Thứ Tư, 24 tháng 6, 2015

Ngô Đình Diệm Là Nguyên Nhân Của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam



Duyên Sinh


Trích tập sách: "Người Quốc Gia Cuội" http://www.duyensinh.com/files/pdf/NGUOI_QUOC_GIA_CUOI.pdf


Cuộc di dân một triệu người Ca-tô Rô-ma giáo vào Nam đã làm Hồ Chí Minh choáng váng. Chẳng những Hồ Chí Minh choáng váng, mà Ngô Đình Diệm cũng choáng váng! Tuy nhiên đây không phải là do công lao tuyên truyền của Diệm, mà do sự hoạt động bí mật của Đại Tá Edward Lansdale. Lansdale cho CIA tung ra tiếng đồn là mỗi gia đình Ca-tô Rô-ma giáo di cư vào Nam sẽ được cấp 5 acres (mẫu) đất và một con trâu.


Edward Geary Lansdale

Sau khi đã vào Nam, người Ca-tô Rô-ma giáo đi tới đâu cũng hỏi về 5 mẫu đất và một con trâu, mà hầu như không có ai hỏi han gì tới chuyện “Đức Mẹ Đồng Trinh” đã vào Nam.

Mùa Xuân năm 1955, sau khi lên làm thủ tướng, đe dọa mạnh nhất đối với Diệm trong những ngày tháng đầu, là vấn đề khủng hoảng tôn giáo (sects crisis). Sự thật về khủng hoảng tôn giáo đã xảy ra trước khi Diệm lên làm thủ tướng, mà Pháp không thể giải quyết.

Cao Đài có 2 triệu tín đồ và 20 ngàn quân, căn cứ đặt tại đồng bằng sông Cữu Long, có nhiệm vụ kiểm soát chính trị địa phương.

Hòa Hảo có 1 triệu tín đồ và 15 ngàn quân, căn cứ cũng đặt tại vùng đồng bằng Sông Cửu Long, cũng có nhiệm vụ kiểm soát chính trị địa phương giống như Cao Đài.

Bình Xuyên là một tổ chức giống như Mafia, có một đội quân lớn hơn Cao Đài và Hòa Hảo cộng lại, 40 ngàn quân. Họ là công an cảnh sát Sài Gòn Chợ Lớn, nhưng nguồn lợi tức của họ thâu hoạch từ các nhà “chứa đĩ”, các sòng “cờ bạc”, và các phòng hút “á phiện”. Bình Xuyên chẳng những buôn bán á phiện cho họ, mà còn phải lo lót cho Bảo Đại 1,25 triệu đô la Mỹ.

Người Pháp bất lực. Họ không thể điều khiển nổi ba thành phần Cao Đài, Hòa Hảo, và Bình Xuyên, vì thế cho nên Pháp phải để cho họ được “tự trị”. Khi Ngô Đình Diệm lên làm thủ tướng, ba thành phần này tiếp tục từ chối đặt dưới quyền kiểm soát và chỉ huy của Diệm.



Nhiều tháng trước cuộc chiến, Ngô Đình Diệm và Lê Văn Viễn (thủ lãnh Bình Xuyên) - 1954

Vì muốn được sự yểm trợ của Cao Đài và Hòa Hảo, Diệm nhượng bộ “một cái”, và đòi hỏi Cao Đài và Hòa Hảo phải nhượng bộ “một cái”. Cái mà Diệm nhượng bộ là cho Cao Đài và Hòa Hảo được đóng quân tại địa phương như cũ. Cái mà Diệm muốn Cao Đài và Hòa Hảo nhượng bộ là Cao Đài và Hòa Hảo phải đặt dưới quyền chỉ huy của Diệm, vì Diệm là thủ tướng.

Tuy nhiên cả hai, Cao Đài và Hòa Hảo vẫn không chịu! Họ cảm thấy họ vẫn bị lỗ lã, vì khi không khi khổng họ bị Diệm lấy mất đi “một cái”, họ chỉ còn lại “một cái”. Cao Đài và Hòa Hảo muốn hết luôn cả hai cái!... Tức là họ muốn hoàn toàn tự trị!...

Một buổi sáng mùa Xuân năm 1955, cả ba đội quân Cao Đài, Hòa Hảo, và Bình Xuyên sẵn sàng tác chiến, với áo giáp, súng, đạn… Họ đã chuẩn bị rất chu đáo và đã chiếm giữ các địa điểm quan trọng và hiểm yếu, hướng về dinh độc lập từ bên trong thành phố.



Quân đội của Bình Xuyên nằm dọc các cây cầu ở Sài gòn trong trận đánh (với lính nhảy dù của Pháp võ trang cho Bảo Đại) 1955

Về phía Diệm, thì Diệm được hỗ trợ của lính Lê Dương, Lính Khố Đỏ, Lính Khố Xanh của Pháp. Họ cũng rất sẵn sàng, và cũng chông súng về phía các giáo phái và chờ lệnh.

Khi có tiếng “tấn công” và tiếng pháo kích bắt đầu nổ ầm lên, cả hai chỉ huy Cao Đài và Hòa Hảo đều đột nhiên phóng loa tuyên bố xin “đầu hàng” trong khi lính của họ chưa bắn phát súng nào! Trong dinh độc lập, mặt của Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu vừa mới tái mét, rồi đổi qua tái xanh, rồi lại hết xanh, chỉ trong vài chục giây đồng hồ!... Đại tá Edward Lansdale thì luôn miệng hô to: “Prime Minister Diem, a miracle man!...”, “Prime Minister Diem, a miracle man!...” (Thủ tướng Diệm, một người kỳ diệu …”, “Thủ tướng Diệm có phép lạ!...).

Ngay sau trận đánh, Mỹ khen thủ tướng Ngô Đình Diệm đáo để!.. Nào là thủ tướng Diệm được quân đội trung thành và ủng hộ; Diệm đánh trận giỏi hơn cả Pháp; và “Diệm có phép lạ…”, có dư sức chống Cộng… Mỹ sẽ “cúp” viện trợ Pháp, và viện trợ thẳng cho VNCH, v.v…

Diệm nở cái lỗ mũi không được bao nhiêu ngày, thì lại phát giác ra chính cái thằng cha đại tá “mắc dịch” Edward Lansdale đã làm chuyện bí mật.

Số là trước khi Diệm và các giáo phái dàn quân đánh nhau, đại tá Edward Lansdale đã truất quỹ CIA của ông một số tiền mặt khổng lồ 3 triệu đô la. Lansdale mang 3 triệu đô la tới lo lót cho cấp chỉ huy Cao Đài và Hòa Hảo, và yêu cầu họ đầu hàng trước khi đánh. Khi không mà có 3 triệu đô la, hai chỉ huy Cao Đài và Hòa Hảo mừng húm, dại gì mà không nhận?

Cuộc chiến rốt cuộc chỉ diễn ra giữa Bảy Viễn và Diệm. Vì cô thế, Bảy Viễn bị Lính Khố Đỏ uy hiếp quá, phải bỏ chạy… Bảy Viễn được Pháp giải cứu và chở về Pháp để tị nạn.

Và bắt đầu từ đó, Ngô Đình Diệm được các giới chính trị Mỹ gọi là “The Miracle Man”.

Kết quả cuộc xung đột, có khoảng: 500 dân chết; 20 ngàn người không nhà cửa. Bảo Đại bị Diệm đảo chánh trong lúc vắng mặt. Ngô Đình Diệm tổ chức “Trưng Cầu Dân Ý Cuội” bằng bầu cử gian lận, rồi tự xưng làm tổng thống VNCH với sự hỗ trợ của Mỹ.

Vietnam a History viết:

[Gần hai ngàn người, bao gồm cấp chỉ huy và binh lính Bình Xuyên, Cao Đài, và Hòa Hảo tiếp tục lẫn trốn quanh quẩn trong vùng đồng bằng sông Cửu Long. Những người này, cùng với một số người Cộng Sản khác, đã lập ra Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam][59].

Tới đây thì bạn đọc hiểu ngay Ngô Đình Diệm là nguyên nhân của sự thành hình Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam (MTDTGPMN). MTDTGPMN đã cho Diệm nếm hương vị “Quốc Gia” lần đầu trong trận Ấp Bắc. MTDTGPMN là những người Quốc Gia bị Ngô Đình Diệm, là bọn tay sai của thực dân Pháp và thực dân Vatican, “đẩy” qua phe của Cộng Sản.

Sau năm 1975, có một người trong MTDTGPMN định kiện Bắc Việt ra tòa án quốc tế vì Bắc Việt đã vi phạm Hiệp Định Paris, tấn chiếm Miền Nam năm 1975. Họ nói họ là người Quốc Gia Miền Nam. Họ không chấp nhận Cộng Sản, khống chấp nhận “bù nhìn” của Mỹ, và cũng không chấp nhận làm “con chiên” của Vatican. Nhưng tiếc thay, chiến tranh đã gây ra không biết bao nhiêu nhầm lẫn, biết chừng nào mối hận nầy mới được nguôi!...

Dân Bắc Kỳ một thời đã gọi lá cờ này là cờ “Ba Que Đỏ” hoặc cờ “Ba Que Sốt Huyết” [49].



NGUỒN: http://en.wikipedia.org/wiki/French_colonial_flags

Khi lên ngôi tổng thống, Ngô Đình Diệm cũng “chôm” Quốc Kỳ và Quốc Ca giống y như Bảo Đại. vẫn tiếp tục bản nhạc “Tiếng Gọi Sinh Viên”[48] của Việt Cộng Lưu Hữu Phước; tiếp tục cờ ba que đỏ Tiểu Bang Tonkin của nước Đông Dương Thuộc Pháp.

Báo chí điện tử và truyền thông xã hội



TCCSĐT - Những năm qua, sự phát triển nhanh chóng của loại hình báo chí điện tử và truyền thông xã hội (thông tin trên mạng internet) đã đặt ra những vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu và giải pháp quản lý. Đây vừa là cơ hội cũng vừa là thách thức rất lớn đối với công tác văn hóa, tư tưởng.


Sự phát triển của báo chí điện tử và truyền thông xã hội

Sự phát triển các dịch vụ thông tin trên nền internet thời gian qua đã đem lại cho người dân trên thế giới những lợi ích không thể phủ nhận. Đây là xu thế phát triển chung của thời đại khoa học - công nghệ. Nhân loại trở nên gần nhau hơn, người dân có thể dễ dàng tiếp cận với những kho dữ liệu khổng lồ, phong phú và đa dạng được cập nhật hằng ngày, hằng giờ từ khắp nơi trên thế giới. Internet tăng cường khả năng giao lưu, trao đổi thông tin giữa mọi người với nhau, thúc đẩy xã hội phát triển.

Theo số liệu của Bộ Thông tin và Truyền thông, đến hết năm 2014, Việt Nam là một trong những quốc gia phát triển internet nhanh trên thế giới với hơn 32 triệu người sử dụng internet, tương đương tỷ lệ 35% số dân. Cùng với đó, thông tin điện tử trên mạng internet, bao gồm báo chí điện tử và truyền thông xã hội cũng có sự phát triển rất nhanh chóng. Tính đến cuối năm 2014, nước ta có 90 báo, tạp chí điện tử, 215 trang tin điện tử tổng hợp của các báo, tạp chí, đài phát thanh - truyền hình. Về truyền thông xã hội, có hàng nghìn trang tin điện tử, hơn 300 mạng xã hội đã đăng ký hoạt động. Bên cạnh đó, một số lượng rất lớn các blog cá nhân cũng góp phần đáng kể phát triển truyền thông xã hội. Kết quả nghiên cứu của một công ty chuyên về điều tra xã hội học trong lĩnh vực internet cho thấy, hơn 95% số người truy cập internet để đọc thông tin, chủ yếu thông qua các website tổng hợp và các mạng xã hội (MXH); và một tỷ lệ tương tự sử dụng công cụ tìm kiếm thông tin khi sử dụng internet. Theo đó, nhu cầu tìm kiếm và sử dụng thông tin là nhu cầu chủ đạo của người dùng internet. Điều đó cho thấy, internet đã trở thành phương tiện truyền thông rất quan trọng, và thậm chí đang từng bước lấn át các phương tiện truyền thống, nhất là đối với báo, tạp chí in. Hơn nữa, những số liệu thống kê không chính thức cũng cho thấy các website truyền thông xã hội chiếm đến 80% số lượng người sử dụng thường xuyên trong số 10 website lớn nhất ở Việt Nam.

Như vậy, chúng ta đang chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của các loại hình thông tin trên mạng internet; trong đó, truyền thông xã hội đang ngày càng trở nên quen thuộc và trở thành kênh tìm kiếm thông tin ngày càng phổ biến đối với cộng đồng.

Một số vấn đề đặt ra

Thứ nhất, internet từng bước khẳng định vai trò thiết yếu trong đời sống xã hội, thúc đẩy phát triển internet là xu thế tất yếu.

nternet ngày nay đã trở thành môi trường cung cấp, chia sẻ, trao đổi, khai thác sử dụng thông tin cho mọi người dân và đang thâm nhập vào cuộc sống của con người khắp nơi trên thế giới. Nó đang trở thành nhu cầu không thể thiếu đối với đời sống, tác động một cách trực tiếp, làm thay đổi nhận thức, hành vi của mỗi cá thể, qua đó tác động đến sự phát triển của toàn xã hội.

Hầu hết các quốc gia đều nhận thức được xu thế phát triển và tầm quan trọng của internet trong kỷ nguyên thông tin đối với sự phát triển xã hội và đều có những chính sách phù hợp để khai thác thế mạnh của internet phục vụ cho lợi ích quốc gia, dân tộc. Thúc đẩy phát triển internet phục vụ lợi ích của xã hội loài người đã trở thành một xu thế được khẳng định với những cam kết quốc tế mạnh mẽ của các quốc gia. Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ.

Thứ hai, tính hai mặt của nội dung thông tin trên internet.

Truyền thông xã hội có ưu thế tổng hợp thông tin từ nhiều nguồn khác nhau và cho phép cá nhân tham gia cung cấp thông tin mà không cần công khai danh tính, cập nhật thường xuyên, nội dung thông tin phong phú, đa dạng. Thông tin trên truyền thông xã hội được phát tán, lan truyền rất nhanh thông qua các mạng xã hội, hầu như không có giới hạn về biên giới, lãnh thổ; dễ tạo hiệu ứng xã hội theo chiều rộng. Bên cạnh đó, truyền thông xã hội còn tạo ra khả năng giao lưu, chia sẻ, kết nối cộng đồng rất thuận lợi. Đây là tính năng đặc biệt hấp dẫn đối với giới trẻ ngày nay. Vì vậy, truyền thông xã hội đang ngày càng thu hút đông đảo người dùng internet, nhất là trong những năm gần đây và đang có sự dịch chuyển thói quen tìm kiếm thông tin từ các website thông tin chính thống sang các website truyền thông xã hội, nhất là các trang thông tin điện tử tổng hợp.

