Thứ Hai, 29 tháng 6, 2015

Inrasara: 30 NĂM ĐỔI MỚI, CÁC TRÀO LƯU THƠ VIỆT Ở ĐÂU, VỀ ĐÂU?





1. TÌM TRÀO LƯU THƠ VIỆT Ở ĐÂU?

Thơ Việt sau 30 năm đổi mới đã nảy ra nhiều trào lưu mới với nhiều cách biểu hiện và xuất hiện khác nhau. Một khi văn hóa internet phát triển cùng nhiều quan điểm sáng tác và xuất bản khác nhau, khi văn học trong nước và hải ngoại phần nào đó đang xu hướng “hợp lưu”, để tránh sự thiếu khuyết, người nghiên cứu cần có cái nhìn toàn cảnh mới bao quát được vấn đề. Nhìn toàn cảnh thơ Việt sau 30 năm đổi mới qua con mắt hậu hiện đại là lối nhìn giải trung tâm, coi các phong trào thơ ngoại vi là những dòng chảy quan trọng không chút kém cạnh so với thơ dòng chính, để tạo thành một hợp lưu là thơ Việt, nói chung. Thơ của các nhà thơ ở vùng sâu vùng xa hay thơ người Việt ở nước ngoài, thơ in photocopy hay thơ đăng lên mạng, thơ của các nhà thơ là người dân tộc thiểu số hay thơ nữ, thơ của người làm thơ chưa [không muốn] là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, tất cả! Chính lối nhìn mở này mang khả tính phát hiện và thông dòng mọi trào lưu thơ Việt, 30 năm qua.
30 năm, thơ Việt có bao nhiêu trào lưu?

2. BẢY TRÀO LƯU THƠ VIỆT, MINH GIẢI TỪ THỰC TIỄN SÁNG TÁC

Trào lưu cách tân thơ Việt nhận ảnh hưởng từ hai chiều ảnh hưởng: thơ của Nhóm Nhân văn Giai phẩm ở miền Bắc và thơ Sáng Tạo ở miền Nam, cùng các tìm tòi đơn lẻ khác

Thơ Tân hình thức & nỗ lực dự cuộc vào dòng chính

Thơ thị giác trong đó thơ trình diễn là một nhánh nổi bật

Phong trào thơ nữ quyền: thời kì sơ khai và giai đoạn chín rộ với những khuôn mặt độc đáo

Thơ hậu hiện đại với sự phát triện đa dạng và đa diện của nó

Trào lưu thơ trẻ Cham, một nhánh mới trong dòng chảy của thơ Dân tộc Thiểu số Việt Nam

Dòng thơ phản kháng với 2 dòng chảy chính: chính thống và ngoại biên

3. CHUYỂN MỘT HƯỚNG SAY

30 năm và 7 trào lưu thơ, là nhiều và không nhiều với một nền văn học. Bởi không ít phong trào ra đời sớm nở tối tàn, như Nhóm Ngựa Trời. Trào lưu thì nội lực chưa mạnh, như tân hình thức. Có trào lưu xuất hiện rầm rộ và kéo dài: nhóm Mở Miệng trong dòng thơ hậu hiện đại, nhưng do bị kì thị và nghi kị, nghi kị cả ở phía cách tân khác, cho nên nó chỉ tác động ở phần chìm mà chưa được sự công nhận rộng rãi của xã hội.
Phía ngoại vi đã vậy, phía chính thống cũng chẳng hơn gì. Nỗ lực cách tân cá nhân các loại, bởi không đặt trên nền tảng lí thuyết và lí luận vững chắc, khi vào trận, đã lâm nguy ngay. Các “cách tân” được Hội Nhà văn Việt Nam mạnh dạn vinh danh vài năm qua, gần như rơi vào sự im lặng đầy nghi kị, khi bị công phá. Bởi cư dân mạng, lẫn dư luận chính thống. Tại sao? Không ai hiểu tại sao! Hội đồng Giải thưởng khinh thường miễn chấp, hay không đủ lập luận để bác lại các “luận điệu xuyên tạc” kia? Không ai buộc Hội Nhà văn phải trả lời các phản bác về giải thưởng cả. Thế nhưng sự im lặng – dù bất kì nguyên do nào – ở khía cạnh này, Hội Nhà văn Việt Nam rất dễ tạo hồ nghi về sự bất lực của mình. Qua đó, thơ cách tân thất bại. Và hệ quả là: nền văn chương Việt Nam chịu thiệt.
Dù sáng tạo văn chương là hành trình cô độc, như rất nhiều nhà thơ độc hành trong tìm tòi, thử nghiệm trong thời gian khá dài và đạt không ít thành tựu, nhưng chính các trào lưu, nhóm văn học mới tạo nên không khí sôi động cho văn đàn. Chúng xuất hiện, cạnh tranh nhau để có mặt và tồn tại. Vậy, đâu là diễn đàn độc lập để các trào lưu thể hiện? – Không đâu cả. Báo chí văn học chính thống thường đăng ý kiến một chiều, hiếm khi chấp nhận sự phản biện, những phản biện ở cấp độ mĩ học, chứ không phải ở mấy chi tiết lẻ tẻ, vụn vặt.
Do đó, cuộc cách mạng văn học, nếu có – luôn bị dang dở.
Dẫu sao, qua ý hướng cách tân thơ cũng như sự thâu thái các trào lưu nghệ thuật đương thời trên thế giới cùng việc tiếp nhận tinh thần dân chủ mới, thơ Việt đã có bước chuyển động mạnh. Chuyển động cả ở cách nghĩ, cách làm, và thái độ. Hậu hiện đại giai đoạn đầu với thái độ quá khích [rất cần thiết] phản kháng lại mấy đại tự sự và nỗi hãnh tiến vô lối các loại khi bị phản ứng, đã biết phản tỉnh để tìm hướng đi nền tảng hơn trong hành trình đổi mới thơ Việt.
Họ sẽ làm nên bước chuyển mới của thơ Việt ngày mai, hi vọng thế.

Gia đình và hôn nhân ở Việt Nam thay đổi như thế nào?





Tác giả: Khuất Thu Hồng

.Thực ra, khó có thể “định hướng” cho gia đình đình phát triển lành mạnh nếu xã hội không phát triển lành mạnh. Mọi quan hệ xã hội đều phản chiếu trong quan hệ gia đình. Một người cha tham nhũng, lạm quyền, cơ hội liệu có thể dạy con mình sống trong sạch, trung thực, đàng hoàng? Nếu xã hội không thay đổi theo hướng tốt đẹp hơn thì mọi “định hướng” cho gia đình hay cá nhân đều vô nghĩa.

 Trong nhiều năm qua, hệ thống giá trị trong hôn nhân, gia đình Việt Nam có nhiều thay đổi. Cùng với đó là sự xuất hiện của nhiều yếu tố mới được nhiều người quan tâm như hôn nhân đồng tính, quan hệ tình dục trước hôn nhân, giáo dục sức khỏe sinh sản… Để tìm hiểu rõ hơn về những thay đổi này và những quan niệm mới về hệ giá trị hôn nhân và gia đình, VHNA đã có buổi trao đổi với TS Khuất Thu Hồng, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển Xã hội (ISDS), một chuyên gia trong lĩnh vực nghiên cứu về hôn nhân, gia đình, tình dục và sức khỏe sinh sản.

.

Ảnh bà Khuất Thu Hồng. Nguồn: Trên mạng


Phóng viên (PV):Trong nhiều năm qua, hệ giá trị trong gia đình Việt Nam có nhiều thay đổi. Từ các gia đình ba bốn thế hệ cùng sinh sống tách ra thành gia đình hạt nhân là chủ yếu. Cùng với nó sự thay đổi vị thế của các thành viên và nhiều giá trị cốt lõi trong gia đình. Bên cạnh các giá trị truyền thống của gia đình Việt Nam thì có thêm sự xuất hiện nhiều giá trị gia đình phương Tây. Là một chuyên gia trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, bà nghĩ thế nào về vấn đề này?



TS Khuất Thu Hồng (KTH):Mấy thập kỷ gần đây đã chứng kiến nhiều thay đổi của gia đình Việt Nam. Tuy nhiên, tôi cho rằng những thay đổi đó không phải là do ảnh hưởng của văn hoá phương Tây mà chủ yếu xuất phát từ những thay đổi kinh tế-xã hội và điều kiện sống ở Việt Nam. Ví dụ, việc phần lớn các gia đình lựa chọn mô hình hạt nhân với một hoặc hai thế hệ hoàn toàn không phải là ảnh hưởng của phương Tây. Mô hình tam, tứ đại đồng đường vốn luôn luôn chỉ chiếm một phần nhỏ trong lịch sử.

Trong nhiều thế kỷ qua, gia đình hạt nhân vẫn luôn luôn là mô hình phổ biến nhất, thường chiếm trên dưới 70% tổng số hộ trong cả nước[1]. Đại đa số các gia đình Việt Nam lựa chọn sống trong gia đình hạt nhân và sống gần cha mẹ già. Sở dĩ mô hình này luôn chiếm ưu thế vì nó phù hợp với điều kiện sống và lối sống của người Việt Nam. Thế hệ các cha mẹ già thay vì sống chung cùng nhà với các con cũng ngày càng ưa thích sống độc lập và duy trì mối quan hệ gần gũi với con cái. Vì vậy, việc cho rằng vì ảnh hưởng của phương Tây mà mô hình gia đình nhiều thế hệ như một nét văn hoá truyền thống đang bị mất đi là không có cơ sở.

Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình ngày càng bình đẳng hơn, nhất là giữa vợ và chồng. Sự thay đổi này cũng không phải do phương Tây mang lại mà là do cuộc sống thực tế và nỗ lực của phụ nữ trong việc tham gia lao động có thu nhập và nâng cao trình độ học vấn. Tỉ lệ biết chữ cũng như tỉ lệ có bằng cấp cao của phụ nữ không hề thua kém nam giới. Những thay đổi này cải thiện vị trí của phụ nữ trong gia đình, khiến cho tiếng nói của họ cũng ngày càng được tôn trọng hơn. Quan hệ cha mẹ-con cái cũng ngày càng dân chủ hơn vì các thế hệ càng về sau càng hiểu biết hơn do có điều kiện học hành và tiếp cận tri thức nhiều hơn. Vì thế con cái ngày càng chủ động hơn trong những quyết định hệ trọng liên quan đến bản thân mình như nghề nghiệp, việc làm và hôn nhân hay cách sống.

