Hiển thị các bài đăng có nhãn Vẽ đẹp Việt nam. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Vẽ đẹp Việt nam. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 20 tháng 7, 2016

Người đàn ông chôn 10 nghìn hài nhi và có quyết định khiến triệu người ngưỡng mộ





Cuộc sống đối với mỗi người chúng ta đều có những ý nghĩa thi vị khác nhau, nhưng có rất ít người có được tinh thần hoàn toàn vô tư, vị tha, tôn trọng mỗi một sinh mệnh khác. Tại thành phố biển Nha Trang, Khánh Hòa có một người đàn ông được nhiều người biết đến và kính trọng mỗi khi nhắc tên, đó là ông Phúc. Trong vòng 15 năm qua, ông Phúc đã giải cứu hơn 100 trẻ sơ sinh.

Tất cả câu chuyện bắt đầu vào năm 2001, khi đó vợ của ông Phúc vừa mới có thai. Ông đi cùng vợ vào bệnh viện để kiểm tra tình trạng thai nhi. Tại đây ông thấy có rất nhiều phụ nữ mang thai cũng ra vào bệnh viện, nhưng họ lại không đi đến phòng kiểm tra, thay vào đó họ lại chọn đi theo một hướng khác.



Sau nhiều lần chứng kiến cảnh tượng như vậy, ông Phúc mới hiểu được chính tại nơi những sinh mệnh nhỏ bé sắp chào đời cũng lại chính là nơi kết thúc rất nhiều sinh mệnh còn chưa có cơ hội được chào đời. Nhiều phụ nữ đã lỡ mang thai vì đủ mọi lý do, người do không kế hoạch hoá, người thì không sử dụng phương pháp tránh thai, những cô gái trẻ vì thiếu hiểu biết hay nhẹ dạ cả tin nên chót mang thai và không muốn ai biết… Tất cả họ đều không còn cách lựa chọn nào khác nên đành phải phá thai. Thậm chí có những cô gái đã mang thai vào thời kỳ giữa của thai kỳ, thai nhi lúc này đã thành hình và khá lớn, họ cũng biết rằng việc phá thai sẽ gây ra một nguy hiểm rất cao, nhưng vẫn quyết chọn phá thai…

Việc những sinh linh đáng thương này không thể nào đến được thế gian này đã khiến cho ông Phúc cảm thấy vô cùng xót thương và đau lòng. Vì vậy ông đã quyết định mình phải làm một điều gì đó cho những đứa trẻ tội nghiệp này. Ông Phúc đã đi hỏi bệnh viện rằng liệu mình có thể mang đi những bào thai đã bị phá rồi không? Dưới sự thành tâm mãnh liệt của ông, bệnh viện cuối cùng đã đồng ý.



Ông Phúc vốn chỉ là một thợ xây dựng vì vậy ông đã dành hết số tiền tiết kiệm ít ỏi của mình để mua một mảnh đất nhỏ. Sau đó chôn cất những bào thai sinh linh bé nhỏ ở đây. Bạn đầu vợ của ông còn nghĩ rằng có lẽ ông có vấn đề rồi, nhưng ông vẫn kiên quyết thực hiện kế hoạch này. Ông hy vọng thông qua hành động này khiến cho những sinh mệnh bé nhỏ này cảm nhận được sự tôn trọng cơ bản. Công việc tưởng chừng bình dị đó kéo dài cho đến nay đã được 15 năm, ông Phúc cũng đã chôn cất ở đây tới hơn 10.000 sinh linh… Quả là một con số khổng lồ!



Kể từ khi chôn cất những sinh linh tội nghiệp này ở đây, ông vẫn luôn nhen nhóm một ước mơ rằng mình không chỉ giúp những đứa trẻ chưa được ra đời có một nơi an nghỉ tốt lành mà còn có thể cứu chúng trước khi chúng bị phá đi. Nghĩa trang này không chỉ là nơi để tưởng nhớ hay hoài niệm, mà ông còn hy vọng nơi này có thể chạm được vào sâu trong tâm những bà mẹ mang thai, khiến họ thay đổi quyết định phá thai.



Danh tiếng về tấm lòng nhân ái của ông đã dần dần được mọi người truyền đi, bắt đầu có một số bà mẹ trẻ chưa kết hôn hoặc phụ nữ mang thai tìm đến ông để nhờ giúp đỡ, hy vọng ông có thể cứu sống những sinh linh nằm trong bụng họ. Ông Phúc rốt cuộc đã đồng ý nguyện vọng của họ, ông đột nhiên từ một người giữ vai trò chăm sóc nghĩa trang trở thành một người cha nuôi dưỡng những đứa trẻ mồ côi. Ông đã một mình nuôi dưỡng những đứa trẻ bị bỏ đi này và chờ đợi hy vọng rằng sẽ có một ngày những người mẹ này sau khi có công việc ổn định hay đã bình ổn về cuộc sống sẽ thay đổi cách nghĩ mà quay trở lại đón nhận con mình.





Nơi này cũng đang từ một nghĩa địa dần dần trở thành một trung tâm chăm sóc giáo dục đặc biệt, quy mô lên tới hơn 100 em. Đôi khi vì có quá nhiều trẻ em, ông Phúc không thể nhớ nổi nên ông đã đặt tên cho các cô bé bé cậu bé với cái tên như Vinh, Tâm… tiếp theo đó là tên họ của mẹ chúng.



Nuôi dưỡng bao nhiêu trẻ em như vậy là một nhiệm vụ rất khó khăn, nhưng ông vẫn luôn lạc quan, vui vẻ. Những đứa trẻ này đối với ông mà nói không chỉ là một sự nuôi dưỡng tạm bợ, ngược lại càng giống như nuôi dưỡng chính máu mủ của mình. Ông thà để bản thân mình phải chết đói còn hơn nhìn thấy một người mẹ vì không có khả năng nuôi dưỡng đứa trẻ mà từ bỏ chúng đi.



Có người từng hỏi ông rằng liệu ông sẽ có thể duy trì như vậy đến khi nào? Ông đã trả lời: “Tôi sẽ tiếp tục hành động này cho đến hơi thở cuối cùng. Tôi hy vọng sau khi tôi đi con của tôi sẽ tiếp tục nuôi dưỡng và giúp đỡ những trẻ em khác.”Đối với 100 đứa trẻ này mà nói ông Phúc như một người cha thân yêu nhất của chúng, đồng thời ông cũng là một người cha đáng kính nhất trên thế giới.





Hành động của ông Phúc không chỉ thay đổi cuộc sống của những đứa trẻ này, tinh thần và tấm lòng lương thiện từ bi của ông đã thật sự ảnh hưởng tới rất nhiều người. Trong vài năm qua đã có khá nhiều trại trẻ mồ côi tư nhân cũng đã được thiết lập và thu nhận nhiều trẻ em cơ nhỡ không nơi nương tựa. Sự tôn trọng của ông đối với các sinh linh bé nhỏ này thật đáng để chúng ta ngưỡng mộ và học hỏi nhiều điều! Nếu thế giới này ai cũng có được tấm lòng vị tha, yêu thương giúp đỡ người khác như ông thì quả thật là một điều tuyệt vời.

Xem thêm: Địa chỉ và số điện thoại của chú Tống Phước Phúc

Bạch Mỹ – Daikynguyenvn

Thứ Tư, 1 tháng 6, 2016

AI LÀ TỔ CỦA DÂN VIỆT?





Lịch sử hình thành dân Việt được chia làm hai giai đoạn chính :

1. Giai đoạn tiền sử trước khi hình thành dân tộc.
2. Giai đoạn hình thành dân Việt, mở mang bờ cõi đất nước Việt.

1. Giai đoạn tiền sử trước khi hình thành dân Việt

Vào thời xa xưa, khi còn thời bộ lạc ở các hang động, chưa định cư và cất nhà,những bộ lạc từ Ðông-Nam-Á theo con mồi đi lên tận miền Bắc Trung Hoa đến TriềuTiên và Nhật Bản. Họ định cƣ và sống ở đó. Thời gian nầy không có sự phân chia dân tộc nầy, hay chủng tộc khác; không có sự phân biệt người Mã Lai, hay Nam Dương hoặc Việt Nam hay Trung Hoa hoặc Chàm v.v…Họ phát xuất từ vùng Ðông-Nam-Á.
Họ sống bằng nghề săn bắn và thu lượm, chồng đi bắt hay săn thú, vợ đi đào củ hay hái trái rừng. Họ sống thành từng nhóm, rải rác khắp nơi. Trong số những người đi lên phía Bắc đó thì có hai bộ lạc lớn họp lại với nhau, một bộ lạc mang tên là Hồng lấy Chim làm biểu tƣợng, và một bộ lạc mang tên Bàng lấy Rồng làm biểu tượng. Hai bộ lạc nầy xuất hiện từ thời gian nào, chúng ta không biết; họ ra sao, chúng ta cũng không rõ. Nhờ vào ngành Khảo cổ và Nhân chủng học hợp với sự phân tích và định nghĩa văn tự Hồng và Bàng cho chúng ta biết họ xuất hiện trước thời định cư , tức là trước 10 ngàn năm, có nghĩa là trong thời Canh Tân (Pleistocene) hay còn gọi là thời Cựu Thạch (Palaeolithic), khoảng từ triệu năm đến 10 ngàn năm. Nguồn gốc dân Việt khởi điểm rất xa xưa qua họ Hồng Bàng. Có thể nói họ là “ Sơ tổ” của dân Việt.
Từ Hồng Bàng cho tới ế Minh là một khoảng trống rất lớn, xảy ra rất nhiều vấn đề trong đó, và trong phạm vi nhỏ b của bài viết này, tôi không thể nào đƣa hết tất cả mọi vấn đề ra ở đây đƣợc, tôi chỉ có thể đƣa một phần rất nhỏ liên quan đến truyền thuyết họ Hồng Bàng mà thôi, xin bạn thông cảm!
Sau đó đến thời chăn nuôi, định cư và trồng trọt bắt đầu từ khoảng 14 ngàn năm trở về sau nầy, chúng ta thấy xuất hiện Phục Hi, Nữ Oa và Thần Nông. Chúng ta cũng không biết họ như thế nào. Chúng ta chỉ biết Phục Hi tượng trưng cho chă n nuôi và Thần Nông tƣợng trƣng cho trồng trọt qua Khảo cổ và Nhân chủng học. Họ ra sao chúng ta cũng không biết, chỉ biết là họ thuộc vùng Kinh nằm dọc sông Trường Giang (Dương Tử) được xem là miền Nam Trung Hoa. Họ bị các sử gia và học giả Trung Hoa xem như “ngoại lai” tức không thuộc vào dân tộc Trung Hoa.
Rồi đến Ðế Minh,cháu ba đời vua Thần Nông. Ông lấy Vụ Tiên nữ ở vùng Ngũ Lĩnh còn gọi là vùng Lĩnh Nam. Ông có hai ngƣời vợ, ngƣời vợ đầu truyền thuyết không nhắc tên, bà sanh ra Đế Nghi; và người vợ sau là Vụ Tiên nữ sanh ra Lộc Tục.
Đế Minh chia vùng đất Cổ Việt bao gồm Trung Hoa và miền Bắc Việt Nam cho hai người con là Đế Nghi và Lộc Tục. Ðế Nghi làm vua phương Bắc và Lộc Tục làm vua phương Nam.

