Chủ Nhật, 17 tháng 1, 2021

"Bản toát yếu" Thuyết dung thông và đạo làm người

 



(Viết thể theo yêu cầu một số độc giả, sau khi đã xem 2 PHẦN ngót mấy chục trang trên VCV về "Thuyết Dung Thông & Đạo làm người", nay muốn liếc mắt nắm gọn cốt lõi. Ngoài ra các bạn chưa đọc cũng muốn trước khi khởi đọc cà 2 PHẦN đó, thì sơ qua cái tóm tắt thật ngắn về nó.)

Sự vận động di chuyển để truyền đạt (DUNG), để giao lưu, liên thông, kết nối (connection) một cách thường xuyên, thuận nghịch, nhiều tầng, nhiều chiều và thông suốt (THÔNG). Điều này đã được tác giả chứng minh là một quy luật phổ biến, tổng quát nhất của toàn bộ thế giới hữu hình và ẩn hình: từ toàn vũ trụ, các sinh vật, đến các ‘hạ-hạt’ nguyên tử (học thuyết vật lý hiện đại ‘Bootstrap’ của Geoffrey Chew) trong trời đất, từ toàn xã hội đến từng cá thể kể cả tinh thần, tiềm thức, tâm hồn... Mọi vật thể, mọi hiện tượng là một khối, trong đó tính chất của phần này được xác định bởi tất cả các phần kia.

‘Dung thông’ thực ra là nguồn căn, bản chất, sự phát triển và động lực phát triển của vạn vật và sự sống. ‘Dung thông’ lại là bản chất, ý nghĩa, mục đích, lý tưởng, niềm vui và hạnh phúc của mỗi con người ta.
Dung thông từ chỗ là một quy luật phổ quát của tự nhiên, xã hội và con người như nêu trên đã được tác giả chứng minh đáng được bản thân mỗi người thấm nhuần thành một nhân sinh quan, một triết lý sống, làm cốt lõi cho một hệ thống các cách thức thực hành rèn luyện tu dưỡng từ gốc tâm hồn đạt đạo làm người, đạo lý xử thế trong sáng mà giản dị (với bản thân và mọi người) kể cả cách xử lý hiệu quả nhất đối với stress, giữ “tâm hồn thanh thản”, nâng cao kiến thức và văn hóa, bồi dưỡng lòng yêu thương và đạo đức (nhất là chống lòng tham), rồi trách nhiệm nhập cuộc, nối các giai đoạn tuổi đời, và kiến tạo tình yêu, chia sẻ, hạnh phúc, và cả thái độ đối với cái chết.

Trong các mặt ứng dụng vừa nêu, lấy một ví dụ “ĐẠO LÀM NGƯỜI THEO THUYẾT DUNG THÔNG” giúp mỗi người tự thức tỉnh, xem lại mình mọi lúc của mỗi ngày và suốt toàn bộ cuộc đời: có lúc nào thụt lùi về giác ngộ dung thông thuận-nghịch không? Nếu chỉ một chiều ích kỷ dòng dung thông tích luỹ nhận vào (từ sinh thành, vật chất, tinh thần, yêu thương, v.v…) rồi khư khư giữ riêng cho mình, không dòng dung thông sẻ chia ra cho ai cả; không làm việc, sáng tạo, đóng góp đáp trả đời (kể từ công đức mẹ cha tổ tiên, dân tộc…, đến mọi người đang sống trên tổ quốc và thế giới) như ‘quỵt’ công vậy, thì rõ ràng phải đánh giá là không đàng hoàng công bằng sòng phẳng tử tế và phải đạo, phạm quy tắc có đi có lại, được-cho, nhận-trả (kể cả NHẬN của quá khứ phải TRẢ cho hậu dụê).
Thuyết Dung Thông & Đạo làm người :Tóm lược của chính tác giả GsTs Nguyễn Huy Dung.VCV không có đề mục phù hợp tuy nhiên VCV đã giới thiệu anh như một nhà thơ và hy vọng bạn đọc chia xẻ với anh về học thuyết này mà anh là tác giả.

[Cuốn sách đã được đăng ký bản quyền tác giả 7-2003]

Việc rèn luyện từ gốc-tâm-hồn ai cũng nên, cần và có thể tiến hành, duy một điều phải ý niệm rõ: đây là công việc rất nghiêm túc, rất công phu, đòi hỏi quyết tâm + chịu khó + kiên trì vì lẽ nó không những mang tính khoa học, nghệ thuật mà còn là một đạo lí.

Nói đúng hơn, đích cao mà rèn luyện này nhằm đạt tới là tầm cao một đạo lí, nó là chỗ dựa cho lòng tin, tinh thần, hành vi của mỗi người, mỗi xã hội. Rèn luyện càng tốt có nghĩa là tiếp cận càng gần hơn nữa tới đạo lí ấy: đạo làm người dựa trên Thuyết DUNG THÔNG.

Chữ ‘dung’ có rất nhiều nghĩa, ở đây ‘dung thông’ hạn chế trong chữ dung “/ ” là ‘lưu thông, lưu chuyển, chảy trôi để truyền đi’; cũng có nghĩa ‘sáng sủa’, còn có nghĩa ‘biến sang thể khác (thể lỏng)’. Thông “/ ” là ‘thoáng, đi xuyên qua được’; còn hàm nghĩa ‘tạo nên sự hoà hợp’. ‘Dung thông’ cũng gần nghĩa với ‘Giao lưu’ nhưng nhấn hơn về mức di chuyển, mức thông suốt (một cách trọn vẹn và toàn diện), mức liên tục, phổ quát. Sơ bộ cũng đã thấy đạo ‘dung thông’ coi sự vật chỉ tồn tại trong các mối tương tác và trong tình trạng chuyển động, trong tiến trình của nó.

Tiếp sau đây ta lần lượt chứng minh dung thông là quy luật phổ quát trong tự nhiên, trong xã hội, quy luật mà chúng ta không thể không dựa vào để tạo nên một hệ thống tu dưỡng tâm hồn, xây dựng một triết lí sống, một đạo lí xử thế (với bản thân và mọi người), một tâm đạo. Nếu đúng như vậy thì dung thông là điều cốt yếu, cốt lõi của mọi cốt lõi, có nó ta sẽ không bị lan man mà dần nắm trọn vấn đề.

NHỮNG VẠCH NỐI

Ở khuôn khổ của bài tóm lược này, chỉ xin vắn tắt những điều cơ bản về dung thông mà chúng tôi đã chiêm nghiệm, viết, ứng dụng trong gần bốn chục năm nay. Một trong các cốt lõi của dung thông là vấn đề ‘những vạch nối’:

Người ta ai cũng muốn sống xứng đáng, muốn thành công hạnh phúc, cho nên không thể không rèn luyện. Ai ai cũng hiểu sự cần thiết phải ra sức rèn luyện. Nhưng rèn luyện, xét đến cuối cùng, phải từ nền tảng đích thực, từ bản chất con người. Có nghĩa rằng phải từ Gốc, tức từ tâm hồn. Rèn luyện tu dưỡng tâm hồn là cơ bản nhất trong rèn luyện và khởi đầu rèn luyện cũng phải từ tâm hồn. Nó làm nền tảng, làm hạt nhân cho rèn luyện. Chúng ta sẽ vững vàng đi từ TÂM đến mọi mặt của THỰC TẠI, sẽ bình tĩnh, kiên tâm xuất phát từ bên trong lòng ta, thực sự ‘đi’ từ tâm hồn!

Chúng ta đã thấy không ít những thất bại ê chề của tham vọng thực dụng đến cực đoan dạy ‘thành công’ (chỉ cốt thành công thôi, “thành công” bằng mọi giá!) bằng ki xảo tỉ mỉ tinh vi nhưng giả dối, thậm chí bằng ‘chân thành dỏm’. Ôi, có thể lừa được người đấy, nhưng ngắn ngủi thôi. Con người ta “thức khuya mới biết đêm dài”, “đi đêm có ngày gặp ma”. Cuối cùng rồi mà coi, trăm lần cái ‘ngọn’ hình thức giả dối bề ngoài, chẳng bằng một cái ‘gốc’ chân chất sâu bền từ bên trong tâm hồn chân chính. Tập “luôn đeo mặt nạ”(!), tập mặt dày, vô cảm, mất tính người, đạo đức giả thì dù biện minh (xin miễn nêu tên tác giả này) bằng lời lẽ mĩ miều, cao siêu và gì gì đi nữa thì vẫn là khập khiễng, chưa chính danh, không chính trực.

Còn rèn luyện tu dưỡng từ cái Gốc-tâm-hồn, đã nêu từ đầu, thực chất là gì? Là tăng trưởng tâm hồn đồng thời phát triển tâm hồn bằng cách cho tâm hồn chủ động học chứ không thụ động chịu sự giáo dục. Tâm hồn phải tự học, tự rèn … là do động cơ, mục đích, mục tiêu gì? Do mục đích để có động lực sống xứng đáng, để ‘làm người’ vậy. Mà ‘làm người’ bao hàm nghĩa biết xử thế với xung quanh, với đời (và với chính bản thân). Tức là biết xử lí tốt các vạch nối với xung quanh.

Vạch nối cũng tựa như con kênh cho dòng giao lưu. Vậy hệ thống rèn luyện tu dưỡng tâm hồn để đạt đạo lí dung thông, trước hết là phải làm sao cho hiểu ra được, ý thức được và giác ngộ được những vạch nối với xung quanh ấy. Cao hơn nữa, biết tạo ra được những ‘vạch nối’ tốt với xung quanh, tức tạo những kênh giao lưu tốt cho tâm hồn.

Đó quả thật là một việc to lớn, có phạm vi thật mênh mông, có thể nói liên quan với hầu hết mọi vấn đề nhân văn hiện nay của lòai người chúng ta. Sự nghiên cứu và bàn bạc của chúng ta tất nhiên rất giới hạn về một đề tài không có giới hạn. Một vấn đề không dễ chút nào. Như đã chứng minh, rèn luyện tâm hồn có những nét của nghệ thuật, thì trong đó khó nhất là nghệ thuật tạo những vạch nối tốt ấy.
Gọi là vạch nối tốt có nghĩa rằng giao lưu phải hanh thông, trọn vẹn và liên tục không ngừng. Lại phải hai chiều thuận nghịch. Rồi lại hai hướng: ngang và dọc; tức là các vạch nối gồm 2 nhóm – nhóm vạch nối ngang và nhóm vạch nối dọc.

NHỮNG VẠCH NỐI NGANG là với mọi người cùng thời và cả thiên nhiên cùng muôn loài (giao lưu đồng đại). Giao lưu ngang trên bình diện đồng đại gồm ‘đa hướng’: với nhiều cá thể, nhiều cộng đồng, nhiều quốc gia, châu lục, nhiều nền văn hoá, giữa các khối tôn giáo-sắc tộc (điều cuối này, như thực tế cho thấy, là khá khó khăn).

NHỮNG VẠCH NỐI DỌC là với quá khứ, tương lai (giao lưu lịch đại). Dòng giao lưu dọc chảy thông suốt, không cắt khúc, từ đầu đời tận cuối đời mỗi cá thể, từ thăm thẳm quá khứ nhân loại-dân tộc-gia tộc xuyên dọc tới mỗi cá thể đương đại để còn xuyên suốt thời gian vị lai nhân loại e còn mênh mông hơn.

TRONG VẠN VẬT

Tạm rời vấn đề rèn luyện đạo lí làm người thông qua những vạch nối của sự giao lưu ấy, để nhìn rộng ra vạn vật.

Quan điểm nhận-thức-luận của đạo lí dung thông coi mỗi vật thể và sự vật là luôn trong tiến trình, lưu thông, chuyển động, tự biến chuyển, biến hoá trong sự giao lưu (thông qua những vạch nối) với những vật thể và sự vật tương ứng.

Bên trong mỗi vật thể và sự vật ấy lại không ngừng diễn ra sự giao lưu nội tại (cũng luôn biến chuyển) thông qua rất nhiều những ‘vạch nối’nội tại, chính điều này quyết định sự tồn tại (và biến chuyển) của vật thể như một “chỉnh thể”. Cần phải coi mỗi vật thể là một khối thống nhất là vì vậy.

Mỗi vật thể, sự vật tồn tại (và biến chuyển) là khi có mặt âm và dương (hai mặt đối lập – mâu thuẫn – nhưng không nhất thiết đối kháng) nội tại trong bản thân nó và giữa nó với bên ngoài. Nên nhớ, chẳng còn gì gọi là âm và dương (“cô âm” và “cô dương”) nếu không có mối liên hệ, tương quan, tương tác giữa chúng: tất cả là ở ‘vạch nối’, ‘sự kết nối’ ‘sự giao lưu’ qua lại giữa chúng.

Cách tiếp cận này rõ ràng là ngược với cách tiếp cận siêu hình chỉ chia tách, cắt rời, chẻ nhỏ mãi sự vật, không thấy rằng khi cắt các ‘mối liên hệ và giao lưu nội tại’ nói trên thì vật thể chẳng còn các đặc điểm của chính nó nữa.

Ta chú ý, nhận-thức-luận của đạo lí dung thông lại luôn xét các bình diện cứ cao hơn, rộng hơn mãi: mỗi vật và sự vật (đúng hơn, mỗi tiến trình của vật thể và sự vật) luôn có những ‘vạch nối’ chằng chịt nhiều tầng, nhiều cung bậc với các tiến trình của các vật xung quanh… Lại có thể coi mỗi tiến trình của mỗi vật thể tự mình cũng là một dạng vạch nối trong một bình diện lớn hơn.

Nội dung của dung thông (nội tại hay với chung quanh) nêu trên là: những mối liên hệ, kết nối, tương quan, thậm chí là những tương tác (có thể là tương kết: tương hỗ, đồng vận, đồng thuận; hoặc là tương phản: mâu thuẫn đối kháng…).
Kết quả của sự dung thông ấy là sinh ra động lực duy trì sự giao lưu của vật thể hoặc tạo ra dạng chuyển động giao lưu mới. Có khi trong nội dung của dung thông có thể có bản thân những dòng chảy trao đổi hoặc đổ vào nhau, hoà nhập vào nhau với kết quả là sự nối liền, sự tự biến thành ‘nhất thể’, thành dạng mới khác v.v…

Tóm lại, mọi vật thể và mọi sự vật khi hình thành - tồn tại, khi tăng trưởng - phát triển, khi chuyển dạng sang trạng thái khác v.v.., thảy đều do sự dung thông không ngừng, như vậy là nhờ ở những ‘vạch nối’ phong phú.

Sự giao lưu theo nghĩa rộng như nêu trên cần được gọi là ‘dung thông’. ‘Dung’ với nội dung như đã nêu trên, là: lưu thông, chuyển động, truyền đạt trao đổi qua lại, là biến đổi hoặc biến hóa sang thể khác. Như vậy dùng chữ ‘dung’ để bao hàm quan niệm vạn vật luôn chuyển động (tiến trình, dòng chảy) và luôn biến đổi, song cần hiểu do động lực gì? Đó là do kết quả của ‘thông’, của tương tác (đồng vận hoặc/và đối kháng) với những tiến trình khác liên quan.

TRONG TRỜI ĐẤT, vạn vật từ cái nhỏ nhất, ví như một hạt điện tử (electron, proton, nơtron, positron…) nằm trong một nguyên tử, phân tử, hoặc như một ti lạp thể trong một tế bào sống, cho đến những cái to lớn vĩ đại như một nước, toàn cầu, các hành tinh, toàn vũ trụ.., thì nguồn gốc, bản chất, sự tồn tại, sự vận động và phát triển (và cả động lực cho sự vận động-phát triển ấy)… đều chứa đủ hoặc nằm trọn trong sự giao lưu - dung thông ấy. Mỗi vật và sự vật ấy luôn nhận những tác động liên tục từ nhiều phía và thông lưu hai chiều thuận-nghịch (vào-ra) với nhiều phía.

CÁC PHẦN TỬ CỦA VẬT CHẤT, như khoa học hiện đại cho thấy, chỉ được định nghĩa trong mối tương quan với cái toàn thể; “thế giới bên ngoài và thế giới bên trong chỉ là hai mặt của một mạng lưới duy nhất… gồm vô số những mối liên hệ tác động lẫn nhau”. Rồi phần rất nhỏ của vật chất là nguyên tử cũng gồm nhiều hạt (nơtron, proton, positron… trong nhân, và các electron chung quanh) chuyển động không ngừng trong tương tác và giao lưu–dung thông chặt chẽ. Và sự tiến bộ vượt bậc của vật lí học hiện đại không những làm phá sản hẳn ý niệm những hạt (electron, proton…) trong nguyên tử như đơn vị nhỏ nhất của vật chất, mà còn làm phá sản ý niệm rằng phải có hạt cơ bản (nhỏ nhất) hay ‘trường cơ bản’, để khẳng định các hạt ‘hạ nguyên tử’ cũng chỉ là những dạng chuyển tiếp, luôn biến dịch, hầu như không hiện hữu, vậy phải coi là tiến trình chứ không chỉ là vật thể, và động năng có thể biến hoá thành khối lượng. Nhưng, dẫu có thêm nhiều phát kiến lớn lao, mới mẻ như thế, tất cả các phát kiến hiện đại ấy không bác bỏ mà chỉ thêm củng cố, chứng minh sâu hơn quy luật dung thông, càng khẳng định sự phong phú của những dạng dung thông.

Đỉnh cao ‘vật lí hạt’ hiện nay là quan điểm của Geoffrey Chew, gọi là thuyết “Bootstrap” (dải quấn dày) về hạt. Thuyết này đã phát biểu bằng xác suất phản ứng trong thuyết ma trận S (Scattering) và đã thống nhất cơ học lượng tử (Bohr và Heisenberg) và thuyết tương đối (Einstein) trong một thuyết, nhấn mạnh ‘tính liên hệ nội tại’, sự dung thông của mọi sự vật. Cuối năm 2001, trong 10 phát minh khoa học hàng đầu thế giới có phát kiến từ Canada rằng không phải mặt trời phát ra quá ít nơtron (như lâu nay tưởng) mà do các hạt này đã biến đổi chuyển sang dạng khác trong hệ hạt hạ nguyên tử. Bản thân hiện tượng ở đây và bản thân thuyết Geoffrey Chew xét kĩ đều minh chứng quy luật dung thông.

Thế là, hiện nay một số nhà bác học vật lí lí thuyết, từ bỏ phương pháp tư duy chia cắt, chẻ nhỏ và cơ giới hoá vốn ngự trị hàng mấy ngàn năm trong khoa học phương Tây. Họ khâm phục các trường phái đạo học phương Đông (cổ Ấn Độ, cổ Trung Hoa) giải thích tính nhất thể của vũ trụ và mối quan hệ qua lại (tương tác) rất ‘động’, trong đó mọi sự vật đều đang không ngừng đổi thay, hình thành, tái hình thành…. Có nghĩa rằng ở cái ‘thực tại cuối cùng này’ tự bao giờ vẫn luôn có quy luật dung thông (dung thông đến mức hoà thành Một) và do đó tạo ra biến dịch. Sự biến thiên -thay đổi là đặc tính chủ yếu, quan trọng nhất của Tự nhiên.

Tóm lại, sự dung thông nằm trong quy luật cơ bản của Tự nhiên. Cái gì thuận theo quy luật dung thông ấy thì tiến triển và không bị ngược dòng chảy của vạn vật.

Còn SỰ SỐNG LÀ GÌ?
Từ năm 1950, chúng tôi được học sự sống, ngay ở dạng sinh vật đơn bào biển, hay nhỏ hơn, ở dạng virut, thì cũng luôn luôn là một dạng của sự trao đổi chất (tức giao lưu, chuyển động, dung thông vậy) của protein. Bản chất và nguyên lí của sự sống ở dạng đơn sơ nhất và của sự sống nói chung là: dung thông.

Trong sinh vật học, y học, rồi tâm lí học gần đây đều ứng dụng được lí thuyết hệ thống (system theory) theo mẫu hình từ toán học, vật lí học hiện đại. Cũng có nghĩa rằng dung thông (sự vận động trong tương tác với chằng chịt mối quan hệ (vạch nối) nội tại của hệ thống) là quy luật phổ quát cho sự sống. Cho dễ hiểu, lấy một ví dụ như cơ thể chúng ta là khối thống nhất, phải được xem như là một hệ thống hoàn chỉnh trong đó từng bộ phận có mối dung thông chằng chịt luôn ảnh hưởng tác động lẫn nhau (xúc tiến, kìm chế, giữ cân bằng nhau, hỗ trợ, bổ sung…).


