Chủ Nhật, 8 tháng 2, 2015

AN ỦI LỚN NHẤT CỦA ĐỜI NGƯỜI LÀ BỐ THÍ


Thích Đạt Ma Phổ Giác



Tại sao an ủi lớn nhất của đời người là bố thí? Vì người nghèo đang thiếu thốn, khó khăn được sự giúp đỡ sẽ có thể vượt qua cơn hoạn nạn. Bố thí theo nghĩa thông thường là giúp đỡ, sẻ chia, chính là gieo những hạt giống thiện lành, giống như người gửi tiền ngân hàng tuy hiện tại như không có tiền nhưng khi cần xài thì rút ra. Như vậy, khi chúng ta làm những việc thiện lành như bố thí tiền bạc, tài sản, chia sẻ những ưu tư, những khổ đau của người khác là chúng ta đang tu phước.

Bố thí theo nghĩa sâu xa là buông xả mọi dính mắc về vật chất lẫn tinh thần. Bố thí theo nghĩa thông thường là giúp đỡ, sẻ chia cho người khi cần thiết nhưng vẫn có sự tính toán. Khi chúng ta cho đi một vật gì là biết chắc mình sẽ nhận lại được tương đương hoặc nhiều hơn thế nữa, như vậy trong đó có sự cân nhắc lợi-hại.

Chúng ta cho đi một vật gì mục đích là để cầu phước báo hiện tại và mai sau, hoặc vì muốn đáp lại lòng tốt của người khác. Như vậy, ý nghĩa cho ở đây là để trao đổi hai chiều. Trong thế gian này, người giàu sang phú quý, sự nghiệp vinh hiển, công thành danh toại không phải bỗng dưng mà có. Đó là kết quả việc tu nhân tích đức của họ trong nhiều đời trước. Chính vì vậy, trong cuộc sống này không có việc gì là ngẫu nhiên, đương nhiên khi không hay tự nhiên mà thành.

Muốn được giàu sang quyền quý, sung túc đầy đủ trong tương lai thì hiện tại ta phải biết bố thí, cúng dường, giúp đỡ, chia sẻ tùy theo khả năng của mình. Người Phật tử chân chính lúc nào cũng phải tin sâu nhân quả, tin mình làm lành được hưởng phước. Vậy muốn được giàu sang, nhiều của cải mà hiện thời ta không biết làm phước thì e rằng không thể có được.

Đạo Phật có mặt trong cuộc đời là vì lợi ích chúng sinh, muốn giúp cho mọi người chuyển hoá kiếp nghèo khó thì ta phải biết bố thí, cúng dường. Phật dạy chúng ta phải biết xả bớt lòng tham lam, ích kỷ, chỉ biết sống cho riêng mình để giúp đỡ, sẻ chia cho người khác, không nên sống trong vô cảm ai khổ đau mặc kệ. Đạo Phật chủ trương sống hòa mình cùng nhân loại với quan niệm ai cũng là người thân, người thương nên mỗi người đều phải có trách nhiệm và bổn phận thương yêu đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần vô ngã, vị tha.

Đạo Phật thấy rõ cuộc sống của muôn loài là phải nương tựa vào nhau, không một loài nào có thể tách rời đời sống xã hội mà tồn tại trong bầu vũ trụ bao la này. Đức Phật đã tu tập thành bậc giác ngộ hoàn toàn, Ngài thấy rõ mọi sai biệt và bất đồng giữa con người và muôn loài giống như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường thấy người giàu sang, sung sướng, của cải vật chất đầy đủ; người nghèo hèn, khốn khổ, đói rách, thiếu thốn, lang thang; kẻ sang - người hèn, kẻ xấu - người đẹp, kẻ ngu - người trí, kẻ chết yểu - người sống thọ, người an vui hạnh phúc - kẻ bất hạnh khổ đau…

Phật dạy: Người đủ ăn đủ mặc là người có phước đức nên ít lo, nhờ vậy mà dễ tu. Vậy thế nào là người có phước đức? Người có phước đức là người có cuộc sống ổn định, phương tiện vật chất đầy đủ, có nhà cửa, tiền tài, danh vọng, ăn ngon, mặc ấm; lại sống trong gia đình trên thuận dưới hòa, biết cung kính lễ phép với người trên, thương yêu đùm bọc người dưới, biết hiếu thảo với ông bà cha mẹ, biết dạy dỗ con cái điều hay lẽ phải, tránh xa bạn ác, gần gũi bạn lành trong tình thương yêu nhân loại vì tình người trong cuộc sống bằng trái tim hiểu biết.

Ngay nơi hiện tại chúng ta không làm phước mà muốn mai sau được phước thì không thể được, cũng như trước kia mình chưa từng làm phước nên bây giờ phải chịu kiếp nghèo khổ. Chúng ta nên nhớ rằng, làm phước thì được phước, hưởng phước thì hết phước. Hiểu được điều này, mỗi người chúng ta cần phải cố gắng gieo trồng phước đức để cuộc sống ngày thêm hoàn thiện hơn. Một ngày chúng ta sống trên đời là một ngày ta phải sống có ích cho mình và người mà không làm tổn hại cho ai. Ngược lại, người sống trong cảnh thiếu thốn, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, trong gia đình thường hay gây gỗ, bất hòa, xung đột lẫn nhau là vì thiếu phước đức.

Vậy thế nào là phước? Phước là những hành động, lời nói, ý nghĩ đem đến an vui, hạnh phúc cho mọi người trong hiện tại và mai sau. Người làm phước là người biết làm những điều thiện lành tốt đẹp, luôn giúp mọi người khi gặp khó khăn nên ai cũng ưa thích gần gũi, quý mến, tôn trọng. Chính nhờ sự gần gũi đó chúng ta dễ dàng thông cảm, tha thứ cho nhau, sẵn sàng dấn thân phục vụ, thương yêu đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần vô ngã vị tha.

Phước giúp chúng ta chuyển hoá được những nghiệp xấu ác có tính cách làm tổn hại người và vật của nhiều kiếp, phước có công năng giúp ta sáng suốt để giảm bớt việc làm sai trái trong cuộc sống. Có những việc chúng ta tưởng chừng như không thể nào cứu vãn nổi, vậy mà nhờ có phước rồi ta cũng vượt qua hết tất cả. Trong sáu hạnh Ba La Mật gồm bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ thì bố thí là hạnh đầu tiên để giúp chúng ta từng bước thăng tiến trên con đường Phật đạo.

Con đường tu tập của quý Phật tử không chỉ giới hạn vào việc tu phước, việc làm lành tránh ác để kiếp sau khá hơn kiếp trước, vì như thế vẫn còn trôi lăn trong vòng sinh tử của thế giới tương đối, đó chưa phải là mục đích chính của đạo Phật.

Chúng ta thử đặt vấn đề nếu trong hiện tại chúng ta chỉ lo tu phước mà không tu tuệ, do nhân tu phước ở kiếp này mà đời sau có nhiều của cải, quyền cao chức trọng, kẻ hầu người hạ, giàu sang sung sướng. Do được hưởng phước báo đó mà con người ta dễ dàng buông lung, sa đoạ trong dục lạc. Khi ấy thì dù có bậc thiện tri thức khuyên bảo cũng khó làm cho họ nghe theo vì họ đang trong cơn say sưa, mê đắm với dục vọng.

Chính vì vậy mà đức Phật thường khuyên nhủ chúng ta “phước huệ song tu” để thành tựu đạo pháp. Nếu chúng ta giàu sang sung sướng mà không có nhận thức sáng suốt, không giữ gìn giới hạnh trang nghiêm thì trong tương lai phước hết hoạ đến sẽ gặt quả báo xấu tuỳ theo nghiệp đã tạo.

Việc gieo trồng phước đức rất quan trọng, trong đó có hạnh pháp thí gồm có truyền giảng chánh pháp cho người nghe, hay trợ duyên cho việc chuyển lăn bánh xe pháp, làm cho Phật pháp ngày càng lan rộng. Làm phước bằng cách ấn tống kinh sách, phát hành băng đĩa Phật pháp, tài trợ cho quý Tăng Ni sinh đi học, hay cúng dường cho những khoá tu học tại các chùa, gieo nhân duyên nghe Phật pháp giúp mọi người tin sâu nhân quả, hiểu biết được nguyên lý sống của xã hội là công đức cao nhất trong các hàng bố thí. Cho người miếng ăn xong rồi hết, đôi khi khiến họ thêm ỷ lại, cho pháp thí thì mau chuyển hoá được nghiệp tập xấu ác.

Ngày xưa, khi Tổ Bồ Đề Đạt Ma từ Ấn Độ sang Trung Hoa hoằng pháp, Ngài đã đến gặp vua Lương Võ Đế. Trong lúc tìm hiểu, trao đổi Phật pháp, nhà vua hỏi: "Trẫm một đời cất chùa, độ Tăng, bố thí, cúng dường, đúc chuông, tạo tượng, ấn tống kinh sách, như vậy có được công đức chăng?" Tổ Bồ Đề Đạt Ma trả lời rằng không có công đức gì cả. Nhà vua như bị tát gáo nước lạnh vào mặt, bởi vì Ngài nghĩ những việc đó là công đức tối hậu.

Có người nói rằng vua Lương Võ Đế không đích thân ra công thực hiện những việc đó mà chỉ sai người khác làm nên không có công đức gì cả. Sau này có người đem sự việc đó thưa hỏi Lục Tổ Huệ Năng và được Lục Tổ chỉ dạy như sau: “Quả thực là không có công đức gì cả. Vua Lương Võ Đế vì lầm chấp sự làm phước là viên mãn mà không dùng trí tuệ để buông xả phiền não tham-sân-si vì còn thấy mình giúp. Cất chùa, độ Tăng chúng tu hành rất đông, thiết trai cúng dường, bố thí, đúc chuông, tạo tượng, ấn tống kinh sách, tất cả chỉ là những việc làm bên ngoài xã hội bằng tình người trong cuộc sống có thể giúp ích cho nhiều người.”

Nghe thế, vua sửng sốt, bàng hoàng, đâm ra nghi ngờ nên hỏi tiếp: “Tại sao lại không có công đức?” Tổ đáp: “Đó là phước báu thế gian được hưởng phước báo làm người giàu sang, thông minh, mẫn tiệp ở cõi Trời-Người như bóng theo hình, tuy có nhưng không bền chắc lâu dài.” Vua Lương Võ Đế tưởng rằng làm những việc phước thiện như vậy là công đức cao cả nên chấp vào việc làm của mình, bị Tổ tạt cho một gáo nước lạnh vào mặt nhưng vẫn chưa nhận ra yếu chỉ tu hành bởi vua Lương nhầm lẫn giữa phước đức và công đức.

Mục đích của Tổ sang Trung Hoa là chỉ rõ cho mọi người nhận ra bản tâm chân thật sẵn có nơi mỗi người. Vua Lương nghĩ rằng cất chùa, độ Tăng Ni, in kinh sách, say mê việc làm phước là công đức nên Tổ mới phá chấp để nhà vua nhận ra bản tâm chân thật của mình mà hiểu đúng lý giác ngộ, giải thoát của đạo Phật. Nhà vua không hiểu thế nào là công đức, chỉ một bề lầm chấp công lao của mình, cho đó là cứu cánh của đạo Phật. Vua không hiểu ý sâu xa của Tổ, dù đang là vị vua trên các vua khác, được hưởng phước cao sang tột đỉnh cũng vẫn bị quy luật vô thường chi phối, rốt cuộc vẫn trôi lăn trong vòng sinh tử khổ đau. Chỗ Tổ muốn chỉ cho nhà vua là dừng lặng các vọng niệm phải-quấy, tốt-xấu, đúng-sai, ta-người để sống lại với tâm sáng suốt của mình, hay còn gọi là Phật tánh.

Người đến với đạo Phật có hai hình thức: tại gia và xuất gia. Song, xuất gia là số ít, người tại gia là số nhiều, là nền tảng của đời sống gia đình và xã hội. Người xuất gia nguyện suốt đời đi theo lý tưởng giác ngộ, giải thoát, trên cầu thành Phật, dưới cứu độ chúng sinh. Vì vậy, người xuất gia nêu cao tinh thần dấn thân phục vụ vì Tam Bảo. Người tại gia ngoài việc lo cho gia đình và xã hội, thấu hiểu lý nhân quả nghiệp báo còn cần tự giác phát tâm hộ trì Tam Bảo, trợ giúp vật chất để người xuất gia (chư Tăng Ni) có điều kiện, thời gian tu học và hành trì.

Việc làm của vua Lương Võ Đế quả là một điều khó làm bởi Ngài là vua một nước, dù bận trăm công ngàn việc nhưng Ngài vẫn tranh thủ thời gian làm những việc khó làm. Lương Võ Đế là ông vua cư sĩ trên đời này làm được như vậy là hiếm có, ông đã giúp dân chúng an cư lạc nghiệp, sống trên tinh thần đoàn kết-giúp đỡ lẫn nhau, do đó trong nước rất ít tệ nạn xã hội.

Công đức là do tu tâm mà được, tự tu tánh là công, tự tu thân là đức, đức phải do nơi tự tánh mà thấy, không phải do bố thí cúng dường mà được. Do đó, công đức là do tu tâm rõ bản tánh rỗng lặng nhưng hằng thấy biết. Những việc làm của vua Lương Võ Đế là do nhân quả phước báu của Trời-Người. Có phước thì được giàu sang, có nhiều của cải, quyền thế, hưởng thụ vật chất đầy đủ. Song, hưởng thụ phước báu mà không biết kiệm phước thì cũng có ngày hết, phải chịu khổ đau trong vòng luân hồi sinh tử.

Do đó, có phước mà thiếu công đức dễ dẫn đến phiền não, chấp trước, thấy mình là người bố thí, kẻ thọ nhận phải biết ơn mình rồi sanh tâm cống cao ngã mạn; nhiều khi thấy người thọ nhận vô ơn, bạc nghĩa, không biết nhớ ơn sẽ sanh tâm coi thường, khinh rẽ họ thì không những bị mất phước mà còn phải mang lấy tội quả xấu.

