Hiển thị các bài đăng có nhãn Chân dung. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Chân dung. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 30 tháng 12, 2017

NHỚ NÚI - DÒNG TỰ SỰ CỦA NHÀ THƠ UÔNG THÁI BIỂU



Nhận được tập thơ " Nhớ núi" của Nhà báo Uông Thái Biểu gửi tặng qua chị Thu Hương( Báo Tây Ninh), tôi thật sự bất ngờ. Mười mấy năm chưa lần gặp lại,cũng không liên lạc, ấy vậy mà Biểu vẫn nhớ dù anh không nhớ rõ chữ lót tên tôi.

Gặp nhau trong một dịp tôi tham gia Trại sáng tác ở Đà Lạt do Hội Văn nghệ Tây ninh tổ chức, lúc đó, Biểu đang là phóng viên thường trú của Báo Nhân Dân và cà phê với nhau gần trọn một buổi chiều. Duy chỉ có vậy nhưng cũng đủ để nhớ về nhau.,


Đọc bài thơ đầu tiên "Điệp Khúc", tôi đã bị cuồn hút ( cũng có thể nói đây là lần đọc thơ anh) bởi cái chất trầm lắng, sâu đọng và đặc biệt là cái cách dụng chữ vừa xưa, vừa nay đan xen nhau hết sức tự nhiên và tài tình của anh.

Không hoài cổ, cũng không bài xích "văn minh thành thị" nhưng chừng như ở anh có cái gì đó của sự hoài nghi, trăn trở, ray rứt và tự vấn...của một kẻ nặng tình trước sự đổi thay của con người và xã hội.

Điệp Khúc là một bài thơ hay trong tập thơ " Nhớ Núi" của anh

ĐIỆP KHÚC

Vẫn thế buồn vui của ngàn năm cũ
yêu ghét vẫn như xưa như thưở ông bà
em vẫn là em mai xanh mai bạc
hành tinh vẫn gần sát gót chân ta

Khắc khoải kêu một đời chim di trú
một đời mây bảng lảng đội trên đầu
sông vẫn cứ vơi đầy trong đục
cây một đời vấn vít gió Luy Lâu

Em gõ phím lập trình trên máy tính
những
ghét
yêu
cao thượng
thấp hèn
trên mặt đất hàng triệu người cày cấy
hàng triệu người ngồi nhặt trắng chia đen

Có lực hút gì mà ghê gớm vậy
những hạt li ti gắn mấy tỉ trên đầu
con cá buồn hiu đạp mình sông lạnh
chờ một ngày Lã Vọng ghé buông câu

Thứ Hai, 23 tháng 10, 2017

ĐÔI DÒNG VỀ THƠ TỪ TRẪM LỆ






Tôi xưng là người Tây Ninh nhưng thực ra không biết nhiều về TN, nhứt là giới văn nhân nghệ sĩ. Lúc còn trong nước hay cả lúc đi tỵ nạn nơi xứ người, tôi cứ bị cuốn hút vào văn, vào thơ, vào nhạc của những văn nghệ sĩ miền Bắc, miền Trung như Nhất Linh, Mai Thảo, Vũ Hoàng Chương…… hoặc là người miền Nam mà xa lắc ở đâu như Bình Nguyên Lộc ở Biên Hòa hay Sơn Nam ở Hậu Giang…. .. Tôi đâu ngờ rằng rất gần tôi, tại tỉnh nhà, có những nhà văn nhà thơ cũng rất tài hoa, văn chương sắc sảo nhưng vì những lý do nào đó họ không được nổi tiếng.
Anh Vương Văn Ký mới về Việt Nam đem qua 3 quyển tập, dưới dạng photocopy, 2 quyển nói về thân thế và sự nghiệp của Thanh Việt Thanh và Thẩm Thệ Hà và một quyển thơ viết tay của Từ Trẩm Lệ. Thanh Việt Thanh và Thẩm Thệ Hà hồi trước tôi có nghe danh, nhưng đâu ngờ một người một người sinh quán tại Gò Dầu chính là nơi gia đình tôi đang cư ngụ, còn một người là dân Trảng Bàng chỉ cách Gò Dầu 12 Km. Nhờ sự gợi ý của anh Ký, tôi xem lại quyển “Tây Ninh Xưa Và Nay” của Huỳnh Minh thấy rằng Tây Ninh cũng có nhiều văn thi đàn và nhiều nhà văn nhà thơ như Phan Yến Linh, Lê Hữu Tài, Phan Phụng Văn, Võ Trung Nghĩa, Hoài Trinh, Nguyễn Trường Anh….Nhưng nhà thơ làm tôi chú ý nhứt là Từ Trẩm Lệ (TTL)ä, một người lúc còn học tiểu học tôi gần như nhìn thấy ông hàng ngày, và nghe nói ông có làm thơ nhưng đâu ngờ những dòng thơ mang nỗi niềm u uất làm cho tôi rất xúc động.

Nhà thơ Từ Trẫm Lệ

Người ta nói nhựt tân, nhựt tân, nhựt nhựt tân…….., qua thời gian, Gò Dầu cũng đã thay da đổi thịt. Nhà cửa, đường xá, phong cảnh, con người….mọi vật đều đổi mới, nhưng nếu là người cố cựu có lẽ ai cũng biết gia đình ông đốc Trần Văn Hổ. Đây là một gia đình danh giá theo đúng nghĩa của thời thập niên 1950 và trong phạm vi một quận lỵ. Ông là hiệu trưởng trường tiểu học, khi về hưu còn lưu lại dạy thêm mấy năm và tôi là học trò của ông trong thời gian nầy. Con ông, rễ ông, người nào cũng “hay chữ”. Ông Tư Đức là Hiệu trưởng trường tư Hữu Đức, nổi tiếng chuyên dạy luyện thi đệ thất. Cô Bảy Tỵ dạy tiểu học, chồng cô là thầy ký quận. Người con út tên Lương là một chuyên viên cấp cao trong ngành cảnh sát đặc biệt ở Sài Gòn thời VNCH. Người anh em chú bác của ông là cố quận trưởng Trần văn Giám…..
Nhưng gia đình ông di truyền một chứng bịnh kỳ lạ. Lúc ông Đốc Hổ ở tuổi 60, lưng khòm thấp xuống, khi muốn nói môi giựt liên hồi. Ông Tư Đức vai xệ một bên, lưng cũng khòm. Một ông nửa, có lẽ là người thứ sáu, chuyên nằm một chổ đọc sách. Và hình ảnh tôi nhớ nhứt là ông thứ năm Từ Trẩm Lệ, gương mặt phương phi, mủi cao, mắt sáng, mỗi buổi sáng chưn thấp chưn cao chống gậy đi chợ. Nhà ông cách chợ Gò Dầu độ 200 thước và tôi là đứa trẻ con nhà nghèo, thường phụ Má tôi coi gian hàng trong chợ nên thường trông thấy ôngï.

Dầu chưa một lần tiếp chuyện với ông nhưng đối với ông, tôi cảm thấy thật gần gủi, vì ông Đốc Hổ thường nhờ học trò, trong đó có tôi, về nhà làm việc lặt vặt. Gia đình ông gồm toàn những người có học, tôi rất hâm mộ, và thời thơ ấu, ngôi nhà của ông là niềm mơ ước thầm kín của tôi. Nhà lai kiểu Pháp, chung quanh có vườn, ngoài cổng là đường xe, bên kia đường là bến sông tàu đậu. Qua ĐS/TNMY, tôi muốn giới với bạn bè những gì tôi cho là quý báu của quê mình, nên mỗi khi anh Ký về Việt Nam tôi đều có nhắc làm sao tìm tài liệu để viết về nhà thơ Từ Trẩm Lệ. Nhưng anh Ký cho biết rằng ông đã chết, không vợ con, văn thơ giấy tờ để lung tung, thất lạc. Nhưng kỳ nầy anh gặp may, có một vị rất yêu thơ người Gò Dầu trao cho anh một quyển photocopy thơ chép tay của Từ Trẩm Lệ.
Tập thơ gồm 35 bài, nhiều bài rất dài, cở 50, 60 câu, có bài dài trên 100 câu. Không biết TTL đã làm bao nhiêu bài thơ, đã có xuất bản tập thơ nào chưa, hay đây là tập thơ duy nhứt của ông. Kèm tập thơ có một bài giới thiệu của một vị tên là Văn Xuân viết năm 1995:
“Nhà thơ Từ Trẩm Lệ tên thật là Trần văn Hinh, sinh năm 1925 tại Gò Dầu-Tây Ninh trong một gia đình giáo học.
Sau khi học hết tiểu học ở trường Gò Dầu Hạ, Từ Trẩm Lệ thi đậu vào trường trung học Petrus Ký (bây giờ là trường Lê Hồng Phong). Nhưng đến năm thứ hai chuẩn bị lên năm thứ ba thì Từ Trẩm Lệ bị trọng bệnh, gọi là sơ cứng cột sống, phải nghỉ học.
Từ ấy Từ Trẩm Lệ thành người có tật, luôn luôn chống gậy, đi đứng với dáng điệu cứng đơ cột sống.
Do nghỉ học sớm, Từ Trẩm Lệ bắt đầu sự nghiệp thơ của mình trên các báo Việt Bút, Ánh Sáng…từ những năm 1946-1947 và lăn lóc nhiều năm trong làng báo. Sau đó, chán cảnh phồn hoa, từ Trẩm Lệ trở về quê dạy học nhưng vẫn luôn luôn gởi bài cho các báo như Thẫm Mỹ, Bông Lúa, Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Tiểu Thuyết Thứ Năm, Mã Thượng, Nhân Loại, Văn Đàn, Thời Nay, Phổ Thông, Vui Sống…
Từ năm 1984 trở đi, một lần nữa Từ Trẩm Lệ lâm trọng bệnh, bị liệt nửa thân, phải nằm một chỗ trong hoàn cảnh khó khăn như bài viết của nhà thơ Thanh Việt Thanh trên Tuổi Trẻ ngày 18-4-1991. Hiện nay Từ Trẩm Lệ đang nằm điều trị dài hạn tại Bệnh Viện Y học Dân tộc Tây Ninh.”

Anh Ký cho biết TTL đã qua đời năm 1998 thọ 73 tuổi.

Mơ làm chinh khách

Năm 1945 TTL được 20 tuổi, cái tuổi của mộng mơ và tràn đầy nhiệt huyết. Âm vang của Cách Mạng Mùa Thu tỏa rộng khắp nước. Hàng hàng lớp lớp trai gái hăng hái lên đường theo tiếng gọi non sông, đánh đuổi thực dân Pháp đang theo gót quân Anh tái chiếm Miền Nam. Việt Minh lại khéo tuyên truyền, nhiều bài hát được tung ra lại càng làm nức lòng những chàng trai trẻ:
“Nầy anh em ta, cùng nhau xông pha lên đường,
Kiếm nguồn tươi sáng
Ta nguyền đồng lòng điểm tô non sông, từ nay, ra sức anh hùng….”

Hay:
“Nầy thanh niên ơi, đứng lên đáp lời sông núi
Đồng lòng cùng đi, đi, đi kiếm nguồn tười sáng…”

Hoặc:
“Mùa Thu rồi, ngày hăm ba, ta đi theo tiếng kêu sang hà nguy biến,
Rền khắp trời, lời hoan hô, dân quân nam nhịp chân tiến đến trận tiền…”

TTL cũng ghi lại cái không khí rộn ràng chuẩn bị kháng chiến như sau:

Đêm chưa loảng, canh sâu còn vương vít
Trên phố phường, thành nội ngủ im hơi,
Tuy nhiên trên đường phố khắp nơi nơi
Vẫn vang dội nhịp đều chân ai bước
Đoàn chiến sĩ dân quân đang rạo rực,
Súng hờm tay, tuần vãng khắp Đông, Tây.
Tin báo nguy loan chạy mấy hôm rày
Nghịch huy động. . .tình hình đe căng thẳng.
Khắp già, trẻ, gái, trai đồng đã sẳn
Chực đê bờ ngăn vỡ nước ngoại xâm.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
(Ghi một thời gian)

Lúc đó Tây Ninh có nhiều thanh niên, công chức bỏ nhà, bỏ sở ra đi, trong đó Thanh Tra Học Chánh Trần Văn Hương, (Tổng Thốngï VNCH năm 1975-Xin xem bài…… .. . . ) là thủ lãnh. Về sau có người vỡ mộng quay về, nhưng đó không phải là tâm trạng của Từ Trẩm Lệ. Ông chưa chạm vào thực tế, ông dừng lại ở điểm đứng mộng mơ. Cái gì thèm muốn mà chưa đạt được con người thường có tâm trạng rạo rưc,ï háo hức. Ôâng mơ về một chân trời mới lạ, hào hùng, là nơi có thể thỏa mản cái chí tang bồng hồ thỉ:

Một đêm mơ thấy làm chinh khách
Đi cứu non sông họa quốc thù
Ta đi trong giữa bờ lau lách
Kiếm rạt rào khua trận gió thu

Ta đứng trên đồi cao lặng ngắm
Aâm thầm non nước hận chông gai
Những giòng máu chảy loang lòng đất
Rền rĩ hồn ai vất vưỡng bay
. . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . .
Ta vung ngọn kiếm thét căm hờn,
Buông vụt mình trong đám địch quân
Đường gươm loang loáng lùa xông xáo
Đầu rụng người rơi ngập bãi tràng
. . . . . . . . . .. . . .. . . . . . . . . . . . .
(Tan cờ chinh phục)

Tráng sĩ ra đi rữa hận quốc thù thì phải có cảnh biệt ly nhiều nước mắt. Bến sông chiều em tiễn đưa anh, lòng đau xót nhưng không dám đổ lệ nhiều vì sợ “tiếng cười” thường tình nhi nữ:

Trời vẫn mây mù, mưa hắt hiu
Em đưa anh đến bến sông chiều
Chẳng đem khúc hận sầu reo rắt
Không cả như mưa đổ lệ nhiều.

Phong yên đã dấy khắp biên ngoài
Non nước chờ mong những tuổi trai
Chút thường nhi nữ em đâu dám
Mà để nam nhi một tiếng cười.

Nhưng mà khi anh bước xuống đò, thuyền tách bến, xa nhau biết bao giờ gặp lại. Em cố dằn lòng nhưng lệ em rơm rớm rồi tràn mi; em xót xa nấc nghẹn, anh nhẹ nhàng vuốt ve, khuyên giải:

Anh xuống con đò, em đứng trông
Người anh đi cứu giải non sông
Em mừng hay xót, cho rơm rớm
Nước mắt tràn mi, nghẹn má hồng

Đò đã gay chèo, chở lối sang,
-Tình ta thêm rộng giưã giang san
Rồi đây mây gió, hồn em sẽ
Dõi bóng anh trên khắp bãi tràng.
(Khúc nhạc ly tình)

Giã biệt em anh đi vào chiến khu, nơi rừng sâu xanh ngát, nơi chất chồng bi thương gian khổ nhưng hùng tráng:

Đây chiến khu, những ngày nào giông bảo
Nơi đầu xanh len ẩn lá ngàn xanh,
Nơi tóc dựng căm gan, hồn kiêu ngạo
Nơi máu hùng sôi sục, mắt long lanh
. . . . . .. . . . . . . .. . .. . . . . . .. . . . . . .
Ôi! rừng hoang, xương đã tan vào đất,
Cỏ cây nầy máu tẩm dấu hi sinh
Ôi! rừng hoang, mồ bao trang tài sắc
Hận quốc thù, dẫu dãi nợ quân binh.
. . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . .. . . . . .
(Về qua chiến khu)

Đời chinh khách phải lạnh lòng nơi chiến địa, nhưng tác giả là một nhà thơ với con tim nhạy cảm, đã thấy kinh hoàng, sầu khổ khi một chiều lạc bước trên chiến địa:

Ta lạc bước một chiều nơi chiến địa
Vắng hoang tàn, không khí rợn tha ma.
Trên từ ng không, một vừng trăng mai mĩa
Hay ngại ngùng?. .ánh lộng quá phôi pha.

Dưới lớp cỏ, côn trùng than rên rỉ,
Thây người nằm la liệt, lặng lờ im,
Họ nằm ngủ giấc buồn luôn vạn kỷ
Lạnh trời cao lạnh cả gió trang nghiêm
. .. . . . . . . . . . . . . . . . . .. .. … .. ..
Ta lóng đợi tiếng gà không thấy gáy,
Hay đất trời mê sảng lặng tiêu rồi?
Khối địa cầu chỉ sót đây còn lại
Một mình ta nhìn với những đống thây!

Ta buồn rầu, đứng lên đi lảo đảo
Vấp vào thây, loạng choạng . . . lững lờ đi.
Ta hướng bước, xua trên từng vũng máu,
Tìm mặt trời đem đốt hết tử thi!
(Tìm mặt trời)

Mặc cảm tội lỗi
Căn bịnh quái ác đã làm giấc mơ của ông tan vỡ. Một người cột sống cứng đơ, chân bước khó khăn thì không thể nào làm chinh khách, không thể có cơ hội vào chiến khu hay lang thang nới chiến điạ. Nhưng tổ quốc đang réo gọi, những chàng trai, những cô gái bạn bè ông đang ngaỳ đêm chiến đấu bảo vệ quê hương. Ông cảm thấy thẹn lòng, tủi nhục, buồn bả và muốn thốt lên lời tạ lỗi:

Lỡ cả nam nhi, thẹn bách tùng,
Bút sầu tựa án, ngại chiều đông,
Vi vu tưởng tiếng gào sông núi,
Gió bấc như khơi dục buốc lòng.

