ nãy giờ nên chẳng ai hiểu tôi nói gì .
Tôi bèn nói :
- Vậy chắc chắn là tôi nhìn lộn rồi .
Sau đó họ mời tôi vào phòng của Diễm-an và em bé mới sanh . Trong hoàn cảnh này tôi chẳng biết nói gì hơn là chúc mừng nàng, hôn tay nàng, suýt soa nhìn em bé, và hỏi vợ chồng nàng đã đặt tên cho em bé chưa . Họ nói rồi, và tên bé là Duy-thành .
Trở về nhà, tôi ngẫm nghĩ :
“Đó chính là người ăn mày bị giết bởi ông Sĩ-giang . Chắc chắn . Vậy ông ta không trở về để báo oán mà chỉ để đầu thai vào làm con của Diễm-an .”
Tuy nhiên, 2 – 3 ngày sau, tôi thấy giả thuyết của tôi có vẻ kỳ quặc quá cho nên tôi cũng từ từ quên nó đi mất .
***
Có lẽ tôi cũng quên đi những chuyện không vui, hơi quái dị đó luôn nếu sau này vào năm 1979 không cómột chuyện xảy ra làm tôi nhớ và liên hệ lại tất cả mọi việc xảy ra từ năm 1965 đến lúc đó .
Nhiều năm đã trôi qua . Tôi cũng đã qua tuổi thanh niên . Không còn nhiều ước vọng hăng hái như ngày xưa . Mỗi khi đọc sách cạnh cửa sổ tôi thường để tâm trí lãng đãng đây đó, mắt vãn thỉnh thoảng nhìn ra cửa sổ, bên kia đường .
Con của Diễm-an, Duy-thành, bây giờ đã 11 tuổi, đang chơi trên sân thượng của nhà nó . Trò chơi hơi có vẻ trẻ con so với số tuổi của nó . Có lẽ thằng bé không thông minh lắm . Tôi nghĩ nếu nó là con của tôi thì chắc nó sẽ nghĩ ra nhiều cách để giải trí thú vị hơn .
Nó đang đặt 1 đống lon không trên đầu bức tường ngăn cách 2 căn nhà và đứng cách xa khoảng 3 hay 4 mét, lấy đá cố chọi cho trúng vào mấy cái lon . Làm vậy, dĩ nhiên là các cục đá sẽ rớt hết qua vườn nhà bên cạnh của ông Sĩ-giang . Bây giờ thì ông ta chưa thấy nhưng tôi biết lát nữa đây ông ta sẽ nổi trận lôi đình khi thấy cảmột khoảnh hoa trong vườn nhà ông ta bị đá rơi trúng làm bầm dập, gẫy nát .
Ngay lúc đó, tôi thấy ông Sĩ-giang mở cửa nhà và bưóc ra vườn . Lúc này ông già lắm rồi, bước từng bước chậm chạp, nghiêng nghiêng . Mỗi bước lại ngưng, mỗi buớc lại nhấc chân lên nặng nề . Nhưng ông ta không chú ý gì đến mảnh vườn mà lại đi thẳng tới cổng vườn, mở cổng rồi bước xuống bậc tam cấp bằng đá dẫn ra lề đường .
Trong lúc đó thì thằng bé Duy-thành, không nhìn thấy ông già, cuối cùng đã chọi trúngmột cái lon . Cái lon văng lên, rớt xuống bờ tường vài lần, rồi rớt xuống vườn nhà ông Sĩ-giang vớimột tiếng “beng” lớn , có lẽ do trúngmột bờ gạch hoạc chậu kiểng . Ông già đang đi chập choạng trên bậc tam cấp, nghe tiếng động bỗng giật mình quay lại . Ông bị mất thăng bằng rồi ngã quay trên bậc thềm, đầu giộng mạnh vào thềm đá xanh .
Tôi thấy hết . Nhưng ông già và thằng bé chẳng ai thấy ai cả . Chẳng hiểu tại sao, thằng bé bỗng ngưng chơi . Nó chạy đi mất . Chỉ vài giây sau, nguời ta bu lại chỗ ông Sĩ-giang té nằm đó . Trong chốc lát người ta xác định là ông đã chết vỡ sọ, do bị té bất ngờ .
Sáng hôm sau, khi thức dậy, tôi đi ngay ra cửa sổ nhìn qua bên kia đường . Xác ông Sĩ-giang được quàng giữa nhà . Nhiều người đứng hút thuốc và tụ tập trên lề đường trước nhà ông .
Mọi người bỗng im lặng, đứng tránh ra có vẻ bối rối khi cómột lão ăn mày từ nhà Diễm-an bước ra, vẫn với bộ quần áo màu mè, cai áo choàng xám, cái mũ rơm màu vàng, cái bị túi dơ bẫn kia . Lão đi ngang qua nhóm người, chậm chạp nhưng từ từ khuất dần theo hướng mà trước đây ông ta đã theo hướng đó mà đến .
Cũng hôm đó,một tin buồn đến nhưng không làm tôi ngạc nhiên, là thằng bé Duy-thành bỗng nhiên không ai thấy nó ở trong nhà nữa . Họ tìm kiếm mãi mà không bao giờ tìm ra dấu vết thằng bé . Tôi chỉ biết khuyên gia đình Diễm-an thường xuyên đặt hoa lên bậc thềm chỗchỗ người đã tử nạn .
Một thời gian sau Duy-thành bỗng trở về nhưng không còn nói dược . Sau này nó phải học lại từ đầu và tuy chậm nhưng vẫn phát triễn bình thường .
- Hết -
Truyện ngắn kinh dị của Fernando Sorrentino (Argentina)
Bản tiếng Anh của Thomas Meehan

Hạnh phúc chân thật ?


image


Anh ta không đi tìm hạnh phúc ở bên ngoài mình. Khi chúng ta trông cậy vào địa vị, tiền bạc, vào vợ hay chồng của mình để mang lại hạnh phúc, thì ta sẽ không bao giờ có hạnh phúc. Vì chúng ta nương tựa vào những gì không phải của mình.


Ông Allen Wallace là một học giả và cũng là một nhà Phật học Hoa kỳ nổi tiếng. Ông đang điều hành những chương trình dài hạn tại Santa Barbara Institute và đại học UCLA, nghiên cứu về sự liên hệ giữa thiền tập và hạnh phúc. Trong bài này ông chia sẻ và giới thiệu về quyển sách mới của mình có tựa đề là Genuine Happiness, vừa mới được xuất bản. Xin được gửi đến các anh chị.

Một buổi sáng đầu Thu ở nhà Chuyển Hóa,
West Virginia, Hoa Kỳ
Duy Nhiên



-ooOoo-



Thế nào là một hạnh phúc chân thật (genuine happiness)?



