Thứ Sáu, 2 tháng 5, 2014

“Phương Tây - một giấc mơ hời hợt!”

TS. Đặng Hoàng Giang



Nếu đã sống ở nhiều quốc gia khác nhau, chúng ta sẽ thấy không có nơi nào hoàn hảo cả. Xã hội nào cũng có có cái hay và cái dở, nhưng chắc chắn không có nơi nào lung linh như “thiên đường”.

Chẳng hạn, ở phương Tây, “chừng nào lệnh chuyển tiền tự động của bạn vẫn hoạt động, thì không ai quan tâm bạn sống hay chết” - tiến sĩ Đặng Hoàng Giang - Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu phát triển và hỗ trợ cộng đồng (CECODES) chia sẻ về “giấc mơ phương Tây” của người Việt.




Bất ổn mà thú vị
* Là một tiến sĩ kinh tế người Áo gốc Việt, ông đã có một cuộc sống có thể nói là giấc mơ với rất nhiều người tại một quốc gia phát triển hàng đầu Châu Âu. Vì sao ông quyết định về nước?
- Mỗi người có một giấc mơ khác nhau. Người thì mong có một công việc ổn định, thu nhập cao, người lại chỉ muốn leo được lên đỉnh Everest – nóc nhà thế giới. Tôi muốn có một môi trường mới mẻ, gặp được những người thú vị, làm được nhiều điều khác nhau. Tôi ưa thích một tương lai bất ngờ, khó đoán định và không muốn một lộ trình được vạch ra rõ ràng…

* Ông trở về Việt Nam vì muốn tìm một tương lai mạo hiểm hơn?
- Cuộc sống ở Việt Nam nhiều bất ổn hơn, nhưng cũng thú vị hơn nhiều so với cuộc sống ở Châu Âu…

* Ở góc độ nào?
- Bất ổn vì tỉ lệ tai nạn giao thông cao hơn, nền y tế không hiện đại bằng, mua nhà đất thì cũng rủi ro vì chả biết khi nào bị thu hồi … Nhưng ở Việt Nam, người ta có thể thử nghiệm bản thân trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Điều này chỉ có thể làm được trong một xã hội chưa có độ chuyên môn hóa cao.

Ở phương Tây, mỗi người sẽ chỉ có đúng chỗ đứng của mình như một mắt xích trong dây chuyền xã hội. Việt Nam đang chuyển dịch, đang đầy những đứt gãy xã hội, những xung đột về giá trị và văn hoá trong quá trình toàn cầu hoá. Điều này thực sự là thú vị, tuy rằng có thể gây hoang mang.

* Có nghĩa giấc mơ phương Tây sẽ không tròn trịa khi ở trong nó?
- Nếu đã sống ở nhiều nơi, bạn sẽ thấy không có nơi nào hoàn hảo cả. Ở đâu cũng có cái hay và cái dở, nhưng chắc chắn không có nơi nào lung linh như “thiên đường”. Ở đâu thì khả năng bạn không hạnh phúc cũng khá cao.

* Và vì thế, ông sẵn lòng từ bỏ “sự ổn định phương Tây” để về với “sự lộn xộn” của Việt Nam?

- Phương Tây có thể sạch sẽ và giàu có, nhưng không phải thiên đường. Tuần trước, CNN vừa đưa tin là ở một thành phố Mỹ, một người phụ nữ độc thân đã chết trong nhà và tận 5 năm sau, người ta mới phát hiện ra, khi lệnh trả tiền tự động hằng tháng của bà ta không được thực hiện nữa vì tài khoản của bà ta hết tiền. Trong 5 năm đó, không có người thân, bạn bè, hàng xóm nào để mắt tới xem bà ta sống chết thế nào.

Sự lộn xộn, nhếch nhác ở Việt Nam gắn liền với mức phát triển kinh tế của chúng ta, nhưng không phải là đặc thù Việt. Các nước đang phát triển khác cũng lộn xộn, bụi bặm, thiếu quy củ như vậy. Cũng khó mà yêu cầu những người nghèo đang vật lộn hằng ngày phải lịch sự, đi nhẹ nói khẽ và nhường nhịn người xung quanh. Hay thậm chí, những người không còn nghèo nữa thì vẫn mang thói quen từ thời bao cấp đã ăn sâu trong tiềm thức, nên vào resort (khu nghỉ dưỡng) vẫn còn chen lấn nhau khi lấy đồ ăn...

* Ông có vẻ lạc quan về “thói xấu” của người Việt?
- Tôi chỉ muốn đưa ra những phân tích và lý giải. Khi chúng ta hiểu vì sao họ lại xử sự như vậy thì ta cũng dễ yêu thương và thông cảm với mọi người hơn.

Người Việt nên tôn trọng bản thân hơn

* Người Việt mỗi khi bức xúc hay nói: “Ở Tây sẽ khác”. Là người “từ bển về”, ông có đồng tình?
- Không có nền văn hóa nào lại ưu việt toàn phần hơn các nền văn hóa khác. Tôi ngạc nhiên thấy tâm lý sùng bái phương Tây hiện hữu đến vậy ở Việt Nam. Theo tôi, phương Tây đang có những bế tắc trong xã hội, trong quan hệ giữa người và người. Nói một cách thật khái quát thì chừng nào lệnh chuyển tiền tự động của bạn vẫn hoạt động, không ai quan tâm bạn sống hay chết.

* Vì sao ông lại có thể “phật lòng” với phương Tây đến thế nhỉ? Chẳng phải “giấc mơ phương Tây” đang hiện rõ qua khát vọng du học của nhiều người Việt trẻ sao, thậm chí nhiều bậc phụ huynh có thể bán nhà bán cửa nếu cần?
- Giấc mơ này rất mâu thuẫn và hời hợt. Họ muốn con họ có bằng cấp của tây, nhưng nếu chúng thấm nhuần văn hóa và suy nghĩ phương Tây - ví dụ con gái không chịu lấy chồng, hay con trai mà đi học triết học - thì họ sẽ rất hốt hoảng. Người Việt không muốn thành phương Tây đâu, họ chỉ mơ cuộc sống vật chất phương Tây mà thôi. Có thể nói là giấc mơ phương Tây bị mắc kẹt trong cái bảo thủ phương Đông.