2. Giai đoạn hình thành dân Việt, mở mang bờ cõi đất nước.

Lần đầu tiên truyền thuyết họ Hồng Bàng xác định vua đầu tiên là Lộc Tục lên ngôi vào năm Nhâm-tuất, các sử gia của chúng ta tính ra là 2879 trƣớc Tây Lịch. Ðây là thời điểm xác nhận sự hình thành dân tộc với sự xuất hiện của vị vua đầu tiên là Lộc Tục lấy hiệu là Kinh-Dương vương tức là làm vua hai châu gộp lại là Kinh châu và Dương châu.Tên nước của Lộc Tục là Xích-Quỷ . Lộc Tục lấy Long Nữ sanh ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ sanh 100 trứng nở ra 100 ngƣời con, và người con cả trong đó nối ngôi cha dựng nước gọi là Văn Lang tiếp tục cai trị bởi 18 đời Hùng Vương.
Trong phần phân tích ở trên cho thấy Lộc Tục xác định thời lập quốc của dân tộc Việt và Hùng Vương bành trướng đất nước Việt. Bạn và tôi, chúng ta chỉ biết tới đó mà thôi. Câu hỏi đƣợc đặt ra ở đây : Ai được dân tộc Việt thờ kính ?

AI ÐƯỢC DÂN TỘC VI ỆT TH Ờ KÍNH ?

Một hôm anh bạn của tôi mang đến cho tôi một quyển sách dày trên 400 trang với tựa đề “Văn hóa Luy Lâu và Kinh Dương Vương”, trong đó có một bức ảnh chụp lăng Kinh Dương Vương và cho biết có thờ Kinh Dương Vương , Lạc Long Quân và Âu Cơ . Lăng nầy hiện ở làng Á Lữ, thuộc Luy Lâu. Nay là Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh

A. LĂNG KINH DƯƠNG VƯƠNG- LẠC LONG QUÂN VÀ ÂU CƠ

Tôi xin chép lại nguyên văn trong sách như sau:
“ Tương truyền, lăng được xây dựng từ thời Trịnh – khoảng thế k 17. Cũng tương truyền, lăng được sửa đổi nhiều lần.
Bia ở lăng đề : “Minh Mệnh, nhị thập nhất niên”1840. Có l năm ấy có sự trùng tu quan trọng.
Trong lăng có hai câu đối:

“ Nghĩa Lĩnh cổ kinh thành
Ðức Giang kim lăng miếu”

Tức là:
Ở núi Nghĩa Lĩnh (Phú Thọ) có kinh thành cổ.
Ở sông Ðức Giang (còn gọi sông Ðuống, thuộc Bắc Ninh) có lăng miếu mới.
Khu đất của lăng dài trên 800 thƣớc, rộng 80 thước, hình thoi. Lăng được xây theo kiểu cổ diềm 8 mái, có đao đối, chung quanh có tuờng chắn.
Từ bãi, phải đi lên chín bậc mới đến sân lăng. Hai bên cửa ra vào có hai con rồng (xây bằng vôi cát). Giữa có lối đi thẳng vào chính tẩm. Xung quanh lăng là rừng cây cối tốt tươi.Lăng rộng mỗi bề 10 thước, bốn gốc có bốn cột trụ, cửa vào có hai cột.
Tại lăng có đôi câu đối :
“Vạn cổ giang sơn tư tụy tổ
Nhất khâu phong vũ ngật hồng bi
Tức là:
Từ vạn cổ cả nước non này đã suy nghĩ về ngọn nguồn tiên tổ.
Một nấm mồ nhỏ thôi nhƣng trải bao mưa gió vẫn sừng sững một tấm bia hồng.
Trên trán lăng có hai đại tự (chữ lớn) “ ẤT V ” ( K Ô T Ể MẤT).
Sau đây lời tùy bút của ông Nguyễn Phan Hách viết tiếp trong bài “ Lăng mộ thiêng liêng” ở trang 418 – 426, khi ông đi thăm Lăng Kinh Dương Vương. Tôi xin tóm lược nhƣ sau :
Suốt dọc các làng tiếng trống hội xuân râm ran. Nơi Chùa Bút Tháp ô tô từ Hà Nội về văn cảnh tấp nập. Tôi dừng lại một nơi cách Bút Tháp 2 cây số trước tấm biển

“ Di tích lăng mộ Kinh-Dương Vương – Lạc Long Quân – Âu Cơ”.

Trước mắt tôi, một bãi cát ngoại đê bát ngát. Những lùm cổ thụ gạo và xà cừ.
Vòng qua tấm bia “Hạ Mã”, tôi bƣớc vào khu Lăng Mộ. Không gian vắng hoe. Chỉ có mình tôi với chiếc lá vàng và những bông gạo đỏ rụng sớm.
Khu di tích đơn sơ. Một cái lăng nhỏ rêu phong giống hình cái miếu, trong có bia đá chữ Nho ghi rõ đây là di tích mộ Kinh Dương Vương – Lạc Long Quân – Âu Cơ – THỦY TỔ NƯỚC NAM.
Mộ trước cửa lăng xây nổi hình một cái hƣơng án. Tất cả chỉ có thế. Còn lại là cỏ xanh…
Lòng rưng rưng tôi thắp nén nhang. Câu chuyện Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh bọc 100 trứng, trứng nở 100 trai, 50 con theo mẹ lên núi, 50 con theo cha xuống biển… không một ngƣời Việt Nam con Rồng cháu Tiên nào không biết.Và hôm nay, đến đây, lẽ nào tôi quên!
Tôi chỉ muốn bật khóc trước cảnh hiu quạnh. Tiếng trống hội mùa xuân các làng dọc triền đê nao nức thế. Sao riêng đây vắng lặng. Tôi đi nhặt những chiếc lá vàng rơi quanh Mộ, nhặt những bông hoa gạo đỏ, và ngắm làn khói nhang mong manh.
Một bé gái cắt cỏ mom men đến gần xem tôi chụp ảnh.
-Ðây là Lăng Mộ gì cháu nhỉ ? Tôi giả vờ hỏi.
- Kinh Dương Vương
-“Ông ta” là ai thế?
- Cháu biết đâu đấy !
- Cháu có biết chuyện cổ tích: “ Lạc Long Quân Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng” ?
- Có chứ. Truyện học trong sách giáo khoa.
- Ðây chính là di tích của truyền thuyết ấy đấy!
Cô b cười ngờ vực, chả tin.
Tôi đến bên một bà già đang xới ngô ngoài bãi.
-Khu Lăng, nhiều ngƣời thăm viếng không bà?
- Hồi tôi còn bé ở đây có miếu đền to lắm! Hàng năm có tế lễ hội hè. Nhưng rồi đền bị thực dân Pháp đốt trụi chỉ còn thế này. Bây giờ thỉnh thoảng có các cụ trong làng ra thắp hương.
-Bà đi lễ đền Hùng lần nào chưa?
- Có chứ. Ðền Hùng lớn lắm. Ðấy là đất Tổ của nước Nam mình. Phải về lễ Tổ chứ.
- Nhưng thưa bà, Ðức Kinh Dương Vương ở quê mình đây sinh ra Lạc Long Quân.Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh ra trăm con. Hùng Vương là con trưởng. Như vậy đây cũng là đất Tổ chứ. Sao vắng hoe thế nầy ?
Bà lão chớp mắt thoáng buồn:
-Thỉnh thoảng tôi cũng thấy có vài người từ tỉnh về chụp ảnh lăng mộ, nhặt mấy cái lá vàng, mấy bông hoa gạo đỏ, hỏi dăm ba câu chuyện, nhƣ anh, rồi sau đó đi, thế thôi…
Bà già đưa tôi qua đê vào làng Á Lữ, cách đó chừng 500 thước.
-Ngoài đê là Lăng Mộ Ngài. Còn trong nầy là đình làng tôi thờ Ðức Ngài – Bà nói.
Trước mắt tôi là khu sân gạch rộng có v nhƣ là sân kho thời Hợp tác xã. Không có vẽ giống sân đình, vì quanh đó có thềm nhà văn phòng Ủy ban, hay Hợp tác gì đó…
Còn Ðình và Chùa liền nhau, một dẫy nhà ngói đơn giản như nhà dân. Không phải kiến trúc đình chùa. Không mái cong. Không đắp hình Rồng Phượng. Tôi mở cửa bước vào. Hai cậu thợ mộc đang đục đẽo cạnh đấy bảo:
- Chú đừng vào. Các Ngài ở đây thiêng lắm. Các Ngài sẽ “quở”, sẽ “vật” chú ốm đấy !
- Tao là đứa con hiếu thảo của Ðức Thủy Tổ. Tao vào để quỳ lạy Ngài chứ tao làm gì mà “vật” tao ốm!
Bọn thợ mộc cười khì :
- Thì cháu tưởng chú vào nhâng nhâng nháo nháo chụp mấy kiểu ảnh rồi tếch thẳng như bao người khác!
Bao ngƣời khác là ai? Lòng tôi chợt gợn buồn. Tại sao hàng ngàn làng khác đình miếu nguy nga ( mà thần phả bình thường). Còn ở đây Thành hoàng là hẳn THỦY TỔ NƯỚC NAM, là “ông nội” , là cha và mẹ của Vua Hùng, thì đình chỉ là ngôi nhà ngói vài gian ?
Tôi bước vào. Những bức hoành phi câu đối vẫn còn ghi rõ, giải thích rõ ý nghĩa lớn lao thiêng liêng của ba vị tổ tiên dân tộc này. Ðặc biệt là bức Ðại tự “ NAM TỔ MIẾU” khá cổ kính.
- Ngày xưa đình cũng nguy nga lắm. Nhưng cũng lại bị Pháp đi càn đốt cháy. Dân đây còn nghèo, nên chỉ tu tạo lại đƣợc thế này thôi -Mấy cậu thợ mộc nói.
Phải. Ðâu ai dám trách dân sở tại. Ðây là di tích cả nƣớc phải lo, chứ đâu phải của
riêng một làng…
… Mở sách “Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư”, thấy Ngô Sĩ Liên viết: “Kinh Dương Vương là vua bắt đầu được phong của nước Ðại Việt ta, cùng với Ðế Nghi cùng thời,cho nên trong sách này tôi ch p Năm Ðầu ngang năm đầu của Ðế Nghi”.
Nếu nói lịch sử nƣớc ta đã trải qua 4000 năm, thì những cái Năm đầu đó phải chăng là thời của Kinh Dương Vương.
Tôi không hiểu nhiều lắm về cổ sử. Mà “vụ này” nào mấy ai đã biết rõ! Chỉ biết nơi đây có lăng, có mộ, có hoành phi “ NAM TỔ MIẾU” … nhưng tất cả chưa được tu tạo thỏa đáng.
Và cả tôi nữa. Bây giờ tôi mới giật mình. Tôi sinh ra và lớn lên ở làng Mão Ðiền – cách Lăng Kinh Dương Vương chỉ 3 cây số. Tôi là nhà văn, trước đó là “nhà nghiên cứu văn hóa” của Ty văn hóa Hà Bắc. Tôi đã đi thăm vài chục ngôi chùa, di tích lịch sử khắp nơi mọi miền đất nước, nhưng bây giờ, đây là lần đầu tiên trong đời tôi đến thắp hương trước Lăng Mộ KINH DƯƠNG VƯƠNG – THỦY TỔ NƯỚC NAM.
Thế là thế nào? Không còn hiểu ra làm sao nữa ?
Tôi có nên buồn không ? Và có lo Ðức Ngài quở nhƣ mấy cậu thợ mộc ở Ðình Kinh Dương Vương nói không?
Sở dĩ tôi ghi lại bài tùy bút của Nguyễn Phan Hách, cốt ý trƣớc là để chúng ta tự suy nghĩ, sau là để cho chúng ta thấy rằng đến ngày hôm nay không ai để ý đến và cũng không biết đến Lăng Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và u Cơ là gì! Các Ngài là những vị “THỦY TỔ NƯỚC NAM”.
Tôi ƣớc mong bài viết nầy sẽ giúp thêm cho chúng ta hiểu thêm vể Tổ, để đến ngày Giỗ Tổ, các cộng đồng ngƣời Việt ở khắp nơi, biết rằng “ THỦY TỔ NƯỚC NAM” bao gồm KINH DƯƠNG VƯƠNG – LẠC LONG QUÂN – ÂU CƠ – VÀ CÁC HÙNG VƯƠNG .
Từ trước đến giờ, chúng ta mỗi lần mừng giỗ tổ chỉ nhắc đến các vị vua Hùng mà thôi,chứ chúng ta không biết rằng dân Việt đã thờ Kinh Dƣơng Dƣơng – Lạc Long Quân - Âu Cơ từ lâu. Trong quyển “Văn Hóa Luy Lâu và Kinh Dương Vương” có ghi là có 138 đình và miếu trên nƣớc Việt Nam thờ Lạc Long Quân và u Cơ, nhƣng chỉ có làng Á Lữ thuộc Luy Lâu xưa, nay là Thuận Thành, thuộc tỉnh Bắc Ninh là có lăng Kinh Dương Vương nơi đó thờ Kinh Dương Vương – Lạc Long Quân và Âu Cơ .