Mà biết phong yên, nhục phủ phàng
Người về khoác áo hận giang san
Đường lên sông núi tràn thương nhớ.
Và gió và mưa chỉu kiếm đàn.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Ngơ ngẫn đêm về đêm nhớ thương
Bơ vơ chút gió lịm bên đường,
Nét son lẫn khuất màu đen tối
Tiếng động mồ côi rã dưới sương

-Thà như chiếc lá rụng chiều phong!
Nhưng. . .nói làm sao?-nghẹn cả lòng!
Ai có về trên hồn xã tắc,
Cho ta tạ lỗi, thẹn tang bồng.
(Lỗi một lòng trai)

Mặc cảm tội lỗi bàng bạc khắp mọi sinh hoạt đời thường của ông. Nhìn một bửa tiệc vui vầy trong thành nội, ông ray rức tưỏng nhớ đến người chiến sĩ đang xông pha nơi làn đạn muĩ tên. Ông viết bài thơ dài đến 95 câu mô tả cái tâm trạng buồn bả của mình:

Anh đi làm chiến sĩ
Nổ súng bên rừng xa
Tôi nằm đây mõi chí
Đêm đêm não tiếng gà
. . . . . . . . . .. .. .. . .. .
Buồn mở xa viễn vong
Sầu nghe máu nhuộm thành
Bốn phương mờ gió lộng
Bao hướng đổ rừng xanh
. . . . . . . . . . .. . .. .. … . . . .
Nghìn lệ đắng máu tanh
Mà rượu đàn hỉ hạ
Mà yến tiệc linh đình
Mà trau duyên sửa dáng
Kinh thành ơi! kinh thành
(Bức thư tâm sự thành nội)

Nghĩ về một chiến sĩ cang trường sa cơ thất thế, đang bị đối phương hành hạ chốn lao tù, ông cảm thấy buồn đau tủi nhục:

Anh là kiếp hùm thiêng trên ngàn thẳm,
Phút sa cơ, mất vuốt giữa kinh thành,
Cốt oanh liệt in tầng mây vạn dặm
Anh hôn vào tay nắm gởi rừng xanh

Anh đứng giữa ngục tù chôn anh lại,
Anh nhìn tôi gầy gõ bước bên đường.
Anh mĩa mai hay là anh thương hại
Mà môi anh vừa thoáng nét u buồn?
(Anh và tôi)

Trên lầu hương phấn, bên người đẹp má hồng tưởng rằng vui vẻ sung sướng nhưng mặc cảm tội lỗi vẫn theo ông dày vò:

Ai bỗng đem tôi bỏ chốn nầy
Giữa trời trang điểm má hồng say,
Riu riu phách lịm giòng ma tuý,
Tửu lộng mềm môi cháy đuốc mây.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . .
Em sát vào ta, kẽo lạnh lùng.
Ơ kìa trăng rọi mái trên sông,
Ai phi vó ngựa qua cầu trắng
Động mảnh tô(?) trăng rớt trập trùng.

Lệ ứa làn mi, lệ ứa mi.
Thoát mờ trăng thoáng bóng người đi
Cho ta ly nữa, cho ly nữa
Ta muốn đêm nay chẳng biết gì.
(Say nguì hương phấn)

Tiếng kêu trầm uất
Còn nhiều, nhiều nữa những câu thơ nói về tủi nhục, u buồn. Ông muốn sám hối, ông muốn tạ tội nhưng nào có vơi được niềm ưu uất nên đôi khi ông gần như cuồng loạn. Đọc 35 bài thơ với trên ngàn câu chữ ta nghe như vang rền tiếng kêu trầm uất. Xin hãy lướt qua vài tựa bài: Sám Hối, Một Đêm Mưa Loạn, Cuồng Đau, Cuồng Ngày Xuân, Hồn Trong Thâm Tối, Đau Thương, Nhạc Hồn, Cuồng Loạn v.v . . . Trong bài Ngày Mai, Ngày Mai, ta tưởng rằng có những gì tươi vui hi vọng, nhưng không, chất cuồng vần đậm nét:

Nằm đây, nằm đây
Ta nằm đây chết mãi không hay
Bao ngày bao tháng thời gian hỡi,
Hồn buồn như mộ, xác như thây

Nằm đây, nằm đây
Ta chết bao giờ ta chẳng hay,
Bôi lên mây trắng, rũ ra cười
Gỏ nhịp xiêm nghê hát lạc loài.
(Ngày Mai, Ngày Mai)

Trong bài Một Đêm Mưa Loạn, ông tìm vui trong hương phấn nhưng sầu vẫn dâng cao , cuồng cũng thét gọi đến đổi phải cắn vào tay cho rõ máu để nghe run rẫy cả linh hồn:

Ta thấy nghẹn toàn thân, say rũ rượi.
Vượt mình trên hành lạc, thẩn thờ đau
Ta cúi giữa chua cay, đầu chới với
Tưỡng đang nhìn ác mộng giưã chiêm bao.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. .. . . . . . .
Cắn vào đây cho sầu ta rõ máu,
Để ta nghe run rẫy cả linh hồn
Aáp vào đây đầu em, cho gió bảo
Dừng bên ngoài-ta đợi chút tình thương!
(Một Đêm Mưa Loạn)

Kết.
Ít có nhà thơ nào tha thiết yêu thương non sông đất nước đến như vậy và cũng rất ít nhà thơ bày tỏ được những cảm xúc của mình mạnh mẽ đến như vậy. Thơ là “tiếng lòng” của những người nhạy cảm. Tiếng lòng của những chàng trai mới biết yêu lần đầu, tiếng lòng của những cô gái gặp phải duyên tình dang dỡ. . . Thì xưa nay Việt Nam ta có biết bao nhiêu tập thơ tình và biết bao bài thơ hay nhưng những người có tâm tính hơi bất bình thường như Hàn Mạc Tử, như Buì Giáng, như Từ Trẫm Lệ v.v. … . .thì tiếng lòng của họ có vẽ thống thiết và vang dội nhiều hơn. Đọc hết tập thơ Cuồng Loạn ta thấy đâu đâu cũng có cảnh điêu linh của dân tộc, cảnh tàn phá của đất nước, cảnh hào hùng của chiến sĩ cam chịu gian khổ hiểm nguy, cảnh hoang tàn nơi chiến địa thây phơi máu đổ, cảnh bi luỵ chia ly, cảnh ngục tù xiềng xích. Rồi cái tâm trạng buồn đau, tủi hổ của Từ Trẫm Lệ từ thiết tha buồn chán, rồi mặc cảm dày vò rồi lần lần đi đến u uất, cuồng nộ.
Có một điều rất lạ là tại sao cảm xúc cuả ông xem ra rất thật, trong khi người ta tưởng rằng điều kiện sức khoẻ không cho phép ông tiếp cận với cảnh, với tình, với chất liệu mà ông thường tả trong thơ, như chiến khu, chiến địa, bến sông hay cả trên lầu hương phấn. . . Nếu là tưởng tượng, là hư cấu mà lời thơ ào ào tuông ra trong những bài trường thiên với ngôn ngữ rõ ràng, dứt khoát, với ý thơ dạt dào, với hình tượng sống đôïng và nhứt là đã gây được xúc động mạnh mẽ cho người đọc thì quả ông cũng là một nhà thơ tài hoa.
Xin nhắc lại, ngoài tập thơ Cuồng Loạn, ta không biết thi sĩ đã làm bao nhiêu bài thơ, đã xuất bản tập thơ nào hay chưa, nên việc điểm thơ và tìm hiểu dòng tư tưởng và cảm xúc của tác giả rất khó. Xét nội dung những bài trong tập thơ Cuồng Loạn ta chắc rằng những bài thơ nầy ra đời trong giai đoạn 1945-1954, những năm chiến sự tàn khốc, Việt Minh lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp dành độc lập cho dân tộc. Nhưng rồi sau hiệp định Genève, Miền Nam tương đối có sự an bình cởi mở trong mấy năm, suy nghĩ về bạn thù cũng có thay đổi, và người ta vẫn thấy TTL cũng với nón nỉ, củng với baton thường khập khiểng bước đi ngang qua chợ Gòø Dầu. Lúc nầy ông còn buồn chán, còn u uất không? Và sau đó nửa, cả đất nước Việt Nam bước vào một cuộc chiến tranh còn khốc liệt hơn thì cái tâm cảm của ông đã biến chuyển như thế nào? Rồi một lần nửa hoà bình lại đến, nhưng lại là một thứ hoà bình nhân tâm ly tán, dân tộc bị phân biệt, đọa đày, đói khổ. Trong gần 45 năm cho đến cuối đời, thi sĩ TTL đã nghĩ gì, đã cảm thấy gì, ông có còn buồn chán, u uất, cuồng nộä hay không?
Rất tiếc rằng câu hỏi nầy chúng ta không có điều kiện để tìm hiểu và trả lời, nhứt là ông đã qua đời vào năm 1998 và không có vợ con.
Chỉ biết rằng cùng với lời giới thiệu ghi trên, ông Văn Xuân có kèm theo hai bài thơ của TTL, một bài tên Bơ Vơ được đăng trong Báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy, số 2, và một bài tên Nặng Một Cành Lan, có những câu thơ đằm thắm dịu dàng, nhưng vẫn không dấu được tâm trạng buồn bả, nuối tiếc:
. . . . . . .. . . . . . . . . . .. . . . . . . . . . .
Đất bằng bỗng nổi thuỷ triều
Có người đánh cướp một chiều hoa tôi
Đem đi đến một cõi trời
Trồng trong chậu sứ, vẽ vời lăng nhăng
Nơi kia không có màu trăng
Nét hoa biết giữ, được chăng Lệ Kiều?
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

THỌ ÂN

Thứ Hai, 11 tháng 9, 2017

VĂN THÙY – THƠ TÌNH





Mộc Nhân – Tổng hợp từ nhiều nguồn




Nhà thơ Văn Thùy quê ở thị trấn Ân Thi, tỉnh Hưng Yên, ông luôn thoắt ẩn thoắt hiện như chính thơ mình.
Người ta đã gán cho Văn Thùy những cái tên: lục bát giang hồ, nhà thơ vườn hoang, lãng tử thi, dị nhân đạo sỹ, quái nhân hiệp khách, thu thủy chữ, cửu vạn chữ,...

Nếu Văn Thùy là một tay đan bồ cót rổ giá giần sàng nong nia dưới bóng tre làng, thì lục bát là những nan tre nuộc lạt mà ông lẩn mẩn trau chuốt tối ngày. Nếu Văn Thùy là tay kiếm cá đồng quê, thì lục bát là cái đơm cái đó của gã. Nếu Văn Thùy là một thầy lang, thì lục bát là dao cầu thuyền tán. Nếu Văn Thùy là một thầy cúng, thì lục bát là mõ là chuông. Nếu Văn Thùy là một tay bán quà rong thì lục bát là tò he, là lạc rang kẹo kéo (TS Chu Văn Sơn).
Văn Thùy, luôn và hằng tự giới thiệu mình trong các tập thơ chép tay bán đắt như tôm tươi là Hợp tác xã thơ Hồn Rơm.
Thơ Văn Thùy được gọi là thơ bút lông vì ông già 70 cái hom hem này có biệt tài trình bày thơ lục bát của mình bằng thư pháp rất đẹp. Và không ai có thể tin rằng “anh già” này đã “bịa” ra vô số câu thơ tình cực hay làm ngơ ngẩn lòng người.
Những cặp lục bát tài hoa được Văn Thùy thể hiện ngọt như mía lùi, nhẹ như tên và tự nhiên như... ruồi. Chữ nghĩa không cầu kì, uốn éo, văn phong đa dạng, lúc phảng phất hồn thơ Nguyễn Bính, nhưng không man mác, nhè nhẹ mà rất mạnh. Mảng thơ thế sự thì quyết liệt, đáo để, bỗ bã, chữ nghĩa “tử tế” và tung hoành. Đến báo chí cũng phải công nhận, Văn Thùy là người chuyên “chế tạo” ca dao và “sản xuất” thơ sạch.
Người ta thấy trong thơ ông một chút Nguyễn Bính, một chút Nguyễn Duy, một chút Đồng Đức Bốn, một chút Phạm Công Trứ, lại một chút Bút Tre…, nhưng những xoang điệu hơi hướm người khác vẫn không phủ mờ được hình cốt Văn Thùy. Ấy là một Văn Thùy bám chặt hương hỏa ca dao, ăn đong với đời thường, bán sỉ đời mình cho thơ, bán lẻ hồn mình cho từng cặp lục bát.
Chúng tôi xin trích giới thiệu một số câu thơ / bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Văn Thùy.


***


Dăm bài dở mếu dở cười
Nội soi chữ, thấy nhiễm lời thằng khôn


Em đi mấy bước nữa rồi
Dẫm chồng lên vết hôn hồi mới yêu


Vừa ban thông điệp yêu đương
Bỗng dưng cả bộ dát giường động kinh


Có gì mạnh đến lạ thường
Yêu suông đã bốn chân giường còn hai


Từ ngày sa đọa làm thơ
Khôn ngoan thêm mỏng ngẩn ngơ thêm dày
Đam mê là tội giời đày
Càng béo chữ nghĩa càng gầy niêu cơm

Đâu như em thích tôi rồi
Mẹ cha đã cử nụ cười trực ban


Trưa nay nắng nẩy mầm rồi
Mắt em sao lại đâm chồi mưa ngâu.


Em nguyền khổ hạnh ăn chay
Tôi thề uống cạn đắng cay cõi trần

Thôi em cố gắng ở nhà
Lá chanh cứ thái đùi gà cứ băm
Tôi đi rước chữ vài năm
Cưới xong lục bát về nằm ru em


Kệ thơ son phấn cấp cao
Ta hong mấy mẹt ca dao ruột vàng
Mặc người chữ nghĩa xênh xang
Ta khênh lục bát giữa làng đọc chơi.


Dứt phăng sợi chữ tân thời
Xe thành lục bát nối lời ru xưa.


Nhịp hành khúc của người ta
Mình gam La thứ mình ca giọng mình
Thơ người bác học cung đình
Chữ mình tấm cám thì mình ca dao.


Xin làm một tiếng chuông chiều
Cho em thỉnh một lần yêu lỡ làng
Gửi em mấy sợi rơm vàng
Để em buộc lỏng mơ màng gió mây.

Chẳng làm con sáo sang sông
Chị thành một giọt người trong bể người
Anh nằm đâu ở góc trời
Chị tôi đứng vậy suốt đời khói nhang.


Ra ngõ gặp gái một con
Xòe tay đậy mắt kẻo mòn con ngươi


Sao đành làm gái một con
Để cho phỗng đá liếc mòn con ngươi.


Em ăn mày Phật cửa chùa
Tôi thành hành khất bốn mùa yêu chay…


Em còn mặc cả gốc mai
Quay ra người bán mất hai cành đào
So đo nụ thấp nụ cao
Chợ tan còn cặp má đào đợi phai


Từ ngày đốc chứng làm thơ
Khôn ngoan vốn mỏng ngẩn ngơ thêm dày


Bây giờ hoặc mốt mai sau
Biết ai vuốt mắt cho câu thơ buồn


Một mai hóa cát bụi rồi
Biết ai hú vía cho tôi thơ tình


Người đi đan lát cao sang
Tôi ngồi rút sợi trăng vàng dệt thơ
Người xa xa đến mịt mờ
Người gần thì cứ giả vờ như xa.


Cho tôi sờ áo một lần
Đêm nay bất chấp tử thần gọi tên
Một lần thôi chẳng vòi thêm
Chạm tay vạt áo khát thèm đã tan
Đã âm thầm nỗi yêu khan
Một phen mó áo vô vàn ngẩn ngơ
Hãy tin những tín đồ thơ
Yêu chay nên chỉ dám sờ áo thôi
Ngón tay ngọng mấy đốt rồi
Kể là chín ngón hỏng mười cũng xong
Áo gì cứ mỏng mòng mong
Kiểu này rồi đến phải lòng mất thôi
Rủi mai hóa cát bụi rồi
Hú hồn đốt mã cho tôi áo này
Vía van lang bạt cõi mây
Thương tôi đừng mặc áo dày được không


Đêm qua em đúng là em
Còn tôi thì lại chả thèm giống tôi


Hoàng hôn đậy bớt nét cười
Sợi trăng buộc lỏng hai người gần nhau


Em nguyền khổ hạnh ăn chay
Tôi thề uống cạn đắng cay cõi trần.


Vướng vào đôi mắt lá răm
Đi bộ cũng tội quanh năm đắm đò.

Chủ Nhật, 12 tháng 3, 2017

MỘT VÙNG CỎ DẠY TRĂNG MỜ CÒN LAY





Nguyệt Thảo: quê ở An Giang ,sinh 1979 và mất ngày 13.3.2008 .

Khi cây cọ thời gian loang vào toan mùa chút bơ vơ lúc Xuân dần xa về phía cuối đường. Có một gam màu lành lạnh khẽ nhói vào tôi, để chùng xuống tiếng tơ thương về một ngày tháng Ba tê nhói vùng cỏ dại suông nẻo trăng mờ, nơi có một đóa Phù Dung vừa chợt tắt. Em đã đến bên đời, ngân lên những cung bậc yêu thương sầu muộn lắm, để nhẹ nhàng đi mà đuối cho bao hồn nhung nhớ. Tiễn em đi là những giọt lặng thầm rớt lạnh lối chia phôi ...