- Tôi nghĩ ta dùng chữ "con người hưng thịnh" (human flourishing) thì chính xác hơn, vì nó có gốc từ chữeudaimonia của Hy lạp. Dịch là hạnh phúc chân thật cũng được, nhưng tôi nghĩ "hưng thịnh" (flourishing) thì chính xác hơn.



Và hạnh phúc ấy sẽ mang lại cho ta những gì?



- Một cuộc sống có ý nghĩa.



Cái gì làm cho cuộc sống ta có ý nghĩa?



- Theo tôi thì đó phải là cho mỗi ngày chứ không phải là chỉ cho một cuộc sống. Tôi thấy có bốn yếu tố cho một ngày hạnh phúc. Thứ nhất là ngày hôm nay mình có sống trong giới hạnh hay không? Mà ở đây tôi chỉ nói về những luân lý căn bản trong đạo Phật thôi, ví dụ như đừng làm hại ai, đừng nói nặng lời với ai, cố gắng thực tập từ bi và chánh niệm. Điều thứ hai là tôi cảm thấy hạnh phúc thay vì là khổ đau. Tôi đã gặp những người có tu tập, lúc nào họ cũng biểu lộ ra một sự bình an trong những bước đi của họ, trong lối hành xử của họ đối với những khó khăn trong cuộc sống và khi tiếp xúc với người khác. Điều thứ ba là đi tìm sự thật, muốn thấy và hiểu rõ được thực tại, chân tướng của chính mình và cuộc sống. Và ta có thể ngồi yên trong căn phòng nhỏ của mình mà vẫn có thể làm hết được những việc ấy. Nhưng có điều là trong chúng ta không có ai là riêng rẽ và độc lập hết. Vì vậy muốn có một đời sống hạnh phúc, ta phải trả lời câu hỏi thứ tư này "Ta mang lại gì cho cuộc đời này?"

Nếu tôi có thể nhìn lại một ngày trong đời mình và thấy có đủ bốn yếu tố: giới hạnh, hạnh phúc, sự thật và biết nghĩ đến chung quanh, thì tôi có thể nói rằng "Tôi là một người có hạnh phúc."

Vấn đề hạnh phúc không hề tùy thuộc vào trương mục ngân hàng của ta, hoặc thái độ của vợ hay chồng mình, vào công việc làm hay số tiền lương của ta. Ta có thể sống một đời tròn đầy ý nghĩa, cho dầu nếu ta chỉ còn lại mười phút để sống trên cuộc đời này.



Trong bốn yếu tố ấy không có yếu tố sức khoẻ, như vậy sức khoẻ không là một yếu tố quan trọng sao?



- Sự thật là không! Một người học trò của tôi bị mang một chứng bệnh rất hiếm và nan y, mỗi ngày anh ta đều phải vào bệnh viện để chữa trị và được cho thuốc. Và anh phải sống như vậy trọn cuộc đời còn lại của mình. Ta có thể nói rằng "Thật là tội nghiệp và khổ cho anh! Hoàn cảnh thấy đáng thương quá!" Nhưng ngày hôm kia tôi gặp anh, anh bảo tôi, "Allen này, tôi đang 'flourishing' đây!" Và tôi cảm thấy anh thật sự như thế. Anh ta tìm được cho mình con đường đi giữa những giới hạn, và trong những điều kiện nào đang có mặt với anh. Tâm ý anh trong sáng. Anh đọc sách, anh viết bài, anh tăng trưởng. Anh ngồi thiền mỗi ngày, và anh còn dạy thiền cho các bệnh nhân nan y khác trong bệnh viện nữa.

Anh ta sống một cuộc sống rất tròn đầy ý nghĩa, và anh có thể thành thật nói rằng mình đang có hạnh phúc.



Bí quyết của anh ta là gì?



- Anh ta không đi tìm hạnh phúc ở bên ngoài mình. Khi chúng ta trông cậy vào địa vị, tiền bạc, vào vợ hay chồng của mình để mang lại hạnh phúc, thì ta sẽ không bao giờ có hạnh phúc. Vì chúng ta nương tựa vào những gì không phải của mình. Và lại nữa, những người chung quanh cũng đang tranh dành với ta những thứ tiền bạc và địa vị ấy, mà chúng đâu có dư dã cho tất cả mọi người đâu. Đáng buồn là vậy.



Còn điều đáng vui?



- Điều đáng mừng là hạnh phúc chân thật không có đem bày bán ở ngoài phố chợ, mà hễ có tiền là ta có thể đi mua về cho mình. Một trong những điều bí mật mà ít có ai khám phá được là: cái hạnh phúc mà ta đang đi tìm ở những chức vụ cao, trong một người chồng hay người vợ gương mẫu, đứa con ngoan, sức khoẻ đầy đủ, việc làm tốt, có an ninh, có diện mạo đẹp… thật ra chúng lúc nào cũng đang có sẵn bên trong ta, chỉ cần ta tiếp xúc mà thôi. Thay vì đi tìm bên ngoài thì tại sao ta lại không thử quay vào tìm bên trong chính mình đi, thử xem sao!

Nhưng điều ấy không có nghĩa là ta sẽ không lấy vợ hay chồng, đi mua xe, hay tìm một việc làm cho ưng ý. Nhưng tôi chỉ muốn nói rằng, nếu bạn có hạnh phúc thì hạnh phúc ấy không hề tùy thuộc vào những yếu tố bên ngoài, vì chúng không nằm trong sự kiểm soát của bạn.



Mọi người ai cũng nói rằng tiền bạc, địa vị không mang lại cho mình hạnh phúc, nhưng có mấy ai là thật sự sống như vậy đâu?



- Thật ra thì trong thâm tâm chúng ta chưa thật sự có niềm tin. Chúng ta vẫn đi tìm kiếm bên ngoài, đeo đuổi những gì mà ta nghĩ nó sẽ mang lại cho mình hạnh phúc - danh vọng, chức vụ, tình yêu, một sự an ninh về tiền bạc và tình cảm. Chúng ta không có hy vọng và niềm tin vào một hạnh phúc chân thật nào đó. Ta tự nhủ rằng, "Có lẽ một hạnh phúc chân thật không có mặt đâu, nói cho nghe hay ho vậy thôi. Mình thì bằng lòng với một iPod hay một big screen tivi, như vậy là vui rồi. Không đòi hỏi hay cầu mong gì xa xôi hết" Hoặc cũng có người nói rằng, "Thôi đừng nói chuyện hạnh phúc, chỉ ráng qua được ngày hôm nay là đủ khoẻ rồi!" Tôi nghĩ họ cũng đáng thương thật!



Như vậy đó có phải là một sự tuyệt vọng không?