Tôi không coi gia đình là một thực thể thụ động bị áp đặt bởi các giá trị bên ngoài và phải tiếp nhận một cách ép buộc. Ngược lại, tôi thấy rằng gia đình Việt Nam chủ động thay đổi để phù hợp với những biến đổi kinh tế xã hội và văn hoá trong quá trình phát triển của đất nước. Tôi không gọi đó là các giá trị của phương Tây vì chúng không phải là độc quyền của gia đình phương Tây mà là những thay đổi tiến bộ, tất yếu, và không thể cưỡng lại của nhân loại trong quá trình phát triển. Hoặc cho dù chúng ta có tiếp nhận những giá trị đó từ phương Tây chăng nữa thì đó cũng là sự tiếp nhận tích cực và sáng suốt trong quá trình hội nhập với thế giới. Điều tôi muốn nói thêm là quan hệ bình đẳng và dân chủ trong gia đình Việt Nam nếu được coi là ảnh hưởng của phương Tây thì còn xa mới giống như phương Tây nhưng sự cải thiện là có thật.

PV:Theo bà, gia đình Việt Nam sẽ đi theo những mô hình nào? Nguyên nhân nào dẫn đến sự thay đổi trong hệ giá trị của gia đình Việt Nam? Có cần phải bảo tồn các giá trị gia đình truyền thống hay cần có một sự thay đổi về hệ giá trị văn hóa trong gia đình Việt Nam?

KTH:Tôi cho rằng gia đình hạt nhân sẽ vẫn tiếp tục là mô hình chủ đạo và sẽ ngày càng phổ biến hơn nữa, nhất là khi dịch vụ xã hội chăm sóc người cao tuổi được cải thiện tốt hơn. Tuy nhiên, khác với gia đình phương Tây, các thế hệ con cái ở Việt Nam sẽ vẫn tiếp tục duy trì cách sống gần cha mẹ già để có thể thường xuyên thăm hỏi, giúp đỡ. Tôi cho rằng đó là lựa chọn tối ưu và mang bản sắc Việt Nam. Quy mô gia đình phần lớn sẽ dao động xung quanh hai đến bốn người với một cặp vợ chồng và một đến hai đứa con.

Tuy nhiên, số gia đình độc thân và gia đình chỉ có cha hoặc mẹ sống với con, sẽ tăng lên vì số người không kết hôn và số người ly hôn sẽ tăng, dù chậm hơn nhiều so với các nước khác. Quan hệ trong gia đình sẽ ngày càng dân chủ và bình đẳng hơn. Phụ nữ sẽ ngày càng có cơ hội nâng cao thu nhập, thành công trong sự nghiệp và tham gia các hoạt động xã hội vì nam giới sẽ ngày càng chia sẻ công việc gia đình nhiều hơn. Con cái ngày càng tự lập và chủ động trong cuộc sống vì cha mẹ ngày càng tôn trọng quyền tự quyết của con hơn.

Sẽ không phải là tôi hay bất kỳ ai có thể nói rằng gia đình Việt Nam cần thay đổi hay giữ nguyên. Những thay đổi trong các giá trị gia đình, như đã nói ở trên, sẽ chủ yếu là xuất phát từ những thay đổi kinh tế xã hội và văn hoá vĩ mô. Sự tiếp cận với các nền văn hoá khác trong quá trình hội nhập ngày càng mạnh mẽ với thế giới có thể sẽ thúc đẩy sự thay đổi đó diễn ra nhanh hơn.

Nếu ai đó coi các giá trị gia đình truyền thống là tam tứ đại đồng đường, là tôn ti trật tự theo kiểu “phu xướng, phụ tuỳ” và “quyền huynh thế phụ” thì họ sẽ thất vọng trước những thay đổi nói trên. Họ có thể nuối tiếc các giá trị cũ và hoang mang trước sự xuất hiện của các giá trị mới. Họ sẽ cho rằng quan hệ gia đình mới là lỏng lẻo. Trước sự cải thiện vị thế của phụ nữ và thế hệ trẻ họ sẽ cảm thấy quyền lực gia trưởng bị thách thức. Mong muốn duy trì một gia đình truyền thống như vậy là lỗi thời và không khả thi.

Nhưng các giá trị truyền thống khác của gia đình Việt Nam như con cháu nhớ đến cội nguồn, biết ơn tổ tiên, gắn bó với gia tộc, con cái hiếu thảo với cha mẹ, cha mẹ có trách nhiệm với con cái, anh chị em có trách nhiệm với nhau … là những giá trị quý báu cần được gìn giữ và phát huy.

PV:Nếu phải thay đổi, thì theo bà, cần định hướng sự thay đổi đó như thế nào?

KTH:Như tôi đã nói ở trên, những thay đổi của gia đình gắn liền với những thay đổi vĩ mô – theo kiểu con gà – quả trứng. Vì vậy khó có thể dùng từ “định hướng”. Lịch sử đã chứng minh sự thất bại của cách làm duy ý chí. Nhưng những chính sách phát triển kinh tế xã hội và văn hoá sáng suốt có thể tạo điều kiện cho gia đình phát triển mà tránh được những cú sốc hoặc tránh được khủng hoảng. Ví dụ các chính sách về phúc lợi xã hội, an sinh xã hội trong việc chăm sóc người cao tuổi và trẻ em sẽ giúp giảm bớt gánh nặng cho phụ nữ. Sự cải thiện chất lượng các dịch vụ xã hội như y tế, giáo dục, giao thông công cộng … sẽ thực sự tác động tích cực đến mỗi gia đình, nâng cao chất lượng cuộc sống của tất cả các thành viên và giảm bớt sự căng thẳng cho những lao động chính của gia đình.

Các chính sách văn hoá-xã hội khác về nhà ở, về các dịch vụ văn hoá, vui chơi, giải trí, truyền thông đại chúng … cũng có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc hỗ trợ gia đình giáo dục nhân cách và lối sống cho thế hệ trẻ. Thực ra, khó có thể “định hướng” cho gia đình đình phát triển lành mạnh nếu xã hội không phát triển lành mạnh.

Mọi quan hệ xã hội đều phản chiếu trong quan hệ gia đình. Một người cha tham nhũng, lạm quyền, cơ hội liệu có thể dạy con mình sống trong sạch, trung thực, đàng hoàng? Liệu những đứa trẻ có học được cách trân trọng những giá trị của lao động chăm chỉ nếu hàng ngày nhìn thấy trên tivi hay báo chí tràn ngập các quảng cáo hàng hiệu và các bài báo lăng xê các ngôi sao với các hình ảnh của lối sống xa hoa, phù phiếm? Nếu xã hội không thay đổi theo hướng tốt đẹp hơn thì mọi “định hướng” cho gia đình hay cá nhân đều vô nghĩa.

PV:Quan hệ hôn nhân ở Việt Nam đang có nhiều thay đổi. Tại sao vậy, thưa bà?

KTH:Ở đây tôi muốn nói đến giá trị hay ý nghĩa của hôn nhân ở Việt Nam. Với đại đa số người Việt Nam, hôn nhân và gia đình vẫn là giá trị quan trọng nhưng sự gia tăng dù đang còn chậm của tỉ lệ ly hôn, ly thân, cùng với sự gia tăng của con số những người sống lựa chọn cuộc sống độc thân cho thấy với một bộ phận người Việt Nam, chúng đã không còn là những giá trị hàng đầu. Sự nghiệp và tự do đang trở thành những giá trị quan trọng nhất đối với một số người.

Theo tôi, tỉ lệ những người lựa chọn sống độc thân cũng như tỉ lệ ly hôn sẽ gia tăng theo thời gian, tương tự những gì đã và đang diễn ra ở các nước có nhiều điểm tương đồng về văn hoá trong khu vực như Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản …

Nguyên nhân chính của hiện tượng này có lẽ là sự độc lập về kinh tế của cá nhân và cùng với nó là quan hệ bình đẳng, dân chủ trong gia đình. Trong xã hội hiện đại, hôn nhân sẽ không còn là lợi ích hay trách nhiệm của đại gia đình mà cá nhân mới có quyền định đoạt có kết hôn hay không và nếu có thì kết hôn khi nào. Hơn nữa cá nhân cũng ngày càng có ý thức hơn về vai trò và trách nhiệm của mình với người khác.

Khi mức sống tăng lên, chất lượng cuộc sống được cải thiện thì yêu cầu của con người về điều kiện sống như nhà ở, tiện nghi sinh hoạt, chất lượng nuôi dạy trẻ em, … sẽ ngày càng cao. Không phải ai cũng có thể đáp ứng các nhu cầu đó nên một số người tự thấy không có khả năng đảm bảo một cuộc sống gia đình theo tiêu chuẩn họ mong muốn thì sẽ trì hoãn hôn nhân, thậm chí từ chối hôn nhân. Sức ép từ cuộc sống hiện đại (công việc căng thẳng, không ổn định, di chuyển nhiều …) cũng là một yếu tố khiến hôn nhân trở nên khó khăn với một số người. Mặt khác, những cơ hội để khám phá và phát huy năng lực cá nhân cũng ngày càng mở rộng dẫn đến việc một số người mải mê theo đuổi sự nghiệp mà gác lại hoặc bỏ lỡ cơ hội kết hôn.

Ly hôn cũng sẽ gia tăng vì cá nhân chứ không còn là gia đình quyết định việc một cặp vợ chồng có mâu thuẫn có nên tiếp tục chung sống hay không. Sự độc lập về kinh tế cũng là một lý do khiến những người không hài lòng với cuộc hôn nhân của mình đi đến quyết định ly hôn. Mặt khác, sự cởi mở của xã hội trong cách nhìn nhận về ly hôn cũng giúp cho những người đó mạnh dạn hơn trong việc ra quyết định.