* Ngược lại, phương Tây lại khát thèm văn hóa gia đình, bạn bè của người phương Đông?

- Đúng vậy, nhưng không nên cực đoan quá. Phương Tây đặt cá nhân lên trên hết và đôi khi làm con người mất phương hướng. Nhưng người Việt lại quá lo lắng xem tập thể nghĩ gì về mình, khiến họ tự đàn áp cái tôi của mình. Điều này làm thui chột sự sáng tạo và khiến người ta khổ sở.

Người Việt cũng hay rơi vào giữa hai thái cực đoan: Khi thì kiêu ngạo, nghĩ mình là ưu tú hơn hết hoặc lúc thì tự ti, coi mình thuộc loại vô phương cứu chữa.

* Điều gì khiến ông thấy khó chịu nhất khi sống ở phương Tây?
- Họ cao to quá, mình nhỏ bé hơn nhiều (theo nghĩa đen), khi nói chuyện mình cứ phải ngước hết cả lên, mỏi cổ...

Nghiêm túc hơn: Xã hội phương Tây coi trọng thành công vật chất. Xe xịn, nhà to, những chuyến đi đặc biệt… là những khát vọng cơ bản thúc đẩy xã hội phương Tây vận hành. Việt Nam cũng vừa đi lên con đường cao tốc này. Chúng ta đang có hai loại đền thờ. Một là chùa chiền để người ta tới cầu may từ thánh thần. Loại thứ hai là các “shopping mall” thờ chủ nghĩa vật chất, người ta tới chiêm ngưỡng hàng hiệu như một trải nghiệm “gột rửa tâm linh”.

* Để mỗi cá nhân hội nhập thành công, theo ông, yếu tố cốt lõi là gì?
- Nên tôn trọng bản thân, không quá lo lắng xem mọi người sẽ phản ứng thế nào. Hãy coi mình là một cá thể độc lập, trước khi băn khoăn mình có làm mất thể diện của họ tộc nhà mình, làng mình, tỉnh mình, quốc gia mình hay không.

- Xin cảm ơn ông!

Ông Đặng Hoàng Giang tốt nghiệp thạc sĩ công nghệ thông tin, ĐH Kỹ thuật llmenau (Đức) và có bằng tiến sĩ trong lĩnh vực kinh tế phát triển của ĐH Công nghệ Vienna, Áo. Là người Áo gốc Việt, ông sở hữu nhiều kinh nghiệm nghiên cứu trong các lĩnh vực xã hội và kinh tế Việt Nam. Các lĩnh vực chuyên môn của ông gồm kinh tế trong thời kỳ chuyển đổi, quản trị nhà nước và minh bạch cùng khía cạnh văn hóa của công nghệ.

Từ năm 2008, ông là Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu phát triển và Hỗ trợ cộng đồng (CECODES) - một tổ chức phi chính phủ đi đầu ở Việt Nam trong việc thúc đẩy xã hội dân sự, minh bạch và nâng cao tiếng nói của người dân.


TÔ PHƯƠNG THỦY/LAO ĐỘNG

Công bằng xã hội và phân hóa giàu nghèo




Tác giả: Trần Trọng Thức



Trong bất cứ xã hội nào, dưới bất kỳ cơ chế nào thì sự phân hóa giàu nghèo là một diễn biến tự nhiên, chỉ có thể thu hẹp dần khoảng cách nhờ các công cụ điều tiết công bằng xã hội, chứ khó lòng ngăn chặn.

Phân hóa giàu nghèo ở nước ta ngày càng nghiêm trọng và ai cũng nhận ra qua thực tế cuộc sống hàng ngày. Nhiều bài viết cũng như phát biểu của các chuyên gia khi đề cập đến tình trạng này thường dùng những hình ảnh đối chiếu như “giữa đô thị rực rỡ đèn màu về đêm, chen chúc những căn lều xiêu vẹo trong con hẻm tối tăm”, hay “trong khi các đại gia chi tiêu hàng chục triệu đồng cho một buổi tiệc tùng tiếp bạn bè thì có những gia đình không đủ ngày hai bữa cơm”. Phải chăng cái hố sâu giàu nghèo chưa khiến chúng ta đau lòng hay sao mà phải làm đậm nét thêm phần bi thảm, trong khi bất cứ xã hội nào, dưới bất cứ cơ chế nào thì sự phân hóa giàu nghèo là một diễn biến tự nhiên, chỉ có thể thu hẹp dần khoảng cách nhờ các công cụ điều tiết công bằng xã hội, chứ khó lòng ngăn chặn.


Mới đây, tại Diễn đàn Kinh tế thế giới 2014 ở Davos, Thụy Sỹ, Tổ chức Viện trợ và Phát triển toàn cầu Oxfam của Anh công bố một số liệu không có gì ngạc nhiên là 85 người giàu nhất thế giới đang nắm giữ khoảng 1.700 tỉ đô la Mỹ, tương đương tổng tài sản của 3,5 tỉ người nghèo trên toàn cầu.Còn ở nước ta, thống kê đáng tin cậy cho thấy số người có tài sản trên 1 triệu đô la Mỹ đang tăng đáng kể từ 170 người vào năm 2011, hai năm sau đã lên 195 người với tổng tài sản khoảng 20 tỉ đô la Mỹ và Việt Nam được xếp thứ 13 ở châu Á với mức tăng số lượng người giàu có trong năm qua là 14,7%. Mặt trái của hiện tượng này là sự bất công cả về thu nhập lẫn tài sản thủ đắc, là cản ngại của quá trình cải cách, là nỗi nhức nhối và bất mãn của số đông người, là vấn đề mà hệ thống chính trị phải giải quyết .




Hệ thống được xem là tốt khi có khả năng phân bổ hợp lý tài nguyên và quyền lực để có thể tạo ra giá trị cao nhất, và điều quan trọng là hệ thống ấy phải có khả năng giới hạn quyền lực bằng công cụ quản lý là luật pháp, qua đó hạn chế đào thêm hố sâu của sự phân hóa giàu nghèo.