Chính vì vậy, là người Phật tử chân chính chúng ta phải biết quân bình phước huệ song tu, một mặt tích lũy phước báu, một mặt buông xả phiền não, nhờ có phước ta dễ có điều kiện tu học, một mặt tích cực tu tâm để chuyển hóa khổ đau khi đối diện nghịch cảnh cuộc đời. Trái lại, người đã sống với tâm chân thật dù có bố thí cúng dường, làm nhiều phước thiện cũng đều là công đức cả vì họ làm trong vô tâm, làm mà không chấp trước việc làm của mình.

Vô tâm là tâm rỗng lặng sáng suốt, không bị dính mắc, chấp thủ vào việc mình làm, chỉ tùy thời, tùy duyên làm lợi ích mà không thấy mình là người bố thí, không thấy người thọ nhận và vật thí, do đó được an nhiên, tự tại trước mọi hoàn cảnh trái ngang. Nếu mọi người biết làm phước và tu tâm thì thế gian này sẽ là thiên đường của hạnh phúc.

Phước Huệ song tu vẫn là điểm then chốt cho người học Phật, nhưng chúng ta đừng bao giờ xem nhẹ việc làm phước, vì có phước và biết cách sắp xếp thời gian để huân tu trí tuệ là tiến trình cho con đường hành Bồ tát đạo đến khi thành Phật viên mãn mới thôi.

Nhờ bố thí nhiều đời nên chúng ta gặt hái được nhiều phước báo, do đó chúng ta tín tâm Tam Bảo, tin sâu nhân quả mà cố gắng duy trì phát tâm học chánh pháp, tu hạnh buông xả nên từng bước chuyển hoá được phiền não tham-sân-si. Mười phương chư Phật thành tựu đạo giác ngộ-giải thoát cũng từ hạnh bố thí làm nền tảng.

Như chúng ta đã biết, bố thí vẫn là điều kiện quan trọng thiết yếu của người Phật tử, nhờ vậy ngày càng phát triển tâm từ bi rộng lớn. Chính vì vậy mà người cho được nhiều hơn người nhận, bởi người nhận chỉ được chút vật chất nhưng người cho được cả một niềm vui tinh thần vì giúp được người khác vơi bớt nỗi khổ niềm đau.

Công đức có khả năng giúp chúng ta tiêu trừ nghiệp chướng, chuyển hoá phiền não tham-sân-si. Công đức là công phu tu tập bên trong nhờ hành trì theo lời Phật dạy, luôn luôn giữ gìn Giới luật, niệm Phật, Bồ tát, tu tập thiền định, nhờ vậy phát sinh trí tuệ thấy biết đúng như thật để buông xả vọng niệm. Những việc làm này đem lại lợi ích cho nhiều người như vậy thì tất nhiên sẽ giúp chúng ta có thật nhiều phước đức.

Tuy nhiên, nếu chúng ta giúp người mà mình không biết tu tâm dưỡng tính thì ta sẽ dính mắc vào việc làm của mình nên thấy có ta giúp, người là đối tượng được giúp và vật thí. Nếu như bố thí, cúng dường mà tâm không mong cầu gì cả, cúng chùa để chùa có thêm phương tiện sinh hoạt ích lợi cho mọi người, giúp người để người qua cơn khó khăn túng thiếu mà không đắn đo, không suy nghĩ, không tính toán gì thêm nữa thì chúng ta sẽ chuyển hoá được phiền não tham-sân-si.

Tâm cầu danh của chúng ta sẽ giảm bớt, tâm chấp ngã cũng nhẹ hơn trước. Chúng ta không làm những việc ác mà hay làm tất cả việc thiện nhưng không chấp chặt vào những việc làm đó thì tâm ý của ta sẽ được thanh tịnh. Đó là ta biết tu tâm dưỡng tính, vừa biết làm phước, vừa biết tu tâm. Khi làm việc thiện nếu ta chấp chặt vào đó thì tâm của mình sẽ bực dọc, bất an, khó chịu khi bị người khác phê bình, chỉ trích.

Công đức là do tu tâm, rõ được bản tâm sáng suốt nơi chính mình, từ đó mỗi lời nói, hành động, suy nghĩ đều hợp với đạo lý làm người, làm điều gì cũng không sai trái, không bị dính mắc hay trói buộc. Phước đức là diệu dụng của công đức, là kết quả của hành vi làm các việc thiện lành như giúp người hoạn nạn, chia sẻ vật chất-tinh thần giúp người bớt khốn khổ, tạo nên những nhân tốt.

Người làm việc phước đức nhiều được hưởng quả phú quý, giàu sang, của tiền dư dả ở thế gian hay được sanh vào cõi trời. Theo kinh Phật dạy, người dù có phước tột đỉnh được sinh vào các cõi trời hay cõi người để hưởng quả tốt, nhưng khi hết phước vẫn bị định luật vô thường chi phối, vẫn phải trôi lăn trong vòng sanh tử luân hồi, chỉ có nguời công đức đầy đủ mới không bị khổ đau chi phối, do đó được an nhiên tự tại trong mọi hoàn cảnh.

Nhân quả nghiệp báo sẽ không từ bỏ một ai khi hội đủ nhân duyên, làm lành được hưởng phước, làm ác chịu quả khổ là định luật rất công bằng không có sự sai biệt. Vì vậy, người Phật tử phải biết sáng suốt chọn lựa, đừng để đến lúc gặt quả xấu rồi than thân trách phận, đổ thừa tại này, tại nọ để rồi chuốt lấy khổ đau.

Bậc Thánh nhân khi gặp quả xấu do có trí tuệ sáng suốt thấy rõ được nhân quả nghiệp báo nên không buồn đau, sầu khổ. Người khôn ngoan phải biết chọn lựa con đường tốt đẹp dẫn đến an vui hạnh phúc, biết làm phước để tích lũy, nếu không biết tích lũy thêm phước đức thì đến khi hết phước sẽ gặp tai họa.

Công đức là sự tu tâm, sửa đổi, chuyển hóa những tâm niệm tà vạy, tham lam, ích kỷ, hiểm độc, ganh ghét. Người tu hành chân chính dù có bị đói khát, thiếu thốn vẫn không khổ tâm vì biết nhân quả nghiệp xấu chiêu cảm. Cái hay của người tu hành là ở chỗ đó, và đó cũng là chỗ khác nhau của công đức và phước đức.

Giúp đỡ, sẻ chia giúp ta thiết lập tình thương, trên cơ sở đó tạo ra mối quan hệ tương quan, tương duyên trong xã hội cộng đồng nhằm phát triển tốt đẹp về mọi mặt bền vững, lâu dài. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta phải làm như thế nào để tạo ra phước báo nhằm hoàn thiện chính mình và đóng góp lợi ích cho nhân loại.

Bố thí là nền tảng cơ bản để kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống nhằm làm vơi bớt nỗi đau bât hạnh của tha nhân, là hạnh lành đầu tiên mà đức Phật lúc nào cũng nhắc đến. Bản chất của con người là luôn muốn có, muốn thêm, muốn nữa, không bao giờ thấy đủ, không bao giờ thỏa mãn với những gì mình đang có. Muốn được sống an lạc, hạnh phúc ta hãy nên bằng lòng với những gì mình đang có và cố gắng duy trì, gìn giữ và phát triển. Mong cầu nhiều, mơ ước nhiều mà không được như ý chỉ thêm nhiều phiền muộn, đau khổ mà thôi.

Nói tóm lại, người Phật Tử chân chính phải nên biết bố thí là nấc thang đầu tiên để san sẻ nỗi khổ niềm đau cho những người bất hạnh. Nó là niềm an ủi lớn lao trong cuộc sống, là nhịp cầu kết nối yêu thương bằng tình người trong cuộc sống.

Tiến xa hơn một bước nữa, bố thí là biết buông xả sự lầm chấp thân tâm này làm ngã, từ đó có “ngã sở” là “của ta” nên bị trói buộc bởi phiền não tham-sân-si. Bố thí trọn vẹn là khi mình giúp ai mà không thấy có người giúp, đối tượng được giúp và vật thí giúp. Bố thí như vậy có năng lực giúp ta vượt qua bể khổ sông mê, chóng đến bờ giác ngộ-giải thoát.

Chúng ta hãy nên xây dựng và phát triển, gìn giữ chùa; đóng góp, tham gia các hoạt động xã hội; giúp cho mọi người có điều kiện để học hỏi, tu tập nhằm chuyển hoá nỗi khổ niềm đau thanh an vui hạnh phúc và đem lại lợi lạc cho tất cả chúng sinh.

MỐI TƯƠNG QUAN VỚI THẾ GIỚI SIÊU HÌNH


HT. Thích Trí Quảng




Nếu tu Mật tông, mối quan hệ giữa mình và thần linh có phát ra tín hiệu, nên muốn kêu vị nào, chỉ đọc câu thần chú tương ưng thì vị thần đó tới với ta. Còn người bắt chước đọc thần chú, dù có đọc bao nhiêu lần, cũng chẳng có vị nào tới.

Trên bước đường tu hành trải qua hơn 60 năm, tôi vượt qua được nhiều chướng duyên và thành tựu các Phật sự do Giáo hội giao phó ở các thời kỳ khác nhau, tôi xin chia sẻ đến quý vị một số kinh nghiệm. Trước nhất, sở dĩ làm được một số việc, vì đối với các bậc tôn trưởng thường gọi là thầy Tổ, tôi đã có lòng kính trọng tuyệt đối. Thầy Tổ là người nối liền ta với chư Phật; nếu thiếu sự tôn kính thầy thì mối quan hệ giữa ta và thế giới vô hình đã bị đóng kín lại, chỉ còn quan hệ trên hình thức mà thôi.

Tôn kính thầy Tổ là niềm tin trân trọng giữa con người và con người. Đôi khi các thầy trẻ nghĩ rằng thầy Tổ của mình không học ở trường lớp, không có học vị, nên tỏ ý xem thường, cho rằng thầy mình không biết gì; đó là sự sai lầm lớn của người có học, dẫn đến sự thất bại trên con đường hoằng dương Chánh pháp.

Mặc dù không học trường lớp, nhưng các vị thầy Tổ sống trong Chánh pháp và phát huy được căn lành, nên đã tạo được sự nối kết sâu sắc với Phật mà chúng ta không thấy được. Tôi thường suy nghĩ trong các thời kỳ khó khăn, các Ngài lãnh đạo được Tăng Ni và Phật tử là nhờ vào điều gì. Từ đó, tôi học được ở các bậc thầy Tổ những điều không có trong sách vở. Thật vậy, Thầy của tôi là Hòa thượng Trí Đức trình độ văn hóa không cao, nhưng tôi rất kính trọng Ngài về pháp hành. Từ khi tôi còn ở điệu tại Tổ đình Huê Nghiêm, tôi thấy ngày nào sau khi Tăng chúng tụng thời Tịnh độ xong, xuống nghỉ, thì Hòa thượng tiếp tục lạy sám hối và ngồi thiền, trì chú. Thời khóa công phu khuya của chúng tôi dưới một tiếng, nhưng thời khóa của Ngài đến hai, ba tiếng; nghĩa là Ngài có niềm tin và căn lành mới thể nghiệm Phật pháp được như vậy. Ngài lạy Phật và ngồi thiền không mệt mỏi, còn trì chú thì không hiểu nghĩa, nhưng Ngài vẫn tinh tấn đọc. Làm sao chúng ta biết lúc đó các Ngài nghĩ gì, người thường không thể biết được.

Chúng ta thường đặt vấn đề việc tu học của người tu là Tam vô lậu học, không phải học ngữ ngôn văn tự. Chúng ta lầm vô lậu học với học ngữ ngôn, nên nghĩ rằng học được vài bộ kinh là hiểu biết Phật pháp rồi. Theo tôi, học ngữ ngôn là việc bình thường. Còn học pháp vô lậu thì ngồi yên hàng giờ mà tạo được lực tác động của tâm mình một cách tốt đẹp mới quan trọng; nếu không có mối quan hệ vô hình, chúng ta không thể ngồi yên được. Thật vậy, đọc sách lâu, hoặc học nhiều thì không khó, nhưng ngồi yên lâu dài được thì không đơn giản. Ngồi yên lâu dài được là hoạt động nội tâm của người đó phải có mối liên hệ vô hình, gọi là định vô lậu.

Các bậc Thầy Tổ không có bằng cấp, nhưng các Ngài trụ định vô lậu được. Còn chúng ta chỉ học suông về giới định huệ trên lý thuyết, trên ngữ ngôn văn tự mà thôi. Nếu giới là giới điều, định là ngồi yên và huệ là hiểu biết, thì như vậy có phải là Tam vô lậu học hay không ?

Giới điều là phương tiện của Đức Phật chế ra nhằm ngăn chặn những sai lầm của người sơ cơ học đạo. Như vậy, giới điều dùng để ràng buộc nghiệp của chúng ta mà thôi, chứ chưa phải là giới vô lậu của Phật. Giới thể vô lậu và giới tướng vô lậu mới quan trọng. Người có giới đức thì tướng rất trang nghiêm và tâm thanh tịnh. Chúng ta giữ giới, nhưng cảm thấy bị giới ràng buộc mình thì chỉ là hàng sơ tâm; nếu chấp mãi như vậy, không thể học được vô lậu giới thể.

Giới thể là từ tâm hoàn toàn thanh tịnh, nên hiện tướng trang nghiêm tác động cho người trông thấy phải phát tâm Bồ đề. Điển hình là khi Đức Phật tu đắc giới thể, việc hành đạo của Ngài khác với thời gian Ngài còn là Sa môn mà giới thể chưa thanh tịnh. Lúc đó, năm anh em Kiều Trần Như còn phê phán Ngài thế này thế nọ, không bằng các ông tu hành giữ giới nghiêm túc. Kiều Trần Như nghĩ ông tu lâu, lớn tuổi, rất nghiêm túc giới luật; nhưng thật ra như vậy mới chỉ là ở phương tiện hình thức mà thôi.

Khi Đức Phật đắc giới thể vô lậu, cũng vẫn là Ngài, nhưng tướng trang nghiêm giải thoát hiện ra. Vì vậy, lúc Phậtđến độ năm anh em Kiều Trần Như, họ định không chào Ngài, không tiếp chuyện Ngài; vì họ nghĩ rằng trước kia Phật không tu nổi khổ hạnh, mới bỏ đi. Nhưng khi trông thấy tướng trang nghiêm thanh tịnh của Phật, họ tự động kính trọng và đảnh lễ Ngài. Đó là ý chính mà tôi muốn nhắc các thầy trụ trì.

