Hiển thị các bài đăng có nhãn Giáo dục. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Giáo dục. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 14 tháng 10, 2016

Thực trạng đáng buồn về việc dạy và học Văn ở trường phổ thông



NGUYỄN HOÀNG NGUYÊN (Cần Thơ)








Tôi là một giáo viên dạy Văn đã trên 20 năm. Đọc ý kiến của chị Chu Thị Hảo trên tạp chí Hồn Việt số 106 (tháng 8-2016), tôi cảm thấy không thể im lặng, vì vậy tôi mạn phép được trao đổi với chị Chu Thị Hảo. Tôi tin rằng những dòng tôi viết ra đây không phải chỉ là tâm sự của riêng tôi mà cũng là tâm sự của giáo viên dạy Văn cả nước, những người đang làm nhiệm vụ vô cùng cao quý là gieo mầm tinh hoa dân tộc cho nhiều thế hệ học sinh của mình… Nhưng làm cách nào để các em yêu Văn và say sưa với những áng văn hay của dân tộc như ngày xưa chúng tôi đã từng say mê… Điều đó thực quá khó!

Đọc bài viết của chị Chu Thị Hảo, tôi thấy chị toàn nói những điều chỉ đúng về mặt lý thuyết, đúng như trong “chủ trương đường lối” của Bộ Giáo dục và Đào tạo nhưng không hề đúng với thực trạng dạy Văn - học Văn đang diễn ra tại các trường phổ thông. Chị Chu Thị Hảo giảng dạy ở Trường bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý nên có lẽ chị không thực sự hiểu hết những bất cập, khiên cưỡng… đang diễn ra hằng ngày tại trường phổ thông. Người ta nói “Ở trong chăn mới biết chăn có rận”. Chỉ có những giáo viên ở trường phổ thông đang trực tiếp đứng lớp dạy (với đối tượng là học sinh đủ mọi thành phần, mọi trình độ) thì mới “thấm”, mới thấy hết mặt trái của nền giáo dục Việt Nam hiện nay.

Muốn áp dụng được những điều như chị Chu Thị Hảo nói (lấy học sinh làm trung tâm, học sinh là bạn đọc sáng tạo, học sinh phải vận dụng tri thức về lịch sử văn học, lý luận văn học, tri thức ngôn ngữ… để khái quát văn bản, học sinh được thực hành giao tiếp, đối thoại với nhau nhiều hơn...) thì ngành giáo dục phải thay đổi cách quản lý giáo viên và học sinh về mặt thời gian, cách đánh giá giáo viên, đánh giá học sinh cũng phải khác đi thì may ra mới “lấy học sinh làm trung tâm” được!

Dường như những cái mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đề ra chỉ mang tính “lý tưởng”, nếu không nói là “hoang tưởng”. Dù nó hay ho thế nào nhưng nếu không áp dụng được vào thực tiễn giảng dạy ở trường phổ thông thì cũng trở thành “lý thuyết suông” thôi.

Chị Chu Thị Hảo có nhắc lại những lần tập huấn thay sách giáo khoa (SGK) và đổi mới phương pháp dạy học. Xin thưa: Tôi vẫn nhớ những mốc thời gian đó vì mỗi lần “đổi mới” như vậy thì giáo viên chúng tôi phải đi tập huấn mấy tuần nhưng nó chẳng mang lại lợi ích gì cho việc giảng dạy ở trường. Các cán bộ cốt cán của Phòng GD-ĐT, của Sở truyền đạt lại những điều mà họ được tập huấn ở Bộ, họ cũng nói những điều giống như chị Chu Thị Hảo đã nói trong bài báo; nhưng những điều đó có áp dụng được vào thực tế giảng dạy hay không thì họ cũng không biết, vì họ hầu hết làm việc ở Phòng, ở Sở hoặc làm quản lý ở trường chứ không trực tiếp đứng lớp dạy học sinh.

Vào đầu mỗi năm học, mỗi giáo viên được phát một bản “Phân phối chương trình”, trong đó quy định thời gian dành cho từng bài học cụ thể (ví dụ: đoạn trích “Trao duyên” chỉ được dạy trong 1 tiết, đoạn trích “Chí Phèo” chỉ dạy trong 2 tiết…), giáo viên phải cố gắng gói ghém dạy làm sao đừng bị cháy giáo án, đừng bị thiếu thời gian theo quy định vì Ban giám hiệu yêu cầu “giữa việc ghi tên bài học vào Sổ đầu bài, vào Lịch báo giảng theo Thời khóa biểu phải trùng khớp với thời gian quy định giảng dạy trong Phân phối chương trình. Nếu giáo viên nào ghi những bản đó không trùng khớp với nhau thì khi kiểm tra sổ sách sẽ bị phê bình vì làm sai quy định của ngành…”.

Muốn giáo viên và học sinh phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo nhưng lại trói buộc về mặt thời gian như vậy đấy, rồi lại suốt ngày bắt làm sổ sách thật đầy đủ để Ban giám hiệu kiểm tra. Lại nữa, muốn hình thành cho học sinh thói quen tự học, tự tìm tòi sách báo để đọc thì phải tạo điều kiện về mặt thời gian và tư liệu tham khảo cho học sinh. Trong khi thư viện của trường chỉ lèo tèo mấy cuốn SGK, mấy bộ đề ôn luyện đại học, mấy cuốn sách giải bài tập, sách học tốt, còn tác phẩm văn học thì rất hiếm hoi… Giả sử học sinh có tiền để tự mua các tác phẩm văn học thì cũng đâu có thời gian mà đọc. Sáng học, chiều học, tối học, đến khuya còn phải thức để làm hết các bài tập Toán, Lý, Hóa… trong SGK và sách nâng cao. Đọc vào lúc nào? Khái niệm“tự học” và “văn hóa đọc” đối với học sinh phổ thông là một thứ xa xỉ!

Tại sao đến tiết Văn, giáo viên cứ phải “học thay”, phải “cảm thụ giùm” học sinh, phải “đọc chép”… chứ không tổ chức cho học sinh tự tìm tòi đọc sách, tự cảm thụ… là vì những lý do sau đây:

Thứ nhất, cả giáo viên và học sinh đều bị trói buộc về mặt thời gian.

Ví dụ: Trước khi học đoạn trích “Trao duyên”, giáo viên cũng giao cho học sinh về nhà tìm đọc tác phẩm Truyện Kiều và đọc kỹ đoạn trích “Trao duyên”. Nhưng hôm sau vào lớp, giáo viên hỏi các em đã đọc tác phẩm Truyện Kiều chưa thì chưa em nào đọc (kể cả đoạn trích trong SGK cũng chưa đọc). Hỏi tại sao thì các em đưa ra muôn vàn lý do: thư viện không có tác phẩm đó, chưa mua được, hôm qua em bận đi học cả ngày nên không tìm được sách để đọc v.v... Cuối cùng, thời gian không cho phép, giáo viên buộc phải dạy tiết Văn theo kiểu “độc thoại”, lại “cảm thụ giùm” học sinh, lại “đọc chép”… để kịp thời gian theo Phân phối chương trình và kịp phục vụ cho bài kiểm tra sắp tới.

Thứ hai, cả giáo viên và học sinh đều bị áp lực về kiểm tra, thi cử, điểm chác, thành tích.

Trong bản Phân phối chương trình có quy định rõ ràng về thời gian (ngày, tháng cụ thể) để làm bài kiểm tra. Một học kỳ có 4 bài kiểm tra 15 phút và 4 bài kiểm tra 90 phút. Vậy là trung bình tháng nào học sinh cũng phải làm 2 bài kiểm tra môn Văn. Kiểm tra, thi cử liên miên như thế thì chỉ lo dạy Văn - học Văn theo kiểu nhằm phục vụ cho thi cử, điểm chác, khiến cho tâm hồn khô cằn đi, chứ chẳng bồi đắp được gì.

Quy định ra đề cũng thật khiên cưỡng. Trường yêu cầu giáo viên phải ra đề theo cấu trúc: 3 - 7. Phần “Đọc - hiểu” chiếm 3 điểm thì có thể lấy ngữ liệu bên ngoài SGK, còn phần “Làm văn” 7 điểm thì bắt buộc học sinh phải phân tích hoặc cảm nhận một đoạn trích nào đó trong SGK mà học sinh đã được học. Cứ bắt buộc phải là đoạn trích đã được học rồi, chứ không được lấy đoạn trích khác của cùng tác phẩm đó. Trường còn yêu cầu giáo viên phải soạn Hướng dẫn chấm thật chi tiết, tỉ mỉ, phải cho điểm từng ý, phải đủ tất cả những ý như đã nêu, thiếu mất ý nào thì sẽ trừ điểm ý đó. Khi chấm bài thì trường quy định “chấm chéo”, tức là giáo viên lớp này chấm bài lớp kia. Vì giáo viên lớp này chấm bài của học sinh lớp khác nên họ cứ dựa vào “đáp án” để cho điểm chứ không sửa lỗi chính tả, câu cú, cách lập luận cho học sinh, họ cũng chẳng cần biết em học sinh đó có cố gắng, có tiến bộ hơn trước kia hay không.

Muốn giáo viên dạy Văn phải trở thành nghệ sĩ trên bục giảng thì trước tiên đừng ép giáo viên phải dạy Văn theo kiểu phục vụ cho kiểm tra, thi cử như thế! Bởi vì “thi sao thì học vậy”. Nếu muốn tổ chức cho học sinh học theo phương pháp mới thì trường đừng chạy theo thành tích nữa, đừng quá đặt nặng chuyện điểm chác mà hãy hướng đến cái đẹp của văn chương đã mang lại cho cuộc sống.

Có trực tiếp đứng lớp ở trường phổ thông thì mới thấy được những “chiêu” gian lận, đối phó… của giáo viên và học sinh hiện nay.

Trước tiên, nói về việc giáo viên dạy tiết thao giảng để cả Tổ Văn và Ban giám hiệu dự giờ. Một số giáo viên vì sĩ diện nên đã bày trò gian dối khi dạy tiết thao giảng. Trong tiết đó, họ “diễn xuất” khá đạt nhưng nguy hiểm ở chỗ là họ tự dối mình, dối đồng nghiệp và bày cho học trò nói dối. Trước khi thao giảng, giáo viên đó đã gặp học sinh để “gà bài”, “mớm bài” cho học sinh, đưa sẵn câu hỏi và đáp án trả lời cho học sinh. Lúc Ban giám hiệu và các giáo viên vào dự, thấy tiết học được tổ chức “quá tốt” thì khen (nào là theo đúng tinh thấn đổi mới, áp dụng được phương pháp dạy học tích cực vì suốt cả tiết học này giáo viên không cần phải giảng, không phải đọc chép mà học sinh tự làm hết, tự tìm hiểu tác phẩm, chuẩn bị bài ở nhà rất tốt, học sinh thảo luận với nhau theo nhóm rồi lên trình bày trước lớp…). Những tiết dạy “diễn kịch” như thế vẫn diễn ra thường xuyên ở các trường, vẫn được Ban giám hiệu khen nức nở, chỉ có học sinh và đồng nghiệp là đều “biết tỏng” cả rồi! Thế nhưng, khi đã dạy tiết thao giảng xong, qua buổi học hôm sau thì giáo viên đó lại mang cái bài đã dạy trong tiết thao giảng để dạy lại cho thật kỹ với lý do là“hôm trước dạy thao giảng, các em tự làm việc, cô không bắt chép bài nhưng hôm nay cô sẽ giảng lại bài hôm trước đã học để các em chép được đầy đủ hơn vì bài này có nằm trong đề kiểm tra sắp tới”.

Thao giảng, dự giờ, thi giáo viên giỏi, kiểm tra sổ sách, đánh giá xếp loại thi đua… đã khiến cho giáo viên ngày càng gian dối và tìm mọi cách đối phó với cấp trên. Chưa hết, hằng năm giáo viên phải nộp chuyên đề, sáng kiến kinh nghiệm. Lại thêm trò gian dối!

Khi nhà trường yêu cầu nộp “sáng kiến kinh nghiệm”, nếu tôi viết ra những cái chính mình đã áp dụng, ngắn gọn chừng 4-5 trang thì Ban giám hiệu chê là sơ sài. Còn một số giáo viên khác cóp pi đề tài của người khác ở trên mạng thì được khen là khoa học, công phu vì dài tới 20 trang. Điều đáng sợ là năm nào giáo viên cũng phải nộp “sáng kiến” nên họ đã trở nên “chai sạn”, không biết xấu hổ khi “đạo văn” nữa. Giáo viên mà như thế thì không cần nói nhiều cũng biết học sinh ra sao rồi!

Chị Chu Thị Hảo khá lạc quan khi đưa ra dẫn chứng là hai học sinh Đỗ Nhật Nam và Nguyễn Thị Thu Trang để kết luận rằng hai em này là sản phẩm tuyệt vời của nền giáo dục nước nhà, là đại diện cho học sinh Việt Nam. Tại sao chị chỉ nhìn vào vài trường hợp đặc biệt, vào loại “thần đồng” để rồi tung hê lên rằng chất lượng giáo dục của ta như vậy là quá tốt? Tại sao chị không xuống trường phổ thông mà khảo sát để thấy hàng trăm, hàng ngàn học sinh khác tuy đã học tới lớp 12 nhưng kiến thức không hơn một học sinh lớp 3? Những học sinh yếu kém này là sản phẩm của bệnh thành tích, của phổ cập giáo dục (vì phải đạt chỉ tiêu phổ cập nên nhiều em còn “mù chữ” cũng bị đẩy lên lớp, phải hoàn thành việc phổ cập thì mới có cái để báo cáo thành tích).

Lại nữa, theo thầy Võ Văn Khởi ở Tiền Giang, khi gửi thư góp ý với Bộ trưởng Bộ GD-ĐT, mỗi năm giáo viên và học sinh phải tham gia 15 cuộc thi thuộc loại phong trào, điều này càng tạo thêm áp lực cho giáo viên và học sinh. Giáo dục quá nặng về phong trào còn thực chất bên trong thì chỉ có người đứng lớp mới rõ hơn ai hết.