B ÐỀN HÙNG

Ðền Hùng ở xã Hy Cương, Phong Châu, tỉnh Vĩnh Phú.
Khu di tích lịch sử ở trên núi Nghĩa Lĩnh cao 175 thƣớc.
Ðền với kiến trúc hiện nay về đại thể được tổng đốc Nguyễn Bá Nghi đứng ra xây dựng năm 1874 theo sắc dụ của vua Tự Ðức. Những lần tu sửa đáng kể là vào các năm Duy Tân 6 (1912), Khải Ðịnh 7 (1922) và 1962.
Từ chân núi theo bậc lên cổng đền, qua tam quan, đến đền Hạ, rồi đền Trung và cuối cùng là đền Thƣợng nơi đó thờ các vị vua Hùng.
Dưới chân núi có đền Giếng thờ hai con gái vua Hùng thứ 18 là Tiên Dung và Ngọc Qua. Ðền có Giếng Ngọc.
Hội đền Hùng tổ chức trọng thể vào ngày 10 tháng 3.
Hai lăng : Lăng Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Âu cơ cùng với Lăng Hùng Vương (Ðền Hùng) là những chứng tích cho chúng ta thấy ai là THỦY TỔ NƯỚC NAM. Chúng tôi mong đợi trong những ngày Giỗ Tỗ sắp tới chúng ta s nhận định rõ ràng về những vị tổ của dân tộc Việt.

Có lẽ bạn thắc mắc, tại sao dân trong nước không biết gì về Kinh-Dương Vương, Lạc Long Quân và Âu-Cơ, bạn nói với tôi rằng ngƣời Việt tự hào là “Con Rồng cháu Tiên” mà, vậy thì họ là con của ai và là cháu của ai?
Lạc Long Quân lấy u-Cơ sinh ra trăm trứng tƣợng trƣng cho 100 người con trai và truyền thuyết gọi là Bách Việt, tức là trăm giống Việt. Trong danh xưng Lạc Long Quân thì có chữ Long có nghĩa là Rồng. Trăm giống Việt đó có người Cha là Lạc Long Quân lấy biểu tượng là Rồng, vì đó gọi là “con Rồng” tức là con của Lạc Long Quân.
Cha của Lạc Long Quân là Lộc Tục và mẹ của Lạc Long Quân là Long nữ.
Ông nội của Lạc Long Quân là ế Minh và bà nội của Lạc Long Quân là Vụ Tiên nữ.
Cháu tiên có nghĩa là cháu của bà Vụ Tiên.
Vậy “con Rồng cháu Tiên” có nghĩa là con của Lạc Long Quân và cháu của bà Vụ Tiên. Tất cả những điều này đều nằm trong truyền thuyết, vì đó khi dân Việt nói họ là “con Rồng cháu Tiên” là họ nói theo truyền thuyết họ Hồng Bàng.
Nếu xưng mình là “Con Rồng cháu Tiên”, thế thì tại sao ngày Giỗ Tỗ lại gạt bỏ Lạc Long Quân và Vụ Tiên nữ, không mừng Giỗ của các Ngài?
Ai đã chủ mƣu làm cho dân Việt không biết đến tiền nhân trong ngày Giỗ Tỗ?
Ai đã chủ ý cắt bỏ truyền thuyết họ Hồng Bàng ra khỏi các bộ sử của Việt Nam? Ai đã cố ý dẹp bỏ truyền thuyết họ Hồng Bàng để dân Việt không còn biết đâu là cội nguồn?
Thƣa bạn, đây là một đề tài phức tạp và rộng lớn, cần phải chứng minh và phân tích đầy đủ, để cho dân Việt hiểu tại sao văn hóa và nguồn gốc bị phá hủy tận gốc. Tôi thiết nghĩ bài viết nhỏ bé nầy không phải là chỗ dành cho một đề tài rộng lớn như vậy,xin bạn thông cảm.
Trước khi kết thúc, tôi xin chứng minh cho bạn, điểm vượt trội của văn hóa Việt trên văn hóa Trung Hoa, xin bạn đọc tiếp phần dưới đây:

TRUNG HOA BỎ VĂN HÓA TRUNG NGUYÊN VÀ CHẤP NHẬN VĂN HÓA CỦA TIỀN NHÂN NGƯỜI VIỆT

Vào năm 1998, tờ báo Beijing Review số 41 ngày 23-3-1998, là tờ báo của chính quyền Trung Hoa, ở trang 31 có đăng một bài với tựa đề “Archaeology finds give clues to 10,000 year Chinese history (dịch : những khám phá của khảo cổ cho biết lịch sử Trung Hoa lên tới 10,000 ngàn năm)”. Tác giả của bài báo viết như sau :
“Chinese history can now be dated back 10,000 years. This conclusion is drawn by Chinese historians across the Taiwan Straits, disproving the common belief that China has a 5,000-year civilization which first originated along the Yellow River”
Tạm dịch : “Ngày nay sử Trung Hoa đã được minh định thời gian lên tới 10,000 năm. Ðây là kết luận của các sử gia Trung Hoa qua tới Eo Ðài Loan, bác bỏ niềm tin thông thƣờng rằng nền văn minh Trung Hoa chỉ có 5,000 năm, khởi điểm bắt nguồn từ sông Hoàng Hà”.
Câu kết luận trên đƣa ra những thay đổi tận gốc sử và văn minh Trung Hoa :

1. Bác bỏ nền văn hóa của sông Hoàng Hà trong đó có nền văn hóa Trung Nguyên, và nếu nói rõ hơn là chối bỏ “chủ thuyết Trung Nguyên” mà trƣớc đây học giả kể cả sử gia Trung Hoa, cho rằng vùng Trung Nguyên là văn minh nhất,là “cái nôi” của văn hóa Trung Hoa, vùng nầy đã đem ánh sáng văn minh đến cho tất cả các vùng bán khai chung quanh, bị coi là “man di mọi rợ”.

2. Chối bỏ “Truyền thuyết Hoàng Ðế đƣợc xem là gốc phát xuất dân tộc Trung Hoa, vào khoảng trên hai ngàn năm trước Tây Lịch,khởi điểm từ vùng sông Hoàng Hà.
Nếu đưa 10,000 năm vào thì ai sẽ là tiền nhân của dân Trung Hoa? Chỉ có truyền thuyết họ Hồng Bàng chứng minh được mà thôi!
Câu hỏi ở đây là khảo cổ Trung Hoa tìm được cái gì và ở đâu để đưa văn minh Trung Hoa lên tới 10,000 năm ?

Bài báo cho biết vào cuối mùa đông năm 1998, khoảng 50 thành viên là những nhà chuyên môn nghiên cứu về sử Trung Hoa (gồm cả Trung Hoa và Ðài Loan), đã hợp lại tại đảo Hải Nam thuộc lãnh thổ Trung Hoa (Hải Nam, một hòn đảo của Trung Hoa ngày nay nằm gần Việt Nam), đã cho rằng Sử Ký Tƣ Mã Thiên không đủ để đưa ra một hình ảnh trung thực về sử liệu. Và họ kêu gọi duyệt lại những lời kết luận của sử gia Tư Mã Thiên.

Họ cho rằng các nhà khảo cổ đã tìm đƣợc lụa, định tuổi vào khoảng 6,000 năm tại vùng Giang Tô và Chiết Giang (tức là vùng Dương châu, nếu dựa theo truyền thuyết họ Hồng Bàng) . Nhưng quan trọng hơn hết là những đổ nát, tàng tích là di tích văn hóa ở địa điểm Bành Ðầu Sơn (Pengtoushan) tại tỉnh Hồ Nam ( tức là vùng Kinh châu, nếu dƣa theo truyền thuyết họ Hồng Bàng), chứng minh một nền văn hóa cổ có trên 9,000 năm. Ngoài ra các nhà khảo cổ cũng tìm được những đống xương của cá ông và cá mập cùng với các mái chèo đào đƣợc tại Hà Mỗ Ðộ (Hemudu) thuộc tỉnh Chiết Giang (tức là vùng Dương châu nếu nói theo truyền thuyết họ Hồng Bàng) và được định tuổi thời gian là 7,000 năm.

Trong truyền thuyết họ Hồng Bàng, cho biết Lộc Tục tức là Kinh-Dương vương làm vua hai vùng Kinh châu và Dương châu, đồng thời là nguyên quán của Lạc Long Quân. Kinh điển gồm có Thượng Thư chứng minh rằng hai vùng Kinh Châu và Dương châu là trù phú, mầu mỡ hơn các vùng khác của 9 châu, về tài nguyên cũng như đặc sản. Bộ Sử Ký Tư Mã Thiên gọi hai vùng là Kinh Man trong phần “Ngô Thái Bá thế gia”. Bộ Trúc Thư Kỉ Niên tìm được trong mộ của vua nước Ngụy gọi hai vùng nầy là Việt (hay là nước Việt). Ngày nay sử gia Trung Hoa gọi hai vùng nầy là nền văn minh lâu đời nhất dẫn tới 10,000 năm, kiến tạo ra văn hóa Trung Hoa!
Tôi xin viết tiếp nguyên văn lời kết của tờ Beijing Review nhƣ sau: “These
prove that China, instead of being a simple agrarian nation centered on the Yellow
River area, is a melting pot of multi-cultures with a history of about 10,000 years”

Tạm dịch : “ Tất cả những điều trên chứng minh rằng Trung Hoa, không chỉ là một quốc gia nông nghiệp tập trung ở sông Hoàng Hà, mà còn là một địa điểm pha trộn của nhiều văn hóa khác nhau cùng chung một lịch sử của khoảng 10, 000 năm”,điều nầy truyền thuyết họ Hồng Bàng đã chứng minh từ trước !

Hôm nay ngày Giỗ Tổ, tôi đã trình bày cho bạn thấy tầm quan trọng của truyền thuyết họ Hồng Bàng, trong đó họ Hồng Bàng được coi là “SƠ TỔ ” của thời chưa lập quốc của dân Việt .

Đến giai đoạn lập quốc, thì Lộc Tục cùng cha là Đế Minh và mẹ là Vụ Tiên nữ, cùng vợ là Long nữ , và con là Lạc Long Quân, dâu là Âu Cơ cùng đám cháu là các vị Hùng Vương là “THỦY TỔ ” của thời lập quốc, vì đó chúng ta gọi là “Quốc Tổ”, tức là Tổ của thời lập quốc. ây là Gia phả của dân Việt, mà sau nầy nếu có dịp tôi sẽ bàn đến chi tiết và mở rộng hơn.