Bên cạnh những ưu thế, truyền thông xã hội cũng bộc lộ những mặt trái, đó là: thông tin không chính thống, mang tính cá nhân, thiếu chọn lọc, dàn trải, vụn vặt; khó xác định nguồn tin, khó kiểm chứng; thông tin dễ lồng động cơ, mục đích cá nhân nhằm xuyên tạc, lừa đảo, vu khống. Vì vậy, truyền thông xã hội khi được sử dụng vào các mục đích lừa đảo, vi phạm pháp luật, đi ngược lại lợi ích chính đáng của cộng đồng, xã hội, đe dọa an ninh quốc gia thì hậu quả cũng vô cùng lớn, nhất là khi người sử dụng đa số là giới trẻ, còn thiếu bản lĩnh, tỉnh táo khi tiếp nhận thông tin trên internet.

Về bản chất công nghệ, môi trường internet là môi trường mở, cho phép người sử dụng được tự do cung cấp, tìm kiếm và sử dụng thông tin. Vì vậy, tùy thuộc vào động cơ, mục đích và nhận thức của cá nhân, tổ chức sử dụng mà thông tin đưa lên internet là tích cực, hoặc tiêu cực, hoặc thậm chí đi ngược lại lợi ích chính đáng của cộng đồng, xã hội. Ngày nay, trên internet cũng tồn tại không ít những thông tin sai, độc hại với các tính chất khác nhau, không phù hợp về chuẩn mực đạo đức, văn hóa, thuần phong mỹ tục; thông tin có tính chất tội phạm tin học, lừa đảo trên mạng; thông tin xuyên tạc có tính chất chính trị, đe dọa an ninh quốc gia.

Nhận thức được tính hai mặt của nội dung thông tin trên giúp chúng ta có định hướng chính sách và giải pháp quản lý thông tin phù hợp với tính chất thông tin, nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực của thông tin sai trái, độc hại.


Thứ ba, tính hai mặt của sự phát triển công nghệ internet.

Do bản chất công nghệ, internet cho phép người sử dụng được tự do cung cấp, tìm kiếm và sử dụng thông tin mà không có giới hạn về địa lý, lãnh thổ. Trong đa số các trường hợp, thông tin về cá nhân của người dùng không cần xác thực. Điều đó một mặt tạo điều kiện thuận lợi một cách tối đa cho người muốn cung cấp, sử dụng thông tin trên internet, loại bỏ những ràng buộc về pháp lý, những mặc cảm trong ý thức để tham gia vào môi trường thông tin trên internet. Song, mặt khác nó cho phép những tổ chức, cá nhân với động cơ xấu có thể che giấu danh tính để cung cấp thông tin sai trái, độc hại, thậm chí xóa bỏ dấu vết để thực hiện hành vi tội phạm, lừa đảo, trong đó phổ biến nhất là những hành vi tội phạm xuyên quốc gia. Việc phát hiện, ngăn chặn những hành vi sai trái trên môi trường internet toàn cầu như vậy về phương diện kỹ thuật là rất khó khăn, đòi hỏi sự phối hợp tích cực của các quốc gia. Tính hai mặt của công nghệ internet đang là thách thức đối với những quốc gia muốn thực thi luật pháp của mình để điều chỉnh những hành vi vi phạm pháp luật trên mạng internet toàn cầu.


Thứ tư, tác động qua lại của truyền thông xã hội với báo chí ngày càng phức tạp.

Truyền thông xã hội là nơi cung cấp thông tin, đề tài để báo chí nhận diện, phát hiện những vấn đề nóng đang nổi lên, đang diễn ra và được dư luận quan tâm. Từ đó, các nhà báo sẽ chắt lọc những vấn đề hấp dẫn đối với độc giả, phù hợp với tôn chỉ mục đích của báo mình để làm tin, bài. Khi có bài báo được đăng tải, nếu được các thành viên của mạng xã hội tiếp nhận, truyền bá và thảo luận thì sẽ tạo sức lan truyền tin tức rất mạnh, bài báo sẽ đến được với số lượng độc giả gấp nhiều lần so với việc bài báo đó chỉ được đăng tải trên trang báo chính thức. Tin tức trên báo chí sau khi phát đi được các thành viên mạng xã hội tiếp nhận, truyền bá và thảo luận sẽ tạo ra làn sóng tin tức mới. Mạng xã hội cũng tác động khiến các cơ quan báo chí thay đổi cách suy nghĩ từ làm báo một chiều sang đối thoại hai chiều với độc giả. Và chính báo chí là nơi tiếp nhận, lựa chọn, kiểm chứng mức độ tin cậy của thông tin, “chính thống hóa” thông tin trên mạng xã hội.


Như vậy, thông qua mạng xã hội, nếu các cơ quan báo chí, các nhà báo nhanh nhạy, nắm bắt được những vấn đề mà xã hội đang thực sự quan tâm, để cung cấp những thông tin kịp thời, đáp ứng được sự quan tâm của người sử dụng; khi được các thành viên của mạng xã hội tiếp nhận, thảo luận, truyền bá, sẽ tạo ra làn sóng tin tức mới, góp phần định hướng thông tin và có tác động lớn đối với xã hội.

Một số bất cập trong công tác quản lý

Nhận thức được sự phát triển mạnh mẽ của nội dung thông tin trên internet với những đặc thù phức tạp, những năm gần đây, các cơ quan chức năng đã tăng cường công tác quản lý đối với thông tin trên internet. Tuy nhiên, trên thực tế, internet đang thể hiện ngày càng rõ nét đặc trưng của một xã hội ảo, phản ánh ngày càng toàn diện các hoạt động của đời sống thật ở mức độ tự do hơn cho mỗi cá thể, phức tạp hơn cho công tác quản lý.


Trước tiên là, công tác xây dựng và thực thi văn bản quy phạm pháp luật. Internet là lĩnh vực đặc thù có sự phát triển nhanh, mạnh, gắn liền với sự phát triển của thế giới. Vì vậy, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quản lý lĩnh vực này cũng đòi hỏi phải được bổ sung, điều chỉnh thường xuyên cho phù hợp với sự phát triển và yêu cầu quản lý. Đến nay, hệ thống văn bản điều chỉnh các hoạt động liên quan đến việc cung cấp, sử dụng thông tin trên internet đã được bổ sung, hoàn thiện đáng kể song còn chưa đồng bộ, thiếu các quy định cụ thể để phân định rõ ràng, chính xác các hành vi vi phạm pháp luật. Việc xây dựng quy định, chính sách chưa theo kịp sự phát triển.

Vấn đề khó khăn trong việc áp dụng chính sách, pháp luật là do tính chất không biên giới của internet. Một hành vi trên internet có thể vi phạm pháp luật của một nước, nhưng lại là được phép ở một quốc gia khác, vì vậy việc xử lý vi phạm, yêu cầu gỡ bỏ thông tin sai trái trên môi trường mạng cũng bị giới hạn, chỉ có tác dụng nhất định khi người vi phạm, hành vi vi phạm xảy ra ở quốc gia đó.

Thứ hai là, năng lực quản lý nhà nước chưa theo kịp sự phát triển. Việc tổ chức thu thập thông tin, phát hiện thông tin sai phạm là công việc quan trọng đầu tiên để xác định các nội dung thông tin xấu trên internet cần xử lý. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua, công việc này còn nhiều hạn chế do đội ngũ cán bộ quản lý thông tin trên internet từ Trung ương đến địa phương còn thiếu về số lượng và yếu về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho việc lưu trữ phân tích, đánh giá thông tin sai phạm còn nhiều hạn chế. Chưa có cơ chế khuyến khích, phát huy sự phát hiện của cộng đồng mạng và người sử dụng dù đây là kênh quan trọng nhằm phát hiện kịp thời và hiệu quả các sai phạm. Bên cạnh đó, cơ chế thẩm định, kết luận nội dung thông tin sai phạm còn cứng nhắc, chưa linh hoạt; công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý sai phạm tuy đã được tăng cường nhưng năng lực bộ máy thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm còn hạn chế, thiếu về số lượng thanh tra chuyên ngành; năng lực kỹ thuật xử lý, ngăn chặn thông tin sai phạm từ các máy chủ đặt tại nước ngoài còn nhiều bất cập. Chế tài xử lý chưa đủ mạnh, chưa đạt được hiệu quả răn đe cần thiết. Hơn nữa, ý thức phối hợp của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truy cập internet trong việc xử lý, ngăn chặn thông tin sai phạm chưa cao; chế tài bắt buộc phối hợp chưa đủ mạnh. Điều đó càng làm giảm hiệu quả ngăn chặn thông tin sai phạm từ nước ngoài.

Thứ ba là, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ nội dung trên internet trong nước và nước ngoài có môi trường pháp lý không bình đẳng. Các doanh nghiệp trong nước chịu sự điều chỉnh chặt chẽ của luật pháp Việt Nam, trong khi đó các doanh nghiệp của nước ngoài cung cấp dịch vụ xuyên biên giới vào Việt Nam bị điều chỉnh hạn chế. Điều đó vô hình chung đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp nước ngoài, làm cho dịch vụ nước ngoài trở nên hấp dẫn hơn, có lợi thế cạnh tranh lớn hơn và ngày càng thu hút nhiều người dùng Việt Nam, nhất là dịch vụ mạng xã hội, dịch vụ tìm kiếm, giải trí điện tử trên mạng. Điều đó gây khó khăn cho công tác nắm bắt thông tin người sử dụng, khó khăn cho việc định hướng dư luận thông qua các nhà cung cấp dịch vụ.

Thứ tư là, hiệu quả công tác tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức người dùng internet chưa cao. Công tác tuyên truyền về pháp luật chưa đạt hiệu quả cao do thông tin còn dản trải, nguồn lực cho tổ chức thông tin tuyên truyền còn hạn chế, chưa có sự vào cuộc đồng loạt của các phương tiện truyền thông; hình thức truyền thông chưa phong phú, chưa hấp dẫn, chưa phù hợp với từng lứa tuổi, nhất là tầng lớp thanh, thiếu niên.

Hệ thống các giải pháp

Do tính mở của công nghệ, tính hai mặt của thông tin trên internet và do nhu cầu tất yếu sử dụng dịch vụ và nội dung thông tin trên internet, các giải pháp quản lý phải hướng tới việc phát huy những mặt tích cực, đồng thời hạn chế những tác động tiêu cực của internet. Vì vậy, chính sách quản lý phải là sự kết hợp đồng bộ nhiều nhóm giải pháp, bao gồm cả giải pháp hành chính, giải pháp kỹ thuật và giải pháp tuyên truyền giáo dục, trong đó tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức của người sử dụng internet là giải pháp thường xuyên, liên tục, lâu dài và đóng vai trò chủ đạo để người dùng internet từng bước thích ứng một cách tích cực với môi trường mạng, biết sàng lọc thông tin xấu, tiếp nhận thông tin hữu ích. Các nhóm giải pháp chủ yếu bao gồm:

Một là, bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm môi trường pháp lý rõ ràng, công khai, minh bạch và bình đẳng cho mọi đơn vị, cá nhân cung cấp và sử dụng thông tin internet trên lãnh thổ Việt Nam. Rà soát và sửa đổi, bổ sung nhằm nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả các văn bản hiện có phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Xây dựng các văn bản mới phù hợp với xu thế phát triển và yêu cầu công tác quản lý nhà nước. Nghiên cứu đề xuất, đàm phán các cơ chế phối hợp giữa các quốc gia trong việc quản lý các dịch vụ thông tin xuyên biên giới phù hợp với các cam kết quốc tế và yêu cầu hội nhập.

Hai là, có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam, tạo ra nhiều dịch vụ hấp dẫn, lành mạnh về thông tin và giải trí để thu hút người sử dụng trong nước, giảm thiểu tác động tiêu cực của thông tin xấu. Do môi trường pháp lý không bình đẳng về quản lý nội dung thông tin trên internet giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài, dịch vụ internet của các doanh nghiệp Việt Nam không thu hút được người dùng Việt Nam như dịch vụ của các doanh nghiệp nước ngoài. Vì vậy, cần có cơ chế đặc thù khuyến khích phát triển một số dịch vụ internet quan trọng để thu hút người dùng Việt Nam; tập trung phát triển các dịch vụ quan trọng nhất như mạng xã hội, công cụ tìm kiếm và các dịch vụ giải trí trực tuyến.

Ba là, nâng cao năng lực bộ máy quản lý nhà nước về tổ chức, nguồn nhân lực, cơ sở vật chất và trang thiết bị kỹ thuật công nghệ cao, hiện đại bảo đảm triển khai có hiệu quả các biện pháp quản lý về cả hành chính và kỹ thuật để kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý nghiêm các sai phạm theo pháp luật. Đối với các thông tin sai phạm từ nước ngoài, do không điều chỉnh được bằng luật pháp Việt Nam, vì vậy biện pháp kỹ thuật trở thành chủ đạo và cơ bản nhất để hạn chế những thông tin sai phạm từ nước ngoài. Cần khẳng định, biện pháp ngăn chặn kỹ thuật cũng chỉ có hiệu quả nhất định, không giải quyết được triệt để thông tin sai phạm từ nước ngoài. Tuy nhiên, đây là biện pháp duy nhất mà ta có thể chủ động tiến hành, đồng thời nó cũng có ý nghĩa răn đe tốt khi cần công khai xử lý những trường hợp đặc biệt.


Bốn là, tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức cộng đồng. Đây là nhóm giải pháp có ý nghĩa then chốt và lâu dài nhằm nâng cao dân trí một cách toàn diện. Nhóm giải pháp này đòi hỏi phải xây dựng một đề án thông tin riêng, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý, đời sống, trình độ nhận thức và điều kiện thực tiễn của Việt Nam, bảo đảm tính đa dạng, hấp dẫn, đáp ứng đúng yêu cầu thực tiễn đặt ra. Xây dựng kế hoạch tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông đại chúng như báo chí, kết hợp với truyền thông xã hội, với gia đình, nhà trường, các tổ chức đoàn thể nhằm hướng dẫn, nâng cao ý thức sử dụng thông tin trên internet của người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ để tự mình sàng lọc những nội dung xấu, khai thác những thông tin phục vụ nhu cầu thông tin và giải trí lành mạnh.

Năm là, huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương, phối hợp trách nhiệm giữa các cơ quan chức năng với các tổ chức, đoàn thể, giữa gia đình và nhà trường, giữa ý thức cá nhân với các phong trào mang tính cộng đồng, hướng tới một văn hóa internet lành mạnh, đóng góp ngày càng tích cực và hiệu quả vào sự phát triển của toàn xã hội./.



Đỗ Quý Doãn

Việt Nam sẽ là một trong những quốc gia sản xuất vaccine nhiều nhất trên thế giới




Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến nhận Giấy chứng nhận Hệ thống quản lý quốc gia về vaccine của Việt Nam đạt chuẩn quốc tế từ đại điện WHO. Ảnh: vov.vn

Trưởng đoàn chuyên gia WHO khẳng định: trong 20-30 năm nữa, Việt Nam sẽ là một trong những quốc gia sản xuất vaccine nhiều nhất trên thế giới”.

Bộ Y tế Việt Nam long trọng tổ chức “Lễ công nhận Hệ thống quản lý quốc gia về vaccine của Việt Nam đạt chuẩn quốc tế của Tổ chức Y tế thế giới” vào chiều tối 22-6 tại Hà Nội.

Việt Nam tự sản xuất được 10/12 loại vaccine

Như vậy, sau 14 năm chuẩn bị, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 39 được WHO công nhận đạt tiêu chuẩn cơ quan quản lý quốc gia về vaccine trong tổng số 43 nước có sản xuất vacine trên thế giới.