Nhiều khi chúng ta dạy đệ tử, hay nói chuyện với bổn đạo, nghĩ rằng họ không tốt, không trang nghiêm, không giữ giới, khiến cho ta buồn phiền, bực tức, răn đe. Làm như vậy rất bất lợi trong đạo. Trước khi răn đe người khác, phải răn đe tánh buồn phiền, bực tức của mình trước đã. Ta không trang nghiêm, không có giới đức thì không thể dạy được người; vì ta đã cho họ cái buồn phiền, bực tức, chứ không phải cho Phật pháp. Tánh thanh tịnh, trang nghiêm mới là Phật pháp. Vì vậy, phải rèn luyện giới thể thanh tịnh. Đức Phật dạy rằng người không đắc A la hán, thì không được đi khất thực. Phật ngăn cấm điều này ngay từ Lộc Uyển, vì mang tướng không trang nghiêm và tâm không thanh tịnh mà đi vào đời sẽ làm cho ngoại đạo khinh chê, làm cho đàn việt mất tín tâm. Lúc bấy giờ, chỉ có Đức Phật và Kiều Trần Như được đi khất thực để nuôi bốn người còn lại. Và trong mùa An cư đầu tiên, năm anh em Kiều Trần Như đều đắc quả A la hán, nghĩa là tâm đã thanh tịnh và tướng trang nghiêm, Đức Phật mới dạy rằng mỗi thầy đi một phương để giáo hóa chúng sinh, hai người không đi chung một đường.

Tâm thanh tịnh đi vào đời tác động cho người phát tâm và tướng trang nghiêm làm cho cuộc đời tốt đẹp hơn. Vì vậy, Xá Lợi Phất là nhà hùng biện nhất thời bấy giờ, khi trông thấy Mã Thắng Tỳ kheo yên lặng cầm bình bát đi vào làng, Xá Lợi Phất cứ nhìn dáng đi của Mã Thắng mà đi theo. Và một người muốn tranh cãi hơn thua như Xá Lợi Phất bắt gặp tâm thanh tịnh của Mã Thắng, đã thu hút tâm ông, làm cho ông thanh tịnh theo.

Do vậy, thầy Tỳ kheo tâm thanh tịnh rồi, ai có nhân duyên thấy họ, tự nhiên được an lạc; đó là bài thuyết pháp vô ngôn rất quan trọng trên bước đường tu. Chính vì vậy mà Xá Lợi Phất từ bỏ vị trí giáo chủ của ông để đi theo Mã Thắng về tịnh xá, nghĩa là tâm của Mã Thắng đã dẫn Xá Lợi Phất về với Phật và tâm ông được tâm bao dung của Đức Phật nuôi dưỡng đến trưởng thành trên đường đạo. Hiểu điều này, chúng ta mới nhận ra ý nghĩa trong kinh Pháp Hoa về lời tâm huyết của Xá Lợi Phất thốt lên tự đáy lòng với Đức Thế Tôn rằng: Ơn lớn của Thế Tôn, con không thể đền đáp được. Dù có dùng đầu đội, hai vai cõng vác trong vô số kiếp, con cũng không trả được ơn này. Tại sao Xá Lợi Phất nói như vậy, ơn này là ơn gì, Ngài nhận được gì từ Phật?

Thiết nghĩ trên bước đường tu xuất gia học đạo, nếu chúng ta không nhận được gì trong Phật pháp, thì quả là uổng phí cả cuộc đời tu của mình. Nghe Xá Lợi Phất thốt lên như vậy, chúng ta có suy nghĩ. Nhìn bề ngoài thấy Xá Lợi Phất đóng góp cho Đức Phật rất nhiều; nhưng nhìn bề trong thì Xá Lợi Phất nhận thấy rằng dù có làm suốt đời cho Phật, ông cũng không đền đáp được công ơn của Phật. Riêng chúng ta, chỉ làm một việc nhỏ thôi đã cảm thấy mệt nhọc, thấy mình hy sinh rất nhiều cho đạo. Nghĩ như vậy là sai lầm lớn, không thể đến với đạo được.

Chúng ta phải nhận ra ơn lớn của Đức Thế Tôn. Ngài Nhật Liên nói rằng trong bốn ơn mà Đức Phật đưa ra là ơn cha mẹ, ơn Thầy bạn, ơn quốc dân thủy thổ và ơn đàn na tín thí, tuy bốn ơn này quan trọng, nhưng còn ơn thứ năm là ơn Tam bảo quan trọng hơn. Vì nếu thiếu ơn Tam bảo, chúng ta sống rồi chết, trải qua vô số kiếp cũng là chúng sinh đau khổ trong sinh tử. Phải nhờ ơn Phật đã cứu chúng ta thoát khỏi nhà lửa tam giới. Vì vậy, tuy bốn ơn kia giúp cho chúng ta trưởng thành trên cuộc đời, mà chúng ta không quên, nhưng ơn Thế Tôn mới đưa chúng ta ra khỏi sinh tử và dạy cho chúng ta giới định huệ vô lậu, để chúng ta ra khỏi ngục tù tam giới.

Từ ơn Thầy Tổ, tiến xa hơn, nhớ đến ơn Phật vô cùng lớn lao, nên hàng đệ tử Phật đều mơ ước được thấy Phật hiện hữu trên cuộc đời; nhưng đó chỉ là ước mơ mà thôi, khiến cho Ngài Trí Giả phải thốt lên rằng :

Phật tại thế thời ngã trầm luân 
Kim đắc nhân thân, Phật nhập diệt 
Áo não tự thân đa nghiệp chướng 
Bất kiến Như Lai kim sắc thân.

Nghĩa là khi Đức Phật xuất hiện trên cuộc đời này, chúng ta đang trầm luân trong sinh tử. Đến khi mình trồi lên làm người, thì Phật đã vào Niết bàn. Rất buồn vì nghiệp chướng mình nặng quá, nên không thấy được kim sắc thân của Như Lai.

Nhưng kỳ diệu thay, khi Trí Giả nói lên câu này, thì Ngài thấy được kim thân Phật và hội Linh Sơn chưa tan. Điều này gợi nhắc chúng ta khi tâm tha thiết hướng về Phật, ta sẽ thấy được những gì mà người bình thường không thể thấy. Thật vậy, người đời thấy chúng ta tu hành cực khổ, họ tội nghiệp cho ta; nhưng tại sao chúng ta tu được. Hoặc người ta thắc mắc tại sao Đức Phật sống cuộc đời nhung lụa, giàu sang, sung sướng mà lại bỏ ngai vàng để làm Sa môn, sống lang thang rày đây mai đó. Phải biết nếp sống lang thang của Đức Phật trong sáu năm tìm đạo, năm năm khổ hạnh chốn rừng già, chính là thời kỳ mà Đức Phật sống huy hoàng nhất. Còn thời gian Phật ở cung vàng điện ngọc là Ngài đang ở trong ngục tù tam giới.

Ý thức được như vậy, chúng ta mới thích tu. Tất cả mọi quyền lợi thế gian chỉ ràng buộc chúng ta, giết chết chúng ta, đẩy chúng ta vào phiền não, khổ đau mà thôi. Người đời còn nói rằng càng cao danh vọng càng dày gian lao. Danh vọng và quyền lợi trói chặt chúng ta, làm cho phiền não mình luôn khởi lên và cuối cùng đẩy chúng ta vào tam đồ khổ. Trong khi làm Sa môn, sống đạm bạc, có hôm nhịn đói, nhưng cuộc sống rất an lạc. Ai vui với đạo pháp, thích hạnh Sa môn, mới thấy được đạo.

Trí Giả nhờ tâm tha thiết với Phật một cách mãnh liệt, Ngài vượt được thế giới trần lao khổ lụy và đi thẳng vào pháp hội Linh Sơn. Chúng ta đừng hiểu lầm pháp hội Linh Sơn mà Ngài Trí Giả nói với hội Linh Sơn ở núi Linh Thứu của Ấn Độ. Ngài nói rằng không phải qua Ấn Độ mới thấy Phật, nhưng Ngài thấy Phật qua yếu nghĩa của ba chữ Linh Thứu Sơn. “Sơn” chỉ cho thân tứ đại của chúng ta. Đức vua Trần Nhân Tông cũng diễn tả thân tứ đại là bốn núi sanh già bệnh chết. “Linh” là chân linh. Ngài dạy chúng ta cắt bỏ bốn núi này thì sẽ thấy được chân linh, mà Ngài nói rằng thấy hội Linh Sơn chưa tan.

Ngài Trí Giả thâm nhập hội Linh Sơn như vậy và nghe Phật nói pháp bằng chân linh trong Tịch Quang thường chiếu, cho nên Ngài đã phát huệ vô lậu, từ đó Ngài thuyết pháp mà người nghe không biết chán, đến độ vua Trần ở Trung Quốc còn phải bãi triều để đi nghe pháp.

Chúng ta tu hành phải cố đạt được huệ vô lậu. Muốn được như vậy, phải vào hội Linh Sơn nghe Phật nói pháp. Đến hội Linh Sơn, hay tu bằng chân linh, sẽ không sợ khó, không sợ khổ trên cuộc đời này, giúp chúng ta làm Phật sự vượt được chướng ngại, thì thế giới Phật mới hiện ra cho chúng ta, mới thấy Đức Phật hiện hữu.

Đọc kinh Pháp Hoa, quý vị sẽ thấy điều kỳ diệu là khi Đức Phật nhập Vô lượng nghĩa xứ tam muội, thì trời mưa hoa Mạn đà la, làm cho tâm đại chúng được thanh tịnh, thấy lục đạo tứ sanh từ địa ngục A tỳ cho đến Trời Sắc cứu cánh, lại thấy có Phật ra đời thuyết pháp giáo hóa độ chúng nhị thừa và hàng nhơn thiên, cũng thấy các vị Bồ tát tùy thuận chúng sinh hiện các loại hình cứu khổ ban vui, thành tựu lục độ vạn hạnh, cũng thấy các vị Bích Chi Phật thiền định ở núi rừng, v.v…

Trong thế giới chân linh hiện đủ cuộc sống của tứ sanh lục đạo và cũng hiện đủ cả hàng tứ Thánh, nghĩa là huệ phát thì thấy toàn cảnh của Pháp Hoa; đó chính là đạt được hiệu quả của việc tu hành. Điều này gợi lên sự suy nghĩ mà tôi muốn trao đổi với quý vị. Trên bước đường tu, nếu chỉ sống với thế giới vật chất của con người, chắc chắn không thể đi xa được. Vì vậy, hạn chế được một phần vật chất, thì một phần tâm linh sẽ hiện ra cho chúng ta; nhưng phần tâm linh này mới chỉ là vọng thức rất gần với chúng ta, chứ chưa vô được chân linh. Chân linh mà Trí Giả đại sư nói đến khác với vọng thức.

Trong tứ sanh lục đạo chỉ sinh hoạt với vọng thức, hay nghiệp thức. Vọng thức hay nghiệp thức là những kinh nghiệm quá khứ và hiện tại mà chúng ta tích lũy trải qua nhiều kiếp sống; cho nên chúng ta chỉ nhắm mắt lại là những gì chất chứa trong tiềm thức hay còn gọi là A lại da thức liền hiện ra.

Người tu mở toang A lại da thức của mình để kiểm tra, sẽ thấy được những người gần nhất là ma quỷ, hay quỷ thần. Người chết thành ma quỷ và ma quỷ tái sinh thành người, cho nên chúng ta dễ cảm nhận sự hiện hữu của thế giới này. Ngày nay, các nhà ngoại cảm chỉ cần lắng yên phần sinh hoạt vật chất một chút, thì phần Thức của họ mở ra, giúp cho họ thấy được tâm của người chết, hay nói nôm na là thấy hồn ma.

Riêng tôi từ khi mới 13 tuổi, ở chùa ban đêm thanh vắng, thường nghe tiếng tụng kinh, khiến tôi nhận ra thế giới tâm thức của con người. Thật vậy, khi thế giới vật chất được lắng yên một chút, chúng ta dễ nhận ra thế giới ma quỷ; vì xung quanh Tổ đình Huê Nghiêm thời bấy giờ là nghĩa địa, nên tôi thường thấy hồn người chết lảng vảng. Người tu không màng phú quý lợi danh, không nặng cuộc sống vật chất, nên dễ mở “Thức” ra trước. Và khi thế giới Thức mở ra, thì mối tương quan giữa ta với những người liên hệ trong những kiếp sống quá khứ và hiện tại chất chứa trong kho tiềm thức này liền hiện ra đầy đủ trước mắt mình; nói cách khác, chúng ta tự động thấy biết rõ ràng trên thực tế cuộc sống này người nào thực quý mến ta dù ta chưa làm gì cho họ, hoặc người nào ghét ta, muốn hại ta, dù ta chẳng có ác ý gì với họ, hoặc việc tốt lành hay hung dữ sắp xảy đến với ta, v.v... Trên bước đường tu, tôi thường thấy trước việc không tốt sẽ xảy ra và tôi kiểm tra lại tâm mình, tự nhiên thấy bất an, thì tự biết điều không lành sắp đến.

Theo tôi, đó là linh tánh báo cho biết trước, hay chư Thần báo mộng, khiến có cảm giác như trong vô hình có người mách bảo đừng đi đến chỗ đó, hoặc đừng làm việc nào đó. Và sau đó, thực tế cũng xảy ra những điều không lành đúng như chư Thần mách bảo. Phải nghe được tiếng nói phát xuất từ thế giới siêu hình và nghe bằng tâm thanh tịnh của mình, vì họ không nói bằng ngôn ngữ trần gian; hoặc vì tâm chúng ta vọng động nên không nghe được, nhưng có làn sóng điện từ truyền thẳng vào tâm ta làm cho ta có cảm giác bất an, lo lắng, nghĩa là thế giới siêu hình đã phát tín hiệu cho ta, nhưng ta không giải mã được.