Bất cứ một cuộc nghiên cứu nào cũng còn những điểm thiếu sót, bất cứ một việc làm nào cũng cần có những bổ túc, và sửa sai. Thời gian là tƣ liệu lấp đầy những lỗ hổng, là căn bản trám vào những khuyết điểm, thưa bạn, tôi cần rất nhiều thời gian học hỏi cũng như nghiên cứu thêm để bổ túc những khuyết điểm trong bài viết nầy.
Vậy nếu bài viết nầy có gì sơ xuất xin các bậc cao thâm thông cảm và thứ lỗi, tôi xin thành thật rất cám ơn.

LĨNH NAM ẨN SĨ

Chủ Nhật, 22 tháng 5, 2016

Bí mật Ma Thiên Lãnh - vẻ đẹp hoang sơ ít người biết ở Tây Ninh







Tây Ninh không chỉ nổi tiếng với Hồ Dầu Tiếng hay Núi Bà Đen mà những khu du lịch ở Tây Ninh còn hấp dẫn du khách bởi nét hoang sơ, hoang vu, nhưng khống kém phần nên thơ, hùng vĩ bởi những thắng cảnh nơi này, tiêu biểu nhất là thũng lũng Ma Thiên Lãnh.



Christian Steven on Instagram
1. Địa điểm

Thung lũng Ma Thiên Lãnh thuộc Ninh Sơn, thị xã Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh, nằm ở giữa ba ngọn núi tạo thành núi Bà Đen hùng vỹ thu hút khách du lịch Tây Ninh bởi vẻ đẹp đồi núi trập trùng, những con dốc dựng đứng, dòng suối nhuộm vàng. Đây là một sườn đồi thơ mộng với một bên là núi một bên là cheo leo vực thẳm, chỉ cách trung tâm thành phố Hồ Chí Minh khoảng ba giờ đi xe máy, vượt quãng đường gần một trăm cây số.



@mynhutr on Instagram
2. Cách đi

Đường vào khu vực Ma Thiên Lãnh nối từ đường 785, đi khoảng 1 cây số đến chân núi, từ chân núi lên khoảng hơn cây số thì đến một thung lũng bằng phẳng, nằm lọt giữa tứ bề núi đá, rừng cây. Từ chân núi, men theo con đường nhựa trải dài uốn lượn trên một sườn đồi thơ mộng một bên là núi và một bên là cheo leo vực thẳm, văng vẳng bên tai đâu đó là tiếng chim kêu, vượn hú, tiếng suối róc rách giữa đại ngàn bao la cùng một bầu không khí trong lành đến tuyệt vời.



Mr Quăn on Instagram



Instagram photo by Trần Trung Tín

Con đường đến Ma Thiên Lãnh tuy không cheo leo đèo dốc nhưng cũng không dễ dàng gì, bởi đường xuống thung lũng vẫn khá cheo leo, hiểm trở và đặc biệt là ở đây có rất nhiều... rắn. Tuy nhiên bạn cứ an tâm rằng, theo người dân địa phương thì rắn chỉ xuất hiện về đêm. Vượt qua những gian nan đường khó, du khách sẽ được đắm mình vào cảm giác thư thái với núi non mây ngàn, chính những điểu này đã thu hút các bước chân phượt thủ.



Thanh Nhàn on Instagram




3. Cảnh đẹp hoang sơ mà hùng vĩ ở nơi này

Ma Thiên Lãnh hoang sơ nằm ẩn mình ở độ cao trên 50m giữa đồng bằng rộng lớn, được che mình bởi núi Lớn (hay còn gọi là núi Bà), núi Phụng và núi Heo, Ma Thiên Lãnh hiện ra như một quần thể địa danh được kiến tạo bởi hang Ông Hổ, suối vàng, hầm đá...



Trên đường vào, có những hồ nước trong vắt, mát lạnh vốn do khai thác đá mà thành. Ảnh: Nhung on Instagram



Như Huỳnh on Instagram

Bắt đầu từ chân núi vào, ngồi trên xe bạn có thể thưởng ngoạn khung cảnh tuyệt vời như của Đà Lạt bởi hai bên là sườn đồi và thung lũng. Dừng xe ở cuối con đường, du khách men theo những bậc đá quanh co cạnh con suối vàng thơ mộng để bước tiếp lên hang Ông Hổ. Mặc dù có nhiều truyền thuyết tương truyền về sự ra đời của chiếc hang này nhưng là gì đi nữa, nơi đây cũng ghi nhận sự thành kính của nhiều người dân địa phương tin vào một đức tin thần bí.



VietNam Adventure Tours on Instagram



Hoài Nguyễn on Instagram

Từ trên cao nhìn xuống, du khách có thể dễ dàng nhận ra ngay cây đại thụ bồ đề đang mọc lên từ trên những phiến đá to nhẵn nhụi.



Từ trên đỉnh cao nhất của ngọn núi cao nhất đồng bằng, chúng ta có thể phóng tầm mắt quan sát khắp các vùng lận cận. Băng qua hố Bảy Ngày sâu hun hút và khi đã vượt qua những con dốc dựng đứng, cùng rừng tre già, một làn hơi nước mát lạnh từ trong các hốc đá sẽ làm chúng ta cảm thấy sảng khoái vô cùng. Cuối tuần có rất nhiều bạn trẻ đến đây để khám phá, leo núi hay đơn giản chỉ là ghi lại những tấm hình tuyệt đẹp bên hồ đá Ma Thiên Lãnh.



潘清华_ 판징화 on Instagram



Mystery on Instagram



U on Instagram



Hoài Nguyễn on Instagram



Phan Thanh Hoa on Instagram



Quý Bơ on Instagram

Lưu ý: để chinh phục đỉnh núi bà Đen bằng đường Ma Thiên Lãnh không phải là điều dễ dàng, bạn có thể đến hồ đá Ma Thiên Lãnh để tham quan chụp hình, nếu muốn leo núi thì hãy chuẩn bị kĩ càng trước khi đi nhé.
Theo Tây Ninh Tour

Thứ Bảy, 7 tháng 5, 2016

độc đáo phố cổ Hội An




Phố cổ Hội An là một trong những địa điểm du lịch thu hút du khách nhất miền Trung bởi những giá trị lịch sử văn hóa. Zing.vn ghi lại một số hình ảnh qua góc camera 360 độ.


Đô thị cổ Hội An nằm ở ngã ba sông Thu Bồn thuộc thành phố Hội An (Quảng Nam). Chùa Cầu là biểu tượng và điểm nhấn di tích đặc trưng.


Cầu xây dựng vào cuối thế kỷ 16, bắc ngang con lạch chảy ra sông Thu Bồn, giáp ranh giữa hai đường Nguyễn Thị Minh Khai và Trần Phú, được gọi là cầu Nhật Bản. Ở giữa cầu có một ngôi miếu nhỏ thờ Huyền Thiên Đại Đế. Cầu có mái che khá độc đáo cùng các kết cấu, họa tiết trang trí thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa các phong cách kiến trúc Việt, Hoa, Nhật, và cả phương Tây.


Dọc bờ sông Thu Bồn, bên phố Bạch Đằng là bến tàu thuyền, neo đậu tấp nập đưa đón du khách tham quan phố Hội bằng đường thủy. Đây cũng là nơi người dân thả hoa đăng vào ngày 14 âm lịch hàng tháng.


Hội quán Quảng Đông (hay còn gọi là Hội quán Quảng Triệu) được xây dựng vào năm 1885, ở số 176 Trần Phú. Thoạt đầu, nơi đây thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu và Khổng Tử, sau năm 1911 chuyển sang thờ Quan Công và Tiền Hiền.


Nơi đây hiện còn lưu giữ nhiều hiện vật bằng gốm sứ, các hình tượng mô phỏng lại các vở tuồng về văn hóa và nhiều văn bản ghi lại cuộc sống của cộng đồng người Quảng Đông ở Hội An.


Nhà cổ Tấn Ký đã được cấp bằng Di tích Lịch sử - Văn hóa Quốc gia nằm tại số nhà 101 phố Nguyễn Thái Học, xây dựng cách đây 200 năm.


Tượng đài kiến trúc sư Kazimierz Kwiatkowski được người dân gọi với cái tên thân mật là KTS Karik nằm trên phố Trần Phú. Kiến trúc sư người Ba Lan được coi là người có đóng góp lớn trong việc bảo tồn các di tích lịch sử tại Việt Nam và góp phần đưa các di tích này được ghi danh trong danh sách Di sản thế giới của UNESCO.


Hội quán học Ngũ Bang (nằm trên phố Trần Phú) còn có tên gọi là Hội quán Dương Thương hay Trung Hoa Hội Quán. Cái tên Ngũ Bang ra đời có lẽ do tại thời điểm này có 5 bang hội người Hoa quy tụ về gồm người Gia Ứng, Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến và Hải Nam cùng sinh sống, thờ cúng, phát triển...


Du khách tham quan phố Hội sẽ có dịp dạo bước khám phá các tuyến phố cổ một cách thảnh thơi nhất vào thời điểm sáng sớm. Nơi đây đặc biệt đông du khách qua lại vào buổi chiều và tối.


Hội quán Phúc Kiến nằm ở số 46 đường Trần Phú. Tương truyền tiền thân của Hội quán là một gian miếu nhỏ thờ pho tượng Thiên Hậu Thánh Mẫu (bà chúa phù hộ cho thương nhân vượt sóng gió đại dương) vớt được tại bờ biển Hội An vào năm 1697.


Nằm ở cuối khu vực phố cổ là ngã tư chùa Ông và chợ Hội An.


Miếu Âm Hồn vốn là nơi thờ cúng của Tín Thiên Tộc và những âm linh, cô hồn. Được xây dựng vào năm Minh Mạng thứ 10 (1829), miếu là một di tích cổ được quy hoạch bảo tồn nhưng 14 năm nay xảy ra tranh chấp giữa những người tạm cư và gia đình cai quản họ Hứa, miếu đã trở lên hoang tàn.


Bản đồ thành phố Hội An, Quảng Nam.
Theo Tiến Tuấn - Zing

Thứ Tư, 20 tháng 4, 2016

Chuyện ”người điên” Phạm Đình Nguyên mua thị trấn Mỹ







Ông Phạm Đình Nguyên – chủ nhân thị trấn cà phê Việt PhinDeli trên đất Mỹ.

Ông Phạm Đình Nguyên – chủ nhân của thương hiệu cà phê “PhinDeli làm nước Mỹ tỉnh giấc” đã chia sẻ như vậy trước 500 doanh nghiệp tham dự diễn đàn “Xây dựng thương hiệu dẫn đầu” do Học viện thương hiệu và truyền thông Sage tổ chức ngày 14/10 tại Hà Nội.


Sinh sống ở Sài Gòn, không phải ở Mỹ cũng không liên quan gì đến nước Mỹ, doanh nhân 41 tuổi Phạm Đình Nguyên đã gây chấn động giới truyền thông trong nước và quốc tế vào năm 2012 bằng việc trở thành người Việt đầu tiên mua một thị trấn của nước Mỹ có tên Buford với giá xấp xỉ 1 triệu USD, và trở thành thị trưởng của thị trấn này.

Ông Nguyên nói: “Khi đó chính tôi cũng không biết mình mua Buford để làm gì. Người ta đồn rằng, tôi sẽ làm một thị trấn bánh phở, kẻ thì nói tôi sẽ làm một thị trấn massage… Còn tôi lại nghĩ mình phải làm một sản phẩm gì mang quốc hồn, quốc túy lại phải được tiêu thụ lớn nhất, phổ biến nhất tại Mỹ và cà phê chính là sản phẩm được chọn. Vì Việt Nam là nước duy nhất pha cà phê bằng phin nên cái tên Phin đã ra đời, còn cái tên Deli còn lại là “nửa việt nửa Mỹ”.