Về việc biên soạn SGK Ngữ văn thì chị Chu Thị Hảo ca ngợi hết lời, nào là khoa học, nào là hợp lý vì nó đảm bảo yêu cầu tích hợp ngang, tích hợp dọc… Vâng! Nhưng nó chỉ hợp lý trên giấy tờ thôi. Còn khi giảng dạy trên lớp thì giáo viên mới thấy được những cái bất hợp lý. Tại sao những tác phẩm kinh điển như Truyện Kiều, Những người khốn khổ, Tam quốc diễn nghĩa… thiếu gì đoạn hay không trích mà lại chọn đoạn khô khan, kém hấp dẫn nhất trong tác phẩm để trích? Muốn học sinh đọc SGK thì nội dung sách phải hấp dẫn chứ, đằng này học sinh vừa mới cầm sách lên, xem qua đoạn trích đã thấy chán rồi thì còn đâu hứng thú để tìm đọc trọn vẹn tác phẩm nữa? Chúng ta cứ phê phán học sinh ngày nay lười đọc sách, kể cả SGK môn Văn cũng không chịu đọc, nhưng đã bao giờ chúng ta tự hỏi là tại sao lại như vậy?

Tôi nghĩ rằng thực tế dạy Văn ở trường tôi chắc cũng không khác những trường phổ thông khác vì cùng chung một quy chế như nhau. Những hiện tượng này đã từng bị phê phán trong phim truyền hình Rừng chắn cát phát sóng ở VTV, một bộ phim về giáo dục mà giáo viên chúng tôi rất tâm đắc. Trong một môi trường sư phạm mà những nhà quản lý giáo dục chỉ thích phô trương và chạy theo thành tích, còn giáo viên và học sinh thì tìm mọi cách để đối phó, để gian lận thì nền giáo dục đó làm sao mà vươn lên được… Đó là sự thật đau lòng của nền giáo dục chúng ta nhiều năm nay, báo chí cũng nói nhiều, nhưng vẫn chưa có dấu hiệu chuyển biến.

Chủ Nhật, 4 tháng 9, 2016

Chữ Hán không phải là tiếng Hán


Chữ Hán không phải là tiếng Hán




Một ngôn ngữ bao giờ cũng gồm tiếng nói (âm) và chữ viết. Tiếng Việt ta là một thứ tiếng riêng biệt trên thế giới, dù từ vựng mượn hơn 60% từ tiếng Hán. Còn chữ viết, hiện chúng ta dùng hệ chữ Latin (a, b, c) – bỏ hệ chữ tượng hình như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc…


Bàn về tham luận “đề nghị dạy chữ Hán trong nhà trường để giữ gìn tiếng Việt và văn hóa Việt Nam” gây nhiều tranh cãi, ông Đoàn Lê Giang có bài viết nêu rõ quan điểm của mình để những người ngoài chuyên môn (Ngôn ngữ học) cũng hiểu được.

Chữ Hán là gì?

Chữ Hán là chữ được sinh ra từ nền văn hóa Trung Hoa cổ đại, vào nước ta từ đời Hán (đầu công nguyên), được các thế hệ cha ông ta Việt hóa nó, đọc bằng âm Hán Việt (tương tự như Hàn Quốc có âm Hán Hàn, Nhật Bản có âm Hán Hòa (Onyomi).

Chữ Hán đã tạo nên 60-70% vốn từ vựng tiếng Việt. Ví dụ: Hà Nội hoàn thành chỉnh trang đền Ngọc Sơn và cầu Thê Húc, thì có lẽ 100% là từ gốc Hán các thời khác nhau. Chữ Hán là loại chữ tượng hình, chữ Sơn (山) giống núi, chữ Hỏa (火) giống lửa…

Có người cho là nên dùng chữ Nho cho khỏi nhầm. Dùng cũng được, nhưng nó không chuẩn, vì chữ ấy không chỉ dùng trong các văn bản Nho giáo, mà cả Phật giáo, Đạo giáo và cả những văn hóa khác. Có người nói nên dùng chữ Hán Nôm. Không được, vì trên đời không có chữ đó, mà chỉ có chữ Hán và chữ Nôm.

Vậy chữ Hán là nói tắt của chữ Hán cổ đọc theo âm Việt. Cách nói này rất phổ biến, và được giới nghiên cứu mặc nhiên thừa nhận. Vậy chữ Hán không phải là tiếng Hán, càng không phải Trung văn.

Tại sao chúng ta nên học chữ Hán?

Vì hai lý do. Lý do thứ nhất: chúng ta muốn hiểu sâu được tiếng Việt thì chúng ta cần biết gốc gác tiếng Việt ra sao, tra cứu thế nào.

Ví dụ: từ Minh Tâm, nghĩa là sáng lòng, vì chữ Minh là sáng. Nhưng học trò thắc mắc thế U Minh thì là gì, sáng tối à? Không, “Minh” trong trường hợp này lại là “Tối”. U Minh là mờ mịt. Học trò lại hỏi: Thế Đồng Minh là cùng sáng à? Không, Đồng Minh là cùng phe, vì nó xuất phát từ nghĩa: cùng hội thề. Vì chữ Minh là Thề.



Vậy làm thế nào để cô giáo trả lời học sinh những câu hỏi ấy, làm thế nào cho học sinh không hỏi cô mà cũng biết được? Có hai cách:

Cách 1. Học âm Hán Việt, tự tra từ điển tiếng Việt. Đa số những người giỏi tiếng Việt hiện nay đều hình thành bằng con đường ấy. Nhưng thực ra họ cũng không thật tự tin vì từ ngữ thì vô bờ, sai đúng lẫn lộn, người ta không thể tự tin hoàn toàn được.

Cách 2. Học chữ Hán để có ấn tượng là chữ Hán rất nhiều từ đồng âm, nhiều nghĩa khác nhau. Sau đó biết cách tra từ điển. Từ điển chữ Hán có nhiều loại, rất phức tạp, phải học để có một chút vốn liếng mới tra được. Bằng cách này người ta có thể tự tra cứu, tự học tiếng Việt suốt đời.

Lý do thứ hai: học chữ Hán để cho chúng ta hiểu được văn hóa Việt Nam, chúng ta cảm thấy gắn bó với ông cha. Vì từ trước khi bỏ chữ Hán hoàn toàn vào đầu Thế kỷ 20, toàn bộ di sản văn hóa Việt Nam được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm (một thứ chữ được hình thành từ chữ Hán). Chúng ta học chữ Hán để chúng ta hiểu sâu tiếng Việt, từ đó có thể hiểu được vốn văn hóa Việt Nam.

Văn hóa cổ dù có được dịch ra tiếng Việt, như các công trình của Lê Quý Đôn chẳng hạn, nếu không có vốn chữ Hán nhất định, đọc vẫn rất khó hiểu.

Đọc Truyện Kiều, nếu có biết chữ Hán, chữ Nôm thì mới hiểu thấu đáo cái hay của nó. Chúng ta nếu có biết chút ít chữ Hán thì đến các di tích văn hóa (đình chùa miếu mạo), nhìn một tập thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, chúng ta không thấy xa lạ, không thấy mình là “những đứa con thất cước của giống nòi” (chữ của Hoài Thanh).

Học chữ Hán có dễ không?

Học để trở thành học giả uyên thâm dịch được sách vở cổ thì rất khó, nhưng học để biết một số chữ, để biết tra từ điển Hán Việt, từ đó có thể tự học tiếng Việt suốt đời thì rất dễ. Vì người học chỉ học có hai kỹ năng: đọc, viết, mà không phải học kỹ năng nghe, nói. Đồng thời học chữ Hán như xem tranh, như học ghép hình rất dễ nhớ và thú vị.

Chúng ta là người Việt Nam, văn hóa chúng ta là văn hóa Đông Á, coi trọng gia đình, sống cần kiệm, đề cao đức liêm chính, hiếu kính, hiếu học…Tất cả những điều ấy có xấu không, có nên bỏ không, và có bỏ được không? Phương Tây cũng có điều ấy, đạo đức phương Tây được hình thành từ Cơ Đốc giáo và văn hóa truyền thống của họ, còn đạo đức chúng ta thì từ văn hóa bản địa và văn hóa Đông Á (Nho giáo, Đạo giáo của Trung Quốc, Phật giáo của Ấn Độ).

Những điều ấy được các bậc hiền triết phương Đông nói rất hay và từ rất sớm, các sách vỡ lòng chữ Hán ngày xưa vừa dạy chữ, vừa dạy người thông qua các sách đó rất thú vị và dễ nhớ. Vậy chúng ta có nên học một chút tinh hoa từ đó qua sách chữ Hán nhập môn không?

Nếu chúng ta chỉ lo đuổi theo phương Tây, bằng lòng với thứ ngôn ngữ trong các hộp thoại, tin nhắn với các ký tự lổn nhổn, tiếng Anh lẫn tiếng Việt thì rõ ràng nguy cơ làm giảm sự trong sáng tiếng Việt, mai một văn hóa truyền thống còn cao hơn rất nhiều.

Nguồn Vietnannet.vn

Thứ Hai, 6 tháng 6, 2016

Có nên để khẩu hiệu “Tiên học Lễ, hậu học Văn” trong nhà trường nữa không?


 Lễ là những nghi thức hình thức về giao tiếp giữa các ngôi thứ trong một tổ chức, trong một xã hội; giữa các tổ chức; giữa con người với tự nhiên và thế giới vô hình.

Tác giả: Ths Võ Thanh Vân



Nhà trường nên chú trọng dạy Lễ, nhưng trong buổi sinh hoạt dưới cờ ở vài tuần đầu tiên chứ không nên treo trên nóc trường như vòng kim cô ràng buộc học sinh.
Trông cậy gì ở tương lai khi người lớn “Tam bất” như thế? Lời chúc mới nhất tri ân thầy cô nhân ngày Nhà giáo Việt Nam Chấn hưng Giáo dục: “Đạo đức” học đường, nhất định phải thay đổi!


LTS: Từ năm 1973, giáo sư Nguyễn Lân, trên tạp chí Văn hóa nghệ thuật, đã nêu lên: “Có nên vận dụng phương châm: “Tiên học lễ, hậu học văn” trong việc giáo dục thế hệ trẻ của ta ngày nay không?”.

Sau năm 1975, khẩu hiệu đó đã được kẻ ở hầu hết các trường phổ thông trong cả nước.

Ảnh hưởng của lễ giáo Nho học, khẩu hiệu trên mang ý nghĩa tốt đẹp của môi trường giáo dục.

Nó như một lời nhắc nhở mỗi học sinh và giáo viên khi đã bước chân vào ngành giáo dục thì điều đầu tiên phải học là học về lễ độ, về cách ứng xử.

Tuy nhiên, trong bài tham luận của mình, nhà Nghiên cứu phê bình Văn học Lại Nguyên Ân cho rằng: “Việc sử dụng lại khẩu hiệu “Tiên học lễ hậu học văn” từ hơn chục năm nay, theo tôi, chỉ nên được xem là giải pháp tình thế. Đã đến lúc nên chấm dứt. Nếu cần khẩu hiệu, hãy gắng tìm lấy từ nguồn thuần Việt” đã gây nên tranh luận xoay quanh vấn đề này.

Hôm nay, trong bài viết này, Ths Võ Thanh Vân (hiện đang công tác tại TP.Hồ Chí Minh) với nhiều năm kinh nghiệm trong ngành giáo dục và có nhiều trăn trở với định hướng giáo dục sẽ trình bày quan điểm của mình về vấn đề này.

Có nên tồn tại khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” trong nhà trường hay không là một đề tài hấp dẫn và quan trọng, nó góp phần định hướng giáo dục nước nhà.

Đề tài này đang gây tranh luận, chưa có hồi kết. Là một nhà giáo lâu năm và có nhiều trăn trở với định hướng giáo dục, tôi xin được tham gia, trình bày quan điểm của mình.


1. Hai quan điểm trái chiều hiện nay:
Thứ nhất: Cần duy trì khẩu hiệu này trong nhà trường:

Những người theo quan điểm này hiểu và lập luận tương tự hai tác giả Huỳnh Minh Đức và NGƯT-TS Phạm Văn Khanh, như sau:

Tác giả Huỳnh Minh Đức cho rằng: “Học Lễ” thuộc về dục, tức là học cái gốc để làm người, phân biệt hẳn với giáo, là cái học làm nghề. . .

Phải dục cái Lễ trước vì nó là cái gốc; “Lễ chính là GIỮ KHOẢNG CÁCH LUÂN LÝ”; Lễ nhắc nhở và dạy chúng ta tiếp xúc như thế nào cho tròn bổn phận của mỗi một nhân đạo, của mỗi một cặp nhân luận và kết luận:

Câu “Tiên học Lễ” phải treo trong trường học chính là kêu gọi người thầy nên chú trọng việc dạy cho trẻ con biết rằng cái học làm người là quan trọng hơn, là cái gốc của cái học làm nghề”.[1]

Có nên tồn tại khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” trong nhà trường hay không? (Ảnh: laodong.com.vn)


Còn NGƯT-TS Phạm Văn Khanh dẫn từ điển Hán Việt, định nghĩa: “Lễ là cái khuôn mẫu đã được định ra thành phép tắc từ quan, hôn, tang, tế, đi đứng, nói năng, ứng xử…”

Nhưng sau đó nâng cao quan điểm: “Hiểu rộng hơn thì “Tiên học lễ, hậu học văn” là: Trước tiên phải học lễ nghĩa, đạo đức làm người, sau đó học văn tự, chữ nghĩa của thánh hiền hoặc hiểu gọn hơn: Học làm người trước, học tri thức sau”.

Và kết luận: “Từ “Tiên học lễ – hậu học văn” đến “Dạy chữ, dạy người, dạy nghề” và “Học để biết, học để làm việc, học để làm người, học để sống chung” là một quá trình biến đổi, tiến hóa và hiện đại hóa một quan niệm căn bản về giáo dục ở nước ta.

Trong suốt tiến trình đó, lịch sử đã chỉ ra rằng kiến thức, kỹ năng và tính chuyên nghiệp ngày càng quan trọng nhưng vấn đề cốt lõi, tinh hoa của giáo dục nước ta vẫn là dạy người, học làm người”. [2]

Một số tác giả khác cho rằng: “Lễ là văn minh, văn hóa, kỉ cương phép cư xử trong gia đình và xã hội, là những nền tảng luân lí, nền tảng tổ chức gia đình, xã hội, quốc gia, là sự phân định tôn ti trật tự với những khuôn phép được công nhận và thực thi”.



Chữ lễ đâu phải của riêng học trò, thầy cô cũng phải học

(GDVN) – Ứng xử lịch sự, có văn hóa là điều ai cũng cần phải học và luôn phải rèn luyện hàng ngày mới có được. Điều này, càng trở nên quan trọng hơn với thầy cô giáo.