Trong khi các bậc Thầy Tổ của chúng ta đã học được cách giải mã tín hiệu của Phật, của Bồ tát, của Thánh thần, đó là sở đắc đáng kể của người tu. Nếu không đạt được sở đắc như vậy, thì chỉ là tu sĩ nói suông, không có sức cảm hóa người; phải vượt được sinh hoạt bình thường của căn trần thức, mới thâm nhập vào thế giới siêu hình, mới có thể cảm hóa người khác. Gần nhất là nhận ra tiếng nói của quỷ thần, rồi từng bước, chúng ta giải mã tín hiệu của họ. Nếu tu Mật tông, mối quan hệ giữa mình và thần linh có phát ra tín hiệu, nên muốn kêu vị nào, chỉ đọc câu thần chú tương ưng thì vị thần đó tới với ta. Còn người bắt chước đọc thần chú, dù có đọc bao nhiêu lần, cũng chẳng có vị nào tới.

Mối quan hệ giữa thần linh và người tu không phải chỉ có Phật giáo biết được, mà ngoại đạo tà giáo cũng làm, nhưng phần nhiều họ quan hệ với oan hồn uổng tử. Các thầy phù thủy luyện thiên linh cái, kêu những hồn ma này tới, vì giữa họ với oan hồn có sự đồng cảm, đồng nghiệp. Nghiệp ác của phù thủy và nghiệp ác của ma gặp nhau, nên họ được ma ủng hộ và họ sử dụng âm binh này để hại người. Tà giáo thường luyện như vậy.

Theo Phật thì khác, chúng ta liên hệ với Hộ pháp thiện thần. Tâm ta thiện, nên liên hệ với thiện thần, họ sẽ đến ủng hộ. Tuy nhiên, các thầy trụ trì phải cẩn thận, muốn trì chú trước nhất phải có Phật tâm, thì chư thần hộ chúng ta, họ mới hiền lành; còn chúng ta bực tức, các ông thần sẽ tác động làm cho tâm ta bực hơn nữa.

Điều này thực tế tôi thấy rõ có một số Tăng Ni rất hiền lành, nhưng sau một thời gian đọc thần chú mà vẫn nuôi tâm sân hận, họ liền bị ác quỷ theo, nên tánh tình trở thành hung dữ lạ thường. Tôi có đến một ngôi chùa, thầy trụ trì ở đó nói với tôi rằng trước kia ông hiền, sau một thời gian trì chú, tánh ông trở nên nóng nảy kỳ lạ, đến mức độ ông đã đánh ông đạo què chân, nên không ai dám ở chùa với ông nữa. Thậm chí, tối ngủ, ông mơ thấy ma, nên ông đánh vô tường đến bầm tay. Chúng ta không phê phán việc trì chú, nhưng phải biết tu cho đúng pháp.

Các thầy trụ trì phải hiền như Phật, thì quỷ thần tìm đến, họ mới hiền lành và ủng hộ chúng ta làm được những việc lợi ích. Hiểu rõ điều này tôi đã viết trong bài sám Pháp Hoa rằng sơn thần thổ địa đồng tùy hy, nghĩa là họ đều tới với chúng ta để tu, không phải để kết bè đảng làm việc ác. Thế giới quỷ thần gần gũi chúng ta như vậy và nếu thâm nhập thế giới này, sẽ thấy những việc kỳ lạ; chẳng hạn có Phật tử đến thưa với tôi rằng họ nằm mơ thấy ba mẹ của họ bảo đến tìm tôi; vì tôi đã cảm thông được thế giới thần linh, khiến họ tác động cho cha mẹ của Phật tử như vậy.

Một lần khác, tôi cũng chứng nghiệm điều này, một vị linh mục đến cúng dường tôi, nhờ tôi cầu siêu cho bà cô của ông. Tôi hỏi tại sao ông theo đạo Thiên Chúa mà không cầu nguyện cho bà, lại nhờ tôi. Ông nói rằng buổi tối nằm mơ thấy bà cô bảo ông đến nhờ tôi cầu nguyện; vì bà ấy theo đạo Phật, thì không thể cầu hồn cho bà lên thiên đàng được.

Tôi kể hai câu chuyện này để gợi nhắc quý thầy rằng tâm thức của con người rất quan trọng. Theo tôi, Phật giáo chúng ta có một điều lợi lớn so với tôn giáo khác, đó là đạo pháp của chúng ta gắn liền với dân tộc. Thật vậy, theo dòng lịch sử của đất nước chúng ta từ khi dựng nước, giữ nước cho đến ngày nay, dân tộc ta đã kế thừa truyền thống Phật giáo. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, ngoài Phật giáo ra thì dân tộc Việt Nam không có văn hóa nào khác. Quả là “Mái chùa che chở hồn dân tộc. Nếp sống muôn đời của tổ tông”.

Quý thầy hãy nghĩ xem bình thường có những người không tin Phật, nhưng khi người thân của họ qua đời, họ cũng phải rước thầy tụng kinh mới cảm thấy yên tâm. Điều này cho thấy truyền thống của Phật giáo và dân tộc gắn liền với nhau một cách sâu sắc. Gần đây, hướng đến anh linh của chiến sĩ, những người có thẩm quyền đã nhờ giới Phật giáo chúng ta tổ chức lễ cầu siêu tại các nghĩa trang liệt sĩ và Côn Đảo, một lần nữa nói lên sự gắn bó mật thiết của Phật giáo và dân tộc.

Tóm lại, Tăng Ni cần ý thức sâu sắc truyền thống gắn bó sâu xa của Phật giáo với dân tộc, để phát huy mối tương quan mật thiết này, giúp cho nhiều người tương thông được với ông bà, tổ tiên, cha mẹ, hay thân bằng quyến thuộc, bạn bè của họ ở thế giới siêu hình, để giải tỏa những nỗi khổ tâm u uất cho người sống và cả người đã khuất về những điều bất như ý. Như vậy, là làm cho âm siêu dương thạnh mà mọi người luôn mong đợi ở những người tu hành.

Mong rằng trong ba tháng an cư, chuyên cần sống trong pháp Phật, quý vị giữ tâm thanh tịnh và trí sáng suốt để khám phá được những điều kỳ bí của thế giới Phật, Bồ tát, chư Thiên, thiện thần và từ đó cảm hóa người sống, cùng các vong linh, luôn được an vui, luôn phát huy trí tuệ và đạo đức theo Phật, để xây dựng Tịnh độ trên nhân gian và Tịnh độ trong mọi cảnh giới.

HT.THÍCH TRÍ QUẢNG

Ảnh khỏa thân của DO NGUYEN HIEU





Người mẫu khỏa thân đẹp sau tấm ren mỏng





Thứ Ba, 3 tháng 2, 2015

PHÁT TRIỀN MỘT XÃ HỘI LÀNH MẠNH CĂN CỨ TRÊN PHẬT GIÁO TÂY TẠNG, HỒI GIÁO, KI TÔ GIÁO, KHỔNG GIÁO VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC CĂN BẢN CỦA LOÀI NGƯỜI


Nguyên tác: Developing a Healthy Society Based on 
Tibetan Buddhist, Muslim, Christian, Confucian and Basic Human Ethical Values
Tác giả: Alexander Berzin /Fourth World Youth Buddhism Symposium /Hong Kong, China /August 3, 2014
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển



GIỚI THIỆU


Một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của Phật Giáo Tây Tạng là tương duyên sanh khởi hay duyên sanh. Không điều gì có thể tồn tại hay có thể xảy ra trên chính nó mà không liên hệ và nương tựa vào những nhân tố khác. Hơn thế nữa, mọi thứ sinh khởi từ một phức hợp của nhiều nguyên nhân và hoàn cảnh; không thứ nào sinh khởi từ việc chỉ dựa trên một nguyên nhân hay từ hoàn toàn không nguyên nhân. 
Thí dụ, một thân thể khỏe mạnh sinh khởi, trên trình độ nội tại, lệ thuộc trên tất cả những nội tạng và hệ thống chức năng của nó biểu hiện trong sự hòa điệu với nhau.Về trình độ ngoại tại, sức khỏe tốt cũng tùy thuộc vào thuốc men, dinh dưỡng, sự săn sóc ân cần từ người khác, môi trường, và v.v…
 Tương tự thế, một xã hội lành mạnh sinh khởi, trên trình độ nội tại, lệ thuộc vào toàn thể những nhóm thành viên của nó hợp tác với nhau và hoạt động hòa hiệp với nhau. Ở trình độ ngoại tại, xã hội lành mạnh cũng tùy thuộc vào những nhân tố kinh tế, chính trị môi trường, cũng như hoàn cảnh thế giới trong tổng quát.

Đạo đức cũng đóng một vai trò thiết yếu trong việc mang lại cả cá nhân và xã hội lành mạnh. Nếu mọi người không thực hiện đạo đức tự giác hay kiềm chế khỏi những lối sống và thái độ không lành mạnh, và thay vì dấn thân trong hoạt động lành mạnh, thì họ sẽ bệnh hoạn. Tương tự thế, nếu những nhóm khác nhau trong xã hội không gìn giữ những nguyên tắc đạo đức mà họ cùng chia sẻ, xã hội cũng sẽ rơi vào bệnh hoạn. Điều quan trọng nhất trong những nguyên tắc đạo đức này là kiềm chế khỏi hạnh kiểm vị kỷ, và thay vì thế dấn thân trong những thái độ vị tha với sự quan tâm chân thành đến lợi ích của những người khác.

Trong những xã hội đa văn hóa, mỗi nhóm thành viên có tôn giáo hay triết lý đặc thù của nó để tổ chức và hướng dẫn thái độ đạo đức của nó và một số thành viên nào đó của xã hội không theo bất cứ tôn giáo hay triết lý đặc thù nào cả. Phương pháp cho việc giảm thiểu vị kỷ và làm lớn lòng vị kỷ có thể khác nhau trong mỗi nhóm, nhưng nếu mục tiêu là giống nhau - việc tạo nên một xã hội đa văn hóa hòa hiệp và hạnh phúc - một xã hội như vậy sẽ sinh khởi một tùy thuộc vào sự thấu hiểu, tôn trọng và hợp tác hổ tương của tất cả những nhóm thành viên.

Để làm sáng tỏ điểm này, hãy tưởng tượng là một trong những hành khách trên một chuyển tàu nghiên cứu bị kẹt trong băng ở Nam Cực trong tháng 12, 2013. Năm mươi hai nhà khoa học và du khách bị giam lỏng ở đấy trong 10 ngày, và những thủy thủ bị kẹt lại ở đấy lâu hơn sau khi các hành khách được máy bay đưa đi an toàn tới một tàu khác đến để cứu họ. Trong tai nạn ấy, không ai biết bao lâu nữa họ sẽ được cứu khỏi nơi mắc kẹt. Cách duy nhất cho nhóm ấy sinh tồn với môi trường khắc nghiệt và thực phẩm giới hạn là sự hợp tác với nhau giữa họ. Nếu mỗi người ích kỷ chỉ biết đến họ thì sẽ là một thảm họa. Chìa khóa cho sự tồn tại của mỗi người, là tuân theo những nguyên tắc đạo đức căn bản, mặc dù họ đến từ những tôn giáo và nền tảng văn hóa khác nhau.

Hãy tưởng tượng rằng trong những người hành khách là những lãnh tụ tâm linh của Phật Giáo, Hồi giáo, Ki tô giáo, và Khổng giáo, và cũng là một lãnh tụ thế tục được mọi người trên tàu tôn kính, kể cả những người không theo một tôn giáo hay triết lý nào. Những lãnh tụ này, mỗi người sẽ đối diện với thử thách như thế nào? Cung cách suy nghĩ của mỗi người và mỗi người đã khuyên bảo người khác trong nhóm như thế nào. Cuối cùng mọi người lo lắng và sợ hãi, và mỗi hành khách ngay cả giận dữ vào những gì đã xảy ra hay trở thành kẻ gây sự, và hầu hết thì thất vọng.

Phương Pháp Của Việc Phát Triển Đạo Đức Căn Cứ Vào Phật Giáo Tây Tạng

Lãnh đạo Phật Giáo Tây Tạng có thể đã nhắc nhở mọi người Phật tử trong nhóm lời của một đại đạo sư Ấn Độ, Tịch Thiên, liên quan đến sự kiên nhẫn: "Nếu có phương pháp, tại sao phải lo lắng? Và nếu không có phương pháp thì lo lắng có ích gì?" Nói cách khác, nếu có điều gì đó mà quý vị có thể làm để thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn, thế thì không có gì phải khó chịu, chỉ thực hiện. Nhưng nếu không có gì có thể làm, thế thì tại sao khó chịu? Sẽ không có ích gì. Trong thực tế, nó chỉ làm quý vị cảm thấy lo lắng hơn. Cho nên không có lý do gì để giận dữ hay chán nản. Thay vì thế, quý vị cần phát triển sự kiên nhẫn và can đảm để đối diện với thử thách.

Bây giờ thì, những gì sẽ hổ trợ trong một hoàn cảnh chẳng hạn như ở trên một chiếc tàu kẹt trong băng là phải có một thái độ thực tiển. Trước tiên nhất, hoàn cảnh đã sinh khởi lệ thuộc trên nhiều nhân tố; không có người nào hay nhân tố bị quy cho trách nhiệm và để làm ta giận dữ. Sự thật là mỗi người trên chuyến tàu ấy sinh trưởng một cách lệ thuộc vào rất nhiều nhân tố. Trước nhất, có những lý do khác nhau cho mỗi người để tham gia vào chuyến thám hiểm, và những lý do ấy liên hệ với sự kiện mỗi người đã từng phát triển năng khiếu trong một lãnh vực khoa học nào đó hay có sự thích thú và tiền bạc để hiện diện cùng nhau. Thế rồi có những nguyên nhân nghiệp chướng từ đời trước đã chín muồi trong sự hiện diện của quý vị trong chuyến tàu ấy, trong kiếp sống hiện tại. Cũng có sự ảnh hưởng của những người khác không tham gia chuyến thám hiểm ấy, nhưng cũng trong việc quý vị có thể tham gia, như không có sự phản đối của gia đình quý vị hay các ông chủ của quý vị. Rồi thì có những lý do tại sao các nhà khoa học thám hiểm cam đoan, tại sao nó được chọn, vị trí địa lý ở Nam Cực, thời tiết, và v.v… Bị kẹt trong băng ở đấy đã lệ thuộc vào tất cả những nhân tố này. Đấy là thực tại. Nếu bất cứ một trong những nhân tố ấy thiếu vắng, quý vị sẽ không ở đây trong tình trạng hiểm nguy này. Nơi mà, trong trường hợp này, là của một mạng lưới khổng lồ về các nguyên nhân và điều kiện. Có bất cứ điều gì đặc thù để mà than phiền đến và đề giận hờn đến không? Cho nên khi quý vị để ý rằng quý vị đang bắt đầu sân hận hay khó chịu không, hay quý vị có vô số phiền não lo lắng, hãy lắng dịu xuống bằng việc tập trung vào hơi thở của quý vị, hãy thở một cách chậm rãi qua lỗ mũi và, nếu thích, hãy đếm hơi thở của quý vị trong một vòng 10 hơi thở.