Tại buổi lễ công nhận, Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam nhấn mạnh: “Chúng ta rất tự hào, nếu các bạn nhìn thấy, phần lớn những chỉ tiêu đánh giá của các tổ chức thế giới về các mặt kinh tế, xã hội của Việt Nam thường đứng từ 70-90 trong các nước, việc Việt Nam là 1 trong số 39 quốc gia được công nhận đạt tiêu chuẩn NRA hết sức có ý nghĩa. Nó không chỉ thể hiện sự làm việc nghiêm túc của cả hệ thống quản lý của ngành Y tế mà còn là công sức của rất nhiều nhà khoa học, những kết quả đã được thể hiện qua việc chúng ta tự sản xuất được 10/12 loại vaccine trong chương trình tiêm chủng mở rộng. Đó là: lao, bạch hầu, ho gà, uốn ván, sởi, viêm gan B, viêm gan A, viêm não Nhật Bản B, tả, thương hàn, tiêu chảy”.

Việc được WHO đánh giá và công nhận Hệ thống quản lý quốc gia về vaccine (NRA) đạt tiêu chuẩn quốc tế là thành tựu đáng tự hào của Bộ Y tế Việt Nam. Để đạt được thành tựu này, Việt Nam đã chuẩn bị một thời gian dài rất kỹ lưỡng, và bắt đầu tăng tốc cách đây gần 2 năm. Hơn 1 năm qua, Bộ Y tế đã mời 30 chuyên gia của WHO và các tổ chức quốc tế đến Việt Nam hỗ trợ cho việc nâng cao năng lực của cơ quan quản lý quốc gia về vaccine để đạt tiêu chuẩn quan trọng này. Để bảo đảm các sản phẩm vaccine có chất lượng và an toàn, Việt Nam đã triển khai đồng bộ các nội dung theo bộ công cụ tiêu chuẩn đánh giá năng lực của cơ quan quản lý quốc gia về vaccine của WHO.

Các tiêu chí trong bộ công cụ nhằm hướng dẫn các quốc gia tự đánh giá về việc thực hiện các chức năng quản lý để hướng tới mục tiêu cao nhất là vaccine sản xuất ra bảo đảm an toàn, chất lượng theo tiêu chuẩn thống nhất của quốc tế.


Mở ra cánh cửa xuất khẩu vaccine “Made in Việt Nam”

Vaccine là vũ khí hữu hiệu bảo vệ con người trước các dịch bệnh nguy hiểm. Trung bình mỗi năm thế giới có khoảng 3 triệu người được cứu sống nhờ được tiêm chủng. Vaccine là loại dược phẩm đặc biệt góp phần rất lớn vào việc đẩy lùi bệnh tật và giảm tỷ lệ tử vong cho con người, giảm chi phí chăm sóc y tế, nâng cao sức khỏe cộng đồng.

Trong những năm qua, Việt Nam đã không ngừng triển khai hoàn thiện hệ thống tiêm chủng quốc gia, nhằm ngăn ngừa những bệnh dịch nguy hiểm. Theo thống kê của Bộ Y tế, hiện nay đã có gần 30 bệnh truyền nhiễm có thể dự phòng được bằng vaccine.

Với việc đạt chứng nhận NRA, Việt Nam đang đứng trước một cơ hội rất lớn để phát triển ngành công nghiệp vaccine. Thay vì chỉ phục vụ thị trường nội địa mà chủ yếu là khoảng 1,7 triệu trẻ em mới sinh hàng năm, nay các nhà sản xuất vaccine trong nước có cơ hội nâng cao năng lực, sản xuất vaccine để xuất khẩu sản phẩm đi khắp thế giới, đặc biệt cho các chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia cần nguồn vaccine giá thành phải chăng và bảo đảm chất lượng, độ an toàn. Đồng thời, với thành tựu này, các nước cũng sẽ quan tâm hơn đến đầu tư sản xuất vaccine tại Việt Nam. Bởi vì, một trong các điều kiện tiên quyết để xuất khẩu vaccine là không chỉ nhà máy đạt chuẩn, mà hệ thống quản lý quốc gia về vaccine cũng phải đạt theo tiêu chuẩn của WHO.

Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến khẳng định: “Đây được coi là bước tiến quan trọng của Bộ Y tế Việt Nam, mở ra cánh cửa xuất khẩu vaccine “Made in Việt Nam” ra thế giới, góp phần cung cấp vaccine phòng, chống dịch bệnh cho khu vực và thế giới”.

Ông Lahouari Belgharbi, Trưởng đoàn chuyên gia WHO khẳng định: “Đến thời điểm này, Việt Nam là 1 trong 39 quốc gia trên thế giới được công nhận NRA đạt theo tiêu chuẩn của WHO, chuẩn mực quốc tế. Với năng lực của Việt Nam về hệ thống quản lý chất lượng vaccine, đội ngũ nhà khoa học cùng với chiến lược đầu tư, phát triển phù hợp, trong 20-30 năm nữa, Việt Nam sẽ là một trong những quốc gia sản xuất vaccine nhiều nhất trên thế giới”.

Theo ông Lahouari Belgharbi, sau khi NRA đạt chuẩn của WHO, vaccine sản xuất tại Việt Nam có đủ điều kiện để tiền thẩm định trước khi xuất khẩu. Tới đây, WHO sẽ mời chuyên gia Việt Nam tham gia đoàn đánh giá năng lực của hệ thống quản lý quốc gia về vaccine của một số quốc gia như: Nga, Australia.

Việt Nam có hy vọng phát triển ngành công nghiệp vaccine

Với việc đạt NRA, Việt Nam là một trong số 39 quốc gia sản xuất vaccine có đủ điều kiện xuất khẩu. Hiện nay, Việt Nam có 4 nhà máy sản xuất vaccine với trang thiết bị, dây chuyền và công nghệ hiện đại đạt tiêu chuẩn thực hành tốt sản xuất của WHO. Việc sử dụng vaccine sản xuất ở Việt Nam trong chương trình tiêm chủng mở rộng đã và đang tiết kiệm cho nhà nước hàng nghìn tỷ đồng do không phải nhập khẩu vaccine. Bên cạnh đó, các nhà sản xuất vaccine của Việt Nam đã cung cấp nhu cầu trong nước và đáp ứng được nhu cầu xuất khẩu. Đến nay, Việt Nam đã bắt đầu xuất khẩu được 1 số loại vaccine như: viêm não Nhật Bản, sởi, viêm gan A, viêm gan B và tả…

Nói về cơ hội mới của ngành sản xuất vaccine của Việt Nam, TS. Trương Quốc Cường, Cục trưởng Cục Quản lý Dược (Bộ Y tế), trong bản báo cáo của đoàn đánh giá WHO đã nhận định, Việt Nam có tiềm năng sản xuất vaccine rất lớn. WHO xếp Việt Nam vào 1 trong 25 quốc gia sản xuất vaccine chiếm 90% doanh số của toàn cầu, đội ngũ cán bộ nghiên cứu, sản xuất vaccine đạt tiêu chuẩn quốc tế.

Được coi là ngành công nghiệp có giá trị thặng dư cao, công nghiệp sản xuất vaccine đem lại doanh thu lớn cho các quốc gia phát triển mạnh ngành này. Theo một báo cáo của tác giả Alison (đăng trên tạp chí của Cục Quản lý dược, Bộ Y tế - PV), 10 năm trước (năm 2002), thị trường vaccine toàn cầu đạt 5,7 tỷ USD/1 năm, đến năm 2012 đã tăng lên 27 tỷ USD, dự kiến tốc độ tăng trung bình đến năm 2015 là 10,3%, trong đó doanh số một số loại vaccine đứng trong top 10 là vaccine PENTACT - HIB của Công ty Sanofi với doanh số 1,3 tỷ USD/năm; Pediarix (ngừa bạch hầu, uốn ván, ho gà, viêm gan B, bại liệt) của công ty GSK là trên 1 tỷ USD/năm; vaccine ngừa viêm gan A, viêm gan B của GSK là 1 tỷ USD…




Trong các ngày từ 13-4 đến 17-4-2015, Đoàn chuyên gia độc lập của Tổ chức Y tế thế giới gồm 16 thành viên đến từ 12 quốc gia trên thế giới đã tiến hành đánh giá chính thức chức năng hệ thống quản lý quốc gia về vaccine tại Việt Nam với kết quả đánh giá tất cả các chức năng đạt trên 90%; trong đó có những chức năng đạt 100%./.

Theo: vov.vn

Thứ Ba, 23 tháng 6, 2015

Những đe dọa nguy hiểm từ mất cân bằng giới tính trong thế kỷ XXI


LÊ ĐỖ HUY (TỔNG HỢP)


Độc giả Việt Nam còn nhớ phe đảng Hứa Gậy gộc trong truyện về cách mạng Trung quốc Rừng thẳm tuyết dày, ấn hành những năm 1960. Từ đầu thiên niên kỷ mới, các nhà quan sát quốc tế ngày càng quan ngại hơn về tình trạng “quang côn” (guang gun - gậy trơ trụi - những người đàn ông không lập được gia đình) ở Trung quốc. Các nghiên cứu về vấn đề này cho rằng đây là đường dẫn tới tội phạm, giặc cướp, bất ổn, ở quốc nội, và gây chiến với các nước láng giềng.


Chuông báo động từ Nga
Dưới đầu đề “Báo chí xôn xao về mất cân bằng giới tính ở Trung quốc”[1]báo của ngành nhân khẩu học ở Nga năm 2005 giới thiệu một tổng quan về tình trạng này ở Trung Quốc, với những cảnh báo mà hôm nay nhìn lại, tỏ ra chính xác[2].

Nhiều học giả Nga (và phương Tây) đổ lỗi cho quốc sách “mỗi gia đình chỉ sinh một con” mà chính quyền Trung quốc đã ban hành năm 1979 là nguyên nhân gây ra tình trạng này. Các biện pháp thực hiện chính sách này khá cứng rắn: nếu vẫn sinh con thứ hai, gia đình sẽ bị phạt nặng. Bắc Kinh dự kiến rằng tới năm 2000, dân số Trung quốc sẽ chỉ lên tới 1,2 tỉ người. (Tuy nhiên, vào khoảng giao thừa thiên nhiên kỷ mới, dân Đại lục đã lên tới 1,3 tỷ nhân khẩu).

Trước đó, 2002, Hãng thông tấn Lenta của Nga đã cảnh báo rằng, tình trạng thiếu đàn bà sẽ buộc “chính phủ Trung quốc xung đột vũ trang với các nước khác”, để “giải quyết nạn thừa đàn ông”[3].

Âm thịnh dương suy?

Theo các học giả Trung quốc, điều này dẫn tới thay đổi thang giá trị trong xã hội, trước kia đàn ông chọn vợ cho mình, nay ngược lại, phụ nữ kén chồng. Nhưng dù địa vị xã hội của phụ nữ trưởng thành có tăng lên do phận “mỳ chính cánh” (cách nói của Hà Nội thời bao cấp chỉ sự khan hiếm), cá thể giới tính nữ ở Trung quốc có xu thế bị giết chết khi còn là bào thai có lẽ là cao nhất, vì các gia đình chỉ nhăm sinh ra con trai trong một quá trình dài.

Tạp chí Trung quốc Beijing Luntan năm 1997[4] cho biết, tình trạng thừa đàn ông đã trở thành đường dẫn cho các tội phạm như “cưỡng hôn, bắt cóc cô dâu, vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng, mua bán dâm, cưỡng hiếp …”. Mua bán, bắt cóc phụ nữ đã trở thành chuyện thường ngày ở huyện (ở nông thôn) trong khi nạn mãi dâm hoành hành ở các đô thị.

Tỷ lệ phạm tội đã tăng gấp ba lần trong 20 năm tính đến đầu năm 2004, khi số tội phạm nghiêm trọng tiến gần đến con số một triệu (khoảng 923 ngàn) được ghi nhận chỉ trong ba tháng đầu năm 2004. Đa số thủ phạm của các vụ trọng án là những thanh niên độc thân, chưa vợ, và bất mãn về vị thế của mình trong cộng đồng[5].

Học giả phương Tây nghiên cứu thâm hậu

Các nhà Trung quốc học phương Tây đã nghiên cứu vấn đề này khá công phu. Năm 2004, NXB MIT Press xuất bản cuốn sách Nạn Guang gun: nguy cơ từ châu Á (‘Bare Branches’ and Danger in Asia (2004)[6] của Valerie Hudson và Andrea den Boer. Sách được giải Otis Dudley Duncan Awardcủa Hiệp hội Xã hội học Hoa Kỳ (ASA).

Trong từ điển, Guang gun là trai (đàn ông) chưa vợ, độc thân, cô đơn, ế vợ. Gun (âm Hán Việt: côn) là cây gậy dùng để đánh nhau, guang (quang) ở đây là trần trụi. Người bản ngữ Anh dịch thành Bare Branches, cành không lá, không đâm chồi nảy lộc, không hoa. Guang gun hay bare Branches hôm nay trở thành một thuật ngữ quốc tế chỉ tình trạng thừa đàn ông không đính hôn (unattached males)ở Trung quốc đang ngày một gây lo âu cho an ninh toàn cầu[7].

Nhìn chung, chuyện gì sẽ xảy ra với một xã hội có quá nhiều đàn ông? Hudson và Boer biện luận rằng, về phương diện lịch sử, một tỷ lệ chênh lệch quá cao giữa đàn ông và đàn bà sẽ thành cò súng làm nổ bùng bạo lực cả trong nước lẫn quốc tế. Phần lớn tội phạm có yếu tố bạo lực là do nam thanh niên trẻ không được ràng buộc một cách ổn định về địa vị xã hội gây ra. Dù đây không phải là một quan hệ nhân - quả trực tiếp, nhưng xưa nay, sự dư thừa đàn ông thường có vai trò quyết định trong cách hành xử thiên vũ lực thường thấy trong cộng đồng. Các chính quyền thường xử lý tình trạng này bằng cách động viên số nam giới dư thừa vào các chiến dịch quân sự và các đại công trình có độ an toàn lao động thấp. Các nước mất cân bằng giới tính thường là những nước thực hiện chế độ chính trị độc tài.

Sách Nạn Guang gun: nguy cơ từ châu Á phản ánh nỗi khổ, sự bế tắc của những Guang gun - tiếng Trung quốc chỉ những chàng trai nghèo không lập được gia đình. Nạn Guang gun có xuất phát điểm từ một truyền thống phân biệt đối xử do giới tính (genderism) - một thực tại đã tước đoạt quyền sống của vô vàn bé gái ở Trung quốc, và cả ở một sốcác quốc gia châu Á khác.

Các tác giả cho rằng nạn Guang gun đe doạ ổn định khu vực và an ninh thế giới trong thế kỷ 21. Sách của Hudson và Boer được xem là một công trình khoa học công phu, nghiêm túc, được sách báo về an ninh khu vực châu Á – Thái Bình Dương trích dẫn thường xuyên.

Các tác giả phương Tây khác cho rằng vẫn khá phổ biến tình trạng các em gái bị mất hy vọng được sống[8] trước khi chào đời (phá thai sau khi nhận biết được giới tính), hoặc thậm chí bị sát hại sau khi lọt lòng[9].