Hoặc mở rộng phạm vi của Lễ sang thế giới động vật, môi trường . . . để kết luận về sự cần thiết của khẩu hiệu “Tiên học Lễ- hậu học văn” trong trường học

Thứ hai: Không nên duy trì khẩu hiệu này trong nhà trường

Các tác giả theo quan điểm này chủ yếu cho rằng khái niệm “Lễ” không được xác định một cách chính thống, mỗi người tự hiểu theo kiểu của mình.

Đồng thời, đó là châm ngôn của một nền giáo dục lạc hậu, không còn thích hợp với giáo dục hiện đại.

Để minh chứng, tôi xin trích dẫn câu của dịch giả Phạm Anh Tuấn, người dịch cuốn Democracy and Education (Dân chủ và giáo dục) của John Dewey, trả lời phỏng vấn của Thời báo kinh tế Sài Gòn rằng:

“Trẻ em học trong lúc chúng tự thực hành và trong lúc chúng được tự mình sống cuộc sống thực đang diễn ra ngay hôm nay. Hãy bỏ hai khẩu hiệu. Khẩu hiệu thứ nhất là: “Tiên học lễ hậu học văn”. Khẩu hiệu thứ hai là: “Học để làm người””.[3]

Hoặc, như tác giả Nguyễn Ngọc Lanh trong bài “Xin thôi học “lễ””:

“Chúng ta chưa rõ “lễ” là gì, mà cứ hô hào học nó trước, thì đành để mỗi người tự suy ra – dù có cơ sở hay không?

Nếu (giả sử) nội dung “lễ” đã được xác định rất cụ thể với sự đồng thuận cao thì vẫn có hai điều chắc chắn:

1) Nó sẽ quá xa khái niệm gốc do đức Khổng Tử đề ra, khiến mọi người thắc mắc: Hà cớ gì phải mượn chữ “lễ” của thánh nhân để gọi một khái niệm hoàn toàn mới mẻ;

2) Chắc chắn Bộ Giáo dục chẳng dại gì mà đưa vào chương trình phổ thông để dạy cho kỳ được mục tiêu “lễ”. Thế thì tại sao cứ “tiên học lễ” lấy được?”. [4]



Trách nhiệm giáo dục bây giờ thuộc về ai, nhà trường, gia đình hay xã hội?

(GDVN) -Trách nhiệm giáo dục thuộc về ai? Gia đình, nhà trường hay xã hội? có nhiều người đổ lỗi cho đó là bị tác động bởi “mặt trái của kinh tế thị trường”.


Nhiều lý do khiến cần bỏ “tiên học lễ” như đã đề cập ở trên nhưng lý do bao trùm và cơ bản là nó thể hiện một triết lý giáo dục quá cũ kỹ, lạc hậu.

Cần minh định rằng, bản thân “tiên học lễ” không có lỗi gì nhưng nó không còn vai trò tích cực như dưới thời phong kiến và văn minh nông nghiệp nữa.

2. Đề xuất định nghĩa “Lễ”
Theo tôi, để giải quyết tất cả các vấn đề liên quan đến “Lễ”, ta cần định nghĩa rõ khái niệm “Lễ” trước.

Vì từ “Lễ” là từ cổ nên muốn hiểu từ “Lễ” ta cần khảo cứu những thư tịch cổ, đặc biệt là kinh, thư. Hiểu được nguyên ngữ rồi thì chúng ta mới có thể mở rộng khái niệm cho phù hợp với thời đại (với điều kiện là được sự chấp thuận của cơ quan quản lý ngôn ngữ chính thống hoặc được sự đồng thuận của số đông quần chúng).

a. Từ “Lễ” trong các thư tịch cổ

Trong các thư tịch cổ, từ Lễ xuất hiện sớm nhất trong 3 bộ sách về Lễ, gọi là Tam Lễ và phát biểu của 2 đại tông sư Đạo học Đông phương: Khổng Tử và Lão Tử.

– “Lễ” trong Tam lễ: Tam lễ gồm Chu Lễ, Kinh Lễ và Nghi Lễ.

Theo Wikipedia: “Chu lễ là tên gọi của bộ sách xuất hiện vào thời Chiến Quốc ghi chép về chế độ quan lại cùng những tập tục lễ nghi của đời Chu.

Nội dung của Chu lễ rất phong phú, đồ sộ, bao gồm các chế độ luật lệ, quy phạm hành vi và nghi thức lễ tiết của các mặt chính trị, kinh tế, quân sự, pháp luật, hôn nhân gia đình, đạo đức luân lý và phong tục tập quán của Trung Quốc cổ đại.

Trong Chu lễ có rất nhiều quy định, do nhà nước cưỡng chế thi hành có hiệu lực pháp luật – Vì thời Tây Chu chưa phải là thời pháp trị nên chưa có pháp luật (tác giả).[5]

Kinh Lễ, còn gọi là Lễ ký, là một kinh trong bộ Ngũ Kinh của Khổng Tử, ghi chép các lễ nghi thời trước. Chu Hy soạn sách Chu Tử gia lễ, cho rằng Lễ ký chỉ dùng để giải thích Nghi lễ. [6]

Nghi lễ ghi chép các loại lễ nghi trước thời Tần, trong đó chủ yếu ghi chép lễ nghi của sĩ đại phu. Nghi lễ ghi chép tường tận về chế độ cung thất, trang phục, ẩm thực, tang lễ thời cổ đại”. [7]

-“Lễ” theo Khổng Tử: Trong thiên Thái Bá của Luận ngữ, Khổng Tử nói: “Lập ư Lễ, hưng ư Thi, thành ư Nhạc”.[8]

Nghĩa là: Muốn tạo lập (một guồng máy nhân sự, một mối quan hệ) thì phải dùng Lễ, xây dựng hệ thống Lễ; muốn guồng máy này trở nên thịnh phải dùng Thơ; muốn hoàn thành mỹ mãn phải dùng Nhạc.

-“Lễ” theo Lão Tử: Chương 38 Đạo Đức Kinh, Lão tử viết:

“. . . . Thượng lễ vi chi nhi mạc chi ứng, tắc nhương tí nhi nhưng chi. Cố thất đạo nhi hậu đức, thất đức nhi hậu nhân, thất nhân nhi hậu nghĩa, thất nghĩa nhi hậu lễ. Phù lễ giả, trung tín chi bạc, nhi loạn chi thủ”. [9]

Nghĩa là: Người đề cao Lễ thì khi giữ lễ mà không được đáp lại thì xắn tay áo, trừng mắt. Cho nên mất Đạo mới cần đến Đức, mất Đức mới cần đến Nhân, mất Nhân mới cần đến Nghĩa, mất Nghĩa mới cần đến Lễ. Lễ là lớp vỏ mỏng của sự Trung Tín và là đầu mối của hỗn loạn.

– Theo từ điển Hán Việt, Lễ là cái khuôn mẫu đã được định ra thành phép tắc từ quan, hôn, tang, tế, đi đứng, nói năng, ứng xử…

b. Đề xuất định nghĩa Lễ

Từ các khảo văn trên, nếu tách các quy định có tính cưỡng chế thi hành trong Chu Lễ sang luật pháp, ta thấy rất rõ ràng nghĩa của từ Lễ ngày xưa:

Lễ là những nghi thức HÌNH THỨC (ngôn ngữ, động tác, thái độ khuôn mẫu mà mọi người phải làm theo) giao tiếp giữa các ngôi thứ trong một tổ chức, trong một xã hội; giữa các tổ chức và giữa con người với thế giới vô hình (thần linh).



Trông cậy gì ở tương lai khi người lớn “Tam bất” như thế?

(GDVN) -Cho rằng “Trông cậy gì ở tương lai khi thế hệ trẻ dã man như thế” là vội vàng? hãy đặt vấn đề ngược lại “Trông cậy gì ở tương lai khi người lớn Tam bất như thế”


Tôi muốn nhấn mạnh đến từ HÌNH THỨC, nghĩa là loại trừ những nội hàm mà nhiều người gán ghép vào nghi thức giao tiếp ra khỏi từ Lễ, dành nghĩa gian cho các từ khác. Ví dụ:

– Con đối với cha mẹ phải đi thưa về trình, hành động, ngôn ngữ phải cung kính . . . là Lễ.

Nhưng tận tình chăm sóc khi cha mẹ đau yếu, không quản thân mình bảo vệ cha mẹ khi hoạn nạn thì không còn là Lễ nữa; đó là Hiếu.

– Vợ chồng phải xem nhau như khách (tương kính như tân) là Lễ; nhưng xa nhau vài bữa thì nhung nhớ không nguôi thì không còn là Lễ nữa, đó là Tình yêu.

– Trò gặp Thầy phải cúi đầu khoanh tay, Thầy vào lớp học trò phải đứng dậy, phát biểu phải dạ thưa . . . là Lễ. Nhưng khi thầy đau yếu, hoạn nạn trò hết lòng giúp đỡ; hết học rồi vẫn nhớ công ơn của Thầy . . . thì không còn là Lễ nữa, đó là Nghĩa.

– Khi giao tiếp với người trong xã hội phải bắt tay là Lễ; nhưng nói năng, cử chỉ đúng mực, thái độ ôn hòa thì không là Lễ nữa, đó là Nhã.

– Vào chùa lạy Phật, tụng kinh là Lễ; nhưng có tin những lời kinh mình đọc hay không không phải là Lễ nữa, đó là Tín

Nói rõ hơn, nếu ta lập trình cho một người máy những nghi thức giao tiếp nào đó thì dù nội hàm của các giao tiếp chỉ là số 0, nhưng người máy này vẫn là mẫu hình Lễ độ nhất, không bao giờ có sai sót trong giao tiếp.

Ngày nay, ta cần mở rộng khái niệm Lễ ra thiên nhiên:

– Đi công viên, chợ hoa không giẫm đạp lên hoa, cỏ là Lễ với hoa, cỏ; nhưng say mê một chậu hoa nào đó đến luyến tiếc không thể rời đi thì không còn là Lễ nữa mà là yêu hoa.

– Không xả rác ở bờ biển là giữ Lễ với biển, nhưng nhặt rác ở bờ biển, dù đó không phải là nhiệm vụ của mình, thì không còn là Lễ nữa, đó là yêu biển và quang cảnh biển.

Cố ý xả nước thải xuống biển không còn là Vô Lễ với biển và động vật biển nữa, đó là tàn phá môi trường; yêu thương, chăm sóc và xả thân chống những kẻ phá hoại để bảo vệ biển thì không còn là Lễ nữa, đó là Tình yêu thiên nhiên, là bảo vệ môi trường.

Với các lập luận trên, tôi đề xuất định nghĩa từ Lễ cho ngày nay: Lễ là những nghi thức hình thức về giao tiếp giữa các ngôi thứ trong một tổ chức, trong một xã hội; giữa các tổ chức; giữa con người với tự nhiên và thế giới vô hình.

3. Vấn đề khẩu hiệu “Tiên học Lễ, hậu học Văn” trong Nhà trường

Thống nhất định nghĩa về Lễ như trên ta sẽ dễ dàng hiểu được quan điểm của Khổng Tử và Lão Tử:

Một tổ chức, một xã hội, một mối quan hệ mà không có Lễ thì giao tiếp sẽ hỗn loạn tôn ty, không có cơ chế ràng buộc nhau nên sẽ không hoạt động và không tồn tại được.



Giáo dục hiện tại đang trở thành “bàn cờ trong thiên hạ”?

(GDVN) – Khẩu hiệu Tiên Học Lễ – Hậu học Văn vẫn cần phải duy trì trong xã hội vì lý do tầng lớp thanh thiếu niên của Việt Nam vẫn còn rất nhiều điểm cần giáo dục về nhân cách. Chữ Lễ ở đây không chỉ bó gọn chữ Lễ trong đạo Khổng như một số ý kiến phản biện.


Nhưng nếu chỉ chăm chăm vào Lễ thì tổ chức, xã hội, mối quan hệ ấy chỉ có một lớp vỏ mỏng hình thức, không có một nội hàm tốt đẹp nào, có tồn tại cũng như không.

Do đó, cơ quan, tổ chức, xã hội, mối quan hệ nào chưa có Lễ thì dứt khoát phải thiết lập và thượng tôn Lễ (đặt Lễ lên cao).

Cơ quan, tổ chức, xã hội, mối quan hệ nào đã hoàn thiện Lễ thì phải quên Lễ đi để các chú trọng vào phẩm hạnh quý giá của con người, những tình cảm ấm nồng của mối quan hệ và những năng lực chuyên môn khác, nếu không chúng sẽ bị xem nhẹ dần và có thể mất đi vĩnh viễn.

Áp vào trường học và khẩu hiệu “Tiên học Lễ – Hậu học Văn”, có hai vấn đề cần cân nhắc: Trường nào cần treo khẩu hiệu này và trường cấp nào cần treo khẩu hiệu này?

Trường nào cần treo khẩu hiệu này: Theo lập luận trên, không kể là trường ở cấp nào, nếu chưa thiết lập được một cách vững vàng các nghi thức giao tiếp trong trường thì phải thượng tôn Lễ và treo khẩu hiệu cho đến khi Lễ hoàn thiện.

Trường nào đã hoàn thiện các nghi thức giao tiếp thì nên bỏ đi để thượng tôn những đức hạnh khác, kỹ năng khác có hiệu quả trong việc tạo dựng nhân cách và nghề nghiệp hiện đại hơn thay vì cứ chăm chăm vào cái vỏ hình thức Lễ.

Theo tôi, tất cả các trường bậc THCS và THPT, đặc biệt là THPT, phải gấp rút hoàn thiện Lễ cho học sinh ngay những ngày đầu vào trường và nhanh chóng gỡ bỏ khẩu hiệu “Tiên học Lễ – Hậu học Văn” xuống.

Nếu không, chúng ta có nguy cơ sẽ đào tạo ra những thế hệ con ngoan trò giỏi chỉ biết khoanh tay, cúi đầu và tuân phục.

Tôi muốn nói rằng nhà trường nên chú trọng dạy Lễ, nhưng trong những buổi sinh hoạt dưới cờ trong vài tuần đầu năm học chứ không treo trên nóc trường như vòng kim cô ràng buộc học sinh suốt đời.

Quyết định này (treo hay không treo biển “Tiên học Lễ – Hậu học Văn”) tùy thuộc rất nhiều vào hiểu biết về Lễ và các đức tính khác trong nhân cách con người của lãnh đạo nhà trường và hội đồng giáo dục.