Hệ thống chính trị tốt thường biểu hiện qua việc phân bổ tài nguyên (đồng vốn, tài nguyên thiên nhiên, con người) đúng người đúng việc để với ưu thế vận tốc ban đầu được giao, những con người có năng lực sẽ tạo nên những giá trị gia tăng cho xã hội và đương nhiên họ được hưởng công lao xứng đáng với thành quả mang lại. Đó là sự công bằng, chứ không phải “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” vừa có tính cào bằng vừa không thực tế vì nhu cầu của con người là vô hạn.

Chế độ đãi ngộ về chính sách một thời ban phát đặc quyền cho một số thành phần tưởng chừng như công bằng đã tỏ ra thiếu hiệu quả bởi trong thực tế chẳng khác nào đem tài sản của xã hội chia chác cho các công thần, tạo điều kiện cho tham nhũng và các nhóm lợi ích thu vén.

Giao tài nguyên không đúng người có hai chuyện xảy ra: một là việc sử dụng đồng tiền không hiệu quả, hai là không tạo được nhiều công ăn việc làm thì tính công bằng xã hội càng giảm. Khi được giao tài nguyên thì người ta có điều kiện đi trước và đi xa hơn trên con đường làm giàu, và khi đã ở trên tầng cao nhưng không giúp được gì cho bên dưới thì khoảng cách giàu nghèo ngày càng nới rộng cũng là chuyện dễ hiểu.
Chưa có thống kê nào cho thấy một cách chính xác có bao nhiêu người giàu lên nhờ chủ trương hóa giá nhà đầy yếu tố ban phát, cấp đất phân lô vô tội vạ, lợi dụng các quy định không chặt chẽ trong cổ phần hóa để mua tài sản nhà nước với giá rẻ mạt… Nhưng chắc là số này không phải ít.

Tất nhiên cũng có không ít người có năng lực làm giàu nhờ nắm vững luật chơi của thị trường chứng khoán, có khả năng dự báo sự đổi thay nhiệt độ của thị trường địa ốc. Cơ chế tốt chính là cái máy hoàn chỉnh, tự nó sàng lọc tìm ra những người có khả năng làm giàu và phân bổ hợp lý tài nguyên xã hội.

Người có tiền thì sẽ có quyền, tiền càng nhiều quyền càng lớn, mà quyền thì đi với lực. Thế cho nên trong một hệ thống mà quyền không có giới hạn thì rất nguy hiểm. Hệ thống được xem là tốt khi có khả năng phân bổ hợp lý tài nguyên và quyền lực để có thể tạo ra giá trị cao nhất và điều quan trọng là hệ thống ấy phải có khả năng giới hạn quyền lực bằng công cụ quản lý là luật pháp qua đó hạn chế đào thêm hố sâu của sự phân hóa giàu nghèo.

——————

Làm giàu đúng nghĩa là biết chấp nhận rủi ro vì chính rủi ro là sự sàng lọc. Rủi ro đồng đều thì xã hội sẽ công bằng, anh nào liều mạng chấp nhận rủi ro cao thì xứng đáng được hưởng thành quả làm ăn của mình, không ai trách cứ gì được.

Khổ nỗi có một thực tế ở nước ta là người làm ăn mà có quyền lực thường không phải đối diện với rủi ro nhờ biết cách len lỏi vào kẽ hở của luật pháp, cũng như không bị sự điều tiết rủi ro của hệ thống, thế là ngày càng trở nên giàu có. Lỗi không phải ở họ mà ở hệ thống. Làm ăn vừa được đứng ở chỗ cao không ai với tới, vừa tách biệt trong một không gian riêng để mặc sức làm giàu thế là không công bằng.

Để có sự công bằng phải sử dụng công cụ điều tiết được mọi người chấp nhận, khi đó người giàu không phải là đối tượng của sự ganh tỵ, xoi mói trong xã hội và khi họ làm tròn nghĩa vụ thì đáng được vinh danh.
Chế độ nào thiết lập được công cụ điều tiết công bằng xã hội thì sẽ duy trì được sự bền vững. Một xã hội được điều tiết tốt là khi tất cả mọi người phải đủ ăn đủ mặc, khi mắc bệnh thì phải có khả năng vào bệnh viện để được chữa trị, trẻ con phải được học hành mọi người đều có cơ hội làm việc, được sống tự do hạnh phúc, là những cái cơ bản phải đạt được. Và khi đó phân hóa giàu nghèo được trả lại vị trí của nó chỉ là sự phát sinh tự nhiên của thời buổi thị trường.
—————————http://www.thesaigontimes.vn/114289/Cong-bang-xa-hoi-va-phan-hoa-giau-ngheo.html