Trận hồng thuỷ Guang gun

Để so sánh, trong bài “Quá thừa đàn ông, thiếu đàn bà” trên báo Times[10], cho biết sách báo cũng đánh giá đội ngũ Guang gun ở châu Á là khoảng 110 triệu, ở thời điểm giao thời giữa hai thiên niên kỷ.





Mất cân bằng giới tính ở Trung Quốc năm 2000. Các vùng có màu đỏ đậm có tỷ lệ sinh đẻ là từ 130 đến trên 150 em trai sơ sinh trên 100 em gái.

Trong bài “Thừa đàn ông - thiếu hoà bình” tác giả J. Power dẫn Thống kê dân số Trung Quốcnăm 2009, cho hay đang có một sự thiếu cân bằng rất nghiêm trọng về tỷ lệ sinh đẻ: 117 bé trai so với 100 bé gái. Ở tỉnh Hải Nam tỷ lệ này là 135/100. Hiện nay, có tới 97% người chưa lập gia đình trong độ tuổi từ 28 – 49 là đàn ông[11].

Các học giả cho hay các khu vực có màu đỏ rất sậm (tỉ lệ sinh đẻ là trên 150 bé trai/100 bé gái), đỏ sậm (tỷ lệ này là 140 - 150/100), đỏ (130 – 140), cũng như bức trang toàn cảnh về lệch cân bằng giới tính (skewed sex ratio) ở Trung Quốc vẫn ngày một xấu đi.

Các bài viết đều cho rằng, tựa như trong lịch sử, các băng nhóm đi ăn cướp do thiếu đàn bà (womanless bandits) vẫn đang giăng một màn đêm u ám trên đất nước Trung Hoa hôm nay. Các cách giải quyết của Bắc Kinh vẫn khá “quẩn quanh”, cho những Guang gun này phục vụ trong các lực lượng cảnh sát để trị những Guang gun khác, hoặc đưa đi các vùng xa Bắc Kinh, Thượng Hải… để khỏi gây mất an ninh cho các đô thị; hoặc ngược lại đưa đi làm công một cách đại trà ở các nước khác, trong một quá trình về thực chất là di dân. Ngày càng có quan ngại về bất ổn do hàng vạn đàn ông “không gia đình” từ Trung quốc trôi dạt khắp nơi.

Nhưng như tác giả Paul Wiseman dự báo trên tờ USA Today[12] ngay từ đầu thế kỷ, là Bắc Kinh vẫn không tìm được lối thoát cho tình trạng thừa đàn ông, sẽ vẫn phải đi vào chốn đoạn trường, là tìm kiếm xung đột vũ trang với các nước láng giềng, dẫn trường hợp Bồ Đào Nha thời Trung Cổ, do thiếu đất đai và thừa “đực rựa”, đã đưa họ đi xâm lược Bắc Phi. Các học giả phương tây chưa thấy kết bằng một câu, rằng các lính Âu - Phi, hẳn là hậu duệ của kẻ xâm lược Bồ và những phụ nữ bị cưỡng đoạt tại các thuộc địa Bắc Phi, đã được đưa sang xâm lược Việt Nam thế kỷ 20. Chúng khét tiếng với tên là bọn lính Tabo…

Paul Wiseman và các tác giả khác đều cho rằng các biện pháp độc đoán buộc phải áp dụng nhằm khắc phục nạn Guang gun làm cho Trung Hoa càng khó tiếp cận quỹ đạo của các thể chế dân chủ[13].



Trận đánh của các Guang gun giữa thế kỷ 19.

Nguồn: http://pl.wikipedia.org/w/index.php?title=Plik:Battle_Nien_Rebellion.jpg&filetimestamp=20100516021053

Nơi Guang gun nổi dậy nay lại đỏ sậm

Nhìn vào bản đồ mất cân bằng giới tính ở Trung Quốc, ta như nghe thấy tiếng vọng của bài giảng thời còn học phổ thông về các cuộc nổi dậy lớn ở Trung Hoa nửa cuối thế kỷ 19. Thời đó có khoảng 25% đàn ông Trung quốc không lấy được vợ[14]. Để so sánh, các số liệu cho hay 10 năm nữa cứ 5 người đàn ông Trung quốc thì một người sẽ không lập được gia đình. Các học giả cho rằng điều này không thể chấp nhận đối với một xã hội thời bình[15].

Tại khu vực có nhiều màu đỏ sậm nằm ở phía tây bán đảo Hoa Đông, như Hồ Bắc,trên Bản đồ mất cân bằng giới tính ở Trung Quốc, vào thời khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc từng đạt tới tỷ lệ khoảng 130 đàn ông trên 100 đàn bà. Các nhà Trung quốc học như Hudson và Boer khẳng định rằng sựlệch cân bằng giới này đã bùng phát cuộc nổi loạn Niệm (Nien) mà báo chí bằng nhiều thứ tiếng về chủ đề Guang gun đều nhắc đến. Kể từ năm 1995, Hồ Bắc đã qua ngưỡng tỷ lệ 130 bé trai/100 bé gái sơ sinh[16]

Trong suốt ba mươi năm từ giữa thế kỷ 19, khoảng 10 vạn Guang gun thuộc Niệm quân đã hoành hành trên một địa bàn rộng quanh tỉnh Hồ Bắc. Dù cuộc nổi dậy này bị dập tắt, sử gia cho rằng nó là một trong những yếu tố căn bản dẫn đến sự sụp đổ của triều đình Mãn Thanh về sau[17].




[1]http://demoscope.ru/weekly/2005/0191/gazeta04.php

[2]http://www.newsland.ru/News/Detail/id/441551/cat/42/

[3]http://www.lenta.ru/world/2002/06/19/china/

[4]http://www.timesonline.co.uk/tol/life_and_style/article448270.ece

[5]http://www.timesonline.co.uk/tol/life_and_style/article448270.ece

[6]http://www.amazon.com/Bare-Branches-Implications-Population-International/dp/0262083256

[7]http://www.timesonline.co.uk/tol/life_and_style/article448270.ece

[8]http://www.nzherald.co.nz/world/news/article.cfm?c_id=2&objectid=10430539.

[9]Sách Thông điệp của người mẹ Trung quốc vô danh (Message from an Unknown Chinese Mother), của Xinran Xue, NXB Chatto & Windus (2010).

[10]http://www.timesonline.co.uk/tol/life_and_style/article448270.ece

[11]http://www.transnational.org/Columns_Power/2009/46.SurplusMen.html

[12]http://www.usatoday.com/news/world/2002/06/19/china-usat.htm

[13]Chẳng hạn: http://www.timesonline.co.uk/tol/life_and_style/article448270.ece

Và một số nguồn tiếng Nga.

[14]http://www.usatoday.com/news/world/2002/06/19/china-usat.htm

[15]http://www.economist.com/node/15636231

[16]http://www.usatoday.com/news/world/2002/06/19/china-usat.htm

[17]http://en.wikipedia.org/wiki/Nien_Rebellion

Luận bàn về những vấn đề minh triết (Góp phần định nghĩa minh triết)


HOÀNG NGỌC HIẾN

Trong tiểu luận “Những dị biệt giữa hai nền triết lý Đông Tây” (1960) của Kim Định (1915-1997) tác giả đề nghị ước lệ phân biệt 3 ý niệm: triết lý, minh triết, triết học. Cho đến nay vẫn lưu hành một thành kiến cho rằng chỉ phương Tây mới có triết lý, phương Đông có tư tưởng, có Đạo học, có minh triết… nhưng không có triết lý. Với một cách ước định riêng thuật ngữ “triết lý”, Kim Định khẳng định: có triết lý phương Tây và có triết lý phương Đông ngay từ thời cổ (cổ đại và trung đại)

Tôi bắt đầu tiểu luận này bằng những suy nghĩ có liên quan đến chủ đề minh triết của hai học giả Việt Nam: Ngô Thời Sĩ (1740-1786) và Kim Định (1914-1997)1

- Ngô Thời Sĩ có phân biệt “đạo lý thánh hiền” và “đạo lý đời thường”: “Đem đạo thánh hiền để quở trách thói đời không bằng đem đạo đời thường để cảm hoá lòng người”. Trên đại thể, minh triết là “đạo lý đời thường”. Đạo lý này có tính chất đời thường vì, cũng như tính Phật, nó sẵn có ở mọi người. Nói môt cách khác, ai cũng có thể có minh triết. Triết lý thì khác, triết luận đòi hỏi năng lực tư duy đặc biệt, không phải cứ muốn thì trở thành triết gia. Đời thường còn có nghĩa là kinh nghiệm trong cuộc sống thường nhật. Trí khôn, trí tuệ, trí thức… của minh triết bao giờ cũng gắn với kinh nghiệmsống đời thường, nó vốn nảy sinh từ những kinh nghiệm này. Đây là một đặc tính quan trọng của minh triết. Triết lý thì khác, nó thiên về thuần lý và có xu hướng thoát ra khỏi “tính cục bộ”, “tính cụ thể” của kinh nghiệm.. Đến đây dựa vào những đặc trưng của ý thức minh triết và nhất là tư tưởng hiền minh của Ngô Thời Sĩ, tôi mạnh dạn đưa ra một định nghĩa về minh triết như sau: “Minh triết là tính sáng khôn (có khi được diễn ngôn thoáng gọn) chủ yếu được sống và sống ở bình diện đạo lý đời thường, tuy vậy không xa lạ với đạo lý thánh hiền, thiên về cảm hóa lòng người hơn là quở trách thói đời”. Dùng từ “tính sáng khôn” tôi muốn hiểu minh triết cũng như tính Phật là tính sẵn có trong lòng người, nói như Nhất Hạnh, nó là “hạt giống tốt’ vốn có ở mọi người. Cân nhắc giữa 3 từ: “trí khôn”, “sự khôn ngoan”, “tính sáng khôn”, cuối cùng tôi chọn từ “tính sáng khôn”, “tính sáng” như là một thuộc tính của “minh tâm” và Phật tính là một từ của nhà Phật được nhắc đến nhiều lần trong bài “Cư trần lạc đạo phú” nổi tiếng của Trần Nhân Tông (1258-1308)2. Tôi nhấn mạnh: “chủ yếu được sống và sống” bởi lẽ lẽ sống của nhà hiền triết là “sống” và “sống” minh triết chứ không phải “nói” và “nói” minh triết. Tôi nhấn mạnh thuộc tính “thiên về cảm hóa lòng người…” vì ở trạng thái nhân thế hiện nay, ở xã hội ta cũng như trên toàn thế giới, ý thức con người thiên về “phá” hơn là “xây”, những thiện chí “cảm hóa lòng người” bị “lép vế”, bị lấn át, thậm chí bị áp đảo trước những cơn cuồng nộ quở trách, chửi rủa vô tội vạ “thói đời”. Cảm hứng chủ đạo của minh triết là “xây dựng” bằng “sự cảm hóa lòng người”.

- Trong tiểu luận “Những dị biệt giữa hai nền triết lý Đông Tây” (1960) của Kim Định (1915-1997) tác giả đề nghị ước lệ phân biệt 3 ý niệm: triết lý, minh triết, triết học. Cho đến nay vẫn lưu hành một thành kiến cho rằng chỉ phương Tây mới có triết lý, phương Đông có tư tưởng, có Đạo học, có minh triết… nhưng không có triết lý. Với một cách ước định riêng thuật ngữ “triết lý”, Kim Định khẳng định: có triết lý phương Tây và có triết lý phương Đông ngay từ thời cổ (cổ đại và trung đại):

Tư duy triết lý phương Đông mang những đặc điểm của tư duy minh triết mà những nét tiêu biểu nhất là:

- “lấy cứu cánh con người làm trọng tâm suy nghĩ, lấy sự thực hiện đến rốt ráo cái tính bản nhiên con người làm mục tiêu (tận kỳ tính) [réaliser l’humanité] “(xem tr.3)3

- những lời huấn đức minh triết được trình bày “tuy vắn tắt kiểu châm ngôn nhưng có hiệu lực muôn đời như: Pythagore, Khổng Tử, Lão Tử, Thích Ca v.v.(H.N.H.tô đậm]” (xem tr.2)

- những nhà hiền triết “lo sống cái minh triết hơn là nghĩ đến viết ra sách vở (H.N.H. tô đậm)” (xem tr.2); họ cố gắng thực hiện minh triết “không phải ngoài cõi nhân sinh mà ngay trong đời sống, trong lối cư xử, trong cử chỉ”

- Phương pháp của tư duy minh triết “là thể nghiệm, trực giác, không dùng đến lý luận, phân tích(H.N.H. tô đậm)”, “lý chứng, luận bàn” (xem tr.3), đương nhiên là không xây dựng hệ thống.

Tư duy triết lý phương Tây thiên về kiểu “tư duy triết học” mà những đặc điểm chính được Kim Định xác định như sau:

- “không lấy con người mà lấy thiên nhiên sự vật làm trung tâm suy tư,……. con người chỉ được bàn đến một cách phụ thuộc, hay đúng hơn bằng những phạm trù của sự vật” (xem tr.4)

- “Triết Tây hầu hết là duy niệm, nghĩa là chỉ dùng có ý niệm suông, ngoài mọi tình cảm, ngoại lý (irrationnel) và tiềm thức. Những khoản này mới được chú ý đến từ ít chục năm sau đây (H.N.H. tô đậm)” (xem tr.22)

- “phương pháp: theo lối khoa học phê phán và phân tách, cố tìm ra những ý niệm độc đáo và tích luỹ sự kiện để kết thành những hệ thống mạch lạc chặt chẽ…”

- “mục tiêu lấy tri thức làm cùng đích.”

- trong khi minh triết “được giấu vào trong cử chỉ, thể hiện vào đời sống và trong cả sự im lặng…” thì những hệ thống triết học “kiểu nhà trường” được quăng ra, nằm “chình ình bên cạnh đời sống.”

Vài thế kỷ gần đây do sự tiếp xúc Đông-Tây ngày càng mở rộng và có chiều sâu, sự tương tác giữa triết học phương Tây và minh triết phương Đông ngày càng có hệ quả rõ rệt.

Một mặt, “triết học Tây phương hiện phát động một phong trào di cư vĩ đại: di cư từ những nền móng cũ đến định cư trên những nguyên lý mới” (tìm thấy ở minh triết Đông):

- “nguyên lý biến dịch thay vào ý niệm bản thể im lìm”

- “nguyên lý cơ thể4 thay vào ý niệm cơ khí…”

- “Bớt chú trọng … thiên nhiên để nhấn mạnh đến thân phận con người.”

- Ngoài khái niệm duy lý, có chú ý đến “tình cảm, ngoại lý (irrationel), tiềm thức” (xem tr.7)

Mặt khác, “Đông phương chịu ảnh hưởng rất nhiều từ Tây phương: (1) về phương diện lý luận trình bày và chú ý đến phần lịch sử hơn, (2) đưa vào một óc phê phán được thức tỉnh và không chấp thuận dễ dàng mọi huấn điều tiền nhân, (3) dùng sự mổ xẻ phân tích dưới nhiều khía cạnh khác nhau để làm sáng tỏ vấn đề” (xem tr.7). Ngày nay, muốn bàn về minh triết Đông, không thể không biết triết học Tây, phải nghiên cứu những phạm trù và lịch sử của nó.