PV:Theo bà, có những yếu tố mới xuất hiện trong hôn nhân. Đó những yếu tố nào vậy? Nguyên nhân nào tạo ra những yếu tố mới này?
KTH:Ngoài những yếu tố đã đề cập ở trên như là sự thay đổi trong vị thế của các thành viên gia đình và mối quan hệ giữa họ theo xu hướng bình đẳng và dân chủ hơn thì có hai hiện tượng mới thú vị:

Thứ nhất, hiện tượng làm mẹ đơn thân đã xuất hiện ở Việt Nam trong nhóm những người không có điều kiện kết hôn và cả trong nhóm có điều kiện nhưng không lựa chọn hôn nhân. Với cả hai nhóm này, hôn nhân chưa hẳn đã giúp khẳng định nữ tính cũng như bảo đảm chỗ dựa cho tương lai, nhưng đứa con thì có. Điều thú vị là xã hội dường như không sốc trước hiện tượng này và trong một bộ phận nhất định còn thông cảm và ủng hộ những phụ nữ đó.

Thứ hai, việc sống chung của những cặp đồng tính, dù chưa phổ biến nhưng có xu hướng tăng, nhất là sau khi Luật Hôn nhân và Gia đình sửa đổi 2104 xóa bỏ điều 10 cấm hôn nhân giữa những người cùng giới tính.

PV:Những yếu tố mới này xuất hiện trong hôn nhân đã ảnh hưởng như thế nào đến văn hóa truyền thống của người Việt?
KTH:Lựa chọn làm mẹ đơn thân và việc sống chung của các cặp đồng tính cũng gây ra quan ngại trong một số người. Có người thì lo lắng cho tương lai của những đứa trẻ lớn lên trong gia đình thiếu vắng người cha. Một số người khác thì băn khoăn rằng hôn nhân đồng tính sẽ làm ảnh hưởn giống nòi … Tuy nhiên, những lo lắng của họ hoàn toàn không thuyết phục. Trước hết, tỉ lệ những người lựa chọn làm mẹ đơn thân cũng như hôn nhân đồng tính rất nhỏ, không thể ảnh hưởng đến sự phát triển quy mô và chất lượng dân số Việt Nam. Nếu phải lựa chọn thì rõ ràng việc những đứa trẻ lớn lên chỉ với những người mẹ quan tâm chăm sóc đầy đủ còn hơn những đứa trẻ sống trong gia đình có cả cha mẹ nhưng người cha lại là gương xấu.

Tôi cho rằng sự chấp nhận hai xu hướng này không làm phương hại gì đến văn hoá truyền thống, trái lại, nó chỉ càng khẳng định tính cởi mở và dễ thích nghi của văn hoá Việt nam mà thôi.

PV:Vừa rồi dư luận nói nhiều đến hôn nhân đồng tính. Nhiều người đã đổ ra đường để kêu gọi người khác ủng hộ hôn nhân đồng tính và đề nghị nhà nước công nhận hôn nhân đồng tính. Vậy, bà quan niệm thế nào về hôn nhân đồng tính? Đó có phải là đi ngược với văn hóa truyền thống hay không? Chúng ta có nên chấp nhận hôn nhân đồng tính hay không? Tại sao?

KTH:Tôi ủng hộ hôn nhân đồng tính và là một trong những người tham gia vào các diễn đàn gửi khuyến nghị lên quốc hội đề nghị chấp nhận hôn nhân đồng tính. Tôi giành khá nhiều thời gian để tìm hiểu về hôn nhân đồng tính, lịch sử, diễn biến cũng như các vấn đề liên quan, tôi thấy hôn nhân đồng tính không hề gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của bất kỳ xã hội nào. Ngược lại, chấp nhận hôn nhân đồng tính cũng có nghĩa là tôn trọng quyền bình đẳng của người đồng tính và mang lại hạnh phúc cho họ. Một xã hội nhân đạo và văn minh phải đảm bảo cho mọi công dân của mình được bình đẳng với nhau trong mọi khía cạnh.

PV:Quan hệ tình dục là một vấn đề quan trọng trong đời sống hôn nhân và gia đình. Trước đây, vấn đề này được đưa vào quy phạm đạo đức để đánh giá con người, đặc biệt là người phụ nữ. Nó còn được xem là một chuyện tế nhị, nhạy cảm, không nên nói với người khác. Và người ta tránh đi vấn đề tình dục khi nói đến hôn nhân, gia đình. Theo bà, tình dục có ý nghĩa như thế nào đối với đời sống hôn nhân và gia đình? Và nhận thức về quan hệ tình dục trong đời sống gia đình trong thời gian qua đã thay đổi như thế nào?
KTH:Tình dục là quan hệ trọng tâm của hôn nhân, không chỉ vì nó liên quan đến chức năng tái sinh sản của gia đình mà nó là một trong những lý do hàng đầu khiến cho một cặp đi đến cam kết chung sống lâu dài với nhau. Vì hôn nhân ngày càng là vấn đề của cá nhân nên sự hoà hợp về tình dục cũng ngày càng trở nên quan trọng hơn đối với sự khởi đầu của hôn nhân và sự bền vững của nó. Các cá nhân ngày càng nhận thức được ý nghĩa của nó nên kiến thức về tình dục ngày nay cũng được coi trọng hơn trước. Thanh niên chuẩn bị bước vào hôn nhân cũng như các cặp đang sống trong hôn nhân cũng chịu khó tìm hiểu thông tin về lĩnh vực này hơn. Có thể nói đời sống tình dục của các cặp vợ chồng ngày nay phong phú hơn và cũng phức tạp hơn trước đây. Cũng vì thế mà không hiếm người tuyên bố lý do khiến cuộc hôn nhân của họ tan vỡ là không có sự hoà hợp về tình dục trong đời sống vợ chồng.

PV:Quan hệ tình dục trước hôn nhân là một chuyện trước đây rất phê phán, bị xem là vi phạm đạo đức. Người phụ nữ nếu vi phạm vào điều này có thể bị cộng đồng cạo trọc, bôi vôi, đuổi khỏi làng. Nói chung là đề cao trinh tiết của người phụ nữ. Bà quan niệm thế nào về trinh tiết và quan hệ tình dục trước hôn nhân?
KTH:Mặc dù chưa có số liệu chính xác, hầu hết mọi người đều thừa nhận rằng quan hệ tình dục trước hôn nhân hiện nay phổ biến hơn trước đây. Ngày nay, việc các cặp đang trong thời kỳ yêu đương có quan hệ tình dục không bị đánh giá nặng nề như ngày xưa. Nếu họ đi đến hôn nhân thì chuyện “ăn cơm trước kẻng” hoàn toàn được bỏ qua. Mọi người cũng ít soi mói hơn, ít kiểm soát hơn đối với những cặp đang hẹn hò. Rõ ràng là trong thực tế, thái độ xã hội đối với quan hệ tình dục trước hôn nhân ngày càng cởi mở hơn. Cho dù trinh tiết vẫn được đề cao như một giá trị, nhưng tôi cho rằng chủ yếu là trong hoài niệm mà thôi. Cho dù một số nam giới vẫn bị ám ảnh về trinh tiết nhưng họ cũng thừa hiểu rằng vì việc ăn cơm trước kẻng là phổ biến và bản thân họ cũng ăn cơm trước kẻng nên việc đòi hỏi người vợ còn trinh là một điều bất hợp lý và không công bằng. Những phẩm chất khác của người vợ người chồng tương lai mới là những điều họ quan tâm khi đi đến hôn nhân. Tôi cho rằng sự nghiêm túc và chân thành trong tình yêu và tình dục mới là điều quan trọng nhất trong mối quan hệ.

PV:Tỷ lệ quan hệ tình dục trước hôn nhân ở Việt Nam đang ngày càng tăng lên. Và đối với một bộ phận không nhỏ ở giới trẻ, vấn đề này không còn là vi phạm đạo đức. Vậy nguyên nhân nào dẫn đến vấn đề này? Đây là một biểu hiện bình thường trong sự thay đổi quan niệm về tình dục hay là sự đi xuống về đạo đức?
KTH:Thực ra chưa có nghiên cứu nào chỉ ra được tỉ lệ QHTD trước hôn nhân tăng lên bao nhiêu phần trăm vì trước đây chưa có nghiên cứu nào về vấn đề này để có thể so sánh. Tuy nhiên, ai cũng biết là tỉ lệ QHTD trước hôn nhân tăng lên. Giới trẻ ngày nay coi tình dục là một phần không thể thiếu của tình yêu. Tôi cho rằng đó là điều bình thường không thể tránh khỏi trong bối cảnh xã hội ngày nay. Tự do cá nhân, sự cởi mở trong thái độ xã hội, sự độc lập về kinh tế của phụ nữ … chính là những lý do dẫn đến sự thay đổi này. Tôi không coi đó là biểu hiện đi xuống của đạo đức nếu đó là tình dục đồng thuận, có trách nhiệm và an toàn. Hầu hết những thanh niên nam nữ có quan hệ tình dục trước hôn nhân nhưng vẫn là các công dân tốt, sau này họ vẫn trở thành những ông bố bà mẹ tốt, biết nuôi dạy con cái khoẻ mạnh, giỏi giang, thậm chí còn tốt hơn những thế hệ trước. Còn bất kỳ tình dục nào, trong hay trước hôn nhân nhưng không đồng thuận, ép buộc và bạo lực mới thì đó chính là thiếu đạo đức. Nói như vậy không phải là khuyến khích tình dục trước hôn nhân mà để tránh sự khiên cưỡng, giáo điều và lỗi thời trong cách nhìn nhận những thay đổi xã hội.

PV:Một vấn đề khá nhức nhối và cũng liên quan đến đời sống hôn nhân, gia đình, sức khỏe tình dục là vấn đề mại dâm. Nhiều nước phát triển cao cũng phải chấp nhận các lao động tình dục và quản lý qua các “phố đèn đỏ”. Ở Việt Nam chưa công nhận các “phố đèn đỏ” nhưng nạn mại dâm thì vẫn phổ biến ở nhiều nơi, nhất là các đô thị lớn. Vậy theo bà, chúng ta có nên công nhận “phố đèn đỏ” hay không? Và nếu công nhận thì lợi và hại của nó như thế nào?
KTH:Mại dâm tồn tại song song cùng lịch sử nhân loại. Kể từ khi gia đình xuất hiện thì khi đó mại dâm cũng ra đời. Mại dâm chủ yếu là để phục vụ những người đàn ông có nhu cầu tình dục nhưng không có điều kiện để thoả mãn vì họ chưa có vợ hoặc không có bạn tình, hoặc goá vợ … Tuy nhiên, không ít những người đàn ông không thuộc các nhóm trên cũng tìm đến mại dâm. Đó cũng là một trong những lý do khiến mại dâm phát triển mạnh ở nhiều nơi khiến việc kiểm soát mại dâm trở nên khó khăn. Theo quan điểm của tôi nên thừa nhận mại dâm để quản lý nó tốt hơn. Tuy nhiên, với tình hình thực thi luật pháp rất kém ở Việt Nam, việc quy hoạch dịch vụ này vào những khu “đèn đỏ” chưa hẳn đã có thể giúp kiểm soát mại dâm như mong muốn. Tham nhũng và hối lộ là hai yếu tố khiến việc này khó thành công.