- Nó là một trạng thái mà tâm ta không còn không gian nữa, ta đánh mất đi một cái nhìn rộng lớn. Tôi nghĩ tới tâm từ, metta. Khi thực tập tâm từ, chúng ta bắt đầu bằng một tình thương với chính mình. Nhưng điều ấy không có nghĩa là "Công việc nào là tốt nhất cho tôi đây? Lương bao nhiêu là xứng đáng với mình đây?" Nhưng chính là, "Làm cách nào để ta được hưng thịnh?" "Ta nên sống cách nào để ta có hạnh phúc, an lạc và có ý nghĩa đây?" Và sau đó, ta nới rộng cái nhìn đó ra, "Làm thế nào để những người đang sống trong khổ đau tìm được một hạnh phúc thật sự đây?"



Shantideva nói, "Những kẻ đi trốn tránh khổ đau lại cứ cắm đầu lao mình vào chốn khổ đau. Chính vì sự tham muốn hạnh phúc mà họ lại vô tình đi phá vỡ cái hạnh phúc mà họ đang có, và xem chúng như kẻ thù." Tại sao lại như vậy? Tại sao chúng ta lại ít ai chọn con đường tu học, nếu như nó có thể mang lại cho mình một hạnh phúc chân thật?



- Thật ra câu trả lời là vì chúng ta không hề biết cái gì có thể mang lại cho mình một hạnh phúc thật sự. Sẽ cần một thời gian dài và những kinh nghiệm khổ đau trước khi ta tỉnh thức dậy và ghi nhận được những gì đang xảy ra. Chúng ta bị kết chặt vào những hình tượng, ý niệm trong đầu "Phải chi vợ hay chồng tôi là người như vậy, phải chi tôi có được công việc như vậy, có được một số tiền như vậy, tướng diện tôi như vậy, sức khoẻ tôi như vậy… tôi sẽ có hạnh phúc." Nhưng đó chỉ là một ảo tưởng mà thôi.

Chúng ta chắc ai cũng biết những người có đầy đủ sức khoẻ, có tiền bạc, địa vị, dư thừa tình yêu… nhưng họ cũng vẫn mang đầy khổ đau. Những người đó là thầy của chúng ta, vì họ dạy cho ta một bài học lớn. Họ dạy cho ta thấy rằng, mình có thể trúng một tấm vé số lớn của cuộc đời nhưng vẫn thua trật tấm vé số của hạnh phúc.



Khi Ông nói về một "hạnh phúc chân thật", thì có lẽ ý ông ám chỉ rằng trong cuộc đời còn có những loại hạnh phúc khác nữa?



- Phải rồi! Chúng ta thường lầm lẫn cái mà đức Phật gọi là Bát Phong, tám ngọn gió xao động của cuộc đời, và cho đó là hạnh phúc. Tám ngọn gió ấy là muốn thịnh mà không suy, muốn vui mà tránh khổ, muốn được khen mà không bị chê, muốn danh vọng mà không bị khinh thường. Nhưng mà ta phải nhớ điều này, thật ra không có gì là sai quấy với lại giàu, vui, được khen, và có danh tiếng hết. Ví dụ như nói về sự giàu có đi: giả sử như nếu ta có một chiếc áo lạnh mới. Nếu như ta bỏ chiếc áo mới ấy đi, ta có là một con người tốt đẹp hơn không? Lẽ dĩ nhiên là không! Thật ra không có gì là sai quấy với vấn đề được có hết, nhưng nó hết sức là sai lầm nếu ta cho rằng nó có thể mang lại cho mình hạnh phúc.

Hạnh phúc chân thật là tiếp xúc với cái gốc rễ của hạnh phúc, chứ không phải chỉ đi nắm bắt những yếu tố nào mà chúng có thể hoặc không có thể chế tác ra được hạnh phúc. Và sự khác biệt giữa tu tập và đi đuổi bắt theo tám ngọn gió xao động của cuộc đời là ở chỗ đó. Cũng có người đi tu tập vì mục đích muốn thoả mãn ngọn bát phong ấy, muốn tìm được một niềm vui thú trong thiền tập. Họ xem thiền tập như là một tách cà phê, một cuộc chạy bộ thể dục, hay là được mát-xa vậy. Mà thật ra cái đó cũng không có gì là sai quấy hết, nhưng có điều nó rất là giới hạn. Thiền tập có thể làm một việc mà mát-xa không thể làm được, nó có thể chữa lành được những vết thương trong tâm ta.



Con đường hạnh phúc này dường như đòi hỏi ta phải có một niềm tin và sự buông bỏ rất lớn. Điều ấy hơi đáng sợ một chút. Nếu như tôi buông bỏ hết những thứ bên ngoài ấy thì tôi sẽ trở thành gì đây?



- Thật ra chúng ta không cần phải nhảy vào chỗ nước sâu làm gì. Nó cũng giống như là một ngày nào đó tự nhiên ta hứng khởi lên rồi tuyên bố rằng "Thế giới này như căn nhà lửa. Đầy khổ đau. Tôi sẽ từ bỏ hết tất cả để đi tìm một niềm an lạc theo Phật pháp." Rồi độ chừng vài ngày, vài tuần hay giỏi lắm là vài tháng, ta sẽ nói, "Ái chà, cái tu tập này cũng đâu có gì là hạnh phúc hay an lạc gì như họ nói đâu, mà không biết cái iPod, cái tivi hay cô bồ củ của mình đâu rồi nhỉ, có ai biết đâu rồi không?"

Vì vậy vấn đề không phải là đột nhiên lập tức mà xả bỏ hết tất cả mọi thú vui, bát phong, của cuộc đời, và chỉ thực tập giáo pháp sâu xa của Phật pháp. Cũng giống như dạy một đứa trẻ mới tập bơi vậy, ta đâu có thảy đứa bé vào chỗ nước sâu rồi xem chuyện gì sẽ xảy ra! Ta tập cho nó bơi ở nơi cạn cho từ từ quen trước. Cũng vậy, ta hãy bước đi chậm mà vững. Bắt đầu bằng ngồi thiền một chút vào mỗi sáng và mỗi tối. Xem nó ảnh hưởng đến một ngày của ta như thế nào. Từ từ ta sẽ nếm được mùi vị của đạo pháp. Ta có thể sẽ cảm thấy rằng, "Cũng thú vị đó chứ! Ta cảm thấy hạnh phúc hơn. Mà không phải chỉ có hạnh phúc thôi, ta còn có chút đạo hạnh nữa. Ta thấy được thực tại rõ ràng hơn. Và nếu muốn, bây giờ ta có khả năng giúp được người chung quanh và cuộc đời hữu hiệu hơn, nhờ sự thực tập của mình." Ta thật sự có hạnh phúc hơn, và ta cũng sẽ có niềm tin vào con đường mình đi hơn. Tám ngọn gió xao động của cuộc đời vẫn thổi, chúng vẫn tiếp tục đến rồi đi. Chúng vẫn có mặt, nhưng bây giờ ta có thể sử dụng chúng để hỗ trợ thêm cho sự thực tập của mình.



Như vậy ta có thể kết luận rằng con đường tu tập của đức Phật không phải chỉ để giác ngộ dưới cội bồ đề, mà là còn để mang lại hạnh phúc cho kẻ khác?