Tiểu luận về “hai nền triết lý Đông-Tây” của Kim Định nêu lên nhiều vấn đề đến nay vẫn có tính thời sự. Tư trào phục hưng minh Triết mới đột khởi ở phương Tây cách đây mươi năm trong khi Kim Định cách đây nửa thế kỷ (bài tiểu luận được viết trong những năm 1956-1961) đã khẳng định con đường đế vương của minh triết trong lịch sử tư tưởng nhân loại thời quá khứ, hiện tại cũng như trong tương lai. Rất tiếc do phạm vi của chủ đề, trong bài này chúng tôi chỉ có thể nêu lên phần nào còn sơ sài vài ba vấn đề.

* * *

Trong lịch sử tư tưởng phương Tây, ngay từ đầu nguồn của triết học, triết lý đã được đặt trong tương quan với minh triết5. Minh triết là bất cập với con người, chỉ Thượng đế mới có minh triết (sophia). Triết gia chỉ dám nghĩ đến sự vươn tới minh triết với tư cách là người quí mến minh triết, cũng có thể đây là một cách bày tỏ thái độ khiêm nhường, khỏi bị nghi oan là báng bổ, dám sánh ngang với Thượng đế. Như vậy ở đầu nguồn của triết học, minh triết (sophia) là trên-triết học(philosophia)

Triết học phương Tây phát triển qua các thời đại. Đặc biệt đến thế kỷ XVIII, triết luận trở thành một hoạt động bộ môn quy củ chuyên sâu, đã có thể nói đến sự hình thành của giới triết gia chuyên nghiệp. Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, những thành tựu rực rỡ của triết học cổ điển Đức phát huy thanh thế của triết học. Có sự thay đổi trong tương quan giữaminh triết và triết học. Không ít triết gia phương Tây xem minh triết là người bà con nghèo của triết học. Minh triết bị lép vế, không có sức thuyết phục chứng minh của tri thức khoa học, triết học, cũng không có sự linh diệu thần khải của tín điềutôn giáo. So với tư duy triết học có những bay bổng mê hồn thì những lời bàn của minh triết xem ra tẻ nhạt, ỉu sìu, ngán ngẩm, tủn mủn, không có góc cạnh. “Minh triết - Wittgenstein, một triết gia Anh gốc Áo (1889-1951) viết - là cái gì đó nguội lạnh và do đo lẩn thẩn... Cũng có thể nói như thế này: minh triết chỉ che đậy cuộc sống, làm cho ta không thấy được nó. Minh triết giống như tro xám, nguội lạnh phủ lên than hồng”. Sự phát triển lịch sử làm nổi bật một ưu thế lớn của triết học:triết học có lịch sử, nhiều lịch sử, nhưng chưa bao giờ có lịch sử minh triết (chỉ có lịch sử tư tưởng của một bậc minh triết). Với sự phát triển của triết học phương Tây hiện đại, dưới con mắt của nhiều triết gia phương Tây hiện đại, minh triếttrở thành cái gì đó dưới-triết học. Theo quan niệm của nhà triết học Pháp François Jullien, minh triết không “dưới” (sous-) “triết học”mà là “hạ tầng” (infra-) cuả triết học”.

Từ những năm cuối thế kỷ XX, ở phương Tây, đặc biệt ở Mỹ, có một trào lưu phục hưng minh triết ngày càng rộng lớn, nhằm trả lại cho minh triết địa vị và vai trò xứng đáng của nó trong đời sống tinh thần của nhân loại. Có học giả đánh giá đây là một trào lưu Khai sáng thứ hai. Chỉ cần mở trang Web “Wisdom Page” (Trang Minh triết) là có danh sách hàng trăm tiểu luận và công trình về Minh triết được giới thiệu nghiêm túc, có hệ thống, phân tích cặn kẽ. Đặc biệt từ 2005 đến 2006, trên mạng số bài mục về minh triết tăng 600%, tổng số trang Web có từ wisdom (minh triết) lên đến 17 triệu trang. Tôi đặc biệt chú ý đến mấy sự kiện sau đây:

- Càng ngày càng có nhiều học gỉa lên tiếng thay “kinh tế trí thức” bằng “kinh tế minh triết”, thay “giáo dục trí thức” bằng “giáo dục minh triết”… Kinh tế trí thức đơn thuần không có minh triềt cũng như giáo dục trí thức đơn thuần không có minh triết …đang đưa nhân loại đến bờ vực thẳm.

- Để xây dựng xã hội cần có vốn. Những năm 60 thế kỷ trước, vốn trước hết là tiền mặt. Những năm 70, vốn là trí thức. Những năm 80, có xu hướng đề cao vốn xã hội (tức là ý thức gắn bó với xã hội, với tập thể và cộng đồng). Ngày nay, có nhiều học giả đưa ra yêu cầu đặt vốn minh triết lên trên hết.

- Một công trình đồ sộ có nhan đề Wisdom Bible (Kinh thánh Minh triết) đã được biên soạn, thu thập những viên ngọc “minh triết” của những nền văn minh cổ của nhân loại: Trung Quốc (Đạo đức kinh, Đại học, Trung dung…), Ấn Độ (Kinh Upanishad, Đạo Hin đu, Kinh Phật), Trung Đông (Đạo Do Thái, Đạo Hồi, Kinh Coran), Hy-La (Platon, Epicure, Epictete [chủ nghĩa khắc kỷ], Boece [cổ La Mã]…). Điều đáng chú ý là có những văn bản của những triét gia đích thực cũng được đưa vào bộ Kinh Thánh Minh triết này (có nghĩa là sự phân biệt minh triết và triết học chỉ có tính chất tương đối).

- Đã xuất hiện những trường Đại học Minh Triết (Wisdom University). Riêng bang California có vài ba trường như vậy. Tiêu biểu nhất là Đại học Minh Triết có trụ sở ở San Fransisco. Trường này được thành lập năm 1996, chỉ đào tạo trên đại học (M.A. và Ph.D.). Đối tượng đào tạo của Trường là “những người đã có trình độ nghiệp vụ chín chắn muốn đặt mình vào một văn cảnh sống và học tập rộng lớn hơn”. Trường giúp họ “vượt qua những biên giới của hiểu biết và hành vi ước lệ đặng đi vào một cuộc sống chân chính hơn”, “có một ý thức bao trùm hơn về cái khả thể”, phương châm giáo dục của trường là việc trau dồi học vấn “trong khuôn khổ học vị trên đại học” gắn liền với “đào sâu quá trình trưởng thành của tâm linh và phát triển nhân cách”. Môn học nghiên cứu “trí tuệ bản địa” (indigenous mind) được đặc biệt coi trọng: con đường cứu nguy cho nhân loại hiện nay là “đem những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại hòa vào tri thức, minh triết và những lề lối thực hành lành mạnh về sinh thái của những nhân dân bản địa và truyền thống”.

Định nghĩa Minh triết là gì là một việc rất khó. Một câu nói hóm của một học giả: “Tìm cách định nghĩa minh triết, đó là bằng chứng của sự thiếu minh triết”. Đại học tổng hợp Chicago vừa đưa ra Dự án đề tài Định nghĩa Minh triết với kinh phí trợ cấp 2.000.000$, học giả bất cứ nước nào đều có thể tham gia.

Tôi bằng lòng với việc đưa ra một số ví dụ:

- Thời bom Mỹ, láng giềng với hộ của tôi,có một cháu bé hơn mười tuổi, học lớp 3, một lần đi sơ tán về, cháu nói với tôi: “Bác ạ, mình cứ nói người nhà quê ra Hà nội thì đần, cháu thấy người Hà nội về nhà quê cũng đần, hôm đầu, cháu chịu, không biết làm thế nào để rửa chân, mãi mấy hôm sau cháu biết cách”. Câu nói của cháu làm tôi sửng sốt… Đây là một nhận xét minh triết. Có những công trình học thuật giầy cộp mà không có nổi một nhận xét độc đáo, sâu sắc như của cậu bé. Thường thì càng cao tuổi người ta càng hiền minh. Nhưng không nhất thiết vậy. Đối với sự phát huy minh triết, học vấn không phải là thừa. Nhưng chỉ có trình độ tiểu học vẫn có thể có những suy nghĩ hiền minh. Từ ví dụ này có thể thấy một sự khác biệt giữa triết học và minh triết: một học sinh lớp ba một dòng triết học cũng không hiểu nổi vẫn có thể nói một câu minh triết độc đáo và sâu sắc.

- Tôi có đọc một công trình lý luận tác giả viết những trang rất hay về vấn đề tư hữu. Nhưng vấn đề chỉ sáng bừng lên khi tôi đọc dến câu của Balzac được tác giả, trích dẫn: “Người mà không có gì là kẻ không ra gì”. Câu của Balzac là minh triết. Mác đã viết những trang cứ liệu uyên bác, lập luận đanh thép để đi đến một kết luận quyết liệt: bãi bỏ tư hữu.Giá như Mác có thêm được minh triết của Balzac chắc chắn ông suy nghĩ khác và học thuyết của ông không phải là chủ nghĩa Mác như chúng ta biết.

- Hôm vừa rồi, đến thăm chùa Quang Ân (Hà Đông cũ) tôi thấy môt bức trướng ghi lai 14 lời khuyên của Phật, do Thượng tọa Kim Cương Từ sưu tầm. Câu đầu tiên: “Kẻ thù lớn nhất đời người là chính mình”. Câu cuối cùng: “An ủi lớn nhất đời người là làm bố thí”. 14 câu, câu nào cũng hay. Tôi nghĩ bụng giá như học sinh của chúng ta ngay trên ghế nhà trường đã được học những câu này, những ý nghĩ minh triết giản đơn, không bao giờ cũ.

- “Người là muối của đất. Nhưng nếu như muối mất vị mặn, làm sao nó có thể mặn trở lại? Chẳng còn cách nào khác là đem vứt đi, để rồi người ta dẫm đạp lên…”. Không thể nào quên được câu nói đặm đà minh triết này của thánh Matthew.

- Troy Dunn có đưa ra một năng lực của minh triết: “năng lực có những lựa chọn đúng và đưa ra những quyết định tối ưu trong khi chưa có thông tin đây đủ”. Nhận xét này giúp chúng ta nhận ra những người minh triết thường gặp trong cuộc sống.

- Trí, nhân, dũng, bộ ba phẩm gíá này hết sức quen thuộc với chúng ta, có thể xem đây là lý tưởng của minh triết. Trong lý tưởng này, trí gắn với nhân là tuyệt đẹp nhưng không có dũng thì chỉ làm cảnh thôi. Hành động ít nhiều đòi hỏi lòng dũng cảm. Mà không hành động là không có gì. Lòng dũng cảm có khi còn quan trọng hơn sự hoàn thiện trí và nhân.Trí gắn với nhân tức là gắn với những giá trị đạo đức, tinh thần. Đây là một đặc tính hết sức quan trọng của minh triết. “Kinh tế trí thức” rất hấp dẫn nhưng nguy hiểm, vì trí thức và lý thuyết một khi “lộng hành” thì sẽ gặt phăng các giá trị tinh thần, đạo đức. Do đó mới có sự đề xuất “kinh tế minh triết”. “Giáo dục trí thức” cũng rất hầp dẫn nhưng nguy hiểm. Xu thế càng ngày càng có tính chất áp đảo của giáo dục toàn thế giới là sự truyền đạt tri thức và kỹ năng hầu như trở thành mục tiêu duy nhất của giáo dục, làm lu mờ mục tiêu giáo dục những giá trị chi phối người sinh viên sử dụng những trí thức và kỹ năng đó như thế nào và làm gì. Xu thế này cũng là một nguy cơ đáng lo ngại đối với nền giáo dục Việt Nam. Hiện nay hầu như không có triển vọng nào ngăn ngừa xu thế này. Trên thế giới tiếng nói của những học giả đòi hỏi cải tạo một cách cơ bản nền giáo dục hiện nay thành nền “giáo dục minh triết” còn hết sức yếu ớt. Không mấy ai quan tâm đến nguyên lý giáo dục của Gandhi được đề ra từ đầu thế kỷ trước: “Giáo dục cơ sở phải lấy minh triết và lòng từ thiện làm nền tảng.”

Những biểu hiện của minh triết có tính chất tổng thể: vừa là chân, là mỹ, là thiện; vừa là tri thức, là kinh nghiệm; vừa là trí tuệ, là tâm hồn, là ý chí; vừa là vốn sống, lối sống, phương pháp tư duy…Chuẩn bị cho một định nghĩa thấu đáo và đầy đủ hơn về minh triết, tôi thử đưa ra mấy nét đặc biệt của minh triết như là nhận thức và lối sống:

- Minh triết gắn với nghiệm sinh.

- Minh triết quan tâm đến sự cân bằng, hài hoà

- Minh triết thể hiện trong lối sống.

Minh triết gắn với nghiệm sinh (le vécu). Jerry Ortiz y Pino đã nêu đặc điểm này thành một yêu cầu tất yếu:“ Minh triết không phải là cái gì đó bẩm sinh. Thông minh là bẩm sinh. Linh lợi là bẩm sinh. Năng động cũng vậy. Nhưng minh triết thì không. Nó chỉ đến từ sự sống, từ sự phạm sai lầm − hoặc giả từ sự nghe những người khác đã phạm sai lầm và học hỏi được ở họ…”. Yêu cầu này được tuyệt đối hoá trong một câu kinh Phật nổi tiếng: “Chớ có tin vào đức tin của những truyền thống, dù cho chúng đã được vinh danh lâu đời nhiều thế hệ và ở nhiều nơi. Chớ có tin vào một điều nào chỉ vì có nhiều người nói đến nó. Chớ có tin vào đức tin của những bậc hiền minh trong quá khứ. Chớ có tin vào những gì mà anh tưởng tượng rằng Thượng đế truyền gợi cho anh. Không tin gì hết nếu như chỉ có uy tín của những bậc thầy của anh hoặc của những nhà sư của anh. Sau khi xem xét hãy tin vào những gì chính anh đã thể nghiệm hoặc nhìn nhận là hợp lẽ, những gì phù hợp với phúc lợi của anh và của những người khác” (Siddârtha, Kâlâma sutta).

Minh triết là “trí tuệ được nhào nặn bởi kinh nghiệm”.

“Những người tốt sở dĩ tốt vì họ đã đến với minh triết thông qua thất bại”

“Cuộc sống là người khuyên bảo dích thực duy nhất của chúng ta; minh triết chưa được lọc qua kinh nghiệm riêng tư thì chưa trở thành một phần trong cốt cách đạo đức…”

Nhìn chung minh triết thuận cho sự tích hợp với nghiệm sinh hơn triết học. Chủ nghĩa Freud, chủ nghĩa hiện sinh Pháp do còn gắn với nghiệm sinh nên đã có thời trở nên hết sức phổ cập. Nhưng trên đại thể, do cách tiến hành của tư duy triết học thiên về thuần lý nên triết lý dễ tách rời nghiệm sinh. Học giả Alan Nordstrom nói đến tình trạng triết học hiện thời không tích hợp với nghiệm sinh nữa, đó là nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng trầm trọng của triết học hiện nay, thậm chí ông còn nói đến “sự cáo chung của triết học”! Cũng từ tình trạng này ông giải thích xu hướng trở về với Cơ sở của Minh triết. Mong rằng triết học chưa cáo chung và sự phục hưng của Minh triết tạo ra quan hệ bổ sung giữa minh triết trong bản chất gắn với nghiệm sinh và triết học do quán tính tư duy thuần lý dễ xa rời nghiệm sinh.