PV:Tôi không đồng tình với việc bêu riếu phụ nữ bán dâm trên truyền thông trong khi người mua dâm thì gần như vô can. Quan điểm của bà thì sao?

KTH:Tôi cũng không đồng tính với việc làm đó. Sẽ không có ai bán được “dâm” nếu không có những người muốn mua nó. Nếu coi mại dâm là sai trái thì cả người bán kẻ mua đều phải bị xử lý như nhau. Việc công khai tên tuổi hình ảnh của người bán dâm và giấu nhẹm nhân thân của người mua dâm chỉ thể hiện thái độ đạo đức giả mà thôi. Và thái độ đối với mại dâm như vậy chỉ là nửa vời và thể hiện sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ.

PV:Trước nhiều sự thay đổi về đời sống hôn nhân, gia đình và quan niệm về đời sống tình dục, người ta nói nhiều về việc giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản. Nhiều người còn kiến nghị về việc đưa giáo dục giới tính và sức khẻo sinh sản vào trướng học phổ thông. Vậy bà suy nghĩ thế nào về vấn đề này? Và biện pháp để thực hiện nó thế nào cho hợp lý?
KTH:Đã từ nhiều năm nay tôi kêu gọi đưa giáo dục giới tính và sức khoẻ tình dục/sinh sản vào nhà trường vì những kiến thức đó giúp cho con em của chúng ta hành trang để bước vào cuộc sống của người lớn một cách an toàn và lành mạnh. Những gì đã làm hiện nay rất hời hợt và nửa vời, chỉ khiến cho trẻ càng thấy tù mù và tò mò hơn mà thôi. Biện pháp ư: nói thẳng, nói thật với thái độ cởi mở và nghiêm túc, đến nơi đến chốn. Chẳng thiếu gì tài liệu và kinh nghiệm để chúng ta tham khảo. Cũng không thiếu người tâm huyết. Các bậc phụ huynh cũng rất thiết tha. Chỉ cần cánh cửa Bộ Giáo dục mở ra mà thôi.

PV:Là một nhà nghiên cứu về vấn đề hôn nhân, gia đình và sức khỏe tình dục, bà có những ý kiến gì đóng góp vào hệ thống quản lý trong việc xây dựng, phát triển văn hóa gia đình cũng như tạo nên sự lành mạnh về hôn nhân, tình dục trong cuộc sống hiện nay?
KTH:Có lẽ điều đầu tiên cần làm là đừng duy ý chí, đừng hô khẩu hiệu suông. Các nhà chính sách và quản lý hãy sử dụng các kết quả nghiên cứu thực tế khi xây dựng chính sách. Khi hô hào giữ gìn và phát huy truyền thống, hãy thận trọng để không vô tình củng cố và nuôi dưỡng hệ thống gia trưởng trong phát động phong trào gìn giữ nề nếp gia phong. Khi giáo dục con cháu thảo hiền phải lưu ý để đừng cổ vũ tư tưởng quyền huynh thế phụ làm thui chột năng lực cá nhân. Không nên nhấn mạnh đến “thiên chức” của người phụ nữ để trói chặt họ vào gia đình, cản trở sự tiến bộ của một nửa nhân loại. Nói tóm lại, đừng đối lập giá trị phương Tây hay phương Đông mà phải chủ động tiếp nhận những giá trị tiến bộ của nhân loại.

PV: Xin trân trọng cảm ơn bà!

Bùi Hào & Phan Thắng thực hiện



[1] Vào năm 2014, gia đình hạt nhân chiếm tới 65% trong tổng số 24.265 nghìn hộ gia đình trong cả nước.

Thứ Bảy, 27 tháng 6, 2015

Huyền thoai một chiều mưa


Mưa, ở thì tương lai







bất chợt mùa rơi điệu tiết
hoang mang ngẫu tượng
choáng ngợp nửa chặng đường
Thu đứt cuống
đánh rơi khúc tháng năm chưa dứt nhịp
cành không
treo những giọt mưa

tôi nằm nghe phố chạy
không một lời kêu
khói trắng vòng mây thấp
những cột số đánh dấu thời khắc xiêu lạc
trần vách ém thanh âm im lặng chờ tiếng nổ
sẽ là vết thương nào
mới lại

không bước đi
cùng thời gian của dòng sông / tôi chảy
trong hoài niệm chiếc cầu tình gỗ mục
nằm ngoài chuyển động

bây giờ
là mùa hư vô cũ
gõ trùng nhịp phách
nhờ gió mang đi
dưới tan hoang hồi ức là cánh diều
rách nát đường bay giấc phố mây đục
gối gập ghềnh mộng mị
sẽ là lần hẹn không nơi chốn
giữa mênh mông

sẽ không về lại nữa
mây trời thu dặm sinh ly
tôi tiễn mình qua mấy chặng phù kiều
bài tử ca kẹt giữa khoé cười mắt trắng
mùi thời gian
mãi còn
những chuyến đi hư ảo thì tương lai
khói sóng mờ triền dốc chiêm bao
mưa
bất chợt

Uyên Nguyên

Cái thấy từ bên trong








 Cách ta nhìn cuộc sống và người khác là thước đo bên trong lòng ta cạn, hẹp, sâu, dày ra sao.

1. Chuyện xưa kể rằng, một hôm, Tô Đông Pha(*) đến chùa Kim Sơn viếng thăm Thiền sư Phật Ấn. Đàm đạo cả ngày, bấy giờ Tô Đông Pha mới hỏi Thiền sư Phật Ấn rằng: - Bạch Đại sư! Ngài ngồi đây nhìn thấy tôi giống cái gì? Thiền sư Phật Ấn trả lời một cách trang nghiêm và trân trọng: - Xem ra giống một vị Phật!

Trong tâm của Tô Đông Pha nghe vậy hớn hở vui mừng. Thiền sư Phật Ấn mới hỏi lại Tô Đông Pha: - Ông thấy ta ra sao? Bấy giờ Tô Đông Pha nhìn thấy Thiền sư Phật Ấn mập tròn, bèn đáp: - Nhưng mà tôi nhìn ngài giống một đống phân trâu.

Tô Đông Pha sung sướng tươi cười cứ nghĩ là mình đã chiến thắng. Khi đó, Tô Đông Pha mới hỏi Thiền sư Phật Ấn rằng: - Ngài tôn tôi là Phật, nhưng tôi nói ngài là một đống phân, ngài không giận sao?

Thiền sư Phật Ấn trả lời rằng: - Tôi nên vui mừng mới đúng làm sao mà nổi giận được.

Tô Đông Pha hỏi tại sao? Thiền sư Phật Ấn trả lời: - Bởi vì mình là Phật nên nhìn người khác là Phật, chính mình là đống phân thì nhìn người khác là đống phân mà thôi!

2. Chuyện xưa, nhưng ai đọc và bao giờ đọc, chịu khó suy ngẫm cũng đều học được bài hay. Thực tế cho thấy, ta thường ngó bên ngoài, thích soi mói, chỉ lỗi người khác hơn là kiểm điểm tự thân. Vì vậy, ta sẽ ngày càng xấu đi thay vì sẽ tốt lên vì bản thân không tự sửa mà đem mong cầu người khác sửa để rồi khổ theo cái chưa tốt của họ (theo mình).

Ta dễ thấy cái dở của người, đó là một tập khí. Vì trong ta dở. Dở ở chỗ thực tập chưa có hay bốn tâm: từ, bi, hỷ, xả. Nếu thiệt thương, thiệt hoan hỷ... thì ta nhìn cuộc sống tươi hơn, dẫu nó biểu hiện thế nào thì lòng ta cũng luôn có sẵn bốn chữ “tư duy tích cực” để nhìn nhận, sống cùng thực tại một cách an vui, an ổn nhất có thể. Và, dẫu người ta có xấu xí cỡ nào thì xả là việc của mình cần nhớ để thăng bằng nội tâm.

Thực sự, ở một ai đó, ở cuộc sống và cõi Ta-bà mình đang sống không đến nỗi nào, nếu ta dùng “mắt thương nhìn cuộc đời”. Tất nhiên, đó là đôi mắt đã được rèn trui từ sự tĩnh lặng, quán chiếu sâu sắc theo cách Phật dạy: nhân quả, vô thường, vô ngã... Trên công thức “Tứ diệu đế”, thấy rõ “Bát Chánh đạo” là con đường đưa tới giác ngộ, giải thoát thì ta bồi tô cho tự thân thêm vững chãi.

Như một người học trò hay thuộc làu công thức và các phương pháp đi tới bài giải thì đáp số cho một bài toán (dẫu khó) mà mình gặp phải trong cuộc đời cũng sẽ không thành vấn đề hoặc không là quá khó. Khi đó, tham-sân-si đã được ta kiểm soát ngay từ khi khởi lên những ý niệm nhỏ nhiệm thì việc chuyển hóa chắc chắn dễ dàng và không cần phải kìm nén gì cả thì ta cũng nói lời ái ngữ, làm điều từ bi. Trong tâm ta tự toát ra cách nghĩ, lời nói, ứng xử như thế nên thân ta toát ra năng lượng bình an mà ai cũng có thể cảm nhận được.

3. Cách ta nhìn cuộc sống và người khác là thước đo bên trong lòng ta cạn, hẹp, sâu, dày ra sao. Trong dân gian người ta thường nói “lấy bụng ta suy ra bụng người” là vì vậy. Do đó, dẫu ta có là người khéo diễn cỡ nào thì việc ứng xử với cuộc sống sẽ khiến “cái kim trong bọc có ngày sẽ lòi ra”. Tức là, khi đó “tướng từ tâm sanh”, mọi người sẽ thấy được tâm hồn ta qua cách ta nói, ta làm.