- Tôi tin rằng đức Phật đã chứng nghiệm được một điều rất sâu sắc và phi thường dưới cội bồ đề. Nhưng ngài cũng ý thức rằng, sự giác ngộ đó sẽ không có kết quả viên mãn nếu ngài không chia sẻ nó với kẻ khác. Giác ngộ không phải là cho riêng chính mình "Bây giờ thì tôi ngon lành rồi. Xong việc, đến nơi, nghỉ được rồi." Thế giới chúng ta được chuyển hóa nhờ sự có mặt của đức Phật trên cuộc đời này. Nhưng không phải là 49 ngày ngài ngồi dưới cội bồ đề khiến cho cuộc đời này được chuyển hóa, mà chính là 45 năm sau đó, khi đức Phật đi gặp gở và tiếp xúc với hạng bần cùng, vua chúa, bậc chiến sĩ, kẻ ăn mày... gặp ai ngài cũng chia sẻ sự giác ngộ của mình với kẻ khác.

Thế cho nên, trở lại bốn yếu tố mà tôi nêu lên ở trên, khi ngồi dưới cội bồ đề là đức Phật phát huy ba yếu tố đầu: đạo hạnh, hạnh phúc và sự thât. Và 45 năm sau đó ngài phát triển yếu tố thứ tư, mang hạnh phúc vào cuộc đời. Và theo tôi đức Phật chính là khuôn mẫu của một cuộc sống hạnh phúc và tròn đầy ý nghĩa.
Nhưng ở đây tôi cũng phải cảnh cáo các bạn trước, đôi khi muốn tiếp xúc với cái hạnh phúc chân thật (genuine happiness) của mình, bạn cũng phải chịu khó bỏ qua cái iPod và plasma tivi của mình một chút
!
Allen Wallace - Nguyễn Duy Nhiên chuyển dịch

Chân Thật ?


Chân thật là trong tâm hồn, đầu óc không thấy khó chịu vì sự ghen ghét. Đó chính là sự chân thật. Chứ không phải chân thật là: “Tôi là người thẳng tính, hay nói thẳng nói thật, thấy sao nói vậy, có gì nói nấy bởi vì tôi là người trực tính và chân thật.” Quý vị đừng lầm lẫn cái này!



Rắc rối trong các mối quan hệ chính là cách sử dụng kiến thức trong cách diễn đạt điều mình muốn nói

Cái khó nhất và cũng quý nhất trong quan hệ giữa con người và con người là tình thương và sự chân thật. Khi nói đến hai chữ tình thương thì rất sâu và rộng nghĩa, tức khái niệm này bao gồm hai chữ nhưng có nhiều nghĩa và chỉ ra một thế giới sâu thẳm. Như vậy, khi nghe tới hai chữ đó thì người nghe cần đi vào được một thế giới sâu thẳm, một thế giới chiều sâu. Khi nghe nói đến khái niệm về tình thương hay chân thật thì người nghe nên liên tưởng đến trạng thái sâu bên trong đầu óc chứ không để tâm đến sự định nghĩa của các khái niệm ấy.

Ví dụ như chữ “yêu” thì không thể định nghĩa chữ "yêu" là gì được và tất cả mọi định nghĩa về chữ "yêu" đều sai. Khi chữ "yêu" được dùng giữa trai và gái thì chữ đó đưa đến người nghe cởi bỏ tất cả mọi khái niệm để đi vào một thế giới sâu thẳm, một trạng thái của đầu óc, chứ không phải chữ yêu đó được định nghĩa yêu như thế này hay yêu như thế kia…Không phải như vậy vì định nghĩa không có giá trị. Khi người cha nói yêu con thì nhờ chữ “yêu” đó mà hiện ra cả một thế giới rất sâu thẳm, và chỉ có người cha mới biết. Còn ngược lại, khi người con nói yêu cha mẹ lắm thì chữ “yêu” đó cũng hiện ra một thế giới sâu thẳm mà chỉ có người nói mới hình dung được hay chỉ có những người cùng chung cảnh ngộ thương cha mẹ thì mới hình dung được.

Như vậy, không thể định nghĩa được chữ “yêu” mà đó chỉ là chữ do con người sáng tạo ra để diễn đạt một trạng thái đang diễn ra trong đầu óc, trong sự nhìn thấy hay trong nhận thức, nhưng trong mỗi một hoàn cảnh khác nhau thì có một thế giới khác nhau. Đó là lí do chúng ta không nên định nghĩa nhiều chữ. Như hiện nay, chỉ vì một vài chữ trong sách vở đã tồn tại từ hàng ngàn năm mà chúng ta đã tự giết chết chúng ta. Đời sau lại tiếp tục đem ra định nghĩa, làm từ điển rồi đem ra giảng dạy thì không hiệu quả. Người giảng dạy lại không đủ trình độ hiểu nên tưởng đâu là hiểu đúng và tưởng đâu là giảng dạy đúng.

Thành ra, cái chết là ở chỗ này và rắc rối trong các mối quan hệ chính là cách sử dụng kiến thức trong cách diễn đạt điều mình muốn nói. Mỗi người đều có kinh nghiệm và kiến thức khác nhau nên cứ tự cho mình là người hiểu biết hơn người khác và có quyền này, quyền kia hay ưu tiên nọ, ưu tiên kia...

Đó là nỗi đau và là nỗi ung nhọt lớn nhất và rất khó giải quyết!

Khi bắt đầu củng cố địa vị tức là đánh mất hạnh phúc đang hiện hữu

Mỗi người khi đã đạt được quyền lợi rồi thì ưu tư riêng được tạm ổn, tinh thần tạm bình yên. Nghĩa là khi mơ ước đã thành hiện thực, trạng thái tinh thần sẽ tạm bình yên, nhưng rồi tình trạng này cũng sẽ qua rất nhanh vì người ấy chưa nhận ra giá trị đích thực và quý giá của trạng thái này nên đã không quan tâm đến các phương pháp nhận ra và thường sống với thực tại bình yên đó. Cũng có một ít người nhận ra và thường sống với thức tại bình yên đó nhưng còn lại thì tất cả phải coi chừng vì dễ đi tới chỗ bắt đầu thấy mình hay, mình giỏi... Tức là bắt đầu xuất hiện cái thấy thiếu chuẩn xác về mình và thế giới chung quanh nên đã để cho cảm xúc hạnh phúc trong tinh thần biến mất. Như vậy, khi bắt đầu xuất hiện cái thấy lệch lạc về chính mình dẫn đến nỗ lực củng cổ địa vị cá nhân tức là đánh mất hạnh phức đạt được.