Nhìn chung, minh triết là một kho báu những kinh nghiệm đối nhân xử thế, “đắc nhân tâm”… Tuy nhiên, nghiên cứu minh triết không thể dừng lại ở sự tổng kiểm kê những kinh nghiệm này. Từ sự phân tích, nghiền ngẫm những kinh nghiêm này, cần đề ra những ý niệm, khái niệm của minh triết. François Jullien đã từng đề nghị xem ý niệm “mặc hóa” (“biến hóa lặng lẽ”, từ của Lão tử) như một ý niệm đặc thù của minh triết Trung Hoa.

Bàn về cách tư duy của minh triết nhiều học giả nói đến nhu cầu cân bằng. Robert Sternberg nói đến nhu cầu cân bằng giữa những lợi ích trong bản thân một cá nhân, giữa cá nhân này và cá nhân kia, giữa cá nhân và tập thể, cộng đồng; giữa cộng đồng này và cộng đồng kia…“giữa sự thích nghi với môi trường và sự cải tạo môi trường, sự lựa chọn những môi trường mới …” Joseph W. Meeker nói đến nhu cầu đồng bộ: “có ý thức về chỉnh thể nhưng không quên những cái cụ thể, những cái đặc biệt; “bán cầu phải” thống nhất với “bán cầu trái” cũng như tư duy lô-gích thống nhất với tư duy thơ, ý thức về mình không lủng củng với ý thức về những người khác…”. Từ nhu cầu cân bằng tự nhiên có nhu cầu hài hoà: cá nhân hài hoà với xã hội, với thế giới… Đương nhiên không thể quên sự hài hoà với bản thân mình mà biểu hiển quan trọng nhất là hài hòa giữa lý và tình, hài hoà giữa trí óc (mind) và tâm hồn (soul), cùng một gốc nhưng là hai phương diện rất khác nhau: “trí óc thiên về tìm tòi chân lý, hình thức,sự sáng sủa, sự hợp lý, hình mẫu,quy luật… Còn tâm hồn thiên về tìm tòi cái đẹp, sự cân bằng, niềm vui, hạnh phúc, mê ly, hoà bình,sự thương cảm … Trí óc khẳng định chân lý bất chấp nó đẹp hay xấu; tâm hồn cứ thấy xấu là giãy nảy, thiên về cái đẹp hơn chân lý. Trí óc khẳng định và chối bỏ;tâm hồn yêu và ghét…” (Glenn Shipley). Đặc biệt thời gian gần đây, xuất phát từ nhận định hết sức tỉnh táo “có khoảng trống đạo đức” trong đời sống chính trị, những nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước Trung quốc nêu cao chữ “hòa”. Hòa trước hết là sự hòa hợp giữa “đức trị” (hoặc “nhân trị”) và pháp trị, sự hài hòa giữa tính chính đáng đạo đức và thực tiễn chính trị. Nhằm duy trì hoặc lập lại cân bằng, hài hoà minh triết không thể không quan tâm đến cái Chỉnh thể, cái mà Lão tử gọi là Nhất (Một) hoặc Cao Xuân Huy gọi là Toàn (quan điểm chủ toàn). Thế giới hiện đại mải mê với sự phân tích, sự duy lý, sự thực dụng, có cơ mất hút cái toàn. Đồng thời trong mọi lĩnh vực, mọi bình diện, cân bằng bị phá vỡ, nghiêm trọng nhất là sự mất cân bằng giữa nhu cầu tiêu dùng của con người tăng lên với một cấp số nhân khủng khiếp và sự bất lực của con người quản lý việc khai thác hành tinh quả đất đang bị tàn phá một cách man rợ và chúng ta đều biết hiểm hoạ: khí hậu quả đất thay đổi.Phải chăng sự thức tỉnh của minh triết với nhu cầu cân bằng, hài hoà có liên quan đến sự mất cân bằng tận thế đương đe doạ sự sống còn của chúng ta trên hành tinh này? Mặt khác, sự thức tỉnh của minh triết đòi hỏi sự tỉnh táo nhìn thẳng vào những mâu thuẫn của cuộc sống, và nhu cầu cân bằng hài hòa được đặt ra trong quá trình tích cực giải quyết mâu thuẫn. Với cái thói né tránh mâu thuẫn, chữ “hòa” của phương Đông không khéo trở thành dễ dãi và dớ dẩn, chỉ tạo ra những ảo tưởng về cân bằng, hài hòa, nhiều khi chữ “hòa” được đưa ra cốt để che đậy sự lười biếng của tư duy ngại mâu thuẫn, không có tinh thần tích cực giải quyết mâu thuẫn.

Aristote có phân biệt “minh triết lý thuyết” và “minh triết thực tiễn”. Minh triết thực tiễn thể hiện ở chỗ biết “suy tính những gì là tốt, là thiết thực… cho mình để có được một cuộc sống tốt, nói chung” (ở đây cần hiểu “cuộc sống tốt” một cách toàn diện: cả về vật chất và tinh thần, không chỉ có tư duy, ứng xử tốt mà ăn, ở, mặc cũng “tốt”, không những tốt trong việc công mà tốt trong cuộc sống riêng, với gia đình, bạn bè và… với cả bản thân mình). “Cuộc sống tốt” được hiểu một cách toàn diện như vậy, thì cái đầu “minh triết” của Aristote quả là vĩ đại! Chỉ có “minh triết lý thuyết” thì người minh triết dễ biến thành một kẻ hão huyền, gàn dở, ba hoa, nhảm nhí. Trong tiếng Việt có một từ hết sức đích đáng để diễn đạt ý niệm “cuôc sống tốt” của Aristote, đó là từ “hẳn hoi”. Với từ này chúng ta có thể tóm gọn “minh triết” trong một câu:

“Minh triết là biết làm thế nào sống hẳn hoi”

“Hẳn hoi” không phải là một tiêu chuẩn quá cao: không phải thật giỏi mới hẳn hoi, không phải thật đàng hoàng, thật dũng cảm, thật “đạo cao, đức trọng” mới hẳn hoi… “Hẳn hoi” là một phẩm chất có thể đặt ra trong mọi lĩnh vực, ở mọi bình diện: ăn mặc hẳn hoi, nhà cửa hẳn hoi, lời lẽ hẳn hoi, một người thầy hẳn hoi, một người cha hẳn hoi, một người lãnh đạo hẳn hoi, học vấn hẳn hoi, làm ă n hẳn hoi… Xã hội nào cũng có kỷ cương và lễ nghi, người hẳn hoi tiếp nhận tinh thần của kỷ cương và lễ nghi với/do lòng tự trọng chứ không bị lệ thuộc một cách mù quáng vào những quy ước của kỷ cương và lễ nghi. Xã hội nào cũng có tôn ty trật tự, người hẳn hoi không gò mình vào trật tự này nhưng rất có ý thức về lẽ phải của thứ bực. Vài mươi năm trước đây với bộ phim nổi tiếng về người Hà Nội Trần Văn Thuỷ đã làm sống lại phẩm chất “tử tế” trong ý thức đạo đức của xã hội. Tuy nhiên, phẩm chất này dường như vẫn chưa được chính thức công nhận, đạo đức và hành vi được kiểm điếm theo nhiều chuẩn mực trừ chuẩn mực “người tử tế”. Phẩm chất “hẳn hoi” cũng có số phận tương tự. Một hiện tượng quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân loại là những gì không được người ta nhớ đến thì dần dà sẽ biến mất. Xã hội không quan tâm đến “sự tử tế”, “sự hẳn hoi” thì dần dà những ngừơi tử tế, hẳn hoi sẽ biến mất; ngược lại, xã hội còn nhớ đến những phẩm hạnh này, thì những người hẳn hoi, tử tế xuất hiện khắp nơi. Ở xã hội ta, chính họ (những người hẳn hoi, tử tế trong Đảng và ngoài Đảng) là nền tảng đạo đức của xã hội.

Ởnhững mục trên chúng tôi định nghĩa minh triết bằng cách nêu lên những đặc trưng của minh triết, phân biệt nó với triết lý. Sau đây là một định nghĩa phổ thông về minh triết chúng tôi cố gắng trình bầy thật ngắn gọn.

Theo cách hiểu thông thường nhất minh triết là khôn ngoan, nhưng khôn ngoan chưa phải là minh triết, chẳng hạn khôn ngoan để “ăn người” thì chưa phải là minh triết. Minh triết là biết sống khôn ngoan và hẳn hoi, nói một cách khác, sự khôn ngoan của minh triết thường gắn với những giá trị hướng thượng, hướng thiện. Hẳn hoi là một từ rất Việt (chúng tôi chưa tìm được ở những ngôn ngữ khác từ tương ứng). Trong xã hội Việt Nam, ở mọi nơi mọi thời, người hẳn hoi bao giờ cũng được nể trọng. Hẳn hoi có gốc rễ ở những đức tính phổ quát: đó là sự hứơng thiện, sự “liêm chính”, nhin chung sự hẳn hoi của con người không ở ngoài bốn chữ “cần, kiệm, liêm, chính” của cụ Hồ. Sự hẳn hoi có tính phổ quát, tính “liêm chính” ở người hẳn hoi thể hiên ở việc to và việc nhỏ. Bị vu oan là “làm hư hỏng thanh niên”, Socrate bị bức tử. Sắp sửa uống cốc “cần độc” thì Socrate sực nhớ có mua chịu một con gà và ông nhờ một người bạn trả tiền dùm cho ông, đây là một trong những lời trăn trối cuối cùng của ông: Socrate là người hẳn hoi trong viêc nhỏ. Cũng như trong việc lớn: được tin Socrate bị án bức tử, mấy người bạn của ông lập mưu kế cho ông chạy trốn, nhưng nhà hiền triết đã từ chối, lấy cớ bỏ trốn là chống lại pháp luật mà tín niệm công dân của ông là tôn trọng luật pháp bằng mọi giá, Socrate đã coi trọng tư cách công dân hẳn hoi của ông hơn cả tính mạng của ông. Có một sự việc, nhỏ thôi, nhưng qua đó có thể thấy được sự hẳn hoi của Hồ Chí Minh. Hoạ sĩ Dương Bích Liên được cấp trên điều động đến sống với Hồ chủ tịch một thời gian để vẽ chân dung. Hoạ sĩ vẽ rất nhiều ký hoạ về bác Hồ. Một vị lãnh đạo xem những ký hoạ của Dương Bích Liên không hài lòng và quyết định đưa họa sĩ trở về cơ quan chủ quản. Dương Bích Liên ra đi mà Hồ chủ tịch không hay. Đến lúc biết việc ra đi đột ngột của người hoạ sĩ, Hồ chủ tịch liền cho người đuổi theo và đưa hoạ sĩ trở về. Bác mời Dương Bích Liên dùng cơm thân mật rồi sau đó hai bác cháu mới chia tay (thuật theo lời của Hào Hải, một bạn vong niên gần gũi với Dương Bích Liên). Sự việc sau đây là một sự kiện lớn. Sau Hiệp định Genève, trong một chuyến Hồ chủ tịch đi thăm Ấn độ, trong một cuộc phỏng vấn, có một phóng viên nước ngoài đặt câu hỏi về Ngô Đình Diệm, Hồ chủ tịch đã trả lời đại ý như sau: Tôi đến đây không phải để nói xấu ông Ngô Đình Diệm, ông là người yêu nước nhưng theo cách của ông ấy… Trong cách trả lời phỏng vấn của Hồ chủ tịch, có sự khôn ngoan, nhưng nổi lên vẫn là sự hẳn hoi của một chính khách lớn.

Ở những phần trên, qua sự đối lập minh triết với triết lý một số đặc điểm của minh triết đã được xác định: không có lịch sử, gắn với nghiệm sinh, quan tâm đến sự cân bằng, hài hoà, thể hiện trong lối sống… Còn có một cách đối lập khác, đối lập minh triết với tri thức.

T.S. Eliot (1888−1965) có lời than vãn:

“…minh triết mất rồi, chỉ còn lại tri thức, minh triết ấy đâu rồi;tri thức cũng mất rồi, chỉ còn lại thông tin, tri thức ấy đâu rồi…”

T. S. Eliot, giải thưởng Nobel năm 1948, than vãn về tình trạng suy thoái của tri thức con người trong thế giới hiện đại (thế kỷ XX): minh triết biến mất, chỉ còn lại tri thức, tệ hại hơn nữa, đến tri thức cũng biến mất, chỉ còn lại thông tin. Minh triết khác tri thức ở chỗ nào? Minh triết cao hơn tri thức. Tri thức chỉ là tri thức. Minh triết vượt siêu tri thưc, gắn vớĩ những giá trị tâm linh và nhân văn bằng cả trí tuệ và tâm hồn. Platon, Epicure, Epictete, Boece… là những triết gia lớn nhưng nhiều trích dẫn trong tác phẩm của họ được đưa vào Kinh Thánh Minh triết, vì những tri thức và tư tưởng của họ thực sự là minh triết, chúng được gắn với những giá trị lớn không chí bằng trí tuệ mà bằng cả tâm hồn.

Minh triết do xu hướng cân bằng, hài hoà gắn với lương tri, gần với sự biết điều. Lương tri giúp những thức giả kịp thời thoát khỏi sự cuốn hút của những mê sảng lý thuyết. Sự biết điều giúp ta biết thế nào là “đủ”, đến đâu thì “dừng lại”. Do những đặc tính này, minh triết là một vị thuốc tốt ngăn ngừa những sự liều lĩnh và điên rồ6. Bản tính của con người là dễ nhầm lẫn và điên rồ. Trong các cuộc cách mạng, bắt đầu từ Cách mạng Pháp 1789, không thiếu gì những sai lầm giống như sự điên rồ ... Một nguyên nhân của những sự điên rồ là bệnh súng sính lý thuyết và tiếp theo là sự riết róng và hăng máu lý thuyết, những “máu” này càng nổi dậy và bốc lên cùng với sự đấu tranh phe phái. Mà như chúng ta biết “lý thuyết nó có thể chịu đựng bất kỳ sự mê sảng nào” (Maiakovxki). Trong hoàn cảnh nước ta nên chú ý đến ý kiến sau đây của Vũ Trọng Phụng: “Thật thế, tôi tin rằng Đại Cồ Việt ta là cái đất cằn cỗi, những lý thuyết và tư tưởng ở đâu đâu, tốt đẹp thế nào mặc lòng, cũng cứ đến đây là thối nát.Tôi không tin dân An nam ta lại có nổi một điều tin ngưỡng nào, một quan niệm chắc chắn gì…”7.Ý kiến của Vũ Trọng Phụng là cực đoan, nhưng không phảỉ không có ít nhiều minh triết trong đó. Nói về những nhược điểm của Đảng, Hồ chủ tịch nhấn mạnh: “…một trong những nhược điểm lớn là trình độ lý luận còn thấp kém”8. Như vậy, có một điều chắc chắn tư duy lý thuyết không phải là chỗ mạnh của chúng ta. Đã thế thì súng sính, riết róng, hăng máu lý thuyết vừa thôi, phải quan tâm đến minh triết nhiều hơn nữa. Càng nhiều minh triết thì càng bớt mê sảng lý thuyết. Không cần nhìn đâu xa, trong các cơ quan của chúng ta, những thủ trưởng thông minh, tài ba, trình độ học vấn, lý thuyết xuất sắc vẫn có thể thất bại: họ có tất cả, chỉ thiếu minh triết, còn nơi nào những quyết định của thủ trưởng được hướng dẫn bởi minh triết, bởi lương tri và sự biết điều thì nơi ấy có sự ăn nên làm ra.