Do đó, hơn ai hết, lãnh đạo nhà trường và hội đồng giáo dục nhà trường cần học và nghiên cứu Lễ một cách thấu đáo để hành xử chính xác.

Vấn đề trường cấp nào cần treo khẩu hiệu “Tiên học Lễ – Hậu học Văn” là một vấn đề chuyên sâu về tâm lý lứa tuổi, tôi xin đề xuất trong một bài viết khác, bài viết về các đức tính cần giáo dục ở từng lứa tuổi học trò

Tài liệu tham khảo:

[1]. http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/

[2]. http://sgddt.tiengiang.gov.vn/

[3]. http://www.thesaigontimes.vn/65884/Dich-gia-Pham-Anh-Tuan-Giao-duc-Viet-Nam-se-chuyen-minh-neu-biet-lang-nghe.html

[4]. http://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/hoc_le-f.html.

[5] https://vi.wikipedia.org/wiki/Chu_l%E1%BB%85

[6]. https://vi.wikipedia.org/wiki/Kinh_L%E1%BB%85

[7]. https://vi.wikipedia.org/wiki/Nghi_l%E1%BB%85

[8]. Khổng tử, Luận ngữ.

[9]. Lão tử, Đạo đức kinh.

http://giaoduc.net.vn/Van-hoa/Co-nen-de-khau-hieu-Tien-hoc-Le-hau-hoc-Van-trong-nha-truong-nua-khong-post168439.gd

Thứ Bảy, 28 tháng 5, 2016

Albert Einstein bàn về giáo dục



Giáo dục tương tự như bức tượng cẩm thạch đứng trong sa mạc và liên tục bị đe dọa chôn vùi bởi cát chảy. Luôn cần có những bàn tay chăm sóc để bức tượng cẩm thạch ấy tiếp tục tỏa sáng trong ánh Mặt trời. Tôi thấy mình cũng cần góp bàn tay vào chăm sóc bức tượng ấy.

Xưa nay nhà trường bao giờ cũng là phương tiện quan trọng nhất để chuyển giao sự phong phú của truyền thống từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ngày nay, điều này thậm chí còn rõ ràng hơn so với các thời đại trước đây, bởi vì trong sự phát triển của đời sống kinh tế hiện đại, chức năng chuyển giao truyền thống và giáo dục của gia đình đã suy yếu đi nhiều. Do vậy sự tiếp diễn lành mạnh của xã hội loài người vẫn phải tùy thuộc vào học đường với tầm quan trọng còn to lớn hơn cả trước đây.hiều khi người ta nhìn nhận mục tiêu của nhà trường đơn giản chỉ là chuyển giao một khối lượng tối đa tri thức nào đó cho thế hệ trẻ. Điều này không đúng. Tri thức có tính xơ cứng và bất động, trong khi học đường phục vụ cho những con người sinh động. Nhà trường phải giúp từng cá nhân phát triển những phẩm chất và năng lực có giá trị đối với lợi ích chung của cộng đồng. Nhưng điều này không có nghĩa là cá tính sẽ bị triệt tiêu và cá nhân trở thành công cụ đơn thuần của cộng đồng như là con ong hay cái kiến. Bởi lẽ một cộng đồng gồm những thành viên bị tiêu chuẩn hóa cũng như thiếu vắng sự độc đáo và mục đích cá nhân sẽ là một cộng đồng nghèo nàn, không có khả năng phát triển. Trái lại, mục tiêu của giáo dục phải là huấn luyện cho cá nhân đạt đến hành động và suy nghĩ độc lập, đạt đến chỗ nhận thức rõ ràng ý nghĩa quan trọng nhất trong đời sống của mình là phục vụ cộng đồng. Theo nhận xét của tôi, hệ thống trường học của người Anh đã đạt đến gần lý tưởng này hơn cả.

Nhưng làm cách nào để đạt được lý tưởng ấy? Liệu có thể thực hiện mục tiêu vừa nói bằng cách răn dạy những bài giảng đạo đức? Không thể được. Ngôn từ là- và chỉ là – những âm thanh rỗng tuếch; con đường dẫn đến diệt vong từng được đồng hành bởi những lời lẽ đầu môi chót lưỡi về lý tưởng. Nhưng nhân cách không hình thành từ những gì được nghe và nói, mà từ hành động và lao động không ngừng.

Do đó, biện pháp quan trọng nhất của giáo dục bao giờ cũng phải nhất quán với những giá trị có thể thôi thúc con người đạt tới thành tựu thực sự. Điều này đúng với việc tập làm văn của một em học sinh tiểu học, cũng như luận văn tốt nghiệp của một vị tiến sĩ; đúng với việc học thuộc lòng một bài thơ, viết một bài tiểu luận, dịch một đoạn văn, cũng như giải quyết một vấn đề toán học, hay tập luyện một môn thể dục thể thao.

Đằng sau mọi thành tựu luôn có một động cơ làm nền tảng, và đổi lại, động cơ được nuôi dưỡng và củng cố nhờ sự hoàn tất mỹ mãn các nhiệm vụ. Ở đây, có những khác biệt to lớn, và đồng thời, những khác biệt ấy đóng vai trò quan trọng bậc nhất đối với giá trị giáo dục của nhà trường. Động cơ đưa đến thành tựu có thể là sự sợ hãi và cưỡng bách, là khát vọng quyền uy và danh tiếng, là lòng say mê tìm hiểu, là khao khát chân lý và tri thức, là tính hiếu kỳ mà mọi đứa trẻ lành mạnh đều có, nhưng thường sớm lụi tàn. Ảnh hưởng của giáo dục đối với học sinh thông qua việc thực hiện một nhiệm vụ có thể rất đa dạng; tùy thuộc vào việc những thứ như sự sợ hãi hình phạt, nỗi đam mê vị kỷ, những khao khát khoái lạc và sự thỏa mãn có tồn tại đằng sau công việc mà đứa trẻ thực hiện hay không. Không ai có thể khẳng định rằng việc quản lý của nhà trường và thái độ của người thầy không tạo ra một ảnh hưởng nào đến việc hun đúc nền tảng tâm lý của học sinh. Đối với tôi, điều tệ hại nhất của nhà trường chủ yếu là việc dùng sự khiếp sợ, cưỡng bách, và quyền hành giả tạo làm phương pháp giáo dục. Cách thức đối xử như thế sẽ hủy hoại những cảm xúc lành mạnh, lòng trung thực và tính tự tin nơi học sinh. Nó sản sinh ra loại người chỉ biết phục tùng. Không có gì ngạc nhiên khi loại trường học đó đã tạo ra nền cai trị của nước Đức và nước Nga. Tôi cho rằng trường học ở Hoa Kỳ cũng như ở Thụy Sĩ và nhiều quốc gia khác đã tránh được điều này. Biện pháp để có thể giữ trường học không rơi vào tình trạng độc đoán và tệ hại trên xem ra cũng tương đối giản đơn. Hãy giảm đến mức thấp nhất các biện pháp cưỡng bách trong uy quyền của người thầy, để cho nguồn gốc duy nhất của lòng tôn sư nơi học trò là phẩm chất trí thức và nhân cách của người thầy giáo.

Hai là, động cơ, khát vọng, hay nói một cách nhẹ nhàng hơn, mong muốn được thừa nhận và quan tâm, vốn sẵn có trong bản chất con người. Không có tác nhân kích thích tinh thần này, sự hợp tác của con người sẽ hoàn toàn không thể thực hiện được; ước vọng được nhìn nhận chắc chắn là một trong các mãnh lực ràng buộc quan trọng nhất của xã hội. Trong mối cảm xúc phức hợp này, hai lực lượng xây dựng và phá hủy luôn nằm kề cận bên nhau. Ước mong được tán thành và nhìn nhận là một động cơ lành mạnh, nhưng khao khát được người khác thừa nhận rằng ta là một cá nhân giỏi hơn, mạnh hơn và khôn ngoan hơn những cá nhân khác rất dễ dẫn đến tâm lý vị kỷ thái quá, có thể làm tổn thương cá nhân và cộng đồng. Do đó, nhà trường và người thầy phải cảnh giác trước việc áp dụng những biện pháp dễ dãi để tạo ra tham vọng cá nhân nhằm khuyến khích tính chuyên cần của học sinh.

Lý thuyết Darwin về đấu tranh sinh tồn và chọn lọc tự nhiên đã được nhiều người mang ra biện giải như một khái niệm có thẩm quyền trong việc khuyến khích tinh thần cạnh tranh. Một số người cũng bằng phương thức này đã cố gắng chứng minh một cách ngụy biện về mặt khoa học sự thiết yếu của hành động cạnh tranh kinh tế có tính chất loại bỏ lẫn nhau giữa các cá nhân. Nhưng điều này hoàn toàn sai lầm, bởi vì con người có được sức mạnh trong cuộc đấu tranh sinh tồn là nhờ vào sự thật hiển nhiên rằng chúng ta là một sinh vật có đời sống hợp quần. Chỉ có rất ít cuộc giết nhau của những con kiến trong tổ là cần thiết cho sự tồn vong; và đối với từng cá nhân trong cộng đồng nhân loại cũng như vậy.

Vì vậy, chúng ta nên cảnh giác việc in vào tâm trí những người trẻ tuổi rằng thành công là mục đích của cuộc đời; bởi vì người thành công thường là kẻ nhận được nhiều từ đồng loại của mình, và những gì anh ta nhận lại thường không tương ứng với những gì anh ta xứng đáng nhận nhờ phục vụ cộng đồng. Giá trị của một người là ở những gì người ấy cho đi, chứ không phải những gì người ấy có khả năng nhận được.

Động cơ quan trọng nhất trong học tập và đời sống chính là niềm vui có được qua công việc, niềm hạnh phúc khi gặt hái thành quả và khi nhận thức giá trị của thành quả đối với cộng đồng. Tôi cho rằng nhiệm vụ quan trọng nhất của học đường là khơi dậy và củng cố sức mạnh tâm lý này trong thanh niên. Chỉ một nền tảng tâm lý như thế mới dẫn đến khát vọng cao thượng trong việc giành lấy những thành tựu cao cả nhất của con người, đó là tri thức và kỹ năng thẩm mỹ.

Đánh thức sức mạnh tâm lý hữu ích này chắc chắn dễ hơn là cưỡng bách hay khơi dậy tham vọng cá nhân, mà lại có giá trị hơn nhiều. Vấn đề là phát triển khuynh hướng giống như trẻ con đối với các hoạt động vui chơi và khát vọng thơ ngây trong việc nhận thức, đồng thời hướng dẫn học sinh tiếp cận các lĩnh vực kiến thức quan trọng của xã hội. Giáo dục chủ yếu được thiết lập dựa trên khát vọng thành công và ước muốn được thừa nhận. Nếu nhà trường đạt được hiệu quả theo quan điểm như thế, nó sẽ được người học tôn trọng và các bổn phận mà nhà trường giao phó cho họ sẽ được tiếp nhận như một món quà. Tôi đã biết những đứa trẻ thích được đi học hơn nghỉ hè.

Loại nhà trường như vậy đòi hỏi người thầy phải là một nghệ sĩ trong địa hạt chuyên môn của mình. Điều gì có thể góp phần xây dựng tinh thần này trong nhà trường? Có một biện pháp chung và đơn giản cho vấn đề này, cũng như cho việc duy trì và phát triển các đức tính tốt đẹp nơi cá nhân. Tuy nhiên, có một số điều kiện cần thiết nhất định mà ta có thể đáp ứng được.

Trước tiên, người thầy phải được trưởng thành trong những ngôi trường như thế. Kế đến, họ phải được tự do lựa chọn kiến thức và phương pháp giảng dạy. Có một thực tế không thể phủ nhận là lòng yêu nghề sẽ bị giết chết bởi những sức mạnh áp chế từ bên ngoài.

Nếu quý vị đã chăm chú theo dõi xuyên suốt những ý tưởng của tôi đến đây, thì chắc cũng sẽ thắc mắc ở một điểm. Tôi đã phát biểu trọn vẹn, theo ý kiến riêng của mình về việc thanh niên nên được giáo dục trong một bối cảnh tinh thần như thế nào. Nhưng tôi không nói gì về sự lựa chọn môn học và phương pháp giảng dạy. Giáo dục nhân văn hay giáo dục khoa học và kỹ thuật nên chiếm ưu thế?

Đối với câu hỏi này, tôi xin trả lời như sau: theo ý kiến của tôi, tất cả những gì thuộc về vấn đề này đều nằm ở tầm quan trọng thứ cấp. Nếu một chàng trai đã tập thể dục và đi bộ để rèn luyện sức chịu đựng của cơ bắp và thể chất của mình, tức là chàng ta sẽ có đủ sức khỏe cho mọi công việc lao động chân tay. Điều này cũng tương tự việc rèn luyện tinh thần và kỹ năng. Vì vậy, không có gì sai khi định nghĩa giáo dục như sau: “Giáo dục là những gì còn lại khi người ta đã quên hết mọi điều được học ở nhà trường”. Vì lẽ đó, tôi không lo về chuyện phải đứng bên nào trong cuộc xung đột giữa những người ủng hộ trường phái giáo dục nhân văn cổ điển và những người đề cao nền giáo dục ưu tiên khoa học tự nhiên.

Mặt khác, tôi muốn phản đối ý tưởng cho rằng nhà trường phải trực tiếp giảng dạy kiến thức và đem lại những thành quả cụ thể mà người học sau đó lập tức sử dụng được ngay trong cuộc sống. Cuộc sống có những yêu cầu đa dạng đến nỗi việc đào tạo như thế khó lòng có thể đem lại thành công cho học đường. Ngoài ra, đối với tôi, hơn thế, thật đáng chê trách khi xem cá nhân như một công cụ vô tri. Mục tiêu của nhà trường luôn luôn phải là mang lại cho thanh niên một nhân cách hài hòa, chứ không phải chỉ giúp họ trở thành một chuyên viên. Điều này, theo tôi, trong ý nghĩa nào đó, cũng hoàn toàn đúng đối với các trường kỹ thuật, những trường mà người học sẽ dành trọn cuộc đời mình cho một nghề nghiệp chuyên môn cụ thể. Việc phát triển khả năng tổng quát về suy nghĩ và xét đoán độc lập, luôn luôn phải được đặt lên hàng đầu, chứ không phải việc thu nhận những kiến thức cụ thể. Nếu một người nắm vững yếu tố cơ bản của các môn học và biết cách tự suy nghĩ và làm việc độc lập, chắc chắn anh ta sẽ tìm được lối đi cho chính mình, và ngoài ra, sẽ có khả năng thích nghi với sự tiến bộ và những đổi thay của hoàn cảnh tốt hơn những kẻ được đào tạo chủ yếu để gom góp những kiến thức vụn vặt.