“Địa vị” là một thế giới khái niệm mà hạnh phúc đạt được là thế giới thật thực sự hay một trạng thái thật sự thật, tức là trạng thái không có ý tưởng và chữ nghĩa. Nhưng hạnh phúc đi mất tại vì thấy mình hay, mình giỏi hay thấy mình hơn người… Và bất kể người lớn tuổi cho đến trẻ tuổi thì đều có sự thấy mà rất dễ đánh mất hạnh phúc có sẵn trong đầu óc của mình. Chắc chắn là trước nhất đánh mất trạng thái hạnh phúc của chính mình. Nếu có cười thì chỉ có giả bộ bên ngoài mà chắc chắn bên trong không có hạnh phúc.

Quý vị thử ngẫm nghĩ điều này!

Một người sống trong sự ghen ghét, ghen tị và hơn thua mà lòng không nói ra thì làm sao có hạnh phúc được? Người đó cũng giống như gặp món ăn thật ngon mình thèm khát mà không thưởng thức được và tự mình đẩy đồ ăn xuống dưới đất bởi vì ghen ghét, đố kị… Tại sao lại như vậy? Vì thấy mình hơn, hay, giỏi và thấy mọi người cần phải chú ý, để ý tới mình…Đó chính là cái bẫy mà người đời bị dính. Vì vậy, một người rất dễ bị sập bẫy khi được người khác khen ngợi, ca ngợi, ca cẩm…

Đó cũng là lí do mà người coi quẻ hay coi bói đánh trúng tâm lí. Nếu người coi quẻ, coi bói mà đạo đức thì rất tốt, tức là để cứu người thì có thể dùng tất cả mọi hình thức, kĩ xảo hay khả năng của mình… nhưng đa số không làm được điều đó. Đó cũng là điểm rắc rối trong các mối quan hệ.

Chân thật là gì?

Nói tới tình thương là nói đến sự chân thật, là không thấy mình hay, mình hơn người, mình xứng đáng hơn hay giá trị hơn người… Sự chân thật là gì? Không phải là nói thật, làm thật… cái này phải coi chừng. Mà cũng đừng chủ quan cho rằng thẳng tính là chân thật, là trực giác, phải coi chừng mấy điều này.

Chân thật là trong tâm hồn, đầu óc không thấy khó chịu vì sự ghen ghét. Đó chính là sự chân thật. Chứ không phải chân thật là: “Tôi là người thẳng tính, hay nói thẳng nói thật, thấy sao nói vậy, có gì nói nấy bởi vì tôi là người trực tính và chân thật.” Quý vị đừng lầm lẫn cái này!

Duy Tuệ

Quan hệ Việt Nam – Liên hợp quốc: Nhìn lại một chặng đường





Việt Nam chính thức gia nhập LHQ ngày 20-9-1977. Kể từ đó, quan hệ của Việt Nam với LHQ không ngừng được phát triển theo hướng ngày càng sâu rộng và hiệu quả.

Từ ngày 26 đến 28-9-2013, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng sẽ dẫn đầu Đoàn đại biểu Việt Nam tham dự Phiên thảo luận Cấp cao của Đại hội đồng Liên hợp quốc (LHQ) khóa 68. Đây là một hoạt động đối ngoại quan trọng nhằm triển khai chủ trương chủ động và tích cực hội nhập quốc tế của Đại hội Đảng XI và thực hiện Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị về Hội nhập quốc tế, góp phần nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam; qua đó đóng góp một cách tích cực, xây dựng và có trách nhiệm vào công việc của LHQ.

Việt Nam chính thức gia nhập LHQ ngày 20-9-1977. Kể từ đó, quan hệ của Việt Nam với LHQ không ngừng được phát triển theo hướng ngày càng sâu rộng và hiệu quả.

Ngay sau khi tham gia LHQ, Việt Nam đã tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ của các nước thành viên để Đại hội đồng LHQ khóa 32 (1977) thông qua Nghị quyết 32/2 kêu gọi các nước, các tổ chức quốc tế viện trợ, giúp đỡ Việt Nam tái thiết sau chiến tranh.

Mặt khác, chúng ta cũng tranh thủ được sự giúp đỡ về nguồn vốn, chất xám, kỹ thuật của LHQ phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. LHQ trở thành một diễn đàn để Việt Nam triển khai các yêu cầu của chính sách đối ngoại. Vị thế và vai trò của Việt Nam tại LHQ ngày càng được nâng cao.

Việt Nam cũng đã chủ động và tích cực phối hợp với các nước Không liên kết và đang phát triển để đấu tranh và bảo vệ các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương LHQ (LHQ), như: nguyên tắc về bình đẳng chủ quyền, không can thiệp công việc nội bộ các nước, không sử dụng hay đe dọa sử dụng vũ lực… đồng thời bảo vệ lợi ích của các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.

Sự phát triển của quan hệ Việt Nam và LHQ có thể chia thành 4 giai đoạn cụ thể là:

Giai đoạn 1977-1986: Trong giai đoạn này, Việt Nam vừa phải giải quyết những hậu quả nặng nề của chiến tranh, vừa phải tổ chức lại nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu và từng bước khôi phục sản xuất. LHQ đã tích cực giúp Việt Nam giải quyết những khó khăn nhiều mặt với tổng viện trợ đạt hơn 500 triệu USD. Các tổ chức tài trợ chính bao gồm: Chương trình Phát triển LHQ (UNDP), Chương trình Lương thực Thế giới (WFP), Quỹ Nhi đồng LHQ (UNICEF), Quỹ Dân số LHQ (UNFPA), Cao ủy LHQ về người tị nạn (UNHCR), và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Các tổ chức này đã hỗ trợ đáng kể cho đầu tư của Chính phủ Việt Nam về các hạng mục phát triển xã hội, tập trung cho giáo dục, y tế, chăm sóc, bảo vệ bà mẹ và trẻ em, dân số và kế hoạch hóa gia đình.

Hợp tác với LHQ đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho nâng cao trình độ công nghệ và thúc đẩy tiến bộ về khoa học – kỹ thuật ở Việt Nam, phục hồi và xây dựng mới một số cơ sở sản xuất, tăng cường năng lực phát triển. Đồng thời trong bối cảnh bao vây cấm vận, hợp tác với LHQ tạo điều kiện để ta tiếp cận được nguồn viện trợ của nhiều nước phương Tây.

Giai đoạn 1986-1996: Đây là giai đoạn Việt Nam thực hiện đường lối đổi mới, theo đó nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là đổi mới chính sách phát triển kinh tế – xã hội. Cho tới cuối những năm 1980, LHQ chiếm tới gần 60% tổng số viện trợ cho Việt Nam ngoài nguồn từ các nước xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn này, viện trợ không hoàn lại của LHQ cho Việt Nam đạt trên 630 triệu USD. Từ đầu những năm 1990, nhiều nước trong Tổ chức Hợp tác và Phát triển (OECD), các tổ chức tài chính quốc tế và khu vực nối lại viện trợ cho Việt Nam nhưng LHQ vẫn chiếm 30% viện trợ kỹ thuật từ bên ngoài.