Thôi tóm lại.
trong bụi bờ là đất
Chẳng oan khiên
ta cũng hóa giun trùng
Có trời biết mình yêu nhau chân thật
Hóa giun trùng
cho lòng hóa khoan dung
Thôi tóm lại
hoa tàn hương cũng tận
tháng ngày đi
đổi lại
nếp nhăn về
tôi/ son phấn/ tẩy bồi/ môi mắt nhận
người tỉnh say/ đàng điếm/ giả/ chân thề
(thôi tóm lại)

Đó là em - Nguyệt Thảo, xuất hiện đầu tiên trong topic Thôi tóm lại, trên thotre.com. Những câu thơ chợt bật lên những cung bậc trầm buồn mang đầy trải nghiệm hoang vu và nước mắt. Nước mắt ấy đã từng ướt sũng trên từng nẻo lòng em qua, rồi se sắt lại, rồi kiệt khô khi đã: tôi / son phấn/ tẩy bồi / môi mắt nhận. người tỉnh say / đàng điếm/ giả/ chân thề, để rồi sau lại trở về giọt giọt rơi cho phai đi những vết u phiền của định mệnh khi em biết Hóa giun trùng/ cho lòng hóa khoan dung giữa tha nhân vốn dửng dưng và bội bạc. Bao dung bởi đời là nẻo tất nhiên phải đi qua, an nhiên là điều cần thiết để tiếp tục hành trình về cái nơi mà ở đó Có trời biết mình yêu nhau chân thật. Ôi! một cái nhìn thậm già, ngờ đâu lại thoát ra trong tâm hồn một cô gái trẻ, một bầu trời của thanh xuân xuất hiện những đám mây u ám, tín hiệu của những điều chẳng lành. Nhưng biết sao, bởi cái phát tiết của Phù Dung đã báo hiệu về một chiều cánh sã, phải chăng em đã nhận ra mình sau những tứ thơ đau:

Run tay rung phím nhạc thừa
ai rơi tiếng nấc xuống vừa khúc nhau
môi khô
ướt đoạn tình nhầu
sol buồn kiếp nọ mi sầu cõi kia
thăng trầm giữa quạnh hiu
khuya
những con chữ nhảy lên bia đá mình
cuống cuồng câu hát lời kinh
vật vờ áo ngủ
phục sinh tôi về
(karaoke buồn)

Yêu và được yêu là niềm khát khao và là hạnh phúc của nhân sinh, đó là những âm thanh đầy quyến rũ. Nhưng khi lọt vào thế giới em chỉ còn lại những âm thừa, nấc lên những cung âm nghẹn ngào đầy hiu quạnh, em đang hát hay là em đang khóc trong tiếng hát khi: môi khô /ướt đoạn tình nhầu /sol buồn kiếp nọ mi sầu cõi kia để đêm khuya bỗng bỗng vỡ òa những con chữ nhảy lên bia đá mình lạnh tê linh hồn xiêm mỏng đang lả xuống cuống cuồng câu hát lời kinh mà níu cõi phục sinh từ hút trời xa vắng trong giấc ngủ vật vờ:

Chiều giường - đo thiếu trăm năm
tôi kê gối lệch tôi nằm nghiêng lưng
chăn thu đắp mảnh lừng chừng
cao / nguyên / nhũ đỏ / thấp / rừng / rũ nâu
nghiêng đèo dốc lượn về đâu
cồn dâng mấy lớp khe sâu mấy tầng
Máu dồn da thịt nghiêng thân
tay nghiêng hứng giọt trong ngần triết / minh
đất trời nghiêng cõi bình sinh
tôi xiêm áo lại nghiêng mình tạ tôi
(Một Mình! Tôi Ngủ Nằm Nghiêng)

Tình một ngày bỏ ra đi, thôi trăm năm đó nói gì buồn vui. Đêm là nơi cõi miền ủ nuôi giấc mơ, là nơi con người được trở về với trạng thái bình yên, tái tạo lại sinh lực cho ngày sau. Đêm cũng là chứng nhân cho bao cuộc tình lãng mạn.... với da ngọt môi thơm và nồng nàn ân ái.
Thế nhưng, đêm với em lại là một cạm bẫy, cái cạm bẫy đã nuối chửng em vào đáy vực cô đơn Chiều giường - đo thiếu trăm năm/ tôi kê gối lệch tôi nằm nghiêng lưng, một không gian em lồng lộng tiếng thở dài, tiếng thịt da réo gào đòi được yêu thương chở che và dâng hiếncao / nguyên / nhũ đỏ / thấp / rừng / rũ nâu /nghiêng đèo dốc lượn về đâu /cồn dâng mấy lớp khe sâu mấy tầng giờ chỉ còn rát lạnh hơi sương đêm bủa buông vào từng ngóc ngách gối chăn . . . tất cả nghiền nát em trong sự quẫy đạp tuyệt vọng vào hoang vu tay nghiêng hứng giọt trong ngần triết / minh . Những câu lục bát vốn bình yên là thế mà bước vào cảnh giới đêm em lại bỗng trở thành những cơn lốc giật tê người. Có ai đó khi đọc những bài thơ em sẽ cho rằng nhiều những câu thơ mang sự dung tục . Thôi thì sao cũng được, tất cả đều do tâm đối cảnh. Với riêng tôi thì không, có chăng chỉ là những phút giây lòng em yếu đuối nhất khi soi mồ côi vào chính mồ côi để bật lên những câu thơ đầy tài hoa, dệt lên một bức vẽ thật đời trong thật thà tiếng nấc bơ vơ đất trời nghiêng cõi bình sinh / tôi xiêm áo lại nghiêng mình tạ tôi. Và:

thổi tro trong nhúm tro tàn
níu hoàng hôn lại trong hoàng hôn phai
lòng theo biển rộng sông dài
giòng tôi từ cõi thừa thai chảy về
chảy về chốn bỏ tôi đi
trời cho có một dậy thì ấy thôi
ơn nhau sống một lần đời
nên yêu cũng chỉ một người .... mà yêu
chút tình còn lại mang theo
chút ghen với họ
chút kiêu với lòng
nhặt ra trong mắt môi chồng
thây hồng nhan bạc phận hồng nhan/ tôi?
đời cho sống một lần thôi
sao không yêu hết / nhỡ rồi . . phải khi
một mai qua dốc xuân thì
muốn yêu nữa biết lấy gì mà yêu
nhặt chiều trong cõi hoang liêu
thấy hoang liêu tận ánh chiều dương tan
nhặt tro trong nhúm tro tàn
thấy tôi ngồi giữa bóng hoàng hôn tôi
(Thổi tro trong nhúm tro tàn)

Lòng người là một thứ dễ vỡ chưa từng thấy , mà đời thì luôn rập rình đánh tráo những yêu tin. Con đường càng đi cành một xa, nhưng đã lỡ làm kiếp người thì làm sao đứng lại. Tôi tiếc cho em đã quá cả tin vào tình đời, ngay cả khi biết đó chỉ là gian dối Hết đổ thừa em/ lại đổ thừa cho Chúa/anh hèn như con chó/ của lão ăn mày điên phải chăng em muốn mang trái tim thật thà để chuộc lỗi thế nhân chăng khi

Chẳng dựng đời nhau được
thì dựng người nhau lên
bằng dựng tình nhau trước
trái tim mình ưu tiên.
(nói với người)

Để rồi sau đó lại ngỡ ngàng khi chợt nhận ra mình bị phụ bạc, nhưng đối ngược với thái độ thường có của thế gian, em vẫn nhẹ nhàng như chẳng thể nhẹ nhàng hơn:

Đừng đổ thừa cho Chúa
cứ đổ thừa cho em
Đừng đổ thừa cho Chúa
cứ đổ thừa cho em
Đừng đổ thừa cho Chúa
cứ đổ thừa cho em . . . !
(cứ đổ thừa cho em)

Bởi em biết người đã cố đi thì chẳng mong quay về, ngày lạc nẻo chỉ còn là đêm tối, em nghe sự ra đi của những cuộc tình như nghe tiếng gió ngàn lay dỗ giấc cây khuya:

Mắt trăn trối: góc thừa vuông da thịt
mảnh tâm hồn/ cửa sổ mở sau lưng
chiều không đáy ngày vơi đi một ít
đêm nửa chừng nguỵệt khuyết bóng mông lung
Môi trăn chối : những vòng tròn vọng phụ
nụ hôn cong che rướn gáy lọc lừa
son phấn mới nhưng nồng nàn vẫn cũ
giấc ngủ vờ / thừa thãi gối chăn / khuya
Tóc trăn trối : rối ren rừng oan nghiệt
lối ngôi mòn về nhánh rẽ xa xăm
em lược trâm vẫn tím vàng da diết
mà gương mờ buồn bã hết trăm năm
(Bài trần tình thứ 5)

Tháng ngày như tấm gương phản chiếu cô đơn em: em lược trâm vẫn tím vàng da diết / mà gương mờ buồn bã hết trăm năm, nhưng khi cô đơn đã đến tận cùng cô đơn thì nó lại chuyển sang một trạng thái khác - Sự nhạy cảm chiều không đáy ngày vơi đi một ít/ đêm nửa chừng nguỵệt khuyết bóng mông lung....son phấn mới nhưng nồng nàn vẫn cũ . Em đã mang tấm gương đó soi ngược lại cô đơn mình để thấy lại những đam mê, những nhạy cảm trên vùng hoang tưởng lạnh, tưởng đã tắt giờ đây lại bời bời nham thạch:

Trùm mền
đắp mảnh thân hư
che tâm ý
tưởng hồn như loã lồ
ngỡ rằng xương thịt hư vô
chạm môi trái cấm sao ngồ ngộ :
đau
Trùm mền
ngăn khoảng đêm thâu
hương xa
gió thôỉ mùi nhau
bỗng thèm
Anh mùa đông cũng rũ mềm
ôm nhau nóng để trùm mền sưởi nhau
(trùm mền)
Nhận ra mình vẫn còn đó những mong chờ :
Người về/ về/ quạnh hiu tôi
bóng che mất bóng hình bôi khuất hình
tôi đi / đi / lặng lẽ mình
nụ sương
giọt rụng
nhuỵ quỳnh
hương rơi
Mộ tình/ Ai/ biệt giam tôi
thanh mi lòi tói
vành môi xích xiềng
mặt trời tịnh / trái tim thiền
tiếng ru tuyệt tự lời nguyền vong âm
Thảo hờn hồn cỏ xa xăm
khoé trăng tận Nguyệt mờ thăm thẳm . . . sầu
(trăng mờ cỏ dại 2)

Một cách tất nhiên, con người luôn hành động theo trái tim mình, dù biết đấy là sự thất bại. Cuộc sống cho biết những ai sống theo tình cảm thường luôn gặp trái ngang, thành công chỉ dành cho những ai làm theo lý trí. Nhưng, con người sinh ra thì đã có sẵn một trái tim rồi, mà đã là trái tim thì nó phải đập, phải bồi hồi ...Sau những gì qua đi, trong cõi trần tình em thổ lộ:

Tia mắt thu chiêu từng toan tính nhỏ
nụ cười quy cách lại những đong đo
với hồn nhiên đã một thời quá độ

tôi ngày xưa / khác hẳn Thảo bây giờ
Cũng chẳng nhớ chuyến đò nào vội vã
chở qua sông / ai / mệnh phụ lên bờ
bỏ sau lưng một đời con gái đã
năm bảy lần . . . khâu vá lại ngây thơ
(Bài trần tình thứ nhất)

Vâng! Em đã trở về khâu vá lại ngây thơ để tìm lại tiếng cười một thời đánh mất. Hạnh phúc, trên một bình diện nào đó không chỉ là yêu thương trong phạm trù cho và nhận. Nó còn là sự lắng nghe tiếng giao hòa những âm thanh cuộc sống chuyển tải vào tâm trạng để nhận dạng thực những buồn vui, rồi tổ hợp vào trong tâm thức, tái biểu hiện vào hành động. Qua những trải nghiệm về hạnh phúc, hẳn em đã thấy cuộc sống còn biết bao thứ đang chờ:

Ngày rộn ràng tôi / bữa tiệc vui
đũa đôi ngồi lại / chén ly cười
lanh chanh môi mắt y áo mới
vuông bếp lòng xanh hoa trái tươi
và ngon như chiếc bánh bông lan
những mũi dao chia miếng dịu dàng
bao nhiêu thơm ngọt vun từ thuở
cha mẹ nuôi đởi nhau chứa chan
(Chúc sinh nhật người hăm sáu)

Tôi đã thấy một Nguyệt Thảo khác hẳn Nguyệt Thảo trong cõi u phiền mộng mị, liêu trai:

Cây buồn vẫy gió buồn theo
hồn ai níu mảnh mây treo ngang trời
gió buồn rung lá buồn rơi
buồn rơi lá có về nơi cội nguồn
thuyền trôi nước đáy sông còn
nhớ bao nhiêu để sóng mòn xô nhau
khôn nguôi tóc ngủ trên đầu
xoa tay vuốt bóng dưới cầu đục trong
người xa / cách một dặm lòng
như đầu sông cách một giòng /cuối sông
chong đèn nhắc lửa thu đông
giữa chăn gối cũ giường không ấm giường
đêm này tôi lại nhìn gương
từ liêu trai có một sương phụ về
(từ liêu trai có một sương phụ về)

Mà ở đó, trong xào xạc gió Xuân reo, trong thơm nồng hương gió sớm, em trở về với em xưa, ngân nga lời hát ru ngày xuân tươi, để tay xuân trổ nụ ngần hoa trắng, nẻo sớm còn mờ hơi sương mà mắt em đã tỏa nắng ngời:

Tóc se ngôi lựa ngắn dài
hương trầm tháng chạp trâm cài tháng giêng
tay mềm chắp ngón bình yên
buồn ơi ! xin một cõi....
riêng ....đi về
Dây choàng áo ngực sân si
lưng vơi đau vết xiết ghì . . non da
thương từ trong ấy thương ra
tình như sóng tận bao la biển về
Ai đi nhặt lá bồ đề
cội trầm luân nhớ
nhánh bề bộn quên
hẹn nhau trứoc cửa môn thiền
nụ hôn nhang / khói

lời nguyên trái / hoa
Mùa xuân vẫn ở đâu xa
bình yên tôi
một món quà : tháng giêng
(Tháng giêng - Áo dây tóc nhuộm đi chùa)

Trong bốn mùa xuân - hạ - thu - đông, mùa xuân là ngắn nhất! Khi mắt người chưa kịp trong veo, khi môi cười chưa tròn nụ thắm, khi những niềm đau vừa mím miệng . . . Thì hỡi ôi xuân đã vụt qua rồi. Hình như ở một nơi nào đó trong mịt mùng tâm thức, em đã linh cảm về một ngày xuân cuối. Cái ngày xuân dành để tiễn đưa em vào giấc Hoa miên. Tôi nghe thảng thốt tiếng em, dù đã kìm nén lắm , vẫn lăn rơi những giọt buồn bên mé chia ly:

Tôi phải đi đây. ngày đã cạn
đêm đã cùng, năm tháng đã thôi
vui đã đủ, giận hờn đã chán
còn nghĩa gì mảnh xác thân hôi !
trời đất rộng, lòng tôi bỗng nhỏ
một nẻo về bốn ngõ quanh co
tàu nguợc - tàu xuôi đều đã lỡ
hồn chạnh buồn như cái chợ trưa
giữa chợ trưa lại ngồi tính sổ
vay trăm năm góp trả một đời
trả một đời tôi còn vẫn nợ
vẫn nợ nguời tôi nợ cả tôi
nên dành dụm mỗi ngày mỗi tối
nên chắt chiu từng phút từng giây
mà thời gian thì qua rất vội
chẳng kịp rồi ! tôi phải đi đây !!!!!!
Chẳng kịp rồi !
tôi phải đi đây
chẳng kịp rồi tôi phải đi đây !!!

Thật tình tôi và em như quen mà cũng chưa quen, chỉ là chút duyên sơ qua những bài thơ trên mạng. Ở đó tôi bắt gặp một Nguyệt Thảo u buồn với những câu thơ tài hoa, những phá cách trong các thể thơ, mà đặc biệt là thơ lục bát, cái cách mà em biểu đạt ... để trở thành một niềm vấn vương trước những bức tranh em vẽ bắng máu trái tim bời bời thiếu phụ.
Một đóa Phù Dung đã rủ vào giấc ngủ.....đã có nhiều tấm lòng chùng lắng hôm qua, đã có những nén hương Thơ ru em vào giấc Hoa miên, dịu lắng đi những nỗi niềm nhân thế. Tôi, vốn ít mượn lời người khác, nhưng trong tâm trạng này ngôn từ tôi bất lực, nỗi niềm xin mượn thơ của Trung niên thi sĩ Bùi Giáng thay cho nén hương lòng thắp tưởng về em:

Áo xanh

Lên mù sương, xuống mù sương
Bước xa bờ cỏ xa đường thương yêu
Tuổi thơ em có buồn nhiều
Thì xin cứ để bóng chiều đi qua
Biển dâu sực tỉnh giang hà
Còn sơ nguyên mộng sau tà áo xanh

À ơi! Đóa Phù Dung đã ngủ say, Trăng mờ cỏ dại còn lay bên đời...

Từ Linh Nguyên

Thứ Bảy, 11 tháng 3, 2017

THƠ NGUYỆT THẢO





Nguyệt Thảo sinh năm 1979, quê ở An Giang. Nguyệt Thảo mất tại Sài Gòn ngày 13.3.2008.