Hãy nhớ rằng, cho đến khi thời tiết trong sáng và một chuyến tàu cấp cứu đến, thì không có việc gì mà bất cứ người nào có thể làm để làm tăng tốc việc cấp cứu. Sẽ là một phép mầu để nghĩ rằng bất cứ ai trong chúng ta có thể kiểm soát tình hình, bởi vì những gì xảy ra và vấn đề tất cả chúng ta xoay sở tình cảnh như thế nào cũng sinh khởi một cách lệ thuộc vào vô số các nhân tố. Hơn thế nữa, thực tế là tất cả chúng ta ở trong cùng một hoàn cảnh. Đấy không chỉ là rắc rối của tôi hay rắc rối của bạn. Vấn nạn của việc sống còn là vấn nạn của tất cả mọi người, và vì thế chúng ta cần nhìn xa hơn quan điểm vị kỷ của chúng ta để nghĩ về vấn đề tất cả chúng ta phải đối phó thế nào với hoàn cảnh khó khăn này? Chúng ta không thể kiểm soát thời tiết hay việc đến nơi của chuyến tàu cấp cứu, nhưng những gì chúng ta có thể tác động là thể trạng tâm thức của chúng ta, một cách đặc biệt vấn đề chúng ta quan tâm đến mỗi người bên cạnh như thế nào?

Một cách để vượt thắng chỉ suy nghĩ về mình là hãy nhận ra rằng mọi người ở đây đã từng là mẹ hay cha của bạn trong một kiếp sống trước nào đó và đã đối xử thật ân cần và từ ái với bạn. Vì thế hãy nhìn mỗi người ở đây như người mẹ hay cha đã lưu lạc từ lâu những người mà quý vị đã không gặp trong nhiều kiếp sống. Với một lòng cảm kích chân thành sâu xa về sự tử tế mà bạn đã tiếp nhận trong quá khứ từ mỗi người trên tàu, bạn sẽ tự nhiên phát triển một cảm giác nồng ấm bất cứ khi nào bạn thấy họ. Hãy đem cảm giác nồng ấm xa hơn và phát triển nguyện ước cho mỗi người trong họ được hạnh phúc và không ai phải khổ sở. Tất cả chúng ta là bình đẳng trong sự tôn trọng ấy. Xa hơn nữa, mỗi người có cùng quyền để hạnh phúc và không khổ đau. Giống như với sự cung cấp thức ăn giới hạn, mọi người muốn và cần ăn. Tự ta không muốn đói, và mọi người khác cũng vậy. Với thái độ này về lòng từ ái và bi mẫn, căn cứ trên sự bình đẳng thái độ của chúng ta về tự thân và người hãy, hãy lãnh lấy trách nhiệm, rồi thì cố gắng để đem hạnh phúc đến mọi người và giải tỏa tất cả mọi khổ đau cho họ. Điều này có nghĩa là hãy chăm sóc đến lợi ích của toàn thể mọi người trong hoàn cảnh khó khăn này và thể hiện sự hổ trợ tối đa mà ta có thể, như quý vị hành động vì người cha và người mẹ của quý vị trong kiếp sống này.

Lãnh đạo Phật Giáo có thể cũng khuyến tấn những Phật tử khác trong nhóm để triển khai sức mạnh và can đảm để giúp người khác bằng việc thực tập điều gọi là "cho và nhận." Vài lần trong ngày, người ấy sẽ nói với họ, hãy ngồi im lặng thiền quán, và bắt đầu làm lắng dịu xuống bằng việc tập trung vào hơi thở và tái củng cố động cơ của quý vị về từ ái và bi mẫn. Với nguyện ước bi mẫn mạnh mẽ cho người khác được thoát khỏi khổ đau của họ, tưởng tượng rằng nổi sợ hãi và lo lắng của mỗi người rời họ trong hình thức của ánh sáng màu đen và đi vào lổ mũi của quý vị khi quý vị thở vào một cách chậm rãi trong vài lần. Hãy tưởng tượng nó đi xuống tim của quý vị và đi tan biến ở đấy vào trong sự tĩnh lặng và trong sáng của tâm thức quý vị. Hãy ngơi nghĩ trong thể trạng tĩnh lặng và trong sáng trong một lúc.

Rồi thì với niềm hạnh phúc tĩnh lặng sẽ tự sinh khởi từ sự khuây khỏa sự xáo động tinh thần của những người cha người mẹ quá khứ của quý vị, hãy tưởng tượng rằng cảm giác tĩnh lặng của hạnh phúc, ấm áp và từ ái, trong ánh sáng trắng, đi từ tim của quý vị, qua lỗ mũi của quý vị khi quý vị thở ra từ từ. Làn ánh sáng trắng này của từ ái và hanh phúc đi vào mọi người, tràn đầy thân thể họ và bây giờ hãy tưởng tượng tất cả họ đều có tâm tư hòa bình và một thái độ yêu mến, tích cực. Trong khi làm việc này, nếu quý vị trì tụng mật ngôn bi mẫn, “Om mani padme hum,” nó sẽ giúp cho quý vị tĩnh lặng tâm thức và tập trung, và duy trì sự chính niệm về bi mẫn.

Mặc dù hành thiền như thế này có thể không có bất cứ hiệu quả trực tiếp nào đối với những người khác trên tàu, nhưng nó sẽ cho quý vị sức mạnh, lòng can đảm và sự tự tin để đối phó với hoàn cảnh, và chính quý vị sẽ tự nhiên có sự hòa bình trong tâm hồn và một thái độ yêu mến tích cực. Tuy nhiên, sự thực tập này có một hiệu quả gián tiếp đến những người khác, bởi vì cách mà quý vị cư xử và sự tương tác với họ do bởi sự thiền tập của quý vị sẽ là một kiểu mẫu tốt đẹp có thể truyền cảm hứng đến những người khác.

Phương Pháp Căn Cứ Vào Hồi Giáo

Vị lãnh đạo tinh thần của Hồi Giáo rồi thì có thể nói với những người Hồi Giáo trên tàu. Ông ấy sẽ giải thích rằng chính ý chí của Thượng đế mà tất cả chúng ta đã bị kẹt ở đây trong băng. Chúng ta không thể kiểm soát được những gì sẽ xảy ra; cho dù chúng ta được cứu thoát hay tất cả chúng ta chết bây giờ ở trong tay Thượng đế. Nhưng hãy nhớ, Thượng đế hoàn toàn thương xót từ bản chất và một cách đặc biệt thương xót đối với những ai đã hối cải với những lỗi lầm của họ. Cho nên nếu quý vị đã mất niềm tin trong Thượng đế và đã bắt đầu nghi ngờ, thì hãy hối cải và yêu cầu Thượng đế tha thứ. Hoàn toàn tin tưởng trong sự phán xét của Thượng đế, không có gì cần phải lo lắng.

Vị ấy đã nói với họ hãy nhớ ba chiều kích của Hồi Giáo: quy phục hay giao mình cho Thượng đế và Ý chí của Ngài, tin tưởng trong Thượng đế căn cứ vào sự khiêm hạ trong khuôn mặt của tất cả mọi tạo vật của Thượng đế, và tuyệt vời trong cả bản chất và hành động của việc phụng sự đối với tất cả những tạo vật này của Thượng đế . Vị ấy có thể động viên họ bằng việc nhắc nhở họ rằng nếu quý vị vững vàng với niềm tin trong Ý chí của Thượng đế , quý vị sẽ hoàn toàn an bình. Không có gì để nghi ngờ hay lo lắng đến.

Vị ấy có thể nói với họ xa hơn rằng Thượng đế đã tạo ra tất cả quý vị với Tâm Linh của Ngài trong tim của quý vị, trong thể trạng thuần khiết nguyên sơ, và đã phú cho mỗi người trong quý vị với những phẩm chất tốt đẹp, chẳng hạn như yêu thương. Sự yêu thương của Thượng đế cho tất cả chúng ta là cảm giác về sự gần gũi của Ngài đối với tất cả sự tuyệt vời mà Ngài đã tạo ra. Cách tốt nhất cho quý vị là biểu lộ lại lòng yêu thương của quý vị đối với Thượng đế là sự tôn sùng Ngài qua những hành động tuyệt vời của quý vị trong việc phụng sự những tạo vật của Ngài, một cách đặc biệt bằng hành động ân cần tử tế của quý vị và giúp đở tất cả những hành khác đồng hành với quý vị. Cuối cùng, kinh Koran dạy chúng ta rằng Thượng đế yêu thương những ai hành động với đạo đức và chí nguyện của họ, chẳng hạn như cầu nguyện 5 lần mỗi ngày, và những ai công bằng và chính trực.

Hãy nhớ rằng, khi quý vị triển khai lòng yêu thương cho người khác trong cung cách tinh khiết nhất của nó, lòng yêu thương của quý vị không phải chỉ cho chính những này mà thôi, mà là lòng yêu thương cho Thượng đế người đã tạo ra đặc tính tuyệt vời và tốt đẹp trong họ. Cho nên đấu tranh chống lại sự sợ hãi, nghi ngờ, và những tư tưởng vị kỷ của quý vị. Sự đấu tranh cao nhất, cuối cùng là chống lại những sự bức chế tiêu cực của trái tim bối rối của quý vị mà đã làm cho quý vị quên lãng Thượng đế và điều ấy đã kích động quý vị đến những tư tưởng và thái độ tiêu cực.

Những Phương Pháp Căn Cứ Trên Ki Tô Giáo

Tiếp theo vị lãnh đạo của Ki Tô Giáo có thể phát biểu với những Ki Tô hữu trên tàu. Vị ấy cũng có thể nhắc nhở họ rằng Thượng đế , Cha của chúng ta, đã tạo ra tất cả chúng ta từ lòng yêu thương của ngài. Càng tỉnh thức về lòng yêu thương ấy, quý vị càng gần gũi hơn với cảm nhận của Thượng đế . Cách tốt nhất để trải nghiệm sự gần gũi với Thượng đế là qua việc tôn trọng triệt để những đạo đức và các giá trị căn cứ trong lòng yêu thương mà với nó quý vị được tạo ra. Thượng đế đã tạo ra tất cả quý vị trong hình ảnh của Ngài, với tia sáng từ lòng yêu thương của Ngài trong tất cả quý vị. Vì thế tất cả quý vị có khả năng để biểu lộ lòng yêu thương ấy.

Hãy nghĩ về Chúa Giê-su, người, không có tư tưởng nào về sự thoải mãi hay sự an toàn riêng cho ngài, đã đau khổ vì lợi ích của tất cả chúng ta, chết trên thánh giá và rồi sống lại từ sự chết để cứu rỗi chúng ta từ những tội lỗi của chúng ta. Nếu quý vị tin tưởng trong Giê-su, hãy tuân theo gương vị tha của ngài trong việc săn sóc người bệnh, người nghèo và túng thiếu với lòng yêu thương vị tha của Giê-su. Thượng đế cũng đã tạo nên tất cả họ và Thượng đế phải có một mục tiêu trong việc tạo ra họ. Do thế, quý vị cần tôn trọng tất cả họ, một cách đặc biệt người túng thiếu, như con cái của Thượng đế . Hơn thế nữa, Thượng đế đã đưa chúng ta đến hoàn cảnh này, bị kẹt trong băng như một thử thách với đức tin của chúng ta. Sẽ có nhiều người trên tàu sẽ đầy sợ hãi và tuyệt vọng. Hãy củng cố đức tin của quý vị bằng việc chăm sóc những con cái túng thiếu của Thượng đế , như Giê-su đã chăm sóc chọ, với lòng yêu thương và thiện ý.

Phương Pháp Căn Cứ Trên Những Nguyên Tắc Của Khổng Giáo

Tiếp theo, vị lãnh đạo Khổng Giáo có thể nói với các hành khách cùng niềm tin. Vị ấy có thể nói với họ đừng lo lắng. Quý vị cần hành động với nghĩa (义), công bằng với mọi người, vị ấy có thể nói, phù hợp với lễ (礼), những gì thích đáng và phù hợp khi đối diện với những lúc khó khăn. Cho dù quý vị sống còn hay chết sẽ là kết quả của [số] mệnh (命), nhưng cho đến khi mà quý vị làm những gì đúng đắn thì sẽ không có gì hối tiếc. Việc thích đáng để làm là tuân thủ tất cả những chương trình chính thức của chiếc tàu cho việc đối phó với tình trạng khẩn cấp. Phù hợp với thuyết chánh danh (正名), nếu thuyền trưởng hành động thì hành động như thuyền trưởng nên làm, và hành khách hành động như hành khách phải làm, và nếu các hành khách hành động đối với mỗi người như những hành khách đồng hành nên làm, thế thì quý vị sẽ hòa hiệp với những gì mà hoàn cảnh kêu gọi.

Tất cả quý vị có lòng nhân (仁), khả năng nội tại để làm những gì tốt đẹp, những gì đúng đắn trong mối quan hệ với người khác. Nhân là cội nguồn của tất cả những phẩm chất lương thiện, chẳng hạn như yêu thương, trí tuệ, chân thành và công bằng trong việc đối diện với mọi người. Quý vị cần trau dồi năng lực nội tại này vì sự tốt đẹp, vì không có nó, quý vị không thể chịu đựng nổi khó khăn, quý vị sẽ không thể làm điều gì thích đáng.