Trong giai đoạn này, một số tổ chức đã nâng mức hỗ trợ như Quỹ Phát triển Nông nghiệp (IFAD), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa LHQ (UNESCO), Tổ chức Phát triển Công nghiệp LHQ (UNIDO). Một số tổ chức khác cũng bắt đầu có hoạt động viện trợ trực tiếp, như: Chương trình Kiểm soát Ma túy LHQ (UNDCP), Chương trình Môi trường LHQ (UNEP), Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) và thêm nhiều nước song phương cũng như các tổ chức tài chính tiền tệ như Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) tham gia trong các loại hình dự án hỗn hợp đa – song phương.

Các dự án hợp tác là nguồn hỗ trợ đáng kể cho Chính phủ Việt Nam trong việc xây dựng chính sách phát triển, nâng cao năng lực quản lý của các cơ quan và trình độ cán bộ trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới; đồng thời LHQ tiếp tục có những đóng góp có giá trị đối với việc nâng cao trình độ kỹ thuật sản xuất, phát triển nguồn nhân lực khoa học – kỹ thuật, và giải quyết các vấn đề xã hội khác của Việt Nam.

Giai đoạn 1997-2011: Từ năm 1997 đến năm 2000, LHQ dành ưu tiên cho các lĩnh vực xóa đói giảm nghèo và các chính sách xã hội; cải cách và quản lý phát triển; quản lý môi trường và tài nguyên thiên nhiên; và điều phối viện trợ, quản lý Nhà nước và huy động nguồn lực.

Trong thời kỳ hợp tác từ năm 2001 đến năm 2005, LHQ có ba ưu tiên chính là thúc đẩy hơn nữa cải cách, xóa đói giảm nghèo và phát triển bền vững. Theo đề nghị của Chính phủ Việt Nam, LHQ chuyển mạnh hướng hỗ trợ kỹ thuật sang hỗ trợ các biện pháp cải cách về chính sách và thể chế kinh tế, doanh nghiệp Nhà nước, hành chính công, luật pháp, lập kế hoạch đầu tư công, phát triển hệ thống ngân hàng, đồng thời mở rộng sang các lĩnh vực khác phòng chống HIV/AIDS và các bệnh hiểm nghèo; hỗ trợ thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, thực hiện quyền bình đẳng nam nữ, tổ chức hằng năm Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ v.v… Những ưu tiên chính trong giai đoạn này là thúc đẩy cải cách, tư vấn trong việc xây dựng mới hoặc sửa đổi nhiều bộ luật quan trọng, xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ thực hiện Chương trình 135, lồng ghép với việc thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDGs), hỗ trợ trong các nỗ lực bảo vệ thiên nhiên, nâng cao nhận thức của người dân về môi trường, xây dựng chiến lược và chính sách, nâng cao năng lực quản lý tài nguyên thiên nhiên, quản lý môi trường và đa dạng sinh học. Trong giai đoạn 2006-2011, viện trợ của LHQ cho Việt Nam đạt trên 400 triệu USD.

Thực hiện chính sách đối ngoại đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế, làm bạn với tất cả các nước, Việt Nam đã tranh thủ diễn đàn LHQ làm cơ sở để tăng cường quan hệ với các tổ chức trong hệ thống LHQ, mở rộng quan hệ song phương và đa phương với các nước và tổ chức quốc tế. Hoạt động nổi bật nhất trong giai đoạn này là Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ nhiệm kỳ 2008-2009. Đây là lần đầu tiên Việt Nam tham gia vào cơ quan quan trọng nhất của LHQ về hoà bình, an ninh quốc tế trong bối cảnh Hội đồng Bảo an phải xử lý khối lượng công việc đồ sộ do xuất hiện nhiều vấn đề an ninh phức tạp, thêm vào đó là những thách thức an ninh toàn cầu mới và tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế – tài chính toàn cầu trầm trọng nhất lịch sử thế giới hiện đại.

Việt Nam tích cực thương lượng và trở thành thành viên chính thức của Công ước Cấm Vũ khí Hoá học (CWC) năm 1998, tham gia đàm phán và là một trong những nước đầu tiên ký Hiệp ước Cấm thử Hạt nhân Toàn diện (CTBT) năm 1996, tham gia và trở thành thành viên của Hội nghị Giải trừ Quân bị (CD) năm 1996.

Ngoài ra, Việt Nam sớm tham gia vào quá trình chuẩn bị cho các hội nghị lớn, như: Hội nghị Kiểm điểm NPT 2000, 2005 và 2010; Hội nghị về chống buôn bán bất hợp pháp vũ khí nhỏ năm 2001, 2003…

Việt Nam cũng tham gia đầy đủ và thực chất vào các cơ chế hoạch định chính sách của LHQ, giữ chức Phó Chủ tịch Đại hội đồng LHQ năm 1997, Hội đồng Thống đốc IAEA (1991-1993, 1997-1999, 2003-2005), tham gia Hội đồng Kinh tế – Xã hội của LHQ (ECOSOC) (1998-2000).

Việt Nam không chỉ thực hiện tốt nhiệm vụ thu hút viện trợ của các tổ chức phát triển LHQ mà còn chủ động xây dựng các hình thức hợp tác và tham gia của ta vào các tổ chức này. Mô hình hợp tác 3 bên (ban đầu giữa Việt Nam, FAO, Senegal về trồng lúa) đã được mở rộng và áp dụng rộng rãi, được coi là hình mẫu cho hợp tác Nam – Nam. Ta cũng chủ động tham gia sâu hơn vào hệ thống LHQ thông qua việc là thành viên Hội đồng chấp hành UNDP/UNFPA (nhiệm kỳ 2000-2002), Hội đồng Kinh tế – Xã hội (1998-2000), Ủy ban Phát triển Xã hội (2001-2004)… Hiện nay, Việt Nam đang tích cực phối hợp với các tổ chức phát triển LHQ thực hiện thí điểm sáng kiến “Một LHQ”, được cộng đồng các nhà tài trợ đánh giá cao.

Giai đoạn 2012-2016: Trong khuôn khổ Sáng kiến Thống nhất Hành động – Một LHQ (DaO), Chính phủ Việt Nam và LHQ đang tích cực phối hợp triển khai kế hoạch chung tiếp theo của LHQ giai đoạn 2012-2016, phù hợp với dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội (SEDP) và Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội (SEDS) của Việt Nam. Kế hoạch chung này ưu tiên 03 lĩnh vực trọng tâm chính là: Chất lượng tăng trưởng; bảo trợ xã hội và tiếp cận các dịch vụ xã hội; tăng cường tiếng nói và nâng cao quản trị công.