ĐI CHỢ XUÂN NGƯỜI


Nhà thơ Nguyệt Thảo
(1979 – 2008)

Ai đi chợ sớm
nửa mùa
mua manh áo vụng
thêu thùa
tặng tôi
lưng trời con én mồ côi
tầng mây lơ lửng xuân vơi xuân đầy

Thử vui giữa chợ đôi ngày
lòng như hàng quán
đong đầy đong vơi
tím hồng xanh đỏ ngược xuôi
vẫn riêng thong thả mình tôi . . .
phai vàng

Tôi đi chợ đã . . .
muộn màng
sắp tan quán tết
sắp tàn phố xuân
tuổi mừng tuổi rụng
ngoài sân
mai đào mấy nhánh phù vân . . .
. . . nở rồi!

GIỖ MẸ

Mẹ xa trước nén nhang gần
có về trong sợi khói oằn dáng xưa
có về thăm bữa cơm trưa
chén canh goá bụa đĩa dưa nạ dòng

Thưông cây lúa thuở đòng đòng
ru con khúc hát vẫn lòng quê xa
năm mười hai tháng ngân hà
mưa vào tháng một mưa qua tháng mười

Nắng về thôn ngược làng xuôi
bốn mùa khăn mụ áo tơi mẹ quàng
nửa trời vuông trắng vầng tang
đường xa chợ muộn dở dang một đời

***
Gió đưa hồn khói lên trời
trong vong ảnh vẫn mẹ tôi lò mò
tiền vàng đốt đã thành tro
mâm cơm hiếu tử vẫn chờ . . .
nguội
thiu

nguyetthao 0807

TẤM LƯNG TRẦN Ở TÂN SƠN NHẤT

Hở cho lưng thấy mặt trời

hai giây áo một vai người biệt ly

mảnh khăn hồng phấn lau đi

dấu tay còn triệu con vi khuẩn sầu

nhắc ngày chia thịt da nhau

đói đuôi mắt ngọt no đầu lưỡi thơm

mỗi phân xác một phân hồn

giăng nghiêng thế dựng cuộn tròn dáng cong

hở vai cho tóc phiêu bồng

đây truân chuyên lại / này phong ba về

vết gì trên tấm lưng / chia

vết trần / ai vạch lằn khuya / với ngày

GÓA BỤA

Em khép lại
đêm
nỗi buồn goá bụa
góc phòng vuông
trơ trẽn mấy cạnh giường
chỗ ai nằm che tối tăm một nửa
cái bóng dài
goá bụa
cả vào gương

Đêm khép lại / em / quấn mền
chốt cửa
cơn mơ triều
đê vỡ / đập
chìm sông
lại giấc ngủ
thuyền hồng phao xanh / giữa
nuớc mênh mông
goá bụa
cả cánh đồng

020907

TÓC EM NGUỒN CỘI

Giờ ta đã ngủ
tóc phủ chân giường
nối giấc vô thường
vào đêm diệu vơị

trăm năm tình tội
mật ứa hương tràn
người đến muộn màng
hoa tàn một đoá

nửa giường tóc xoã
vắt phủ ngang người
là vệt nứt đời
phân đôi phần phận

lưng chừng vô tận
là bãi phong ba
tìm cỏ tìm hoa
tìm ra nguồn cội

MỘT MÌNH TÔI NGỦ NẰM NGHIÊNG

Chiều giường – đo thiếu trăm năm
tôi kê gối lệch tôi nằm nghiêng lưng
chăn thu đắp mảnh lừng chừng
đồi cao – nhú – đỏ / lũng rừng – rũ – nâu
nghiêng đèo dốc lượn về đâu
cồn dâng mấy lớp khe sâu mấy tầng

Máu dồn da thịt nghiêng thân
tay nghiêng hứng giọt trong ngần triết / minh
đất trời nghiêng cõi bình sinh
tôi xiêm áo lại nghiêng mình tạ tôi

Chiều giường đo một đo đôi
đêm nay tôi ngủ nghiêng chơi . . .

một mình

ĐỌC THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG RU ANH NGỦ !

Cứ rúc vào ngực em mà ngủ
hé môi thơm ngậm núm trinh tuyền
mở hồ rêu quế hương trầm ngụ
khơi giòng sữa rịn ý khai nguyên

Lênh đênh tay ngón vo nguồn cuội
hai đỉnh hồng nhô nhọn thái dương
kê sông gối núi đo bờ cõi
vũ trụ mênh mông mấy cạnh giường

Cứ rúc vào ngực em mà ngủ
rồi chất chồng nhau ta hoá thân
em tan thành nước / anh thành khí
kiếp trứoc đời sau chẳng lộn phần

Chân xuôi tóc rũ chia hồn xác
cột chống trời rung ngoáy càn khôn
thác nghiêng lở nhỡ giòng nham bạc
một góc rừng nâu tím lịm buồn

Lại rúc vào ngực nhau mà ngủ
ngày sẽ dài thêm / đêm ngắn đi

NHẬT TẬN


Ngày sắp cạn
tháng sắp rời
năm sắp tận
với lòng tôi sắp cùng

Canh cong
khắc cuốn
bịt bùng
mắt chùng khép đáy / đáy trùng trùng vơi
nụ cười bán nguyệt ra khơi
tóc hương diễm phụ lìa ngôi nữ hoàng

Tôi chờ tôi rất bàng quang
như xe đêm đợi chuyến hàng mộng du
lũ dơi mỏng cánh nhân từ
buồn vui cũng á thần phù gọi khuya

Gío quàng khăn lạnh phân chia
nụ Quỳnh hương nở đêm lìa biệt thâu

Lạy mai
tháng mới
ngày đầu
năm nguyên vẹn
với tình sau đẫy đà

Cùng đêm tận nhật tà bà
đáy ly rượu
một giọt
nhoà
lệ tôi ?

( giao thừa 31/12/2007)

THỔI TRO TRONG NHÚM TRO TÀN

thổi tro trong nhúm tro tàn
níu hoàng hôn lại trong hoàng hôn phai
lòng trong biển rộng sông dài
dòng tôi từ cõi thiên thai chảy về

chảy về chốn bỏ tôi đi
trời cho có một dậy thì ấy thôi
ơn nhau sống một lần đời
nên yêu cũng chỉ một người . . . mà yêu

chút tình còn lại mang theo
chút ghen với họ
chút kiêu với lòng
nhặt ra trong mắt môi chồng
thây hồng nhan bạc phận hồng nhan tôi?

đời cho sống một lần thôi
sao không yêu hết, nhỡ rồi . . phải khi
một mai qua dốc xuân thì
muốn yêu nữa biết lấy gì mà yêu

nhặt buồn trong cõi hoang liêu
thấy hoang liêu tận ánh chiều dương tan
nhặt tro trong nhúm tro tàn
thấy tôi ngồi giữa bóng hoàng hôn tôi

THÔI TÓM LẠI !

Thôi tóm lại .
trong bụi bờ là đất
Chẳng oan khiên
ta cũng hóa giun trùng
Có trời biết mình yêu nhau chân thật
Hóa giun trùng
cho lòng hóa khoan dung

Thôi tóm lại
hoa tàn hương cũng tận
tháng ngày đi
đổi lại
nếp nhăn về
tôi / son phấn / tẩy bồi / môi mắt nhận
người tỉnh say / đàng điếm / giả / chân thề

Thôi tóm lại
đơn giản hóa chuyện mình anh nhé
Lý lẽ nào
phải trái hết cơn đau
Trải nghiệm nào
cho những cuộc tình sau
Chỉ biết chắc !
cón yêu nữa là vẫn dại !

Thôi tóm lại – tôi về – thôi tóm lại !

BÀI THƠ VĨNH BIỆT

Tôi phải đi đây. ngày đã cạn
đêm đã cùng, năm tháng đã thôi
vui đã đủ, giận hờn đã chán
còn nghĩa gì mảnh xác thân hôi !

trời đất rộng, lòng tôi bỗng nhỏ
một nẻo về bốn ngõ quanh co
tàu nguợc – tàu xuôi đều đã lỡ
hồn chạnh buồn như cái chợ trưa
giữa chợ trưa lại ngồi tính sổ
vay trăm năm góp trả một đời
trả một đời tôi còn vẫn nợ
vẫn nợ người tôi nợ cả tôi

nên dành dụm mỗi ngày mỗi tối
nên chắt chiu từng phút từng giây
mà thời gian thì qua rất vội
chẳng kịp rồi ! tôi phải đi đây !!!!!!

chẳng kịp rồi !!!!!!
tôi phải đi đây.
chẳng kịp rồi tôi phải đi đây !

NGUYỆT THẢO

Chủ Nhật, 5 tháng 3, 2017

NỐT LẶNG TRONG TÌNH THƠ NGUYỄN DUỆ MAI - Thùy Anh





Trong những khoảng lặng ấy, vẫn có một thứ âm thanh đặc biệt mà chỉ có ta mới nghe được – âm thanh của tiếng lòng.
Và trong muôn vàn âm thanh của bản tình ca sâu lắng, nốt lặng sẽ tạo nên điều kì diệu – những khoảng “mở” cho thế giới tâm hồn mênh mang…
(Lời giới thiệu tập thơ "Nốt lặng" của Nguyễn Duệ Mai - ấn phẩm của Chieulang.com.vn)



Nguyễn Duệ Mai ngay từ thuở còn là cô sinh viên Văn khoa trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã đam mê viết văn, làm thơ. Những bài thơ nho nhỏ xinh xinh được chép tay cẩn thận, thường được lưu giữ riêng, và chỉ chia sẻ với một số ít bạn thân. Nhưng vì điều kiện thực tế, sau khi ra trường, chị lại không có cơ duyên để đứng trên bục giảng. Công tác trong một lĩnh vực khác, nhưng Nguyễn Duệ Mai vẫn viết đều, bằng trái tim phụ nữ nhạy cảm, yêu thương và ngòi bút tinh tế của một người được đào tạo bài bản. Và để giờ đây, chúng ta có trên tay tập thơ đầu tay của chị - "Nốt lặng". Trong tập thơ này, mỗi suy tư về cuộc đời, thân phận và tình yêu, là một nốt lặng trong bản tình ca cuộc đời bằng thơ.
Trong bản tình ca ấy, người ta dễ dàng nhận ra hình ảnh một người phụ nữ sống hết mình với tình yêu, hy sinh vì tình yêu, nhưng luôn lặng lẽ, âm thầm. Với chị, tình yêu là một “mạch ngầm” nuôi dưỡng đời sống và tâm hồn con người. Chị chọn hình ảnh ẩn dụ mang ý nghĩa thật sâu sắc, chí tình:

Nhưng tình em kết trái
Trong nhỏ nhặt thường ngày

Mầm cây lên từ đất
Sắc hoa lên từ thân
Và dòng sông hạnh phúc
Dâng lên từ mạch ngầm.
(Mạch ngầm)

Những cặp thơ song hành “tình em kết trái”- “mầm cây lên từ đất” để dẫn tới hình ảnh khái quát về hạnh phúc mang tính chiêm nghiệm sâu xa: “Và dòng sông hạnh phúc – Dâng lên từ mạch ngầm". Câu thơ giản dị mà thấm vào lòng người thật tự nhiên.
Người đàn bà trong thơ Duệ Mai nội tâm luôn giấu kín. Vui lặng lẽ (mà điều này rất hiếm), còn buồn thì vời vợi. Thật khó cầm lòng trước những câu thơ buồn sâu như thế này, bởi lẽ, nó đúc rút từ những gì rất đỗi đời thường mà đôi khi người ta không để ý hoặc vì lý do nào đó mà không thể để ý:

“Góc chiều
Tôi giấu bóng tôi
Góc tôi
Tôi giấu chiều rơi
Lạnh lùng!”
(Giấu)

Con người phải tự giấu mình vào một góc rất riêng, không muốn ai nhìn thấy, vẻ ngoài tưởng chừng lạnh lùng nhưng thực ra bên trong lại vô cùng phức tạp. Mà càng cố giấu thì càng dồn nén, chất chứa bao điều. Con người ấy cũng ước mơ, khát vọng…, nhưng rồi lại nén lòng để tất cả trôi qua, tự tìm bình yên trong hiện tại nhạt nhòa:

Giấc mơ đôi lần hoang hoải
Chênh chao với chút sóng vờn
Nhưng rồi yên bình trở lại
Sau từng cánh lá vàng buông
(Vẫn dòng chảy cũ)

Chính vì giấu cái Thật nhất của mình đi, nên sống giữa đời thường mà phải “diễn” với nhiều vai khác nhau. Hóa ra cuộc đời là một sân khấu lớn, còn con người là những diễn viên chăng?

Đã cùng qua mấy nổi chìm
Lẽ nào thú nhận… chưa tìm thấy nhau?
Tròn vai, khó diễn lắm đâu
Nhưng sau sân khấu, nát nhầu bóng đêm.
(Diễn)

Câu thơ cuối cùng là lời thú nhận chua chát và đau xót. Cái “nát nhàu bóng đêm” ấy là sự nhàu nát của tâm hồn khi hiểu rằng ngay cả tình yêu bấy lâu nay cũng chỉ là “diễn” cho nhau mà thôi! Bi kịch giằng xé chỉ có thể nương nhờ vào bóng đêm che chắn! Thế mới thấy, người đàn bà ấy đã phải chịu đựng như thế nào! Cuộc đời đâu phải cứ bão tố phong ba mới là bất hạnh! Nhiều khi phẳng lặng quá thành ra nhạt nhẽo, không đam mê, không khám phá, đối với người từng có những ước vọng lớn lao, thì cuộc sống đó mới thực sự không hạnh phúc!

Duệ Mai viết nhiều về nỗi lòng của người đàn bà làm thơ. Trời sinh ra người đàn bà trót biết làm thơ, là đày người ta chăng? Đọc thơ Duệ Mai, tôi nhớ câu thơ của nhà thơ Đoàn Thị Tảo trong bài “Chị tôi”: “Ngày chị sinh trời cho làm thơ – Cho nét buồn vui bốn mùa trăn trở… Ngày chị sinh trời cho làm thơ vấn vương với sợi tơ trời – Tình riêng bỏ chợ, tình người đa đoan”. Thơ Duệ Mai là những minh họa đúng nhất cho chữ “đa đoan” này:

Riêng điều em khác người ta
Đam mê con chữ, gọi là... đa mang
Dễ buồn, dễ khóc, dễ than
Dễ thương tổn với những oan trái tình
(Giọt sương rơi)

Và có lúc, Duệ Mai trăn trở, dằn vặt trong cuộc đấu tranh nội tâm chưa bao giờ ngừng nghỉ:

“Núp dưới câu thơ ta tìm được những gì
Hay khắc khoải một hành trình tự trốn?
Con tằm đã quấn kén vùi mình trong yên ổn
Đợi lặng lẽ một ngày... hoá thành bướm bay đi...”
(Độc thoại)

Có một bài thơ mà Duệ Mai phải đặt tên là “Không tìm được tựa đề”. Đây thực sự là một cơn bão lòng của người đàn bà ăm ắp buồn, tê tái đau. Cái nỗi buồn có thể kết lại thành những hạt cườm, xâu chuỗi với nhau, quàng lên đời người. Muốn tự giải thoát, thì thành ra thế này đây:

Một lần hiện thực vung roi
Đứt tung tóe, hạt cườm rơi xuống sàn!
Hạt lăn về phía thời gian
Hạt nương náu chữ đa đoan, giấu mình!

Và bàn chân ấy, cố tình
Giẫm, di cho nát những hình trắng, nâu
Hạt cườm nhẵn lắm, không đau
Nên bàn chân vết lõm sâu, lại đầy!
(Không đặt được tựa đề)

Đọc những câu thơ như thế, thấy chính mình cũng đau buốt, thấy tâm hồn mình cũng đầy vết lõm như dấu vết những nốt lặng in hằn!

Nhưng không phải lúc nào thơ Duệ Mai cũng viết về tình yêu, nỗi buồn ẩn giấu. Thơ chị còn dành tình yêu thương cho những người thân. Với những bài thơ này, chị thường chọn viết lục bát với những vần thơ mềm mại, sâu lắng, mượt mà. Chị viết về mẹ đẻ, mẹ chồng bằng những bài thơ riêng. Và chị dành riêng một bài để nói về hai người Mẹ của mình. Bài thơ “Hai Mẹ” của chị đã thực sự chinh phục người đọc bởi tấm lòng con đẻ - con dâu hiếu thảo, ơn nghĩa. Nó khiến tôi lại nhớ đến bài thơ “Mẹ của anh” của Xuân Quỳnh, nhưng nếu Xuân Quỳnh chỉ nói về mẹ chồng, thì Duệ Mai lại nâng niu đặt hình ảnh “Hai Mẹ” bên nhau, mỗi Mẹ có một đặc điểm riêng, nhưng cùng một tình yêu vô hạn cho những đứa con chung:

Mẹ em thấu hiểu, sẻ chia
Những cay đắng, những bộn bề áo cơm
Mẹ anh sắc sảo ngọn nguồn
Cân đong được hết thiệt hơn cõi người

Nhìn hai bà mẹ nói cười
Giận mình có phút ngậm ngùi vu vơ
Vòng tay hai mẹ giăng tơ
Quấn con êm ấm đến giờ, mẹ ơi!”
(Hai mẹ)

Nếu không thấu hiểu lòng Mẹ vô cùng, thì sẽ không thể viết được những câu thơ biết ơn xúc động nhường ấy!

Trái tim giàu thương cảm của chị hướng đến những người bạn và cả những người không quen. Chị viết cho một người bạn vừa tan vỡ hạnh phúc bằng sự cảm thông và động viên ứa nước mắt:

Mảnh mai em gánh cuộc đời
Dồn yêu thương phía tiếng cười con thơ…
… Nồi tròn chẳng úp vung tròn
Xoay quanh vung méo, nhưng còn hai quai.