Cuối cùng, tôi muốn nhấn mạnh một lần nữa rằng những gì được phát biểu tại đây, dưới một hình thức không có ý nghĩa nào khác hơn là ý kiến cá nhân, đã được hình thành chỉ từ những kinh nghiệm mà tôi thu thập được trong vai trò của một sinh viên và thầy giáo.

Nguồn: Albert Einstein, Out of My Later Years, Philosophical Library Inc., New York, 1950.

Thứ Sáu, 27 tháng 5, 2016

4 nguyên tắc giáo dục vĩ đại



Tác giả: Theo Sound of Hope | Dịch giả: Minh Nữ



Ảnh: Secretchina

Nguyên tắc thứ nhất: Nguyên tắc bể cá

Cá vàng vùng nhiệt đới được nuôi trong bể thì tối đa chỉ dài khoảng 30cm, dù có nuôi lâu thế nào cũng không thể lớn hơn. Nhưng nếu đem loại cá này mà thả xuống ao thì chỉ hai tháng sau con cá ban đầu 30cm có thể dài đến 34cm.

Giáo dục trẻ nhỏ cũng giống như vậy, trẻ nhỏ muốn phát triển thì cần có không gian tự do. Cha mẹ mà quá bao bọc giữ gìn thì chẳng khác nào nhốt con vào “bể cá”, đứa trẻ lớn lên trong “bể cá” thì vĩnh viễn không thể thành con cá lớn.

Nếu muốn trẻ nhỏ phát triển khỏe mạnh rắn rỏi, nhất định phải cho chúng không gian hoạt động tự do, chứ đừng để chúng loanh quanh trong cái “bể cá” mà cha mẹ xây nên. Thuận theo tiến bộ xã hội, kiến thức đời sống cũng gia tăng hàng ngày, người làm cha mẹ cần phải hạn chế áp đặt những tác động và ý kiến cá nhân của mình, và cung cấp cho đứa trẻ không gian tự do để phát triển.

Nguyên tắc thứ hai: Nguyên tắc con sói

Sói là loài động vật có tính hiếu kỳ mạnh nhất trong giới tự nhiên, chúng không bao giờ coi bất cứ điều gì là đương nhiên, mà có khuynh hướng tự mình khám phá và thể nghiệm, thế giới tự nhiên mê hoặc và mới mẻ sẽ mãi mãi khiến chúng ngạc nhiên sửng sốt. Con sói luôn có hứng thú với hoàn cảnh xung quanh, chúng có thể liên tục phát hiện thức ăn, đoán biết được nguy hiểm, nhờ thế mà có khả năng sinh tồn mạnh mẽ.

Vì vậy, muốn bồi dưỡng năng lực học tập mạnh mẽ cho trẻ nhỏ, nhất định phải khơi gợi tính hiếu kỳ và ưa khám phá của chúng. Hãy hướng cho chúng quan sát cuộc sống một cách tỉ mỉ, lấy hứng thú làm mục đích của học tập. Đứa trẻ được giáo dục như vậy trên đường đời sau này sẽ trở thành một ngôi sao sáng, trong công việc có thể đưa ra những sáng kiến và suy nghĩ mới mẻ.

Nguyên tắc thứ ba: Hiệu ứng gió Nam

Giữa gió Nam và gió Bắc thì thử hỏi bên nào mạnh hơn? Nhìn xem bên nào có thể thổi bay áo khoác của người đi đường là biết ngay! Gió Bắc bất kể là mãnh liệt thế nào cũng chỉ khiến người đi đường buộc chặt quần áo hơn, trong khi gió Nam chỉ khe khẽ lung lay lại khiến người ta nới rộng áo khoác.

Hiệu ứng gió Nam đã nói cho chúng ta một điều, khoan dung là một loại lực lượng có tính uốn nắn mạnh mẽ. Giáo dục trẻ nhỏ cũng tương tự như thế, những phụ huynh một mực phê bình con cái cuối cùng sẽ phát hiện ra rằng con cái họ càng ngày càng không chịu nghe lời.

Đứa trẻ nào cũng có thể phạm sai lầm, cha mẹ cần phải khoan dung với khuyết điểm của con mình, phải biết xử lý các vấn đề trong sinh hoạt hàng ngày một cách khách quan, lý trí và khoa học; đồng thời thông cảm cho chúng; tự mình bắt tay vào làm tốt mọi việc như vậy mới có thể giáo dục con cái tốt hơn.

Nguyên tắc thứ tư: Hiệu ứng Robert Rosenthal

Robert Rosenthal là một nhà tâm lý học người Mỹ, năm 1966 ông làm một thí nghiệm thú vị về thành tích kỳ vọng đối với các học sinh. Ông đến một lớp học bất kỳ và chọn ra vài cái tên ngẫu nhiên trong danh sách lớp, sau đó ông giao cho giáo viên chủ nhiệm bản danh sách “Những học sinh có triển vọng nhất” này. 8 tháng sau Rosenthal cùng người trợ lý quay lại lớp học kia, và kỳ tích đã xảy ra, tất cả những em có tên trong danh sách đều trở thành những học sinh xuất sắc của lớp.

Bí quyết nâng cao thành tích học tập của các em học sinh kia thật ra rất đơn giản, đó là vì chúng đã được thầy giáo quan tâm và đánh giá cao hơn.

Mỗi đứa trẻ đều có thể trở thành một thiên tài, nhưng điều đó có thể thực hiện được hay không phụ thuộc vào việc cha mẹ và thầy giáo có thể đối đãi với chúng như một thiên tài hay không, có thể kỳ vọng và quý trọng chúng hay không. Phương hướng phát triển của trẻ nhỏ được quyết định bởi kỳ vọng của thầy giáo và cha mẹ chúng; nói một cách đơn giản, bạn kỳ vọng con mình trở thành một người thế nào thì con bạn sẽ có khả năng trở thành một người như thế.

Chủ Nhật, 15 tháng 5, 2016

“Tiến sĩ dởm vào hùa với nhau là thảm họa cho dân tộc”




Tác giả: Ngọc Quang

.


TS.Nguyễn Văn Khải chia sẻ, từ nhiều năm trước đây đã có chuyện gian dối, trí trá trong giáo dục, đào tạo.
“Thú thật, tôi rất ngại tham gia hội đồng chấm luận án tiến sĩ” TS.Nguyễn Văn Khải: “Tôi biết có nhiều Tiến sĩ dởm”


Đã làm khoa học thì không thể trí trá
Trong buổi họp thường kỳ Chính phủ đầu tháng 5 vừa qua, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã yêu cầu chấn chỉnh quy trình đào tạo tiến sĩ đang gây ra bức xúc trong dư luận thời gian qua.

Tiếp tục cuộc trao đổi với Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, TS.Nguyễn Văn Khải (được nhiều người dân quý mến gọi là ông già ozone) nhận định, cần phải chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ bằng cách áp dụng theo quy chuẩn của các nước tiên tiến.

Đồng thời, TS Khải bày tỏ lo lắng, cách dạy và học hiện nay ở Việt Nam khó có thể tìm ra được tiến sĩ giỏi thực sự.

TS.Nguyễn Văn Khải đánh giá, chủ trương của nhà nước yêu cầu cán bộ phải có bằng cấp, trình độ cao là rất đúng, đó yêu cầu chung của thế giới. Trong thời đại ngày nay, chúng ta càng phải coi trọng người tài, những người có trình độ năng lực thực sự.



“Chủ trương đúng đắn, song trên thực tế, những cơ quan có trách nhiệm không theo kịp thực tế và những cán bộ làm việc trực tiếp do trình độ yếu kém hoặc do đạo đức yếu kém nên đã để xảy ra đào tạo tràn lan.

Hậu quả là tới nay cả nước đã có hơn 22.000 người có bằng tiến sĩ mà không biết chính xác trong số ấy có bao nhiêu người là trình độ thật.

Dù chưa có con số thống kê chính xác, nhưng nếu áp các quy định của thế giới vào thì tôi tin rằng con số này không nhiều. Số tiến sĩ dởm cũng tỷ lệ thuận với số người hướng dẫn (ông thầy – PV) và cả những hội đồng chấm nghiên cứu sinh kiểu ấy cũng bậy bạ hết”, TS Khải nói thẳng.

TS.Nguyễn Văn Khải nói thẳng, nhiều tiến sĩ dởm vào hùa với nhau là thảm họa cho dân tộc. ảnh: Ngọc Quang.


Trên thực tế, các sáng chế, những công trình khoa học công bố quốc tế của Việt Nam trong suốt mấy chục năm qua so với các nước ở cùng khu vực Đông Nam Á thôi cũng đã thấy có khoảng cách rất lớn.

Theo số liệu được trích lục từ Văn phòng thương hiệu và bằng sáng chế Mỹ (USPTO) mà BBC đã công bố thì từ năm 2006 – 2010, Việt Nam chỉ có 5 sáng chế đăng ký tại Mỹ, nghĩa là trung bình mỗi năm chỉ có 1 sáng chế. Riêng năm 2011, Việt Nam không có sáng chế nào.
“Thú thật, tôi rất ngại tham gia hội đồng chấm luận án tiến sĩ”


Trong khi đó, Singapore chỉ với 4,8 triệu dân có tới 647 bằng sáng chế. Malaysia lúc đó có 27,9 triệu dân có 161 bằng sáng chế. Thái Lan có 53 bằng sáng chế. Philippin có 27 bằng sáng chế.

“Suy cho cùng mọi chuyện đều do con người gây ra, đó là kiểu quản lý yếu kém, nhập nhèm, gian dối, trí trá ngay từ đại học chứ chẳng phải tới khi làm nghiên cứu sinh mới xảy ra.

Ngăn chặn tiến sĩ giấy không khó, chỉ cần áp dụng đúng theo quốc tế là yêu cầu có hai bài báo khoa học trên các tạp chí uy tín của thế giới thì mới được bảo vệ luận án”, TS Khải nêu quan điểm.

Kiểu đào tạo hiện nay ở Việt Nam rất khó tìm thấy người giỏi

Những năm gần đây đã có hàng nghìn người lao vào cuộc “chạy đua” để có được cái bằng tiến sĩ, thạc sĩ, nhưng không phải vì theo đuổi nghiên cứu khoa học.

Họ học lấy bằng vì hai mục đích: Thứ nhất, bằng cấp cao là một điều kiện đảm bảo cho vị trí việc làm trong cơ quan nhà nước và cũng là một điều kiện cần để thăng tiến. Thứ hai, nhiều người học lấy bằng tiến sĩ vì háo danh.

TS Khải nói: “Có quá nhiều tiến sĩ dởm và thậm chí có những người tự nhận mình là nhà khoa học nhưng cũng dởm nốt, thí dụ ngay là vừa rồi câu chuyện cá chết hàng loạt mà có ông cứ phân tích lung tung về màu nước biển ở Quảng Bình. Cuối cùng, một ngư dân nói đó là màu cát tự nhiên, màu nước tự nhiên. Thế là im hết.

Qua chuyện này cũng thấy ngay sự trí trá của nhiều giáo sư, tiến sĩ rồi. Những ông tiến sĩ dởm như vậy mà vào hùa với nhau vì quyền lợi riêng thì sẽ là thảm họa cho đất nước, dân tộc này”.




TS.Nguyễn Văn Khải: “Tôi biết có nhiều Tiến sĩ dởm”


TS Khải cũng điểm ra hàng loạt những thí dụ mà ông cho là “bậy bạ” của những người được gắn danh tiến sĩ.

Đó là chuyện có người “phát minh” ra dịch “lợn mê-hi-cô” mà thực chất là dịch “bệnh tai xanh”. Vào tháng 9/2010, chính TS.Nguyễn Văn Khải đã đến tận huyện Tân Phú (tỉnh Đồng Nai), giúp bà con dập dịch “lợn tai xanh”.

Theo TS.Nguyễn Văn Khải, không phải đến bây giờ trong công tác đào tạo tiến sĩ mới xuất hiện những đề tài ngớ ngẩn như “nghiên cứu phát ngôn của chủ tịch xã” hay “nhu cầu điện ảnh của sinh viên”, mà từ mấy chục năm về trước đã có gian dối, trí trá trong học tập, đào tạo.

“Từ trước đây cũng đã có những đề tài ngớ ngẩn khi có người đặt ra đề tài: Mỗi ngày ăn 2 bữa tốt hơn hay 3 bữa tốt hơn? Có những kẻ cực kỳ ngu dốt và nó lòi ra khi ba hoa bốc phét. Tôi lấy thí dụ, kích thước của nguyên tử là 1×10 -12m tức là 10 -10cm (nhỏ nhất), ấy thế mà kẻ đó dám nói làm hẹp được còn 10 -12m.

Tôi nói là ba hoa, bởi vì nếu nhỏ hơn cả 10 -10cm thì không nhìn thấy, làm sao mà đo được”, ông Khải nêu thí dụ.

Tuy nhiên, điều mà TS.Nguyễn Văn Khải lo lắng nhất là cách dạy, cách học hiện nay ở Việt Nam rất khó tìm thấy người giỏi.

Ông Khải nói: “Có trường đại học bắt sinh viên viết luận văn tốt nghiệp bằng tiếng Anh, thế nhưng lại trình bày bảo vệ luận văn bằng tiếng Việt Nam hoàn toàn.

Có những sinh viên trình bày về mô hình quản lý nhân lực, nhưng khi hỏi lương cơ bản là cái gì thì không trả lời được. Có những sinh viên trình bày về mô hình quản lý hàng hóa trong một cửa hàng, nhưng là đi cóp nhặt ở những chỗ khác nhau. Tôi thấy chán quá nên đi về luôn.

Vào tháng 6/2003, tôi dự một buổi bảo vệ luận văn tốt nghiệp của sinh viên Khoa môi trường thuộc một trường đại học tại Hà Nội. Anh ta trình bày về đề tài ruộng bậc thang miền núi.

Sau khi kết thúc, hội đồng chuẩn bị công bố điểm thì tôi ngồi ở phía sau hỏi một câu: Tại sao trình bày về ruộng bậc thang mà cả luận văn này không hề có một chữ bậc thang nào? Nghe thế, một ông trong hội đồng cũng hỏi lại câu của tôi.