Sau khi chọn kinh doanh cà phê, ông Nguyên đã táo bạo đổi tên thị trấn Buford có lịch sử 147 năm của Mỹ thành thị trấn cà phê Việt PhinDeli, chuyên bán các sản phẩm cà phê Việt Nam. “Khỏi nói tôi đã làm người dân Mỹ nổi giận như thế nào khi tôi đổi tên thị trấn của họ. Tôi nhận được rất nhiều “comment” hăm dọa kiểu như “tôi đang lau súng chờ ông đến đây!” khi đó”, ông Nguyên kể lại.

“Tôi lúc đó như đang đi trên sợi dây cần giữ thăng bằng nên không được phép ngả về bên nào. Trong ngày lễ diễn ra sự kiện đổi tên tôi còn mua cả bảo hiểm và không dấu được sự hồi hộp vì tại Mỹ ai cũng có súng nên nếu tôi bị bắn thì “chết là chắc”. Truyền thông Mỹ cùng người dân Mỹ đến dự sự kiện rất đông và may là hôm đó không có tiếng súng nào hết!” – ông Nguyên cười nói.

PhinDeli chính thức ra đời từ đó và đã gặt hái không ít thành công trên đất Mỹ với sản phẩm truyền thống là cà phê rang xay, rồi tiếp theo là cà phê hòa tan, cà phê uống liền… Ông Nguyên chia sẻ: “Không phải sự táo bạo nào cũng mang lại kết quả. Nhưng nếu không làm bạn mãi mãi không biết mình làm được gì. Mua thị trấn Mỹ Buford là sự táo bạo rất cần như thế”.


Phạm Đình Nguyên cùng thương hiệu Phindeli trên chuyến du lịch nhanh vào vũ trụ ngày 28/9/2013 tại San Jose, Hoa Kỳ.

Theo vị thị trưởng thị trấn Buford (nay là PhinDeli), PhinDeli chính là câu chuyện của khát vọng, táo bạo và lo âu nhưng gộp lại tất cả nó là một câu chuyện đẹp về giấc mơ cà phê Việt trên đất Mỹ. “Cuối cùng tôi vẫn muốn chia sẻ với các bạn là các doanh nghiệp Việt Nam rằng, nên thử nghiệm ý tưởng sớm. Một là thất bại cho nhanh (để bắt đầu cái mới) và hai là triển khai nhanh để thành công lớn. Chần chừ cũng là đồng nghĩa với thất bại” – ông Phạm Đình Nguyên nói.

Cuối cùng điều ông Nguyên muốn đúc kết chính là: “Không có thương hiệu nào giống thương hiệu nào, không có cách thức chung xây dựng thương hiệu. Hãy tạo cho mình con đường đi riêng, tạo cho mình một cuộc chơi mới để đến được với đại dương xanh”.

Theo danviet.vn

Thứ Ba, 19 tháng 4, 2016

Cần ứng xử có văn hóa với thiên nhiên





Nằm ven bờ Biển Đông quanh năm cuồn cuộn sóng, đất nước ta đã và đang phải đương đầu với những cơn cuồng nộ của thiên nhiên nhằm trả thù hành vi dại dột của con người triền miên phá hủy môi trường sống của chính mình.
Những nguy cơ của biến đổi khí hậu và nước biển dâng đang trực tiếp tác động vào cuộc sống thường ngày của mỗi chúng ta. Đối diện với hiểm họa đó, ở phương Tây, sinh thái học từ một lĩnh vực triết lý trở thành một phong trào xã hội nhằm tái lập cuộc đối thoại giữa con người, xã hội với thiên nhiên mà thời đại công nghiệp đã phũ phàng vứt bỏ. Triết lý ấy lập luận rằng người, thiên nhiên và các sinh vật chỉ là những hình thái sống khác nhau mà thôi.

Một vị đại biểu của triết lý này, Michel Serres, quan niệm rằng: “Ta đánh mất vũ trụ(…). Ta biến tất cả sự vật thành hàng hóa…Vũ trụ (…) tự cống hiến nó cho chúng ta. Sẽ có sự bất công, sẽ có sự bất quân bình nếu ta nhận sự cống hiến đó một cách miễn phí, không trả lại cái gì cả. Sự công bằng buộc chung ta phải trả, ít nhất là ngang mức ta nhận, nghĩa là vừa đủ”.

Phát triển hướng tư duy đó, Aldo Leopold tiếp tục đưa ra một quan điểm đạo đức “Một việc là tốt, là thiện, nếu có khuynh hướng bảo tồn sự toàn vẹn, sự vững chắc và vẻ đẹp của cộng đồng sinh thái. Một việc là xấu, là ác, nếu trái lại!”

Lévi Strauss còn mạnh mẽ hơn, triệt để hơn khi ông phê bình gay gắt triết lý về chủ thể đã biến con người thành chúa tể thống trị một cõi riêng, giam con người trong lãnh địa văn minh của mình, tách biệt khỏi thiên nhiên vì thiên nhiên bị xem như “không có văn hóa”. Chỉ con người là có văn hóa, vì thế con người tách mình khỏi thiên nhiên. Cái luận đề đó hình thành đổng thời với quá trình đô thị hóa ở châu Âu, song song với đà phát triển văn minh công nghiệp đã cắt đứt con người thành thị ra khỏi giới tự nhiên. Kết quả, con người đã hủy diệt tất cả những gì không phải là chính mình, bắt đầu từ thiên nhiên ấy.

Nếu phương Tây phải tốn hai mươi thế kỷ để bắt đầu nhìn thấy và quyết liệt cảnh báo thì ở phương Đông, vấn đề ấy đã được đặt ra từ rất lâu, với ứng xử quen thuộc:Tương thân, tương ái, tương kính với thiên nhiên. Quan điểm ấy là xuyên suốt, chủ đạo trong triết học nhà Phật: “Cây cỏ, đất đá, đồi núi, tất cả yếu tố của vũ trụ đều có Phật tính”. Và rồi, văn hóa dân gian Việt Nam cũng biểu đạt triết lý ấy, nhưng giản đơn hơn: “Người ta là hoa của đất”.

Ở Việt Nam, còn vô khối câu ca dao cổ biểu tả sự gắn bó giữa con người với tự nhiên, chẳng hạn một chuyện tình: “Trèo lên cây bưởi hái hoa. Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân. Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc. Em có chồng rồi anh tiếc lắm thay. Ba đồng một mớ trầu cay. Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không. Bây giờ em đã có chồng. Như chim vào lồng, như cá cắn câu. Cá cắn câu biết đâu mà gỡ. Chim vào lồng biết thuở nào ra?”. Miễn cho lời bình về nỗi đắng cay uất ức trong lòng cô gái trước sự “tiếc lắm thay” nhạt hều của chàng trai, chỉ xin được nói về thiên nhiên ngập tràn trong tình yêu của đôi trai gái ấy:

Nào hoa bưởi, hoa tầm xuân, nào cây cà, cây bưởi, nào con chim, con cá… Cho dù có nỗi đau quằn quại của chim đã bị nhốt trong lồng, cá đã bị móc vào lưỡi câu oan nghiệt, câu chuyện lứa đôi kia vẫn ngạt ngào mùi hương hoa bưởi, vẫn “xanh biếc” màu xanh của “nụ tầm xuân” mới nở. Mà nào có gì cao xa đâu, cũng chẳng hề biết đến cuộc tranh luận về “triết lý chủ thể” và “triết lý về sự sống” [cho dù là cực kỳ cần thiết và phải biết trân trọng], đây là khung cảnh hết sức gần gũi và quen thuộc của cuộc sống làng quê đã từng xao động tâm hồn của mỗi chúng ta.

Thật ra, không tranh luận, nhưng nếu nói đến triết lý thì đây cũng là một triết lý tiềm ẩn trong tâm thức Việt đó là chữ “Hòa”. “Hòa” trong mối quan hệ giữa người với người, giữa người với thiên nhiên, hòa trong chính mình. Đây là một đặc trưng của tính cách phương Đông thể hiện trong lối sống và văn hóa Việt Nam. Triết lý ấy biểu hiện một nếp tư duy thiên về tổng hợp, kết hợp hơn là phân tích chia cắt, thiên về liên tục hơn là gián đoạn, thiên về tinh thần hơn là vật chất.

Đó là những gì ta cảm nhận từ lời mẹ dạy cho con, bà truyền cho cháu qua lời ru, qua cách ứng xử giữa đời thường. Sự cảm nhận ấy đã truyền đạt một cách dung dị hồn dân tộc trong cuộc sống, trong không khí để thở, trong gầu nước giếng mát để uống, trong mùi thơm của bát cơm gạo mới, vị ngọt của trái chín cây, mùi hương của hoa trong đêm… Đời này qua đời khác kết nối những cảm nhận ấy lại như một thứ “gien” di truyền, chìm sâu trong tâm thức của con người vốn đã sinh ra, hít thở khí trời, uống dòng nước mát, ăn bát cơm thơm trên đồng đất quê hương.

Trân trọng giữ gìn, chăm chút cảnh sắc thiên nhiên quanh ta, một gốc cây, một ngọn cỏ, một nhành hoa, một ngọn lá… là cả một ứng xử văn hóa. Ứng xử ấy cần trở thành một thói quen, một tập quán để định hình một lối sống, một cách sống. Trong cái xô bồ của cuộc sống hiện tại, phải thấy cho ra cái chữ “hòa” ấy trong cội nguồn văn hóa Việt Nam.

Thấy ra để làm gì? Để tự hào về ông cha mình, tự hào về dân tộc mình, đồng thời cũng thấy được những khiếm khuyết mà càng thêm day dứt vì chúng ta đã không thực hiện tốt lời răn dạy của ông cha. Đại Việt Sử ký Toàn thư, Bản kỷ, Quyển III, Kỷ Nhà Lý, triều Lý Nhân Tông, chép rằng: “Năm Bính Ngọ [1126] “Mùa xuân, tháng giêng mở hội đèn Quảng Chiếu bảy ngày đêm. Tha người có tội (giam) ở phủ Đô hộ. Cấm dân chúng mùa xuân không được chặt cây”. Bình về điều cấm này, giáo sư Cao Huy Thuần viết: “Luật của cây cối là: xuân sinh, hạ trưởng, thu thâu, đông tàn. Xuân sinh: hãy nhìn một lộc non vừa nhú lên trong mùa xuân, bao nhiêu là hạnh phúc, bao nhiêu là sức sống. Chặt cây cối trong mùa xuân là kết án tử hình sự sống. Chặt cây cối trong mùa xuân là kết án tử hình mùa xuân. Chưa bao giờ chân lý, thiện và mỹ được nâng cao đến mức ấy”.

“Được nâng cao đến mức ấy” tự bao giờ? Thưa rằng: từ cách đây gần 900 năm, non một thiên niên kỷ! Thì ra, trong sâu thẳm của triết lý nhân sinh, tư duy của loài người bắt gặp nhau ở những điểm tiệm cận trên vòng xoáy trôn ốc của tiến trình phát triển. Ông cha ta từ xa xưa đã có những phương cách bảo vệ môi trường sinh thái hữu hiệu, phù hợp với trình độ phát triển của kinh tế. Đây là mức độ có thể đo đếm được qua những chặng đường thời gian. Nhưng sự nông sâu trong triết lý, trong nguồn mạch của tư duy thì không dễ gì đo đếm một cách thô thiển và vụng dại được! Chính từ đây, từ cái mẫu số chung của thời đại mà suy ngẫm về sựbắt gặp và nối liền nguồn mạch của tư duy hiện đại với sâu thẳm cội nguồn của triết lý đã dẫn dắt, tạo dựng, bảo vệ và phát triển non sông gấm vóc ông cha bao đời để lại cho thế hệ chúng ta hôm nay.