Em đi về phía ngày mai.
(Viết cho một người bạn)

Và chị viết những câu thơ đầy xa xót mà vô cùng kính trọng này là để dành cho một người bạn thân, một bác sĩ giỏi và thực sự là một lương y với đúng nghĩa của từ này:
Một đời lở, chẳng kịp bồi
Thương sông đau đáu chân trời dở dang!

Dòng ngừng chảy giữa thế gian
Nhưng phù sa vẫn tràn loang nơi này...
(Phù sa)

Người bạn ấy đã sống một đời trọn vẹn, dâng hiến tâm sức cho đời, như một dòng sông chở nặng phù sa. Duệ Mai hiểu thấu bạn mình và lặng lẽ thì thầm với người đã khuất: Dù đã ra đi, nhưng những gì anh để lại vẫn còn mãi như “phù sa vẫn tràn loang nơi này”. Xúc động biết bao!

Điều khiến cho thơ Duệ Mai chiếm được tình yêu mến của bạn đọc không chỉ là những tình cảm đẹp và sâu, được thể hiện trong những vần thơ mượt mà, mà còn là cách phát hiện quy luật cuộc sống, quy luật tâm lý từ những điều rất bình dị đời thường. Chỉ là một viên bi, thế mà thành một đời vô cảm: “Bây giờ ta vứt ta đi – Tròn xoe vô cảm viên bi giữa đời” (Viên bi). Hoặc một nhánh cỏ may cũng khiến chị đau đáu: “May mà chẳng thấy may đâu - Cỏ mà chẳng thấy cỏ mầu xanh non/ Lụa không vì thế mà mòn - Nhưng trong thớ vải, vẫn còn vết châm!” (Vết cỏ). Những câu thơ khiến người đọc phải giật mình thảng thốt vì nó quá đúng, vì nó đã chạm đến những nỗi niềm sâu kín của chính mình. Thơ Duệ Mai như viết hộ lòng mình vậy!

Cuộc đời con người luôn cần những khoảng lặng để ngẫm, để hiểu sâu hơn về mình, về người.
Trong những khoảng lặng ấy, vẫn có một thứ âm thanh đặc biệt mà chỉ có ta mới nghe được – âm thanh của tiếng lòng.

Và trong muôn vàn âm thanh của bản tình ca sâu lắng, nốt lặng sẽ tạo nên điều kì diệu – những khoảng “mở” cho thế giới tâm hồn mênh mang…

Những nốt lặng trong thơ Duệ Mai là như vậy, “lặng” mà để lại dư âm trong lòng người, vì nó đã ngân lên những giai điệu đẹp của một tình thơ dịu hiền, nhịn nhường hết thảy, một đời chỉ biết yêu thương.

Với tập thơ "Nốt lặng", Nguyễn Duệ Mai đã tạo nên một phong cách thơ riêng không dễ lẫn giữa rất nhiều "sản phẩm thơ" ồ ạt hiện nay. Nhẹ nhàng, bình dị, tinh tế, vừa truyền thống, vừa sáng tạo trong cách thể hiện, thơ chị xứng đáng được bạn đọc trân trọng, nâng niu.

Hãy đọc và lắng nghe, để cảm nhận về “Nốt lặng” riêng mang tên NGUYỄN DUỆ MAI.

Thùy Anh.

Thứ Năm, 17 tháng 11, 2016

Nguyễn Hoàng Đức - kẻ mộng du giữa đời thường



Nhà văn Sương Nguyệt Minh

Nguyễn Hoàng Đức có hai con người trong ông: Một thông minh, sắc sảo, hùng biện, tranh luận gắt chói đến tận cùng lý tính, với sống đời sống thường nhật rất đỗi thật thà, xuề xòa, hồn nhiên cảm tính. Hai, là kẻ mộng du, ảo tưởng khoác sau lưng nặng trĩu hành trang nguyên lý sang trọng sục sôi phiêu du đến những khoảng không “chân chẳng bén đất cật chẳng bén trời”. Tôi nghĩ: Chính cái chân trời của lý tính luôn ngự trị trong tư duy và cõi mộng tưởng kỳ vĩ của ông cộng với mặc cảm thân phận không được công nhận danh tính đã làm nên cái đặc sắc mang tên Dị nhân Nguyễn Hoàng Đức – kẻ mộng du giữa đời thường.

1. “Nhà triết học số 1 châu Á?”
Ngườita kể rằng: Nguyễn Hoàng Đức được ở bên Đức cha Nguyễn Văn Thuận (một trong nhữngngười được đề cử bầu Giáo hoàng) 4 năm. Qua 4 năm, ông Đức từ một cán bộ an ninh trở thành con chiên ngoan đạo của Chúa, được Chúa giao trọng trách khai sáng đám văn nghệ sĩ u mê. Ông Đức bỏ việc nhà nước, bỏ hết cả mọi danh hiệu hư vinh… chỉ làm mỗi một việc học tiếng Anh, tiếng Pháp, đọc các trước tác Triết học,Thần học, Văn chương – Nghệ thuật và… viết. Từ dạo ấy, ông không còn là con người bình thường nữa. Ông nhìn mọi người bằng con mắt thương cảm như một bề trên nhìn chúng sinh đang lầm than, u mê cần phải khai sáng bằng Triết học, Thần học. Trong ông có một kho tàng tri thức của nhân loại được tích hợp từ các vĩ nhân: Aristotle, Descartes, Kant, Hegel, Nietzsche… và Kinh Thánh…Ông luôn lấy các vĩ nhân làm chuẩn và bỗng dưng thấy cái đám nhà văn Việt Nam thấp bé, mỏng manh, lọ mọ.

Tôi gặp Nguyễn Hoàng Đức lần đầu trong Trại viết tiểu thuyết Hội Nhà Văn cuối năm 2007 ở Quảng Bá, dù trước đó đã từng đọc nhiều triết luận văn chương của ông ở Tạp chí Sông Hương, Cửa Việt và những bài luận về đàn bà về tình yêu ở báo Phụ nữ và chuyên san “Hạnh phúc gia đình”.




Hôm ấy, tôi bỡ ngỡ, lạ lùng đến mức cảm thấy ông “đột ngột xuất hiện như một niềm kinh ngạc” giữa đời thường. Trong bữa cơm, tôi chứng kiến một trận thư hùng có một không hai về triết học giữa Nguyễn Hoàng Đức và nhà thơ Đỗ Minh Tuấn. Ông Đức xuất kho nhà triết học Aristote thì ông Tuấn dẫn ra Nietzsche. Ông Tuấn lôi Khổng Tử, Mạnh Tử dậy thì ông Đức bác luôn phương Đông không có triết học, còn tư tưởng thì lìu tìu không tính, rồi ông khai quật Descartes, Kant, Hegel…

Không khí tranh luận bỏng gắt hừng hực bốc hơi, Nguyễn Hoàng Đức hiên ngang tuyên bố: Ở Việt Nam không có đối thủ triết học để tranh luận cùng ông; có nghĩa là ông đẩy nhà thơ Đỗ Minh Tuấn xuống hàng sau ông và sau bao nhiêu bậc thì ông không nói rõ. Bữa ấy, tôi chêmvào: “Giáo sư Trần Văn Giàu nói rằng: Bản thân mình và đồng nghiệp chỉ là người nghiên cứu, giảng dạy triết học, ở Việt Nam chỉ duy nhất có Trần Đức Thảo là nhà triết học mà thôi”. Tôi dẫn ra các tác phẩm của Trần Đức Thảo tiên sinh như: “Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật bịên chứng” và “Nghiên cứu nguồn gốc ngôn ngữ và ý thức” được phương Tây công nhận đánh giá là kiệt xuất và đưa vào Từ điển triết học thế giới. Nguyễn Hoàng Đức liền lôi phắt chuyên luận triết văn “Ý hướngtính văn chương” dầy 640 trang của mình ra bảo: “Tôi đập nát bét. Tôi đập nát bét”. Sợ quá! Chẳng hiểu ông đập bét tôi hay đập nát nhà triết học Trần ĐứcThảo? Nghĩ nhanh mới biết mình dại, và tôi ân hận, lẽ ra cứu bữa cơm rượu ngon chỉ bằng cách dẫn các nhà triết học cổ đại Socrate, Platon…tầm nhân loại thì may ra “Nhà triết học số 1 châu Á” mang tên Nguyễn Hoàng Đức mới đối thoại.

Hôm đó, ông hùng biện phân tích“Ý hướng tính văn chương” bao gồm 6 chương. Ông đi từ bản tính sáng tạo của con người qua chân lý, đến Thượng Đế, rồi hạ xuống con người, đến siêu hình học, và văn chương cứu rỗi con người, đến phương tiện của tư duy và văn chương – chính là chữ nghĩa. Ông bảo vệ đến cùng luận điểm: ở Việt Nam ông không có đối thủ triết học, dù cơm có nguội, canh có lạnh thì mặc kệ canh cơm. Khi căng khi chùng, có lúc lớn tiếng đến mức các mâm bên cạnh tối tăm mặt mũi như gặp bom B52 trút xuống Hà Nội mùa đông đỏ lửa năm 1972. Ai cũng thấy kì lạ, dường như gác đũa, há hốc miệng nghe và rồi ù tai chẳng hiểu ông nói gì, và mình thu nhận được kiến thức gì trong cái mớ triết học mênh mông của ông. Ngay cả khi ấy, tôicũng nhận ra một nỗi buồn cô quạnh của ông khi ông nói mãi, giải thích mãi mà cái đám chúng sinh người trần mắt thịt chúng tôi không chịu hiểu ra, không nhìn thấy một Hy mã lạp sơn triết học đang ngồi lù lù trước mặt. Từ lúc đó, tôi cũngkhông gắp thức ăn được nữa, chỉ làm mỗi việc… châm tửu hầu ông mải mê thăng đồng chia cắt, định giá, so sánh văn hóa Đông - Tây và sắp đặt nền triết học thế giới một cách rất lành mạnh, đáng yêu, chân thành và nồng nhiệt.



2. Dâng hiến văn chương - nghệ thuật…cái gì cũng nhất.
Nguyễn Hoàng Đức coi thường ra mặt và chê ỏng chê eo nền thơ Việt Nam: “Thơ Việt có thể nói có đến 80% là giành cho các cụ già, tổ hưu, hay giám đốc đã làm xong công việc kiếm quyền kiếm tiền, giờ quay sang kiếm tí danh thơ”. Ông bảo: “Thơ Việt là lời hát ru à ơi của những hàm răng móm.” Ông mắng các nhà thơ: “Họ không có lý tưởng tự do, bình đẳng bác ái lại chui ra từ tem phiếu. Hơn 90% là vô thần! Tri thức công nông binh về tráng men văn hóa ở trạm cấp cứu Nguyễn Du, còn lại là các cụ tổ hưu đã hết sắc hương!” Ông không coi thơ Đường là hay, toàn là những bài tả cảnh tả tình, khá hơn thì nói được cái chí của người quân tử, và đặc biệt toàn những bài lẻ tẻ, ngắn tũn; không thể gọi là những binh đoàn chữ mà tác giả là thống tướng cầm cây gậy chỉ huy. Thơ với ông phảilà trường ca Illiad, và Odyssey của Homer, hay Thần khúc của Dante dài 100 khổ, gồm 14 226 câu thơ. Và ông đã đạt được những điều đó bằng tinh thần sục sôi,không mệt mỏi của mình. Nói có sách mách có chứng, Nguyễn Hoàng Đức nhễ nhại khuân ra xếp cả đống thơ, và chứng minh quyển nào cũng dạt dào tư tưởng: Kẻ hành hương từ đời đến thơ là trường ca mỹ học dài nhất thế giới. Trường ca Đợi... chuyến đò đã lỡ tất nhiên cũng là một bài thơ tình dài nhất thế giới.Điệu kèn cô đơn là tập thơ mang thông điệp tự do tư tưởng… dài nhất thế giới. Thế giới cũng chưa có Trường ca Thần học nào dài hơn Trường ca Thần học “Ngước lên cao” của ông.

Thơmới cũng chẳng là cái đinh trong mắt ông: “chỉ là một cảm xúc vừa phải” và ông gạt sang một bên. Còn đại thi hào Nguyễn Du thì ông cho là đạo văn của ThanhTâm Tài Nhân. “Không có “Đoạn trường tân thanh” thì có Truyện kiều không?” Ông hỏi tôi và ông truy bức tôi phải trả lời ngay: có hay không? và không được kèm theo chữ… nhưng. Vì theo ông câu trả lời rất dễ, cái cần thiết không chỉ trình độ mà còn phải có bản lĩnh to lớn nhất. Theo ông, nhà thơ là phải có nhiều bài, nhiều câu nhiều tập và phải biết viết Trường ca. Không biết viết trường ca coi như chỉ là nhà thơ hạng hai, cũng như nhà văn như Sương Nguyệt Minh chưa in tiểu thuyết thì trong mắt ông cũng chỉ đáng là nhà văn hạng hai hạng ba. Ông bảo: Một câu thơ hay, một bài thơ hay cũng chỉ là túp lều xinh xắn. Trường ca mới là lâu đài đá xanh uy nghi, hùng dũng.

NguyễnHoàng Đức chê văn xuôi Việt không có tư tưởng. Ông bảo: “Tắt đèn, Số đỏ, Chí Phèo, đều là những tác phẩm cóchuyện gay cấn.” Ông đọc Nguyễn HuyThiệp gần hết, nhưng Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu thì chưa. “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh thì ông mới đọc mấy chục trang. Còn tôi, ông hạ mình “ban phước lành” đọc cho một truyện ngắn Dị Hương đã là quá may mắn; tất nhiên đó làviệc làm bất bình thường đối với ông. Tôi bảo: Ông là “nhà lý luận phê bình hàng đầu thế giới” không đọc tác phẩm mà dám cả gan định giá nền văn học hiện đạiViệt Nam. Ông nói tỉnh bơ, chân thành, không có ý cao ngạo: “Nhìn cánh én là biết cả mùa xuân”.

NguyễnHoàng Đức viết một chuyên luận về truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, và theo ông: Sau khi in chuyên luận ấy thì Nguyễn Huy Thiệp xệp như con dán, ông coi như làm xong nhiệm vụ vinh quang thay thời gian là lấp đất chôn xong văn chương Nguyễn Huy Thiệp. Ông Thiệp không còn lý do gì tồn tại trong tư duy của “nhà lý luận văn học hàng đầu thế giới” mang tên Nguyễn Hoàng Đức. Theo Nguyễn Hoàng Đức, ông đã giải huyền thoại Nguyễn Huy Thiệp và ông cũng quả quyết: “Sau bài của tôi, bữa tiệc của Nguyễn Huy Thiệp chỉ còn là bữa ăn tươi”. Tôi bảo: “Truyện ngắn ôngThiệp vẫn in đều đều, còn cái tiểu luận của ông đòi xóa sổ hộ khẩu văn chương ông Thiệp, thì chẳng ai nhớ và chẳng ai in”. Nguyễn Hoàng Đức bảo: “Không phải bây giờ mà sau này lịch sử văn học phải ghi công tôi đã xóa sạch văn chương Nguyễn Huy Thiệp, Trần Đăng Khoa và cả nền văn học mậu dịch tem phiếu”.

Nguyễn Hoàng Đức luôn bảo người tranh luận đề xuất một nhà lý luận giỏi nhất Việt Nam để ông thách đấu. Đưa ra người nào ông cũng bác thẳng thừng, coi họ là lọ mọ, lìu tìu. Ông bảo: “Gọi là có máu mặt như Trần Mạnh Hảo và Đông La hùng hổ ở đâu, chứ gặp tôi, tôi lừ mắt một cái là cóm róm ngay. Tung hoành ngang dọc gì cũng chỉ từ vĩ tuyến 17 trở vào, chớ dại có vượt sông bến Hải ra bắc”. Lúc nào ông cũng ngong ngóng mong Trần Mạnh Hảo, Đông La chạm đến ông là ông vác trùyra xới. Ở lĩnh vực triết học, đến như Trần Đức Thảo còn dưới cơ ông thì không còn ai đáng để ông đối thoại. Trong “Ký ức lộn xộn về nhà Triết học số 1 châu Á”, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều viết: “Một lần gặp Trần Mạnh Hảo, nhà phê bình mà theo Nguyễn Hoàng Đức là nhà phê bình “cả vú lấp miệng em” nhất Việt Nam, Nguyễn Hoàng Đức chỉ tay vào mặt Trần Mạnh Hảo, tuyên bố: “Nếu ông bước vào sới triết học thì tôichỉ đập một nhát là nát bét đầu ngay”. Tôi đem chuyện này hỏi Nguyễn Hoàng Đức, ông gật đầu xác nhận với tinh thần bừng bừng thách đấu.

NguyễnHoàng Đức chê Mạc Ngôn không xứng đáng đoạt Giải thưởng Nobel và ông viết hẳn một bài dù chưa hề đọc Mạc Ngôn. Theo ông, Mạc Ngôn được Giải thưởng là do Trung Quốc chạy giải. Cả quốc gia chạy giải thưởng Nobel cho Mạc Ngôn. Vì Trung Quốc chưa hề có triết học, chưa hề có tư tưởng, văn chương thiếu hai điều đó thì văn chương không lớn. Nhìn hạt cát biết sa mạc, mùa xuân văn học Trung Quốc đã đì đẹt như thế thì cánh én Mạc Ngôn cũng không bay qua Vạn lý Trường Thành đến với tưtưởng nhân văn nhân loại.