Sự hợp tác giữa Việt Nam và LHQ là một ví dụ điển hình về hợp tác phát triển giữa các nước thành viên LHQ cũng như về vai trò của LHQ trong việc thúc đẩy hợp tác quốc tế nhằm giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội, văn hóa và nhân đạo. Tuy tổng số tiền viện trợ của LHQ dành cho Việt Nam trong hơn 30 năm qua chỉ hơn 2 tỉ USD nhưng đã có ý nghĩa hết sức to lớn vì LHQ tập trung hỗ trợ nhiều lĩnh vực thiết yếu về phát triển kinh tế, xây dựng thể chế, pháp luật, giải quyết nhiều vấn đề xã hội cấp bách. LHQ cũng đã hỗ trợ Việt Nam trong những giai đoạn khó khăn nhất sau chiến tranh trong điều kiện Việt Nam bị bao vây, cấm vận. Sự hợp tác này đã đạt được những kết quả tốt và có tác dụng tích cực, đáp ứng được yêu cầu của Việt Nam về phát triển kinh tế – xã hội trong từng giai đoạn. Những kết quả này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho những nỗ lực chung của Việt Nam và LHQ trong việc khắc phục những mặt còn tồn tại, mở rộng và nâng cao hơn nữa hiệu quả hợp tác hai bên, hỗ trợ tích cực cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa Việt Nam và góp phần nâng cao vai trò của LHQ trong thời kỳ mới.



Nguồn: chinhphu.vn

Trà Vigia: Tuổi biết buồn






… Chúng ta thường nhìn vào vết nhơ trên lưng người khác để phê phán vì không thể nhìn vào lưng mình đôi khi còn bẩn thỉu và đáng lên án hơn nhiều. Tagalau đang bị công phá dữ dội với đủ loại vũ khí thô sơ và hiện đại trong chiến dịch: Tagalau phải chết…

[Đó là Trà. Trà - với “người ngoài” thì đanh thép, quyết liệt; nhưng với “gà cùng một mẹ”, anh trở về bản tính nhân từ đến hiền khô. Buồn thâm trầm, cái buồn của triết nhân nhìn thấu nỗi thị phi cuộc người, cuộc đời. Inrasara]

*

Tôi xin khơi nguồn bài viết này bằng ca từ của Trịnh Công Sơn: “Tuổi biết buồn”. Đó là tuổi mà mỗi chúng ta mới bắt đầu chớm biết trong tâm trạng mơ hồ về một một thực tế nào đấy không như mình tưởng khiến ta hụt hẫng bâng khuâng. Thường thì đó là thời kỳ tinh khôi trong cảm giác mông lung về những điều không thật về nỗi thương yêu và niềm mong nhớ, về khát khao và hy vọng để rồi tuyệt vọng trên con đường tìm nhau để rồi mãi xa nhau!

Tình yêu không chỉ đơn thuần có trong đôi lứa để đày đọa hoặc thăng hoa mà còn lan tỏa bàng bạc bao trùm không gian và thời gian: tình yêu văn học nghệ thuật, tình yêu quê hương xứ sở và cao hơn là tình yêu nhân loại đại đồng. Một đứa bé sinh ra đã biết khóc vì sợ hãi một môi trường mới lạ biệt, một ngày nào đó sẽ biết cười khi có người chăm sóc vỗ về và một ngày nào đó sẽ biết buồn khi có ai đó rầy la hất hủi. Lớn lên những điều lạ biệt ngày càng nhiều, dĩ nhiên chúng ta phát khóc chớm buồn hơn là bật cười thoáng vui. Bởi vậy, tuổi biết buồn không là giới hạn theo từng giai đoạn thời gian và không thể khoanh vùng trong từng phạm vi không gian. Hôm nay, tôi không còn sơ sinh để khóc chào đời nữa rồi, không còn tuổi thơ để dỗi hờn mỗi khi phật ý, không còn tuổi trẻ để yêu đương nhung nhớ bâng quơ. Nhưng vẫn còn đấy tuổi biết buồn trinh trắng vẹn nguyên để cảm nhận cuộc đời ngày càng đau nhói. Không biết phải nói thế nào bạn nhỉ? Dường như đó không phải là thân phận riêng của mỗi chúng ta, mà là nỗi đau chung của cả loài người!

Tuổi biết buồn đã theo tôi đi suốt một chặng đường dài, chỉ nguôi ngoai từ khi Tagalau chào đời trong khó khăn vật vã không có nhiều bàn tay cưu mang nâng đỡ. Tuy vậy, nó vẫn lớn dậy theo thời gian khi có nhiều hơn tấm lòng chung tay góp sức để trưởng thành và ngày càng vững vàng từng bước đi. Điều ấy mang đến niềm vui cho những ai quan tâm đến đời sống tinh thần Chăm vốn dĩ đã đứt mạch từ lâu, từ khi tập san Panrang và Ước vọng đình bản vì nhiều lý do. Những nỗ lực phi thường ấy thật đáng trân quý ghi nhận cho dẫu còn nhiều vụng dại ngây ngô bởi Chăm nghèo, không phải ai cũng có điều kiện để dấn thân và hy sinh những điều có thể và không thể. Cho nên để đánh giá sự có mặt của Tagalaucần tránh sự tắc trách tùy tiện mang tính định kiến cá nhân dễ mang đến sự ngộ nhận hiểu lầm không nên có, hoặc gây nhiễu loạn sự cảm thụ của giới trẻ vốn đang cần hướng đạo một cách trong sáng và mẫu mực. Chúng ta luôn cần sự đa dạng trong thống nhất để rồi thống nhất trong đa dạng bởi mỗi người luôn nhìn từ một góc nhắm khác nhau chưa kể tọa độ cự ly và mục đích. Tốt hơn nên để người ngoài cuộc nhận định và người đời sau đánh giá, còn không cứ việc ai nấy làm cho tốt cũng như gửi lại những gì con người cần.Tại sao lại phải đánh đố nhau làm gì nhỉ?!

Tagalau còn non trẻ là tất nhiên, hụt hơi là tất yếu. Nhiều tạp chí khác đầy tâm huyết nhưng đành chết yểu cũng là xu thế của thời đại trong cơ chế thị trường nhiều thử thách cam go. Thế hệ đi trước già cỗi chuyển giao cho thế hệ sau sung sức là điều cần thiết để tiếp nối và hội nhập. Không ai tránh được thiếu sót cho dù chủ quan hay khách quan, quan trọng là biết phục thiện cầu tiến để sửa sai cho phù hợp với thế thời. Không nên chê bai miệt thị người khác bởi những lời nói nhẹ nhàng mới thực sự đi vào lòng người. Càng không thể yêu cầu những đòi hỏi cao mà khả năng ai đó không kham nổi hoặc thể hiện được. Nếu người nào đó chưa hay chưa tốt thì mình cố làm cho hay hơn tốt hơn, bới móc bắt bẻ chỉ thêm rối tung rách việc. Đố kị tị hiềm là thuộc tính của con người khó ai tránh khỏi nhưng vận dụng thế nào cho hợp đạo lý, ai sai người đó chịu không thể quàng xiên cả đám mà cơ sở nào để nói ai đúng ai sai?! Chúng ta thường nhìn vào vết nhơ trên lưng người khác để phê phán vì không thể nhìn vào lưng mình đôi khi còn bẩn thỉu và đáng lên án hơn nhiều. Tagalau đang bị công phá dữ dội với đủ loại vũ khí thô sơ và hiện đại trong chiến dịch: Tagalau phải chết, chỉ vì sự có mặt của nó làm tím cả một ngọn đồi mà lẽ ra nên trơ màu sỏi đá hoang sơ!