đám mây và dòng sông


Minh Đức Triều Tâm Ảnh


1- đám mây đi qua dòng sông
tôi mất bóng và tôi vỡ ra
dập dềnh trôi xác ma quá khứ
tế bào óc tim tóe lên ánh lửa
bập bùng bên này
leo lét bên kia
bít bùng thế giới đa tri
đường ngược đường xiên
hình học kỷ hà
con người được lập trình
nút “enter” gõ phím
màu chiều thu
không còn mang sắc tím
tia phản quang
gãy góc lưng trời
chú bướm Trang sinh
dẫy chết không-thời
có đạo sĩ phải bỏ non đốt áo
ôi! có một sự thật
gai đau nhức nhối
lấy kính hiển vi xem
kiến thức mù lòa
máu này vô trùng
miễn nhiễm tận ngoài da
nhưng hoại thư đã ăn sâu tròng mắt
ảo tưởng trổ hoa
miền thiêng liêng lên ngôi vật chất
mệt mỏi ước mơ
nhựa độc tứa cành xanh
chỉ còn một nỗi riêng
là hạnh phúc cũ càng
theo vó ngựa
rượt nắng chiều sắc tái
có người đi qua con đường
xác hư vô quến lại
nhặt bóng mình
nửa xám nửa rêu đen
vá víu tình thương
tri kiến đỏ ghèn
bụi ô nhiễm ngược xuôi tất bật
có những cuộc lên đường
bộn bàng trăm ngã
con cá lên non cao tập bơi
chú ngựa già xuống biển sâu tập lội
cõi này rứt lấy niềm tin
cõi kia khoác vội hành trang
những bản ngã no đầy
thèm vương, thích bá
những bản ngã ngật ngầy
kiêu căng, vật thực
hãy nhìn và hãy vỗ tay
bầy kiến khe sâu tha mồi về tổ
đàn gà chợ chiều bới rác kiếm ăn
chẳng có ai loét miệng
chẳng có ai nhăn răng
bút còn, mực còn
run tay chẳng viết
tâm còn, trí còn
va động vách đá vô tri
thổi vào hang đen rỗng ruột
thơ, có lẽ,
là người tình giấu mặt
sợ lấm hoen xác chữ dung phàm
nàng ra đời
chẳng thực tế điểm trang
tìm kiếm mãi
hóa người ngu lẩn thẩn
ôi! xót xa chi
mà con trăng hổ ngươi cúi mặt
ôi! buồn thương chi
mà cái tổ nhện giăng
giăng mắc đầy trời
buổi sớm tiếc cánh hoa rơi
buổi chiều thì sầu vẩn sầu vơ
vì mù sương non xanh quá đẹp
anh và tôi
tiếc là không ngồi chung chiếu văn
em và tôi
tiếc là từ lâu thích đeo mặt nạ
vỗ bụng rỗng
thấy mình vô ngã
lừa dối chi văn hiến mấy nghìn năm
có lần
ngồi đốt lửa dưới cụm núi san hô
giọt sương sao lại rơi ngay vào mắt
mường tượng chống chiếc lá tre qua sông
sào gãy hồi nào chẳng biết
tìm kiếm quanh mình
chỉ còn giun dế kêu rên
con cóc trong hang đâu đó nhảy ra
và con quạ đen
đậu cô đơn
bóng tùng gãy đọt
rồi rừng đen phết thêm họa tiết
buồn con sông trầm ngâm
khổ đau và sự chết
chẳng cũ mòn
chẳng mới mẻ
trôi hoài
trôi hủy mấy nghìn đông!

2- vẫn là đám mây đi qua dòng sông
thả chiếc bóng thức tri hư ảo
có kẻ làm bài toán tâm hồn
không có dấu trừ
chỉ toàn dấu cộng
cộng lợi lộc, cộng công danh
cộng trăm thứ phù phiếm xì xèo
rồi lập nghĩa phương trình
trăm vui một khổ
giảng thuyết ngàn trang
bốc mùi tục đế
hang thẳm Ràgu
chẳng có thánh thần giữ cửa
tha hồ cõng mộng nghêu ngao
có sự sống
chỉ cần tí lửa
một khoảng trời không
thỉnh thoảng thở
và đôi khi tập hú
có sự sống
nuôi tế bào suy nghĩ
sáng tạo một từ thôi
đã hạnh phúc ngất ngây
có sự sống
thiết tha được tách hẳn đàn bầy
muốn cô độc
muốn cô liêu
một vài phút giây rừng sâu tê giác
có sự sống bình an
một chung trà giản dị
cùng nụ cười lặng lẽ tình thâm
có sự sống
được yêu thương
và thèm chút lỗi lầm
để thấy rõ chất người hơn
cùng anh em đồng loại
ai đánh đổi sự sống
bằng xu rau, hào cải
bằng mật mã tính toan ký hiệu gươm đao
xương cốt chất cao
hãnh diện tháp người
dành chỗ đứng, tranh chỗ ngồi
trơ trân, bù nhìn, phỗng đá
nếu chỉ nuốt vật mà no
chỉ no bụng làm sao no óc
nếu tiện nghi, lâu đài, xôi thịt là vinh quang
nhà thơ nhà văn đời này
đâu có miệt mài còng lưng phu chữ
lại đâu có khổ hạnh sư ẩn sĩ
lên non mây ăn lá tầm ma
đây đó vẫn có người
cày xới cánh đồng hoa
vãi mầm xanh, mầm măng lú nhú
cày xới mãi khóc cười ngất ngứ
tác phẩm đem rao bán chợ trời
khách, trăm người qua
có ai ngoảnh lại
phủi từng chữ
che tay
miệng ngáp!
ôi!
nếu văn minh: một bước gót lầm đi tới
thì văn hóa phải hai bước thất thểu quay lui
soi mặt nhau nhập nhọa tối thui
đâu đó chợt thấy mình lạc hậu
nếu bước mãi
càng thụt lùi thêm mãi
sẽ tao phùng
cái thuở chưa sinh!
có một vị sư già tụng một biến kinh
gõ tánh không giữa dập dềnh hương khói
bên này cột
bên kia trói
loay hoay hoài kẹt giữa hai biên
chiếc hố giữa anh và tôi
nhảy mãi hóa điên
cái còn lại
coi chừng va đầu cánh cửa
cái còn lại
coi chừng than lửa
đốt nghi tình
lạnh buốt kiến tri hoang!
ôi! trò chơi đại hóa bất toàn
bình nguyên mật
lũ gấu rừng ăn hết
chữ nghĩa mấy nghìn năm
loạn thư, loạn triết
đống tro tàn khái niệm ba hoa
có kẻ đua đòi tư tưởng Hy-La
học tây phương nhị nguyên thơ trẻ
đi ngược đầu vào cõi nhân sinh
dẫu Nietzscher có đập đổ thần linh
mọi giá trị mù sương phức rối
mớ thuần lý bọc đùm bao nỗi
ảo thuật gia biến hóa lọc lừa
lòng đã tràn mà trời vẫn cứ mưa
lệ còn chảy đầu nguồn cuối bểôi!
bức “chó mây” màu tranh kể lể
cứ vẽ hoài
cứ chưng hoài
ngứa mắt trăng sao
chống trượng Khổng Khâu nhập thế ra vào
Lão Đam cỡi ngược trâu xanh
con đường khói sương để dấu
ôi!
cúi gập người mà ho khan
rơi đau cục đờm tri kiến
ngửa cổ lên trời mà than
phiến đá từ hư không
hốt rơi lổ trán
biết nói gì cát bụi lấm đầy ta
rậm rịt bên sông
lau cỏ quê nhà
lạnh lẽo trăng
lạnh lẽo hư vô
bốn bề còn ai bè bạn
bốn bề nhân tình
lẽ nào khô hạn?