TRONG XÃ HỘI LOÀI NGƯỜI

Ở đây có vô vàn những mối tương quan thuận nghịch (hai chiều), từ nhiều phía, nhiều hướng, nhiều tầng ví dụ giữa ta với vũ trụ, giữa nước ta với thế giới, giữa một người với cộng đồng xã hội, giữa một tâm hồn với mọi tâm hồn…Tương quan ấy có thể là tương phản, mâu thuẫn đối kháng, có thể là tương kết, tương hỗ, đồng vận, đồng thuận (liên kết nhau ở những điểm tương thích, phù hợp), có khi còn liên thông, hoà nhập vào nhau thành một dạng tồn tại mới.

Những trao đổi thông suốt, trọn vẹn và qua lại, đa phương tạo nên những chuỗi nối liền nhau trong toàn xã hội. Và những chuỗi nối liền nhau trong thời gian nữa. Sự dung thông ấy không ngừng, không dứt, cứ mải miết lưu liên.

Một cốt lõi trong sự dung thông ấy là sự truyền đạt kiến thức. Mà truyền đạt kiến thức thì quá quan trọng. Quan trọng dến mức L.Tolstoi so sánh: “Toàn bộ sự khác nhau giữa cuộc sống loài người và cuộc sống loài vật là kết quả của sự truyền đạt kiến thức, truyền đạt bằng khoa học và nghệ thuật. Nếu không có truyền đạt khoa học và nghệ thuật thì đã chẳng có cuộc sống con người”.

Mong sao những dòng dung thông cứ hanh thông như nước chảy, trôi đều, xuyên suốt, không một chướng ngại nào có thể mảy may cản ngăn sự chuyển vận sẻ chia kiến thức, kinh nghiệm, tư duy, tư tưởng, trí tuệ, tinh thần, tình cảm, nhân ái. Dung thông như nước (thuỷ): nước thì đâu cũng đến được, tràn khắp mọi nơi. Nhờ đó khoa học cùng những tinh hoa chân-thiện-mĩ cốt lõi nhất, ưu việt nhất của mỗi cá nhân, của mỗi cộng đồng hiện tại và của nền văn hiến và bản sắc dân tộc tự ngàn xưa cứ thế luân lưu, lưu truyền mãi.

Xã hội tiến nhanh hay chậm lên hiện đại văn minh là phụ thuộc tốc độ sự dung thông đó. Những yếu kém quản lí, những suy đồi đạo đức, những sai lầm kinh tế, thậm chí những độc quyền, hủ tục v.v... mà cản trở dòng dung thông nọ thì đều kìm hãm sự tiến lên của xã hội trong từng thời kì.

Trước nay ta biết ở những vùng sâu vùng xa, đường giao thông mở ra đến đâu thì văn hóa - văn minh lan rất nhanh tới đó. Cũng vậy, ngày nay khoa học kĩ thuật số cùng mạng internet làm bùng nổ thông tin đầy ắp những kênh chằng chịt đang giúp nhân loại trên khắp toàn cầu một phương tiện quá hữu hiệu để dung thông nhanh chóng, tức thì, rộng lớn, đầy đủ, nhiều hướng, nhiều mặt và hai chiều, nhiều tầng, nhiều cung bậc không những liên tục cập nhật hoá và có tổng hợp, mà còn phân loại một cách bài bản. Nó như chứng minh sự thông tin- dung thông tốt tự nó đẻ ra kiến thức và thông tin mới thậm chí đẻ ra của cải vật chất nữa. Vấn đề là phương tiện internet ‘thần thông’ này phải được tận dụng cho nhu cầu của quy luật dung thông, nhưng phải chú trọng về chất lượng của nội dung và phải được trình độ trí tuệ và tâm hồn phân biệt nhuần nhuyễn rành rõ phải/quấy và phân biệt rõ động cơ sâu xa của một số loại thông tin.

Đó là mấy minh chứng thật dễ thấy của vai trò dung thông ở thời hiện đại. Còn vai trò và nguyên lí của dung thông thì đã có mặt trong trời đất từ khai thiên lập địa; và đã có mặt tự xa xưa trong xã hội loài người.

ĐỐI VỚI MỖI CÁ THỂ, sống là đồng nghĩa với dung thông, có dung thông mới là tồn tại; khi giảm dung thông tức là có dấu hiệu đang già đi; nếu dung thông bị ngưng lại hoàn toàn có nghĩa là đã chết; sau khi qua đời mà tư tưởng, đạo đức vẫn dung thông tức là vẫn còn tiếp tục tồn tại.
Ở đời, mỗi cá thể muốn “sống cho ra trò” không thể không coi trọng thực hiện tốt các dung thông.
Nói cách khác: không có những kết nối thì làm gì có sự sống.

Cao hơn thế nữa, muốn làm người cho xứng đáng, muốn tự rèn luyện, tu dưỡng hoàn thiện hơn, muốn ứng xử có văn hoá đẹp và thành công thì phải vận dụng tốt nhất quy luật dung thông đã được nâng lên thành kim chỉ nam cho mọi hành vi, thành cả một con đường đi - dung thông đạo.

ĐỐI VỚI MỖI TÂM HỒN của mỗi cá thể thì bản chất, nguồn gốc, sự tồn tại, sự phát triển tâm hồn và cả bản thân động lực vĩnh cửu của sự vận động-phát triển liên tục ấy... đều do quy luật dung thông chi phối.
Loài người là cao quý chính vì có khả năng tự hoàn thiện và biết coi trọng việc không ngừng tự hoàn thiện mình, nhất là hoàn thiện tâm hồn.

Phương cách tự hoàn thiện là dung thông. Dung thông (hai chiều) với xung quanh, với quá khứ của nhân loại và cả qúa khứ của bản thân.

Con người đã từng bước nhờ dung thông như thế để tích luỹ rồi tận dụng kinh nghiệm trong suốt cuộc đời của mình trải qua xiết bao chông gai và thử thách, giằng xé và xung đột... Nhờ đó mà ‘nên người’, mà ngày càng hoàn thiện.

Hoàn thiện về nghề nghiệp và về mọi mặt khác. Kể cả hoàn thiện phương pháp học tập (và dạy học cũng thế): Cứ nói ngay như nếu trình độ dung thông không tốt thì làm sao đánh giá tác dụng của mỗi lời người nói qua ánh mắt nét mặt người nghe mà luôn có những cải tiến tức thì?. Chính dung thông là cốt lõi của sư phạm hiện đại, lấy người học làm trung tâm, đào tạo tích cực với ‘phương pháp hoạt động’ động não và trao đổi.

Cao hơn nữa, bản thân dung thông cũng là một trong các mục tiêu của rèn luyện tâm hồn: bởi vì mục tiêu phía trước mặt của rèn luyện tâm hồn lại chính là để phát ra được dòng giao lưu, dung thông tiếp tục.

Trong nội dung rèn luyện tâm hồn đó có những vấn đề lớn như trau dồi nhân cách, lương tâm và lòng vị tha, đấu tranh cho hạnh phúc, say mê học tập, triệt để phát triển tài năng tiềm ẩn, diệt kiêu ngạo, đố kị và cả stress nữa, rồi lại liên tục xác định lí tưởng (cùng lẽ sống, lí do tồn tại và ý nghĩa cuộc đời) v.v... Tất cả các việc trên đều nhờ sự tiếp nhận tốt các dòng dung thông và tất cả lại cũng đều có nhằm mục tiêu (cái đích) tiếp tục phát ra những dòng dung thông với xung quanh, vì người khác (của hiện nay và cả của mai sau nữa). Bởi cái đạo nghĩa dung thông ‘sống đâu chỉ vì mình’, còn vì người khác, vì nhân quần lâu dài, do đó cái đích luôn luôn trước mặt ta phải là những hành động dung thông với những đối tượng đó.
Bởi vậy mới nói “dung thông vừa là nguồn gốc, vừa là động lực của phát triển tâm hồn, lại vừa là đích của phát triển tâm hồn”.

*
Trên lữ trình rèn luyện từ gốc tâm hồn đó, ta sẽ từng bước hoà nhập mạng dung thông, có thu có phát.
Không những ta chỉ tò mò học hỏi tức tiếp nhận (có kiểm tra) dòng dung thông từ quá khứ và từ khắp mọi nơi.

Mà còn phát đi luồng dung thông tới mọi người và cả hậu thế nữa, nếu được.
Vâng, ‘cả hậu thế nữa’ vì mỗi chúng ta được thừa hưởng rất nhiều thành quả từ các thế hệ đi trước, tự mình phải làm sao góp phần cho những lớp đến sau được khá hơn, sung sướng hơn chúng ta. Đó là một dạng của ‘lòng vị tha’ trong đạo lí dung thông. Mà cũng là đạo sống có trước có sau, có đi có lại một cách sòng phẳng ở trong lẽ dung thông.

Cũng trên lữ trình đó một tâm hồn thấu đạt lẽ dung thông, khi tiếp cận đánh giá mọi vấn đề, thường bao dung, không thành kiến, không phiến diện, không cực đoan mà nhìn nhận chính xác vạn sự trong nhân sinh bằng con mắt tổng quan, coi bản chất sự sống của mỗi cá thể, của bản thân và của toàn nhân loại muôn thuở là tổng hoà những mối dung thông từ biết bao kênh vạch nối kia.

Ví dụ để đánh giá phẩm chất, đặc điểm một con người, một dân tộc v.v.. lẽ dung thông hướng ta tránh cái sai lầm quên căn cứ vào vị trí (‘toạ độ’ giao điểm) của họ trong phức hệ các dòng dung thông chằng chịt.

Chợt nhớ lại câu của kẻ xâm lược ‘năm xưa’ (chữ ‘xưa’ vừa hoà hiếu vừa đúng thực tế đã gần 4 thập kỉ rồi còn gì) “đánh cho Việt Nam trở lại thời đồ đá!”. Ở góc độ đạo lý dung thông, thấy câu ấy tuy láo xược mà vẫn đáng thương thay sự u mê về lẽ dung thông nên chưa bén tới trình độ hiểu ra ‘tổng hoà những mối dung thông’. Họ chưa hiểu hết được con người Việt Nam chân chất hiền hoà, bé nhỏ kia sự thực là giao điểm những dòng dung thông nào. Trong đó chí ít cũng có dòng dung thông từ lời ‘tuyên ngôn’ hào hùng “Nam quốc sơn hà nam đế cư …” thuở Lý Thường Kiệt. Điều này cố vấn Kissinger chợt nhận ra khi thăm bảo tàng lịch sử Việt Nam năm 1993.



NỘI DUNG MỖI DÒNG DUNG THÔNG

Chất lượng của sự dung thông là phải đầy đủ, trọn vẹn, thông suốt và ngày càng tốt đẹp hơn. Đầy đủ, trước hết là bao gồm ba loại dung thông:
• Dung thông tư duy, tư tưởng, phát minh, kinh nghiệm và kiến thức (nhất là kiến thức khoa học ki thuật công nghệ về sản xuất).
• Dung thông tình cảm, ý chí, văn hoá, phong tục, đạo đức (sự công bằng, trong sạch, lòng trung thành, …) và lòng nhân từ-bác ái (tình thương, coi trọng việc từ thiện, vị tha, không sống chỉ vì mình). Trong dung thông tình cảm nêu trên, có khi đơn giản chỉ là một lời khích lệ đối với người nhút nhát, một đồng cảm đối với kẻ đang cô đơn bị bỏ rơi…; nhưng đáng chú trọng nhất là dung thông tình yêu! và sự dung thông (hai chiều) tình yêu này, lạ thay cứ xuôi dòng chảy lưu liên ngàn đời. Ví dụ như tình mẹ yêu thương con vô bờ vô bến, dịu dàng sung sướng chẳng gì sánh nổi, thì lạ thay người con ấy sau này lại yêu con mình cũng như thế, và cứ thế vô tận trong nhân loại.
• Dung thông cả sản phẩm, của cải vật chất …
Mẫu số chung cho cả 3 loại dung thông trên là quan tâm quý trọng người khác như bản thân mình, mong muốn cho họ nhận được những điều tốt lành như mình hằng mơ. Lật sách xưa, thấy Khổng Tử cũng có ý tưởng đó: “Những gì muốn tạo lập cho mình thì cũng muốn cho người; những gì mình muốn thông đạt, thì cũng muốn cho người được thông đạt; xử với bản thân như thế nào thì cũng xử với người xung quanh như thế.”

Nếu may mắn đã sẵn có một tầm hiểu biết nhất định (do hòa nhập vào mạng dung thông đã khá lâu và khá hiệu quả) nên có được những ý kiến của riêng mình thì càng say mê đóng góp với đời sự dung thông với chất lượng sâu sắc hơn.

Và như vậy góp phần nhỏ bé làm trọn vẹn hơn mãi vòng dung thông đồng đại – sự hoà nhập thế giới hiện đại ngày nay, và làm trọn vẹn hơn vòng dung thông lịch đại – sự hoà vào dòng thác chảy liền một mạch thông suốt ‘quá khứ - hiện tại - tương lai’. Nhằm phần nào sòng phẳng đóng góp đáp trả lại với đời:
“Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc
Nợ tang bồng vay trả, trả vay
(… …)
Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo”
(Nguyễn Công Trứ, bài ‘Chí khí anh hùng’)
Có khi chưa là dâng hiến đóng góp gì như trên mà giản đơn chỉ là một nỗi mong được thổ lộ tâm tình với nhiều tấm lòng bè bạn:
“Con người cần sự sẻ chia
Như đi rừng- cần sao Bắc đẩu”
(Lê Trung Nguyệt, ‘Ngược gió’ Nxb Văn học,1991,tr14)
Nỗi mong như thế ai cũng có thể có, nó xốn xang rất nên thơ lại thật thiêng liêng, thực chất nó là sự mong hoà nhập được mạng dung thông, nó do chính sự thôi thúc của cái lẽ dung thông phổ quát nói trên đã trở thành gần như sự cuốn hút của một bản năng sinh học.

QUY LUẬT, LÍ LUẬN,ĐẠO LÍ DUNG THÔNG

Như vậy là mọi vật thể và mọi sự vật khi hình thành-tồn tại, khi tăng trưởng-phát triển, khi chuyển dạng sang trạng thái khác v.v.., thảy đều do QUY LUẬT DUNG THÔNG chi phối.
Quy luật tức là mang tính bao trùm, tính phổ quát.

Muôn vật và mọi việc đâu đâu cũng chịu ảnh hưởng quyết định của quy luật dung thông. Quy luật này phổ biến trong vạn vật vô tri, trong muôn loài sinh vật, trong xã hội, trong đời sống hằng ngày, trong tri thức-tình cảm-tình yêu-tâm hồn nữa.

Bản chất, nguyên lí và quy luật của sự sống chúng ta, của tồn tại và phát triển xã hội cũng là dung thông.
Mục tiêu, mục đích, ý nghĩa, lí tưởng, hạnh phúc và thành công trong cuộc đời cũng nằm trong sự dung thông đó. Cách tự hoàn thiện của mỗi cá thể, mỗi cộng đồng, mỗi nghề nghiệp cần dựa vào quy luật dung thông.

Lại nói ví dụ, làm người ai cũng thường suy nghĩ tự hỏi “ý nghĩa sự tồn tại trên đời của mình, và cả của mỗi cộng đồng nữa là gì?”.

Thì nay lời đáp: chính là dung thông. Sống là gì? “Sống là dung thông”: từ nhỏ lớn lên, học hành … trưởng thành: chủ yếu là dòng dung thông đi vào; rồi lao động, chuyên tâm trong công việc …: chủ yếu là dòng dung thông đi ra. Nói chung mọi đặc trưng của sống đẹp như ‘lửa nhiệt tình’, không ngừng say mê, vui đời, lửa thiêng lưu truyền thế hệ v.v… và v.v… đều là dung thông tất cả.
Câu hỏi muôn thuở ở cửa miệng mọi người ‘đời là gì?’

Thì nay xét đến cuối cùng, lời đáp gọn: đời chính là dung thông. Hồ Chí Minh đã giải giùm chúng ta: “Ở đời và làm người là phải thế nào? Là phải thương dân, thương nước, thương nhân quần đau khổ bị áp bức…”, mà ‘thương’ chính là dung thông tình cảm và hành động, là cốt lõi của đạo dung thông vậy.
*
Ngoài tính phổ quát như vừa nêu, quy luật (Dung thông), còn phải mang tính khái quát. Lại vì chỉ là ở mức khái quát, nên việc vận dụng quy luật dung thông vào mỗi hoàn cảnh cụ thể đều đòi hỏi sự sáng tạo dựa trên trình độ thấu hiểu thực tiễn!
*
Tổng hợp tất cả cái cốt lõi nhất từ những điều đã trình bày về quy luật Dung thông thành lí luận thì có thể gọi là DUNG THÔNG LUẬN. Dung thông luận có phương pháp luận, có cơ sở triết học, dựa trên truyền thống văn hoá nhân loại, đi tới nội dung một hệ thống lí luận hoàn chỉnh.

Dung thông luận bàn về chân lí, về lẽ đương nhiên của Tự nhiên và xã hội nên mang tính tất yếu. Nó lại như nguyên lí tuyệt đối, nguyên khởi.
Đối với nhân quần, Dung thông luận còn vạch một con đường chính đại dẫn dắt ta cho nên mang tính dẫn dụ, nghĩa là Dung thông luận thực sự là Con Đường (Đạo), một đạo lí: ĐẠO LÍ DUNG THÔNG (Đạo lí làm người dựa trên Dung thông).

Nắm được (thấu đạt được) đạo lí dung thông và làm thuận theo đạo lí đó thì mới dần đạt tới con đường đúng (đạo). Ôi, đạo lí - vấn đề quá lớn mà cổ kim ai chẳng “mê say” “nghe”, “chở”, đàm đạo và xây đắp:
“Triều văn đạo, tịch tử khả hĩ” (sáng nghe đạo lí, chiều dẫu chết cũng được rồi) (Khổng Tử)
“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm”
(Nguyễn Đình Chiểu)
“Bén mùi đạo lí bén càng say”
(Nguyễn Hữu Chỉnh)
Riêng bản thân chúng tôi thời gian khá dài được hưởng đôi chút sự cuốn hút đó; một lần trả lời câu hỏi của nhà báo đã thú thực: “Từng bước, từng bước lần tìm cốt lõi tâm đạo mong truyền lại cho con cháu nhà là niềm mê say tuyệt đỉnh nửa cuối đời mình.”

Trước tiên, “đạo lí dung thông” đòi hỏi 2 điều. Điều thứ nhất là bản thân mình phải tự giác không sống chỉ vì mình, còn vì sự đóng góp hiệu quả và tốt đẹp nhất cho những người thân yêu nhất, gia đình, bạn hữu, đồng nghiệp, cộng đồng nhỏ & lớn, cho Tổ quốc, đồng bào, cho nhân quần, cho nghề nghiệp chuyên môn, cho khoa học và cho vị lai nữa nếu được (vị lai của bản thân, của con cháu, của nhân quần). Không phải quá tham hoặc cao xa mà vì đạo công bằng (hưởng của quá khứ, phải trả sòng phẳng cho tương lai) và vì dung thông là vị tha (mà một dạng của lòng vị tha là lo cho các thế hệ tiếp nối).

Điều thứ hai “đạo lí dung thông” đòi hỏi là mỗi dòng dung thông phải toàn diện (cả vật chất và tinh thần, cả kinh nghiệm, tay nghề, tri thức, tư duy, tư tưởng và tình cảm, nhân từ và bác ái), phải hai chiều (tức qua lại, thuận nghịch), phải đa phương (nhiều hướng) cả hướng ngang và hướng dọc (dọc thời gian với quá khứ và với hậu thế) mà với nhiều kênh, có khi lại nhiều tầng, phải triệt để (trọn vẹn hanh thông, xuyên suốt …)
*
Yêu cầu như trên của dung thông là ở mức rất cao, mức lí tưởng: có thế mới là đạo. Dù giác ngộ sâu sắc đạo lí dung thông, vẫn khó thực hiện vượt các mức ấy, có thể tiệm cận tới, rồi tiệm cận gần hơn nữa, gần hơn mãi mà không bao giờ vượt quá được. Chúng tựa như đích vòi vọi, ai cũng trông thấy để cố vươn tới. Chúng như kêu gọi mọi con người, đời này qua đời khác hãy phấn đấu không ngừng hướng theo mục tiêu mang tính tuyệt đối, tính lí tưởng ấy. Như vậy là đạo lí dung thông dẫn dắt sức trẻ PHƠI PHỚI của tâm hồn chảy thông suốt không mảy may ngăn cách, ngày càng tiếp cận càng gần hơn nữa tới sự dung thông trọn vẹn, cứ “tiệm cận” mãi (như khái niệm trong hình học) tới gần sự trọn vẹn, có nghĩa là luôn phấn đấu đời đời kiếp kiếp để gần thêm, gần thêm mãi sự trọn vẹn, mà sự tuyệt đối trọn vẹn luôn ở phía trước, cho nên đạo lí dung thông một phần nào CÓ TÍNH CHẤT GẦN NHƯ MỘT TÍN NGƯỠNG, MỘT TÔN GIÁO, nhưng một tôn giáo trong đó không thần linh.