Anh sinh viên kia trả lời: Vâng em đã đổi đề tài một tháng rồi. Thật hài hước!

Qua nhiều lần chứng kiến những sự việc như vậy, tôi cho rằng đa phần sinh viên học tại Việt Nam không hề có kỹ năng sống. Kiểu dạy như bây giờ cũng khó có thể tìm ra người giỏi. Cái giỏi mà mọi người nhìn thấy là giỏi trả lời câu hỏi của thầy, chứ không phải giỏi thật sự”.

Theo TS.Nguyễn Văn Khải, nhiều trường đại học đang làm hỏng thế hệ trẻ vì cách dạy lạc hậu, do những ông thầy lạc hậu. Câu chuyện chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ, cử nhân… là vấn đề lớn, nếu chỉ giao cho Bộ Giáo dục thì không thể giải quyết được, mà cần sự quyết tâm của nhà nước.

“Trong hội nghị về chiếu sáng vừa mới tổ chức, có cả khách quốc tế tham dự, tôi đã chỉ rõ một số loại đèn được làm ở một số trường đại học tại Hà Nội đã lạc hậu mà tôi kêu gọi bỏ đi từ 21 năm trước.

Không thể tin nổi là đến bây giờ có những trường vẫn còn mang cái loại bóng đèn bỏ đi ra dạy sinh viên thì làm sao khoa học công nghệ ở đất nước này ngóc đầu lên được”, TS Khải nói.

http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/TSNguyen-Van-Khai-Tien-si-dom-vao-hua-voi-nhau-la-tham-hoa-cho-dan-toc-post167885.gd

Thứ Năm, 12 tháng 5, 2016

HỌC NGÀNH GÌ ĐỂ TRÁNH BỊ COMPUTER THAY THẾ ?




HOA KỲ – Trong hoàn cảnh máy điện toán và người máy đã khởi sự thay thế con người trong một số lãnh vực, những người trẻ ngày nay cần phải học những ngành nào để trong cuộc đời của họ không bị những máy móc thiết bị này lấy mất việc làm và vẫn có được công việc tốt, lương cao trong 20, 30 hay 50 năm tới? Nhật báo NYT đặt vấn đề.

Đây là câu hỏi mà các đại học Mỹ đang vất vả để có câu trả lời.

Theo NYT, phần lớn người ta hoàn tất thời gian học chính của mình khi ngoài 20 tuổi và sẽ nhờ cậy vào những gì học hỏi trong thời gian đó trong mấy chục năm sau. Nhưng một máy điện toán có thể chỉ cần ít giây đồng hồ để có các dữ kiện mà con người phải mất thì giờ thu thập khi ở bậc trung học và đại học.Và trong tương lai sẽ có các máy điện toán và người máy khác nhanh nhạy hơn, thông minh hơn, trước khi một thế hệ con người đến tuổi hưu.

Hiện có hai dòng tư tưởng chính trong nỗ lực nhằm đối phó với vấn đề này. Một là các trường học phải xác định và cung cấp cho sinh viên một kiến thức để hy vọng là không thể nào bị máy móc thay thế. Hướng thứ nhì là chúng ta phải làm sao vấn đề học vấn thiên về môi trường thương mại hơn – nghĩa là dạy về thực tế đời sống và đưa ra một tiến trình sáng tạo – cũng để hy vọng là máy không thể bắt chước.

Cả hai chiều hướng nói trên không nhất thiết là tương phản với nhau.

Vẫn theo bài báo, một số học giả đang tìm cách xác định những ngành học nào giúp người ta tồn tại và ít bị kỹ thuật thay thế hơn, như nghiên cứu những nghề nào phát triển và những nghề nào bị mất đi.

Những ngành nghề sống còn được thấy là có cùng những đặc điểm như cần khả năng truyền đạt trong những vấn đề phức tạp và sự hiểu biết chuyên biệt.Những khả năng loại này đòi hỏi người ta phải truyền đạt được “không chỉ tin tức mà còn là sự nhận định tin tức này.”

Cuộc nghiên cứu cũng cho thấy các đại học Mỹ nay phải cung cấp cho sinh viên một nền học vấn rộng rãi hơn chứ không chuyên biệt vào một lãnh vực nào.Giáo Sư Sean D. Kelly ở đại học Harvard nói rằng trường này phải làm sao để có thể cung cấp cho sinh viên “nghệ thuật sống trong thế giới ngày nay.”

Nhưng làm thế nào để các giáo sư có thể đạt được điều này? Nhiều người cho rằng nhà trường phải chuẩn bị cho sinh viên cách đón lấy các cơ hội kinh doanh mà ngành nghề có thể đưa tới. Ngay cả những ngành học hoàn toàn không liên hệ gì với thế giới thương mại cũng có thể làm được điều này bằng cách đưa ra những hoạt động liên quan tới doanh nghiệp, bất vụ lợi và những hoạt động mà người sinh viên sau này có thể sử dụng sự hiểu biết chuyên biệt của họ.

Nhu cầu tái xác định mục tiêu của giáo dục đại học cũng giúp có những lợi ích cho nhiều thập niên trong tương lai. Các trường đại học cần phải thích ứng với sự tiến bộ nhanh chóng của ngành tin học. Cùng lúc đó, các trường đại học cũng phải tiếp tục tái thẩm định cái gì là sự khác biệt căn bản giữa cách học của máy và của con người, cũng như những gì có giá trị thực tế cho sinh viên trên đường dài. Ðiều này có thể sẽ khiến người ta nhận ra rằng “nghệ thuật sống trong thế giới – art of living in the world” đòi hỏi phải có một phần nào đó của giáo dục về thương mại. (L.T.)

(Thu Vân chuyển bài)

8 thỉnh cầu của một giáo viên gửi bộ trưởng Bộ GD-ĐT




TTO - Tuổi Trẻ xin giới thiệu bài viết của cô giáo Hoàng Thị Thu Hiền, hiện đang giảng dạy tại một trường THPT ở TP.HCM. Bài viết này chính là lá thư cô nhờ 
Tuổi Trẻ chuyển đến tân Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Phùng Xuân Nhạ.


Nhiều học sinh suốt ngày bị giam trong cái “vòng kim cô” của việc học - Ảnh: Như Hùng

Ngành giáo dục của chúng ta phải giáo dục được cho học sinh lòng tự trọng. Bởi có tự trọng thì con người sẽ hạn chế làm điều ác, điều xấu, ra đời sẽ không tham ô, tham nhũng, không chạy chức chạy quyền bằng mọi giá, không vì quyền lợi của mình mà giẫm đạp lên người khác




Thưa Bộ trưởng,
1. Xin Bộ trưởng hãy nhìn vào học sinh lớp 12 trong giờ học. Có được một kẽ hở thời gian nào là các em gục xuống bàn ngủ ngay bất cứ lúc nào. Những gương mặt hốc hác, mệt mỏi, bơ phờ vì thiếu ngủ, vì phải học quá nhiều.
Học ở trường, học thêm ở các trung tâm và thầy cô; học ở nhà; học từ sáng đến tối không kịp ăn, không được ngủ. Học như điên như khùng, để rồi khi thi xong thì chẳng nhớ gì. Ôm mớ kiến thức ôm đồm, nhưng ra đời chẳng áp dụng được bao nhiêu.
Suốt ngày các em bị giam trong cái “vòng kim cô” của việc học, mà không biết những gì đang xảy ra xung quanh mình. Nếu có biết cũng chỉ lơ mơ vì không có thời gian. Nhận thức các vấn đề xã hội một cách ấu trĩ.
Để rồi khi ra đời các em lại thiếu những kỹ năng cần thiết nhất: kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp ứng xử, không biết cách bảo vệ mình; không biết bênh vực cái tốt. Và trước cái ác, cái xấu cũng không dám lên tiếng phản đối.
2. Xin Bộ trưởng chấm dứt nỗi lo sợ cho giáo viên, học sinh và cả phụ huynh nữa bởi sự thay đổi liên tục trong giáo dục, đặc biệt là trong thi cử. Hãy cho chúng tôi sự yên lòng. Đừng có năm nay thi kiểu này, năm sau thi kiểu khác.
Dạy học theo “Nghiên cứu bài học” chưa đâu vào đâu lại chuyển sang “Tích hợp liên môn”, rồi phương pháp “Bàn tay nặn bột”. Liệu sau đó có còn phương pháp “nhào bột”, “làm bánh” nữa hay không?
Mà tất cả những thay đổi ấy, bộ chỉ phán một cách chung chung về lý thuyết, còn nữa là giáo viên tự bơi, và mỗi nơi bơi một kiểu, có nơi bơi được có nơi bị chìm.
3. Xin Bộ trưởng hãy mở rộng cơ chế bổ nhiệm đội ngũ quản lý. Hãy để cho tất cả giáo viên có quyền thật sự được lựa chọn hiệu trưởng của trường, và quyền được ứng cử vào vị trí mà họ thấy phù hợp. Miễn rằng họ có đủ năng lực, uy tín và đề án của họ thuyết phục mọi người, mà không bị ràng buộc bởi các tiêu chí: bằng cấp, cơ cấu, đảng viên...đặc biệt là “được lòng” cấp trên.
Một người hiệu trưởng có tầm, có tâm, có tài sẽ tạo ra sự bứt phá ngoạn mục, làm thay đổi bộ mặt của một ngôi trường.
Hiện nay, có rất nhiều hiệu trưởng tư duy già nua cũ kỹ, bảo thủ, ngại đổi mới, đi theo lối mòn đã từ mấy chục năm về trước. Trong lúc giáo dục đang thời kỳ toàn cầu hóa, đang thay đổi từng ngày mà họ vẫn “bình chân như vại”, ngồi yên chễm chệ trên “ngai” của mình.
Bên cạnh đó, Bộ trưởng cũng hãy cho các hiệu trưởng khoảng tự do cần thiết để họ đổi mới sáng tạo. Đừng bảo họ bay lên trong khi đôi cánh đã bị buộc chặt.
Và cũng rất không nên để tình trạng mỗi khi đã làm hiệu trưởng có nghĩa sẽ làm suốt đời, đến khi về hưu mà không có hình thức “buộc thôi chức”. Chính điều này dẫn tới tâm lý an phận.
Thực tế là mọi sự đổi mới của một hiệu trưởng chỉ tập trung trong vài ba năm đầu, còn sau đó là “lối cũ ta về”.
Cho nên, để một người làm hiệu trưởng tại một trường tới 15 - 20 năm đó là một sự kìm hãm, thậm chí là một thảm họa.
Cần có sự luân chuyển hiệu trưởng tới nhiều loại trường khác nhau. Không nên để một người làm hiệu trưởng quá 2 nhiệm kỳ tại một nơi, và mỗi nhiệm kỳ tối đa chỉ nên 4 năm.
Có vậy mới chứng minh được thực tài hay yếu kém, và họ mới nỗ lực phấn đấu hết mình.
Ngay cả đối với giáo viên, các tổ trưởng chuyên môn cũng nên có sự luân chuyển như thế thì mới phát huy được tiềm năng ẩn chứa trong mỗi người. Phải đặt họ vào hoàn cảnh luôn phải đổi mới, phải thích nghi.
4. Thưa Bộ trưởng, có cần phải duy trì quá nhiều sổ sách như vậy cho mỗi giáo viên hay không? Mà trong đó rất nhiều cuốn chủ yếu để “hành là chính”: sổ báo giảng, sổ tự bồi dưỡng, sổ ghi chép...
Hằng năm, tất cả các giáo viên đều phải trải qua kiểm tra giáo án, kể cả giáo viên mới ra trường và giáo viên sắp về hưu. Sự cào bằng này làm mất tính sư phạm và sự tôn trọng đối với thầy cô lớn tuổi có kinh nghiệm lâu năm trong nghề.
Và nhất là làm cho giáo viên có cảm giác họ bị quản lý như học trò, chứ không phải thầy cô.
Hiệu quả làm việc của một giáo viên là ở chất lượng giờ dạy, là sự tâm huyết với nghề, chứ đâu phải ở những cuốn sổ kia.
Chưa kể thời đại công nghệ, mỗi giáo viên có cách lưu trữ tài liệu theo cách riêng của mình. Đâu nhất thiết phải ghi chép ra sổ sách?
Giáo viên giỏi là tất cả các giáo án phải nằm trong đầu, chứ không phải ở trên những trang giấy.
Hãy đánh giá giáo viên ở phương pháp làm việc giỏi, chứ không phải ghi chép giỏi như kiểu thi “vở sạch chữ đẹp”!
5. Xin Bộ trưởng hãy nhân rộng những sáng kiến, kinh nghiệm hay trong ngành để các trường, các sở kịp thời học hỏi lẫn nhau. Thời đại công nghệ thông tin nhưng vẫn tồn tại tình trạng “đèn nhà ai nhà nấy rạng”.
Ví dụ như sáng kiến “Thư viện xanh” của tỉnh Lâm Đồng - đưa thư viện lưu động ra ngay giữa sân trường, hay là đề thi trắc nghiệm của Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2015... đều rất tuyệt.
Tuy nhiên những điều này ít người biết và không được nhân rộng. Rất uổng phí.
6. Xin Bộ trưởng hãy tăng thêm chế độ đãi ngộ cho những giáo viên ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo; những giáo viên đang cắm bản để bám lớp, bám trường; những giáo viên đến trường phải đu dây hay trầm mình qua suối; những giáo viên mà trong cái nóng nực của mùa hè, một tháng họ chỉ được tắm gội có 2 lần vì không đủ nước; những giáo viên phải dạy ở những ngôi trường chỉ có nhà tranh vách đất, không điện, không nước, mỗi lớp chỉ có chục học sinh nhưng lại đủ các loại lớp khác nhau...
Thực sự họ là những người anh hùng của thời đại mới. Họ xứng đáng được đãi ngộ và tôn vinh.
7. Thưa Bộ trưởng, một thực tế ai cũng thấy là chương trình đại học của chúng ta hiện nay có đến 30% môn học không cần thiết. Với cương vị Bộ trưởng, ông có dám mạnh dạn bỏ những bộ môn đó, thay bằng những bộ môn chuyên ngành hữu dụng? Để khi ra trường sinh viên không đến nỗi thất nghiệp nhiều như hiện nay, vì một phần rất lớn là do chất lượng đào tạo quá yếu kém.
8. Trong mọi sự giáo dục thì giáo dục nhân cách con người vẫn là yếu tố hàng đầu. Việc quá thiên lệch về nhồi nhét kiến thức, coi nhẹ giáo dục đạo đức của ngành giáo dục mấy chục năm nay đã thấy được hệ lụy của nó.
Thưa Bộ trưởng, ngành giáo dục của chúng ta phải giáo dục được cho học sinh lòng tự trọng. Bởi có tự trọng thì con người sẽ hạn chế làm điều ác, điều xấu, ra đời sẽ không tham ô, tham nhũng, không chạy chức chạy quyền bằng mọi giá, không vì quyền lợi của mình mà giẫm đạp lên người khác. Những hình ảnh xấu xí của người Việt hiện nay phần lớn cũng do thiếu tự trọng mà ra