Đương nhiên, cách ta nói, ta làm sẽ khiến cho cách ta nghĩ được kiện toàn theo hướng tốt lên hay sẽ càng trở nên ấu trĩ - đó là sự tương tức, nương nhau mà biểu hiện của ba nghiệp. Vì thế, không phải tự nhiên nhà thiền khuyên dùng lời ái ngữ, cử chỉ nhẹ nhàng trong mọi trường hợp, mà bởi chính việc giữ thân (oai nghi) cũng là phương tiện giúp tâm trở nên ngăn nắp dần và ngược lại, theo một quy luật phát triển của vòng xoắn ốc.

Nhớ câu chuyện của Tô Đông Pha và Thiền sư Phật Ấn để nhớ rằng, đừng tưởng khi ta chê bai, hạ bệ người khác thì người khác sẽ xấu đi. Đừng quên, đó là thước đo lòng mình và nếu cái nhìn và đánh giá của ta là một sự cố ý trù dập thì chẳng khác gì hốt cát mà ném lên trời, bụi bay vào mắt cay xè, ta là người lãnh đủ mà thôi...


Lưu Đình Long

____________________


(*) Tô Đông Pha là một nhà thơ lớn vào thời Tống ở Trung Quốc, được mệnh danh là Bát đại Đường Tống; có thời ông làm quan ở Thiểm Tây và Hàng Châu. Ông cũng rất hâm mộ đạo Phật và tự xem mình như một Phật tử. Ông và Thiền sư Phật Ấn là đôi bạn thân. Hai người thường xuyên đàm đạo về Phật giáo và thơ phú.

Tình Yêu Là Đem Không Gian Đổi Lấy Thời Gian




Em yêu dấu:

Anh sẽ kiến giải câu nói thời danh của Marcel Proust để qua đó em có thể cầm nắm được trái tim nóng bỏng của anh trên tay. Marcel Proust nói rằng “Tình yêu là đem không gian đổi lấy thời gian”.

1) Không gian là cái gì hữu hình, thời gian là cái gì vô hình. Marcel Proust đã đánh đổi cái hữu hình để lấy cái vô hình hay cái Khôngcũng thế. Bởi thể tính của Không vốn trừu tượng cho nên Proust tha hồ bay nhảy chụp bắt. Proust có thể tự do xây lâu đài hạnh phúc của mình trong trí tưởng. Proust có thể bay bổng vào cõi thiên đàng để rong chơi trong khu vườn hạnh phúc. Proust có thể sục sạo vào tận chốn địa ngục để tận hưởng những cảm xúc nóng bỏng đang bần bật run trong người chàng.

Proust thật ngu dại mà cũng thật khôn ngoan. Proust có thể thả lỏng tâm hồn mình như chú bé đang mơ màng dõi nhìn cánh diều bay bổng ở không trung. Proust nào khác đứa bé đang chớp mắt mơ màng ngủ trong nôi mà nó tưởng như đang nằm trong bàn tay âu yếm của bà mẹ. Proust là con quỷ dữ mang trái tim của một thiên thần. Proust là một chàng đãng tử đang ngồi tụng Kinh Bát Nhã. Proust là một người điên, một thiên thần biết yêu.

2) Không gian là cái gì nhiễu loạn, thời gian là cái gì âm thầm. Nói một năm, một tháng, một niên đại vui ư? Thời gian nó lặng lẽ qua đi nào có biết gì? Hôm nay anh vui bên em trong khoảnh khắc và thời gian đó được ước tính một ngày. Nhưng thực ra chỉ có con phố ấy, khu vườn ấy, con đường ấy chợt bừng lên trong giây lát và người ta đã tạm ghi nhận dấu ấn ấy bằng chiếc đồng hồ hay chiếc lịch trơ trẽn, khôi hài.

Em yêu dấu:

Sở dĩ con người có ý thức về thời gian là vì có ngoại cảnh. Nhìn tòa lâu đài mới ngày nào nay đã trở thành hoang phế. Nhìn mái đầu xanh nay đã bạc trắng. Nhìn trẻ con dần lớn lên. Bao nhiêu diễn tiến hình thành, hủy hoại xảy ra quanh mình cho nên con người mới ý thức về thời gian.

Vốn có ý thức về thời gian, con người lại muốn nhào lẫn không gian và thời gian làm một. Khi nó vui, nó thấy con phố ấy cũng vui. Khi nó buồn, nó thấy con phố ấy cũng buồn. Hôm nay anh vui bên em, bối cảnh ấy là thiên đường và thời gian ấy cũng thật tuyệt diệu.

Thế đấy, cả anh và em cũng đều muốn nhào lẫn không gian và thời gian làm một. Có thể nào xóa đi cái ảo tưởng sai lầm đó trong đầu óc con người không?

- Chỉ khi nào chúng ta không thấy cái gì Già – Chết, cái gì Sinh ra rồi Diệt mất, chẳng thấy cái gì Trước – Sau, chẳng thấy cái gì Hình Thành rồi Hủy Hoại – thì thời gian là cái gì? Nó chẳng phải là cái gì kéo dài từ vô thủy đến vô chung mà chỉ là cái chớp mắt hiện giờ.

- Khi không gian trộn lẫn với thời gian rồi thì còn đâu là thời gian nữa? Lúc ấy còn gì để mà nói nữa? Nó khẽ tựa đầu vào vai người đàn bà nó yêu dấu. Có một cái gì đó nhẹ nhàng như hương bay trong gió, tinh khiết như đóa hoa dược lan, sâu xa như vực thẳm, lớn tựa không trung. Không gian và vũ trụ quy vào đây. Chẳng còn ngày còn tháng. Chẳng còn anh còn em. Chỉ còn nhịp đập của trái tim. Thời gian đã quỳ xuống. Thần thánh cũng cúi đầu.

- Khi khônng gian đã hòa lẫn với thời gian thì thời gian biến mất. Lúc bấy giờ hiện tại cũng là quá khứ, cũng là vị lai vì ba thời đã nhập làm một. Do đó anh yêu em vào giờ phút này đây thì từ vô lượng kiếp trước anh đã yêu em và mãi mãi sau này anh vẫn yêu em. Do đó đem không gian đổi lấy thời gian là lời thề nguyền thắm thiết không thể mờ phai. Cũng như Proust, anh đã yêu em bằng trái tim bất hoại, trái tim bất diệt cũng thế.

3) Không gian là cái gì thay đổi, thời gian là cái gì bất biến. Cho dù trái đất này có gặp cơn đại hồng thủy đi nữa, cho dù trái đất này có xụp đổ tan tành thì thời gian nó vẫn còn đó. Thế cho nên tất cả những gì anh và em nhìn thấy trước mắt đây chỉ là những cái hữu hạn và sẽ bị con Quỷ Vô Thường lấy đi qua bốn giai đoạn Thành, Trụ, Hoại, Không. Chỉ có thời gian là tồn tại mãi. Vậy thì nếu như có một đấng sáng tạo giữa chúng ta thì đấng sáng tạo đó chính là Thời Gian vậy.

Em yêu dấu:

Proust đã quá khôn ngoan để đổi cái tạm thời lấy cái vĩnh cửu. Proust quá tham lam. Khi yêu, Proust muốn ôm cả vũ trụ vào trong tay. Proust là một người điên biết yêu mà trái tim đã hóa thạch bằng những cảm nghiệm tinh khôi nhất.

Đối với Proust anh khônng còn gì để nói nữa. Anh cũng nguyện như Proust để được yêu em bằng trái tim không tưởng, bằng niềm hoài vọng khốn cùng. Bởi vì nếu không phải như thế thì đó không phải là tình anh.. ..mà đó chỉ là sự toan tính, lừa gạt. Hay nói đúng hơn – một sự trao đổi.

Em yêu dấu:

Hãy đem không gian để đổi lấy tình này,
Hãy đem thời gian để ghi dấu tình này.






Marcel Proust (1871 – 1922) vừa là nhà văn vừa là bình luận gia Pháp nổi tiếng với tác phẩm À la recherche du temps perdue (Remembrance of Things Past: Tiếc Thương Thời Đã Qua)

Đào Văn Bình

CÁ NHẢY KHỎI LƯỚI MỚI HAY


Thích Đạt Ma Phổ Giác



Chuyện kể rằng có một ngư dân đi đánh cá. Ông thả lưới suốt buổi sáng mà không bắt được con nào, tức quá ông ta bao lưới xung quanh khúc sông rồi đập nước ầm ầm. Nhiều con cá hốt hoảng chạy loạn xạ nên bị dính vào lưới.

Có một con cá đang bơi thong thả thì gặp một bầy cá khác đang chạy hoảng loạn và kêu lớn rằng: “ Hãy cứu chúng tôi với, vì con người đang tìm cách bắt chúng tôi dưới nhiều hình thức”.

Con cá kia lại bảo: “Các bạn hãy bình tĩnh lặn sâu xuống đáy”. Nói xong cá kia liền thong thả trầm mình lặn sâu xuống đáy. Bầy cá bây giờ đã có chỗ trú ẩn an ổn nên lại hỏi: “Tại sao hồi nãy anh không chạy cuống lên như chúng tôi vậy?”

Con cá kia trả lời: “Khi có sự cố xãy ra con nào chạy trong hoảng loạn là sẽ bị mắc vào lưới. Chúng ta là những loài ở trong biển lúc nào cũng gặp sóng gió và biến cố do loài người gây ra, nếu không biết giữ bình tĩnh thì sẽ mắc lưới của họ.

Trong khi đó ông ngư dân kéo lưới lên, bắt được một số cá và bỏ hết chúng vô một cái lu lớn. Lúc này trong lu có hai con cá đang nói chuyện với nhau: “Mày biết không? Lúc nãy do mình hốt hoảng nên mới chạy loạn mà bị dính vào lưới, còn mấy con cá kia nó bình tĩnh nên thoát được.

Bây giờ chúng ta đã bị bắt rồi, đành phải chịu thôi, con kia mới hỏi bây giờ chị còn sợ không? Con này nói: Bây giờ tôi đã hết sợ, nhưng đã bị loài người bắt rồi.

Chuyện ngụ ngôn trên là một ẩn dụ sâu sắc để nói lên sự tu hành của chúng ta, cần phải có hàng rào giới luật, cây cung thiền định và lưỡi kiếm trí tuệ.