Tính chất tôn giáo đó còn ở chỗ đòi hỏi tính giác ngộ. Mà sự giác ngộ đạo lí dung thông không thể chỉ nhờ lí trí phân tích để hiểu biết, mà do nhờ nếm trải từng bậc của cả một tiến trình kinh nghiệm lâu dài.
Đạo lí dung thông nếu mang một khía nhỏ sắc thái tôn giáo là rất quý và cần thiết trong thực tiễn đời sống con người. Bởi lẽ nhân loại luôn có những nhu cầu về mặt đời sống tâm linh. Quảng đại dân chúng lại luôn cần thiết có điểm tựa tinh thần hoặc sự cứu rỗi.

Nếu gác qua một bên các tranh luận về góc độ tôn giáo thường bị tầng lớp thống trị lợi dụng, gác qua một bên các khảo cứu nguồn gốc nhận thức luận của tôn giáo (không lí giải nổi những thân phận, những thiên tai những bất công …) hoặc nguồn gốc tâm lí (quá quá mong muốn – sống tiếp sau khi qua đời – đến nỗi coi điều quá mong mỏi tự ngàn đời là sự thật đương nhiên khỏi cần suy xét không được phép chứng minh) thì điều còn lại rất quý là mọi tôn giáo đều hướng thiện, nói chung đều dạy:

Chủ động làm điều thiện, nhằm ngăn chặn hành vi xấu, đều giúp tự kiểm soát chặt chẽ mà tự giác (dù không ai hay biết tội đó). Người Việt Nam ta hay nói ‘có quỷ thần hai vai chứng giám’. Chúng ta cứ thử nghĩ coi, cai trị theo ‘pháp trị’ tuy là điều không thể thiếu, nhưng toà án của pháp luật làm sao có thể cao và đáng kính hơn toà án lương tâm và đạo lí thiết lập trong tâm linh mỗi người, nó buộc người ta luôn tự giác phải làm điều thiện và tránh điều ác. Nhờ đó duy trì được thuần phong mỹ tục và sự cân bằng đạo đức tình cảm trong phát triển. Nếu không thì dễ nảy sinh độc ác tàn bạo, phạm tội, mất luân thường, loạn li... Nó như một nhu cầu về ổn định đời sống, thậm chí làm nền tảng xã hội.

Mọi tôn giáo đều hướng tới sự cứu rỗi con người, và tựa như là chỗ dựa về tinh thần và đạo đức... Chính vì vậy mà quảng đại dân chúng đã bao đời nay cần và dễ đi theo tôn giáo.

Nhân loại chấp nhận và tôn trọng tôn giáo vì điều cao đẹp này: điểm xuất phát và bản chất mọi giáo thuyết tôn giáo đều nêu tình thương yêu, lòng vị tha, thậm chí ở mức độ lòng từ bi bác ái (chính khía cạnh này càng rõ nét trong đạo lí dung thông như một cốt lõi cơ bản nhất vậy).
Nếu các bậc thánh hiền, trí giả đều có nhu cầu về con đường đi quang minh (đạo), thì quảng đại dân chúng, kể cả trong nhiều thế kỉ tới, có nhu cầu đời sống tâm linh, tín ngưỡng là chính. Nhu cầu này rất to lớn, tựa hồ như không thể thiếu.


Từ ngàn đời, và mãi mãi sau này, phía trước mỗi con người vẫn treo lửng lơ cái mong muốn (mà tâm lí dễ đánh đồng với cái thực có), mong muốn được tồn tại sau sự hữu hạn của cuộc đời mỗi cá thể. Do đó nảy sinh biết bao cách lí giải cho ‘câu hỏi của mong muốn’ đó của quá đông đảo con người, của quá quá nhiều thế hệ qua hun hút mênh mang thời gian, lí giải bằng muôn hình vạn trạng của cách tưởng tượng rất có hệ thống của từng tín ngưỡng tôn giáo, của riêng mỗi cộng đồng nhân loại, cách tưởng tượng rất khác nhau mang đậm đặc tính thể chất, màu da, phong tục từng chủng tộc.



Cái nhu cầu của đời sống tinh thần và tâm linh ấy là thực sự, nhất là vào những nguyên kỉ thiên tai, những thời đại nghẹt thở bị đè nén quá mức, trái tim và tinh thần bị coi nhẹ.

Nhu cầu tâm linh ấy rất nghiêm túc, rất quan trọng (sự ‘tảng lơ’ nó chỉ là do sợ chuyện tử sinh, hoặc do không trung thực) và đã khiến cho nhân loại nói chung chấp nhận tôn giáo.

Xã hội văn minh tôn trọng tín ngưỡng, tự do tín ngưỡng, vẫn có xu hướng dựa vào nó để nâng đỡ đời sống tâm linh và để hướng quảng đại cộng đồng vào điều thiện.

*

Nhưng sang thời đại tin học với kinh tế tri thức hiện nay, khoa học kĩ thuật và công nghệ cao đẩy lùi dần những mê tín dị đoan phi khoa học (nhiều khi quá mức đến thực sự buồn cười) đòi hỏi một khái niệm mới khác về tôn giáo. Bức xúc nhu cầu một tôn giáo phù hợp tiến bộ như vũ bão của cách mạng khoa học hiện nay mà sắp tới khoa học sẽ còn phát triển một cách nhanh chóng hơn bao giờ hết.

Sự bức xúc ấy càng nổi cộm cũng hơn bao giờ hết khi xã hội hiện đại toàn thế giới lại đang đối mặt với biết bao bất ổn và khủng hoảng chưa từng thấy về nhiều dạng mất quân bình, với tâm hồn dần cạn kiệt đến trở thành vô cảm, với ‘nhắm mắt tôn thờ vật chất’, dại dột ‘đánh mất một nửa mình’, mất đức tin, thậm chí tha hoá lúc nào chẳng hay...



Nếu ‘Con đường’(đạo) xử thế mới sẽ ra đời ấy mà vẫn mang chút ít tính chất tôn giáo truyền thống, nhưng trong đó không có thần linh, không xây dựng trên nền những tư tưởng thần học, mà lại xây dựng trên nền tảng khoa học nhân văn và khoa học tự nhiên, tương ứng phù hợp những phát minh khoa học hiện đại (ví dụ ‘vật lí hạ hạt’), thì sẽ càng thích hợp, cần thiết và có sức thuyết phục.

Đạo lí dung thông phù hợp với mọi tôn giáo hiện có và đặc biệt quý báu cho những người không tin phép lạ, ma quỷ, dị đoan, hoặc không thuộc tôn giáo nào.



CÔNG DỤNG CỦA DUNG THÔNG

“Thời-không gian vô biên

Dung thông – thuyền vô địch” (HD)

Dung thông có công dụng rất lớn. Nhưng công dụng lớn lao ấy diễn ra hết sức tự nhiên, như không khí vậy, nhìn không thấy, lắng không nghe, nên ta thường không ý thức về nó.



Nay ta biến nó trở thành nếp suy nghĩ và phong cách sống, lao động, sáng tạo, yêu thương thật sự của ta. Ta chủ động ý thức về nó, hiểu nó là Đạo lí, lấy nó làm kim chỉ nam tự kiểm soát mình và luôn tự biết đang đi về đâu. Ta đạt mức giác ngộ đạo dung thông và cứ trên Con Đường (đạo) ấy ung dung chủ động thẳng tiến, phát triển mãi. Nếu làm được như thế thì tức là ta hành động thuận theo quy luật, nên hiệu quả hơn mà hợp nhân nghĩa hơn.



‘Hiệu quả hơn’, thành công hơn, nhưng tất không khoe, không tự kiêu, vì hiểu việc ‘thuận theo quy luật’ đâu là chuyện để kiêu và khoe khoang tầm thường.

Đạo dung thông tạo nhiều tác dụng tốt đẹp, ta xét từ cái đơn giản nhất:



1. STRESS. Nó giúp mỗi người tự giải thoát các stress, các rối rắm trăm sự trên đời, đầu óc trở nên trong trẻo lạ lùng, do đó tạo được chất lượng sống và hiểu được ân sủng hưởng sự sống giữa cuộc đời không bao giờ nhàm chán:



Dung thông – ngọn suối mát lành

Cao nguyên lồng lộng mãi xanh bầu trời. (HD)

Nếu không biết dung thông qua lại và đa phương thì làm sao giải toả được (bằng giải quyết và quên lãng) các stress, các giả dối vớ vẩn nhố nhăng, các bực bội buồn phiền luôn đeo đẳng níu kéo. Không chỉ xử lí stress, rèn luyện tâm đạo dung thông còn tạo sự đề kháng cao đối với mọi stress, giúp tâm an tịnh trước mọi khen chê, được thua, thành bại, mọi bước thăng trầm. Không là để trang điểm mà chính là để lập lại quân bình tình cảm - trí tuệ. Chúng tôi thường nghĩ:



Rốt cuộc lại cái mà đời mỗi người phải đạt tới là sự thanh thản tâm hồn. Về ý này, F. De Sales (1567-1622, Thụy Sĩ) có câu: “So sánh với sự thanh thản của tâm hồn thì mọi vật ở thế gian này phỏng có nghĩa lí gì.”



2. KIẾN THỨC. Khi chúng ta bắt đầu thực hiện đạo dung thông, ta có thể nửa tin nửa ngờ, khi thì làm theo, khi thì bỏ. Nhưng nếu ta ứng dụng một cách nghiêm túc, bền bỉ thì từ đó ta sẽ nghiệm thấy tác dụng lớn lao về rất nhiều mặt, ngay như kết quả việc học hành. Đạo dung thông làm đầu óc như sáng láng hơn, tiếp thu kiến thức sâu hơn, gắn với nhiều thực tiễn, chọn lọc hơn. Sự tiếp thu kiến thức theo đạo dung thông không được thụ động, phải như sự trao đổi (dung thông) qua lại năng động, lại kèm dung thông với các kiến thức đã có, với các thực tế liên quan, thậm chí biết nghi vấn và kiểm tra. “Mỗi con người có thể sử dụng và nhất thiết phải sử dụng tất cả những gì lí trí tổng hợp của loài người đã tạo ra, nhưng đồng thời cần vận dụng lí trí riêng mình mà kiểm tra lại …” (L.Tolstoi). Và cao hơn nữa, góp chút bổ sung sáng tạo nâng cao, nếu được. Sự sáng tạo rất nhỏ nhưng có thể rất sâu rộng vì đã được xây dựng trên nền tảng tri thức toàn nhân loại cho đến thời điểm đó, hay như cách nói hình ảnh của Newton, “vì đứng trên vai người khổng lồ”. Sự tiếp thu kiến thức chủ động như thế trong đạo dung thông hoàn toàn xa lạ với cách học lười biếng, giả tạo, dối trá, hợm hĩnh, và càng xa lạ hơn với sự thâm độc sử dụng kiến thức cho ý đồ đen tối nữa. Rồi qua đạo dung thông, khi hiểu kiến thức đương thời luôn vươn đến đích cao phía trước ta cần cập nhật mãi, khi ta biết nhận thức rằng mình còn dốt (nhiều kiến thức cần mà chưa biết, cái đã biết lại sai hoặc ‘phản-hiểu-biết’) tức là ta tiến một bước dài dẫn dần đến sự hiểu biết thực sự. Thấm đạo dung thông, ta càng rõ Hiểu Biết là sức mạnh, lại làm ta khiêm tốn, không bao giờ bảo thủ, tự mãn để không ngừng đổi mới tư duy.



Kiến thức, hiểu biết còn trực tiếp làm thuần nhất tâm hồn, trong khi sự ngu dốt dẫn đến sự hỗn độn tâm hồn. Tuy từ chỗ hiểu đời tới chỗ sử dụng được vốn đó còn rất xa, nhưng tầm nhìn đã rộng lớn hơn, đến như bao trùm ngay cả việc làm cho tâm hồn ta trở nên bao dung và độ lượng hơn biết bao, tránh được thói thường hẹp hòi, kì thị, thành kiến, thù ghét khi ta thấu hiểu những kẻ lầm lỗi nhất như ta tự hiểu chính ta, nhân vô thập toàn, và cũng không ai hoàn toàn xấu.



Trong sự tiếp thu kiến thức, nhờ luôn luôn đối chiếu, gắn kết, dung thông giữa trí và tâm nên không phiến diện và cực đoan. Trau dồi trí tuệ biết đủ mọi việc, nhưng không thể chỉ biết có trí, mà còn phải phối hợp trau dồi tâm do đó hạn chế việc sử dụng trí với mục đích tiêu cực, tạo sự thăng hoa của trí, có khi giúp tạo nên ý chí sống cho bản thân nữa. Điều này quả thật bất ngờ, quan trọng, và lí thú. Cho nên, con người ta rồi có thể nhàm chán tất cả trừ kiến thức.



3. VĂN HOÁ. Đạo dung thông còn thúc đẩy ta luôn nỗ lực dung thông hai chiều (vào và ra, nhận và trả) làm giàu tư tưởng, văn hoá’, còn làm giàu nghệ thuật và khoa học cho bản thân mình và góp phần nhỏ cho đời. Và chính phương pháp sáng tạo nghệ thuật và khoa học bao giờ cũng là sự tận dụng tốt nhất các vạch nối dung thông giữa các vẻ đẹp (nghệ thuật), giữa các hiện tượng hoặc quá trình (khoa học). Và cả cách nâng cao phương pháp học tập và dạy học cũng là tận dụng tốt nhất các vạch nối dung thông giũa các đối tượng học.



Văn hóa được nâng lên sẽ mang lại kho báu thật hứng khởi, tạo niềm vui và hạnh phúc. Nó buộc ta phải biết nhuần thấm sâu bền tinh hoa từ truyền thống dân tộc đã liên tục chắt lọc, thử thách qua thời gian; biết nhiệt tình đón nhận có chọn lọc tinh hoa từ các dân tộc khác, từ thế giới hiện đại, tiến kịp bằng người mà không lai căng rởm đời mất gốc. Cũng có nghĩa rằng nó buộc con người phải biết thưởng thức mọi cái đẹp, thưởng thức tinh tế cuộc sống, chống lại chủ nghĩa khắc khổ của tâm hồn nghèo nàn, khô cứng. Ai không thích, không biết thưởng thức cuộc sống thì có thể coi như đã chết từ lâu, hoặc đã chết suốt cả đời mình.



Trong việc làm phong phú tư tưởng, văn hoá và khoa học, đạo dung thông buộc ta theo cách chan hoà, hoà nhập vào thiên nhiên. Nhà thơ Ấn Độ Tagor vĩ đại khuyên ta mỗi sáng thức dậy hãy cảm ơn Thiên nhiên cho ta một ngày mới, một hiện tại diệu kỳ. Và chan hoà, hoà nhập vào xã hội và những cộng đồng, vào thực tế sản xuất. Các việc hoà nhập, chan hoà, giao hoà, giao lưu, … như vừa nêu đều là những khía cạnh bao hàm trong lẽ dung thông. Nó coi trọng sự giao tiếp, mà nếu không có, ta làm sao thấu hiểu mỗi người nói riêng và nhân tình nói chung. Nó dạy ta trong các giao tiếp ấy, không chỉ sử dụng lí trí, mà cả con tim nữa, luôn cố đi vào tâm hồn người đối thoại, thường do biết mở rộng lớn lòng mình trước, nhưng ít phạm lỗi lầm, sẽ tránh đổi bạn thành thù mà có thể đổi thù thành bạn. Giao tiếp đó phù hợp phong tục của người Việt Nam “người năng chào thì quen”.



4. BỒI DƯỠNG ĐẠO ĐỨC. Việc tự đào tạo đạo đức tức “bù chỗ bất cập, bớt chỗ dư - chỗ thái quá để mà lập lại” (như cách nói của Lão Tử), thì cứ tự nhiên mà đạt được là nhờ ở ‘dòng-dung-thông-chiều-đi-vào’ đi từ bên ngoài vào bên trong lòng mình. Trong rèn luyện ấy, sự điều chỉnh mọi thái quá và bất cập, tức lập lại cái quân bình hoàn thiện hơn để đạt sự tiến hoá, diễn ra dễ dàng chính là nhờ nguyên lí dung thông đó.



Với ‘dòng-dung-thông-chiều-đi-ra’ đi từ bên trong ra bên ngoài, ta chủ động kiểm soát toàn bộ đạo xử thế và uốn nắn động cơ mọi hành động không cho biến thành thiếu trong sáng: nào tư dục, vụ lợi, đạo đức giả, lừa đảo, đố kị, kiêu ngạo. Đạo dung thông không tạo kiêu hãnh ngu ngốc của điệu bộ mà tạo tự hào chính đáng của tâm hồn. Đạo dung thông dạy ta phải khiêm tốn, hiểu mình chỉ là một phần tử vô cùng nhỏ bé của cộng đồng, một cái “không gì cả”(‘un rien’ như Kristnamurti ở Ấn Độ thường nói).

Xử thế này phải lấy kết quả sự tự giác làm gốc là vì vậy.



5. LÒNG THAM vô đáy do “bất tri túc, tri chỉ” (Lão Tử) (không biết đủ, biết dừng), thì sẽ bị nhục. Rồi lại do vị ngã, thậm chí lòng ‘ích kỉ hại nhân’ gây ‘nghẽn tắc dung thông’, không nhìn ra trước-sau, trên-dưới thì sẽ là một đại họa trong đời, không có gì đáng sợ hơn, nó chính là nguồn gốc bao tai họa cho cá thể và bao người xung quanh. Chuyện ‘pháp đình’ những tên tham nhũng ‘hiện đại’ liên tục mấy năm nay (và mấy năm tới đây) đến rởn gáy là những minh chứng hùng hồn. Với lòng yêu nước nồng nàn, phải ghét cay ghét đắng, biết chống lại các xấu xa vơ vét trên mồ hôi nước mắt và cả sức khoẻ tính mạng đồng loại do không tường đạo dung thông ấy, thì mới biết yêu sâu sắc các đức hạnh. Kẻ bạo ngược hung tàn khác bậc đức độ hiền nhân, thực chất là ở chỗ không hiểu tâm đạo dung thông.



Với đạo dung thông, có thể nào chấp nhận thực dụng kiểu chỉ ích kỉ lo cho phần mình, còn mặc mọi người khác ‘sống chết mặc bay’? Nói chuyện thế giới và xã hội cũng vậy, xưa và nay bao giờ cũng là thế giới và xã hội dung thông, nhiều hay ít mà thôi, trong đó khác nào một cơ thể sống, bất cứ tế bào nào cũng hỗ trợ, ảnh hưởng tới các tế bào khác hoặc ngược lại có thể phá huỷ các tế bào khác. Vậy nên nếu cứ thái độ mặc nước khác ‘sống chết mặc ai’, thậm chí không tôn trọng quyền lợi, chủ quyền, bản sắc của dân tộc khác thì thực tế việc ‘toàn cầu hoá’ bị sai lệch.



6. TÌNH THƯƠNG. Vấn đề ích kỉ / vị tha trong lẽ dung thông vừa nêu là cùng một hàng (bình diện) với những vấn đề ác / thiện, thù hận / tình thương đã muôn đời nằm trong cốt lõi tất cả các tôn giáo. Đạo dung thông nhấn mạnh hàng đầu sự dung thông tình thương vì điều cơ bản nhất mỗi người là lòng nhân. Cũng như trong Phật giáo, Ấn Độ giáo, Thiên Chúa giáo, triết học Lão Tử nêu “đầu hết là một chữ Từ”. Đạo dung thông là cơ sở cho mọi Từ thiện và từ bi bác ái nữa. Nếu người này không giúp đỡ người kia, thì làm sao sống đàng hoàng ra Con người được. L.Senèque ở La Mã thế kỉ 1 từng khẳng định: “Người ta sinh ra đời là để sống cùng nhau”, còn R. Descartes ở Pháp thế kỉ 17 thì nhấn mạnh: “Ta sẽ không có giá trị gì hết nếu không hữu ích cho ai cả”. Chúng tôi muốn kéo dài câu trên bằng mệnh đề “… thậm chí không quan tâm, không tinh thần trách nhiệm đối với ai cả!” Đạo dung thông hoàn toàn đối kháng cách sống không phát đi sự dung thông nhân ái lại cứ ăn ở bất nhân. Dung thông là nghệ thuật quên mình và thi hành cái thiện.