Trongtư duy của Nguyễn Hoàng Đức, thước đo giá trị văn chương nghệ thuật trước hết là phải dầy dặn, đồ sộ. Sách in là phải có gáy dầy, sách đóng ghim mỏng tang dù hay, ông cũng không thèm để mắt. Hấp dẫn dở hay thế nào tính sau, cứ phải dầy, cứ phải dài, cứ phải đồ sộ đã. Sau đó là tư tưởng, không có tư tưởng chỉ là thứ bèo bọt mua vui ở chốn hề chèo. Gia tài văn học của Nguyễn Hoàng Đức khá đồ sộ, chỉ tính cuốn tiểu thuyết Xứ lưu đầy hơn 2000 trang, tiểu thuyết Ngưỡng cửa làm người 4000 trang chưa in, và sẽ rất khó in; nhưng ông đã nhận phần tiểu thuyết dầy nhất, dài nhất Việt Nam.

Có thể nói: Sang nhất, dầy nhất, dài nhất…, cái gì cũng nhất… cũng là nét đặc sắc mang tên dị nhân Nguyễn Hoàng Đức.



3. Cô đơn con người, cô đơn thi sĩ.
Nguyễn Hoàng Đức mắc một căn bệnh kỳ lạ, những ngày động trời, từ trường trái đất mạnh lên là máu tươi cứ tứa ra lỗ chân lông. Khi ấy, ông đau đớn vô cùng, cả đêm thức trắng không ngủ. Triết học, thần học, trường ca dài nhất thế giới… rủ đi hết, đêm đêm ông lặng lẽ ngồi vo những nắm bông trắng thấm máu trên cơ thể mình thả vào thùng rác. Chỉ một ngày sau, thùng rác đã đầy có ngọn bông máu đỏ. Khoảng một tuần thì khỏi, để rồi mỗi khi động trời ông lại chịu khổ nạn một chu kỳ mới. Hết ứa máu, da ông bắt đầu đóng vảy… như vảy rồng, sáng ngủ dậy vảy rụng đầy ga trắng những miếng á sừng hình dạng kích thước khác nhau, vun lại được cả nắm. Ông không đi bệnh viện, ởnhà cũng không uống thuốc và chưa bao giờ ông có ý định tìm thầy thuốc hay đến bệnh viện chữa cho mình. Tôi ái ngại bảo:

“Ông phải đi viện điều trị. Để mãi thế này khổ lắm.”

Ông lắc đầu, quả quyết, khôngmảy may đắn đo:

“Cái khổ của tôi không phải là cái khổ bình thường, mà là cái khổ tuẫn nạn! Tôi đang chịu sự hành xác vì Chúa”.

Nguyễn Hoàng Đức đã là con chiên của Chúa hơn hai mươi năm nay. Không tuần nào ông bỏ sót đi lễ nhà thờ. Ở Trại sáng tác vănhọc Sầm Sơn, cuối chiều thứ 7 nào ông cũng gác bút, đi bộ đến nhà thờ quỳ lạy trước Chúa và nghe cha xứ giảng giáo lý. Lòng tin Chúa vững chắc đến mức ông tin Chúa sáng thế ra thế giới khổ đau này và nói điều gì, ông cũng bảo là “ý Chúa”. Trong tiềm thức kì bí mầu nhiệm, ông tin mình là một con chiên được Chúa yêu thương, chỉ có điều Chúa đang còn thử thách, thử thách cũng chính là hành trình được Chúa đưa ông đến đài vinh quang. Và ông tin, một ngày đẹp trời nào đó, ông sẽ khỏi bệnh, ông sẽ được Giải thưởng văn học Nobel. Chúa lòng lành nhìn thấu mọi sự cõi con chiên, Chúa sẽ không bỏ sót ông. Ngày đó không còn xa nữa, hoặc xa lắm cũng chỉ đến lúc cái thế hệ bạn văn, bạn đọc hôm nay tận vong,thay bằng một thứ bạn đọc, bạn văn khác thì mới hiểu nổi tư tưởng của ông. Vì vậy,ông ngồi viết những trang triết luận, những trang văn thơ trong những ngày máu tứa đầy mình một cách sục sôi, mà an lành.

Nguyễn Hoàng Đức luôn nói ông cô đơn nhất trong mọi nỗi, mọi người cô đơn. Ông bảo tôi: “Ông có cô đơn bên người thân, hay thất tình, hay cô đơn ngay chính trong ngôi nhà của mình thì vẫn chỉ là nỗi buồn nhỏ bé, lặt vặt, ông vẫn còn người để mà thấy, mà nhìn, mà nghe tiếng người”. Nguyễn Hoàng Đức cũng cô đơn trong thường nhật. Hơn 20 năm rồiông sống đơn lẻ một mình. Một mình một tượng Chúa. Một mình một nhà. Một mình một bếp. Một mình một cây đàn piano. Một mình… Cái gì cũng một… để cần mẫn viết nhữngtrước tác khổng lồ cho nhân loại. Chỉ riêng bát đũa là không một mình, bởi thỉnhthoảng ông đãi khách ở nhà. Thời bao cấp đói rách hàn vi, tết đến, điện đóm phập phù lúc có lúc không, ông chỉ đủ tiền mua một cây nến thắp đêm giao thừa, ônghiu hắt buồn cũng như ngọn nến liu riu thương ông mà cháy chậm lại chờ trời sáng. Năm sau, đời sống khá hơn, đêm giao thừa, Nguyễn Hoàng Đức thắp 7 ngọn nến cháy sáng nhảy nhót reo vui, ông cảm thấy mình đang ngồi trước bản đại giao hưởng ánh sáng, nhưng vẫn một mình, hào quang của giao hưởng không át nổi nỗi đơn độctrĩu nặng của người đàn ông bất lực trước hôn nhân.

Khác với người thường chúng sinh như tôi, ông còn một nỗi cô đơn rợp ngợp của kiếp người mang tên: Nỗi côđơn thời đại. Nghĩa thực dễ nhìn thấy là ông vào ra cả ngày đêm, cả tuần, cảnăm không có ai ở bên, đến ăn cũng một mình, ngủ cũng một mình, giao thừa cũng một mình. Võ võ. Đơn độc. Không đảng, đoàn, không hội, nhóm, không làm ở cơ quan nào, sống tự do và viết để sống. Nghĩa ảo là cả dân tộc này, cả thế giới này không ai hiểu được nỗi niềm, tình cảm, suy nghĩ, trí tuệ, tầm vóc khổng lồ của ông. Và đặc biệt, không ai hiểu hết giá trị triết học, thần học, văn thơ… của ông. Ông mang tâm trạng của người: “Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất. Không có chi bè bạn nối cùng ta”.

Ông luôn luôn cảm thấy mìnhkhông được công nhận, luôn luôn thiệt thòi, luôn luôn đứng ở hành lang. Ông viếtnhiều nhưng được in quá ít, như muối bỏ biển. Ông luôn cảm thấy văn tài bị vùi rập, bị dìm hàng; nhưng ông tin một ngày mai người đời không bỏ rơi ông. Chẳng lẽ ba bộ tiểu thuyết dầy gần 1 vạn trang, với những trường ca dài nhất thế giới phải chờ đến khi ông về với Chúa mới được loại người tối tăm chợt nhận ra và hân hoan đón nhận? Tôi nói với Nguyễn Hoàng Đức rằng: “Ông chót sinh ra bấtphùng thời. Chúng tôi tối tăm chưa nhận ra cái hay và vẻ đẹp kỳ vĩ tác phẩm của ông thì chính chúng tôi mới có khuyết điểm, mới thiệt thòi, chứ không phải làông”. Tuy nhiên, xuất bản tư nhân đang lấn át xuất bản nhà nước (mậu dịch quốc doanh như ông nói) vẫn không mặn mà với tác phẩm Nguyễn Hoàng Đức? Bạn đọc thích đọc các bài tranh luận trên internet của ông hơn là tìm đọc sách chuyên luận triết học, thần học và tác phẩm văn chương của ông. Song ông không lấy đó làm buồn. Số ít mới là số quý. Một nhà văn đọc tác phẩm của ông còn quý giá gấpnhiều lần hàng vạn người đọc ất ơ.

Nguyễn Hoàng Đức đọc “Sông Đông êm đềm” của nhà văn Solokhov.Rồi rút ra chân lý: “Thử so sánh, chúng ta thấy, mỗi người đàn ông xứ họ khi rakhỏi nhà đều nhảy lên lưng ngựa, khi hành động, ứng xử, hay tranh luận ngườita đều thể hiện sự trưởng thành, tính mã hiệp của mình”. Ông buồn vì xứ mình người ta ra đường lại nhảy lên lưngtrâu, trâu thì không thể so với ngựa về sự trưởng thành và mã hiệp. Vì thế, có người xa lánh ông, đến tranh luận người ta cũng lảng tránh, không tranh luận với ông, hoặc tranh luận thì “ăn gian”, nước đôi lập lờ, đuối lý thì đánh bài chuồn. Ông buồn. Ông đòi hỏi sự rõ ràng, minh bạch trong tranh luận, không ấm ớ hội tề. Ông đòi người đối thọai “Hãy chứng minh đi!” Cũng như ai đó nói cướp lời, ông bảo:“Tôi xin ông 1 phút”. Nói xong, ông bảo: “Giờ, đến lượt ông. Cho hẳn 10 phút.”

Ông luôn thách đố bất kỳ ai đặt câu hỏi khó nhất thế giới để ông trả lời. Nhưng, cho đến hiện nay, vẫn chưa cóngười đủ tầm tư tưởng và triết học đặt ra câu hỏi thử thách trí tuệ ông. Ông thèm có một sới văn chương cho ông so găng, ông khát một diễn đàn triết học để ông tranh luận. Có đêm mất ngủ, ông muốn dựng nhà triết học Trần Đức Thảo dậy để hỏi:“Từ điển các nhà triết học” đồ sộ dày 2715 trang tiếng Pháp, khổ lớn, giới thiệu thân thế, sự nghiệp các nhà triết học danh tiếng của nhân loại từ thời cổ đại đến nay. Có những tên tuổi lớn chỉ được dành cho dăm ba dòng, tệ hơn nữa là tôi - Nhà triết học số 1 châu Á Nguyễn Hoàng Đức thì không được chữ nào ở đó.Nhưng ông - Trần Đức Thảo lại được giới thiệu tới ba trang. Vì sao?” Ơ hay! Ông hỏi thì phải hỏi Bernard và Dorothee Rousset với Ban biên tập quyển sách vĩ đại ấy, chứ sao lại hỏi nhà Triết học Trần Đức Thảo đang dong chơi ở cõi Niết Bàn từnăm 1993!

Tranh luận với Nguyễn Hoàng Đức rất mệt. Đang ở vấn đề A thì ông lấy ví dụ ở mệnh đề B để chứng minh, đang ở mệnh đề B thì ông lấy dẫn chứng ở hệ quả C để giải thích. Ai không tinh ý sẽ bị ông dẫn dắt vào trận đồ bát quái, không có lối ra. Cuộc tranh luận nào, ông cũng là người nói câu cuối cùng. Hầu hết, người ta bỏ cuộc. Bỏ cuộc vì mệt quá, không lại với ông trường thanh đại sức. Bỏ cuộc vì không lý lẽ đấu lại với Đức. Bỏ vì Đức thừa thời gian chỉ để tranh luận, viết bài về một vấn đề triền miên hết thángnày qua năm khác. Bỏ vì… tức giận. Nhưng, bỏ thì bỏ vẫn cứ không ghét hay coi thường ông. Vắng ông là cuộc nhậu mất vui, lại nhớ, lại cầm điện thoại í ới mời ông ra làm… “món nhậu”. Tôi đã chứng kiến nhiều cuộc bia rượu, món ăn trở thành thứ yếu, “món nhậu Nguyễn Hoàng Đức” mới là quan trọng và hấp dẫn.

Nguyễn Hoàng Đức có cái đàn piano cũ nhất Việt Nam, thảng hoặc ông lật nắp đàn lên ngắm, ông có cảm giácnhư đang nhìn trộm công chúa tắm. Đây là cảm hứng của các vĩ nhân cô đơn chơi đàn như một tâm sự, giống Khổng Minh trong Tam Quốc diễn nghĩa mỗi lần chơi đànthì mơ hồ cảm giác như có người nào đang lấp ló nghe trộm. Nguyễn Hoàng Đức yêucái đàn piano như yêu một người đẹp hoàn mỹ. Không ít lần, bần thần vuốt cácphím đen trắng, ông cảm giác được sự minh định phải trái, trắng đen rõ ràng, không mập mờ, giống như con đường chân lý. Ông gõ vào phím trắng là gõ vào tự nhiên, gõ vào đá, gỗ, sắt… Ông gõ vào phím đen bán âm là là gõ vào cái sự nhân tạo, chỉ do con người làm nên, tựa như gõ vào trí tuệ và trái tim để lay động sáng tạo ra văn chương nghệ thuật.

Nguyễn Hoàng Đức chơi đàn thường ngày, ngày nào cũng dành ít nhất là một tiếng đồng hồ ngồi dạo các ngón tay trên phím đàn piano. Cái đàn piano này ông mua từ thủơ hàn vi nghèo khó. Dạo ấy,ông đi phiên dịch cho dầu khí, được ít tiền, thay vì mua được cái nhà cấp 4 diện tích 30m2 thì ông mua đàn. Cũng là cách chia sẻ nỗi lòng khi không còn bầu bạnđược cùng ai thì gửi tâm sự vào âm nhạc. Chiếc đàn sẽ là người bạn thủ thỉ tâm tình cùng ông. Ông đạp cái xe đạp tòng tọc chở người nghệ nhân lên giây đàn giỏi nhất miền Bắc đi mua piano. Người chủ đàn trố mắt ngạc nhiên nhìn hai gã gầy gò, hốc hác và chiếc xe đạp bó lốp. Không ngã giá một câu, ông gọi hai bác cửu vạn mang đến cái võng và cây luồng, đằng trước buộc lên gác ba ga xe đạp, đằng sau buộc lên phốc tăng một cái xe đạp nữa. Dùng dằng vài tiếng đồng hồ rồi cũng võng cái đàn piano về đến nhà. Hai bác thợ cửu vạn nhận tiền công, còn được ôngchiêu đãi một bản nhạc “Phiên chợ Ba tư” trước khi ra về. Dọc đường bác nọ hỏi bác kia trả lời: “Mày nghe nhạc có thấy thích không?” “Không! Nhức đầu lắm. Cứnhư phèng la đám ma. Nể mà ngồi nghe cho hết bài”.

Nguyễn Hoàng Đức là kẻ dấn thân nghệ thuật. Dù nghèo, đi xe đạp ọc ạch bó lốp, nhưng cứ 6 tháng một lần ông mời nghệ nhân giỏi nhất miền Bắc đến tận nhà “lên giây đàn”. Những thanh đồng trong đàn piano được cân chỉnh chính xác, thanh âm chuẩn mới làm ông có cảm xúcngồi vào đàn. Dạo ấy, ông mới tập đàn, lúc bật bông, lúc như gõ phèng la. Thờibao cấp, mọi người đói, mặt xanh vêu vao, người ta đổ xô trên đường kiếm ăn,Nguyễn Hoàng Đức cũng kiếm ăn, nhưng bằng cách viết báo ngồi ở nhà. Nhọc mệt,thư giãn là lại mở nắp đàn piano tập. Hàng xóm lúc đầu tò mò, trẻ con sang xem,ông ân cần gần gũi tiếp khách, còn cho bọn trẻ nhấn ngón tay mấy cái, thanh âm phát ra, chúng cười ré lên sung sướng. Sau thì tiếng đàn cũng làm phiền họ. Đilàm suốt ngày, chiều tối muốn được thảnh thơi yên tĩnh thì lại bị tiếng đàn hàng xóm tra tấn. Bán rau dưa, cà muối, cá khô suốt ngày phơi mặt bị khói hondaxịt cay mắt… lại bị tiếng đàn của ông hành hạ. Nhiều người lặng lẽ bán nhà chuyển đi nơi khác. Gan dạ thi gan với tiếng đàn của ông nhất là một gã Tổng giám đốclắm tiền nhiều bạc không chịu chuyển nhà. Gã nghe nhạc qua loa thùng ầm ầm vẫnquen tai, nhưng cứ mỗi lần tiếng đàn piano vang lên bản nhạc “Đồng quê” dù lànhỏ nhẹ dìu dặt, gã vẫn cảm thấy như thanh âm xuyên qua tường, xoáy vào tai gã nhứcbuốt đến mức không chịu nổi. Gã sai con mở to loa thùng phóng nhạc rốc hiện đại sang phía nhà Nguyễn Hoàng Đức, chống trả lại cuộc xâm lăng của âm nhạc cổ điển.Mặc, ông không hề hay biết vẫn cứ đắm say mê mải với những tiếng nước chảy rócrách, tiếng vó ngựa dồn dập và những thanh âm cuồn cuộn như mây vần vũ, như bão giông cuồn cuộn… trong cô đơn, không chia sẻ cùng ai. Cuối cùng, gã Tổng giám đốc trọc phú cũng phải mua nhà chuyển đi nơi khác. Mới hay, sống chung đã rất khó,cùng hệ mỹ học thưởng thức cái đẹp lại càng khó hơn.