Khi được hỏi điều gì là năng lực nội tại, Khổng Tử nói, "Nhân giả tiên nan nhi hậu hoạch, khả vị nhân hĩ." (“仁者先難而後獲,可謂仁矣。” người nhân là trước tiên là làm những việc khó khăn, sau đó đạt được - như vậy gọi là nhân). Nói cách khác, khi đối diện với một hoàn cảnh khó khăn, như chúng ta hiện có, quý vị sẽ có thể nắm lấy hoàn cảnh và đối phó với nó trong một thái độ kiên nhẫn, với sự công bằng với mỗi người, bằng việc trau dồi năng lực nội tại của quý vị cho việc làm điều gì là đúng. Trong một cách thay đổi để thấu hiểu, điều này nói là "Người nhân trước tiên có những khó khăn và sau cùng là lúc nắm lấy cơ hội, đấy gọi là nhân (仁)." Điều này chứng tỏ rằng trong những hoàn cảnh khó khăn, quý vị làm điều gì là đúng đơn giản bởi vì nó đúng, không có bất cứ quan tâm đến lợi lạc nào về nó hay việc đạt được cho riêng mình bất cứ điều gì.

Quý vị có thể học cách trau dồi năng lực nội tại này như thế nào bằng việc nhìn vào những tấm gương từ trong lịch sử những người cao thượng đã làm những việc đúng với đạo đức khi đối diện với một thảm họa xã hội. Khổng Tử nói, "Phù nhân giả, kỷ dục lập nhi lập nhân; kỷ dục đạt nhi đạt nhân." ("“夫仁者,己欲立而立人;己欲達而達人。” Một người đã trau dồi năng lực nội tại cho sự tốt lành, khi mong ước cho chính mình được thiết lập một cách thích đáng, thì cũng thiết lập cho người một cách thích đáng, và khi mong ước cho chính mình được thành công, thì cũng làm cho người đươc thành công.) Khổng Tử cũng nói, "Khắc kỷ phục lễ vi nhân. Nhất nhật khắc kỷ phục lễ, thiên hạ quy nhân yên" (“克己復禮為仁。一日克己復禮,天下歸仁焉。” Để vượt thắng vị kỷ và tuân theo những gì thích đáng, đấy là năng lực nội tại cho tốt lành. Nếu trong một ngày ta có thể vượt thắng vị kỷ và tuân theo những gì thích đáng, rồi thì mọi người trong thiên hạ sẽ quay về với điều nhân.) Khi được hỏi xa hơn về nhân (仁) là gì, Khổng Tử đáp rằng đấy là lòng thương mọi người. Những ai với nhân, ngài giải thích, là can đảm và gan dạ. Cho nên trau dồi năng lực nội tại là làm những gì đúng như những hành khách thích đáng nên làm, tuân theo những thủ tục đúng như thuyền trưởng chỉ dẫn, và rồi thì cho dù điều gì xảy ra đi nữa, quý vị sẽ không bao giờ có bất cứ sự hổ thẹn nào.

Phương Pháp Căn Cứ Trên Những Giá Trị Căn Bản Của Nhân Loại

Vị lãnh đạo thế tục sau đó có thể phát biểu đến toàn bộ hành khách. Vị ấy có thể nói với họ rằng mặc dù có những tín đồ của Phật Giáo, Hồi Giáo, Ki Tô Giáo và Khổng Giáo trong quý vị, cũng có nhiều người không theo một tôn giáo hay triết lý nào. Tất cả chúng ta cần hành động trong một thái độ đạo đức đối với mỗi người nhằm đề sống còn qua sự thử thách này. Điều này cũng bao gồm những người không tín ngưỡng. Nếu chúng ta đấu tranh với nhau, chúng ta sẽ không bao giờ tồn tại. Những ai trong chúng ta theo một hệ thống tôn giáo hay triết lý hãy có đức tin và tin tưởng trong hệ thống giáo lý của quý vị để hướng dẫn thái độ đạo đức của quý vị, và như vậy là tuyệt vời. Mặc dù những lý do cho việc hành động trong một cung cách đạo đức có thể khác nhau trong quý vị, tuy thế sự tự tin sẽ cho quý vị sức mạnh nội tại cần thiết để hành động trong một cung cách yêu thương đối với người khác. Tất cả những hệ thống tôn giáo và triết lý dạy chúng ta từ ái, bi mẫn, tha thứ, toại nguyện và giảm thiểu thái độ vị kỷ tàn phá của chúng ta. Tuy nhiên, đây là những giá trị mà những ai thiếu vắng một đức tin hay tín ngưỡng trong một hệ thống tổ chức cũng chấp nhận như đáng giá để phát triển. Những điều này được gọi là "những giá trị đạo đức căn bản của nhân loại."

Nếu chúng ta nghĩ trên trình độ của những giá trị nhân loại căn bản này, thế thì tất cả chúng ta cùng chia sẻ một căn bản cho thái độ đạo đức của chúng ta, và điều này sẽ là chìa khóa cho sự sống còn của chúng ta như một nhóm. Chúng ta cần duy trì sự an bình, hòa hiệp và hợp tác giữa chúng ta, nhưng nền hòa bình ngoại tại lệ thuộc vào sự hòa bình nội tại. Nói cách khác, nền hòa bình ngoại tại sẽ tùy thuộc vào việc mỗi chúng ta duy trì một tâm hòa bình, tĩnh lặng. Sự hòa bình của tâm hồn liên hệ rất nhiều đến thái độ của quý vị đối với nhau. Nếu quý vị chấp chứa những tư tưởng không yêu thương đối với nhau, và luôn luôn nghĩ chỉ về chính quý vị và làm sao quý vị thành công, thế thì khi quý vị tương tác với người khác, quý vị lo sợ họ sẽ làm tổn thương quý vị trong một cách nào đó và ngăn ngừa quý vị thành công. Quý vị không tin tưởng họ và vì thế đầy ấp với sợ hãi và nghi ngờ. Họ, đáp lại, sẽ cảm thấy điều này trong quý vị và, hậu quả cũng sẽ không tin tưởng quý vị. Điều này tạo nên một khoảng cách giữa chính quý vị và người khác; nó làm một rào cản để có bất cứ sự đối thoại thật sự nào giữa họ. Khoảng cách và rào cản này làm quý vị cảm thấy không an toàn và cô đơn. Cảm giác bất an, quý vị thiếu sự tự tin để đối diện với những thử thách về hoàn cảnh khó khăn của chúng ta. Quý vị trở nên thất vọng. Trái lại, càng cảm thấy gần gũi với người khác trong nhóm, thì quý vị sẽ càng cảm thấy rằng quý vị là một bộ phận của cộng đồng. Quý vị cảm thấy quý vị thuộc vào nhóm và điều này sẽ làm quý vị cảm thấy an toàn hơn. Một khi quý vị cảm thấy an toàn hơn, thì quý vị sẽ tự nhiên đạt được sự tự tin hơn.

Loài người chúng ta là những động vật xã hội. Giống như một xã hội động vật, như một con trừu, bị tách rời khỏi đàn, nó cảm thấy rất bất an và sợ hãi, nhưng khi nó gia nhập lại vào đàn, nó cảm thấy vui sướng hơn, tương tự thế chúng ta cũng đau khổ khi chúng ta bị cô lập với người khác. Tuy nhiên, thường thường ngay cả khi quý vị hợp đoàn với người khác, nếu tâm tư quý vị đầy ấp với sự không tin tưởng và nghi ngờ, thái độ của quý vị cô lập quý vị với việc tiếp nhận bất cứ sự thoải mái hay hổ trợ từ tập thể. Cho nên xin hãy vui lòng nhận ra rằng sự thoải mái căn bản của tâm tư quý vị và khả năng duy trì hy vọng cho một kết quả đáng mừng của việc bị kẹt ở đây trong băng lệ thuộc vào thái độ của quý vị đối với người khác trong nhóm. Khi quý vị phát triển một cảm giác gần gũi với mỗi người trong nhóm, cảm giác ấy cho bạn sức mạnh nội tại và sự tự tin. Quý vị không còn cảm thấy yếu đuối và nghi ngờ. Sự tự tin của quý vị và cảm giác an toàn cho phép quý vị tin tưởng nhau, và sự tin tưởng đem đến mối thân hữu chân thành.

Một số người nghĩ rằng họ sẽ có nhiều bạn hơn nếu họ có tiền bạc và quyền lực. Nhưng những người bạn như vậy chỉ là bạn của tiền và quyền của quý vị. Khi tiền bạc và quyền lực không còn nữa, những người bạn như vậy biến mất. Những người bạn chân thật không như vậy. Những mối quan hệ thân hữu chân thành vốn mang đến niềm vui và hạnh phúc được xây dựng trên căn bản của sự tin tưởng hổ tương căn bản. Khi quý vị cởi mở và chân thành với nhau, quý vị cảm thấy không chỉ an toàn hơn và tự tin hơn, mà tâm tư quý vị cũng thanh thản hơn. Trong một thể trạng như vậy, quý vị có thể thâm nhập vào sức mạnh với những người khác và đối phó với khó khăn mà tất cả chúng ta như một nhóm đang hiện hữu. Sau cùng, không chỉ tôi bị kẹt trong băng hay không chỉ quý vị bị trong băng; mà đúng hơn tất cả chúng ta bị kẹt trong băng.

Ngay cả khi chúng ta ra khỏi tình trạng khó khăn này, nếu quý vị duy trì thái độ cởi mở tích cực này đối với người khác, quý vị sẽ tiếp tục có những mối thân hữu ấm áp, tin tưởng. Sẽ luôn luôn có những khó khăn trong đời sống. Thật là khờ dại nếu tưởng tượng rằng quý vị sẽ không bao giờ gặp phải bất cứ rắc rối nào nữa trong tương lai. Nhưng với sự cởi mở, chân thành, và tự tin và tin tưởng có từ chúng, quý vị sẽ được chuẩn bị sẳn sàng để tham gia với những người khác, và người khác sẽ nhiệt tình hơn để tham gia với quý vị trong việc đối phó với bất cứ điều gì có thể xảy ra - tốt hay xấu.

Nếu quí vị hỏi, lý do gì phải sống đạo đức, đơn giản chỉ bởi vì chúng ta là những con người. Chúng ta phải đạo đức bởi vì chúng ta sống với nhau và lệ thuộc vào mỗi người nhằm để sống. Nếu quý vị không quan tâm đén hạnh phúc và lợi ích của kẻ khác, và thay vì thế tạo rắc rối, thì chính là quý vị cuối cùng sẽ đau khổ bằng việc tự cô lập khỏi họ và tự tách rời mình ra khỏi sự chăm sóc và quan tâm của họ.

Có hai loại chăm sóc và quan tâm cho người khác. Một là căn cứ trên cảm xúc và tự định hướng về với cá nhân mình và những gì quý vị có thể đạt được từ người khác. Cho đến khi mà người khác dễ thương với quý vi hay họ tế nhị chung chung, thế thì quý vị thích họ và quan tâm đến hạnh phúc của họ. Quý vị không muốn họ khổ đau hay bất hạnh. Nhưng đến khi mà họ bắt đầu cư xử không đứng đắn và hoặc là tổn thương quý vị, hay ngay chỉ đơn giản là không đồng ý với quý vị, thái độ của quý vị đối với họ sẽ thay đổi. Quý vị không còn thích họ và không quan tâm vấn đề họ có hạnh phúc hay không. Quý vị loại bỏ họ bởi vì thái độ của họ. Điều này đơn giản là tình cảm - căn cứ trên lòng yêu thương và thấu cảm đơn thuần, và nó không bao giờ là một căn bản ổn định cho một tình thân hữu chân thật.

Những loại chăm sóc và quan tâm đến người khác không tùy thuộc vào thái độ hay cách cư xử của họ. Nó căn cứ đơn thuần trên sự kiện rằng họ là những con người, giống như chính ta. Quý vị muốn cho mình hạnh phúc, bất kể quý vị hành động như thế nào hay thể trạng tâm thức của quý vị là gì. Và nó chỉ căn cứ trên sự kiện rằng quý vị muốn hạnh phúc cho nên quý vị chăm sóc chính mình; quý vị tìm kiếm lợi ích cho quý vị. Nhưng điều ấy cũng đúng với mọi người khác, kể cả những người mà ta không thích do bởi thái độ của họ như thế nào đấy hay cách cư xử của họ ra sao đấy. Tuy nhiên, họ cũng muốn hạnh phúc; họ cũng phát triển mạnh sự chăm sóc và yêu thương. Trong dạng thức của nguyện ước được hạnh phúc, tất cả chúng ta là bình đẳng. Mọi người muốn hạnh phúc. Không chỉ chúng ta bình đẳng trong việc muốn được hạnh phúc, mà tất cả chúng ta cũng có cùng quyền để được một đời sống hạnh phúc; và một đời sống hạnh phúc hình thành khi quý vị quan tâm chân thành đến những người khác và chú ý rằng họ cũng muốn hạnh phúc.Nó căn cứ trên việc có tình thân hữu chân thành với mọi người, bất chấp quý vị là ai.

Chi có loài người mới có khả năng để quan tâm đến những người khốn khổ khác. Chỉ có con người mới có khả năng để chăm sóc đến lợi ích của kẻ khác. Khả năng này có thể đến từ tính thông minh nhân bản của quý vị hay từ đức tin của quý vị trong một số hệ thống tôn giáo hay triết lý của những niềm tin. Động vật không có những thứ này - chúng thiếu tính thông minh và đức tin. Nếu một con vật nào khác đe dọa hay làm chúng tổn thương, chúng chỉ đơn giản tấn công.Tuy nhiên, như những con người, không phải tất cả chúng ta đều có đức tin hay niềm tin trong hệ thống tôn giáo và triết lý, nhưng tất cả chúng ta có tính thông minh căn bản của nhân loại. Chúng ta cần sử dụng tính thông minh ấy để thấu hiểu những lý do tại sao quan tâm đến lợi ích và hạnh phúc của người khác là chìa khóa cho hạnh phúc của chúng ta.