Quý vị thấy không? Thế gian rất nhiều cái bẫy, nếu mình không bình tĩnh và sáng suốt thì sẽ bị dòng đời cuốn trôi bởi cái bẫy tiền tài, bẫy sắc đẹp, bẫy danh vọng, bẫy ăn ngon mặc đẹp, quyền lực và khủng bố.

Giới luật là hàng rào có công năng giúp cho chúng ta không rơi vào hố sâu của tội lỗi. Thiền định giúp ta dừng lắng các vọng niệm xấu ác mà sống với tâm Phật sáng suốt.

Thiền quán và soi xét để chúng ta phát sinh trí tuệ mà biết rõ thật giả thân tâm hoàn cảnh, nhằm biết cách buông xả các tham ái chấp trước ở đời.

Một hôm có hai huynh đệ muốn thoát tục lìa trần nên quyết tâm tiếp nối con đường của Phật. Họ thấy thế gian vui ít, khổ nhiều, nên sớm xuất gia học đạo. Trên đường tầm sư, hai người đi ngang qua một dòng sông, thấy người trên ghe đang kéo chiếc lưới lên, và một con cá nhảy vọt ra khỏi lưới.

Vị sư huynh thấy thế, liền vỗ tay khen, “hay quá, hay quá! Con cá giống người tu.

Tiểu sư đệ mới nói, “có gì đâu mà hay. Cá ở ngoài lưới mới hay”.

Vị sư huynh nói, “sư đệ chưa hiểu hết thâm ý của ta”.

Câu chuyện trên là bài học đạo lý sống thiết thực trong cuộc đời. Ta học chuyện xưa để cùng nhau suy ngẫm, thấy được sự đam mê luyến ái dục vọng làm ta buồn rầu, lo lắng, khổ đau. Ai trong cuộc đời chưa một lần nếm trải trái đắng của khổ đau? Vậy cá ở ngoài lưới mới hay, hay là cá bị mắc lưới mà nhảy ra được mới hay?

Nếu cá ở ngoài lưới thì còn gì để bàn cãi ở đây nữa, cá đã vào lưới mà còn biết cách nhảy ra được mới thật là hay. Đạo lý nhà Phật dạy cho chúng ta ngay nơi vòng lẫn quẫn của sự luyến ái buộc ràng, bởi vợ chồng, con cái, gia đình, người thân, mà ta thoát ra được quả là điều phi thường hiếm có.

Ta đang sống trong sự cám dỗ của tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn sung, mặc sướng, bởi chiếc lưới ái ân và dục vọng; nó làm cho ta mê muội, đắm say, giống như cục nam châm gặp sắt tự động hít vào. Ái dục cũng lại như thế. Từ vô thủy kiếp đến nay, con người lúc nào cũng khao khát, thèm muốn, quyến luyến giống như dòng nước đã thấm ướt.

Dù không ai chỉ dạy mà con người vẫn tự cảm biết, nên khi gặp người khác phái thì trái tim ta xao xuyến, rung động, thổn thức, làm ta rạo rực trong lòng dẫn đến hò hẹn yêu thương và kết tình chồng vợ. Cứ như thế, từ đời này sang kiếp nọ, nghiệp nhân tình ái luyến mến yêu thương được phát triển mạnh mẽ ngày thêm sâu kín, đậm đà, khó rời xa.

Phật dạy, trong đời này, có hai hạng người đáng được tán thán, ca ngợi và cung kính cúng dường. Hạng người thứ nhất từ nhỏ đến lớn chưa từng vi phạm lỗi lầm, lại hay thương yêu, bình đẳng, giúp đỡ mọi người. Hạng người thứ hai đam mê hưởng thụ dính mắc hay làm các điều xấu xa tội lỗi, để làm tổn hại cho người và vật. Nhưng họ nhờ gặp các thiện hữu tri thức hướng dẫn chỉ dạy, biết ăn năn sám hối chừa bỏ những thói quen tật xấu, mà làm mới lại chính mình, để vươn lên, vượt qua số phận tối tăm.

Hình ảnh cá nhảy khỏi lưới là chỉ cho hạng người thứ hai, đã vào lưới, mắc lưới rồi, mà còn nhảy ra được. Vậy không phải hay là gì?

Cũng như đức Phật của chúng ta trước khi thành tựu đạo pháp, Ngài đã có tất cả cung vàng, điện ngọc, vợ đẹp, con ngoan, thần dân, thiên hạ, quyền hành cao nhất trong tay. Vậy mà Phật vẫn hiên ngang, dũng mãnh, vượt qua được lưới ái dục khi tuổi đời đang sung mãn và hưng phấn nhất.

Chính vì vậy, ngày hôm nay ta tôn kính Phật, thờ Phật, lạy Phật suốt đời, suốt kiếp, để bắt chước, học hỏi, tu tập, cho được bằng Phật mới thôi. Thật ra, ta đi tu hiện giờ đâu có gì để buông xả, và dính mắc nặng nề như đức Phật ngày xưa. Nhất là các thầy tu trẻ đâu có gì để ôm giữ, chất chứa trong lòng. Vậy mà thầy tu như bông xoài, thấy thì dường như quá nhiều, nhưng đến khi thành trái xoài chẳng còn được mấy trái.

Ở đây, chúng ta đã thấy cũng đồng là cá, nhưng biết bao con cá khác khi bị dính vào lưới rồi thì chỉ nằm chờ chết, không khi nào đủ sức để vùng vẫy thoát ra.

Riêng chú cá kia hiên ngang dũng mãnh nhảy ra khỏi lưới, quả thật là quá tuyệt vời. Như vậy không giống người tu là gì? Nếu mới sinh ra ai cũng là Thánh hết thì chúng ta đâu cần phải vào chùa tu làm gì cho mệt và uổng công vô ích.

Thái tử chấp nhận bỏ hết tình riêng với tuổi đời đang còn hưng phấn mãnh liệt nhất về tình dục, thật ra cũng đắng cay chua xót lắm chứ, cái mà nhiều người mong muốn được như Ngài mà không bao giờ có được.

Ngài đã vô lượng kiếp tu tâm từ rộng mở, muốn tìm ra nguồn gốc và thân phận của tất cả chúng sinh để tìm ra giải pháp giúp cho con người thoát ly sinh, già, bệnh, chết. Nhờ có lý tưởng cao cả và lập trường vững chắc đó, thái tử mới thoát ra được lưới ái, lìa buộc ràng, để ra đi tìm đạo giải thoát. Nếu Ngài không có tâm nguyện cao cả, lớn lao, để cứu khổ chúng sinh, thì cũng khó mà vượt qua khỏi chiếc lưới luyến ái vợ đẹp, con xinh.

Con người sống muốn làm được việc gì lớn lao, quan trọng cần phải có lý tưởng cao cả để phục vụ. Ta phải biết bỏ tình riêng để làm việc chung. Chính vì vậy, những người làm cách mạng thường sống độc thân để hoạt động, vì khi sống độc thân, họ có can đảm nói và làm những điều họ cho là đúng, để đem lại an vui, lợi ích cho đất nước.

Cuộc sống độc lập đó cho phép họ sống thực sự là một người có bản lĩnh, dám chấp nhận xả thân, hy sinh để phục vụ, vì lợi ích đất nước, mà không bị vướng bận bởi sự đam mê luyến ái vợ chồng, con cái.

Những người ngoài đời muốn làm cách mạng còn phải xa lìa ái dục như thế, huống hồ là người có chí hướng cao thượng như thái tử Sĩ Đạt Ta, đã phát tâm vì lợi ích của tất cả chúng sinh.

Chính vì vậy, ngày hôm nay ta tôn kính Phật, thờ Phật, lạy Phật suốt đời, suốt kiếp, để bắt chước, học hỏi, tu tập, cho được bằng Phật mới thôi. Thật ra, ta đi tu hiện giờ đâu có gì để buông xả, và dính mắc nặng nề như đức Phật ngày xưa. Nhất là các thầy tu trẻ đâu có gì để ôm giữ, chất chứa trong lòng. Vậy mà thầy tu như bông xoài, thấy thì dường như quá nhiều, nhưng đến khi thành trái xoài chẳng còn được mấy trái.

Ở đây, chúng ta đã thấy cũng đồng là cá, nhưng biết bao con cá khác khi bị dính vào lưới rồi thì chỉ nằm chờ chết, không khi nào đủ sức để vùng vẫy thoát ra.

Riêng chú cá kia hiên ngang dũng mãnh nhảy ra khỏi lưới, quả thật là quá tuyệt vời. Như vậy không giống người tu là gì? Nếu mới sinh ra ai cũng là Thánh hết thì chúng ta đâu cần phải vào chùa tu làm gì cho mệt và uổng công vô ích.

Thái tử chấp nhận bỏ hết tình riêng với tuổi đời đang còn hưng phấn mãnh liệt nhất về tình dục, thật ra cũng đắng cay chua xót lắm chứ, cái mà nhiều người mong muốn được như Ngài mà không bao giờ có được.

Ngài đã vô lượng kiếp tu tâm từ rộng mở, muốn tìm ra nguồn gốc và thân phận của tất cả chúng sinh để tìm ra giải pháp giúp cho con người thoát ly sinh, già, bệnh, chết. Nhờ có lý tưởng cao cả và lập trường vững chắc đó, thái tử mới thoát ra được lưới ái, lìa buộc ràng, để ra đi tìm đạo giải thoát. Nếu Ngài không có tâm nguyện cao cả, lớn lao, để cứu khổ chúng sinh, thì cũng khó mà vượt qua khỏi chiếc lưới luyến ái vợ đẹp, con xinh.

Con người sống muốn làm được việc gì lớn lao, quan trọng cần phải có lý tưởng cao cả để phục vụ. Ta phải biết bỏ tình riêng để làm việc chung. Chính vì vậy, những người làm cách mạng thường sống độc thân để hoạt động, vì khi sống độc thân, họ có can đảm nói và làm những điều họ cho là đúng, để đem lại an vui, lợi ích cho đất nước.

Cuộc sống độc lập đó cho phép họ sống thực sự là một người có bản lĩnh, dám chấp nhận xả thân, hy sinh để phục vụ, vì lợi ích đất nước, mà không bị vướng bận bởi sự đam mê luyến ái vợ chồng, con cái.