3- vẫn là đám mây đi qua dòng sông
chẳng thấy chân dung
chỉ thấy māyā ảo hóa
đêm mộng mị
mặt đất chao nghiêng
chân trời chao nghiêng
ước mơ
và nỗi đời cũng chao nghiêng
đồng quy, nghịch lực
phận người đi chân đất
lọ mọ dẫm lên hồn chữ hồn văn
những trang sách không còn trăng
gai mọc thành cây thành rừng
nhốt mùa xuân
nhốt tuổi thơ trong từng kẽ lá
cắt mặt thành hai
cắt mặt thành ba
cứ cắt mãi xếp thành diện mạo
tro tiền sử
dính đầy vai áo
hội hóa trang nhảy múa tung tăng
con đường đứng
con đường nằm
ngơ ngác lối về bỏ cuộc
ca dao của mẹ
quay cuồng giữa phố đông,
đèn mờ, hắc điếm
không còn quen lội ruộng, mò ao
cánh cò xưa điện chớp hàng rào
tao nôi nhện giăng
cối xay sàn thúng rế nia
còn thừa củi đốt
điều nhân nghĩa nói hoài miệng nhạt
thương các em nghèo nàn
thiếu vắng giấc mơ
trang giấy học trò bập bè i tờ
truyện phép, truyện hình, hiệp sĩ, đĩa bay,
vệ tinh khạc lửa
lười suy nghĩ,
lười dạo chơi
lười nghịch hoa đuổi bướm
chim ca bên rừng
suối hát ngàn khe
vách núi lặng câm
đêm thỏ khóc trăng
ngày bụi công nghiệp mặt người che kín
nhà thơ đứng giữa phố dài
xem bóng mình tĩnh vật
sâu hoắm nhiều chiều
nhiều kiểu bon chen
bấm đốt ngón tay
ngày này tháng này năm này
chẳng tìm ra quán trọ
chung cư, khách trạm thì dẫy đầy
mà không còn ôxy để thở
dật dờ hồn
dật dờ óc
dật dờ tim...
ghé công viên ngắm cảnh
cỏ cây cũng ủ rủ ưu phiền
lá hoa cũng khô kiệt thiên nhiên
xanh đỏ trắng vàng
ni lông hóa nụ
vật thể hóa mỹ miều vô kể
đi tìm mình lạc giữa bơ vơ
lại lên con tàu từ năm bảy sân ga
lại gẫm suy đời người không bến đổ
cả anh cả em cả tôi cả chị
cả cao sĩ hiền nhân
cả thi gia nghệ sĩ
kẻ xa lạ cuối cùng đã đốt tuổi đốt tên!
lầm lũi ven đường
(biết bao là ven đường)
bọ hung thi cuộc với ốc sên
lỗn ngỗn bò
lêu đêu kiếm rác
hôm qua hôm kia
rác đầy như núi lớn
ô nhiễm tinh thần
ô nhiễm thánh linh
mắt người trí đau
thế gian bác sĩ rập rình
mổ tế bào
chẳng tìm ra mảnh ung, cục bướu
thư pháp chữ tâm
ruộng đồng chữ tư
xóa sạch cả
chẳng ai hoài công
thu nhặt độc tương lai
ôi! mây! mây! mây!
bài hạo ca non xanh sĩ khí
tùng trúc già
cúi mặt
giọt sương đau
ngàn trang văn chương
không nói được khối sầu
vỡ thành hạt
nếm nghe chừng mặn muối
thơ vốn cao sang
khoác mầm xanh tươi rói
từ đống sách nhàu
mối mọt với tàn hương
chữ thắp đèn
chữ vỗ ngực đi đêm
qua mấy khúc sông
qua mấy con đê
qua mấy triền cao dốc đứng
chênh vênh trời
chênh vênh đất
chênh vênh đỉnh mù sa...
bước ngược qua ngày
vào cõi sa-bà
thơ mọc cánh tự do bay mất
có cái gì vô danh
bên bờ ranh sự chết
nhập nhòa sắc màu
đi vào hoang tưởng sơ nguyên
những dòng sông giao nhau
rỗ mặt thung triền
ông già hiền triết đông phương
lỡ khóc lỡ cười
nụ cười phất phơ sương hồng gió trắng
tạc giữa điêu tàn
chiều!
thông điệp yêu thương!
đốt lửa trên non
trêu cợt mộng trường
mai mốt sẽ
ta lại lội trần chân đất
ta lại học thứ tha
lại vui buồn như thật
nếu không được
bèn đưa tay xóa ấn
hốt rơi! hốt tụ! hốt tan!
có cái gì trên tay
câu hỏi? dấu than!

Thứ Năm, 1 tháng 5, 2014

Nụ hôn trầm tích



Từ Sâm



Bãi biển Nha trang chiều muộn. Lũ lượt áo tắm hai mảnh như những con cá heo nhiều màu sắc trôi dạt trên bãi cát.

Bên đường dạo, một khúc gỗ cong queo chỏng chơ. Không phải, một đứa bé trai không đoán được tuổi, tay chân co quắp, miệng đầy nước dãi, khoé miệng như rạch ngang trên má. Những chú ruồi vo ve bu vào mắt, mũi, bu từng đám như đậu đen. Người ta, người tây, quần dài, quần ngắn, đàn bà, đàn ông đều lướt nhanh qua ổ ruồi ấy. Mùi xú uế nồng nặc át mùi nước hoa của mấy ả môi đỏ lòm vừa chén bắp rang vừa vứt vài hạt xuống cát.

Đứa trẻ khò khè như không thở được, nó rơi từ chiếc ghế xi măng màu xám rồi nằm dài trên bãi cỏ mà đêm qua sau một chầu bia các qúi ông làm nơi trút bầu tâm sự. Cánh tay khẳng khiu huơ huơ lên trời như cầu cứu, mặt trắng bạch nhắm nghiền.

- Ai vô phúc bỏ con ra đường vậy ta. Một cụ già lên tiếng.

- Nó lừa thiên hạ đấy, xin con nuôi rồi bẻ tay chân cho quặt quẹo để làm tiền. Một chị nần nẫn tròn lăn thơm mùi tôm hùm nướng bắn một vòi nước bọt cách thằng bé chừng gang tay.

Một vài người, trong đó có ông tây to lớn cúi xuống thả vài tờ màu xám, rồi kẻ 5 ngàn, người 10 ngàn, những tờ bạc như những cánh bướm nhẹ nhàng đậu xuống. Người ta lấy hòn đá chặn để không bị gió cuốn.