Có một chuyện thật 100%, khiông chưa mua đàn piano, cô bé nhà bên thường sang chơi thân mật chú cháu đến mức bá vai bá cổ, nhưng khi cứ chiều về, tiếng đàn vang lên trong khoảng không giancăn nhà chật hẹp lọt ra ngoài là cô bé xa lánh, dần dần không bén mảng đến chơi nhà ông nữa. Ông nghĩ rằng: Tiếng đàn đã làm ông sang trọng hẳn lên và cô bé cảm thấy thân phận mình nhỏ nhoi, mặc cảm nên khép mình, lùi xa rồi tránh hẳn. Tôi lại đồ rằng, ông chơi những bản nhạc tình yêu trữ tình lãng mạn nồng nàn như làlời tỏ tình, như là lời mời gọi khao khát khác giới… khiến cô gái mới lớn xaoxuyến e lệ lùi xa. Thêm một câu chuyện nữa 100%, gã thanh niên tóc dài lõa xõa bên nhà ông, tục tằn, chuyên nói tục với ông, nhưng từ khi cây đàn piano ngự trong nhà ông thì gã đằm tính lại, nói năng nhã nhặn và hết xả ra những lời thô lỗ.

Bây giờ, ông là tay pianist nghiệp dư cự phách nhất Việt Nam,chứ không phải gã gõ thùng tôn như thời mới tập đàn. Bây giờ, quây quần quanh nhà ông là những người hàng xóm tốt bụng, yêu nhạc, cứ vài ngày ông bị mệt hoặc đi chơi xa, vắng tiếng đàn là họ lại nhớ nhung, gọi vóng sang: “Chơi đàn đi, ông Đức ơi!”




4. Nghi lễ tình yêu.

Nhà triết học số 1 châu Ámang tên Nguyễn Hoàng Đức yêu không dễ. Năm nay, ông đã gần sáu mươi tuổi,nhưng các nàng tuổi 40 rất khó lọt qua mắt ông để mở cánh cửa tình yêu nặng nhưcùm gỗ lim của ông, dù có là hoa hậu quý bà vừa sống đơn thân hay cô gái quá lứa nhỡ thì chưa một lần làm vợ. Vậy thì các bóng hồng tươi xanh tuổi 18 trở xuống mới là cái đích để ông ngắm? Không! “Trẻ ranh” nũng nịu suốt ngày, ông bảo: ở cái tuổi tri thiên mệnh, ông không thể vừa viết những trang triết luận bay bổng về anh hùng mỹ học, vừa dỗ người tình ăn socola; vừa đọc trường ca thần học đầutiên của nhân loại “Ngước lên cao”, vừa thay tã lót cho con. Mẫu hình lý tưởng tình yêu của ông là những cô sinh viên tươi trẻ, nới rộng thêm là các mỹ nữ đơn thân trên dưới tuổi 30, nhưng giới hạn không vượt quá tuổi 35. Tuổi là vậy, nhưng người tình của ông còn phải hiểu biếtthần học, triết học, yêu thích nhạc giao hưởng, biết chơi đàn piano càng tốt vàphải hiểu được công việc lao động văn chương nhọc nhằn cô độc của ông, ít rakhi ông đọc bài thơ vừa mới sáng tác thì lắng tai nghe chăm chú như nuốt từng lời, chứ thờ ơ là nàng đã giết chết cảm xúc sáng tạo của chồng, có nghĩa là hai tâm hồn vênh váo không đồng điệu. Yêu đương cái nỗi gì!

Bạn bè khuyên Nguyễn Hoàng Đứcđừng dây vào cảnh “cha già con cọc”, yêu nhau là đủ, hoặc kết hôn nghĩa chồng vợ tao khang là đủ, họ khuyên ông đừng đẻ con. Đẻ con, sẽ làm nhà triết học lấn bấn vào chuyện sữa bột tã lót bú mớm thì thơ không cất cánh, và tốn thời gian vàonhững việc tầm thường, được đứa con xinh xắn mà mất một cuốn thần học để đời, hay cuốn luận mỹ học tầm nhân loại. Ngược lại, Nguyễn Hoàng Đức coi ái tình phải cay nồng, bỏng gắt như phở có hạt tiêu và ớt, phải bê bết ngàu sủi tinh dịch và nước bọt hôn nhau. Tình yêu hôn nhân phải ngổn ngang, bề bộn tã lót, nhôm nhoam cứt đái và tiếng cười tiếng khóc trẻ con mới đã. Ông là triết học đại tài tầm châu Á, ông rất muốn yêu lấy vợ sinh con với ý nghĩa truyền giống tốt, giốngtinh hoa, giống thiên tài. Tuy nhiên, cho đến giờ phút này, ông vẫn chưa tìm được người phụ nữ của mình để gieo giống. Hỡi những người phụ nữ xinh đẹp vĩ đại! Sao lại bỏ dở một cơ hội vàng ngàn năm có một? Hãy hành động đi! Hãy đến với ông hoàng của văn học Việt, hãy đến với “nhà triết học số 1 châu Á” đi, kẻo các nàng sẽ rơi vào không gian u uất ân hận và tiếc nuối suốt đời.

Một lần tôi hỏi ông:

“Ông già rồi. Sao cứ chịu cảnh ế ẩm đời trai hiu hắt thế?”

Ông ngẫm nghĩ một lát, và thở dài:

“Tôi đã là ông hoàng của vănhọc Việt Nam, hoặc giả chỉ là cái bóng của ông hoàng thì cũng có nghĩa là tôi sẽcó cả ngàn cung tần mỹ nữ. Nhưng, tôi không muốn ái tình nhôm nhoam với hết người này đến người khác. Tôi chỉ chưa tìm được hoàng hậu của lòng tôi. Bởi vì Chúa đang thử thách tôi.”

Nguyễn Hoàng Đức là con ngườidư trí tuệ, thừa tài hoa, nhưng thiếu đào hoa. Ông đẹp trai, mũi cao to và gương mặt đẹp như nhà triết học Hy lạp cổ đại chúng ta thường thấy hiện diện đâu đó ở tranh tượng trong bảo tàng nghệ thuật. Ông cũng thuộc hàng nam tính, trí tuệ tài năng. Cái gì ông cũng hơn đám đàn ông bạn bè. Nhưng, ông không một cánh đào hoa. Các bạn ông đào hoa như rộn rã như máy gặt đập liên hợp, tình yêu cuồn cuộn như thác lũ. Còn ông như con cá trên cánh đồng khô cạn hớp hớp từng giọtsương tình yêu nhỏ xuống từ mái gianh nghèo. Nhưng ông vẫn cam chịu, không một mảnh tình vắt vai. Ông tin một niềm tin vững chắc và hi vọng rằng: Chúa đang sỉ nhục ái tình của ông, và khi Chúa sỉ nhục đến tận cùng con đường đào hoa của ông thì Ngài sẽ mở lòng, giải phóng cho ông khỏi cuộc hành xác chịu nạn thiếu hụt ái tình. Lúc đó, người đẹp bất ngờ xuất hiện như cổ tích, cánh cửa ái tình mở toang ra. Ông sẽ rực rỡ trong ánh hào quang hạnh phúc với người tình và hôn nhân chóng vánh, ông sẽ gieo giống vào hoàng hậu của lòng ông. Nhân loại sẽ đón chờ cuộc tình vĩ đại cũng y như đón chờ hạt giống triết học ông gieo xuống thế gian trở thành đứa con bất tử như sự bất tử của ông. Đó là niềm tin thành thật.

Dù vậy, tôi vẫn nghĩ: Người con gái nào chấp nhận yêu, lấy ông làm chồng sẽ là người phụ nữ vĩ đại nhất hành tinh, nàng hi sinh không phải vì hoàng đế văn chương khổng lồ Nguyễn Hoàng Đức mà chính là nàng hy sinh đời nàng cho một kẻ mộng tưởng đi giữa đời thường– một nhân vật văn học tương lai của nhân loại.

Nguyễn Hoàng Đức quan niệm: Từ tình yêu đến hôn nhân là phải có lộ trình, và vì tình yêu thiêng liêng chứkhông trần tục như tình dục, nên phải có nghi lễ. Cái nghi lễ của ông là câu chuyện thế này xin hầu bạn đọc:

Bạn bè thấy ông đơn thân, tìm hoài vẫn không đứng đầu đứng số, thương lắm vun quén nhiều nhưng chẳng hiểu sao mười cô gái đến thì chục cô đi. Bác sĩ, kỹ sư, tiến sĩ, giáo viên, nhà thơ, nội trợ… đủ cả, nhưng Nguyễn Hoàng Đức vẫn thân đơn bóng chiếc. Tôi cũng nhiệt tình giới thiệu một cô bạn vong niên 28 tuổi xanh là kế toán một công ty, rất say phim truyện tình yêu truyền hình dài tập của Hàn Quốc, đã bắt đầu vào thời đằm thắm. Tôi bảo ông: “Giới thiệu xong là tôi tìm kế “tẩu vi thượng sách” nhường lại không gian huyền ảo cho hai người tự do tìm hiểu. Lần này con cá to. Chớ để sểnh.”Ông Đức hân hoan, sướng lắm! Ông có mặt ở nhân gian nhìn ánh mặt trời trước nàng 23 năm. Có hề chi, nàng đã nghe danh chàng từ lâu, và lòng rất mến mộ.

Tôi đưa nàng đến nhà ông.

Quá bất ngờ! Chúng tôi choáng ngợp bởi không gian huyền ảo lung linh của hàng chục ngọn nến cháy sáng giữaban ngày. Tượng Đức Chúa Jêsus Christ đóng đinh trên cây thánh giá, ảnh Mẹ Maria,các loại ảnh và lịch Thiên chúa giáo, các tượng bán thân Nguyễn Hoàng Đức kích cỡ bằng người thực, và sách triết học, thần học trong tủ với báo chí chất ngổn ngang chung quanh. Tất nhiên còn có cả hoa tươi và cây đàn piano cổ kính phủ chiếc khăn màu hổ phách in hoa văn cách điệu có nguồn gốc từ xứ xở Ba Tư tạo nên không gian dị nhân Nguyễn Hoàng Đức.



Họ chào nhau khá thoải mái, cởi mở và xem ra ông cũng rất thích nàng. Tôi hào hứng:

“Xin giới thiệu với em! Anh Nguyễn Hoàng Đức đây là nhà thơ, nhà tiểu thuyết, nhà truyện ngắn, nhà biên kịch, nhà báo, “nhà lý luận phê bình văn nghệ hàng đầu thế giới…”

Gương mặt ông sáng bừng, nhưng dường như tôi chưa làm hết phận sự, ông hân hoan, trân trọng tự giới thiệu tiếp:

“Anh còn là nhà triết học, nhà thần học, nhà mỹ học…”

“Đúng đúng! Em thấy không, Nguyễn Hoàng Đức của chúng ta có duyên nhé, lại rất nam tính, đến anh là đàn ông mà còn mê…”.

Ông Đức cười tủm tỉm rất đángyêu bảo:

“Em đừng nghe Sương Nguyệt Minh. Hắn “dìm hàng” đấy.”

Đột nhiên ông tăng âm lượng giọng nói và hùng biện:

“Thước đo đàn ông là cái đầu triết học thông thái, em ạ. Chứ ông Minh khen anh nam tính là cổ vũ cho khả năng giỏi chuyện giường chiếu…, tình dục. Anh… không chấp”.

Đôi mắt cô bạn gái hơi bối rối,e thẹn. Tôi đưa mắt như muốn bảo Đức: “Ông dịu dàng, âu yếm một chút cho tôi nhờ.Hôm nay, việc trọng đại là… tình yêu, chứ không phải là triết học, thần học”.Nhưng, Đức không để ý đến cái nhìn của tôi, ông đứng phắt dậy, hùng dũng đi đến tủ sách lôi cuốn “Hiện tượng học tinh thần”của Hegel in bằng tiếng Pháp dầy gần 2000 trang và cuốn “Ý hướng tính văn chương” của ông, dầy như viên gạch vồ đặt ra bàn,nói với cô gái mới quen:

“Em thấy không. Đàn ông là phải trí tuệ, khen anh nam tính có họa bằng chê ngầm anh cơ bắp. Con người thằng đànông hơn nhau ở chỗ đẳng cấp trí tuệ, em ạ”.

Tôi nói:

“Ông ơi! Pascal bảo: Con ngườichỉ là một cây sậy yếu ớt trước tạo hóa vô biên.”

Ông Đức bảo:

“Nhà triết học Pascal cũngnói: Con người là một cây sậy, nhưng là cây sậy biết suy nghĩ. Ông Pascal còntriết luận: Nếu cái mũi của Cleopatra dài thêm một chút thì cục diện thế giới sẽthay đổi…”

Gay rồi. Tôi đã vô tình thò bàn tay vào suối nguồn triết học của ông. Nguyễn Hoàng Đức giải thích ẩn dụ“cái mũi của Cleopatra”, ông phân tích tính từ “dài”, ông chứng minh “cục diện thế giới sẽ thay đổi”…Chết mất thôi! Hết triết học Pascal sang Hegel đếnNietzsche rồi quay về “Ý hướng tính vănchương”…

Tôi ngồi bên thò tay giật giật vạt áo ý nhắc nhở ông quay về chủ để tiếp bạn gái. Ông gạt tay tôi bảo với côgái:

“Anh Sương Nguyệt Minh là chúa… “dìm hàng” em ạ.”

Rồi Đức quay phắt lại bảo tôi:

“Bây giờ đến lượt ông nói đi.Cho ông nói về triết học… 30 phút đấy. Không nói được ấy gì. Chết chưa!”

“Ừ. Chết. Tôi đang chết đứ đừđây. Hôm nay là ngày của ông nói chứ không phải tôi.”

Tôi ghé tai Đức thì thào rằngtrọng tâm buổi gặp gỡ hôm nay là cô bạn gái, còn triết văn để hôm khác. Mặt ôngthộn ra, cười gượng gạo rất đang yêu. Tôi kiếm cớ chuồn và hẹn sẽ quay lạitrong thời gian ngắn nhất.

Đúng là Pascal rất có lý khi nhận ra "Con tim có những lý lẽ mà nhiều khi lý trí không thể hiểu nổi". Khoảng gần một giờ sau, tôi chưa kịp quay trở lại nhà Nguyễn Hoàng Đức thì cô bạn gái điện thoại:

“Anh Minh à. Em về rồi.”

Tôi sửng sốt:

“Chết thật! Sao về sớm thếem? Anh nói trước rồi mà. Cái việc tỏ tình thì Đức tồ lắm”.

“Em hết chịu nổi rồi, anhơi!”

“Là sao?”

“Ảnh ấy bảo: Hôm nay, em là khách quý đặc biệt, anh phải đón bằng nghi lễ đặc biệt. Em bảo: Anh đã thắp 28 ngọn nến giữa ban ngày làm nghi lễ đón em rồi. Anh ấy bảo: Đó chỉ mà nghi lễ giáo đầu. Bây giờ mới là nghi lễ chính thức. Nói rồi, anh ấy bước đến cây đàn piano, bảo: Anh sẽ dâng hiến em bản nhạc Sotana The moonlight của Beethoven…”

Tôi cướp lời người đẹp:

“Có phải trước khi đàn, ông ấy phân tích chương một giai điệu chậm rãi, tha thiết như lời than vãn, đánh thức hồi ức tình cảm dịu dàng êm như ánh trăng tan nhẹ trên mặt hồ mênh mông lặng sóng không?”

“Vâng!”

“Rồi ông ấy nói về chương hai ánh trăng chảy mải miết theo dòng sông dài bất tận, báo hiệu một điều khủng khiếp dữ dội sắp xảy ra không?”

“Vâng! Rồi anh ấy phân tích chương cuối ánh trăng tan vỡ trên mặt sóng giông tố, khơi gợi cảm xúc mãnhliệt, dữ dội như con người đang quay cuồng, vật lộn với bão giông đại hồng thủy, với nỗi buồn đau nhưng không tuyệt vọng…”

“Ôi trơ…ời!” - Tôi hét vào ống nghe.

“Đàn xong bản “Sonata Ánh trăng” thì 12h trưa, anh ấy không dừng lại mà dâng hiến cho em tiếp bản nhạc giao hưởng “Định mệnh”.

“Bảngiao hưởng ấy bốn chương đấy. Chơi hết thì… chết đói a?”

“Vâng!Vì thế mà em phải viết mảnh giấy chào rồi kẹp vào quyển triết học “Hiện tượng học tinh thần” của nhà triết học Hegel gì đó, rồi ra về khi anh ấy còn…đang mê mải đàn”.

“Ôigiời ơi là giời!”

Tôichỉ còn biết kêu lên thảng thốt, đầy bất lực vừa giận vừa thương ông. Quên cả ngườiđẹp đang đói bụng ở bên, qua phím đàn piano, ông thả hồn vào “Sotana Ánh trăng”để tỏ tình, nhưng ông mải miết đắm đuối theo dòng chảy âm thanh từ “Ánh trăng”sang “Định mệnh”. Định mệnh thì yêu đương cái nỗi gì!



5. Triết lý mang tên Nguyễn Hoàng Đức.

Nguyễn Hoàng Đức là một con người vừa đơn giản vừa phức tạp.

Sau cái dạo gặp nhau đầu tiênở Quảng bá, bẵng đi một tháng, Nguyễn Hòang Đức gọi điện thoại cho tôi mời đếnnhà riêng ăn tiệc. Hóa ra, “gần nhà xa ngõ”, mười năm chúng tôi ở gần nhau chưađầy 200m mà chưa một lần chạm mặt nhau.

Tôi rụt rè gõ cửa.