Nhưng những công việc từ thiện cụ thể phải xuất phát từ trong lòng, và không chỉ ở bố thí tiền bạc, mà cốt ở sẵn sàng cứu giúp những người gặp hoạn nạn, khó khăn, ở cử chỉ của từ tâm thực sự với mong muốn làm vơi bớt những thống khổ:

Bác ái lặng dung thông

Mới hiện hồng nhân phẩm. (HD)



7. TRÁCH NHIỆM NHẬP CUỘC. Xử thế theo đạo dung thông không thể dửng dưng ngồi bên ngoài xem (quan sát viên trên khán đài) mà phải tự giác trách nhiệm nhập cuộc để đáp trả dung thông: trực tiếp tham gia, gặp gỡ, cảm thông, chung vai gánh vác.

“Đã mang tiếng ở trong trời đất

Phải có danh gì với núi sông”

(Nguyễn Công Trứ, bài Nợ tang bồng)



Danh đây không phải là danh lợi kể công, mà tức là phải có đóng góp gì dung thông “với núi sông”, với tổ quốc (đồng bào, tổ tiên và hậu duệ), với đồng loại. Công ăn việc làm dầu đơn giản nhất (có khi chưa đủ nuôi sống cho bản thân) vẫn không được “như con trâu cày không hiểu ruộng của ai” (cách nói của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng), mà phải hiểu ý nghĩa cao quý đóng góp dù một phần rất nhỏ với nước nhà, với đồng loại…, bày tỏ sự tri ân đền đáp tổ tiên, gia đình, tổ quốc… vậy, vì lẽ mỗi cá nhân đều là tổng hoà những dòng dung thông ấy. Và sự giác ngộ tâm đạo Dung thông càng sâu thì càng có lương tâm đền đáp bằng ‘nhất nghệ tinh’ ngày càng trau dồi để có sáng tạo. Nói chung con người ta khi đã tìm ra và khẳng định được việc (hoặc nghề) chính cho cả đời mình cần làm tốt (ví dụ nghề y khoa, kinh doanh, hay thơ…) thì phải bằng Dung thông tinh tế biến nó thành lẽ sống, thành ‘bạn đồng hành’ của đời mình, phải vì đích Dung thông làm nó thật tốt bằng tất cả tâm hồn, nhiệt huyết, tài trí, kể cả mọi khả năng khác. Còn nếu chẳng nghề nghiệp gì, hoặc không làm gì hết, hoặc khoẻ mạnh mà chỉ ăn bám - hưởng thụ ân sủng người khác dù là tiền ‘nước ngoài gửi về’ hoặc gia tài ông bà cha mẹ để lại, thì tức là sống vô trách nhiệm, quên nghĩa vụ, ‘quỵt’ sự dung thông đáp trả, không sòng phẳng với đời vậy.



Hoặc giả một đời lao động trí óc hoặc chân tay tích lũy được nhiều kinh nghiệm mà không dung thông truyền lại, ‘chết đem đi’ thì làm sao nhắm mắt trong thanh thản bình yên được?



8. TUỔI NÀO CŨNG LÀ MỘT KHÂU TRONG CHUỖI DUNG THÔNG. Nếu quay trở về những năm tháng của thuở ấu thơ mà nhìn lại, ta thấy đạo dung thông buộc “tuổi nhỏ phải chăm học” cho giỏi, kể cả công nghệ tin học hiện đại, ngoại ngữ… để liên thông tiếp thu tốt được từ quá khứ và từ thế giới đương đại nhằm nâng tiềm năng dung thông sau này, để sẽ luôn gặt hái nhiều thành quả,

Xuân hạ, sợi kim còn dũa chẳng ngơi

Nên đông đời mùa vụ tới bời bời. (HD)

không chỉ để ‘trả nợ’, mà hiến dâng đời một cách đích đáng nhất. Và như thế, cuộc đời-học hành-phấn đấu đi liền một mạch, là một chuỗi dung thông liên hoàn không đứt khúc kể từ ấu thơ:

Luôn ngờ ngợ ta là

Thoáng dư âm “đồng ấu” lớp xưa xa. (HD)

Trong chuỗi dung thông ấy, những đọan trước (và cả những đoạn của tương lai) đều dung thông với hiện tại và tạo dựng hiện tại. Cần phải để cho những ngày những quãng, những ký ức đẹp nhất của tâm hồn luôn dung thông tạo nên sự tự hài lòng và sức mạnh tinh thần.



9. TÌNH YÊU. Đạo dung thông coi tình yêu chân chính là nghệ thuật của hai con tim tạo nên mối dung thông hai chiều hanh thông, trọn vẹn, đằm thắm nhất, không phải chỉ về tình dục bản năng nhất thời mà tình yêu trong dung thông vừa thiêng liêng, cao cả, vừa mỗi ngày mỗi tinh tế thêm về tình dục, và có thể còn quan trọng hơn nhiều, về toàn bộ đời sống tâm hồn, tinh thần, sở thích, tâm lí, và về lí tưởng, quan niệm, tập quán nữa. Chẳng thế mà nhiều khi Yêu say đắm sâu sắc là do dung thông được vẻ đẹp tâm hồn đích thực xuyên vượt qua được cả những khiếm khuyết hình thức có thể có.‘Vi nhân nan’ (làm người – khó) thì trong đó ‘tình yêu vô cùng quyến rũ nhưng lại càng vô cùng khó’.



10. CHIA SẺ. Dung thông là đạo công bằng với nguyên lí sẻ chia của đạo dung thông. Nguyên lí này thiêng liêng vì nếu dung thông tích luỹ vào mà khư khư giữ riêng cho mình, không dung thông sẻ chia ra cho ai là không sòng phẳng, không công bằng, phạm quy tắc chỉ một chiều, thiếu thuận-nghịch có đi có lại, được-cho, nhận-trả kể cả nhận của quá khứ (ví dụ nhận công đức tiền nhân bao thế hệ) phải trả cho hậu thế, tuyệt đối không vong ân bội nghĩa. Nguyên lí này rất là hữu ích, và không thể thiếu:

Dung thông khát khao chia sớt

Vơi nhẹ bớt cô đơn. (HD)



Thu nhận vào đầy ắp mà không sẻ chia ra được thì con tim khối óc có khi không thể chịu nổi, như muốn vỡ tung ra. Hơn nữa sẻ chia, hiến dâng, cho người khác – không phải là mất đi mà là nhân lên, trước sau vẫn trong dòng lưu chuyển của dung thông. Lão Tử xưa, trong đoạn chót tác phẩm chính của mình là Đạo Đức kinh từng có câu:

“Càng vì người, mình càng thêm có,

Càng cho người, mình càng thêm nhiều.”

Như vậy đích thực vì người, mà kết quả cũng tốt đẹp cho mình: càng giàu thêm, nhưng là giàu hi sinh, giàu lòng nhân ái, giàu cái đức sáng thêm mãi, giàu vì ‘tri túc’ không thèm muốn. Tức cũng giàu hạnh phúc.



11. HẠNH PHÚC là trạng thái tinh thần tình cảm và thể chất (tạm nói gọn là ‘tâm thể’) khi hưởng quyền yêu và được yêu, một dạng đặc thù của dung thông hai chiều; nội dung của cái dung thông trao cho nhau ở đây lại chính là hạnh phúc. Hạnh phúc cũng là khi biết san phần thụ hưởng của mình cho người khác. Cho nên thói vị kỷ đòi cho riêng mình thứ hạnh phúc tuyệt đối là điều không tưởng vậy. Dung thông dạy Hạnh phúc chỉ là một khái niệm tương đối, nó chính là điều bình dị, là chỗ trung dung (không cực đoan). Cứ bình thường, kín đáo, tế nhị là tốt nhất, là hạnh phúc vậy. Trong “trạng thái tâm thể” của hạnh phúc nêu trên phải nói là có cảm giác hài lòng, có sự biết tự hài lòng đã phấn đấu (bằng nhân, đức, hi sinh) đạt được điều đó.



Với quan niệm Hạnh phúc là dung thông, có một cách nói gọn và hình tượng: “hạnh phúc là khi dung thông nhiều hạnh phúc cho người khác” (bạn, người yêu, con cái, đồng bào, nhân quần...). Định nghĩa hạnh phúc đó, ở bình diện rộng, đã từng được phát biểu: “Người hạnh phúc nhất là người dung thông nhiều hạnh phúc cho nhiều người nhất”. Cho nên dù trải bao gian khó, thiếu thốn và cả oan trái, bị hiểu sai … các bậc đại đức đại trí cải tạo xã hội, giải phóng dân tộc, xây dựng triết học, phát minh khoa học kĩ thuật, sáng tác tác phẩm văn nghệ đồ sộ cho nhân loại… vẫn cảm nhận đỉnh cao hạnh phúc.

Vậy đích của đạo dung thông bao la nhường ấy, đâu có là sự thu mình bo bo vào cái ‘tôi’, ‘bản ngã’(the ‘self’), dù cho có là ‘bản ngã đích thực’(‘the true self’) đi chăng nữa.



12. TRIẾT LÝ CUỘC SỐNG. Đạo dung thông giúp ý niệm được phong phú cả ý chí, tinh thần, tâm hồn, ý thức, tâm thức, phương pháp luận … và những vấn đề trừu tượng khái quát hơn nữa của triết học kể cả thế giới quan, nhân sinh quan. Mà “triết học chính là ‘y khoa’ thực sự của tâm hồn vậy” (Ciceron - 2 thế kỉ trước CN). Triết học của đạo dung thông dễ dàng tẩy trừ những nhân sinh quan yếm thế, cô độc và hoài nghi, bởi vì đã luôn có dung thông cụ thể với đời xung quanh tức là những ‘chất đánh dấu’ những dấu ấn tốt đẹp, thú vị.



Đầu thế kỷ 21, khoa học hiện đại, nhất là tin học, đạt những bước tiến khổng lồ, nhưng bộ mặt nhân loại chưa cải thiện tương xứng là vì thực sự có sự khủng hoảng triết học, khủng hoảng về giá trị đạo đức và tinh thần. Có một sự mất cân đối, một sự khập khiễng mà tự ngộ nhận đã thực sự văn minh. Có nguy cơ cái văn minh hiện đại ấy đến một lúc nào đó có thể đáng được gọi là một “nền văn minh ngộ nhận”. Chính vì đòi hỏi thực tế của tình hình ấy mà nghiên cứu, xác lập và thực hành đạo Dung thông càng mang tính thời sự cao.



Muốn làm tốt bất cứ nghề gì, nhất là nghề y, đều cần phải nắm triết học của đạo dung thông. Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (Việt Nam) từng nói “Không thông hiểu ‘thiên, nhân, địa’ không thể nói đến... chuyện làm thầy thuốc”. Thời hiện đại có bác sĩ Watanabe (ở Nhật, tác giả “Đèn không hắt bóng”) vẫn nêu “Người thầy thuốc chân chính phải vừa là triết gia, vừa là kẻ tuyên truyền đạo lí làm người”.

Nói rộng ra tâm đạo dung thông là cốt lõi mọi “triết lý cuộc sống”. Ví dụ như về các nhà khoa học, các bậc cải tạo xã hội, các nhà yêu nước trong lịch sử nhân loại và nước nhà vừa nêu trên (mục 11), vì sao họ chịu đựng nổi và vượt qua bao khổ ải đến cùng cực ngoài cả trí tưởng tượng, ta sẽ không thể nào hiểu nổi nếu không hiểu sức mạnh của lạc quan tin tưởng nhờ dung thông trong triết lý cuộc sống của họ.



13. Còn RÈN LUYỆN TÂM HỒN, về thực chất, là gì nếu không phải là khoa học và nghệ thuật để hoàn thiện sự dung thông hanh thông trọn vẹn và thuận nghịch tới mức nhất thể hoá, hoà nhập với thiên nhiên và thế giới chung quanh. Hoà nhập bằng nhiệt tình, say mê và vui đời không ngừng, bằng sức trẻ phơi phới của tâm hồn đi liền một mạch suốt cả cuộc đời, bằng thiện-nhân và lương tâm, trách nhiệm, bằng lao động, tinh thần, tri thức, trí tuệ, văn hoá, cái đẹp và thiên nhiên.



Đạt dần sự hoà nhập mà không phô trương, chỉ lương thiện và thành thật tới mức toả sáng rộng khắp mọi nơi và có mãnh lực thu hút huyền diệu sự dung thông từ biết bao tâm hồn bạn.

Như thế là nhờ dung thông mà tâm hồn luôn được khởi động, phấn khích tức là được rèn luyện, sống vui và hữu ích, không bị rơi vào tình trạng u trệ, vô cảm, nghèo nàn, thờ ơ thành tàn tạ. Trong chúng ta cũng nhiều người có khi than cuộc đời sao ‘vô vị’ và ‘vô nghĩa’: nhờ tâm đạo dung thông ta sẽ dễ tìm lại niềm tin và thấy khúc thời gian dành cho ta thật đáng sống thay!

• Rèn luyện - nuôi dưỡng tâm hồn là sự dung thông để lập lại quân bình tinh thần - tình cảm đúng và đẹp trong những tình huống gian khó, thất bại, tai nạn, khổ luỵ, tật bệnh... Những lúc này cần:

Giữ trong mắt một vì sao mới

Dẫn đường mơ ước tới niềm tin. (HD).

• Trợ giúp cho sự rèn luyện ấy là những bài học từ dung thông tình cảm đẹp của bản thân và của xung quanh mà cuộc đời ai cũng đã trải nghiệm hoặc từ mảng đề tài “Cửa sổ tâm hồn” (cửa sổ cũng chính là vạch nối thuận nghịch hai chiều qua lại của dung thông luận) với những câu chuyện giản dị mà cảm động, sâu sắc.

• Hơn nữa, sự rèn luyện tâm hồn tức là sự dung thông có mang tính triết và luôn cần tính triết ấy, chính vì thế mà dung thông đã dần giúp ta ý niệm được triết lý cuộc sống với nội dung như vừa nêu ở mục 12.

• Và đến một lúc nào đó khi tuổi đã cao, đạo dung thông đem đến cho ta cách nhìn tin tưởng lớp trẻ kế tiếp:

Thực đức thực tài, muôn mái tóc xanh

Kế thừa, dung thông - nối thành vô tận. (HD)



14. Và cả ĐỐI VỚI CÁI CHẾT nữa. Trong công dụng của đạo dung thông về rèn luyện tâm hồn có thể đặc biệt nhấn mạnh kết quả quý báu về thái độ tâm hồn đối với cái chết. Đạo dung thông cũng là Đạo về thái độ đối với cái chết, và có công dụng xử lí thực sự tuyệt vời, không chỉ ở thời điểm đối diện với cái chết mà bằng toàn bộ nội dung suốt cả đời dung thông lí thú và hữu hiệu.



Đừng ngây thơ tưởng vấn đề cái chết là chuyện nhỏ và đã giải quyết xong xuôi từ lâu. Vấn đề này chẳng bao giờ cũ! Cố tình tránh suy nghĩ về cái chết là sai, chính con người khác thú vật ở chỗ “có khả năng thỉnh thoảng suy nghĩ về cái chết”(J.Renard). Có thể chính nhờ vậy, suốt đời luôn giữ được tâm hồn ở mức cao đẹp. Chớ nên trốn tránh vấn đề cái chết bằng cách giả bộ tảng lờ (trong khi tiềm thức thì bàng bạc lo lắng suốt đời!).



Với đạo dung thông, tâm hồn ta giải quyết rốt ráo tận gốc thái độ về cái chết và đạt bình thản cao độ. Nhưng vấn đề là mỗi người phải tự mình chiêm nghiệm đạo dung thông trong xử sự với cái chết và tự ứng dụng lấy, không ai làm thay cho mình được.



Trước hết, tuy chưa phải là cơ bản nhất, sự sợ chết là sợ không được hưởng sự sống ở những ai chưa biết thực sống bao giờ: chưa bao giờ biết quan sát và chiêm ngưỡng thưởng thức trọn (một cách đồng bộ, toàn vẹn, theo dung thông ngang và dọc) vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc sống trong mỗi thời điểm, mỗi thời kỳ và giai đoạn đời.



Cơ bản hơn là do vẻ bi thảm của cái chết sẽ mờ nhạt hẳn bên cạnh cái đích dung thông đã được sôi nổi thực hiện đầy đủ và toàn bộ, toàn diện cả một đời. “Chết không đáng buồn, chỉ buồn nếu đến chết chưa làm được gì bổ ích cho ai” (Lã Khôn). Giác ngộ dung thông đạo có nghĩa là chủ động không để xảy tình trạng đến khi chết mà chưa dung thông chút gì ích lợi cho nhân gian, không chấp nhận chết buồn chết chán vì ‘nỗi chán chường của hư vô’. Có những tấm gương dung thông lớn của nhân loại khi chết còn chủ động để lại “lòng son rạng sử xanh” (đan tâm chiếu hãn thanh) (Văn Thiên Tường). Không chỉ vì ý thức rõ ràng rằng tất cả mọi con người chúng ta, theo luật đương nhiên, đều sẽ “trở về cát bụi” (Cựu ước), “từ cổ, người đời ai không chết” (nhân sinh tự cổ thuỳ vô tử), mà cơ bản vì một đời chủ động dung thông đầy hứng khởi nên “cái chết nhẹ tựa lông chim hồng” (Tư Mã Thiên). Một cuộc sống dung thông với đời được nhiều việc thì, như Leonardo Da Vinci nhấn mạnh, cái chết thật thanh thản, khác nào giấc ngủ ngon sau một ngày làm tròn nhiều việc. Mà dung thông được nhiều ít là đo bằng hành động và tư tưởng chứ không phải đo bằng tuổi. Bản thân thi sĩ Tản Đà quan niệm chết cũng như tính sổ (những dung thông):

“Trăm năm rũ áo chốn trần gian,

Còn gì mới là được”.

Nếu như ‘tính sổ’ vẫn chưa thấy dung thông được gì cho ai cả, tức là đã chẳng đóng góp gì với đời, thì Goethe cho rằng “một cuộc sống vô ích là một cái chết trước thời hạn”. Còn Shakespeare đánh giá còn nặng nề hơn: “Con người còn ra gì, nếu đem tất cả phần tinh tuý và giá trị của đời mình vào việc ăn và ngủ”. Một số ý tưởng người xưa trên đây như minh chứng vai trò của dung thông trong vấn đề sống-chết.

Cao hơn thế nữa những cuộc đời đạt dung thông đẹp, phong phú có thể còn tiếp nối hành trình dung thông. “Những-người-chết sống cho đến bao giờ còn có những kẻ sống để nghĩ tới họ” (E.Henriot). Lỗ Tấn thì nói: “Người chết chỉ thực sự chết khi không còn sống trong lòng người khác”. Nói rộng ra, với quan điểm dung thông chúng ta gặp tư tưởng của Gs-Bs Hồ Đắc Di “Tương lai của con người là con người. Con người là bất tận”.



TÓM LẠI Nhờ CÁC CÔNG DỤNG nêu trên của đạo dung thông mà con người sống có tâm hồn cao đẹp, phong phú, đĩnh đạc, biết yêu thương, hiếu thảo,

Đời mẹ cha gieo neo thật ảo

Ấm lòng bởi hiếu thảo tình con. (HD)

Và biết thích nghi, thoát khỏi ích ki và đố kị, trọng trách nhiệm và nhân cách, thực sự khiêm tốn, có lí tưởng-mục tiêu-ý nghĩa sự tồn tại giữa nhân gian trời đất, với tư cách ‘làm Người’, xứng đáng với danh hiệu Con Người.

Nhờ đạo dung thông mà con người chủ động hướng thiện, vị tha, đem lại niềm vui, biết cảm thông chia sẻ với những cảnh đời khác, nên trở thành người biết yêu và được yêu tức là trở thành người hạnh phúc, thành công, tiến bộ và phát triển không ngừng, biết tạo thư thái, nhẹ nhàng trong lòng, tự do và giải thoát.

Tác dụng tốt đẹp là đến nhường ấy. Đạo dung thông là như vậy.



KẾT LUẬN

Vậy tóm lại, chúng ta vừa chứng minh được điều đã nêu trong mục tiêu khảo cứu ở đầu bài viết này: dung thông từ chỗ là một quy luật phổ quát của tự nhiên và xã hội đã được ứng dụng trong hệ thống rèn luyện tu dưỡng tâm hồn, rồi đã chứng tỏ đáng được mỗi người coi là một triết lí sống, và hơn thế nữa, một đạo lí xử thế (với bản thân và mọi người), một tâm đạo – đạo dung thông với tác dụng tốt đẹp thật lớn lao.



Chúng tôi đã tạm mượn ba âm tiết ‘đạo dung thông’ đó để gọi cho gọn khi trình bày, chứ thực ra Đạo rộng lớn bao trùm cả đời người, khó có tên thích hợp. Mà nó cũng chỉ như một tri kiến trải nghiệm mà chúng tôi cố gắng phân tích, chứng minh và phác ra như một sơ đồ gần đúng thôi, tuy rằng chân lí của nguyên lí ‘đạo dung thông’ của trời đất và của xử thế thì quá hiển nhiên và to lớn.