Tuy nhiên, cũng không nên tuyệt đối hoá vai trò của lương tri và sự biết điểu. Minh triết cũng không hẳn là hoàn toàn đối lập với sự “điên rồ”.

“Vẫn có một góc điên rồ trong đầu óc của người minh triết nhất” (Aristote). Bậc hiền dẫu sao cũng là một con người, mà người nào chả có một góc điên rồ trong đầu.

“Kẻ sống không điên rồ đâu có minh triết như y tưởng” Francois De La Rochefoucauld

“Minh triết là điên tiết khi gặp hoàn cảnh đáng điên tiết” Jean Cocteau

“Hãy trộn một chút điên rồ vào minh triết, quên minh triết đi đôi khi lại là hay” Horace

Tôi lấy câu trích dẫn sau cùng để kết luận mục này có bổ sung đôi chút: …quên minh triết đi, quên triết lý đi đôi khi lại là hay.

Phẩm giá minh triết ngày càng được những nhà cầm quyền và chính trị gia quan tâm. Thomas Jefferson (1743-1826), người khởi thảo bản Tuyên ngôn độc lập Hoa kỳ, một trong những người có công đầu khai quốc Hợp chủng quốc Mỹ đã trực tiếp đặt ra vấn đề quan hệ giữa minh triết và quyền lực: “Tôi hy vọng rằng minh triết của chúng ta sẽ lớn lên cùng với quyền lực của chúng ta và dạy cho chúng ta rằng chúng ta càng ít sử dụng quyền lực thì quyền lực của chúng ta càng lớn” (thư viết ngày 12/6/1815).

Trong hơn bốn chục năm cầm quyền và hoạt đông chính trị, Jefferson luôn đảm nhiệm những chức vụ quan trọng: đại biểu quốc hội, thống đốc tiểu bang, đại sứ ở Pháp, quốc vụ khanh, phó tổng thống, 2 nhiệm kỳ tổng thống Hoa Kỳ… Và điều thứ nhất, điều duy nhất mà Jefferson đòi hỏi ở nhà cầm quyền, ở chính trị gia, đó là minh triết, ở họ minh triết phải tương xứng với quyền lực: “Tôi hy vọng rằng minh triết của chúng ta sẽ lớn lên cùng với quyền lực của chúng ta”… Nhà chính trị lỗi lạc Jefferson đồng thời cũng là một nhà văn hóa xuất sắc: ông là nhà triết học, nhà giáo dục, nhà khoa học, là kiến trúc sư.là nhạc sĩ, văn sĩ… Jefferson tự xem mình là một nhà văn hóa, ông mong muốn hậu thế nhớ đến ông như làtác giả bảnTuyên ngôn độc lập Mỹ, tác giả pho tượng Tự do tôn giáo ở Virginia, Người cha của Đại học tổng hợp Virginia. Và cuối cùng thì nhà văn hóa Jefferson đặt minh triết lên trên hết, trên cả triết học, khoa học, tôn giáo và những hệ tư tưởng khác…

Suy nghĩ về điều mà minh triết dạy cho Jefferson: “càng ít sử dụng quyền lực thì quyền lực …càng lớn” không thể không liên tưởng đến minh triết Vô vi vủa Lão tử. Trong Đạo đức kinh vô vi đối lập với hữu vi dễ bị hiểu lầm như là sự đối lập giữa không (làm) và có (làm), thực ra đây là sự đối lập giữa hai cách làm. Hữu vi là làm theo cách can thiệp chủ quan(cậy quyền lực một cách vũ đóan, thô bạo), không coi trọng sự phát triển tự thân, tự nội lực của bản thân sự vật, và vô vi là làm theo cách không can thiệp chủ quan, trước sau tôn trọng và nương vào sự tự phát triển của nội giới, nội lực của sự vật.Hiểu như vậy thì “vi vô vi”(th. 63) là làm mà không can thiệp chủ quan, “sự vô sự” (th. 63) là làm mà “không đa sự (phiền hà)”, “không sinh sự”…và câu danh ngôn “vô vi nhi vô bất vi” có thể hiểu là: không làm (theo cách chủ quan, cậy quyền vũ đoán…) thì chẳng có việc gì là không làm”. Trong minh triết Đông Á, cách làm “vô vi” quán xuyến từ việc giáo dục đạo đức đến việc trị dân. Trong quan niệm của Mạnh tử (xem Mạnh tử, II, A,2) muốn bồi dưỡng khí hạo nhiên và đạo đức cho ai đó thì “đừng có hấp tấp, cầu cho mau xong… mà nong sức trưởng thành…”[H.N.H.tô đậm], đừng có làm như người nước Tống kia “lo lắng đám mạ của mình chẳng lớn bèn lấy tay mà nhổm lên từng cọng”. “Không hấp tấp nong sức trưởng thành…” cũng như “nhổ cỏ mọc xen đám mạ” để mạ tự mọc lên, đó chính là vô vi. Trong việc trị dân cũng vậy, Lão tử đặc biệt quan tâm đến nội giới, nội lực ở bản thân người dân.Lời của thánh nhân (minh triết) [xem th.57]: “ngã vô vi nhi dân tự hóa…ngã vô sự nhi dân tự phú…” (…ta không làm [theo cách can thiệp chủ quan, cậy quyền vũ đoán], vậy thế mà dân tự cải hóa…,ta không làm [theo cách đa sự,sinh sự] vậy thế mà dân tự phú túc…).Như vậy “vô vi” không có nghĩa là “không làm”. “Nếu vô vi là không làm gì cả thì Lão tử đã không viết Đạo đức kinh ra làm gì!” (Nguyễn Duy Cần)9 Vô vi là một cách làm biết nương theo cái “tự nhiên” của sự vật, tức là sự phát triển của nội lực sự vật, không nôn nóng cậy quyền lực, để can thiệp một cách chủ quan, vũ đoán. Hiểu như vậy thì minh triết vô vi của Lão tử gần với minh triết của Jefferson nghiệm ra rằng “chúng ta càng ít sử dụng quyền lực thì quyền lực của chúng ta càng lớn”.

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của chúng ta minh triết “vô vi” sớm được nêu lên. Vua Lê Đại Hành (941-1005) thường mời Thiền sư Pháp Thuận (916-991) vào triều bàn việc chánh trị và ngoại giao và xem sư như là Quốc Sư. Một lần vua Đại Hành hỏi về vận nước, sư Pháp Thuận bèn dâng một bài kệ :

Quốc tộ như đằng lạc,

Nam thiên lý thái bình.

Vô vi, cư điện các,

Xứ xứ tức đao binh.

Dịch thơ

Vận nước như mây quấn

Trời Nam mở thái bình

Vô vi trên điện các

Xứ xứ hết đao binh

(bản dịch thơ trích dẫn từ WikiPhậtgiáo)

Đại ý 2 câu cuối của bài kệ được giảng là: “Nhà Vua ung dung vô vi ngự nơi đền các, mọi chốn đều tắt binh đao”.Có thể triển khai ý 2 câu này như sau: “mọi chốn đều tắt binh đao” có nghĩa là mọi chốn trời Nam đều “mở thái bình”, “thái bình” có nghĩa là không có đấu đá, xâu xé, đâm chém lẫn nhau, ví “dân tự hóa” (bớt tham, sân, si), vì “dân tự phú” (thoát cảnh nghèo đói) …; do đâu mà “mở thái bình”? đến đây có thể láy lại câu của Lão tử, vì vua “vô vi mà dân tự hóa”, vì vua “vô sự mà dân tự phú”.

Không thể khác được nghiên cứu minh triết ở Việt Nam bắt đầu bằng sự tổng kiểm kê và sưu tầm bổ sung những viên ngọc quý của Minh triết hiện đương rải rác khắp nơi. Chỉ có những viên ngọc quý trong ca dao tục ngữ là được sưu tầm tương đối đầy đủ, tuy vậy chưa được nghiên cứu sâu sắc ở “mặt cắt” minh triết, vả chăng vẫn còn sót ca dao tục ngữ của những dân tộc anh em. Còn minh triết của Đạo Phật (trong tâm tưởng những tín hữu phật giáo xưa và nay)? Minh triết của Thiên chúa giáo (trong tâm tưởng những tín hữu công giáo và đạo Tin lành Việt Nam)? Minh triết của đạo Hồi (trong văn hoá và lối sống của người Chăm)? Minh triết của đạo thờ cúng tổ tiên? … Nho giáo đã được nghiên cứu khá sâu nhưng chưa được chắt lọc ở bình diện minh triết. Câu nói hiền minh của nho gia Ngô Thời Sĩ được dẫn ở phần trên rất tiếc là không mấy người Việt biết đến, những người hiện nay đương làm công tác tư tưởng, công tác tuyên giáo không biết đến nó lại càng đáng tiếc! Minh triết của Đạo giáo đã được những học giả nghiên cứu khá sâu nhưng chưa được phổ cập. Một vấn đề nữa rất đáng được quan tâm là: những viên ngọc quý trong văn hoá và lối sống các dân tộc anh em hầu như chưa được khai thác và quảng bá. Cuối cùng có một vốn minh triết nữa rất quan trọng: đó là những suy nghĩ, những bài học minh triết được rút ra từ hoạt động của những người hoạt đông chính trị và xã hội, những người làm công tác lãnh đạo, quản lý, những doanh nhân, những người hoạt dộng tôn giáo -- họ là những người trực tiếp và thường xuyên vật lộn với thực tiễn Việt Nam Nói đến minh triết của những người làm lãnh đao quản lý, không thể quên được minh triết của những người vẫn dược gọi là “quần chúng”. Họ là những người bình thường trong sĩ,nông, công, thương và từ những suy ngẫm và kinh nghiệm làm ăn, nghề nghiệp và kinh doanh của họ có thể rút ra những viên ngọc minh triết quý.

Tóm lại, minh triết văn hóa Việt có nhiều nguồn. Trong thời đại Hồ Chí Minh, minh triết Hồ Chí Minh với sức thấm sâu, lan tỏa rộng trong lòng dân xứng đáng là một nguồn trung tâm trong đa nguồn minh triết Việt.

Làm tốt công việc sưu tầm và tổng kiểm kê, lần đầu tiên chúng ta có thể hình dung được đầy đặn vốn minh triết phong phú và đa dạng tàng trữ trong trí tuệ và tâm đức Việt Nam. Lịch sử tư tưởng Việt Nam, lịch sử văn hoá Việt Nam có thêm một căn cứ tham chiếu. Đây là đóng góp về mặt học thuật.

Công việc sưu tầm và tổng kiểm kê còn có tác dụng về mặt thực tiễn. Đứng trước cái vốn tinh thần to lớn này, như soi vào một tấm gương lớn và sáng, người theo đạo Phật cũng như người đạo Thiên chúa, người Ê đê Tây nguyên cũng như người Tày Đông Bắc, người Chăm cũng như người Thái … họ đều thấy minh triết của mình trong đó, sự góp phần của họ vào cái vốn trí tuệ và đạo đức chung của toàn dân tộc. Vốn này là một cơ sở tinh thần quan trọng để thực hiện sự đoàn két tôn giáo, sự đoàn kết các dân tộc anh em, sự đoàn kết toàn dân sĩ, nông, công, thương trong và ngoài nước. Ngoài ra, vốn minh triết to lớn này mới có đủ sức mạnh để gây ở chúng ta ý thức về minh triết. Ý thức này khiến chúng ta nhậy cảm hơn với minh triết ở cuộc sống xung quanh ta và bản thân ta. Một tác động quan trọng nâng cao sự tự giác trong đời sống tinh th ần.

Minh triết trong vốn trí tuệ và tâm linh của chúng ta không tách rời minh triết nhân loại bao gồm minh triết của nhiều nền văn minh, nhiều khu vực văn hóa, tôn giáo…. Ngay trong bản thân minh triết lưu hành ở Việt Nam có thể tìm thấy nhiều vết tích vang vọng của minh triết những nền văn hoá, văn minh khác. Người Việt không thể không tìm hiểu minh triết của những nền văn hoá khác. Công việc này giúp chúng ta thấy được rõ hơn, tinh tế hơn bản sắc riêng của mình. Đồng thời thấy được tính phổ quát của minh triết, thấy dược cái chung giữa ta và người, Cũng có thể xem đây là một sự chuẩn bị tinh thần đi vào con đường hội nhập.



CHÚ THÍCH

Kim Định, giáo sư, triết gia


“Yêu tính sáng yêu hơn châu báu” (Hội thứ nhất, Cư trần lạc đạo phú)
“Gìn tính sáng tính mới hầu an” (Hội thứ hai)
“Di Đà là tính sáng soi” (Hội thứ hai)
“Gìn tính sáng, chớ lạc tà đạo” (Hội thứ ba)

Số trang của bài “Những dị biệt giữa hai nền triết lý Đông Tây” PDF trên mạng

Tức là “nguyên lý hữu cơ”

Khoảng hai chục năm nay, trên sách báo nước ta, từ “ minh triết” được dùng để dịch từ tiếng Pháp “sagesse”, từ tiếng Anh “wisdom” và từ tiếng Nga “mudrost”,từ này đã được dùng sớm hơn rất nhiều ở miền Nam trước đây (khoảng cuối những năm 50 thế kỷ trước)


Ý này được rút ra từ hai danh ngôn:
- “Quà tặng minh triết được ban như là một vị thuốc trị sự điên rồ” St. Gregory I
- “Đặc tính của minh triết là không làm những việc liều lĩnh” David Thoreau
Vũ Trọng Phụng. Truyện ngắn. N.x.b. Hội nhà văn. 1996. tr. 237-238
Xem Hồ Chí Minh. Toàn tập. ST,1987, tập7.tr.782
Xem Lão tử, Đạo đức kinh, Nguyễn Duy Cần dịch và bình chú. N.x.b. Văn học,1992, tr.21

Khai trí – Sự nghiệp trăm năm cần tiếp nối



Học sinh Trường tiểu học Lê Văn Tám, TPHCM. Ảnh: ĐỨC TÀI

Làm sao để phát triển? Làm sao để vươn lên? Câu trả lời không là gì khác ngoài những điều một nhóm trí thức tinh hoa đã chỉ ra từ hơn một trăm năm về trước: Trước hết cần khai dân trí.


Nỗi buồn trăm năm


Chí sĩ Phan Chu Trinh là một trong những người khởi xướng phong trào Duy Tân ở Việt Nam. Ông nổi tiếng với khẩu hiệu: Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh.

Chuyện kể rằng hơn 100 năm trước, khi về nước hoạt động, rất nhiều người ngưỡng mộ biết tin đã vào ra thăm hỏi không ngừng. Nhưng ai đến thăm ông cũng đều phải trải qua một “thủ tục” lạ đời như sau (*):

- Anh đã đọc Dân ước của Lư Thoa chưa?