HOÀNG THỊ THU HIỀN

Thứ Ba, 10 tháng 5, 2016

“Lò ấp” Tiến sĩ và “Nỗi sỉ nhục buốt lòng”






Nguyễn Trọng Bình


Thêm một lần nữa, vấn đề chất lượng đào tạo của nền giáo dục nước nhà bị dư luận xã hội nghi ngờ và mang ra mổ xẻ. Lần này là chuyện về đội ngũ các “nhà khoa học” được cấp bằng công nhận học vị Tiến sĩ. Thật đau lòng vì trước một vấn đề vốn rất nghiêm túc nhưng giờ đây, cả xã hội mạnh ai nấy thể hiện sự xem thường không chỉ bằng những cách gọi mỉa mai mà còn những bức tranh biếm họa, cợt đùa, cay nghiệt...
Có một sự trùng hợp ngẫu nhiên là cùng thời điểm dư luận “nổi sóng” về vấn nạn “Tiến sĩ giấy” là sự kiện cá chết dọc dài theo bờ biển các tỉnh miền Trung gần một tháng qua nhưng vẫn chưa kết luận cụ thể, rõ ràng và xác đáng về nguyên nhân của nó. Người viết bài này tự hỏi có mối liên quan nào không giữa hai sự kiện này? Dĩ nhiên, mối liên quan ở đây cần được hiểu trên tinh thần đất nước và xã hội luôn luôn và bao giờ cũng cần đến những cái đầu của đội ngũ các nhà khoa học thực thụ, ngoài tư cách tư cách công dân thông thường còn là tư cách của một trí thức chân chính.
Đặt vấn đề như vậy để thấy rằng nếu bỏ qua một vài quan điểm và cái nhìn phiến diện, cực đoan thì việc dư luận nghi ngờ và bức xúc về vấn nạn “Tiến sĩ giấy” hiện nay là hoàn toàn có cơ sở, không có gì là oan ức. Đặc biệt là khi giới truyền thông tiếp tục phanh phui và bàn tán về các công trình nghiên của các “nhà khoa học” mà chỉ đọc qua tên đề tài thôi đã thấy chua xót, não nề. Đó là chưa kể vô số các công trình tương tự mà chủ nhân của nó đã và đang giấu nhẹm không dám công bố với lý do “tế nhị” và “nhạy cảm”; hay các thông tin về việc các quan chức lãnh đạo đua nhau đổ xô đi học Tiến sĩ góp phần làm nên đội ngũ 24.000 TS trên cả nước hiện nay...
Công tâm mà nói, 24.000 TS trong một đất nước với hơn 90 triệu dân thì cũng không hẳn là nhiều (hay như một số người gọi quá lên là “lạm phát”). Tuy nhiên, như người xưa nói “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Hơn nữa, trong hoàn cảnh đất nước đang rất cần tiếng nói và sự đóng góp của đội ngũ trí thức nhưng có quá nhiều người không chính danh và giả mạo thì đó không chỉ là sự lãng phí mà còn rất nguy hiểm cho sự phát triển lành mạnh của xã hội nếu nhìn ở phương diện văn hóa và đạo đức khoa học.
Trước năm 1975, ở miền Nam, học giả Nguyễn Văn Trung trong khi bàn về vai trò và tư cách của những bậc thức giả trong xã hội, có nói rằng: “Người trí thức không phải là người có kiến thức đại học hay sau đại học, mà là người có kiến thức chuyên sâu nhờ đọc sách và kinh nghiệm tiếp xúc. Thực ra điều cốt yếu đáng nói không phải là vốn kiến thức mà thái độ trí thức đối với các vốn kiến thức ấy và, nhất là đối với các vấn đề của cuộc sống trước mặt đặt ra”.



Từ đây, trở lại vấn đề cá chết dọc các bờ biển các tỉnh miền Trung gần một tháng trời nhưng các nhà khoa học trên khắp nước Việt vẫn chưa tìm được tiếng nói chung để trả lời xác đáng với dư luận. Tại sao như vậy? Thôi thì bỏ qua và cũng thông cảm cho các nhà khoa học vì mấy chuyện “chính chị, chính em” muôn thuở trên đất nước này (nhất là mỗi khi có sự kiện lớn, bất thường nào đó xảy ra có liên quan tới yếu tố Trung Quốc). Nhưng các nhà khoa học nghĩ gì trước hàng vạn đồng bào đang lâm vào cảnh lầm than đói kém ngoài kia vì đại nạn này? Và trước đó nữa, những nhà khoa học nào đã trực tiếp chịu trách nhiệm phản biện, giám sát vấn đề tác động môi trường từ các công trình dự án có yếu tố nước ngoài (đặc biệt là Trung Quốc) trên khắp đất nước này? Phải chăng tất cả sự chậm trễ này hay rộng hơn cái hệ lụy “rừng đã hết và biển thì đã chết” trên khắp đất nước Việt hôm nay đều có có chung mối liên hệ tất yếu với vấn đề tư cách và thái độ trí thức của phần lớn các nhà khoa học như cách nói của học giả Nguyễn Văn Trung?
Vẫn biết dư luận và tâm lý đám đông không phải lúc nào cũng đúng nếu không muốn nói đôi khi rất cực đoan và đầy cay nghiệt nên ít nhiều đã vô tình làm tổn thương (số ít) những nhà khoa học thực thụ và tử tế. Nhưng riêng trong chuyện này, thử hỏi tất cả “những người trong cuộc” có bao giờ tự phản tỉnh và nghiêm túc nhìn lại chính mình chưa? Hay là vẫn tiếp tục “bưng tai giả điếc”, “ngậm miệng ăn tiền” hoặc không thì im lặng và nghĩ “chắc nó trừ mình ra” kiểu như dân làng Vũ Đại mỗi khi bị Chí Phèo chửi mắng, xúc phạm...
Ngoài ra, tại sao một đề tài, một công trình nghiên cứu rất “trời ơi đất hỡi” nhưng vẫn được cả hội đồng thẩm định (toàn TS, PGS, GS) thông qua? Hay các quan chức lãnh đạo quanh năm bù đầu bù cổ với không biết bao nhiêu là cuộc họp lớn nhỏ; rồi những chuyến công du ra nước ngoài như đi chợ thì thời gian đâu mà đi học “làm” TS, làm nhà khoa học? Thế nhưng tại sao các cơ sở đào tạo vẫn cấp bằng công nhận...? Phải chăng tất cả chuyện giả danh và ngụy khoa học này đều có chung một nguyên nhân là sự mạt vận của đạo đức khoa học và sự băng hoại lương tâm của đội ngũ trí thức Việt trong thời đại hôm nay? Hay nói như cố nhà thơ Lưu Quang Vũ, đây chính là“Nỗi sỉ nhục buốt lòng.../ Khi bao điều tưởng thiêng liêng, trong sạch/ Bỗng trở nên ngu xuẩn đê hèn”.
Cá dọc các bờ biển miền Trung đã chết, đồng bào miền Trung đang lâm vào cảnh đói khổ đó là những sự thật không thể chối cãi được. Vậy thì ai trong số 24000 TS đã góp phần làm nên nỗi tang thương này? Nhất là các TS, các “nhà khoa học” đã và đang kiêm luôn những chức vụ lãnh đạo cấp cao từ trung ương đến địa phương? Dắt tay nhau nhảy xuống cùng biển tắm ư; mua cá của ngư dân luộc ăn tại chỗ ư? Tổ chức tiếp xúc cử tri toàn những người cùng hội cùng thuyền để ghi hình và tuyên truyền, xoa dịu, trấn an dân chúng ư...? Xin thưa đây chỉ là những vở diễn, vai diễn tồi của những tay đạo diễn và diễn viên nghiệp dư; người lãnh đạo có trách nhiệm, nhà khoa học, người trí thức có lương tâm không ai làm như vậy!
***



Nói cho cùng “Tiến sĩ giấy” (hay nói rộng ra chuyện học giả bằng thật) là một vấn nạn muôn thuở trong bất kỳ xã hội Đông, Tây kim cổ nào. Chủ quan mà nói, nếu phải truy xuất nguyên nhân cội rễ của vấn nạn này thiết nghĩ, có lẽ cũng nên tham khảo thêm quan điểm của giáo lý nhà Phật. Đó là vấn đề thuộc về bản chất của con người nói chung – vấn đề “tam độc”: tham, sân, si; là người phàm mắt thịt thì khó có ai thoát khỏi những điều trên. Tuy nhiên, khách quan mà nói, nguyên nhân trực tiếp và quyết định nhất gây nên vấn nạn trên phần lớn phụ thuộc vào các yếu tố như: đặc trưng về thể chế chính trị (tính dân chủ, công khai, minh bạch...); môi trường sống và sinh hoạt của con người (nội lực văn hóa, nền tảng đạo đức, đường lối quan điểm về học thuật...) ở mỗi cộng đồng, dân tộc, quốc gia... trong những thời điểm nhất định.
Từ đây, có thể nói “Tiến sĩ giấy” vốn là câu chuyện cũ của ngày hôm qua được dư luận hôm nay thêm một lần nữa xới lại vì nó quá trầm trọng và thối nát. Âu cũng là thêm một bằng chứng cho thấy bức tranh toàn cảnh của nền giáo dục nước nhà. Một bức tranh xám xịt và u tối; một cái vòng luẩn quẩn của các công cuộc đổi mới, tưởng là cải tiến nhưng hóa ra cải... lù
i!

Thứ Tư, 20 tháng 4, 2016

Đặc điểm của người hữu dụng




TIẾN THÀNH


Người hữu dụng là người có khả năng dùng được, có thể dùng được. Nhiều người không thông minh nhưng hữu dụng, vì họ tuân theo các nguyên tắc. Người hữu dụng lại có tài thì gọi là người đắc lực, nếu không thì họ cũng vẫn “tròn vai”.


Người hữu dụng duy trì sự ổn định, nhưng nếu muốn phát triển, phải cần đến người đắc lực. Hai đặc điểm lớn nhất của người đắc lực là 1. tổ chức công việc hiệu quả, và 2. giải quyết vấn đề khi gặp sự cố. Dưới đây là những đặc điểm của người đắc lực:

1. Nghiêm khắc với bản thân
Một trong những điều khó chịu nhất với người hữu dụng là không hiểu điều gì đó. Với những người này, điều khó chịu nhất là gặp thứ gì đó mà không hiểu. Tại sao lại thế? Bởi với những người đắc lực, mọi thứ đều dễ dàng. Ưu điểm của họ là tìm hiểu cách hoạt động của một hệ thống và tối ưu nó. Do vậy khi có thứ gì đó không hiểu được, họ sẽ cảm thấy rất tồi tệ và liên tục trách móc mình.

2. Cập nhật tin tức (nắm bắt thời cuộc)

Để là người đắc lực, phải hiểu rõ thời cuộc. Do đó, những người này luôn theo dõi và nắm bắt thế giới xung quanh. Nhu cầu thông tin với người đắc lực là tất yếu. Họ cần biết những gì đang xảy ra xung quanh mình. Họ cần biết mọi người đang nghĩ gì, và muốn gì.

3. Hay bị hiểu nhầm

Tất nhiên, người đắc lực phải là người thông minh. Người thông minh luôn có những suy nghĩ logic ở trong đầu, nên khi diễn giải, người khác khó hiểu ngay. Do đó họ hay bị hiểu nhầm.



Có thể sự hài hước của họ quá tinh tế làm người khác khó nhận ra. Có thể từ ngữ hoặc cách diễn giải của họ khác thông thường nên người khác khó hiểu. Người đắc lực (thông minh) thường hay phải giải thích suy nghĩ của mình với người khác.

4. Thích các trò chơi trí tuệ

Người đắc lực thông minh nên họ thích các trò chơi. Vì chơi là để tính toán, để thi thố và thử thách óc logic. Khi chơi họ phải tập trung suy nghĩ. Người thông minh luôn thích suy nghĩ, họ không thích đầu óc để không.

5. Là bạn của những người đắc lực khác

Người đắc lực có xu hướng muốn ở bên những người đắc lực khác. Vì họ hiểu mình, người người, hiểu đời nên có thể nhìn ra được những anh chàng vô dụng. Và họ hiểu là cách tốt nhất là tránh xa những anh chàng ấy.

Có thể trong giao thiệp họ vẫn giao lưu, kết nối… Nhưng khi vào thực việc, họ chỉ tìm những người đắc lực. Chí ít thì cũng phải hữu dụng. Những người có “chất” thể hiện ở ba điểm: sức khỏe, trí tuệ, tâm hồn.

6. Đặt kỳ vọng cao cho mình
Người đắc lực luôn kỳ vọng mình sẽ làm điều gì đó vĩ đại. Người đắc lực thường thông minh, nên ngay từ khi còn nhỏ, họ đã học và nghĩ về những điều khó hơn bình thường. Bởi thế, người đắc lực có xu hướng đặt ra cho mình những kế hoạch lớn trong tương lai.


Đánh giá một người có đắc lực hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố, như điểm mạnh hay điểm yếu của họ, rồi môi trường họ đang công tác, và tính chất công việc phù hợp với họ. Ta đều biết, không thể bắt cá leo cây hay mèo lội nước. Dê thì leo núi, còn khỉ thì leo cây.