Thực hiện đạo dung thông không dễ. Nó đòi hỏi nỗ lực liên tục, nhưng nếu thường xuyên rèn luyện, nó sẽ trở thành nếp sống đương nhiên của mỗi người. Phải chịu khó suốt đời dung thông tất cả tinh hoa từ quá khứ và từ mọi người mọi nơi, nâng lên có sự đóng góp của bản thân, rồi dung thông tất cả trở lại cho đời. Một quá trình gian nan nhưng vô cùng ý nghĩa, hào hứng và tự tin.



Ta hãy lắng nghe một niềm tin vào công việc của mình (ở đây đúng là công việc dung thông cho nhân loại và dung thông cho người nghèo khổ), niềm tin của L.Pasteur, một tâm hồn cao thượng:

“Khoa học và hoà bình sẽ thắng dốt nát và chiến tranh;

Tương lai thuộc về những… hoạt động… vì nhân loại đau khổ”.

Trong thực thi đạo, cần cảnh giác khi ‘đắc chí’ vì: Giữ vững được đạo trong hoạn nạn đã khó, giữ vững được đạo trong thành công lại còn quan trọng hơn.

Tâm đạo mãi dung thông yêu thương với mọi người, ứng xử thích đáng với từng người, với gia đình, với Tổ quốc.



Đã làm người ở trên đời, phải giác ngộ đạo dung thông, kiên trì theo đuổi thực thi nó, trên cơ sở không ngừng chịu khó về tư duy, về rèn luyện đức hạnh, nuôi dưỡng tâm hồn. Và tất nhiên được bù đắp bằng phần thưởng lớn lao là tiến xa trên con đường của đạo dung thông - vốn như âm nhạc đang làm cho cuộc sống ta thành bản hòa tấu bất tuyệt - và thực sự thanh thơi khi từ giã cõi đời.

Để khép lại trang cuối bài “tóm lược Thuyết Dung thông và đạo làm người” này, chúng tôi xin nêu niềm tin mãnh liệt rằng DUNG THÔNG sẽ trợ giúp tâm hồn mọi con người, mọi lúc của mỗi ngày và của toàn bộ cuộc đời: tự thức tỉnh, xem lại mình, rèn luyện từ gốc. Như vậy luôn vươn tới gần, gần hơn nữa, gần hơn mãi sự ra đời một thế giới có khuôn mặt Người hơn, và ngày càng Người hơn nữa.

Tp. Hồ Chí Minh, 1991-2004.


Huy Dung

Chủ Nhật, 3 tháng 1, 2021

MỪNG SINH NHẬT EM




Ta lặng lẽ chúc mừng sinh nhật
ngắm ngọn lửa tình cháy nỗi nhớ em
tháng giêng nắng còn chưa ấm
xuân đâu về để gửi nụ hôn

Chiều nay phố nở tím hoàng hôn
ta kiếm môi thơm góc đợi chờ
em có nghe bờ ru sóng vỗ
giấc mơ yêu hạnh phúc tự trầm

Trăm năm chiếc bánh  phận duyên
Ta nào được cắt cùng tiên giáng trần

Thứ Sáu, 1 tháng 1, 2021

NẮNG SAY






Sáng nay nắng say lảo đảo
trời ửng hồng môi mắt khát khao
tóc em vương trên cành mai nở
ta ngẩn ngơ đời lạc bước mơ

Mùa đông khép cửa vu vơ thở
con bướm hớn hở vờn búp non tơ
xiêm y nhè nhẹ khoe da thịt
kích thích tình rần rật máu tim

Tách cà phê son trông ngọt lịm
hơi ấm chan hòa phố lim dim
có con chim líu ríu bình minh
ta say tình nắng cũng say em

Chủ Nhật, 15 tháng 11, 2020

ẢO ẢNH




Linh hồn tôi vất va, vất vưởng
nơi ốc đảo cô đơn
từng ngày chờ đợi hình hài tan rã
trong cơn khát vô thường
và em là hiện thân độ lượng
của sa mạc cốt xương
khi nỗi buồn buông bỏ
hơi thở yêu thương...

Thứ Sáu, 6 tháng 11, 2020

ĐỪNG TRÁCH MÙA THU




Sao em nỡ trách mùa Thu!
Khi lá vàng rơi về cội
Thương vay kiếp người lầm lỗi
Sám hối tình một lối Thu đi.

Xin em đừng hờn dỗi!
Mùa Thu vô tình đưa lá bay xa
Những chiếc lá trọn đời vất vả
Mang nắng vào sưởi ấm tim côi.

Xin em hãy bước cùng tôi
Gom lá vàng khô đun tình đã tắt
Đốt gió đông sưởi từng khoảnh khắc
Xua khói lên trời đuổi u ám mù sương

Chủ Nhật, 1 tháng 11, 2020

SỐ PHẬN DÂN OAN



Ai gây ra thảm họa
lũ chồng lũ miền trung
tiếng khóc than não nùng
tiếng thét vang hãi hùng

Đã không còn rừng
núi đồi sạt lỡ
chôn sống trẻ thơ
dìm chết ước mơ

Bao cảnh đời bơ vơ
bao gương mặt dại khờ
ngày đêm trong lo sợ
có bao giờ hỏi vì sao?

Ai gây ra thảm họa
lẽ nào là trời đất
trách người nghèo bội bạc
phạt dân đen tham tàn

Tổ quốc đeo tang
mặc niệm muộn màng
trách nhiệm rõ ràng
là của xóm làng

Đời thêm tiếng oán
số phận dân oan...



Thứ Hai, 26 tháng 10, 2020

 


KHÔNG SỐNG BẰNG NHỮNG SỰ GIẢ DỐI: LỜI KÊU GỌI LÒNG CAN ĐẢM VÀ SỰ THẬT TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY



Alexander Solzhenitsyn

Nguyễn Trung Kiên dịch

[*Solzhenitsyn viết bài tiểu luận này vào năm 1974 và nó đã lan truyền trong giới trí thức Moscow vào thời điểm đó. Nó được đề ngày 12 tháng Hai, cùng ngày mà cảnh sát mật đột nhập vào căn hộ của ông và bắt ông. Ngày hôm sau, ông bị trục xuất sang Tây Đức. Bài tiểu luận này là một lời kêu gọi lòng can đảm về đạo đức và là ánh sáng cho tất cả chúng ta – những người luôn coi trọng sự thật.*]



*

CÓ LÚC CHÚNG TA thậm chí không dám thì thầm. Bây giờ chúng ta viết và đọc sách báo ngoài luồng, và đôi khi khi tụ tập trong phòng hút thuốc ở Viện Khoa học, chúng ta thẳng thắn phàn nàn với nhau: Họ đang giở trò gì với chúng ta, và họ đang lôi chúng ta đi đâu? Vô cớ khoe khoang thành tựu về công nghệ vũ trụ khi mà nghèo đói và sự tàn phá đang tràn ngập quê nhà. Đề cao các chế độ man rợ xa xôi. Kích động nội chiến. Và chúng ta đã liều lĩnh nuôi dưỡng Mao Trạch Đông bằng chi phí của mình – và chúng ta sẽ là những người bị bắt đi lính để chống lại ông ta, và sẽ buộc phải đi. Có lối thoát nào ở đây không? Và họ đưa ra xét xử bất kỳ người nào họ muốn, rồi họ đưa những người ôn hòa vào trại tập trung – luôn luôn là họ, còn chúng ta thì bất lực.

Mọi thứ gần như đã chạm đáy. Một cái chết của linh hồn mang tính phổ quát đã chạm đến tất cả chúng ta, và cái chết thể xác sẽ sớm bùng phát và tiêu diệt cả chúng ta và con cái của chúng ta – nhưng như trước đây chúng ta vẫn mỉm cười một cách hèn nhát và lầm bầm rằng mình chẳng liên quan gì. Nhưng chúng ta có thể làm gì để ngăn chặn nó? Phải chăng chúng ta không có sức mạnh?

Chúng ta đã mất nhân tính một cách vô vọng đến mức để đổi lấy khẩu phần lương thực khiêm tốn hàng ngày, chúng ta sẵn sàng từ bỏ mọi nguyên tắc, từ bỏ linh hồn, từ bỏ mọi nỗ lực của những người đi trước và mọi cơ hội cho con cháu của chúng ta – miễn sao đừng làm phiền đến sự tồn tại mong manh của chúng ta. Chúng ta thiếu lòng kiên định, niềm tự hào và sự nhiệt tình. Chúng ta thậm chí không sợ cái chết hạt nhân rộng lớn, và chúng ta không sợ Chiến tranh thế giới thứ Ba. Chúng ta đã trú ẩn trong các kẽ hở. Chúng ta chỉ sợ những hành động được thúc đẩy bởi lòng can đảm dân sự.

Chúng ta chỉ sợ bị tụt lại phía sau đàn gia súc và đi một mình – và đột nhiên nhận thấy mình không còn bánh mì trắng, không còn gas để sưởi và không có hộ khẩu tại Moscow.

Chúng ta đã được truyền dạy trong các khóa học chính trị, và theo cách tương tự đã được nuôi dưỡng ý tưởng để sống thoải mái, và phần còn lại của cuộc đời chúng ta sẽ tốt đẹp. Bạn không thể thoát khỏi môi trường và điều kiện xã hội của mình. Cuộc sống hàng ngày định hình nên nhận thức. Nó liên quan gì đến chúng ta? Điều gì ở nó là bất khả đối với chúng ta?

Nhưng chúng ta có thể – mọi thứ. Nhưng chúng ta dối mình để an toàn. Và không phải họ là người phải chịu trách nhiệm về mọi thứ – chính chúng ta, chỉ chúng ta. Những cái khóa mõm đã được nhét vào miệng của chúng ta. Không ai muốn lắng nghe chúng ta và không ai yêu cầu chúng ta. Làm thế nào chúng ta có thể buộc họ phải lắng nghe nghe? Suy nghĩ của họ là không thể thay đổi.

Sẽ là tự nhiên nếu ta bỏ phiếu để loại bỏ họ – nhưng không có cuộc bầu cử nào ở nước ta. Ở phương Tây, người ta biết về các cuộc đình công và biểu tình phản đối – nhưng chúng ta quá bị áp bức, và đó là một viễn cảnh khủng khiếp đối với chúng ta: Làm sao một người có thể đột ngột từ bỏ công việc của mình và xuống đường? Tuy nhiên, những con đường chết chóc khác được khảo sát trong suốt thế kỷ qua bởi lịch sử nước Nga cay đắng của chúng ta không dành cho chúng ta, và thực sự chúng ta không cần chúng.

Giờ đây, những sự trừng phạt đã hoàn thành công việc của mình, khi mọi thứ đã được gieo trồng đã nảy mầm trở lại, chúng ta có thể thấy rằng những người trẻ tuổi và đầy kiêu mạn, những người nghĩ rằng họ sẽ kiến tạo nên một đất nước công bằng và hạnh phúc thông qua khủng bố, nổi loạn đẫm máu và nội chiến, tất cả trong số họ đã bị nhầm lẫn. Không, cảm ơn, hỡi những kẻ đã nhào nặn nên nền giáo dục này! Bây giờ chúng ta biết rằng các phương pháp bỉ ổi sẽ tạo ra những kết quả bỉ ổi. Hãy để cho bàn tay của chúng ta được sạch sẽ!

Một vòng luẩn quẩn – nó đã khít chưa? Và có thực sự là không có lối thoát? Và chỉ còn một việc để chúng ta làm, đó là chờ đợi mà không hành động? Có lẽ điều gì đó sẽ xảy tự nó xảy ra? Nó sẽ không bao giờ xảy ra miễn là chúng ta hàng ngày thừa nhận, mở rộng và củng cố – và không tách mình khỏi khía cạnh dễ nhận thấy nhất của nó: Những sự dối trá.

Khi bạo lực xâm nhập vào cuộc sống yên bình, khuôn mặt của nó rạng rỡ với sự tự mãn, như thể nó đang giăng biểu ngữ và la toáng lên: “Ta là bạo lực đây. Hãy chạy đi, nhường đường cho ta – ta sẽ nghiền nát chúng mi”. Nhưng bạo lực sẽ nhanh chóng già đi. Và nó đã đánh mất niềm tin vào bản thân, và để duy trì một bộ mặt đáng kính, nó kết nạp sự giả dối làm đồng minh của nó – vì bạo lực không phải ngày nào cũng đè lên vai tất cả mọi người. Nó đòi hỏi chúng ta chỉ tuân theo những sự giả dối và sống với những sự giả dối đó hàng ngày – tất cả lòng trung thành dành cho những sự giả dối đều nằm ở đó.

Và điểm mấu chốt đơn giản nhất và dễ tiếp cận nhất để giải phóng bản thân không bị lãng quên của chúng ta nằm ngay ở đây: Các cá nhân không tham gia vào những sự giả dối. Dù dối trá che dấu mọi thứ, dù dối trá bao trùm lấy mọi thứ, nhưng ta sẽ không tiếp tay cho chúng.

Điều này sẽ tạo ra sự vượt ngục thoát cái nhà tù tưởng tượng vốn được hình thành nên bởi sự không hành động của chúng ta. Đó là điều dễ dàng nhất đối với chúng ta, nhưng lại tạo ra sự tàn phá thảm khốc nhất đối với những sự giả dối. Bởi vì khi người ta từ bỏ sự giả dối, nó chỉ đơn giản là cắt đứt sự tồn tại của chúng. Giống như bệnh nhiễm trùng, chúng chỉ có thể tồn tại trong một cơ thể sống.

Chúng ta không tự hô hào bản thân. Chúng ta chưa đủ trưởng thành để tiến vào các quảng trường và gào lên sự thật của chúng ta hoặc để thể hiện những gì chúng ta đang nghĩ. Điều đó không cần thiết.

Điều đó thật nguy hiểm. Nhưng chúng ta hãy từ chối nói điều mà chúng ta không nghĩ.

Đây là con đường của chúng ta, con đường dễ dàng và dễ tiếp cận nhất, mà đã có tính đến sự hèn nhát cố hữu vốn đã sâu rễ bền gốc trong mỗi chúng ta. Và nó dễ dàng hơn nhiều – thậm chí còn nguy hiểm khi nói điều này – hơn là kiểu bất tuân dân sự mà Gandhi chủ trương.

Con đường của chúng ta là xóa bỏ ranh giới băng đảng. Nếu chúng ta không dán những mảnh xương và vây của ý thức hệ lại với nhau, nếu chúng ta không khâu những mảnh vải vụn thối rữa lại với nhau, chúng ta sẽ thật sự ngạc nhiên khi chứng kiến những sự giả dối trở nên bất lực và lắng xuống nhanh chóng.

Cái mà lẽ ra nên bị lột truồng sau đó sẽ thực sự bị lột truồng trước toàn thế giới.

Vì vậy, trong sự rụt rè của chúng ta, mỗi người chúng ta hãy đưa ra lựa chọn: Cho dù có ý thức, chúng ta vẫn là nô lệ của sự giả dối – tất nhiên, điều đó không phải vì khuynh hướng, mà là để nuôi sống gia đình, nuôi dạy con cái của mình bằng tinh thần dối trá – hoặc từ bỏ những sự giả dối và trở thành một người lương thiện đáng được cả con cái và người đương thời kính trọng.

Và từ ngày đó trở đi, mỗi chúng ta:

• Do đó, sẽ không viết, ký tên hoặc in ấn theo bất kỳ cách nào một cụm từ mà theo ý kiến của ta là đang bị bóp méo để sai với sự thật.

• Sẽ không thốt ra cụm từ như vậy trong cuộc trò chuyện riêng tư, không thốt ra trước sự chứng kiến của nhiều người, không tự mình hay thay mặt người khác thốt ra, không thốt ra khi bị người khác nhắc nhở, kích động;

• Sẽ không mô tả, nuôi dưỡng hoặc truyền bá một ý tưởng nào mà ta chắc chắn nhận thấy nó sai lầm hoặc bị bóp méo so với sự thật, cho dù đó là trong hội họa, điêu khắc, nhiếp ảnh, khoa học kỹ thuật hay âm nhạc.

• Sẽ không trích dẫn ngoài ngữ cảnh, bằng lời nói hay bằng văn bản, một trích dẫn duy nhất để làm hài lòng ai đó, để làm yên ấm cái tổ ấm của chính mình, để đạt được thành công trong công việc của mình, nếu ta không chia sẻ hoàn toàn ý tưởng được trích dẫn, hoặc nếu nó có không phản ánh chính xác vấn đề đang được đề cập.

• Sẽ không cho phép mình bị buộc phải tham gia các cuộc biểu tình hoặc mít-tinh nếu chúng trái với mong muốn hoặc ý chí của mình, sẽ không giăng một áp-phích hoặc khẩu hiệu mà ta không hoàn toàn chấp nhận.

• Sẽ không giơ tay biểu quyết cho một đề xuất mà ta không thông cảm chân thành, sẽ không bỏ phiếu, cả công khai lẫn bí mật, cho một người mà ta cho là không xứng đáng hoặc đáng ngờ.

• Sẽ không cho phép mình bị lôi kéo đến một cuộc họp mà có thể sẽ diễn ra một cuộc thảo luận gượng ép hoặc bị bóp méo về một vấn đề. Sẽ ngay lập tức rời khỏi một cuộc họp, phiên họp, bài giảng, buổi biểu diễn hoặc chiếu phim nếu ta nghe thấy một người nói dối, hoặc tuyên truyền vô nghĩa hoặc vô liêm sỉ về ý thức hệ.

• Sẽ không đăng ký hoặc mua báo hoặc tạp chí trong đó thông tin bị bóp méo và sự thật chính yếu bị che giấu. Tất nhiên chúng ta đã không liệt kê tất cả các sai lệch có thể và cần thiết từ sự giả dối. Nhưng một người thanh lọc bản thân sẽ dễ dàng phân biệt các trường hợp khác bằng cách nhìn nhận sự thanh lọc của mình.

Không, mọi người lúc đầu sẽ không giống nhau. Lúc đầu, một số sẽ bị mất việc làm. Đối với những người trẻ muốn sống với sự thật, điều này, ngay từ đầu sẽ làm phức tạp cuộc sống trẻ trung của họ rất nhiều, bởi vì những lời tán tụng bắt buộc bị nhồi nhét bởi những sự giả dối, và cần phải lựa chọn.

Nhưng không có kẽ hở cho bất kỳ ai muốn trung thực. Vào bất kỳ ngày nào, bất kỳ ai trong chúng ta cũng sẽ phải đối mặt với ít nhất một trong những lựa chọn nêu trên, ngay cả trong trường hợp an toàn nhất về khoa học kỹ thuật. Sự thật hoặc giả dối: Hướng tới sự độc lập về tinh thần hoặc về sự nô lệ tinh thần.

Còn nếu một người nào không đủ can đảm để bảo vệ linh hồn mình – đừng để hắn tự hào về quan điểm “tiến bộ” của mình, đừng để hắn khoe khoang rằng hắn là một viện sĩ hay một nghệ sĩ nhân dân, một nhân vật nổi tiếng hay một vị tướng. Hãy để hắn tự nói với chính mình: “Ta là một con cừu trong bầy cừu, và là một kẻ hèn nhát. Đối với ta tất cả đều như vậy, miễn là ta được ăn no và mặc ấm”.

Ngay cả con đường này, con đường khiêm tốn nhất trong tất cả các con đường phản kháng, cũng sẽ không dễ dàng cho chúng ta. Nhưng nó dễ dàng hơn nhiều so với việc tự thiêu hoặc tuyệt thực: Ngọn lửa sẽ không bao phủ cơ thể ta, nhãn cầu của ta, sẽ không bùng phát vì sức nóng, và bánh mì nâu cùng nước sạch sẽ luôn có sẵn cho gia đình ta.

Một dân tộc vĩ đại của châu Âu, những người Tiệp Khắc, dân tộc mà chúng ta từng phản bội và lừa dối: Họ đã không cho chúng ta thấy làm thế nào mà một bộ ngực dễ bị tổn thương có thể đứng vững ngay cả khi chống lại xe tăng nếu có một trái tim xứng đáng bên trong lồng ngực?

Bạn nói rằng điều này sẽ không dễ dàng ư? Nhưng nó sẽ là điều dễ dàng nhất trong tất cả những lựa chọn khả thi. Nó sẽ không phải là một lựa chọn dễ dàng cho một thể xác, nhưng nó là một lựa chọn duy nhất cho một linh hồn. Đúng vậy, đó không phải là một con đường dễ dàng. Nhưng đã có những người, thậm chí hàng chục người trong số họ, qua nhiều năm đã duy trì tất cả những quan điểm này và sống với sự thật.