Khi chiều đã thẫm màu, một bé gái gầy yếu, đen nhẻm, chân trần, nhớn nhác tìm cái gì đó. Bỗng như con quạ nhắm trúng mục tiêu, nó sà tới nhanh đến nồi lũ ruồi chưa kịp bay, một vài con mắc kẹt trong vòng tay của nó và đứa trẻ tật nguyền kia. Nó bắt đầu hôn, hôn từ đầu đến chân, dùng các ngón tay như xe điếu, xoa mắt xoa tai. Nó ngậm miệng hút trụt một cái, nước dãi trên mũi thằng bé sạch bong, nó không nhổ, nuốt luôn vào họng.

- Tội nghiệp cưng, cưng đi hóng mát chứ đâu phải ăn xin, sao không ai bế cưng lên ghế vậy cà. Lần sau chị mang chiếu cho cưng nằm nhé.

Vừa nói nó vừa nhấc bỗng đứa em như người ta ôm rễ cây vừa bật gốc, khẳng khiu, khô cằn, nửa bồng nửa dắt vật vờ trong hoàng hôn. Túi vé số bên hông vẫn còn đầy.

Đứa em nở nụ cười, mắt vẫn nhắm nghiền, nó đang trải qua cơn đói khủng khiếp.

Khoảng trống còn lại trên bãi cỏ là những đồng tiền, chúng vất vưởng như những miếng giấy lạc loài.

Những con sóng ngàn năm hôn vào bãi cát – những nụ hôn trầm tích.

Ngóng mưa



Nguyễn Đăng Trình



chùm phượng thắp trên cây nỗi nhớ
tháng tư không gọi cũng theo về
mấy mùa xa em ngần ấy mùa xa phố
xa những con đường vàng mướt tiếng ve

mây như bông vắt ngang chiều trắng quá
bóng ta gầy gãy gập xuống thềm rêu
tiếng guitar không dưng trầm lắng lạ
hát về phía ấy một lời yêu

nhánh hoàng hậu tím vài bông nở muộn
em ở đâu trên trái đất này
ngoài cổng trường đời ngược xuôi trăm hướng
ta chờ em như chờ cơ may

ngóng mưa về tưới nhuần đôi mắt mỏi
cơ may và em trốn biệt cõi xa nào
chiều chưa khép mà đêm đã tới
ngấn tình buồn chợt vỡ đắm trăng sao…

Đức Sung phù - Trang tử


A. Lỗ hữu ngột giả Vương Đài, tùng chi du giả, dữ Trọng Ni tương nhược.
Thường quý vấn ư Trọng Ni viết: "Vương Đài ngột đả dã, tùng chi du giả dữ phu tử trung phân Lỗ. Lập bất giáo, tọa bất nghị, hư nhi vãng, thực nhi quy; cố hữu bất ngôn chi giáo, vô hình nhi tâm thành giả da? Thị hà nhân dã?"
Trọng Ni viết: "Phu tử, thánh nhân dã. Khưu dã trực hậu nhi vị vãng nhĩ! Khưu tương dĩ vi sư, nhi huống bất nhược Khưu giả hồ! Hề giả Lỗ quốc, Khưu tương dẫn thiên hạ nhi dữ tùng chi."
Thường quý viết: "Bỉ ngột giả dã, nhi Vương tiên sinh, kỳ dữ dung diệc viễn hĩ! Nhược nhiên giả, kỳ dụng tâm dã, độc nhược chi hà?"
Trọng Ni viết: "tử sinh diệc đại hĩ, nhi bất đắc dữ chi biến, tuy thiên địa phúc trụy, diệc tương bất dữ chi di. Thẩm hồ vô giả, nhi bất dữ vật thiên, mạng vật chi hoa, nhi thủ kỳ tông dã."
Thường Quý viết: "Hà vị dã?"
Trọng Ni viết: "Tự kỳ dị giả thị chim can đảm Sở Việt dã; tự kỳ đồng giả thị chi, vạn vật giai nhất dã. Phù nhược nhiên giả, thả bất tri nhĩ mục chi sở nghi[ii], nhi du tâm hồ đức[iii] chi hòa. Vật thị kỳ sở nhất nhi bất kiến kỳ sở táng, thị táng kỳ túc, do di thổ dã."
Thường Quý viết: "Bỉ vị kỷ, dĩ kỳ tri[iv] đắc kỳ tâm, dĩ kỳ tâm, đắc kỳ thường tâm[v], vật hà vi tối[vi] chi tai?"
Trọng Ni viết: "Nhân mạc giám ư lưu thủy, nhi giám ư chỉ thủy, duy năng chỉ, năng chỉ chúng chỉ[vii]. Thụ mạng ư địa, duy tùng bá độc dã tại. Đông hạ thanh thanh, thụ mạng ư thiên, duy Thuấn lộc dã chính. Hạnh năng chính sinh[viii], dĩ chính chúng sinh. Phù bão thủy chi trưng, bất cụ chi thực; dũng sĩ nhất nhân, hìng nhập ư cửu quân, tương cầu danh nhi năng tự yếu giả, nhi do nhược thị; nhi huống quan thiên địa, phủ vạn vật, trục ngụ lục hài, tượng nhĩ mục, nhất tri chi sở tri, nhi tâm vị thường tử giả hồ? Bỉ thả trạch nhật nhi đăng giả, nhân tắc tùng thị dã; bỉ thả hà khẳng dĩ vật vi sự hồ[ix]?"