Với quá trình đô thị hóa một cách xô bồ thiếu sự cẩn trọng cần thiết, rồi chuyện “công nghiệp hóa” tràn lan chưa có sự nghiêm túc và thật sự khoa học trong tính toán, lại “hiện đại hóa” nóng vội, bộc lộ sự thiếu hiểu biết, đã vô tình biến đất nước mình thành bãi thải công nghiệp, thành phòng thí nghiệm cho những “dự án” hàm hồ mà cái giá phải trả là rất đắt. Để rồi dòng người từ nông thôn hối hả chuyển vào đô thị gây nên sự quá tải ngày càng trầm trọng về cơ sở hạ tầng, về chất lượng văn hóa của cuộc sống. Xót xa nhất là dần dà nông thôn trở thành nơi không ai muốn ở, nông nghiệp đang là ngành ít ai muốn đầu tư, nền văn hóa làng, cội nguồn của bản sắc văn hóa Việt Nam đang bị mai một, những giá trị truyền thống bị phôi pha, các thế hệ tương lai sẽ bỏ rơi nông thôn.

Tuy nhiên, với một nền tảng văn hiến được xây cất trên một triết lý “người ta là hoa của đất”, nếu biết định hình một chiến lược phát triển đất nước coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển, thì sẽ tìm ra được một cách đi đúng, tránh những xô bồ chứa nhiều hiểm họa như hiện nay. Văn hóa chính là chìa khóa mở ra cánh cửa cho những giải pháp về kinh tế, xã hội trong sự phát triển của đất nước.

Để có thể là “chìa khóa”, phải thấy được văn hóa là một cấu trúc có bề sâu. Cuộc sống nhân sinh được phản chiếu ở cả bề nổi và bề chìm. Dưới tầng nước mặt, văn hóa được phân chia theo những tầng khác nhau, thường tiềm ẩn, kỳ bí vô cùng và tưởng chừng như vô thức. Ở độ sâu này, có một sự sắp xếp của các quy tắc văn hóa điều chỉnh bề mặt ở bên trên. Chính sự tiềm ẩn và tưởng như là vô thức này nằm chìm trong đời sống của dân tộc, làm nên bản lĩnh và cốt cách, tạo nên sức mạnh cho dân tộc ấy. Chính vì lẽ đó, vun đắp văn hóa không thể làm theo cách ăn xổi ở thì kiểu “mì ăn liền”. Văn hóa được hình thành theo quy luật thẩm thấu dài lâu.

Để vun đắp một nền văn hóa ứng xử với tự nhiên, phải biết “thăm dò cái gốc của nó, lại phải tưới tắm cái ngọn của nó, mở rộng cái nguồn của nó, lại phải buông lơi cái dòng của nó” như lời bàn của Nguyễn Văn Siêu, danh sĩ nổi tiếng Việt Nam cách đây gần hai thế kỷ. Muốn làm được việc này, phải có thời gian, đổng thời cần sự kiên tâm nhất định của những người làm công tác tuyên truyền, giáo dục.

<Theo congdanvietnam2

Chủ Nhật, 17 tháng 4, 2016

Tục thờ chó đá của người Việt







Trong quan niệm của người Việt xưa, chó là con vật trung thành và mang lại nhiều may mắn. Chó bình thường chỉ coi được phần dương, muốn canh giữ phần âm thì phải nuôi chó đá. Tục thờ chó được biểu hiện dưới nhiều hình thức. Người Việt thường chôn chó đá trước cổng như một linh vật với ý nghĩa cầu phúc, trừ tà hoặc đặt chó đá trên bệ thờ và coi như một bậc thần linh. Chó đá trong nhà thường nhỏ, mang dáng vẻ hiền lành, không to lớn như chó đá ở đình, đền, phủ.



Trong khi nhiều công sở, di tích đền chùa sử dụng linh vật ngoại lai để gác cửa thì ở nhiều địa phương người dân vẫn giữ tục chôn chó đá trước cửa, thậm chí thờ và kính cẩn gọi là cụ Thạch, Thần cẩu, quan lớn Hoàng Thạch. 

Trong quan niệm của người Việt xưa, chó là con vật trung thành và mang lại nhiều may mắn. Chó bình thường chỉ coi được phần dương, muốn canh giữ phần âm thì phải ''nuôi'' chó đá. Tục thờ chó được biểu hiện dưới nhiều hình thức. Người Việt thường chôn chó đá trước cổng như một linh vật với ý nghĩa cầu phúc, trừ tà hoặc đặt chó đá trên bệ thờ và coi như một bậc thần linh. Chó đá trong nhà thường nhỏ, mang dáng vẻ hiền lành, không to lớn như chó đá ở đình, đền, phủ.





Chó đá canh trước phủ quận công Nguyễn Ngọc Trì (Hát Môn, Phúc Thọ, Hà Nội) 

Phủ thờ quận công Nguyễn Ngọc Trì ở làng Hát Môn, xã Hát Môn (Phúc Thọ, Hà Nội) có 4 con chó đá, 2 con nghê đá, toàn bộ bằng đá xanh nguyên phiến. 4 con chó đá đặt trước và sau phủ gọi là thạch cẩu, hai chân trước đứng, chân sau như sắp nhổm lên sủa. Trước tượng chó đá có bát hương để thờ.



Ông Nguyễn Ngọc Toàn, con cháu họ Nguyễn Ngọc, cũng là người trông coi không biết những con chó đá này có từ bao giờ, chỉ biết thạch cẩu ngồi đây có ý nghĩa để canh gác cho phủ, giống như những con chó bình thường khác canh nhà cho người dân. "Chó đá có từ khi dựng phủ này vào thế kỷ 18, dòng họ Nguyễn Ngọc bao đời nay đều thờ cúng cẩn thận", ông Toàn cho hay.





Chó đá ở làng Địch Vĩ (Phương Đình, Đan Phượng)
được đặt trên bệ thờ lớn ở cạnh đình

Dân làng Địch Vĩ, xã Phương Đình (Đan Phượng, Hà Nội) thờ chó đá như một vị thần và gọi là quan lớn Hoàng Thạch. Con chó đá cao 1,4 m, đầu hướng về phía núi Ba Vì, dưới chân còn có một đàn chó nhỏ. Quan lớn Hoàng Thạch ngự ở giữa làng, bên cạnh đình và chùa Địch Vĩ. Trước đây, người dân thờ chó đá ở mô đất thấp. Sau này, họ xây bệ thờ và rước ngài lên, không xây cổng, tường bao quanh để ngày lễ, đầu tháng, ai cũng có thể thắp hương cầu bình yên, may mắn.



Những người cao tuổi nhất trong làng như ông Phạm Văn Toàn (84 tuổi) không biết con chó ở đó từ bao giờ. Chỉ biết trong tâm thức của người Địch Vĩ bao đời, con chó đá này chính là vị thần che chở, mang đến bình yên cho cả làng. "Có tiếng chó sủa thì ma quỷ không dám bén mảng tới nhà. Nuôi chó cũng chính là để đánh động cho người làng biết mỗi khi có giặc giã, trộm cướp", ông Toàn cho hay.
Chó đá đặt trong đình làng Phù Trung (Thượng Mỗ, Đan Phượng) lại được người dân gọi là thần cẩu hay hoàng thạch cẩu. Chó đá được đặt lên bệ thờ ở bên phải, vừa để trông coi đình, vừa được thờ cúng như một vị thần. Làng Phù Trung hình thành từ vài trăm năm nay, con chó đá trước được thờ ở gò đất đầu làng. Sau này gò bị phá, các cụ cao niên rước chó đá về đặt trong đình.

Ông Hà Văn Gia (82 tuổi), Trưởng ban di tích làng Phù Trung cho biết: "Mỗi khi làng có việc, các chủ tế xướng tên vị thành hoàng làng rồi sau đó là xướng đến thần cẩu. Nhiều đời nay, vị thần cẩu này cùng với các vị thành hoàng làng được dân thờ cúng cẩn thận, không dám lơ là".

Hình thức thờ chó đá khá phổ biến ở nông thôn, các vùng quanh Hà Nội như Hà Tây (cũ), Bắc Ninh, Bắc Giang, Hưng Yên… Sau năm 1954, ở mé nam ngã tư Trung Hiền (phố Đại La tiếp giáp với Minh Khai (Hà Nội) ngày nay) có con chó đá khá lớn trấn giữ nên nơi đây còn được gọi là cửa ô Chó Đá. Qua thời gian, chó đá không còn và tên cửa ô này chỉ tồn tại trong tâm trí rất ít người sống gần đó.

Ở mỗi vùng, hình thức thờ chó đá cũng khác nhau. Người Tày, Nùng một số nơi ở Lạng Sơn có tục chọn ngày tốt để đặt con chó đá trước cửa trông nhà và trừ tà ma. Với người Dao, hình ảnh con chó được biểu hiện trên trang phục. Người Pa Cô trong tộc người Cơ Tu còn kiêng giết thịt, coi con chó như vật tổ truyền. Ngày nay, người Việt một số nơi không chôn chó đá ở trước cửa nhưng vẫn mua chó gốm về để bày trong nhà, vừa xua đuổi tà ma, vừa làm vật trang trí.
Nhiều tài liệu lịch sử cũng ghi chép việc thờ cúng chó đá. Cuốn Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú viết "Nghi môn ở điện Lam Kinh có hai con chó đá rất thiêng" ở phần Dư địa chí ghi chép về trấn Thanh Hoa. Trong cuốn Việt Nam văn hóa sử cương, học giả Đào Duy Anh từng nhắc: "Xưa kia, cửa ngõ thường không làm đúng chính giữa nhà và sân để cho người ngoài đừng nhìn thẳng vào trung tâm nhà. Người ta cũng thường kiêng không để cho có con đường đâm thẳng vào nhà, hay là có đền chùa ở trước nhà. Nếu bất đắc dĩ không tránh được những điều kỵ ấy thì người ta chôn ở trước nhà một con chó đá hay là treo một cái gương ở trên cửa chính để yểm tà khí".

Giáo sư Ngô Đức Thịnh, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và bảo tồn văn hoá tín ngưỡng Việt Nam, ủy viên Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia, cho biết tục thờ chó đá đã có từ lâu. Thời vua Lý Công Uẩn đã cho dân lập đền thờ Cẩu Nhi ở hồ Trúc Bạch (Tây Hồ, Hà Nội). Đây là phong tục đẹp trong tín ngưỡng của người Việt, nên được gìn giữ và mở rộng.

Theo giáo sư Thịnh, chó đá, nghê đá là những con vật gần gũi với tâm linh người Việt, nên được dùng để thay thế sư tử ngoại lai trong một số đình, chùa hiện nay. "Chó canh cửa là điều hợp với thực tế cuộc sống, cũng là biểu tượng của điềm lành. Người xưa quan niệm chó đến nhà là tốt nên nhiều nơi thờ cúng không chỉ trước đây mà còn ở giai đoạn cận, hiện đại. Sư tử chủ yếu được người Trung Quốc dùng để canh lăng mộ. Mang sư tử về trước cơ quan, đình, chùa là việc học đòi mà không hiểu gì về văn hóa", giáo sư Thịnh phân tích.

(Theo VnExpress)


Thứ Năm, 14 tháng 4, 2016

Việt Nam: Quốc gia thành công hay thất bại?