Vì vậy, bạn sẽ không phải là người đầu tiên đi theo con đường này, nhưng sẽ tham gia cùng những người đã đi. Con đường này sẽ dễ dàng hơn và ngắn hơn cho tất cả chúng ta nếu chúng ta thực hiện nó bằng nỗ lực chung và nắm chặt tay nhau. Nếu có hàng nghìn người cùng đi với chúng ta, họ sẽ không thể làm gì chúng ta. Nếu có hàng chục nghìn người cùng đi với chúng ta, thì chúng ta thậm chí sẽ không nhận ra sự thay đổi của đất nước của mình.

Nếu quá sợ hãi, chúng ta nên ngừng phàn nàn rằng ai đó đang làm chúng ta ngạt thở. Chính chúng ta đang làm điều đó. Sau đó, chúng ta hãy cúi đầu xuống nhiều hơn nữa, chúng ta hãy than khóc, và hỡi người anh em, sự tiếp tay của các nhà sinh học, vốn sẽ giúp cho nỗ lực của họ để đọc được những suy nghĩ của chúng ta, ngay cả điều này cũng sẽ trở nên vô ích và vô vọng.

Và nếu chúng ta có đôi chân đầy sợ hãi, ngay cả khi bước đi những bước đầu tiền này, thì chúng ta đã trở thành kẻ vô dụng và vô vọng, và sự khinh bỉ của Pushkin nên dành lại cho chúng ta:

“Tại sao lại phải trao hoa trái của tự do cho bầy gia súc?

Di sản của chúng, từ thế hệ này sang thế hệ khác, là cái ách chiếc roi”./.

*

LỜI MÁCH BẢO CỦA THƠ

 






Bảo Ninh

Sau những ngày hầu như khuya nào cũng chong đèn đọc Dưới trăng và một bậc cửa, đêm qua, đã dòng cuối, tôi đọc lại, giở trang bất kỳ.



Đã phủ ngập trên mênh mông mặt hồ, tiếng chim đơn độc

và rền rĩ

Những quả đồi cựa mình và lặng lẽ bước đi

Những đám mây tha phương đã trở về, đứng bên kia đầu dốc

Ngước nhìn lên trong đêm mờ sao, và tôi nhận thấy…

Tôi tự thấy ngỡ ngàng. Đã từ lâu, không chỉ với sự đời mà cả với văn học, trong tôi, nhiệt tình đã nguội ngắt. Cái cảm giác xốn xang, mừng vui lẫn bàng hoàng khi được đọc một tác phẩm văn học khiến lòng mình rung động, như mọi người, tôi đã từng có nhưng những lần gần nhất cách nay cũng bao nhiêu năm rồi. Thời xa vắng. Tướng về hưu. Những người thợ xẻ. Những bài học nông thôn. Bước qua lời nguyền. Mình và Họ… Mà đấy là văn xuôi, các truyện ngắn và tiểu thuyết. Đây là thơ[1].



1. [2]Thơ của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đẹp và bình dị, ngôn từ đậm đà, mộc mạc, không gian thơ thân thuộc, gần gũi. Anh thực sự là một thi sĩ của làng quê, sông hồ và đồng nội… Lời bình này tôi được nghe từ nhiều năm trước trong một cuộc luận bàn bột phát và rất trái chiều nhau, nảy lửa, về Sự mất ngủ của lửa (2015)[3]. Ngoại đạo, song khi đó tôi đã thầm, chỉ dám thầm thôi, đồng tình với nhận định ấy. Đúng thế, thơ Nguyễn Quang Thiều, từ Sự mất ngủ của lửa ngày đó, đến Những người đàn bà gánh nước sông, rồi Nhịp điệu châu thổ mới, và giờ đây, Dưới trăng và một bậc cửa, đẹp và bình dị. Qua suốt chiều dài của gần hai trăm trang thơ và trường ca, dọc ngang, độc giả không bị vấp một chữ một từ hóc búa nào, không va phải câu nào đoạn nào ý tứ bịt bùng đánh đố; trái lại, cũng không gặp phải những câu thơ màu mè điệu nghệ, cầu kỳ mà dễ dãi, bóng bẩy mà trơn tuột, rất hay gặp trong không chỉ văn chương thời nay.

Vậy nhưng, tôi cảm thơ Thiều không phải bởi vì thế.

Tôi không biết diễn đạt thế nào. Từ ngữ và câu cú văn xuôi quen viết mỗi ngày không thể hiện được tâm trạng những đêm vừa qua đọc Dưới trăng và một bậc cửa. Có lẽ chỉ thơ mới ứng, và tôi muốn mượn từ tập thơ câu thơ này:

Chợt nhận ra ngôi nhà của mình, nhận ra thơ ấu của mình

Nhận ra cơn mơ của mình đang đi trên con đường đơn độc

Nhập tâm vào tập thơ, con người tôi như lạc khỏi bản thể và khỏi thực tại, trở nên siêu thực đến độ có lẽ cũng đã gần như tác giả, nhận ra được thơ ấu của mình, cơn mơ của mình, đang đi. Tuy nhiên, trạng thái nhập tâm của tôi vào tập thơ lại là một trạng thái nhập tâm tỉnh thức; tâm thức sáng tỏ, vừa đọc vừa ngẫm nghĩ, những ý nghĩ miên man theo dòng thơ, và những ý nghĩ bất chợt, xuất thần, vượt hẳn ra ngoài ý nghĩa của câu thơ. Và thậm chí cả những ý nghĩ triết lý, vốn là sự rất hiếm khi tôi thấy ở mình.

Với tôi, Dưới trăng và một bậc cửa, là một miền đất được nhà thơ “lập ra”, dành cho tôi. Miền đất này vừa bình dị và mộc mạc những cảnh sắc của đời sống thực tại thân thuộc, làng quê, sông hồ, đồng nội, với người Nông Dân Già, với bà nội tôi, em gái tôi, lại vừa là một miền đất của những quả đồi có thể cựa mình bước đi, của những đám mây tha phương trở về dừng bước nơi đầu dốc, của những cây cầu được bắc vào trong xa xôi, của khu vườn đang mang thai, của những ngôi nhà đang chạy trốn, của những ngôi nhà đang sụp lạy, của vở kịch đã mấy trăm năm rồi vẫn diễn, của những người chết trở về mượn đời sống chúng ta… Và cái miền châu thổ “hiện thực huyền ảo” Dưới trăng và một bậc cửa này như là được dành riêng cho tôi là bởi vì trong nó hàm chứa những ý tưởng mà bao lâu nay tôi vẫn chập chờn nằm mộng thấy và vẫn thầm mong là rồi ra mình sẽ nghĩ thấu được tới, sẽ chạm bút được vào.

Cũng như nhiều người viết văn xuôi khác, hàng ngày, sáng chiều tôi thường vất vả cặm cụi viết một cái gì đấy, và về khuya, nếu thời gian và không gian cho phép thì lẳng lặng một mình một “đêm thơ” riêng mình. Không chỉ là sở thích, đây là một nhu cầu thiết thân. Thơ, thầm đọc trong đêm, làm khuây đi cái ban ngày thường nhật, và hơn thế, đưa đến cho buổi sáng ngày hôm sau một sức viết, một đà viết, và có khi là cả một hướng viết mà nhờ thế sẽ vượt qua được những bế tắc đang kìm chân bản thảo.

Tác động khai mở của thơ có thể là lập tức lúc tôi đang tập thơ trên tay, nhưng thường khi là sau đấy, trong giấc ngủ. Thơ ngấm vào giấc ngủ giúp tôi trong đêm thấy ra được một từ, hoặc một câu, hoặc cả một đoạn dài văn chương đặc biệt ưng ý, thậm chí mách cho tôi một cốt truyện mà tôi biết chắc là hay vô cùng, để rồi lúc sáng ra, tỉnh dậy, không sao nhớ lại nổi, khôn xiết xót xa tiếc nuối.

Cố nhiên, với tôi, những bài thơ có thể ảnh hưởng trực tiếp lên “văn xuôi” của mình như thế không mấy. Bởi vậy tôi không đọc rộng ra mà bấy lâu chỉ cứ hàng đêm những bài thơ đó, nhà thơ đó. Và trong số ít đó, nhiều nhất là thơ Thiều. Thơ Thiều của những năm 1990, của mấy năm gần đây, và bây giờ đây, tập thơ này.[4]



Tranh Lê Thiết Cương

2. Đêm qua, đã trang cuối cùng, tôi ngược dòng tập thơ đọc lại, nhưng không từ đầu, mà trang bất kỳ.

Đã phủ ngập trên mênh mông mặt hồ, tiếng chim đơn độc

và rền rĩ

Những quả đồi cựa mình và lặng lẽ bước đi

Những đám mây tha phương đã trở về, đứng bên kia đầu dốc

Ngước nhìn lên trong đêm mờ sao, và tôi nhận thấy

Linh hồn của những người chết trên mảnh đất này

Bay lượn nặng nề cùng linh hồn những chiếc thuyền thúng

Và linh hồn những con chó chạy ra mép nước sủa vang

đón linh hồn những ông chủ

Linh hồn một bà già hấp hối đòi gặp linh hồn con cháu

Ngước nhìn lên và tôi thấy linh hồn ông nội tôi

Đang dựng lại đình làng và linh hồn bà nội

Đang đội đất đắp đê dài đến tận chân trời

Không hiểu là bởi vì đâu, phải chăng là do trong sự đọc của mình thường trực một cái nhìn văn xuôi, nên tôi, gần như là bằng trực giác vậy, thật mắt nhìn thấy, hiển hiện, trong trang thơ tuyệt ảo này của Bài ca những con chim đêm (năm 2000)[5] phần hồn của một cuốn tiểu thuyết mà phần chữ còn chưa được viết ra.

Mà không chỉ một trang này, hầu như trang nào của tập thơ cũng gợi cho tôi tứ của một thiên truyện. Thế nên, với tôi, Dưới trăng và một bậc cửa là một tập thơ mang dung lượng của vô kể những ý tưởng tiểu thuyết. Thậm chí thực sự hẳn ra là một thiên tiểu thuyết. Chẳng hạn, Cây ánh sáng, hay Hồi tưởng, hay Nhân chứng của một cái chết, mà đặc biệt là Khúc ba.

… Nếu ngày ấy tôi lên thuyền tôi đã ở bến bờ khác…

Cô đọng tới tột mức trong hai trang thơ, Khúc ba là một tiểu thuyết bi kịch, trữ tỉnh và huyền ảo, mà đọc đi đọc lại lần nào tôi cũng bị lay động tận đáy lòng.

Cũng kết tinh lại chỉ trong hai trang thơ, Hồi tưởng tháng Chín (trong Hồi tưởng), với tôi, là một tiểu thuyết triết lý, hoặc có thể nói, một ngụ ngôn tiểu thuyết, hết sức cao thâm và hàm súc. Tôi cảm tưởng đây là một truyện ngụ ngôn về chính tôi, về những năm tháng viết văn đằng đẵng của tôi, về sự mò mẫm và về niềm vô vọng.

Chúng ta cố ngước mắt kiếm tìm dấu vết

Và lạc ngay trước cửa ngõ nhà mình

Thú thực là tôi thấy buồn cho mình. Tôi đã từng có mặt trong thực cảnh của hai trang thơ đó: một buổi sáng ngập dưới sương mù… bộ hành tất cả đều như bỗng nhiên bị lòa, hoảng hốt hỏi nhau về con đường vẫn thường đi… duy nhất một người, người mù, là bình thản, thong thả bước đi giữa những hàng cây… Có mặt trong cảnh tượng đó và là một người viết văn, song chỉ thế thôi, tôi chỉ nhìn thấy, với một chút cảm giác là lạ chứ không nhận thấy, không nghĩ tiếp được, không manh nha nổi trong tâm trí một ý tưởng văn chương nào như là đáng lẽ ra.

Nhưng chúng ta không sao hình dung được

Con đường trong ngôn ngữ của trí tưởng tượng

giữa bóng tối

3. Nói chung là rất buồn, cảm nhận khi vừa đọc xong Dưới trăng và một bậc cửa, một nỗi buồn thẳm sâu, mênh mang khôn tả, xâm chiếm tâm hồn tôi.[6] Nỗi buồn ấy tôi tưởng chừng có thể trực tiếp chạm tay vào trên từng trang sách, và có thể cả nhìn thấy nó, ngoài cửa sổ.

Cửa sổ căn phòng mà tôi hằng đêm chong đèn đọc sách cũng giống ô cửa sổ quên đóng và đèn quên tắt của nhà thơ trông ra một mặt hồ và ra xa hơn nữa tới một triền đồi. Thực cảnh là vậy, và bấy lâu qua cửa sổ tôi chỉ thấy được đúng như thể, hồ nước và những quả đồi, nhưng từ đêm qua, như là từ trong tập thơ nhìn ra, tôi nhìn thấy một hiện thực khác, một cõi khác của thế gian.

Ngước nhìn lên trong đêm mê sảng của một hồ nước và

như một chứng nhân

Của lịch sử lặng câm và tôi nhìn thấy…

Đấy là một cõi mê loạn mà khôn xiết sầu thương thống thiết hiển hiện trong những lời thơ u sầu mà uy nghi và trầm mặc, với giọng thơ, nhịp thơ buồn vô hạn.

Linh hồn những ông vua vẫn mê đắm những linh hồn

tì thiếp

Linh hồn những ngựa bạch vẫn kéo theo linh hồn những cỗ xe

Và linh hồn những đao phủ bay song song linh hồn

những cái đầu bị chặt

Một đoàn dài linh hồn những người lính đang tìm về

linh hồn những ngôi nhà

Và bên này hồ nước linh hồn những người đàn bà góa bụa…[7]

3. Đêm qua, đứng bên cửa sổ, theo mách bảo của nhà thơ, tôi ngước nhìn lên.

Ngước nhìn lên ngôi sao mỗi lúc một sáng hơn

Mỗi lúc nghe một rõ hơn như chính từ bản thân mình

Giọng nói xa lạ và quen thuộc

Cả hồ nước mở ra một con mắt

Sáng dần lên một đóa hoa

Lời mách bảo của thơ như là lời mách bảo nghe thấy từ trong tiếng sấm vọng về từ bên kia hồ, như lời của trời đất, khiến tôi bàng hoàng, choáng ngợp.

Nguồn: Tuổi trẻ cuối tuần 30-8-2020, tr. 32-33.

[1] Sau “Đây là thơ”, nguyên văn còn viết thêm nhưng Tuổi trẻ cắt: “, lại không phải thông lệ văn vần, và có lẽ cũng không phải Hậu hiện đại, dạng thức thơ đang dần một thịnh hành.

Trước, tôi đã tìm đến một số tác phẩm được các nhà nghiên cứu định danh là thế, là Hậu hiện đại, mà chắc là do sự đọc và hiểu cố hữu của mình làm cho vướng vấp nên dù rất cố tôi vẫn như bị bật dội ra, không vào nổi. Nhưng, với Dưới trăng và một bậc cửa, chẳng những không hề bị chữ nghĩa của nó làm khó, tôi còn “tâm đầu ý hợp” ngay từ trang đầu, qua hàng đêm, từng dòng. Bởi vậy, từ sự cảm thụ nhập tâm như thế của bản thân, tôi tự cho rằng tập thơ tuyệt vời đột ngột và khác lạ này không phải là Hậu hiện đại, hoặc phải thì “hậu hiện đại” này hoàn toàn khác những “hậu hiện đại” kia.”

(“Nguyên văn” trong bài này là theo FB Nguyễn Quang Thiều)

[2] Tuổi trẻ đánh số thành ba phần (1, 2, 3), chứ không phải trong nguyên văn.

[3] Tuổi trẻ ghi 2015 nhưng thực ra bản in đầu tiên là năm 1992.

[4] Tuổi trẻ cắt: “Trong Dưới trăng và một bậc cửa có những trường đoạn tôi nhớ là đã đọc từ nhiều năm trước, mà bây giờ trong tổng thể của tập thơ, những trường đoạn ấy tôi thấy khác hẳn, vượt bậc lên, tầm cao hơn. Là bởi vì, có thể ví như, những năm trước đây tôi chỉ mới thấy từng quãng của dòng sông, còn bây giờ là suốt dọc triền sông, toàn cảnh.

Đời người, đời thơ, những ai có thể mở ra được cả một miền đất, cả một triền sông như nhà thơ này, tập thơ này?”

[5] Tuổi trẻ ghi 2000 nhưng thực ra bản in đầu tiên là năm 1999.

[6] Nguyên văn: “Nói chung là rất buồn, cảm nhận khi vừa đọc xong Dưới trăng và một bậc cửa, một nỗi buồn thẳm sâu, mênh mang khôn tả, xâm chiếm tâm hồn tôi.” Mấy chữ “Nói chung là rất buồn, cảm nhận khi vừa” bị cắt.

[7] Sau đoạn thơ trích dẫn trên, nguyên văn còn thêm (nhưng bị cắt):

“Và:

Dưới gốc thông già, linh hồn cái đầu một nhà thơ đang

đọc một linh hồn sách


Và bay quanh ông vừa cười vừa khóc, linh hồn ba họ

Ngước nhìn lên và cố tìm linh hồn chén rượu độc

Chỉ thấy linh hồn một ông vua cắn mãi không đứt

lưỡi mình…

Biết là chẳng lẽ nào lại cứ miên man dẫn hết câu thơ này tới câu thơ khác của tập thơ, mà tôi không đừng được, không thể cưỡng được sức cuốn âm thầm mảnh liệt của những dòng thơ ấy, những dòng thơ tuyệt tác “linh hồn của kiêu hãnh, khát vọng mang xúc cảm vĩ đại”.

Thứ Tư, 21 tháng 10, 2020

KIẾN NGHỊ CỦA NGUYỄN TRUNG GỬI TỔNG BÍ THƯ – CHỦ TỊCH NƯỚC VÀ TOÀN THỂ BỘ CHÍNH TRỊ

 




Kính gửi : Tổng bí thư – Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng
và toàn thể Bộ Chính trị Đảng Cộng Sản Việt Nam

Thưa các Đồng chí,

Với trách nhiệm công dân, hưởng ứng kêu gọi lần này của Đảng về góp ý cho Đại hội XIII, tôi trân trọng đề nghị Tổng bí thư – Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng và toàn thể Bộ Chính trị Đảng Cộng Sản Việt Nam khóa Đại hội XII quan tâm 5 vấn đề dưới đây.

1. Tổng bí thư – Chủ tịch nước nên quyết định tiến hành xử lại vụ án Đồng Tâm đúng với luật pháp hiện hành và mọi quy định đã ghi thành Luật về các thủ tục điều tra và xét xử, nhằm làm rõ sự việc, xử đúng việc đúng người, tránh oan sai. Qua việc xử lại vụ án này với nhận thức đúng đắn như vậy, thúc đẩy ý thức thượng tôn pháp luật trong toàn Đảng và trong toàn bộ hệ thống chính trị – nhà nước của quốc gia. Vụ Đồng Tâm là một vết thương nghiêm trọng đối với dân tộc, đánh dấu một bước phát triển nguy hiểm cho đất nước. Dư luận chân chính trong nước và bè bạn quốc tế không tán thành cuộc trấn áp, cách xét xử vụ án, và bản án sơ thẩm đã công bố ngày 14-09-2020.



Nhân đây xin nhắc lại kinh nghiệm cũ: Khi nhận thức được sai lầm nghiêm trọng trong cải cách ruộng đất (CCRĐ), Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng bí thư Trường Chinh hồi ấy đã tự nhận hết trách nhiệm về riêng mình, và quyết định sửa sai triệt để, nhờ vậy cả miền Bắc một bề yên lòng, cùng nhau khắc phục được mọi thương đau và tổn thất đã xảy ra. Sau đó tất cả mới có thể cùng nhau dốc lòng chuẩn bị cho kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhờ đó có được hôm nay. Chủ lực trực tiếp đảm nhận gánh nặng lớn nhất của toàn bộ sự nghiệp này là tầng lớp nông dân của chúng ta.

Mong rằng việc xử lại theo tinh thần như vậy vụ Đồng tâm sẽ nói lên ý chí của lãnh đạo ĐCSVN quyết đổi mới nền tư pháp hiện nay – một trong những đòi hỏi rất cấp bách của đất nước trước tình hình và nhiệm vụ mới. Hợp lý nhất là Tổng bí thư – Chủ tịch nước nên ban bố quyết định này trước khi họp Đại hội XIII, tạo ra trong Đảng một tinh thần dám nhìn thẳng vào sự thật và củng cố đoàn kết dân tộc, quyết vượt qua mọi sai lầm, khó khăn, thách thức, cùng nhau nắm bắt thời cơ mới, đưa đất nước vào một thời kỳ phát triển mới.