Cho dù quý vị có tin tưởng trong một đấng tạo hóa, hay những kiếp sống quá khứ, hay sự ảnh hưởng mạnh mẽ của tổ tiên quý vị, thì không ai có thể phủ nhận rằng bạn đến từ một bà mẹ. Không có sự chăm sóc và tình cảm của mẹ bạn, hay của ai đấy chăm sóc cho bạn như một bà mẹ khi bạn là một hài nhi bất lực, thì bạn sẽ không thể sống còn. Các nhà khoa học đã từng cho thấy rằng những ai tiếp nhận tối đa tình cảm và sự yêu thương như một đứa bé cảm thấy an toàn hơn, tự tin hơn và hạnh phúc hơn trong cả đời sống của chúng; trái lại nhưng ai bị lãng quên hay ngược đãi khi còn bé cảm thấy bất an bất kể điều gì xảy ra với chúng. Chúng luôn luôn cảm thấy không thoải mái. Chúng cảm thấy sâu bên trong là điều gì đấy thiếu sót trong đời sống của chúng và vì thế một cách căn bản chúng không hạnh phúc. Các bác sĩ cũng chỉ rằng sự tiếp xúc thân thể tình cảm của một bà mẹ là cần yếu cho việc phát triển thích đáng não bộ đứa bé. Hơn thế nữa, các bác sĩ cũng chứng minh bằng tư liệu vấn đề giận dữ, sợ hãi, và thù hận ăn dần mòn hệ thống miễn nhiễm như thế nào.

Mọi người chăm sóc để có một thân thể khỏe mạnh, vì vậy để có một thân thể khỏe mạnh, quý vị cần phải chú ý hơn để có một tâm thức lành mạnh và tĩnh lặng. Câu hỏi quan trọng là làm thế nào để có một tâm thức lành mạnh tĩnh lặng. Ngay cả nếu quý vị được sinh trưởng như con một, với nhiều tình cảm và chăm sóc, nhưng nếu quý vị đối diện với một áp lực lớn để thành công trong một xã hội cạnh tranh, cho dù ở trường học hay ở sở làm, quý vị có thể vẫn phải cảm thấy bất an và căng thẳng. Nhưng nếu quý vị cảm thấy cần để đánh bại người khác nhằm để thành công, và vì thế tâm tư quý vị đầy dẫy sự nghi ngờ, sợ hãi và ganh tỵ, thế rồi như một kết quả, tâm thức quý vị quấy rầy và không ổn định.

Nếu trái lại, trong khi cố gắng để làm hiệu quả nhất, chúng ta cũng quan tâm đến lợi ích của kẻ khác, quý vị sẽ nhận ra rằng giống như quý vị muốn nhận sự khích lệ, giúp đở và tình cảm thân hữu hổ trợ từ họ, họ cũng muốn giống như quý vị. Nếu quý vị phát triển một lòng bi mẫn chân thành cho họ - nguyện ước cho họ không bị thất bại, mà cũng thành công - điều này ban cho quý vị sức mạnh nội tại và lòng tự tin để áp dụng nổ lực toàn triệt của quý vị đến trách nhiệm hành động vì sự thành công của mọi người. Biểu lộ lòng bi mẫn và quan tâm cho người khác là một dấu hiệu của sức mạnh, không phải là một biểu hiện yếu đuối. Trong thực tế, nó là một cội nguồn của sức mạnh và tĩnh lặng của tâm thức.

Sự phân tích giống như vậy áp dụng đến hoàn cảnh của chúng ta ở đây của việc bị kẹt trong băng. Nếu quý vị không tin tưởng nhau và tranh cải và tranh chấp qua những nguồn nguyên nhiên liệu hạn chế, thì tất cả chúng ta sẽ khổ đau. Tất cả chúng ta sẽ trở nên yếu đuối hơn. Nếu quý vị triển khai lòng quan tâm chân thành cho mỗi người và an ủi mỗi người khi bất cứ ai trong quý vị trở nên quẫn trí, rồi thì như một bà mẹ an ủi một đứa con đang khóc, cả bà mẹ và đứa con sẽ cảm thấy khá hơn. Với tâm tư tĩnh lặng và một cảm giác thuộc về một nhóm yêu thương của những người bạn chân thành, thì tất cả chúng ta sẽ có sức mạnh để sống còn.

Do thế hãy sử dụng sự thông minh của loài người. Khi ai đấy bắt đầu làm phiền quý vị và khi quý vị bắt đầu giận dữ và cảm thấy muốn hét lên vào người ấy, hãy nhớ rằng làm như vậy chỉ làm cho mọi thứ tệ hại hơn. Nó sẽ làm tình trạng tâm thức của quý vị phiền não và tác động đến không khí của toàn nhóm. Mọi người sợ hãi và lo lắng, và vì thế nếu bất cứ người nào trong họ cư xử không đúng, đó là bởi vì người này cảm thấy không an toàn và kinh sợ. Xin hãy cố gắng để làm cho những người như vậy cảm thấy an toàn hơn và không đánh mất hy vọng bằng việc biểu lộ sự chăm sóc và thấu hiểu họ.

Hạnh phúc đến từ việc có hy vọng cho một tương lai tốt đẹp hơn, và hy vọng đến với sự hổ trợ của những người bạn đồng cảm và đồng tâm nhất trí. Nói tóm lại, rồi thì, trên căn bản của những giá trị nền tảng và cộng hưởng của nhân loại, thì tất cả chúng ta sẽ có thể hành động trong một thái độ đạo đức. Nếu đức tin tôn giáo hay triết lý tin tưởng của quý vị tăng cường những giá trị đạo đức này, thì điều này thật sự là diệu kỳ. Nếu quý vị thiếu một đức tin tôn giáo như vậy, thì hãy dựa hoàn toàn vào sự thông minh nhân bản và những giá trị đạo đức căn bản của loài người mà thôi. Với sự hòa hiệp tôn giáo trong chúng ta và mọi người nuôi dưỡng những giá trị nhân bản này, thì tất cả chúng ta sẽ sống còn với thảm cảnh này và được thấy như những con người tốt đẹp hơn do bởi kinh nghiệm cộng trú này.

Tóm Lược

Chúng ta có thể thấy từ sự phân tích này là mỗi một tôn giáo, triết lý và những quan điểm thế tục này đưa đến kết luận rằng khi đối diện một hoàn cảnh khó khăn trong xã hội, chìa khóa để tồn tại là nguyên tắc đạo đức tự giác. Điều này có nghĩa là việc vượt thắng sự vị kỷ, sợ hãi và thất vọng, và hợp tác với người khác trên căn bản của từ ái, bi mẫn, ân cần và tôn trọng. Mỗi một quan điểm trong 5 thứ - Phật Giáo Tây Tạng, Hồi Giáo, Ki Tô Giáo, Khổng Giáo và không tôn giáo - có những phương pháp của chính nó cho việc phát triển những phẩm chất tốt đẹp này:
Phật tử Tây Tạng thấy những hoàn cảnh khó khăn như duyên sanh trong vô số nguyên nhân và điều kiện. Không nhân tố nào hay người nào có thể kiểm soát hiện trạng, tuy thế mọi người có thể cống hiến điều gì đó tích cực mà sẽ tác động đến những gì phát triển. Họ xem mọi người như bình đẳng, cả trong việc từng là cha mẹ chúng ta trong những kiếp sống trước và trong việc muốn được hạnh phúc và không phải khổ đau.
Người Hồi Giáo thấy các khó khăn như đến từ ý chí của Thượng đế , và việc giải quyết vấn nạn là nằm trong tay của Thượng đế . Họ tuân phục ý chí của Thượng đế và phụng thờ Thượng đế qua những hành động tuyệt vời của việc phụng sự đối với tất cả những tạo vật của Thượng đế .
Người Ki Tô hữu xem những hoàn cảnh khó khăn như những thử thách được Thượng đế gởi đến để thử thách chúng ta, và theo gương của chúa Giê-su trong việc phụng sự người nghèo và cần giúp đở.
Những người theo nguyên tắc của Khổng Tử thấy những khó khăn như điều không thể tránh khỏi sinh khởi từ lúc này đến lúc khác. Những gì xảy ra tùy thuộc vào số mệnh của chúng ta. Để đối phó với khó khăn, họ theo những thủ tục thích đáng như thuyền trưởng đã hướng dẫn họ và trau dồi sức mạnh nội tại của họ về kiên nhẫn và lương thiện để đối xử với mọi người một cách công bằng, với sự thích đáng và yêu thương.
Những người chỉ theo những giá trị nền tảng nhân bản thấu hiểu rằng bất chấp khó khăn thế nào đi nữa, mọi người đánh giá cao yêu thương và sự chăm sóc tình cảm. Như những động vật xã hội, chúng ta cần hợp tác với nhau để tồn tại, và nếu chúng ta chăm sóc mỗi người của nhau, thì chúng ta sẽ đạt được sức mạnh và niềm tin vững chắc để chiến thắng bất cứ khó khăn nào.

Vì vậy, mỗi nhóm trong 5 nhóm này có hệ thống đạo đức của riêng họ; tuy thế, những ai chân thành tuân theo giáo huấn và khuyên bảo của mỗi hệ thống này sẽ đạt đến cùng kết quả. Họ sẽ có thể chấp nhận hoàn cảnh mà không giận dữ. Ngay cả nếu họ thấy một hành khách hành động trong một cách đe dọa lợi ích của toàn nhóm, thí dụ dấu diếm thực phẩm, và là điều cần đòi hỏi có sự lượng định quy tắc để điều chỉnh rắc rối này, giá trị đạo đức của mỗi hệ thống sẽ giúp họ hành động để không phải sân hận, nhưng vì sự quan tâm đến toàn bộ hành khách bị nạn. Họ sẽ duy trì hòa bình trong tâm thức và cống hiến một cách tích cực đến lợi ích của mọi người trên tàu. Như một kết quả, cộng đồng sẽ không chỉ sống còn với tai họa, mà những thành viên sẽ trở nên gần gũi với nhau hơn trước đây, do bởi sự chia sẻ kinh nghiệm của họ với việc lãnh lấy trách nhiệm vì lợi ích của nhau.

Kết Luận

Thí dụ về chiếc tàu bị kẹt trong băng ở Nam cực là một sự tương đồng hữu ích cho việc thấu hiểu vấn đề một xã hội đa văn hóa có thể được đối diện một cách tốt đẹp nhất, trong một cung cách lành mạnh, những thử thách và khó khăn không thể tránh sinh khởi trong cuộc sống. Để hoàn thành điều này, mọi người cần học hỏi về những nền văn hóa và các tín ngưỡng của những nhóm quan trọng trong xã hội của họ. Sợ hãi và nghi ngờ về người khác đến từ sự thiếu vắng kiến thức về những niềm tin của họ. Với sự giáo dục thích đáng, chúng ta có thể khám phá ra rằng tất cả mọi tôn giáo và triết lý có một hệ thống đạo đức và rằng đạo đức của những hệ thống này chia sẻ chung với nhau là cũng phù hợp với những đạo đức nhân bản nền tảng mà mọi người chấp nhận, kể cả những người không tín ngưỡng. Đây là những giá trị của từ ái, bi mẫn, và chăm sóc tình cảm cho người khác với lòng quan tâm sâu xa cho những lợi ích của họ.

Khi bày tỏ những giá trị nhân bản nền tảng này một cách chân thành, bất chấp hệ thống đức tin mà người ta đến từ những nhóm khác nhau, thế thì xã hội biểu hiện chức năng một cách hòa hiệp, trong những lúc tốt hay xấu. Đây là bởi vì mỗi nhóm tôn trọng nhau, căn cứ trên sự thấu hiểu hổ tương; và từ sự tôn trọng hổ tương căn cứ trên sự thấu hiểu hổ tương đi đến sự tin tưởng hổ tương. Khi người ta từ những nền văn hóa khác nhau tôn trọng và tin tưởng nhau, họ sống mà không lo sợ nhau. Điều này làm cho một xã hội lành mạnh, hòa hiệp, căn cứ trên những nguyên tắc đạo đức nền tảng mà mọi người cùng chia sẻ.

Do thế, vì một xã hội lành mạnh sinh khởi một cách lệ thuộc vào nhiều nhân tố - kinh tế, môi trường, những hệ thống xã hội, hợp pháp và giáo dục, và, như chúng ta đã thấy, đạo đức và sự hòa hiệp tôn giáo - nếu bất cứ một nhân tố nào yếu kém, xã hội sẽ không thăng tiến. Chúng ta cần khởi đầu trên trình độ cá nhân, một cách đặc biệt trong những khu vực đạo đức của chúng ta và tôn trọng người khác và niềm tin của họ. Nếu chúng ta phát triển một tâm tĩnh lặng và một thái độ bi mẫn đối với người khác, và rồi mở rộng việc ấy đến gia đình chúng ta, bạn hữu chúng ta, cộng đồng bên cạnh chúng ta, thế thì từ từ chúng ta sẽ xây dựng được một xã hội lành mạnh. Sức mạnh của toàn xã hội sẽ phát sinh lệ thuộc vào mỗi một thành viên phát triển một tâm lành mạnh và ý thức đạo đức. Điều này đúng một cách đặc biệt trong những xã hội đa văn hóa và trong thế giới đa văn hóa rộng khắp.

Mỗi một tôn giáo và triết lý quan trọng, chẳng hạn như chúng ta thấy trong trường hợp của Phật Giáo Tây Tạng, Hồi Giáo, Ki Tô Giáo và Khổng Giáo, đã chia sẻ cùng một nền tảng đạo đức nhân bản mà những người không tôn giáo hay triết lý có thể cũng thừa nhận. Chúng ta cần giáo dục trẻ con chúng ta trong những giá trị đạo đức nhân bản nền tảng này, vì thế từ từ toàn bộ thế giới sẽ trở thành một nơi lành mạnh hơn vì lợi ích của tất cả. 
Cảm ơn.