Những người ngoài đời muốn làm cách mạng còn phải xa lìa ái dục như thế, huống hồ là người có chí hướng cao thượng như thái tử Sĩ Đạt Ta, đã phát tâm vì lợi ích của tất cả chúng sinh.

Dưới cội Bồ Đề với đủ thứ loại ma uy hiếp, khủng bố tinh thần, nhưng thái tử vẫn bất động trước những hình thù quỷ quái nhất, cùng những lời hăm dọa khủng khiếp nhất. Ngay đến tuyệt chiêu cuối cùng của chúa ma là hóa hiện ra hình ảnh của các cung phi mỹ nữ và công chúa Da Du Đà La thật xinh đẹp đến trước mặt thái tử.

Một trang tuyệt sắc giai nhân sà vào lòng chàng ôm khóc nức nở, trông hết sức tội nghiệp và đáng thương làm sao. Nếu giả sử lúc đó bạn là người đang trong hoàn cảnh như vậy, liệu bạn sẽ xử trí ra sao? Hay là bạn đành chấp nhận quay gót trở về theo tiếng gọi con tim, mà vùi dập lý trí..

Nước mắt đàn bà sắc đẹp nghiêng thành, đổ nước và những lời tỏ tình âu yếm, ngọt ngào thì khó ai mà chịu nổi bỏ qua. Vậy mà, đức Phật của ta vẫn bình tĩnh, sáng suốt, thấu rõ hết mọi vấn đề, nên vẫn như như bất động, mặc cho người đẹp khổ sở khóc lóc, van xin.

Một phàm phu bình thường sao có đủ can đảm ngoảnh mặt làm ngơ, khi người vợ yêu thương, đầu ấp tay gối thuở nào, nhất là bây giờ nàng lại xinh đẹp dễ thương hơn xưa rất nhiều, bởi sự biến hóa tài tình của ma vương.

Giờ đây, nàng đang nằm gọn trong lòng chàng, kể lễ khóc thương tha thiết, “thiếp năn nỉ, van lạy chàng, hãy về sống với thiếp và con. Bao năm rồi, thiếp phòng the gối chiếc một mình, mòn mỏi trông ngóng đợi chờ chàng.

Bao nhiêu vương công, tôn tử con nhà quý phái đến xin cầu hôn, thiếp đều một mực từ chối hết, vì thiếp hy vọng chàng sẽ là con người rộng mở trái tim yêu thương, quay về với thiếp và con. Chàng ơi, con mình nó cứ hỏi thiếp hoài “cha con đâu rồi mẹ?”, thiếp chỉ nói “cha con bận học đạo hiền Thánh, để giúp dân, cứu nước. Con yên chí đi, cha con sẽ về trong một ngày gần đây nhất con ạ”.

Thiếp và con lúc nào cũng cần có tình yêu thương của chàng bên cạnh, để được chàng thương yêu, bảo bọc, chở che cho những tháng ngày còn lại.

Chàng ơi, thiếp van lạy chàng mà, chàng hãy quay về với thiếp và con đi, hỡi chàng yêu dấu! Nếu chàng không chấp nhận đoái hoài đến thiếp thì cũng phải thương nhớ đến đứa con trai của chàng chứ. Giờ đây thiếp không còn thiết tha để sống nữa vì không có chàng bên cạnh, thiếp sẽ chết liền tức khắc cho chàng coi”.

Nói xong, nàng liền rút cây trâm trên đầu ra đưa thẳng vào tim. Lúc bấy giờ, không gian như ngưng đọng, vạn vật đều im lặng chờ xem thái tử giải quyết ra sao.

“Đi đi, ta không dùng đâu, đồ đãi da hôi thúi”.

Chỉ một câu nói nhẹ nhàng, tất cả lũ ma thảy đều biến mất.

Vậy lúc ấy, thái tử đã xử dụng độc chiêu gì để vượt qua luyến ái tình dục chứ? Ngài chỉ dùng cây cung thiền định, cùng lưỡi kiếm trí tuệ, để quét sạch mọi ma mị trong tâm, nên ma quỷ bên ngoài không thể nào xâm nhập nổi. Đó là phương pháp độc nhất vô nhị, có một không hai trên cõi đời này, để chuyển hóa ham muốn luyến ái tình dục.

Hình ảnh con cá nhảy khỏi lưới và hình ảnh thái tử từ bỏ cung vàng, điện ngọc, vợ đẹp, con ngoan nói lên việc chúng ta quyết tâm dứt khoát xa lìa ái ân khi biết được sự tác hại của nó. Đức Phật đã ví dụ sự si mê luyến ái, ham muốn khoái lạc ngũ dục, giống như chiếc lưới ái ân, chiếc lưới dục vọng, một khi ai đã dính vào lưới này, thì khó bề thoát ra.

Người thật tâm muốn vượt qua lưới ái buộc ràng, thì trước tiên phải có niềm tin vào Tam bảo, tin vào chính mình, có chí nguyện thoát ly sinh tử, có thầy lành, bạn tốt và gìn giữ giới luật oai nghi, cùng với cây cung thiền định và lưỡi kiếm trí tuệ.

Kế đến, họ phải điều phục ngay nơi tâm ý của mình để thanh lọc nội tâm, dẹp hết tâm ma bên trong thì tâm ma bên ngoài không thể xâm nhập nổi. Cũng như chú cá kia, khi bị mắc vào lưới mà nhảy ra khỏi lưới mới thật là hay.

Đúng thế! Đúng thế! Cá ở trong lưới mà nhảy ra được, mới thật là hay. Vượt cạn lên bờ được mấy ai? Thoát khỏi cạm bẫy cuộc đời thật là khó vô cùng, nhưng người có ý chí và quyết tâm cao độ sẽ làm được chuyện này. Tuy nhiên, mọi người đều có tâm Phật sáng suốt, nên ai cũng có khả năng vượt thoát vòng luyến ái trần tục.



Cưỡng Bách Nô Lệ của Đế Quốc Mỹ




Ở thế kỷ 21 này Cưỡng bách nô lệ là một tội ác đã bị lên án khắp nhân loại, vậy mà Đế quốc Mỹ vĩ đại, hùng mạnh, tân tiến, giàu có nhất địa cầu lại đang hằng giờ cưỡng bách tù nhân lao công với giá lương $1.00 cho 1 ngày lao lực của họ. Xem ra con số tù nhân cao nhất thế giới của Đế quốc Mỹ có cái mục đích của nó: CÀNG NHIẾU TÙ NHÂN thì CÀNG NHIỀU LAO CÔNG NÔ LỆ BỊ CƯỠNG BÁCH CHO LỢI NHUẬN TẬP ĐOÀN TƯ BẢN.
Không biết những não trạng người Mỹ (nhất là Mỹ vàng Việt Nam) luôn to mồm "nước Mỹ của Tao là số 1" và " người Mỹ chúng Tôi là Biệt lệ " đang "TỐT khoe, XẤU che" không ta???....hehehe.
Nước Mỹ quả đúng là số 1, số 1 CƯỠNG BÁCH NÔ LỆ (từ thời lập quốc đến giờ luôn), số 1 CON NỢ QUỐC GIA, số 1 DÂN VÔ GIA CƯ, số 1 TÙ NHÂN TRONG NHÀ TÙ, số 1 TRA TẤN TÙ NHÂN, số 1 BINH LÍNH TỰ TỬ, số 1 CẢNH SÁT BẠO LỰC..........gỉ gì gi nữa cà.......!!!

DS

=========Nguồn: www.alternet.org/civil-liberties/americas-slave-empire

America’s Slave Empire
The resistance movement against US prisons continues to grow.By Chris Hedges / Truthdig
June 22, 2015


Three prisoners—Melvin Ray, James Pleasant and Robert Earl Council—who led work stoppages in Alabama prisons in January 2014 as part of the Free Alabama Movement [3] have spent the last 18 months in solitary confinement. Authorities, unnerved by the protests that engulfed three prisons in the state, as well as by videos and pictures of abusive conditions smuggled out by the movement, say the men will remain in solitary confinement indefinitely [4].

The prison strike leaders are denied televisions and reading material. They spend at least three days a week, sometimes longer, in their tiny isolation cells. They eat their meals while seated on steel toilets. They are allowed to shower only once every two days despite temperatures that routinely rise above 90 degrees.

The men have become symbols of a growing resistance movement [5] inside American prisons. The prisoners’ work stoppages and refusal to co-operate with authorities in Alabama are modeled on actions that shook the Georgia prison system [6] in December 2010. The strike leaders argue that this is the only mechanism left to the 2.3 million prisoners across America. By refusing to work—a tactic that would force prison authorities to hire compensated labor or toinduce the prisoners to return to their jobs by paying a fair wage—the neoslavery that defines the prison system can be broken. Prisoners are currently organizing in Arizona, California, Florida, Illinois, Ohio, Pennsylvania, Mississippi, Texas, Virginia and Washington.

“We have to shut down the prisons,” Council, known as Kinetik, one of the founders of the Free Alabama Movement, told me by phone from the Holman Correctional Facility in Escambia County, Ala. He has been in prison for 21 years, serving a sentence of life without parole. “We will not work for free anymore. All the work in prisons, from cleaning to cutting grass to working in the kitchen, is done by inmate labor. [Almost no prisoner] in Alabama is paid. Without us the prisons, which are slave empires, cannot function. Prisons, at the same time, charge us a variety of fees, such as for our identification cards or wrist bracelets, and [impose] numerous fines, especially for possession of contraband. They charge us high phone and commissary prices. Prisons each year are taking larger and larger sums of money from the inmates and their families. The state gets from us millions of dollars in free labor and then imposes fees and fines. You have brothers that work in kitchens 12 to 15 hours a day and have done this for years and have never been paid.”

“We do not believe in the political process,” said Ray, who spoke from the St. Clair Correctional Facility in Springville, Ala., and who is serving life without parole. “We are not looking to politicians to submit reform bills. We aren’t giving more money to lawyers. We don’t believe in the courts. We will rely only on protests inside and outside of prisons and on targeting the corporations that exploit prison labor and finance the school-to-prison pipeline. We have focused our first boycott on McDonald’s. McDonald’s uses prisoners [7] to process beef for paddies and package bread, milk, chicken products. We have called for a national Stop Campaign against McDonald’s. We have identified this corporation to expose all the others. There are too many corporations exploiting prison labor to try and take them all on at once.”