Kính thưa Tổng bí thư – Chủ tịch nước và toàn thể Bộ Chính trị,

Tại đây, tôi xin trình bầy thêm một phương án khác nữa, rất mong được cân nhắc:

Trong thâm tâm, suy nghĩ kỹ, tôi mong muốn: Đúng đắn nhất có lẽ là nên quyết định hủy vụ xử án này, để xử lý vụ Đồng Tâm bằng con đường dân sự theo tinh thần sửa sai (gọi là phương án sửa sai) như đã làm trong cải cách ruộng đất. Kinh nghiệm một năm trời (1956-1957) tôi trực tiếp đi sửa sai CCRĐ[1] ở Trực Ninh – Nam Định, khiến tôi vô cùng nhức nhối về vụ Đồng Tâm, thôi thúc tôi đưa ra phương án này.

Vụ Đồng Tâm xảy ra vì bất kỳ nguyên do gì – rồi sẽ phải làm rõ, nhưng đã làm cho đất nước lâm vào những khó khăn nội tại mới, rất nhạy cảm, đẩy đất nước lún sâu hơn nữa vào xu thế mang tính quy luật của chế độ toàn trị: nội trị xuống cấp, trấn áp gia tăng – ngày càng đi vào chiều hướng tới một điểm nào đó sẽ không thể đảo ngược được nữa, với triển vọng đen tối cho cả nước. Giữa lúc này những thách thức đối với nước ta và mọi nguy cơ uy hiếp mới nhiều bề từ bên ngoài ngày càng lớn. Toàn bộ thực tế quyết liệt này đòi hỏi nước ta sống hay là chết phải chuyển đoạn đi vào một thời kỳ phát triển mới, và sống hay là chết nước ta phải giành bằng được một vị thế quốc tế mới để thoát khỏi thế bị giằng xé và lệ thuộc hiện nay, để tự quyết định lấy vận mệnh của nước mình! Hòa bình và tương lai của đất nước đang quyết liệt đòi hỏi như vậy

- Tiếp tục đi sâu nữa vào con đường đang đi với triển vọng đen tối của chế độ toàn trị hiện nay đối với Đảng và đối với quốc gia, đành chịu để cho nội tình phân tán, chia rẽ, tiềm năng phát triển của đất nước tiếp tục bị kìm hãm, uy hiếp, nguy cơ đổ vỡ và bạo loạn bên trong gia tăng, ý chí chiến đấu của quốc gia có lúc mang những biểu hiện phân tán, tê liệt trước sự can thiệp từ bên ngoài và nguy cơ xâm lược?

- Hay là Đảng quyết rũ bỏ chế độ toàn trị này để mở đường sống cho bản thân mình và cho đất nước, đem tất cả nghị lực giành lấy một tương lai mới, nước mình tự làm chủ vận mệnh của mình trong một thế giới đầy bất định và giành giật nhau quyết liệt, để đất nước có hòa bình, phát triển và hạnh phúc?



Thực ra, ngay từ khi bước sang thế kỷ 21 đất nước ta đã đứng trước hai câu hỏi định mệnh nói trên, và từ hồi ấy cho đến hôm nay trong nước liên tục có nhiều tiếng nói cảnh báo rất sớm, nhưng vô ích. Cục diện quốc tế mới hôm nay quyết liệt và căng thẳng hơn rất nhiều, thôi thúc ráo riết ĐCSVN và đội ngũ lãnh đạo của Đảng phải hành động trước khi quá muộn. Xin hãy nhìn ra toàn thế giới và nhìn kỹ những gì hiện đang xẩy ra ở Đông Nam Á, trên Biển Đông, những diễn biến khác ở nhiều quốc gia – nhất là ngay trong khu vực mình.., để hiểu được hai câu hỏi định mệnh nêu trên đang ngày càng nóng bỏng đối với quốc gia!

Người đời nói và nói đúng: Ngoại trừ bị đập tan hay sụp đổ – chưa thấy một đảng cộng sản nào nắm quyền ở bất kỳ đâu trên thế giới này có thể tự thay đổi được chính nó.

Nhưng 4 cuộc trường kỳ kháng chiến cứu nước đã đòi hỏi dân tộc ta phải chịu đựng những hy sinh tổn thất không lời nào nói hết mới có được hôm nay. Vì thế tôi thấy dứt khoát phải làm mọi việc chặn đứng cho đất nước ta nguy cơ một cuộc bể dâu mới sẽ lại cướp đi tất cả, để quyết khai phá con đường sống cho đất nước và cũng là con đường tối ưu cho sự nghiệp của Đảng. Phải nói với nhau hết lời: Tình hình đã tới mức ĐCSVN cách mạng đã từng dẫn dắt nhân dân hoàn thành sự nghiệp độc lập thống nhất, nhưng hôm nay chỉ còn cách một cái xảy chân để có thể ngã xuống biến thành trở lực đối kháng của dân tộc, nhất là giữa lúc Việt Nam hôm nay đang có trong tay cơ hội vượt qua mọi thách thức hiểm nghèo để giành lấy một tương lai xán lạn! Chưa bao giờ như hôm nay Việt Nam đang được hầu hết mọi đối tác coi là điểm đến giầu tiềm năng và rất hứa hẹn trong thế giới đầy xáo động này! Bè bạn thế giới đều muốn có một Việt Nam là một nhân tố không thể thiếu cho hòa bình, hợp tác và phát triển trong khu vực! Vì thế, hơn bao giờ hết, lãnh đạo Đảng phải chắt chiu từng cơ may nhỏ nhất, hội tụ mọi khát vọng cháy bỏng của nhân dân cả nước thành sức mạnh đổi đời đất nước. Nắm vận mệnh đất nước trong tay, nếu Đảng không thực hiện được sứ mệnh này sẽ là mắc trọng tội đối với đất nước và tổ tiên! Đấy là những lý do tôi quyết định nói với các Đồng chí:

Dựa vào trí tuệ và ý chí cả nước, với tất cả bản lĩnh lãnh đạo của mình, các Đồng chí phải có gan lựa chọn cho đất nước phương án sửa sai vụ Đồng Tâm, chặn đứng xu thế diễn biến cực kỳ nguy hiểm của độc tài toàn trị, để từ điểm nhấn dám sửa sai này, Đảng thực hiện bước đột phá: Phát huy dân chủ giải phóng sức mạnh cả nước mở ra một bước ngoặt chiến lược cứu nước cứu Đảng trong tình hình nguy hiểm mọi bề hôm nay, đưa đất nước đi vào một thời kỳ phát triển mới! Đảng chủ động làm như thế mới đúng là lãnh đạo, sẽ được lòng dân, cổ vũ được cái tốt trong toàn Đảng và cả nước, và chắc thắng; bạn bè thế giới sẽ hoan nhênh, hậu thuẫn! Đất nước sẽ chỉ mất đi sự lệ thuộc, cái yếu kém và tiêu cực! Có bản lĩnh thì phải quyết biến nguy cơ thành thời cơ như vậy! Chứ không phải là ngoan cố đối phó bằng cách tăng cường bắt bớ và độc đoán hơn nữa như đang diễn ra!

Xin nhấn mạnh: Bối cảnh trong ngoài khiến cho tình hình nước ta đã chín muồi để thực hiện quyết định lịch sử này! Nước ta hiện nay đã hội được mọi điều kiện đủ cho thực hiện quyết định lịch sử này, chỉ còn thiếu duy nhất điều kiện cần là ý chí của Đảng Cộng Sản Việt Nam!]

2. Nhằm đổi mới nhiệm vụ xây dựng Đảng trước những đòi hỏi của tình hình và nhiệm vụ mới trong thế giới quyết liệt thời đại dịch covid-19, đề nghị Đại hội XIII quyết định trong khóa Đại hội này sẽ tiến hành xây dựng một bộ Luật về Đảng Cộng Sản Việt Nam[2], để cụ thể hóa Điều 4 của Hiến pháp.

Mục đích của Luật này nhằm (i) làm rõ nội dung vai trò lãnh đạo của ĐCSVN đối với quốc gia, gắn việc thực hiện nhiệm vụ này với trách nhiệm ràng buộc của Đảng đối với quốc gia trong tình hình mới, (ii) ngăn ngừa tình trạng mất dân chủ, hoặc sự lạm dụng quyền lực và những tha hóa khác biến tướng vai trò lãnh đạo của Đảng thành vai trò thống trị / cai trị, (iii) tạo ra sự phân công rành rẽ để không gây ra chồng lấn, không có vùng trống, nghiêm cấm những hiện tượng lộng quyền, tiếm quyền.., không để xảy ra Đảng làm thay vai trò của những thành phần khác trong hệ hống chính trị của quốc gia – bao gồm Quốc Hội, Chính phủ và hệ thống chính quyền, hệ thống Mặt trận, (iv) góp phần nâng cao vai trò và năng lực của hệ thống Nhà nước là Quốc hội, vai trò Chính phủ và hệ thống chính quyền, xây dựng và phát huy vai trò xã hội dân sự, (v) góp phần vào những công việc của quốc gia nhằm nâng cao tính nhà nước dân chủ pháp quyền của quốc gia và tinh thần thượng tôn pháp luật trong cả nước, xây dựng những chuẩn mực đạo lý và pháp lý quốc gia phải có, vận dụng phổ cập nguyên tắc công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình như một đòi hỏi ràng buộc trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội của toàn bộ đời sống đất nước – qua đó Đảng gương mẫu thực hiện tất cả đều bình đẳng trước pháp luật, tất cả đều phải sống và làm việc theo pháp luật, không có ngoại lệ.

Tóm lại, đây là một bộ Luật nhằm phục vụ nhiệm vụ xây dựng về mặt pháp lý một ĐCSVN giầu trí tuệ và có phẩm chất, bản lĩnh vững vàng, hoạt động trong một quốc gia có hệ thống chính trị dân chủ pháp quyền ngày càng mạnh với một xã hội dân sự ngày càng phát triển. Nghĩa là: Bộ Luật này góp phần tạo ra tình hình Đảng và đối tượng Đảng phục vụ đều cùng mạnh lên và tiếp tục phát triển lành mạnh; khắc phục hiện trạng Đảng ngày càng tập quyền, trong khi đó đối tượng Đảng phục vụ ngày càng tha hóa do nhiều quyền tự do dân chủ bị tước đoạt và bị bưng bít trong chính sách ngu dân. Bộ Luật này sẽ là bước đi đầu tiên trong quá trình đổi mới, cải cách, để tiến tới xây dựng nên một thể chế chính trị của một nước phát triển. Luật này chủ yếu nên nhằm:

- Xác định về mặt pháp lý nội dung cần thực hiện vai trò lãnh đạo của ĐCSVN là những gì, gắn việc thực thi nhiệm vụ của vai trò này với trách nhiệm ràng buộc của Đảng đối với quốc gia, tất cả với tinh thần: Đảng tuyệt đối trung thành với tổ quốc và Hiến pháp, tôn trọng quyền của nhân dân làm chủ đất nước, cam kết chăm lo những quyền tự do – dân chủ và nghị lực sáng tạo của nhân dân vì đây là nguồn lực quyết định nhất của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, chịu sự phê phán – rèn luyện của nhân dân như một yếu tố tất yếu bảo vệ và phát huy phẩm chất và tính chiến đấu của Đảng.

- Luật này phải góp phần: không để xảy ra nhầm lẫn nhân dân với kẻ thù, không quy kết bừa bãi coi những ý kiến phản biện và những người bất đồng chính kiến là thế lực thù địch, nghiêm cấm mọi hiện tượng nhà nước công an trị, tăng cường kỷ cương của quốc gia và sự nghiêm minh của luật pháp.

[Ngay trước mắt, nên sớm trả lại tự do cho những người bị bắt giam, bị án tù, chỉ vì họ bất đồng chính kiến. Phải lấy đối thoại tìm ra lẽ phải, chỉ trị nước bằng lẽ phải. Từng việc làm của Đảng phải lấy thu phục lòng người bằng lẽ phải và chính nghĩa, nhất nhất chỉ vì dân vì nước – chứ không phải bằng trấn áp của bạo lực và dối trá. Phải như thế, để xây dựng nên trong lòng mỗi người dân thành lũy tinh thần không gì lay chuyển nổi bảo vệ đất nước và chế độ! Có dân sẽ có tất cả, mất dân sẽ dẫn đến mất nước và tự sát! Không có thế lực thù địch nào ở trong nước có thể lật đổ chế độ này, nhưng ách toàn trị là nguyên nhân ngày đêm tạo ra nguy cơ này. Vì vậy phải lấy thực hiện công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình để chủ động phòng ngừa mọi yếu kém, và giải quyết những yếu kém khi xảy ra.]

- Cần phải trung thực với lịch sử, tôn trọng lịch sử là thầy dạy của hiện tại và tương lai, nhất là phải rút ra từ lịch sử những bài học không được quên. Nhất thiết không được vẽ lịch sử, không được lạm dụng cứ mài lịch sử ra mà sống, để tự tôn vinh, ru ngủ, để ăn bám và khỏa lấp những yếu kém. Tệ hơn nữa, làm như thế còn là tiếp tục tự giam mình và mặc nhiên giam cả đất nước trong quá khứ – như đã và đang xảy ra. Làm như thế là Đảng tự đánh lừa mình, khuyến khích nói dối, tiếp tục làm tha hóa chính mình và đất nước một cách nguy hiểm. Thành lập viện này viện nọ mà không có học, không có tự do tư duy trong học tập, sẽ chỉ có thêm bằng rởm! Nhân đây phải nói những yếu kém của hệ thống tuyên giáo và báo chí của Đảng (thường được gọi là báo chí lề phải) góp phần làm trầm trọng thêm thực trạng này. Truyền thông và báo chí của hệ thống chính trị nặng về làm vai trò bảo vệ quyền lực toàn trị và trấn áp tinh thần, tư tưởng, che giấu / cắt xén sự thật, thiếu hay không có thông tin trung thực… Trong khi đó chưa làm được gì đáng kể cho nhiệm vụ nâng cao dân trí và phát triển tư duy cho sự tiến bộ của Đảng và của đất nước. Nhất thiết Đảng cần sớm khắc phục những sai lầm trầm trọng này, giao cho Tuyên giáo và hệ thống truyền thông báo chí nhiệm vụ xây dựng hòa hợp đoàn kết dân tộc, phát huy trí tuệ phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, khuyến khích văn hóa và những giá trị cao đẹp, bảo vệ những tiếng nói chân chính và chân lý, tuyên chiến với dối trá, cái ác, tham nhũng tiêu cực, sự đồi trụy, hủ tục và lạc hậu.

- Đặc biệt quan trọng là yêu cầu phát triển của đất nước ta và những thách thức quyết liệt của thế giới hôm nay đòi hỏi Đảng trên mặt trận truyền thông báo chí phải dành nỗ lực cao nhất cho sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam tự do của một Việt Nam độc lập tự do, vị thế mới của đất nước đòi hỏi như vậy. Nhận về mình vai trò lãnh đạo đất nước, Đảng có trách nhiệm khuyến khích tự do trong tư duy để luôn luôn tìm đường đưa đất nước đi lên phía trước – không được coi đấy là diễn biến. Mặt khác phải xem nô dịch tư tưởng là một trọng tội đối với dân tộc không được phép phạm phải – vì nó làm thui chột sức sống và khả năng đề kháng của dân tộc. Sự trung thành đạo lý cao cả nhất đòi hỏi chỉ dành cho Tổ Quốc và Sự Thật![3] Ngay trước mắt, tuyên giáo và truyền thông báo chí phải được học lại, trang bị lại trí tuệ và bản lĩnh, để phục vụ đắc lực những nhiệm vụ cả nước phải làm mở ra bước ngoặt chiến lược cho phát triển đất nước.

- Cuộc sống có vận tốc ngày càng cao và đã vượt quá xa, nhưng Đảng đang tụt hậu rất nghiêm trọng về nhiều phương diện. Trong khi đó khoảng cách giữa năng lực và phẩm chất của Đảng so với nhiệm vụ hôm nay Đảng phải thực hiện rất lớn. Do đó với tính cách là lực lượng chính trị lớn nhất nước, Đảng hôm nay phải học lại, học cái mới, trau giồi phẩm chất và bản lĩnh mới, tri thức mới, phải làm tất cả mọi việc có thực chất thường xuyên tu dưỡng và đổi mới chính mình để bắt kịp, phải bổ khuyết sớm những thiếu hụt lớn về trí tuệ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc hôm nay đòi hỏi. Nhất là phải làm cho Đảng trở thành nhân tố phát huy dân chủ và gìn giữ đoàn kết dân tộc trong đời sống đất nước – bắt đầu từ xây dựng dân chủ và đoàn kết hướng về phía trước trong Đảng, lời nói đi đôi với việc làm.

- Đảng cần phải tổ chức học lại và học mới như nói trên, để xây dựng mới cho toàn bộ đội cán bộ ngũ đảng viên của mình phẩm chất, trí tuệ, sự giác ngộ lợi ích của quốc gia và dân tộc, những kiến thức mới của phát triển, ý chí phấn đấu cho hạnh phúc của nhân dân và sự cường thịnh của Tổ quốc. Đảng cần rèn luyện nên mỗi đảng viên của mình là một chiến sỹ tiên phong của dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, chứ không phải là một robot của Đảng! Vì những lẽ trọng đại đã trình bầy, trong khóa Đại hội XIII sớm muộn cần xây dựng lại Cương lĩnh và Điều lệ Đảng.

- Luật này còn đòi hỏi Đảng phải nghiêm khắc chống mọi hiện tượng giáo điều, bảo thủ, nạn bè phái, nhóm lợi ích, tệ sùng bái cá nhân, tham nhũng / tiêu cực, tệ nạn quan liêu ăn bám, thói xu nịnh, lừa dối… đang đẻ ra nhiều tội ác. Đấy là những kẻ thù nguy hiểm nhất của Đảng và thường trực tạo ra nguy cơ lớn cho quốc gia còn hơn giặc ngoại xâm.

- Đổi mới xây dựng Đảng về mặt tổ chức, để Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, và đồng thời qua đó nâng cao được phẩm chất và năng lực của những thành phần khác trong toàn bộ hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước (bao gồm Đảng, Hệ thống Nhà nước, Mặt trận…), phân nhiệm chặt chẽ giữa từng thành phần trong hệ thống, từng người phải làm đúng việc của mình trong biên chế – không thừa, không thiếu. Sự đổi mới như vậy toàn bộ hệ thống sẽ làm rõ trách nhiệm và nâng cao năng lực của từng thành phần trong hệ thống, tạo ra sự phân công mới rành rọt giữa các thành phần này, qua đó tránh được hiện tượng chồng chéo “3 trong 1” (bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận) rất quan liêu như hiện nay.

- Xin nhấn mạnh: Phát huy dân chủ trong Đảng, đồng thời tạo mọi điều kiện cho phát huy dân chủ trong mọi lĩnh vực của toàn bộ đời sống đất nước, đây chính là con đường thực hiện đoàn kết toàn dân tộc, giải phóng sức mạnh cả nước, nâng cao chất lượng toàn bộ hệ thống chính trị – nhà nước của quốc gia, mở ra và thúc đẩy cải cách chính trị do Đảng chủ xướng và tổ chức thực hiện, đưa đất nước vào một thời kỳ phát triển mới. Dân chủ của yêu nước là cái gốc của tự do, là nền tảng cho những giá trị của dân tộc và quốc gia, là yếu tố gắn bó keo sơn giữa nhân dân, tổ quốc và Đảng, và là chìa khóa của phát triển!

3. Đổi mới xây dựng Quốc hội theo tinh thần: (i) Hiến pháp là bộ luật tối cao của quốc gia, (ii) Quốc hội là cơ quan quyển lực cao nhất của cả nước, (iii) nâng cao năng lực kỹ trị trong việc xây dựng luật pháp và những chủ trương chính sách quan trọng của quốc gia, tăng cường khả năng chế tài việc thực thi pháp luật của cả nước. Quốc hội đại diện cho quyền lực và tiếng nói của nhân dân, không phải là cơ quan (thực thể) chấp hành (executive body) của quyền lực, do đó cần loại bỏ mọi hoạt động hình thức phô trương và hữu danh vô thực. Dưới đây là một số vấn đề nên đặc biệt quan tâm.

- Quốc hội Việt Nam từ khóa XV nên gọn nhẹ, ưu tiên hàng đầu là chất lượng đại biểu Quốc hội về trình độ chính trị và năng lực kỹ trị, rồi nếu tình hình cho phép mới tính đến cơ cấu các thành phần xã hội, nam nữ, tôn giáo, sắc tộc, tuổi tác, nghề nghiệp… Dứt khoát không cơ cấu ĐBQH cho đủ mâm bát giống như quy chế của Mặt trận. Theo tinh thần này, người ứng cử hay được đề cử phải chứng minh trước cử tri của mình lý lịch rõ ràng, là công dân không phạm pháp, có phẩm chất đạo đức, có bản lĩnh, trình độ học vấn và năng lực chuyên môn của mình. Vì không xây dựng quyền lập pháp theo chế độ lưỡng viện, do đó ngoại trừ một số ít trường hợp đặc biệt, người ứng cử hay được đề cử trước hết nên là người làm ăn sinh sống tại địa phương (tỉnh / thành phố…), phải hiểu rõ tình hình và những vấn đề, những đòi hỏi của địa phương, phải trình bầy được trước cử tri của địa phương mình những mục tiêu sẽ theo đuổi, và cam kết có sự ràng buộc pháp lý việc thực hiện nếu được bầu. Vì những lý do như vậy, nên bãi bỏ việc người từ tỉnh này được ứng cử hay được đề cử tại tỉnh khác.