- Anh đã đọc Vạn pháp tinh lý của Mạnh Đức Tư Cưu chưa?

Dân ước của Lư Thoa chính là cuốn Du contrat social ou Principes du droit politique, xuất bản năm 1762 (Bàn về khế ước xã hội hay các nguyên lý về quyền chính trị) của Rousseau, còn Vạn pháp tinh lý chính là cuốn De l'esprit des lois, xuất bản năm 1748 (Bàn về tinh thần pháp luật) của Montesquieu.

Đây là những cuốn sách kinh điển của xã hội văn minh phương Tây. Kể từ ngày xuất bản lần đầu, tính đến nay đã được hơn 250 năm. Nhưng thử hỏi trong số chúng ta đây, đã mấy người đọc cả hai cuốn này? Vậy mà hơn 100 năm về trước, Phan Chu Trinh đã nhắc những người đương thời về việc đọc các sách này.

Nói như vậy để thấy, sự nghiệp khai dân trí, ngay từ khi được đôn thúc ở Việt Nam hồi đầu thế kỷ 20, trên thực tế là đã lạc hậu so với thế giới hàng trăm năm. Nhưng đáng buồn thay, sau hơn 100 năm, đến nay tình hình cũng không sáng sủa hơn là bao nhiêu. Câu chuyện về khai dân trí vẫn là một niềm đau đáu của bất cứ ai quan tâm đến sự phát triển của đất nước.

Ngày nay, nếu cụ Phan Chu Trinh còn sống, và nếu có ai đến thăm cụ, thì ắt hẳn cụ sẽ lặp lại “thủ tục” xưa, tất nhiên là theo ngôn ngữ mới, nhưng xem ra cũng vẫn còn lạ đời không kém:

- Anh đã đọc Khế ước xã hội của Rousseau chưa?

- Anh đã đọc Tinh thần pháp luật của Montesquieu chưa?

Rất có thể phần đông chúng ta sẽ ngậm ngùi lắc đầu trước thủ tục kiểm tra của cụ.

Dù những cuốn này đã được dịch ra tiếng Việt, dù máy tính nối mạng internet, nếu muốn đọc thì chỉ cần ra hiệu sách hoặc lên mạng làm vài động tác bấm chuột là xong. Chỉ cần bấm một ngón tay là sách đã bày ra trước mắt. Nhưng chúng ta vẫn không đọc.

Chúng ta vẫn lắc đầu. Cái lắc đầu kéo dài suốt trăm năm.


Một chuyện không thay đổi


Hơn một trăm năm qua, kho tàng tri thức thế giới đã mở rộng biết nhường nào. Chỉ xét riêng trong địa hạt Vật lý học chẳng hạn, hai lý thuyết nền tảng nhất là Cơ học lượng tử và Lý thuyết tương đối cũng đều ra đời trong khoảng thời gian này. Đây là hai lý thuyết có ảnh hưởng quyết định đến bộ mặt của thế giới văn minh. Nếu không có chúng, tất cả những phương tiện mà chúng ta sử dụng, như tivi, điện thoại di động, máy tính, internet…, và ngay cả bài viết này, sẽ không tồn tại. Cũng nhờ hai lý thuyết này, cùng với sự hỗ trợ của kỹ nghệ, con người đã đặt chân lên đến mặt trăng, và vươn xa hơn nữa ra ngoài vũ trụ. Những chuyện này nếu xét ở thời của cụ Phan Chu Trinh thì không khác gì chuyện cổ tích, thậm chí còn hơn cổ tích.
Sang các lĩnh vực khác như nghệ thuật chẳng hạn, thì trong 100 năm qua, thế giới cũng chứng kiến sự bùng lên của biết bao phương tiện và trường phái nghệ thuật mới. Thậm chí, có những sản phẩm nghệ thuật mà ngay cả trí tưởng tượng phong phú nhất của 100 năm trước cũng không thể hình dung ra được.

Cục diện thế giới cũng bao lần thay đổi. Qua hai cuộc đại bể dâu, hợp tan tan hợp, vật đổi sao dời. Các quyền lực lên rồi xuống. Các trật tự thế giới mới được hình thành. Những kẻ khổng lồ bừng tỉnh dưới sự thúc ép của kỷ nguyên thông tin. Cả thế giới đã trở thành một ngôi làng nhỏ, đến mức nếu muốn thì người ở đầu này có thể nói chuyện và cười nói với người ở đầu kia ngay tắp lự. Những điều này, nếu sống lại, chắc cụ Phan cũng không thể nào hình dung được.

Nhưng kỳ lạ thay, bất chấp mọi sự thay đổi to lớn như vậy, có một thứ dường như vẫn không thay đổi. Đó chính là những câu hỏi của cụ Phan: Anh đã đọc Dân ước chưa? Anh đã đọc Vạn pháp tinh lý chưa? Và tất nhiên phía sau nó là tâm nguyện khai dân trí để phát triển đất nước, vẫn bức bối và thời sự như hơn 100 năm về trước.

Và đáng buồn hơn, khi bàn về câu chuyện này, chúng ta vẫn chưa biết làm sao cho sao hiệu quả!


Vì sao cần tiếp nối?

Trăm năm với bao biến động. Đất nước Việt Nam đã trở mình. Nhưng so ra trường quốc tế thì vị thế vẫn còn kém cỏi nhiều so với bè bạn năm châu. Chỉ mới đây thôi, chúng ta mới vượt được mốc 1000 USD/người/năm, thoát ra khỏi nhóm các nước kém phát triển. Chưa kịp vui thì cái bẫy thu nhập trung bình đã bày ra trước mắt. Kinh tế khủng hoảng triền miên, cơ cấu bất hợp lý, nợ nước ngoài đã đến mức trở thành nguy cơ lại càng làm cho bức tranh thêm ảm đạm. Chưa kể, ngoài biển Đông sóng dậy không ngừng. Kể từ ngày thống nhất, nguy cơ lệ thuộc ngoại bang về kinh tế, văn hóa, chính trị… chưa bao giờ lớn như bây giờ. Thế giới đi quá nhanh, mà ta thì vẫn mãi đì đẹt ở nhóm chót.

Nếu ở thế kỷ 19, để gấp đôi lượng tri thức đã có, thế giới chỉ cần 50 năm, tức khoảng một đời người, thì ngày nay, chỉ cần chưa đến 1 năm. Các nhà khoa học còn dự đoán, thời gian gấp đôi tri thức của thế giới sẽ còn rút ngắn nữa, xuống thang đơn vị tính bằng ngày, bằng giờ.

Những nét phác họa này làm cho chúng ta giật mình nhìn lại câu chuyện 100 năm về trước. Câu hỏi làm sao để phát triển, để theo kịp năm châu lại gióng lên cấp bách. Người ta đi quá nhanh, sao mình còn mãi đủng đỉnh rề rà?

Nếu chỉ tính về mặt tri thức, thì tốc độ phát triển đã tăng lên hơn 50 lần. Nhưng chúng ta vẫn gần như giậm chân tại chỗ. Đó chính là lý do vì sao các nghiên cứu cho thấy năng suất lao động của chúng ta thua sút năng suất lao động của các nước phát triển hàng chục lần.

Mà không chỉ thua kém thế giới phát triển, chúng ta thua cả những người hàng xóm láng giềng có cùng hoàn cảnh với chúng ta 100 năm về trước. Theo báo cáo của Tổ chức Năng suất Á Châu (APO) năm 2012, năng suất lao động của người Việt Nam thua kém năng suất lao động của người Nhật, Mỹ và Singapore khoảng 20 lần.

Vẫn sức vóc ấy, vẫn thời gian làm việc ấy, mà một người của họ làm ra của cải vật chất bằng 20 người của ta cộng lại. Khoảng cách này từ đâu ra? Chỉ có thể giải thích từ sự thiếu hụt tri thức trong tổ chức và triển khai sản xuất.


Vậy làm sao để khắc phục? Làm sao để phát triển? Làm sao để vươn lên?

Câu trả lời không là gì khác ngoài những điều một nhóm trí thức tinh hoa đã chỉ ra từ hơn một trăm năm về trước: Trước hết cần khai dân trí.


Cần đưa tri thức thế giới về Việt Nam


Nhìn sang các quốc gia và vùng lãnh thổ Châu Á láng giềng, như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore thì thấy rằng, con đường phát triển của họ cũng không nằm ngoài chuyện khai dân trí. Khi tri thức là sức mạnh, dân tộc nào có được nền tảng tri thức mạnh, có nền khoa học kỹ nghệ tân tiến, thì dân tộc đó sẽ vươn lên dẫn đầu. Còn nếu nền tảng tri thức thiếu trước hụt sau, nhặt nhạnh chắp vá những điều người ta đã bỏ đi từ trăm năm về trước, thì chắc chắn sẽ mãi chìm trong bóng tối của vô minh và lạc hậu, không thể nào phát triển được.

Nếu ngày xưa trong nền kinh tế nông nghiệp, dốt chỉ đồng nghĩa với một đời sống tinh thần nghèo nàn, còn việc sản xuất canh nông có thể trông chờ vào kinh nghiệm từ đời này qua đời khác, thì ngày nay, dốt đồng nghĩa với nghèo, với hèn, với lạc hậu chậm tiến, với phụ thuộc ngoại bang và đánh mất chủ quyền. Lý do thật đơn giản: Trong nền kinh tế tri thức toàn cầu, dân tộc nào tạo ra tri thức, dân tộc đó là người dẫn dắt. Dân tộc nào nắm được tri thức và biết cách khai thác tri thức, dân tộc đó có sức mạnh. Còn dân tộc nào thiếu hụt tri thức hoặc quay lưng với tri thức, dân tộc đó là kẻ phụ thuộc, nghèo hèn.

Chính vì thế, mọi hy vọng đi tắt đón đầu đều không thể nào trở thành hiện thực nếu không có một hạ tầng tri thức đủ mạnh làm bệ phóng, không có những lãnh đạo trí tuệ dẫn dắt, và không có những công dân được trang bị tri thức hiện đại thực hiện.

Cũng chính vì thế, công cuộc khai trí dù được khởi xướng cách đây cả trăm năm, cần phải được tiếp nối. Cần mẫn và kiên nhẫn. Không thể nào khác được.

Chỉ khi nào công cuộc khai trí thành công thì mới hy vọng xây dựng được một hạ tầng tri thức và một nền dân trí mạnh.Chỉ sau đó, các chương trình kiến thiết phát triển mới có thể thành tựu được.

Muốn vậy, tất cả chúng ta, nhất là những người trẻ, cần phải xắn tay lên. Cần phải tiếp nối công cuộc khai dân trí được khởi động từ hơn 100 năm về trước.

Hãy làm việc, không ngồi than vãn nữa. Nếu không, trăm năm sau con cháu mình cũng lại ngồi bàn lại chuyện khai dân trí như chúng ta hiện giờ trong sự buồn oải. Sự buồn oải kéo dài suốt mấy trăm năm.

Nhưng đó chưa phải là viễn cảnh xấu nhất. Việc xấu nhất có thể hình dung được là, nếu cuộc khai dân trí không được tiếp nối, thì trăm năm nữa, thế hệ sau biết có còn chỗ mà ngồi để bàn chuyện khai dân trí nữa hay không?
----------
(*) Xem Nguyễn Văn Trọng, "Tinh thần thời đại, 100 năm Đông Kinh Nghĩa Thục", NXB Tri Thức, Tr. 269.
Giáp Văn Dương
---

Sống trong sợ hãi



 “Con yêu! Chừng nào con còn sống trong quá khứ, muốn quay trở lại quá khứ; và chừng nào con còn lo nghĩ về tương lai, muốn làm chủ lấy tương lai, thì con còn sống trong sợ hãi.





Một người nọ sau khi từ giã cõi đời và được về bên Thượng Đế, anh ta mạo muội xin phép Thượng Đế cho anh ta được sống lại một vài giai đoạn trong đời anh ta. Sau khi suy nghĩ và thấy anh này cũng có một đề nghị hơi lạ, Thương Đế đã đồng ý.

Anh ta xin tiếp, “Thưa Ngài, sau mỗi quãng đời, xin cho con được dừng lại và về gặp Ngài để hỏi một vài thắc mắc có được không?” Thượng Đế cũng tỏ vẻ vui lòng ưng thuận. Vậy là người này trở lại kiếp người.


1/ Anh ta làm lại một cậu học trò với bao bận rộn với việc học hành, nhưng cũng không ít vui chơi hồn nhiên giải trí. Nhưng khi phải vượt qua những kỳ thi, thì cậu học trò lại tỏ ra lo sợ. Cậu ta lo sợ bị thi rớt, sợ bị điểm thấp, sợ bị chúng bạn chê cười…

Cậu ta xin dừng cuộc đời lại đó và đi hỏi Thượng Đế. “Thưa Ngài, tại sao con phải lo sợ những chuyện thi cử?”
“Con lo sợ chúng vì con đã nhìn cuộc đời của con như thể chỉ có chuyện thi cử mà quên đi những chuyện khác xung quanh con,” Thượng Đế trả lời.

2/ Anh ta trở lại dương thế và tiếp tục làm người.
Giai đoạn này, anh ta có người yêu, lập gia đình, có con và tưởng chừng như anh ta đã vượt qua những nỗi lo sợ của thời trẻ con. Thế nhưng, anh ta vẫn lo sợ. Anh sợ vợ anh phản bội, con anh không đủ sức khỏe, công việc làm ăn không ổn định.
Anh dừng cuộc đời lại và đi hỏi thượng đế. “Thưa Ngài, dù biết rằng con đã không nhìn cuộc đời như trước đây nữa, nhưng sao con vẫn lo sợ?”

Thượng Đế đáp, “Con lo sợ vì con muốn sở hữu chúng vĩnh viễn; con không muốn bị mất chúng. Con nên nhớ, điều gì con càng muốn nắm giữ, thì con càng lo sợ chúng bị mất đi.”

3/ Trở lại cuộc sống dương thế lần thứ ba, giờ đây ở tuổi cao niên, sau bao tháng ngày sợ hãi, lo lắng, ông già trông bình an và chấp nhận hơn. Ông không lo sợ bị mất vợ và lo lắng cho con cái như trước đây.
Nhưng trong tâm thức ông, một nỗi lo âu, sợ hãi vẫn ám ảnh ông. Nỗi lo sợ của ông không còn là nỗi lo liên quan đến “cơm áo, gạo tiền” như trước đây, nhưng ông lại sợ bị lãng quên những công trạng của thời trai trẻ; ông lo những thành quả ông góp cho đời sẽ bị mất dấu tích. Kỳ lạ thay, ông lại lo không còn được cảm nếm những nỗi lo sợ của thời học trò, của thời thiếu niên, của người thanh niên mà ông đã trải qua.

Ông quá tò mò nên quay về hỏi Thượng Đế, “Thưa Ngài, tại sao những điều lúc trước làm con lo sợ, thì bây giờ con lại sợ không còn được cảm nếm những nỗi sợ ấy nữa?”

Thượng Đế đáp, “Con yêu! Chừng nào con còn sống trong quá khứ, muốn quay trở lại quá khứ; và chừng nào con còn lo nghĩ về tương lai, muốn làm chủ lấy tương lai, thì con còn sống trong sợ hãi.