“We are not going to call for protests outside of statehouses,” Ray went on. “Legislators are owned by corporations. To go up there with the achy breaky heart is not going to do any good. These politicians are in it for the money. If you are fighting mass incarceration, the people who are incarcerated are not in the statehouse. They are not in the parks. They are in the prisons. If you are going to fight for the people in prison, join them at the prison. The kryptonite to fight the prison system, which is a $500 billion enterprise, is the work strike. And we need people to come to the prisons to let guys on the inside know they have outside support to shut the prison down. Once we take our labor back, prisons will again become places for correction and rehabilitation rather than centers of corporate profit.”

The three prisoners said that until the prison-industrial complex was dismantled there would be no prison reform. They said books such as Stokely Carmichael’s “Ready for Revolution” and Michelle Alexander’s “The New Jim Crow,” along with the failure of prison reform movements, convinced them that the only hope to battle back against a prison system that contains 25 percent of the world’s prisoners was to organize resistance. And they find no solace in a black president.

“To say that we have a black president does not say anything,” Ray said. “The politicians are the ones who orchestrated this system. They are either directly involved as businessmen—many are already millionaires or billionaires, or they are controlled by millionaires and billionaires. We are not blindsided by titles. We are looking at what is going on behind the scenes. We see a coordinated effort by the Koch brothers, ALEC [the American Legislative Exchange Council [8]] and political action committees that see in prisons a business opportunity. Their goal is to increase earnings. And once you look at it like this, it does not matter if we have a black or white president. That is why the policies have not changed. The laws, such as mandatory minimum [sentences], were put in place by big business so they would have access to cheap labor. The anti-terrorism laws were enacted to close the doors on the access to justice so people would be in prison longer. Big business finances campaigns. Big business writes the laws and legislation. And Obama takes money from these people. He is as vested in this system as they are.”

In Alabama prisons, as in nearly all such state facilities across the United States, prisoners do nearly every job, including cooking, cleaning, maintenance, laundry and staffing the prison barbershop. In the St. Clair prison there is also a chemical plant, a furniture company and a repair shop for state vehicles. Other Alabama prisons run printing companies and recycling plants, stamp license plates, make metal bed frames, operate sand pits and tend fish farms. Only a few hundred of Alabama’s 26,200 prisoners—the system is designed to hold only 13,130 people—are paid to work; they get 17 to 71 cents an hour. The rest are slaves.

The men bemoaned a lack of recreational and educational programs and basic hygiene supplies, the poor ventilation that sends temperatures in the cells and dormitories to over 100 degrees, crumbling infrastructures, infestations of cockroaches and rats, and corrupt prison guards who routinely beat prisoners and sell contraband, including drugs and cell phones. These conditions, coupled with the overcrowding, are, they warned, creating a tinderbox, especially as temperatures soar. There was a riot in St. Clair in April. There has been a rash of stabbings and fights in the prison. Prisoners have assaulted 10 guards in St. Clair during the last four weeks.

The worst thing is the water [9],” said James Pleasant, a St. Clair prisoner who has served 13 years of a 43-year sentence. “It is contaminated. It causes kidney, renal failure and cancer. The food causes stomach diseases. We have had three to four outbreaks of food poisoning in the last four months.”
He said that the prolonged caging of prisoners and the closing of rehabilitation programs, including education programs, guarantee recidivism, something sought by the corporations that profit from prisons. An estimated 80 percent of prisoners entering the Alabama prison system are functionally illiterate.

“Sleeping on a concrete slab is not going to teach you how to read or write,” Pleasant said. “Sleeping on a concrete slab will not solve mental health issues. But the system does not change. It does what it is designed to do. It makes sure people are driven back into the system to work without pay.”
“For years we were called niggers to indicate we had no value or worth and that anything could be done to us,” Ray said. “Then the word ‘nigger’ became politically incorrect. So they began calling us criminals. When you say a person is a criminal it means that what happens to them does not matter. It means he or she is a nigger. It means they deserve what they get.”

Prisons, the men said, have increasingly placed larger and larger financial burdens on families, with the poorest families suffering the most. Prisoners, too, suffer as a result.

“If you don’t get money from your family, your poverty blocks you out from buying items at the commissary or making phone calls,” Council said. “You can’t communicate with your family. If you don’t have someone to send you money you can’t even buy stamps to write home. They [authorities] are supposed to give us two free stamps a week, but I have never seen them do it in my 16 years of incarceration. We pay a $4 medical co-pay if we make a sick call. Every additional medication we receive is $4. If you have a cold and you get something for sinuses, pain meds and something for congestion, that becomes a $16 visit. And if you get $20 from a family member, the state will take $16 off the top to pay for the visit. You end up with $4 to spend at a jacked-up canteen. There are a lot of brothers walking around in debt. ...”

“It takes brutality and force to make a person work for free and live in the type of conditions we live in and not do anything about it,” Ray said. “The only way they made slavery work was to use force. It is no different in the slave empire of prisons. They use brutality to hold it together. And this brutality will not go away until the system goes away.”

The men described numerous horrific beatings by guards.

Pleasant said, “They stood me up against the wall [with my hands cuffed behind me]. There were about 10 officers. They started swinging, punching and hitting me with sticks. They knocked my legs out from under me. My face hit the floor. They stomped on my face. They sent me to the infirmary to hide what they did, for 30 days. When I looked in the mirror I could not recognize my facial features. This was the fourth time I was beaten like this.”

I asked the three men, speaking to me on a conference call, what prison conditions said about America. They laughed.

“It says America is what it has always been, America,” said Ray. “It says if you are poor and black you will be exploited, brutalized and murdered. It says most of American society, especially white society, is indifferent. It says nothing has really changed for us since slavery.”

xxxxxxxx
 
  
Chris Hedges, a Pulitzer Prize-winning reporter, writes a regular column for Truthdig every Monday. Hedges' most recent book is "Empire of Illusion: The End of Literacy and the Triumph of Spectacle."

Nghĩ thoáng về chuyện đọc thơ

Nguyễn Hưng Quốc 


 Trong một đất nước thường được gọi là nước thơ như Việt Nam, hẳn có nhiều người thích đọc thơ. Nhưng đọc thơ là đọc cái gì?

Đọc thơ, trước hết, theo tôi, là đọc một văn bản. Đọc văn bản là đọc chữ. Chữ thực chất là một thứ ký hiệu. Không có ký hiệu nào tự nó và cho nó cả. Ký hiệu nào cũng là một ký hiện của một cái gì khác. Ferdinand de Saussure (1857-1913) phân biệt hai khía cạnh của ký hiệu (sign): cái biểu đạt (signifier) và cái được biểu đạt (signified), tức, nói một cách tóm tắt, chữ và ý nghĩa của chữ. Nhưng chữ trong thơ không phải là những xác chữ trong từ điển. Trong thơ, mỗi chữ đều có âm vang và màu sắc riêng. Không những vậy, ngay cả cách trình bày của chữ và những khoảng cách giữa các chữ cũng có âm vang và màu sắc của chúng. Chính những âm vang và màu sắc ấy tạo nên nhạc tính và ẩn ý của thơ.

Đọc thơ, hơn nữa, là truy tìm những cấu trúc và những mối quan hệ liên quan đến những cấu trúc ấy. Có thể nói, hiểu một bài thơ là phát hiện ra được cái quan hệ ẩn tàng trong và ngoài bài thơ ấy. Phát hiện các quan hệ là phát hiện tính hệ thống của một bài thơ. Bài thơ hay bất cứ một tác phẩm nghệ thuật nào cũng là một hệ thống. Tính hệ thống được biểu hiện qua cấu trúc. Hiểu một bài thơ, do đó, thực chất là khám phá ra cấu trúc của nó.

Trước, với các nhà Phê bình Mới và các nhà cấu trúc luận, cấu trúc ấy là một cái gì khép kín, bao gồm các quan hệ nội tại giữa những cái biểu đạt và những cái được biểu đạt trong bài thơ. Với các nhà hậu cấu trúc và giải kiến tạo sau này, một cái cấu trúc khép kín như vậy là một điều phi thực. Cái được biểu đạt không phải là những gì cố định, bất biến và tự tại. Cái được biểu đạt ấy, đến lượt nó, lại trở thành cái biểu đạt cho một cái gì khác nữa. Cứ thế, liên tục. Hệ quả, cái gọi là hiểu một bài thơ là một tiến trình hầu như vô tận. Không ai có thể đi đến cùng nó cả. Nó không ngớt được mở rộng và cũng ngớt được/bị hóa thân, ở mỗi người đọc cũng như ở từng lần đọc. Chính vì thế, nhiều người ví bài thơ cũng như dòng sông của Heraclitus, triết gia cổ đại Hy Lạp, ở đó, không ai có thể tắm hai lần được.

Tiến trình nào cũng có sử tính: sử tính của việc tìm hiểu. Do đó, đằng sau một bài thơ, bất cứ là bài thơ nào, cũng có đến hai lịch sử: một, lịch sử nó được sáng tác và phổ biến; hai, lịch sử nó được đọc. Chỉ có loại lịch sử thứ hai mới trở thành tài sản của bài thơ: nó làm cho bài thơ giàu có và sâu sắc hơn hẳn. Nói cách khác, cái chúng ta quen gọi là ý nghĩa của bài thơ vừa là những gì chất chứa bên trong và/hay được khơi gợi từ bài thơ vừa là lịch sử của các phát hiện mà người đọc, từ thế hệ này đến thế hệ khác, mang đến cho nó. Cũng là Truyện Kiều, nhưng cái Truyện Kiều chúng ta có hiện nay chắc chắn là giàu có và sâu sắc hơn cái Truyện Kiều lúc Nguyễn Du còn sinh thời.

Khi đọc thơ, người ta không chỉ đọc thơ. Đọc thơ còn là đọc các cảm xúc và ý nghĩ dậy lên từ chính tâm hồn của mình. Đọc, do đó, không phải chỉ là một tiến trình hướng ngoại, hướng đến tác phẩm và sau đó, tác giả, mà còn là một tiến trình hướng nội, hướng vào thế giới mênh mông nhưng bí ẩn bên trong chính bản thân mình.

Tôi muốn ví việc đọc thơ với việc uống rượu: để thấy được cái ngon của rượu, người ta phải lắng nghe những cảm giác còn lại trên lưỡi và trong họng của mình. Lúc rượu đã chảy hẳn vào bụng.