- Nên xây dựng mới những quy chế, quy định, và cách hiệp thương – thảo luận – tranh luận công khai và dân chủ ở địa phương cho việc phát hiện / giới thiệu hiền tài (dù là đảng viên hay không phải đảng viên ĐCSVN), lựa chọn được đúng người đề cử hoặc khuyến khích ứng cử, sao cho có nhiều hiền tài tham gia việc nước, cử tri lựa chọn và bầu trực tiếp hiền tài, loại bỏ cách “đảng cử – dân bầu” như lâu nay.

- Số đại biểu QH quy định cho mỗi tỉnh nên là 3, mỗi thành phố trực thuộc TƯ là 5, riêng Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh mỗi nơi sẽ là 6. Nhìn chung nên có khoảng ≤ 1/3 tổng số đại biểu QH là ĐBQH chuyên trách. Mỗi ĐBQH đều có 2 chức năng chính là (i) đại diện trực tiếp của tỉnh (địa phương) mình tại QH, và (ii) đồng thời là thành viên của QH gánh vác công việc quốc gia.

- Đại biểu Quốc hội không chuyên trách được giữ nguyên lương của cơ quan chủ quản và phải tiếp tục thực hiện công việc mình được trả lương, nhưng được dành một khoảng thời gian thích đáng để thực thi nhiệm vụ ĐBQH, đồng thời được hưởng thêm một khoản phụ cấp theo quy định chung của QH trong thời gian là ĐBQH. Nếu là ĐBQH chuyên trách, sẽ được hưởng lương quy định chung cho ĐBQH chuyên trách và các chế độ khác trong thời gian làm nhiệm vụ ở QH, và dừng việc nhận lương trong biên chế cũ trước khi trở thành ĐBQH chuyên trách. Mọi chế độ đãi ngộ dành cho ĐBQH không chuyên trách và chuyên trách sẽ kết thúc khi hết nhiệm kỳ hoặc nếu bị bãi miễn.

- Tiến hành mọi cải tiến, cải cách cần thiết để QH thực hiện được đầy đủ chức năng với hiệu quả cao nhất là cơ quan quyền lực cao nhất của quốc gia và đồng thời là cơ quan lập pháp của quốc gia như ghi trong Hiến pháp 2013, thể hiện được ý chí và nguyện vọng của nhân dân, thay mặt nhân dân kiểm xoát toàn bộ sự vận động của quốc gia, thể hiện và thực thi được với ý thức trách nhiệm thiêng liêng và cao cả nhất quyền của nhân dân làm chủ đất nước. Thực tế này đòi hỏi phải nâng cao nền tư pháp quốc gia, sớm hình thành trong hệ thống Nhà nước hiện tại một thực thể pháp lý (a quasi-judicial body) làm chức năng của Tòa án Hiến pháp; khi tình hình cho phép sẽ tiến hành xây dựng Hiến pháp mới. [Chấm dứt hẳn tình trạng Đảng coi QH là công cụ của mình và ngồi trên tất cả – thể hiện rõ nhất qua việc nhiều ĐBQH công khai thừa nhận Bộ Chính trị là cấp trên của QH.]

4. Trong thời gian vừa qua một số người Việt Nam là học giả, các nhà kinh tế và các nhà kinh doanh, sống ở trong nước hoặc nước ngoài, có nhiều ý kiến, kiến nghị rất xác đáng về con đường phát triển của Việt Nam, về đổi mới cơ cấu kinh tế và thể chế vận hành quốc gia thời cách mạng công nghiệp 4.0, những cải cách kinh tế và chính trị phải làm để thực hiện những mục tiêu này… Xin trân trọng đề nghị Đảng, Quốc hội và Chính phủ dành sự quan tâm đặc biệt cho những ý kiến, kiến nghị này, huy động trí tuệ cả nước và hiền tài lập ra một loại hình think tank thường trực cho nhiệm vụ nghiên cứu / xây dựng chiến lược chung và những chiến lược từng lĩnh vực, những nhiệm vụ phải thực hiện cho việc mở ra một thời kỳ phát triển mới của đất nước, đáp ứng được những đòi hỏi và thách thức của tình hình và nhiệm vụ mới. Xin đặc biệt quan tâm đến một số vấn đề trọng yếu sau đây.

- Cải cách thể chế chính trị để mở rộng dân chủ hóa, xây dựng nền giáo dục tiên tiến là nền tảng văn hóa và tinh thần của quốc gia, phát huy sức mạnh quan trọng nhất của đất nước là con người Việt Nam và nguồn nhân lực Việt Nam – đấy là 3 tiền đề nhất thiết phải tạo ra cho việc phát triển đất nước trong tình hình và nhiệm vụ mới. 3 yếu tố này mang tính chất dĩ bất biến ứng vạn biến, giúp cho quốc gia giành được cơ hội đang đến, đối phó được mọi thách thức dưới bất kỳ hình thức nào – kể cả chiến tranh xâm lược nếu xảy ra. Nên dành mọi nỗ lực có thể cho việc hình thành tầng lớp doanh nhân Việt Nam mạnh với thương hiệu Việt Nam cho đất nước! Xin lưu ý, vì thiếu 3 tiền đề “dĩ bất biến” kể trên nên đã không hoàn thành được chiến lược công nghiệp hóa đất nước vào năm 2020. Như vậy triển vọng thực hiện chiến lược phát triển đất nước đến năm 2030 và 2045 đã đề ra sẽ như thế nào?

- Cần nắm bắt được nội dung và xu thế vận động đang diễn ra của cách mạng công nghiệp 4.0 để tái cơ cấu kinh tế đất nước, phát triển các ngành khoa học / kỹ thuật và xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên môn và lực lượng lao động có tay nghề cao để đáp ứng, đổi mới thể chế vận hành quốc gia, và giải phóng mọi nguồn lực – bao gồm cả xây dựng và phát huy vai trò nền kinh tế số, để làm ra những sản phẩm mới Việt Nam đang có những lợi thế lớn nhất…

- Không thu hút mọi FDI và bằng bất cứ giá nào, không để cho FDI trở thành yếu tố lôi kéo và khuynh đảo sự vận động và xu hướng phát triển kinh tế đã lựa chọn của đất nước như đã và đang xảy ra – nổi lên hiện nay là tình trạng: Càng thu hút được nhiều FDI, kinh tế quốc dân càng ngả lệch sang phát triển theo chiều rộng với nhiều hệ quả nặng nề. Phải chuyển hẳn sang thời kỳ chủ động chọn lọc và thu hút FDI nhằm phục vụ tối ưu chiến lược phát triển của đất nước – với phương châm: FDI phải thúc đẩy sự phát triển mới đất nước muốn lựa chọn, dứt khoát loại bỏ FDI tạo ra sự lệ thuộc và những tiêu cực mới. Lấy nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nước nhà và trình độ của Nhà nước trong quản lý và vận hành nền kinh tế để thực hiện phương châm này.

- Cần đặc biệt quan tâm và coi phát triển bền vững là ưu tiên số 1 trong khi tận dụng mọi cơ hội cho tăng trưởng kinh tế, dành mọi nỗ lực có thể cho việc phát triển kết cấu hạ tầng của quốc gia, cải thiện – bảo vệ môi trường tự nhiên, nhất quyết xây dựng tiết kiệm là quốc sách hàng đầu, giữ chữ tín trong làm ăn kinh tế trong nước cũng như trong kinh tế đối ngoại.

5. Về đối ngoại nên quán triệt phương châm: Cần xây dựng một nền nội trị vững mạnh và kiên cường làm nền tảng cho một nền ngoại giao dấn thân vì lợi ích quốc gia và vì trách nhiệm phải có của một nước thành viên có bản lĩnh và được tôn trọng trong cộng đồng các quốc gia trên thế giới. Đấy phải là một nền ngoại giao phát huy được truyền thống lịch sử của đất nước lấy đại nghĩa thắng hung tàn, kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo ra được cho quốc gia sự tập hợp lực lượng phải có trên thế giới, chủ động vận dụng sáng tạo mọi thể chế và luật pháp quốc tế hiện hành, tất cả để phục vục triệt để nhất sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Ở vị trí địa đầu tại khu vực ĐNÁ, sống hay là chết, không muốn làm đe thì phải làm búa (J. W. Goethe), Việt Nam nhất thiết phải xây dựng cho mình một nền ngoại giao của một nhân dân trưởng thành, được trang bị mọi thông tin, hiểu biết và nhận thức phải có, được trau giồi lòng yêu nước, ý chí và khả năng chiến đấu của người chiến sỹ trên mặt trận đối ngoại – không khác gì những đòi hỏi về lòng yêu nước, phẩm chất và khả năng chiến đấu phải có của toàn dân là chiến sỹ trên chiến trường khi đất nước có ngoại xâm. Bởi vì, để sống và vươn lên được trong thế giới quyết liệt hôm nay, Việt Nam – là một quốc gia có gần 100 triệu dân và một cộng đồng gần 10 triệu người Việt sống ở nước ngoài – cả nước ta, trước hết là ĐCSVN – cần vượt lên quá khứ, chiến thắng mọi hận thù, vượt qua mọi giả dối, sớm xây dựng cho quốc gia mình những giá trị, bản lĩnh và khả năng thực hiện, để quyết lấy mở rộng dân chủ xây dựng thành công một nền ngoại giao của đại đoàn kết và hòa hợp dân tộc “người Việt Nam vì tổ quốc Việt Nam!” – một thế mạnh bất khả chiến bại của nước ta! Nhưng nếu không làm được như vậy, thế mạnh quyết định này sẽ trở thành thách thức thường trực rất nguy hiểm đối với đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói nhiều lần: Đoàn kết là sống, chia rẽ là chết! Làm mọi việc để người dân thực sự là chủ của đất nước, chắc chắn sẽ thực hiện được.

Gần một nửa thế kỷ đất nước độc lập thống nhất là thời gian quá chín muồi để cả nước và toàn Đảng nhận thức được tầm vóc nhiệm vụ chiến lược sống còn nêu trên và cần quyết tâm thực hiện. ĐCSVN dẫn dắt đất nước thực hiện thành công nhiệm vụ chiến lược sống còn này, sẽ minh chứng và khẳng định thuyết phục vai trò lãnh đạo của mình đối với quốc gia, và chỉ có làm được như thế mới đích thực là thực hiện vai trò lãnh đạo! Hơn thế nữa xin lưu ý, bối cảnh lịch sử và những thách thức mới đất nước hôm nay phải đối mặt đặt lên vai ĐCSVN – người đã đưa đất nước đi con đường Cách Mạng Tháng Tám – trọng trách: Tiếp tục con đường đã dẫn dắt đất nước trong những thập kỷ vừa qua, hôm nay Đảng có trách nhiệm ràng buộc phải thực hiện thành công nhiệm vụ trọng đại này, để hoàn thành thắng lợi cuối cùng này[4] của Cách mạng Tháng Tám cho Tổ Quốc.

Thưa Tổng bí thư – Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng và toàn thể Bộ Chính trị,

Đòi hỏi sống còn của đất nước và tiền đồ của Đảng chỉ dành cho lãnh đạo Đảng hôm nay con đường duy nhất dẫn dắt đất nước đi đến thành công, đó là:

Đảng phải nhìn thẳng vào sự thật, giác ngộ nhiệm vụ phải thực hiện trong tình hình và nhiệm vụ mới hôm nay, học hỏi để đổi đời chính mình với ý chí Tổ quốc trên hết. Đồng thời qua mở rộng dân chủ phát huy trí tuệ cả nước quyết mở ra bước ngoặt chiến lược về phát triển để cứu nước cứu Đảng như đã trình bầy sơ bộ trong kiến nghị này, lấy thực hiện dân chủ giải phóng sức mạnh của nhân dân, tổ chức toàn Đảng và toàn dân đoàn kết quyết tâm thực hiện!

Vì mọi quyền lực vẫn đang nguyên vẹn trong tay, do đó Đảng đang có cơ hội tốt nhất và hoàn toàn có thể chủ động bắt đầu sự nghiệp đổi đời đất nước từ việc Đảng tự xây dựng lại chính mình trước thành đảng của dân tộc và dân chủ, có trí tuệ và bản lĩnh. Đấy là con đường giúp Đảng gắn bó với nhân dân, chứ không phải là ngồi trên nhân dân, thực hiện đúng cam kết Đảng không có mục đích nào cao cả hơn và cũng không có lợi ích nào khác là phục vụ nhân dân và phụng sự tổ quốc. Được như vậy, rồi Đảng sẽ biết phải làm gì trong những bước tiếp theo mà kiến nghị này đã sơ bộ gợi ý những việc cần làm ngay trước mắt, và nhất định sẽ làm được. Chậm trễ sẽ không còn gì để làm ngoài gánh chịu hậu quả và kéo đất nước vào tai ương khôn lường. Song trong trường hợp này, nhân dân nhất định sẽ đứng lên tự quyết định lấy vận mệnh của mình, đất nước này và dân tộc này không bao giờ khoanh tay chịu chết! Điều này đã được chứng minh suốt từ thời kỳ nghìn năm Bắc thuộc cho đến hôm nay. Còn nhiều vấn đề khác, xin được bàn vào dịp khác. Cái khó nhất trước sau vẫn là Đảng phải chiến thắng chính mình trước tiên!

Những căng thẳng mới đang diễn ra trong khu vực ĐNÁ, Biển Đông đang trên miệng hố chiến tranh, và những thay đổi tại một số quốc gia ở đây đang nhắc nhở nghiêm khắc đất nước ta về những bài học xương máu trong quá khứ của cuộc chiến tranh Trung Quốc xâm lược biên giới nước ta 17-02-1979 và mối liên kết của nó với cuộc chiến tranh của Khmer đỏ chống nước ta ở phía Tây Nam. Cuộc sống trong thế giới khắc nghiệt hôm nay chỉ giành cho một Việt Nam có phẩm chất và bản lĩnh, để có thể chủ động với hiệu quả cao nhất vận dụng chiến lược và sách lược phải có, tự quyết định lấy vận mệnh của chính mình. Chỉ như vậy mới có thể gìn giữ được hòa bình, phấn đấu thành công cho hữu nghị, hợp tác và cùng phát triển trong khu vực và trên thế giới, cho phép sẵn sàng chiến đấu và quyết chiến thắng bất kỳ cuộc chiến tranh xâm lược mới nào chống nước ta nếu xảy ra.

Núi xương sông máu ba thế hệ liên tiếp dân tộc ta đã phải đổ ra để có độc lập thống nhất hôm nay. Một giọt máu nào của dân rơi xuống dù ở đâu hay bên nào cho cõi đất này đều là máu người Việt ta! Nhưng chưa bao giờ cơ đồ và con đường sống của nước ta đang bị bạo quyền bên ngoài lăm le chặn đứng như hôm nay! Không loại trừ một cuộc xâm lược mới! Chưa bao giờ như hôm nay những sai lầm, yếu kém, tham nhũng, sự ngu dốt và bao nhiêu cái ác khác của chính chúng ta nếu không được chặn đứng sẽ có ngày xô đẩy đất nước ta một lần nữa vào cảnh nồi da xáo thịt, cho bên ngoài đục nước béo cò! Bao chùm lên tất cả là đại dịch covid-19 đang hoành hành và đảo lộn cả thế giới, không phân biệt giầu nghèo, ý thức hệ, tôn giáo, châu lục, quốc gia. Những tác nhân gây ra đại dịch và những hệ quả của nó đang thách thức quyết liệt và ghê tởm sự sống còn của từng quốc gia! Sống chỉ dành cho trí tuệ và bản lĩnh chiến thắng được tội ác và cái chết!

Vì vậy, từng đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam – từ Tổng bí thư cho đến đảng viên thường – xin hãy nén lại cái tôi trong chính con người mình, để có đủ lương tri và lòng yêu nước biết đau nỗi đau của dân tộc, biết nhục nỗi nhục của dân tộc, biết lo những mối nan nguy nhiều bề chưa từng có phía trước đang đe dọa đất nước! Bốn cuộc kháng chiến cứu nước đằng đẵng và đẫm máu không phải là để tạo ra cho nhân dân ta những bất công và sự kìm kẹp như đang xảy ra, sự phát triển đất nước đạt được phải trả cái giá quá đắt và đang bị ụy hiếp, đất nước bị làm hỏng nhiều mặt, hiện nay đang bị lệ thuộc và thách thức nguy hiểm. Từng đảng viên của Đảng quyết không được phản bội một hy sinh nào của dân tộc và của những bậc tiền bối, quyết không được bỏ qua bất kỳ mất mát nào của đất nước![5] Không có gì quý hơn độc lập tự do của Tổ Quốc! (Hồ Chí Minh).

Hơn bao giờ hết toàn Đảng phải trung thành với lời thề cứu nước đã viết trên lá cờ Đảng kể từ ngày thành lập, bảo vệ mọi thành quả dân tộc đã giành được, hôm nay phải lột xác phấn đấu làm đội quân tiên phong của dân tộc vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong tình hình và nhiệm vụ mới!

Hơn bao giờ hết toàn Đảng phải đoàn kết hy sinh phấn đấu cho quyền sống và hạnh phúc của nhân dân!

Chịu ơn sâu nghĩa nặng của nhân dân, mỗi đảng viên hãy giữ trong tim mình Tổ Quốc và Sự thật! Phải dám sống vì Tổ Quốc và Sự Thật, để mỗi đảng viên sẽ tìm ra con đường sống cho mình và cho đất nước!

ĐCSVN hôm nay chỉ có thể thực hiện được nghĩa vụ cam kết của mình đối với dân tộc trong giai đoạn phát triển mới của đất nước bằng cách Đảng phải xây dựng cho mình đội ngũ cán bộ đảng viên có trái tim, ý chí và trí tuệ dám sống vì Tổ quốc và Sự thật.

Thưa Tổng bí thư – Chủ tịch nước và toàn thể Bộ Chính trị,

Trên đây tôi đã trình bầy những kiến nghị và suy nghĩ của mình về 5 vấn đề lớn của đất nước, mong các Đồng chí cân nhắc thấu đáo, đề đạt với Đại hội XIII những việc nên làm trong khóa Đại hội này. Nếu bỏ ngoài tai, kiến nghị này sẽ là lời cảnh tỉnh!

Xin gửi các Đồng chí lời chào trân trọng.

Hết

Nguyễn Trung, nguyên trợ lý cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt

Hà Nội, Võng Thị, ngày 12-10-2020

(Đã gửi cùng ngày, được xem lại và bổ khuyết ngày 18-10-2020)

[1] Tham khảo thêm thư của cố lão thành cách mạng Chu Đình Xương 03-1982 về cải cách ruộng đất – http://vanviet.info/tu-lieu/thu-cua-ng-chu-dnh-xuong-gui-cho-ban-chap-hnh-trung-uong-dang-cong-san-viet-nam/

[2] Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, “Lũ”, NXB Tre Xanh, USA, 2015, tập hai, chương 26, tr. 362… http://nguyentrung-vt.blogspot.com/search/label/A1%20%22L%C5%A9%22%20-%20Final%20Draft%20April%202015

[3] Sự thật có ý nghĩa quan trọng tới mức có thể nói ĐCS Liên Xô đã ra đời với tờ báo chiến đấu của mình là SỰ THẬT (PRAVDA). Tiếc rằng sư tha hóa của Liên Xô cuối cùng đã chôn vùi tờ báo này về cả nghĩa bóng và nghĩa đen. Những người cộng sản Nga hôm nay đang tìm cách cứu lại tính chiến đấu cho PRAVDA. ĐCSVN có nhà xuất bản SỰ THẬT, nhưng thành quả thật nghèo nàn!

[4] Khẩu hiệu có ý nghĩa quyết định của Việt Minh đưa ra làm nên thành công cho Cách mạng Tháng Tám là “Nước Việt Nam của người Việt Nam!”.

[5] Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, “Dòng đời”, NXB Văn Nghệ, TPHCM – 2006, quyển hai, tập IV, chương 30, tr. 857 – http://www.viet-studies.net/NguyenTrung/index.htm

Nguồn: http://viet-studies.net/NguyenTrung/NguyenTrung_KienNghi181020.html