Tác giả: Nguyễn Hải Hoành


Các chỉ tiêu đánh giá quốc gia thất bại

Từ năm 2005 trở đi, hàng năm tạp chí chính trị học nổi tiếng thế giới Foreign Policy (Chính sách Đối ngoại, xuất bản tại Mỹ) đều công bố Bảng Xếp hạng các quốc gia được đánh giá theo Chỉ số Quốc gia thất bại.[1]


Chỉ số Quốc gia thất bại (Failed States Index – FSI) do Quỹ Hòa Bình (Fund for Peace, một thinktank ở Mỹ, độc lập với tạp chí Foreign Policy) tổng hợp 90.000 nguồn dữ liệu định lượng khác nhau được công khai từ đầu năm đến cuối năm của gần 180 quốc gia trên thế giới, để gộp thành 12 thang điểm đo đạc từ mức độ phát triển kinh tế cho đến chỉ số về sự công bằng trong xã hội. Sau đó, tạp chí Foreign Policy công bố Bảng Xếp hạng các quốc gia được đánh giá theo Chỉ số quốc gia thất bại.


Quỹ Hoà bình đưa ra khái niệm chỉ số FSI nhằm để từ đó dùng phương pháp định lượng tìm ra các quốc gia thất bại.


Sở dĩ phải xác định quốc gia thất bại chủ yếu là do các quốc gia đó đang trở thành mối lo ngại cho cộng đồng quốc tế, nhất là lo ngại khi vạch chính sách ngoại giao đối với các quốc gia ấy. Quốc gia có chỉ số thất bại cao nhất là nơi có nền kinh tế yếu nhất, phát triển chậm nhất, nhiều bất công nhất, v.v.. Nói đơn giản, đó là nơi mà phần lớn dân có đời sống hàng ngày rất khó khăn, xã hội bất an; người dân phải phấn đấu để sống sót từng ngày, để được hưởng một chút tự do. Đó là những hoàn cảnh căn bản tạo nên một quốc gia có nhà cầm quyền thất bại.


Có 12 chỉ tiêu (Indicator) đánh giá, gồm 4 chỉ tiêu xã hội, 2 chỉ tiêu kinh tế, 6 chỉ tiêu chính trị. Mỗi chỉ tiêu được đánh giá theo thang điểm 10; điểm càng cao tức càng thất bại, điểm càng thấp thì càng thành công. Cộng điểm của 12 chỉ tiêu này lại được tổng số điểm đánh giá mức độ thất bại, tức FSI của quốc gia đó.


Chỉ tiêu xã hội gồm:

(I-1) Áp lực gia tăng số dân (Mounting demographic pressures, viết tắt DP);
(I-2) Sự di chuyển quy mô lớn dân tị nạn, tạo ra các tình huống nhân đạo khẩn cấp (Massive displacement of refugees, creating severe humanitarian emergencies, REF);
(I-3) Sự lan rộng các nhóm thù địch tìm cách trả thù nhau (Widespread vengeance-seeking group grievance, GG);
(I-4) Dân bỏ trốn để thoát cảnh khổ sống trong nước mình (Chronic and sustained human flight, HF).
Chỉ tiêu kinh tế gồm:


(I-5) Trình độ phát triển kinh tế không đồng đều theo các nhóm dân (Uneven economic development along group lines, UED);
(I-6) Suy thoái kinh tế nặng (Severe economic decline, ECO).
Chỉ tiêu chính trị gồm:


(I-7) Mức độ phạm tội và/hoặc phi pháp của chính quyền (Criminalization and/or delegitimization of the state, SL), còn được gọi là chỉ tiêu tham nhũng;
(I-8) Tình trạng suy thoái của các dịch vụ công (Deterioration of public services, PS);
(I-9) Sự trì hoãn hoặc tùy tiện trong việc áp dụng luật pháp và vi phạm nhân quyền một cách phổ biến (Suspension or arbitrary application of law; widespread human rights abuses, HR);
(I-10) Sự vận hành các cơ quan an ninh theo kiểu “nhà nước bên trong nhà nước” (Security apparatus operating as a “state within a state”, SEC);
(I-11) Sự gia tăng tình trạng giới tinh hoa chia bè kết phái (Rise of factionalized elites, FE);
(I-12) Sự can thiệp của các nước ngoài hoặc thế lực chính trị bên ngoài (Intervention of external political agents, EXT).
Trong bảng xếp hạng năm 2015, các quốc gia được chia làm 4 loại lớn theo tổng số điểm FSI:


Loại Báo động (Alert), – có FSI từ 90 điểm trở lên, là các nước thất bại nhất, kém ổn định nhất (trong đó còn chia làm Very High Alert, High Alert và Alert);
Loại Cảnh báo (Warning), – có FSI từ 60 đến dưới 90 điểm (trong đó còn chia làm High Warning, Warning và Low Warning);
Loại Ổn định (Stable), – có FSI từ 30 đến dưới 60 điểm, trong đó còn chia làm Less Stable, Stable và More Stable [trước đây gọi là Vừa phải Moderate];
Loại Bền vững (Sustainable), – có FSI dưới 30 điểm, là các nước thành công, ổn định nhất, trong đó còn chia làm Sustainable và Very Sustainable.
Như vậy tổng số điểm FSI càng nhỏ (thứ hạng càng thấp) thì càng thành công, và ngược lại, tổng số điểm FSI càng lớn (thứ hạng càng cao) thì càng thất bại. Năm 2015, Nam Sudan có FSI bằng 114,5 điểm và xếp hạng thứ 1, là quốc gia thất bại nhất thế giới, trong khi Phần Lan có FSI bằng 17,8 điểm và xếp hạng thứ 178, là quốc gia thành công nhất thế giới.


Theo thói quen, 60 quốc gia có tổng số điểm FSI cao nhất bị coi là nhóm quốc gia thất bại; các quốc gia còn lại không bị coi là thất bại.


Các quốc gia thất bại thường có một số đặc điểm chung, phổ biến nhất là mất sự kiểm soát lãnh thổ trên thực tế hoặc không thể hoàn toàn nắm được quyền hợp pháp sử dụng vũ lực. Tiếp theo là sự suy yếu khả năng quyết sách tập thể; không thể cung cấp cho nhân dân các dịch vụ công cộng thích hợp, không thể dùng tư cách thành viên chính thức của cộng đồng quốc tế để giao lưu với các quốc gia khác.


Mười hai chỉ tiêu nói trên hàm chứa nhiều nhân tố của quốc gia thất bại như tham nhũng nặng; các hành vi phạm tội; không có khả năng thu thuế hoặc khả năng được nhân dân ủng hộ; có số lượng lớn người buộc phải bỏ quê nhà tha phương cầu thực; nền kinh tế suy thoái nặng; sự bất bình đẳng giữa các cộng đồng dân cư; sự hãm hại nhân dân một cách có tổ chức hoặc phân biệt đối xử nghiêm trọng; sức ép dân số nặng; giới tinh hoa chia rẽ; môi trường sống bị phá hoại nặng.


Chỉ số FSI đầu tiên được đưa ra vào năm 2005, hồi ấy chưa có ai thật sự nghiên cứu về các quốc gia thất bại một cách có phương pháp. Trong 5 năm qua, việc đưa ra FSI và bảng xếp hạng quốc gia thất bại đã tạo lập được sự quan tâm của cộng đồng quốc tế đối với nhóm quốc gia này và tăng cơ hội thảo luận giữa các nhà quyết sách ở Mỹ và trên thế giới. Chỉ số FSI khiến họ chú ý đến các quốc gia thất bại, cách đối phó với những thể chế ấy, và các “căn bệnh” đặc biệt của mỗi quốc gia có nhà cầm quyền thất bại.


Bảng Xếp hạng quốc gia thất bại năm 2010

Bảng này được công bố trên tạp chí Foreign Policy số tháng 7-8/2010. Qua đó ta thấy có nhiều nước châu Phi thuộc nhóm 37 quốc gia loại “Báo động” (tức nguy hiểm vì bất ổn).


Somalia 3 năm liền đứng đầu bảng xếp hạng quốc gia thất bại với tổng số điểm FSI là 114,3. Nước này suốt 18 năm qua không có sự vận hành của bộ máy nhà nước, thiếu luật pháp, rối loạn, nạn cướp biển hoành hành, nhiều nhóm Hồi giáo vũ trang kiểm soát chặt các đường phố thủ đô Mogadishu, nội chiến liên miên, dân chúng không biết dân chủ là gì… Somalia đạt số điểm cao tuyệt đối (10 điểm) về 4 chỉ số : dân tị nạn nhiều; tham nhũng; tồn tại “nhà nước bên trong nhà nước”; và giới tinh hoa chinh bè kết phái.


Tiếp sau là Chad, Sudan, Zimbabwe, Cộng Hòa Congo, Afghanistan, Iraq, Cộng hòa Trung Phi, Guinea, Pakistan, Haiti, Bờ Biển Ngà (Ivory Coast), Kenya, Nigeria, Yemen, Myanmar, Ethiopia, Đông Timor, Bắc Triều Tiên, Niger thuộc số 20 quốc gia thất bại nhất. Hầu hết các quốc gia này đều nghèo đói, rối loạn, chính trị độc tài chuyên chế, nhiều người dân vì khổ cực phải bỏ nước ra đi.


Có những quốc gia nhờ cải thiện được một số chỉ tiêu nên thứ hạng tăng về phía tốt hơn. Như Sierra Leone và Liberia cách đây ít lâu thuộc Top 20 quốc gia thất bại nhất nay đã ra khỏi danh sách đó. Sri Lanka sau khi dẹp xong nhóm Con hổ giải phóng Tamil, từ thứ 22 năm 2009 nhảy lên thứ 25 năm 2010 (tăng 3 bậc về phía tốt). Cộng hòa Dominic cũng tăng 5 bậc.


Các quốc gia xếp ở cuối bảng (số thứ tự lớn nhất) là các quốc gia ổn định nhất, tốt nhất. Ở châu Á, quốc gia tốt nhất là Nhật Bản, xếp thứ 164, với tổng FSI bằng 31,3 điểm; thứ nhì là Singapore, thứ 160 với 34,8 điểm .


13 quốc gia thuộc loại Bền vững gồm: 10 nước châu Âu (có 4 nước Bắc Âu), 1 nước châu Mỹ, 2 nước châu Đại dương. Na Uy là quốc gia tốt nhất, xếp cuối bảng (thứ 177) với FSI thấp nhất, bằng 18,7 điểm. Tiếp đó đến: Phần Lan, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Ireland, Đan Mạch, New Zealand, Áo, Australia, Luxembourg, Hà Lan, Canada, Iceland (thứ 165).


Xếp hạng của các nước thành viên Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc như sau: tốt nhất là Anh – thứ 161, Pháp – 159, Mỹ – 158, Nga – 80, Trung Quốc – 62. Qua đây có thể thấy hai nền kinh tế lớn nhất nhì thế giới là Mỹ và Trung Quốc lại không được coi là quốc gia thành công bằng các quốc gia nghèo hơn.


Có một trường hợp đặc biệt: Trung Quốc năm 2009 bị xếp thứ 57, thuộc vào loại quốc gia thất bại, tức trong nhóm 60 nước có FSI lớn nhất (nhưng năm 2010 tăng 5 bậc về phía tốt hơn, ra khỏi nhóm quốc gia thất bại).


Vì sao một nước có nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới lại bị xếp vào nhóm quốc gia thất bại? Đó là vì Trung Quốc có chỉ số FSI lớn về các chỉ tiêu: – sức ép dân số (chỉ số Demographic Presures bằng 9, do có nhiều người di cư ra nước ngoài), – phân hóa giàu nghèo quá chênh lệch (chỉ số phát triển không đồng đều Uneven Development bằng 9,2), – tồn tại vấn đề nhân quyền (chỉ số Human Rights bằng 8,9),


Bảng Xếp hạng quốc gia thất bại năm 2015

Trong Bảng xếp hạng FSI năm 2015 có 38 nước thuộc loại Báo động. 87 nước thuộc loại Cảnh báo, 38 nước thuộc loại Ổn định và 15 nước thuộc loại Bền vững.