Về sau và ngàn năm sau nữa, có buồn mà vẫn chưa bao giờ bằng hôm nay, Vũ Thành An đã rên rỉ than van khiến tôi đang hối tiếc thở dài: O thei ngak di drei o hai, tamuh di hatai drei ngak di drei! Cuộc đời tôi là một chuỗi ngày buồn, có buồn thêm cũng chẳng thể buồn hơn. Tưởng như tôi đặt tên Tagalaucho đứa con tinh thần mình có sức sống dẻo dai mãnh liệt như loài bằng lăng hoang dại vẫn đến mùa lại nở trong thầm lặng vô danh, chẳng ai đếm xỉa đến nó làm gì. Mọi người thường quan tâm đến sen cúc trúc tùng, nay thị trường lại ưa chuộng bằng lăng nên có nguy cơ bổ sung vào sách đỏ bìa đen. Ừ mình già rồi, tưởng như đã vĩnh biệt tuổi biết buồn. Nào ngờ nó lại chọn mình như một người bạn tình thủy chung vĩnh cửu. Cũng tốt, chẳng còn bao năm nữa để buồn nên cần tận dụng cho khỏi uổng phí một đời người. Tột đỉnh đã là hôm nay, ngày mai trời lại sáng. Hy vọng!

Inrasara

Thứ Năm, 26 tháng 9, 2013

Hoa hiếm nhất


10 loài hoa hiếm nở nhất
Jade Vine - Hoa móng cọp




Loài hoa này có nguồn gốc từ Philippines, có tên khoa học là Strongylodon macrobotrys, thuộc họ đậu. Ở Việt Nam, người ta hay gọi là Hoa móng cọp (hoặc Dây hoa cẩm thạch). Thuộc họ đậu nên Jade Vine sử dụng rất nhiều đạm để nuôi dưỡng, phát triển. Thế nên trong môi trường tự nhiên, chúng thường xuyên bị thiếu chất, dẫn đến yếu dần đi, trơ trọi thân cành và không thể đâm hoa kết trái bình thường.


9. Rafflesia arnoldii - Hoa vua




Sở dĩ gọi Rafflesia arnoldii là hoa vua bởi chúng là loài hoa lớn nhất thế giới. Người ta từng đo được bông to nhất có đường kính tới 1,4 mét và nặng 50kg. Khi mới nở, chúng có mùi rất thơm, nhưng chỉ vài ngày sau lại phát ra mùi thịt thối rữa. Nhờ mùi thối này, ruồi nhặng và côn trùng đã xúm lại giúp chúng thụ phấn. Được biết, Rafflesia arnoldii chỉ mọc ở những khu rừng nhiệt đới.


8. Silene tomentosa




Silene tomentosa là chi nhỏ của loài hoa Cẩm chướng, rất quý hiếm và chỉ được tìm thấy trên các vách đá cao của Gibraltar. Năm 1992, các nhà thực vật học tuyên bố loài hoa này đã tuyệt chủng. Nhưng 2 năm sau, một nhà leo núi đã tìm ra một cá thể trên vách núi đá cao chót vót. Nhờ đó chúng mới được nhân giống.


7. Franklinia alatamaha




Franklinia alatamaha, được biết đến với cái tên cây Franklin có cánh thơm, hình chén, màu trắng. Nó được tìm thấy bởi nhà thực vật học tới từ Philadelphia là John và William Bartram. Tuy nhiên, chúng đã bị tuyệt chủng kể từ những năm 1800. Mãi đến gần đây, các nhà khoa học mới tìm thấy một vài cá thể, và theo thống kê, hiện chỉ có đúng 3 cây nở hoa.


6. Lotus berthelotii




Đây là loài hoa rất đẹp và được xếp vào loại rất hiếm từ năm 1884. Chúng được coi là hoàn toàn tuyệt chủng trong tự nhiên. Hiện Lotus Berthelotii chỉ được nuôi và nhân giống trong các phòng thí nghiệm.


5. Cosmos atrosanguineus - Cúc vạn thọ Socola




Giống với Lotus Berthelotii, loài Cúc vạn thọ Socola này được cho là không còn tồn tại trong tự nhiên hơn 100 năm nay. Phải có bàn tay chăm sóc của con người chúng mới có thể tồn tại. Vào mùa Hè, những cánh hoa thường toát ra mùi socola rất thơm.


4. Kokai cookei




Đây là loài cây rất hiếm, chỉ có ở Hawaii. Nó được phát hiện năm 1860, khi đó chỉ có đúng 3 cá thể. Đến năm 1950, cây Kokai cuối cùng (trong 3 cây được tìm thấy) đã chết và được coi là tuyệt chủng. Đến năm 1970, người ta lại tìm được một cá thể nữa, tiếc rằng nó đã bị phá hủy trong một vụ cháy 8 năm sau đó. Rất may, các nhà sinh vật học đã cứu được một nhánh cây và từ đó nhân giống thành 23 cây tồn tại cho đến ngày nay.


3. Cypripedium calceolus





Một nhánh hoa này có giá bán khoảng 5.000 USD, chừng đó là đủ để thấy chúng quý giá đến mức nào. Ở Anh, người ta coi loài hoa lan này là bảo vật quốc gia và được bảo vệ rất nghiêm ngặt. Không phải ai cũng có thể nuôi dưỡng loài này dù có hạt giống trong tay. Muốn nó phát triển phải ghép cùng với một loại nấm - nguồn cung cấp dinh dưỡng gián tiếp.


2. Epipogium aphyllum - Lan ma





Loài hoa lan này không có lá nên không thể tự quang hợp, tự phát triển mà phải lấy dinh dưỡng từ một loại nấm cấy ghép trên thân. Sở dĩ gọi là “ma” bởi chúng có thể sống dưới lòng đất nhiều năm (các nhà sinh vật học từng tin rằng chúng đã tuyệt chủng) và chỉ nở hoa khi hội tụ tất cả các điều kiện. Điều đó lý giải tại sao những người chơi lan chỉ mong một lần trong đời được nhìn thấy loài hoa này nở.


1. Middlemist camellia - Hoa trà




Trên thế giới chỉ còn duy nhất 2 cá thể của hoa trà này, một ở khu vườn tại New Zealand và một được trồng trong nhà kính của Anh. Thu Trang