DỊCH NGHĨA:

A. Nước Lỗ, có người cụt chân, tên là Vương Đài. Số người theo học ngang với Trọng Ni.
Thường Quý hỏi Trọng Ni: "Vương Đài là kẻ cụt chân, lại cùng Thầy chia hai học trò nước Lỗ. Người ấy, đứng thì không dạy điều chi; ngồi thì không nghị luận việc gì. Thế mà, người học đến thì không có gì cả, mà khi ra về thấy mình đầy đủ. Vậy thì, có lối dạy mà không cần đến lời, mặc nhiên mà cảm hóa được lòng người hay sao? Người ấy là người gì vậy?Nhân
Trọng Ni đáp: "Phu tử là bậc Thánh nhân đấy! Khưu nầy đi sau, chưa thể theo kịp đó. Khưu còn muốn tôn đó làm Thầy, huống hồ là những kẻ không bằng Khưu! Nói chi là một nước Lỗ. Khưu nầy còn muốn dẫn cả thiên hạ mà cùng theo đó."
Thường Quý nói: "Đó là kẻ cụt chân, vậy mà được Phu tử gọi là bậc Thầy họ Vương, tất nhiên người ấy phải có cái gì khác xa với kẻ tầm thường! Như vậy thì, riêng ông ta đã sử dụng cái tâm như thế nào?
Trọng Ni đáp: "Chết sống là việc lớn còn không làm cho đó biến đổi; Trời Đất dù sụp đổ, cũng không làm cho đó sao động. Xét rõ Tính Mạng, mà không để cho vật ngoài dời đổi. Khiến vật hóa sinh, mà giữ lấy phần chủ của vật hóa.
Thường Quý nói: "Như thế nghĩa là gì?"
Trọng Ni đáp: "Có hai cách nhận thức sự vật, nếu đứng chỗ khác biệt nhau mà xem,thì dù như gan với mật cũng thấy cách nhau xa như Sở với Việt; nhưng, nếu đứng chỗ đồng nhau mà xem, thì sẽ thấy vạn vật đều là Một cả. Và nếu được như vậy (tức là biết đứng chỗ đồng nhau mà xem vạn vật) thì đâu cần gì đến sự nhận thức của tai mắt nữa mà để cho lòng mình rong chơi nơi chỗ "hòa" của Đức. Vì vậy mà coi sự mất một chân của mình như một hòn đất bị đánh rơi thôi!"
Thường Quý nói: "Người ta, không ai lại soi mình ở làn nước chảy, mà soi mình ở làn nước đứng. Chỉ có cái "lặng đứng" mới dừng lại được cái lòng mong lặng đứng của người người. Cùng thụ Mạng nơi Đất mà riêng chỉ có cây tùng cây bách là luôn luôn tồn tại: một màu xanh xanh, bất cứ ở mùa nào, mùa hạ hay mùa đông. Cùng thụ Mạng nơi Trời mà riêng chỉ có ông Thuấn là giữ được cái Chính của mình. Cầm đầu thiên hạ mà chính được cái Tính của mình, thì chính được mọi người. Hạng người mà giữ được Bản Tính, thì bên ngoài rất điềm tĩnh, chẳng biết sợ gì cả, như người dũng sĩ một mình xông vào chín vòng quân. Vì hiếu danh mà họ còn dám làm việc ấy, huống hồ hạng người chủ được Trời Đất, chứa được vạn vật thì đối với cái thân này chẳng qua là gởi vào sáu hài, nương vào tai mắt, còn sự hiểu biết của họ thì bao la mà cái tâm của họ chưa từng có chết? Con người ấy chọn ngày để trút bỏ cái giả. Người ta tự chạy theo đấy thôi, chứ tự người ấy đâu có chịu đem mình mà phụng sự cho thiên hạ?"
B. Thân Đồ Gia ngột giả dã, nhi dữ Trịnh Tử Sản[x] đồng sư ư Bá Hôn Vô Nhân. Tử Sản vị Thân Đồ Gia viết: "Ngã tiên xuất, tắc tử chỉ, tử tiên xuất tắc ngã chỉ."
Minh nhật hựu dữ hợp đường đồng tịch nhi tọa. Tử sản vị Thân Đồ Gia viết: "Ngã tiên xuất, tắc tử chỉ, tử tiên xuất, tắc ngã chỉ. Kim ngã tương xuất, tử khả dĩ chỉ hồ? Kỳ vị da? Thả tử kiến chấp chính nhi bất vi, tử tế chấp chánh hồ?"
Thân Đồ Gia viết: "Tiên sinh chi môn cố hữu chấp chính yên như thử tai? Tử nhi duyệt tử chi chấp chính nhi hậu nhân giả dã!
Văn chi viết: "Giám minh tắc trần cấu bất chỉ, chỉ tắc bất minh dã. Cửu dữ hiền nhân xử tắc vô quá. Tử kim chi sở thủ đại giả, tiên sinh dã, nhi do xuất ngôn nhược thị bất diệc quá hồ?"
Tử Sản viết: "Tử ký nhược thị hĩ, do dữ Nghiêu tranh thiện, kế tử chi đức, bất túc dĩ tự phản da?"
Thân Đồ Gia viết: "Tự trạng kỳ quá dĩ bất đương vong giả chúng ; bất trạng kỳ quá dĩ bất đương tồn giả quả. Tri bất khả nại hà nhi an chi nhược mạng, duy hữu đức giả năng chi. Du ư Nghệ[xi] chi cốc trung, trung ương giả, trung địa dã, nhiên nhi bất trúng giả, Mạng dã. Nhơn dĩ kỳ toàn túc tiếu ngô bất toàn túc giả, chúng hĩ. Ngã phất nhiên nhi nộ, nhi thích tiên sinh chi sở, tắc phế nhiên nhi phản bất tri tiên sinh chi tẩy ngã dĩ thiện da? Ngô dữ phu tử du thập cửu thiên hĩ, nhi vị thường tri ngô ngột giả dã. Kim tử ngã du ư hình hài chi nội, nhi tử sách ngã ư hình hài chi ngoại, bất diệc quá hồ?"
Tử Sản thác nhiên cải dung canh mạo, viết: "Tử vô nãi xưng."
DỊCH NGHĨA:
B. Thân Đồ Gia là người cụt chân, cùng với Tử Sản nước Trịnh đồng học với Bá Hôn Vô Nhân. Tử Sản bảo với Thân Đồ Gia: "Ta ra trước thì ngươi ở lại. Ngươi ra trước thì ta ở lại."
Ngày hôm sau, lại cùng một chỗ học, cùng ngồi một chiếu. Tử Sản bảo với Thân Đồ Gia: "Ta ra trước thì ngươi ở lại. Ngươi ra trước thì ta ở lại. Nay ta sắp đi ra, vậy ngươi có thể ở lại chăng, hay là chưa có thể được? Vả ngươi thấy kẻ cầm chính quyền sao không biết tránh qua một bên? Ngươi ngang hàng với kẻ cầm chính quyền ư?
Thân Đồ Gia nói: "ở cửa Thầy đây sao lại có kẻ gọi là cầm chính quyền? Ngươi thích thú với cái việc cầm chính quyền của ngươi mà xem mọi người đều đứng sau ngươi cả! Ta nghe thầy nói rằng: Gương sáng là vì bụi bặm không vướng, bụi bặm mà vướng lên thì mặt gương sẽ lu mờ! ở lâu với bậc hiền giả thì ắt không lỗi lầm. Nay ngươi ở trong cửa Thầy để cầu học cái đại thức, thế sao lại còn thốt ra được những lời như vậy, há chẳng cũng lầm lỗi hay sao?
Tử Sản nói: "Ngươi đã là người (tàn tật) như thế, sao lại còn mong cùng với Nghiêu mà tranh thịên hay sao? Kể về đức của ngươi, không đủ để mà xét lại mình ư?
Thân Đố Gia nói: "Tự che đậy lỗi của mình, cho là không đáng bị hình chặt chân, thì nhiều! Không che đậy lỗi của mình, cho là không đáng còn chân, thì ít. Biết là không thể làm thế nào khác được mà yên lòng chịu nó và cho là số mạng, thì chỉ có người có đức mới có thể làm nổi. ở ngay trung tâm làn tên của Nghệ mà lại thoát khỏi bị tên, đó là Mạng vậy. Những kẻ cậy mình có đủ hai chân để chế nhạo người không đủ hai chân như ta, thì nhiều lắm! Ta nghĩ cũng tức giận, nhưng khi đến học với thầy thì lại bâng khuâng mà trở về, không rõ thầy đã đem cái hay gì mà rửa ráy được lòng ta? Ta ở cùng thầy đã mười chín năm thế mà thầy chưa thường thấy ta là đứa cụt chân! Nay ngươi chơi với ta ở chỗ bên trong của hình hài, mà ngươi lại còn khắt khe với cái hình hài bên ngoài của ta, chẳng cũng lầm lỗi hay sao?"
Tử Sản áy náy, đổi sắc mặt mà nói: "Thôi, đừng nói đến chuyện ấy nữa!"
C. Lỗ hữu ngột giả Thúc Sơn Vô Chỉ, chủng kiến Trọng Ni. Trọng Ni viết:
"Tử bất cẩn tiền, ký phạm họan nhược thị hĩ, tuy kim lai hà cập hĩ!"
Vô Chỉ viết: "Ngô duy bất tri vụ nhi khinh dụng ngô thân, ngô thị dĩ vong túc. Kim ngô lai dã, do hữu tôn túc giả tồn. Ngô thị dĩ vụ toàn chi dã. Phù thiên vô bất phú, địa vô bất tái, ngô dĩ phu tử vi thiên địa; an tri phu tử chi do nhược thị dã!"
Khổng- tử viết: "Khưu tắc lậu hĩ! Phu tử hồ bất nhập hồ? Thỉnh giảng dĩ sở văn."
Vô Chỉ xuất. Khổng- tử viết:
"Đệ tử miễn chi! Phù Vô Chỉ ngột giả dã, do vụ học dĩ phục bổ tiền hành chi ác, nhi huống toàn đức chi nhân hồ?"
Vô Chỉ ngứ Lão Đam viết: "Khổng- Khưu chi ư chí nhân, kỳ vị da? Bỉ hà tân tân dĩ học tử vi! Bỉ thả kỳ dĩ xúc quỹ[xii] huyễn quái chi danh văn, bất tri chí nhơn chi dĩ thị vi kỷ chất cốc da?"
Lão Đam viết:
"Hồ bất trực sử bỉ dĩ tử sinh vi nhất điều, dĩ khả bất khả vi nhât quán giả, giải kỳ chất cốc, kỳ khả hồ?"
Vô Chỉ viết:
"Thiên hình chi, an khả giải."