Ẩn Tâm Lộ, Tuesday, January 06, 2015

CẬU BÉ VÀ CÂY TÁO







Ngày xửa ngày xưa có một cây táo rất to. Một cậu bé rất thích đến chơi với cây táo hàng ngày. Cậu bé rất yêu cây táo và cây táo cũng yêu cậu bé rất nhiều.
Thời gian trôi qua…
Cậu bé lớn lên và không còn đến chơi với cây táo nữa.
Một hôm cậu bé quay lại chỗ cây táo, trông cậu rất buồn.
Cây táo nói: “Hãy lại đây chơi với tôi!”
nhưng cậu bé trả lời: “Bây giờ tôi không còn là một đứa trẻ nữa, tôi không muốn chơi quanh mấy cái cây nữa. Tôi muốn có đồ chơi. Tôi cần tiền để mua đồ chơi.”
“Xin lỗi vì tôi không có tiền… nhưng cậu có thể hái những trái táo của tôi và đem bán.”
Cậu bé nghe thế liền hái hết táo một cách vui vẻ và không quay lại chỗ cái cây nữa.
Cây cảm thấy rất buồn.

Đến một ngày, cái cây lại thấy cậu bé quay lại.
Lúc này cậu đã trở thành một chàng trai và đã lập gia đình.
Cái cây lại bảo: “Lại đây chơi với tôi!”
Chàng trai trả lời: “Tôi không có thời gian. Tôi phải làm việc để nuôi gia đình mình. Chúng tôi cần một chỗ để trú thân. Anh có thể giúp tôi không?”
Cây táo trả lời: “Xin lỗi, tôi không có nhà nhưng cậu có thể cắt những cành cây của tôi để về làm nhà.”
Chàng trai làm theo lời cây táo bảo và cũng không quay lại nữa kể từ hôm đó.
Cây táo hết sức cô đơn và buồn tủi.

Rất lâu sau, một ngày mùa hè, cậu bé lại quay lại, lúc này đã thực sự là
một người đàn ông trung niên.
Nhìn thấy cậu bé của mình, cái cây hết sức phấn khởi.
Nó lại nói: “Lại đây chơi với tôi!”
Người đàn ông trả lời: “Tôi đang già đi và cảm thấy rất buồn chán.
Tôi muốn có một chiếc thuyền để đi khắp nơi. Anh có thể cho tôi một cái không?”
“Hãy dùng thân tôi mà làm thuyền, cậu có thể đi thật xa và cảm thấy thật hạnh phúc,” cái cây nói.
Người đàn ông liền chặt cây táo, đóng cho mình một cái thuyền và đi thật xa, thật lâu không quay về.

Một hôm, nhìn thấy cậu bé quay về, lúc này đã là một ông lão, cái cây liền bảo: “Xin lỗi nhưng tôi chẳng còn gì để cho cậu nữa đâu. Không còn táo nữa…”.
“Tôi cũng không còn răng để ăn nữa,” ông lão nói.
“Tôi không còn thân cây để cho cậu trèo lên nữa. Cái duy nhất tôi còn lại là bộ rễ đang chết dần của mình,” cái cây nói trong nước mắt nghẹn ngào.
Cậu bé trả lời: “Bây giờ tôi cũng không cần nhiều nữa, tôi chỉ cần một chỗ để nghỉ ngơi thôi. Sau những năm qua tôi đã mệt mỏi lắm rồi.”
Nghe thấy vậy cây táo liền nói: “Rễ của một cái cây già nua là một chỗ nghỉ ngơi rất lý tưởng cho cậu. Hãy lại gần và ngồi lên đây.”
Ông lão làm theo lời của cây táo.
Cái cây cảm thấy vui sướng hơn bao giờ hết, nó nở một nụ cười có lẫn cả những giọt nước mắt sung sướng.

KHAI TÂM CHO MÙA XUÂN MỚI





Vĩnh Hảo



Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất. Nói cách thực tế theo quán tính của người bình phàm, thì đó là hạnh phúc (phước), thịnh vượng (lộc), sống lâu (thọ). Với các chính trị gia, và những nhà đấu tranh cho dân tộc, cho đất nước, thì đó là tự do, dân chủ, nhân quyền. Với đạo gia thì đó là giải thoát, giác ngộ, và niết-bàn.

Tất cả những ước vọng nói trên, có thể được biểu tượng hóa trong một chữ: XUÂN.

Xuân ấy tất nhiên không phải là xuân của mùa màng, thời tiết. Nhưng một biểu tượng nếu không được cụ thể hóa, tức là thực hiện bằng hành động và lời nói cụ thể, thì mãi mãi nó chỉ là một ước vọng, không bao giờ nắm bắt được.

Và để đạt được một cái gì đó trong tương lai, ai cũng biết là người ta phải bắt đầu từ hiện tại. Không khởi sự từ bây giờ, từ hôm nay, thì ước vọng, thành quả, mục tiêu… của ngày mai, của tương lai, sẽ không bao giờ có được. Thế nhưng, nhân loại trong mấy ngàn năm qua cứ loay hoay, lẩn quẩn mãi ở chỗ khởi đầu, chứ không tiến về hướng mục tiêu để đạt ước vọng như mong đợi. Nghĩa là cứ mơ ước một cái gì tốt đẹp ở tương lai, mà lại cất bước một cách sai lệch, thiên kiến, mù quáng nơi hiện tại. Quả đẹp thì muốn nhưng nhân tốt lại không gieo, hoặc chỉ biết gieo nhân xấu. Muốn hòa bình mà cứ khai binh, khai hỏa bằng những đạo quân nhân danh lý tưởng (hay ảo tưởng? hoang tưởng?) của lãnh tụ nọ, của thần linh kia; muốn hòa hợp mà cứ khai khẩu, khai ngữ bằng lời châm chọc, chửi bới đối phương; muốn tự do dân chủ mà cứ tước đoạt tự do dân chủ của kẻ khác; muốn hòa đồng (các tôn giáo) mà cứ luôn cho đạo của mình là tốt nhất, đạo kia là tệ nhất… Ai cũng cho lý tưởng, mục tiêu, tôn giáo, đoàn thể, đảng phái… của mình là trên hết, sẵn sàng bịt miệng, thậm chí giết hại kẻ khác chỉ vì họ không giống mình, hoặc đã có lời lẽ xúc phạm cá nhân hay tập thể của mình. Như vậy thì làm sao có được mùa xuân thực sự an vui, hòa bình, thịnh vượng cho cá nhân, gia đình, xã hội, đất nước, hay cho toàn thế giới!

Không cần phải chờ đến ngày đầu năm mới khai bút, khai thị, khai giảng, khai trương… để có một mùa xuân an vui và một năm đầy hứa hẹn. Mỗi người chúng ta hãy ngồi xuống trong phút giây này, lặng yên, dừng hết mọi xung động của ý nghĩ, lời nói, hành động; tâm thật lắng đọng, không còn lăng xăng tính toán, sợ hãi, âu lo; không còn những tham lam, thù hận, ganh ghét, nghi kỵ…; không còn những phân biệt, đối đãi thiên vị thân/sơ; không còn biên giới quốc gia, không còn ngăn cách màu da, chủng tộc, ý thức hệ, tôn giáo… Trong giây phút ấy, một nỗi gì, như là niềm thương, mở ra, lan tỏa đến vô cùng. Dù trên thế gian này có xuất hiện hay không các bậc thần linh, các bậc giáo chủ, các vị lãnh đạo các tôn giáo, chính quyền, đảng phái (minh triết hay phàm phu), thì tấm lòng ấy, niềm thương ấy, vẫn hiện hữu, vẫn luôn ở đây, nơi này.

Tâm như hoa, nở ra cho thơm đẹp cuộc đời. Tâm như hư không, mở ra để dung chứa tất cả, để ôm lấy tất cả những phiền muộn, khổ đau của thế gian—tất cả cùng lúc tan biến vào cõi lòng vô tận này.

Mỗi người khai tâm như thế, ở từng giây phút hiện tại, thì ước vọng của chúng ta, mùa xuân của chúng ta, hiển hiện miên trường.

Chống tham nhũng phải bắt đầu từ nội bộ Đảng


“Chống tham nhũng đầu tiên phải là từ trong nội bộ Đảng. Nhiều vụ việc từ nội bộ phát hiện rồi đẩy ra ngoài, từ đó mới có thông tin để chống tham nhũng”.



Thực tế là có một bộ phận đảng viên đang giàu lên nhanh chóng nhưng người dân họ đều biết ai giàu do làm ăn chân chính, ai giàu do tham nhũng. Trong cuộc chiến này nếu chúng ta tiếp tục phát huy được thì niềm tin của nhân dân đối với Đảng sẽ ngày càng cao hơnĐây là chia sẻ của PGS-TS Nguyễn Minh Tuấn, Viện trưởng Viện Xây dựng Đảng (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh), khi trò chuyện với Thanh Niên về đề tài xây dựng, phát triển Đảng nhân dịp 85 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản VN.


* Ngày 27.2.2012, phát biểu tại Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết (NQ) T.Ư 4 về xây dựng Đảng, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói: “Bây giờ trong Đảng cũng có sự phân hóa giàu nghèo, có những người giàu lên rất nhanh, cuộc sống cách xa người lao động... Liệu rồi người giàu có nghĩ giống người nghèo không?... Mai kia Đảng này sẽ là Đảng của ai? Có giữ được bản chất là Đảng cách mạng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc không?”. Sau 3 năm thực hiện NQ T.Ư 4, theo ông những vấn đề được Tổng bí thư nêu ra hiện nay như thế nào?
- Nguy cơ về một bộ phận cán bộ, đảng viên thoái hóa biến chất làm giảm niềm tin của nhân dân với Đảng vẫn được Đảng coi là nguy cơ rất lớn, ảnh hưởng đến sinh mệnh chính trị, sự tồn vong của Đảng, của chế độ. Điều đó được Đảng xác định rất rõ. Trong những nhiệm kỳ liên tiếp gần đây, Đảng đều nhìn nhận việc chưa đẩy lùi được nguy cơ đó. Thậm chí có những mặt còn diễn biến phức tạp hơn nhiều.

Sự phân hóa giàu nghèo cũng là một thực tế của kinh tế thị trường. Hướng phấn đấu là đừng để cho nó diễn ra quá nhanh, quá rộng và đòi hỏi chúng ta phải quan tâm nhiều hơn đến việc giải quyết các vấn đề xã hội, nhất là đối với người nghèo, vùng nghèo. Việc đảng viên phấn đấu trở thành người giàu là rất tốt, rất đúng, rất trúng. Nhưng cái giàu ấy phải do trình độ, năng lực, tài năng chứ không phải do tham nhũng. Chúng ta chống là chống cái giàu do tham nhũng. Phải phân biệt chỗ này.

Chống cái giàu bất chính phải có biện pháp. Vấn đề Đảng đưa ra thực chất rồi nhưng cần có biện pháp tốt nữa. Ví dụ, việc kê khai tài sản của đảng viên có đúng không, có thật tâm không. Nếu phát hiện ra việc kê khai không trung thực thì có xác minh không? Kể cả các vấn đề dư luận mạng xã hội nói ông A, B, C có từng ấy cái nhà chẳng hạn, thì cơ quan chức năng cũng phải có trách nhiệm nói lại cho đúng. Chúng ta có bao nhiêu cơ quan phát ngôn chính thống, cả cơ quan chủ quản của những cán bộ đó nữa. Thông tin sai thì anh phải thanh minh cho người ta. Anh phải nói lại sau khi xác minh. Biết đâu dư luận lại nói đúng thì sao?

Cái cần là làm cho người dân tiếp cận thông tin hoàn toàn tin tưởng, không hoang mang, không dao động. Thực tế là có một bộ phận đảng viên đang giàu lên nhanh chóng nhưng người dân họ đều biết ai giàu do làm ăn chân chính, ai giàu do tham nhũng. Trong cuộc chiến này nếu chúng ta tiếp tục phát huy được thì niềm tin của nhân dân đối với Đảng sẽ ngày càng cao hơn.

* Trong những năm qua ở VN hầu như rất ít quan chức bị xử lý, án tham nhũng lớn cũng rất hiếm. Đảng đánh giá tham nhũng nghiêm trọng nhưng không có vụ việc nổi cộm nào được xử lý thì liệu đó có phải vấn đề lớn?
- Chắc chắn chúng ta phải kiểm điểm sâu hơn nữa. Ai là người chống tham nhũng? Người chống đầu tiên phải là trong nội bộ Đảng. Nhiều vụ việc nói do nhân dân, báo chí phát hiện nhưng phải nói thẳng không hoàn toàn như thế. Các vụ việc chính do nội bộ đó phát hiện rồi đẩy thông tin ra ngoài. Từ đó mới có thông tin để chống tham nhũng. Bây giờ nhiều nơi không dám đấu tranh phê và tự phê trong nội bộ vì ngại chuyện trù úm, rồi ứng xử tiếp nhận khác nhau trong quá trình phê và tự phê.

Phải nói rằng cơ chế hiện nay chưa an toàn cho người phê bình chứ không phải họ không mạnh dạn đâu. Người ta mạnh dạn được nhưng cơ chế bảo vệ cho người phê bình đúng đắn rất khó khăn. Thực tế đó Đảng biết. Làm thế nào để tăng cường tinh thần đó, bảo vệ những người trung thực, thẳng thắn đấu tranh. Hãy tôn vinh họ, xã hội cần quan tâm họ nhiều hơn. Đừng chỉ tung hô rồi lãng quên họ ngay.

Bác Hồ nói Đảng mạnh là do tổ chức Đảng mạnh. Muốn từng tổ chức Đảng mạnh thì từng đảng viên phải mạnh, tức là phải tập hợp được sức mạnh của đảng viên. Nhiều chi bộ bây giờ ngồi nói chuyện tham nhũng rất ghê, nói cả nước nhưng không bao giờ nói chi bộ mình. Hình như chỗ mình không có ai, không có hành vi tham nhũng nào.

Hiện nay việc phân định rõ trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền nhiều nơi còn chồng chéo, không rõ việc. Mà đã không rõ việc thì không rõ người. Không rõ người thì không kiểm điểm được. Điều đó cũng giống như chuyện “nhiều sãi mà không ai đóng cửa chùa”. Bác Hồ đã nói dân chủ là mọi việc đều được bàn, nhưng khi đã bàn rồi, quyết theo tập thể rồi thì phải giao cho một người phụ trách hoặc chủ trì thực hiện - tức là tập trung. Đó là một quy trình lãnh đạo, ai cũng biết cần phải làm đúng.

* Xin cảm ơn ông!

Trường Sơn