Trong 38 nước thuộc loại Báo động có 4 nước thuộc loại Báo động rất cao: Nam Sudan xếp loại cao nhất (114,5 điểm FSI, xếp thứ 1), rồi đến Somalia (114,6), CH Trung Phi (111,9), Sudan (110,8).


Trong 87 nước thuộc loại Cảnh báo, có 27 nước thuộc loại Cảnh báo cao, 42 nước loại Cảnh báo, 18 nước loại Cảnh báo thấp.


Trong 38 nước thuộc loại Ổn định có 12 nước loại Kém Ổn định, 15 nước loại Ổn định, và 11 nước loại Ổn định hơn.


Trong 15 nước loại Bền vững có 14 nước loại Bền vững và một nước loại Rất Bền vững tức Quốc gia bền vững nhất thế giới năm 2015 là Phần Lan, có tổng số điểm FSI bằng 17,8, rồi đến Thụy Điển (20,2), Na Uy (20,6), Đan Mạch (21,5). Trong các quốc gia Bền vững, có 2 nước ở châu Đại dương (Australia, New Zealand), một ở Bắc Mỹ (Canada), 11 ở châu Âu.


Xếp hạng của các nước Hội đồng Bảo an LHQ: Anh – 33,4 điểm, thứ 161 (tốt nhất); Pháp – 33,7, thứ 160; Mỹ – 35,3, thứ 158; Trung Quốc – 76,4, thứ 83; Nga – 80,0, thứ 65.


Xếp hạng các nước khối ASEAN như sau:

Singapore, 34,4 điểm, thứ 159, là quốc gia ổn định nhất châu Á, hơn Nhật, Hàn Quốc.
Brunei, 63,0 điểm, thứ 121.
Malaysia, 65,9 điểm, thứ 115
Việt Nam, 72,4 điểm, thứ 97.
Indonesia, 75,0 điểm, thứ 88.
Thái Lan, 79,1 điểm, thứ 71.
Lào, 84,5 điểm, thứ 55.
Philippines, 86,3 điểm, thứ 48.
Cam-pu-chia, 87,9 điểm, thứ
Myanmar, 94,7 điểm, thứ 27, tức kém ổn định nhất trong Asean.
Như vậy Lào, Philippines, Cam-pu-chia và Myanmar thuộc loại quốc gia thất bại.


Singapore là một trong ba quốc gia châu Á thuộc loại Ổn định hơn (More Stable), xếp cao hơn Mỹ một bậc. Hai nước kia là Nhật (36,0, thứ 157) và Hàn Quốc (36,3, thứ 156).


Việt Nam thuộc loại quốc gia Cảnh báo, nhưng xếp ở bậc tốt hơn Indonesia (75,0, thứ 88), Trung Quốc (76,4, thứ 83).


Đáng chú ý:


Nga được 80,0 điểm, thứ 65, gần sát loại quốc gia thất bại;
Cuba là nước có FSI được cải thiện nhanh nhất trong một thập niên qua: tổng số điểm FSI năm 2015 bằng 67,4 (giảm 3,4 điểm so 2014, giảm 10,4 điểm so 2010), xếp thứ 121, được xếp vào loại Low warning, bỏ xa Việt Nam.
Việt Nam: Quốc gia thành công thứ tư trong khối ASEAN


Năm 2010 Việt Nam xếp thứ 95 (tức tăng 1 bậc về phía tốt hơn so với năm 2009), như vậy là tốt hơn Ấn Độ (thứ 87), Thái Lan (81), Indonesia (61), Phillippines (51), Cam-pu-chia (40), Lào (40), Myanmar (16); chỉ kém Malaysia (110), Brunei (117), Singapore (160), nói cách khác, Việt Nam là quốc gia thành công thứ 4 trong 10 quốc gia thuộc khối ASEAN.


Năm 2015, Việt Nam vẫn giữ thứ hạng thành công như trên và trong bảng xếp hạng toàn cầu, Việt Nam tăng 2 bậc về phía tốt hơn.


Các chỉ tiêu của Việt Nam có số điểm như sau (trong ngoặc là số liệu năm 2010):


– DP: 6,1 (6,9); – REF: 4,7 (5,2); – GG: 6,5 (5,3); – HF: 5,6 (5,9); – UED: 5,5(5,9); – ECO: 5,8 (6,6); – SL 8,1 (7,3); – PS: 5,2 (6,4); – HR: 7,8 (7,3); – SEC: 5,1 (6,0); – FE: 6,9 (7,0); EXT: 5,1 (6,2);


Tổng cộng Việt Nam được 72,4 điểm (76,6), vẫn thuộc vào loại quốc gia cần được cảnh báo có nguy cơ thất bại. Có hai chỉ tiêu cao từ 7,0 trở lên, và tăng về phía xấu, đó là chỉ tiêu tham nhũng SL có số điểm là 8,1 (7,3); chỉ tiêu nhân quyền HR bằng 7,8 (7,3).


Dư luận một số nước châu Phi có phản ứng khi thấy nước mình bị xếp hạng xấu, cho rằng đây chỉ là cách đánh giá theo quan điểm phương Tây, còn đa số các nước không bình luận. Trung Quốc năm 2009 bị xếp hạng thuộc nhóm quốc gia thất bại nhưng cũng không có phàn nàn gì.


Qua đó có thể thấy phương pháp đánh giá quốc gia thất bại nói trên là tương đối khách quan. Bản thân nước Mỹ cũng không được xếp hạng tốt tương xứng với vị thế siêu cường số một. Dĩ nhiên, như mọi think tank khác của Mỹ, Quỹ Hoà bình và tạp chí Foreign Policy tiến hành nghiên cứu xếp hạng quốc gia thất bại trước hết nhằm phục vụ nhu cầu chiến lược của Washington, vì thế họ chỉ cần làm việc này một cách khách quan, khoa học chứ không cần quan tâm nhiều tới phản ứng của dư luận.


———-


Nguồn tham khảo:


– http://www.foreignpolicy.com;


– http://www.fundforpeace.org;


– https://en.wikipedia.org/wiki/List_of_countries_by_Fragile_States_Index


Kèm bảng xếp hạng 2015 lấy từ http://fsi.fundforpeace.org/rankings-2015


———–


[1] Gần đây thuật ngữ Chỉ số quốc gia thất bại đã được thay bằng thuật ngữ Chỉ số quốc gia dễ đổ vỡ (yếu kém), Fragile States Index (viết tắt vẫn là FSI), nhưng để tiện đối chiếu với số liệu các năm từ 2005 tới nay, ở đây chúng tôi vẫn dùng từ Chỉ số quốc gia thất bại.


- See more at: http://nghiencuuquocte.org/2016/04/12/viet-nam-quoc-gia-thanh-cong-hay-bai/#sthash.zuHMVU0S.dpuf

Chủ Nhật, 10 tháng 4, 2016

Người trẻ Việt thật giỏi






 

Chưa thể so với người Do Thái/Israel ở nước Mỹ và một số quốc gia công nghiệp hóa khác thường được coi là dân tộc rất thông minh, thành đạt ở nhiều lĩnh vực..., nhưng quả thật người Việt Nam xa xứ, hoặc bỏ xứ sở đi làm ăn, sinh sống ở nước ngoài đã có khá nhiều người được chỉ tên tuổi, điểm mặt là các anh tài.

Có thể nói không sợ sai sót rằng, bất cứ trong lĩnh vực nào cũng có mặt người Việt Nam đang định cư ở nước ngoài, cả ở những hoạt động chính trị là một môi trường chọn lựa gắt gao, cũng như trên các môi trường hoạt động về kinh tế, xã hội, khoa học và văn hóa nói chung đều đòi hỏi người có tài năng xuất sắc thì người Việt chúng ta đều tìm được, đạt được những chỗ đứng xứng đáng. Đôi khi có thể là chỗ đứng khá cao, rất cao trong xã hội Mỹ và phương Tây.

Về chủ đề tôi vẫn để tâm theo dõi này nhiều năm nay, trong hòm thư gần đây tôi nhận được từ bạn bè gửi cho bản danh sách đúng 8 con người danh giá như trên nói tới. Đặc biệt hơn nữa toàn bộ họ lại thuộc lứa tuổi trẻ mới lại càng đáng quý và trân trọng.

Chủ blog tôi xin trân trọng đưa lên đây để bạn bè và bà con cùng biết và chia sẻ một thông tin đáng vui mừng này.

Vệ Nhi

------



8 tài năng người Việt làm việc tại Google

Những bạn trẻ Việt thế hệ 8X, 9X đang ngày càng khẳng định chỗ đứng của bản thân trên trường quốc tế khi được “gã khổng lồ” công nghệ Google chào đón và công nhận.



Người đầu tiên phải kể đến “anh cả” Nguyễn Quang Dũng. Sau khi tốt nghiệp ĐH Georgia Insitute of Technology tại Mỹ, chàng trai được “ông lớn” Google nhận vào làm việc. Hiện tại, 8X là đồng sáng lập, giám đốc Minh Việt Hitech, tác giả của Garagames – một cổng chơi game online đang dần lớn mạnh.



Làm việc cho Google châu Á từ năm 2007 đến nay, Bạch Dương cũng là người Việt đầu tiên giữ chức vụ quản lý cho tập đoàn công nghệ Google. Anh hiện phụ trách một số dự án về điện thoại Android ở châu Á Thái Bình Dương.



Việt Anh là cháu trai của nữ liệt sĩ Đặng Thùy Trâm. Khi mới 22 tuổi, anh đã trở thành kỹ sư phần mềm ở Tập đoàn lớn tại Thung lũng Silicon. Năm 2010, được cả Facebook, Microsoft nhận vào làm việc, nhưng Việt Anh lại quyết định chọn Google.



Năm 2000, Thành Nhân đoạt giải nhất kỳ thi học sinh giỏi Tin toàn quốc. Năm 2010, 8X đầu quân cho “gã khổng lồ” Google. Anh hiện thuộc nhóm AdWords, làm việc trực tiếp với các công ty trả tiền quảng cáo.


Lê Viết Quốc bắt đầu làm việc ở tập đoàn này từ năm 2012. Đây là đại diện đầu tiên của Việt Nam vào top 35 nhà sáng tạo trẻ (dưới 35 tuổi) có những đóng góp hữu ích cho cộng đồng thế giới do tạp chíTechnology Review bình chọn . Công nghệ “Deep learning” của anh được Google sử dụng trong việc tìm kiếm hình ảnh và nhận dạng giọng nói. Hiện anhcònđảm nhiệm vai trò giáo sưở ĐH Carnegie Mellon (Mỹ).



Năm 2012, Tuấn Hưng thực tập tại NASA và Google. Quyết định chọn Google, anh có cơ hội làm việc cùng nhiều kỹ sư để cải thiện cách thức các video trên YouTube đến gần hơn với người khiếm thính. “Mình muốn đi Mỹ học tập và trong vòng 10 năm sẽ trở về Việt Nam. Ra đi cũng là để trở về”, chàng trai chia sẻ.



8X từng làm stylist, nhiếp ảnh và thiết kế cho tạp chí Elle, giám đốc điều hành của Zalora, có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực thương mại điện tử, truyền thông và tiêu dùng. Từ tháng 7/2015, Phương Anh chính thức chịu trách nhiệm giám sát và quản lý những hoạt động tiếp thị của Google trên tất cả sản phẩm cũng như chiến dịch thương hiệu.



9X giành cơ hội làm việc tại tập đoàn Google, với mức lương 6 số (USD)/năm. Trải qua 5 vòng phỏng vấn trực tiếp tại Australia, Hải Khánh đã ký bản hợp đồng để trở thành người của Google từ đầu năm 2017, làm việc ở xứ sở Kangaroo.