Rụt rè là bởi tôi đã nghe ngườita kể về những về những cuộc đón khách kỳ lạ của ông: cuộc linh thiêng, cuộc lộnglẫy, cuộc thần bí và cả những cuộc cười ra nước mắt. Ông gọi với ra, bảo tôi chờ tí. Thì ra, ông đang ghim cà vạt và nghiêng ngó trước gương. Ông mở cửa. Choántrước mặt tôi là một người đàn ông cao lớn lịch thiệp, đóng comple màu be ra dáng chính khách, nhưng cái đầu là của nhà triết học với vầng trán rộng, mũi to và cao, mái tóc hơi dài chải bồng về phía sau. Tôi ngỡ ngàng, nhìn thân mình tôi cao nghều với quần lửng, đi dép lê, mặc áo thun, tay cầm chai rượu quốc lủi Phát Diệm nút lá chuối.

“Ôi! Trịnh trọng quá. Ông vừa đi đâu về hả?” - Tôi ngơ ngác hỏi.

“Không! Tôi vừa sắp tiệc đãi ông”.

“Vẽ. Có hai người mà…”

“Ừ, nhưng ông là khách quý, lần đầu đến nhà nên tôi đãi yến tiệc triều đình...sang nhất.”

Sang nhất! Ôi. Lần đầu trong đời được làm vua.

Ăn cũng phải sang nhất. Ông coi món ăn Việt là lìu tìu, không có món nào ra hồn, không có quốc hồn quốc túy về ăn uống. Ở Nga có rượu Vốt ca, ở Ba Lan có rượu cỏ, ở Pháp có vang booc đô, ở Nhật có sakê…; ở Việt nam thì… quốc lủi, mà rượu làng Vân, rượu Phát Diệm, rượu Bầu Đá, rượu Sán Lùng… cứ lọan lên chẳng có loại nào đại diện cho quốc gia. Còn ăn uống thì rau luộc, thịt luộc, luộc cả con lợn…, chỉ có luộc với chấm. Chả lẽ lại đem mắm tôm,hay dưa khú làm quốc yến?

Tương tự, đàn bầu ngũ cungcũng không thể thi thố với đàn piano của thiên hạ. Ông rất dị ứng với những gìtranh tre nứa lá như sáo, nhị, hồ. Với ông, tất cả phải kì vĩ, hoành tráng,mênh mông, lộng lẫy và… đặc biệt. Đặc biệt như cây đàn ghi ta phải là loại gỗthông mọc trên triền đá chịu khô hạn, bị gió bão, mưa tuyết đánh tơi bời…thìlàm bầu đàn, cần đàn mới tốt, không bị cong vênh, âm thanh chuẩn bốn mùa xuân hạthu đông.

Triết lý “Thành La Mã khôngxây trong một đêm” luôn chỉ đạo tư duy và hành động Nguyễn Hòang Đức. Vănchương thì trước hết phải lấy số lượng làm đầu. Một câu thơ hay, một bài thơ hay… không tính là nhà thơ. Một tập thơ hay mà không có gáy đóng ghim ông cũngcho là mỏng manh yếu ớt lìu tìu. Đã là nhà thơ phải viết trường ca, đã là nhà văn phải có tiểu thuyết, không phải 1 cuốn mà nhiều cuốn, phải lấy thước mét đểđo. Văn thơ phải có tư tưởng chứ kể và tả chỉ là mua vui giải trí, mỹ học thấpbé lọ mọ tăm tối như túp lều tranh tre nứa lá… không chấp. Ông hiên ngang đi giữađường thơ vác cây thập giá triết học, đeo túi cỏ thần học đến lâu đài văn chương kì vĩ bằng đá xanh, bỏ qua mọi ngôi nhà tranh, nhà gỗ chỉ một trận hỏahoạn là thành tro.

Trongcon mắt Nguyễn Hoàng Đức, người Phương Tây nhất là dân du mục đi khỏi nhà là nhảylên mình ngựa nên tính tình phóng khoáng, mã hiệp. Bây giờ, ông đi ra khỏi nhà, không nhẩy lên mình ngựa mà nhẩy lên…ô tô. Ông Đức mua ô tô và đãi bạn (còn gọilà khao) bằng cách mời tôi ngồi lên để ông chở đi 1 vòng quanh nội thành Hà Nội.Ông cảm thấy tự tin vô cùng, bảo: “Từ nay tôi hết lọ mọ rồi, ông ạ”. Tôi phấnchấn chia vui: “Tôi không nghĩ thế, mà đã tính đến cái chuyện ông lấy được vợ từcái xe ô tô này”. Triết lý của ông là: từ cái xe đạp lên xe máy, dù là xedyland hơn 200 triệu đồng thì cũng chỉ là xe hai bánh, chẳng khác gì nhau.Nhưng, xe ô tô, dù là xe cỏ mua rẻ 14 triệu đồng ngang với đồng nát thì vẫn làxe ô tô, nó sang hơn vì nó có… 4 bánh, và bỏ tay lái nó vẫn đứng, chứ xe máy,xe đạp bỏ tay ra là… đổ kềnh.

Nguyễn Hoàng Đức dù là một “triết gia vĩ đại”, một “nhà văn khổng lồ”, một “anh hùng mỹhọc” vác thập giá đi chinh phục đám văn nhân lìu tìu chúng tôi thì ông vẫn phải sống như một con người bình thường. Có nghĩa là: ông phải ăn uống, phải mặc, phảiđi lại, phải mưu sinh. Hàng tuần, ông viết 1 bài báo cho báo Phụ nữ… đủ sốngcho cả tuần, nhưng thiếu tiền đổ xăng, ông lại phải viết 1 bài nữa cho báokhác. Cứ ngừng viết là ông ngừng có tiền tiêu vì ông không có lương. Ông là vĩ nhân, là người theo Thiên Chúa giáo, trước lúc ăn phải làm lễ trịnh trọng. Khicao sang thật cao sang, khi xuề xòa thật xuề xòa đáng yêu. Ông ăn salat Nga, thị thun khói, thịt cừu chiên, thịt ngỗng trời quay, uống rượu mạnh Chivas hũ sàng21 năm…, nhưng ông cũng xài được đồ ăn Việt thứ gì ăn cũng thấy ngon: Lòng lợn mắm tôm. Thịt chó. Chân gà nướng. Đậu phụ luộc…Khi ăn món ăn Tây, ông trịnh trọngkính cẩn làm nghi lễ thưởng thức văn hóa ẩm thực. Khi ăn đồ ăn Việt ông chỉ coilà… nạp năng lượng, đánh no bụng để đủ sức hành trình sáng tạo.

Nhàthơ Đỗ Minh Tuấn gọi Nguyễn Hoàng Đức là: “Anh hề triết học, chàng Đông-ki-sốt văn chương” có lẽ khôngsai. Tôi đã đọc đi đọc lại những dòng chữ ông Tuấn viết: “Đức còn khoe khi Nguyễn Huy Thiệp mời Đức đến nhà dự khánh thành bứctượng Phật của Hồng Hưng, Đức được ngồi mâm giữa cùng các bậc cao nhân như Nguyễn Đăng Mạnh, Hoàng Ngọc Hiến và Hồng Hưng. Đức tự hào: “Thiệp là chủ nhàmà cũng không ngồi mâm giữa. Tôi còn trẻ măng, chưa là gì cả mà đã được ngồingang ngửa với Hoàng Ngọc Hiến…”. Đó là cái triết lý mang tên Nguyễn HoàngĐức: “Tôi phải là người như thế nào thì mớiđược… như thế”. Cũng như ông khoe với tôi: “Ông Minh đã được Hữu Thỉnh gọilà thầy chưa?” “Chưa! Tôi chẳng là gì để ông Thỉnh gọi là thầy”. Ông Đức lôitập thơ Hữu Thỉnh có lời đề tặng: “TròHữu Thỉnh thân tặng thầy Nguyễn Hoàng Đức”, rồi ông bảo: “Tôi phải là người như thế nào thì Hữu Thỉnhmới gọi là thầy chứ.” Vâng! Thưa bạn đọc! Chả là có dạo Nguyễn Hoàng Đứcmột tuần hai buổi đến nhà riêng dạy nhà thơ Hữu Thỉnh học Anh ngữ.

Nhàthơ Nguyễn Quang Thiều có lấy cho ông Đức một vé mời đi dự Ngày thơ quốc tế ởIndonexia. Ông về tặng tôi một cái bấm móng tay và khoe:

“Cảhội trường như chết lặng nghe tôi đọc Trường ca thần học “Ngước lên cao” bằngtiếng Anh, ông ạ”.

“Còngì nữa?” – Tôi hỏi và mừng cho ông.

“Ởsảnh đường có đặt chiếc đàn piano. Không có nhà thơ nào dám mó vào, ông ạ.”

“Gìnữa?”

“Cảsảnh đường như chết lặng nghe tôi đàn piano, ông ạ”

“Còngì nữa?”

“Tôi phải là người như thế nào thì mới được như thế chứ.”

Nguyễn Hoàng Đức có một khát vọng cháy bỏng là được đọc thơ ở chốn đông người như Maiacopxkiđọc Trường ca Lê nin trên Quảng trường Đỏ nước Nga. Ông vẫn chờ đợi một ngàynào đó, và ông hi vọng đứng trên bục vinh quang ở Quảng trường Ba Đình, hay Sânvận động Mỹ Đình đọc Trường ca mỹ học “Kẻ hành hương từ đời đến thơ”. Chờ đếnngày Nguyễn Hoàng Đức hiên ngang đứng ở quảng trường lâu quá, bạn bè thương,các ông họa sĩ Lê Thiết Cương, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều bèn tổ chức cho ôngthực hiện khát vọng đáng yêu của mình. Rượu vang Chi lê và rượu mạnh Chivastrong không gian mỹ học đặc sắc tại galery họa sỹ Lê Thiết Cương, ông đắm đuối,da diết thăng đồng cùng trường ca Thần học “Ngước lên cao”. Hôm sau, ông hỏitôi cảm nhận về buổi đọc thơ, tôi bảo: “Mọi người rất vui. Ông Thiều, ông Cươngđã dành cho ông một món quà quý giá. Ông phải là người như thế nào thì mới đượcnhư thế chứ!” Nguyễn Hoàng Đức cười, nụ cười thỏa mãn chảy dài trên mặt.

Nhà văn Nguyễn Đình Chính đọc xong truyện ngắn “Công lý và trái tim di trú” củaNguyễn Hoàng Đức, ngạo nghễ nói trước mặt cả đám nhà văn ở Trại viết: “Văn chương các ông quanh quẩn chỉ là cái cổng làng, con trâu với bến nước, bụi tre.Còn lâu mới có hòn đảo cô đơn và mặt trời công lý như thằng Nguyễn Hoàng Đứcnhé.” Lạ thay! Chẳng có ai tự ái. Chỉ có người thì lặng im, và kẻ cười ruồi.

Nhà thơ Lương Tử Đức nói về ông: “Nguyễn Hoàng Đức đã dấn thân và cô đơn trên con đường lý trí để thực hiện sứ mệnh của bản thân mình chochân lý sáng tạo văn học nghệ thuật.”

Một lần tôi bảo Nguyễn Hoàng Đức:

“Ông ạ. Ông rất nhiều “nhà”: Nhà triết học, nhà thần học, nhà văn…Ai phong cho ông hay tự ông nhận? Ai gọi ông là “Nhà lý luận phê bình văn họchàng đầu thế giới?”

“Chính ông! Ông đã phong cho tôi. Còn Nguyễn Quang Thiều viết trênVietimes khẳng định tôi là “Nhà triết học số 1 châu Á”.

“Tôi phong ông là “Nhà lý luận phê bình văn học hàng đầu thế giới”hay không thì tôi không còn nhớ. Nhưng, tôi nhớ như in, bài viết “Nguyễn HoàngĐức – Nhà triết học số 1 Châu Á?” có dấu hỏi (?) ở sau cùng tít bài. Như vậy,người ta còn nghi ngờ, đặt dấu hỏi là ông có thực như vinh danh không, chứ đãkhẳng định đâu.”

ÔngĐức bảo:

“Ngay cái việc manh nha đặt dấu hỏi về tôi thì tôi cũng phải như thế nào, người tamới đặt dấu hỏi chứ. Ông có biết nhà văn Cao Hạnh - Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt không?”

“Có.Tôi chơi thân với anh ấy.”

“So với các Tổng biên tập các tạp chí Văn nghệ các tỉnh thành, ông Cao Hạnh thếnào?”

“Ôi. Ông lại bắt tôi định giá ư? Ừ thì ông Cao Hạnh cũng là một tay Tổng biên tậpcứng cựa”

“Đấy! Ông Cao Hạnh cũng phong tôi là “Nhà lý luận phê bình văn học hàng đầu thế giới”nhé. Tôi phải là người như thế nào thì một ông Tổng biên tập mà ông khen, mới phong “thánh” cho tôi chứ. Cũng như tôi phải là người như thế nào thì cỡ NguyễnĐình Chính, Nguyễn Quang Thiều, Lê Thiết Cương. Đỗ Minh Tuấn, Lương Tử Đức, vàông với nhiều người khác khen và viết bài… khen chứ”.

Nguyễn Hoàng Đức nói có lý quá. Dường như, ông là kẻ nhà văn duy nhất ở Việt Nam luôn luôn tự định giá, tự sắp đặt vị trí của mình ở làng văn, vị trí của mình trongxã hội. Kể ra thì cũng là một đức tính tự tin đáng yêu, dám sống và chịu tráchnhiệm với những gì mình sống, mình khẳng định, mình phát ngôn.

Nguyễn Hoàng Đức là một kẻ liên tài. Viết xong chuyên luận “Hành trình tâm linh nhânloại”, ông tự phong thánh cho mình là “Nhà Thần học”. Tuy vậy, ông không hề đố kị trong đời thường và văn chương. Ông hết lời ngợi ca Ngô Bảo Châu được Giảithưởng Fields về Toán học. Ông viết: “Với thành công được quốc tế công nhận, GS. Châu hoàn toàn xứng đáng là một bậc thầy củadân tộc. Vì vậy khi muốn tham vấn ông, hơn thế là một chút muốn đối thoại, thấphơn là chia sẻ hay trao đổi, chúng ta nên tự biết mình là đang kiến diện một bậcthầy. Và buộc phải tôn trọng ông như một bậc thầy. Ông là một đẳng cấp cao,không thể như cành lá bên đường ta cứ muốn hái là với. Có một phương ngôn rằng“Văn hóa cao nhất là biết chấp nhận người khác”. Đúng vậy,chấp nhận người khác là biết vượt qua đố kỵ, đặc biệt là đố kỵ hiền tài. Vì thếkhi ta biết đặt người khác và chính bản thân mình vào đúng chỗ đó là một khảnăng văn hóa.”

Thêm một triết lý mang tên NguyễnHoàng Đức, ai là thầy ông đồng nghĩa với là thầy của cả dân tộc. Ông đang coigiáo sư Ngô Bảo Châu là thầy, dù giáo sư chưa một lần dạy ông nửa chữ. NguyễnHoàng Đức cũng có những khuyết điểm, sai lầm bởi những điều cả tin, tự tin, huyễntưởng; nhưng tôi tin rằng: ngay cả những sai lầm của ông cũng là sai lầm tự tinchân thành.

Có phải Nguyễn Hoàng Đức là nhà triết học số một Châu Á? Có phải ông là nhà thần học, nhà mỹ học, nhà tiểuthuyết, nhà truyện ngắn, nhà thơ, nhà viết kịch tầm cỡ nhân loại? Có phải đặc biệt ông là “Nhà Lý luận Phê bình hàng đầu thế giới” không có đối thủ tranh luận?Người ta tự vấn như thế và mỗi người đi tìm lời đáp cho riêng mình; cũng có lúcngười này hỏi và người khác trả lời, đôi khi có kẻ cười khẩy và lảng tránh.

Mặc, Nguyễn Hoàng Đức vẫn đang vác cái thánh giá nguyên lý đi chinh phục nhân gian và mong chờ đến ngàyChúa lòng lành không bỏ rơi ông. Ông có niềm tin của ông, một niềm tin thánh thiện, ngây thơ chân thành tiếp thêm cho ông sức mạnh sục sôi viết trong nhữngtuần máu ứa đầy mình mẩy, nhưng chính cái niềm tin kỳ vĩ ấy cũng dắt ông vào cõi mộng du, và đôi khi mù màu bởi những đám mây ngũ sắc che mất đôi mắt vừamang cái nhìn soi chiếu của vĩ nhân vừa mang ánh sáng của người trần mắt thịt.Nguyễn Hoàng Đức sẽ cứ mãi mãi cô đơn và sáng tạo trong cõi mộng du của mình,và người đời vẫn cứ vừa thương, vừa giận, vừa cười ông, để rồi một ngày không buồnkhông vui, đột ngột nhận ra: Ôi! Vắng dị nhân Nguyễn Hoàng Đức thì văn chươngvà cuộc sống… mới nhạt nhẽo làm sao!

Vĩ thanh:

Tôi viết bài này xong, in ra giấy đưa tận tay Nguyễn Hoàng Đức. Ông đọc chăm chú và cầm bút sửa cả lỗi morat. Tôi im lặng trong tâm trạng chờ đón cơn nóng nẩy tức giận, trách móc hoặc lạnh lùng quẳng vào sọt rác, nhưng ông mừng ra mặt bảo:

“Chết chưa! Từ trước đến nay, chưa bao giờ ông chịu công nhận tôi. Bài này coi như lá cờ trắng báo hiệu sự thất trận, ông là người cuối cùng đầu hàng tôi và đầu hàng trong oanh liệt. Chân lý bao giờ cũng chiến thắng nhá”.

Tôi dở cười dở mếu, chỉ còn biết nói:

“Ừ, chân lý bao giờ cũng chiến thắng”.