Tổng hợp từ Dân Trí

Thứ Hai, 25 tháng 1, 2016


Đặc điểm nền giáo dục của 5 nước tiên tiến nhất trên thế giới



Xuân Quán






Chương trình giáo dục của Việt Nam đặt nặng việc hấp thụ thật nhiều kiến thức tổng quát. Phương pháp giảng dạy có nhiều tính cách độc đoán.Tuy nhiên giáo dục Việt Nam có những bước tiến rõ rệt dạo gần đây với một loạt các quyết định thay đổi, song chúng ta vẫn cần phải học hỏi các nước có nền giáo dục tiên tiến tiên tiến trên thế giới.
Sữa nướcsữa tiệt trùng Dutch Lady cung cấp dưỡng chất cho cả nhà
Xem chuyên mục chuyện lạ có thật

Chương trình giáo dục của Việt Nam đặt nặng việc hấp thụ thật nhiều kiến thức tổng quát, ít chú trọng đến nâng cao phong cách con người, khả năng giao tiếp và sáng tạo. Học sinh Việt Nam, ngay từ cấp 1, chỉ biết học và học, không có thì giờ vui chơi, tập luyện thể thao, và phát triển những khả năng quan trọng khác như sự chủ động, tự tin, khả năng suy nghĩ độc lập, tìm tòi, khám phá.


Phương pháp giảng dạy có nhiều tính cách độc đoán. Học sinh thường chấp nhận tuyệt đối những kiến thức từ thầy cô và từ sách giáo khoa dù đúng hay sai. Học sinh rất ít được tự tìm tòi, suy nghĩ độc lập, chất vấn, thảo luận, phát biểu ý kiến, và khám phá những gì hợp với sở thích của mình.

Tuy nhiên giáo dục Việt Nam có những bước tiến rõ rệt dạo gần đây với một loạt các quyết định thay đổi.

Một trong số đó là giảm bớt các kỳ thi ở bậc tiểu học, các bài kiểm tra định kỳ chỉ dùng để kiểm chứng học sinh, không được dùng để so sánh thành tích rằng học sinh này giỏi hơn học sinh khác, không cho điểm học sinh mà chỉ ghi lời nhận xét. Việc thay đổi này đã làm giảm áp lực học hành lên học sinh rất nhiều.

Một thay đổi gần đây nhất là việc bỏ kỳ thi đại học đầy áp lực, thay vào đó là xét tuyển dựa trên kết quả thi tốt nghiệp THPT. Việc làm này được sự đồng tình ủng hộ của nhiều thành phần xã hội.

Mặc dù đã có những thay đổi tích cực, song giáo dục Việt Nam vẫn cần phải học hỏi những nước có nền giáo dục tiên tiến nhiều hơn nữa.

Chúng ta cùng điểm qua đặc điểm của một số nền giáo dục phát triển trên thế giới:

1. Giáo dục ở Phần Lan
Công bằng và miễn phí

Giáo dục Phần Lan xem công bằng là một trong những điều quan trọng nhất. Ông Olli Luukkainen, chủ tịch hội đồng giáo viên Phần Lan chia sẻ “Tất cả trẻ em ở Phần Lan dù thành thị hay nông thôn đều được hưởng một nền giáo dục như nhau.”

Thực hiện tiêu chí công bằng này, giáo dục Phần Lan không phân biệt giàu hay nghèo, thành thị hay nông thôn, tất cả đều được hưởng một nền giáo dục như nhau.



Không áp lực thi cử

Giáo dục ở Phần Lan cũng không có các cuộc thi sát hạch nhằm phân loại học sinh, giáo dục hướng đến các học sinh yếu kém, giúp nhà trường trở thành môi trường thân thiện.

GS Pasi Sahlberg, công tác tại bộ giáo dục và văn hóa Phần Lan phát biểu:“Chúng tôi dạy trẻ học cách HỌC, chứ KHÔNG dạy trẻ học cách để thi”

“Chúng tôi không tin vào thi cử, không tin rằng có một kỳ thi thống nhất là việc tốt. 12 năm học đầu tiên trong đời học sinh chỉ có một kỳ thi duy nhất vào lúc các em đã ở độ tuổi 18-19, đó là kỳ thi trước khi vào đại học. Nhờ thế thầy và trò có nhiều thời gian để dạy và học những gì họ ưa thích. Các thầy cô của chúng tôi tuyệt đối không giảng dạy vì thi cử, học sinh cũng tuyệt đối không học vì thi cử. Trường học của chúng tôi là nơi học tập vui thích 100%. Ưu điểm của chế độ học tập ở Phần Lan là ươm trồng tinh thần hợp tác chứ không phải là tinh thần cạnh tranh. Chúng tôi không lo học sinh sau này sẽ cảm thấy sợ hãi khi bước vào xã hội ”

2. Giáo dục ở Nhật Bản

Đạo đức là cốt lõi

Nhật Bản trở thành một nước có nền giáo dục tiên tiến là nhờ thực hiện tiêu chí “con người = đạo đức”, đề cao tính tự lập và tinh thần kỷ luật.

Tư tưởng của người Nhật vẫn còn mang đậm dấu ấn văn hóa truyền thống của dân tộc mình, đạo đức là cốt lõi là điều mà một học sinh phải biết đến đầu tiên.



Sau trận động đất khủng khiếp năm 2011, trong các cuộc cứu trợ, người Nhật không chen lấn nhốn nháo, không tranh giành khẩu phần. Trái lại, họ còn nhường nhịn lẫn nhau và kiên nhẫn xếp hàng chờ đợi dù biết rằng, có thể tới lượt của mình thì chẳng còn lại gì.

Câu chuyện đứa trẻ 9 tuổi không biết rõ số phận cha mẹ mình thế nào, trong lúc khốn khó đói và rét run cầm cập đứng xếp hàng chờ khẩu phần ăn thì được một người lớn nhường lại túi lương khô, vì e rằng tới lượt đứa trẻ này thì các khẩu phần ăn hết mất.

Đứa trẻ ôm bao lương khô đi thẳng lên chỗ những người đang phát thực phẩm và để vào thùng thực phẩm rồi lại quay lại xếp hàng. Khi được hỏi đứa trẻ trả lời rằng “Bởi vì còn có nhiều người chắc đói hơn con”.

Câu chuyện này và những câu chuyện cảm động khác đã nhanh chóng được lan truyền ra thế giới bên ngoài nước Nhật. Người dân toàn thế giới rất ngượng mộ và khâm phục dân tộc Nhật Bản. Câu chuyện đứa trẻ nhường lại khẩu phần ăn kể trên được giới truyền thông xem như là “huyền thoại”. Chỉ dân tộc nào xem đạo đức là nền tảng, xem văn hóa cổ truyền là linh hồn của dân tộc mình thì mới có được những kỳ tích như vậy.

Giáo dục Nhật Bản vận hành theo nguyên lý: “mỗi người học sẽ trở thành một cá nhân hoàn thiện đạo đức”.

Phương châm của người Nhật là: “Cần phải nhắm tới thực hiện xã hội ở đó từng công dân có thể mài giũa nhân cách bản thân…”.

Chuyên gia giáo dục Bassey Ubong của Nigeria khi nghiên cứu giáo dục Nhật Bản đã phát biểu rằng “Đạo đức còn có nghĩa là ý thức tuân thủ kỷ luật cao độ được phản ánh thông qua quan niệm xem giáo dục là một con đường dẫn đến cuộc sống tốt đẹp hơn. Từ đó thanh niên tích cực học tập, tuân theo các chuẩn mực về tôn trọng mọi người xung quanh và tham gia đóng góp nhằm giảm thiểu tỉ lệ thất nghiệp, ai nấy đều tốt nghiệp và có việc làm”.

Tư duy ‘tự lập’



Giáo dục Nhật Bạn cũng hướng đến tính tự lập cho học sinh, mỗi học sinh có thể tự chủ trong học tập, không ỷ lại để có thể hòa nhập môi trường hội nhập đầy biến động các giá trị văn hóa và tri thức

Để trang bị tính tự lập cho học sinh, giáo dục Nhật Bản nhấn mạnh ‘học sinh là trung tâm’, giúp học sinh trải nghiệm kiến thức từ thực tế chứ không phải là nhồi nhét kiến thức. Có nhiều loại sách với các chuẩn đầu ra khác nhau để tăng cường khả năng phản biện cho học sinh, kích thích việc tìm tòi, phát huy sức sáng tạo.

Các bài học ở Nhật Bản được các giáo viên ghi trích nguồn ở đâu, rồi khuyến khích học sinh tìm thêm nguồn thông tin mới, cổ vũ học sinh đứng từ các góc độ cách nhìn khác nhau để đánh giá nhận xét vấn đề. Đó là một trong những lý do cốt yếu giúp người Nhật nằm trong tốp đầu các quốc gia có lượng bằng sáng chế cao nhất thế giới với vô số thương hiệu tồn tại xuyên thế kỷ.

Không áp lực thi cử
Giống như Phần Lan, giáo dục ở Nhật Bản không gây áp lực thi cử cho học sinh

Giáo dục Nhật Bản cũng không tổ chức theo kiểu “gom học sinh có điểm số cao lại với nhau”. Nhà trường cũng không chủ trương “khoe” kết quả học tập của các em đến mọi người, vì cho rằng điểm số không phản ánh được khả năng thực sự của trẻ, mọi học sinh đều có cơ hội học tập trong môi trường bình đẳng.

Nhật Bản không có đặt nặng thi cử, kỳ thi chính thức chỉ có thi vào trung học và đại học. Ngoài ra còn có đợt thi lớp 6 và lớp 9 nhưng là để giám sát hiệu quả hệ thống giáo dục, chứ không phải để đánh giá năng lực học sinh.

3. Giáo dục ở Mỹ: Tự do và tôn trọng tự do của người khác
Nền giáo dục Mỹ hướng con người đến tự do, có thể dễ dàng thích nghi với cuộc sống đang biến động hàng ngày, nếu bó buộc học sinh sẽ làm mất tính sáng tạo của trẻ. Các chương trình học tại các trường ở Mỹ rất giàu tính trải nghiệm, kích thích sự phát hiện, khuyến khích trẻ đưa ra tất cả suy nghĩ “xung quanh một câu hỏi”.

Tự do của người Mỹ là tự do về tư tưởng, giữ quan điểm của mình đồng thời tôn trọng quan điểm ý kiến của người khác.

Giáo viên thường nhắc nhở học sinh của mình rằng: “Bất kỳ ai trong các em cũng có quyền loại bỏ, thậm chí là tẩy chay một nhãn hiệu mà mình không thấy thích. Nhưng không được quyền ép người khác đứng về phe mình, vì như thế là thiếu tôn trọng quyền của tự do của người khác ”



Ở Mỹ giáo viên cho điểm và nhận xét học sinh, và học sinh được nhận xét và đánh giá chất lượng giáo viên.

4. Giáo dục ở Đức

Bình đẳng
Một trong những đặc tính của giáo dục Đức đó là tính bình đẳng giữa các học sinh, trong lớp học không có lớp trưởng, lớp phó hay tổ trưởng, tổ phó, mà chỉ có “phát ngôn viên” để chuyển thông điệp của thầy cô đến học sinh và ngược lại.

“Phát ngôn viên” còn đưa ra các giải pháp, phong trào nhằm cải thiện tình hình học tập, giúp các bạn học lực yếu, phát huy các tài năng văn nghệ, thể thao trong lớp…

Chú trọng trải nghiệm thực tế
Người Đức cho rằng trói buộc những đứa trẻ trong lớp học mà thiếu tính trải nghiệm thực tế sẽ dẫn đến những sản phẩm bị lỗi thời về mặt nội dung. Thầy cô đứng lớp còn quan niệm phải mất cả năm trời, thậm chí là vài năm người ta mới có thể xuất bản một quyển sách hạn hữu trong khi thế giới to lớn, vĩ đại đang vận động hàng giây. Thế nên kiến thức sách vở, phần lớn đã lỗi thời trước khi được trưng bày trên kệ sách.

Hơn một nửa số học sinh ở Đức chọn con đường học nghề thay vì dấn thân vào con đường đại học.

Người Đức quan niệm học tập để có một công việc phù hợp, thế nên trong khi một số nước như Việt Nam xem những học sinh không vào được đại học sẽ không có cơ hội phát triển, thì ở Đức người ta lại kỳ vọng rằng bộ phận học sinh này sẽ tỏa sáng khi được ghép với một công việc phù hợp.



Đức đã xây dựng một chương trình giáo dục và đào tạo nghề nghiệp toàn quốc, được quản lý bởi Viện Giáo dục và Đào tạo nghề nghiệp liên bang. Đây là một chương trình phối hợp giữa chính phủ và giới doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề để đào tạo nguồn lực cần thiết cho xã hội.

Chương trình giáo dục kép này truyền đạt kiến thức cả trên lớp học lẫn thông qua thực hành. Một cách cụ thể, người học sẽ đến các trường dạy nghề từ hai đến ba ngày một tuần. Ở đó, các lý thuyết và thực tiễn về ngành nghề sẽ được truyền dạy. Ngoài ra, các trường cũng buộc phải dạy các môn về kinh tế và xã hội, đào tạo ngoại ngữ và các kiến thức cơ bản khác.

5. Giáo dục ở Pháp: Mỗi học viên ứng với một vị trí trong xã hội

Trong khi nhiều nước khác xem giáo dục phổ thông là căn bản, còn cụ thể làm gì phải sau đại học, cao đẳng hay các trường nghề. Nhưng ở Pháp khi học phổ thông các học sinh đã biết mình sẽ làm gì sau khi tốt nghiệp.

Cho nên ở Pháp từ cấp 1 của chương trình phổ thông đã dạy rất bao quát. Pháp có đến ba loại bằng tốt nghiệp phổ thông khác nhau với những ứng dụng khác nhau. Đầu tiên là BAC General, Hệ này dành cho những học sinh có học lực khá giỏi hoặc những em thực sự muốn theo đuổi chương trình đại học hay cao học trong tương lai. Theo đó, các em có thể chọn học khối ngành tự nhiên (BAC Science), khối ngành kinh tế xã hội (BAC Economie Social), hoặc khối ngành văn học (BAC Littérature).College Students in Computer Lab — Image by © James Lauritz/Corbis

Các em học lực yếu hơn nhưng vẫn mong muốn theo đuổi việc học thì có thể chọn hệ BAC Tech. Chương trình đào tạo hệ này tạo điều kiện cho học sinh tiếp tục theo học các trường cao đẳng, trở thành những kỹ thuật viên, chuyên viên cao cấp.

Cuối cùng, những học sinh không hứng thú với chữ nghĩa hay có nguyện vọng muốn vừa tốt nghiệp phổ thông là có thể đi làm những công việc chân tay, làm thợ chứ chưa phải làm thầy thì theo đuổi hệ BAC Pro. Hệ này cung cấp các nghề cụ thể và các em học sinh được định hướng, chọn lựa và trong suốt hai năm cuối phổ thông có thể rèn luyện để đi làm ngay khi vừa ra trường với tay nghề vững.

Theo Vietdaikynguyen