DỊCH NGHĨA:
C. Nước Lỗ, có người cụt chân, tên là Thúc Sơn Vô Chỉ, khập khễnh đến ra mắt Trọng Ni. Trọng Ni nói:
Ngươi trước đây không cẩn thận nên phải bị tai họa như thế, nay dù có đến đây cũng không sao kịp nữa!
Vô Chỉ nói: "Tôi vì không biết việc nên khinh dụng tấm thân này mà phải bị mất hết một chân. Nay tôi đến đây, còn lại có một chân quý này, thời tôi mong giữ cho nó vẹn toàn. Trời, không gì là không che; Đấtm không gì là không chở, tôi mong xem phu tử như Trời Đất. Nào ngờ phu tử lại đối xử với tôi như thế!"
Khổng- tử nói: "Khưu nầy quả hẹp hòi! Sao ông không vào trong chơi, tôi xin đem những gì đã nghe được mà giảng cho ông nghe!"
Vô Chỉ ra đi. Khổng- tử nói:
Các đệ tử hãy cố gắng lên! Kìa như Vô Chỉ là kẻ cụt chân mà còn mong học để bù lại cái việc làm sai lầm buổi trước, huống chi kẻ mà đức vẫn còn vẹn tòan!
Vô Chỉ nói chuyện với Lão Đam:
Khổng- Khưu hình như chưa phải là bậc chí nhân! ông ta dạy làm gì mà đông học trò thế? Ông lại còn mong được tăm tiếng về những cái học kỳ dị huyễn hoặc, vậy chứ ông không biết rằng đối với bậc chí nhân, đó tòan là những gông cùm cho mình ư?
Lão Đam nói:
Sao ông không bảo thẳng cho ông ta biết rằng Sống và Chết đều là cùng một lẽ, nên và chẳng nên đều cùng là một việc, hầu mở gông cùm cho ông ta có được không?
Vô Chỉ nói:
Trời đã hành tội ông ta, gỡ ra sao được!
D. Lỗ Ai Công vấn ư Trọng Ni viết: "Vệ hữu ác nhân yên, viết Ai Đài Đà, trượng phu dữ chi xử giả, tư nhi bất năng khứ dã, phụ nhơn kiến chi, thỉnh ư phụ mẫu, viết: "dữ nhân vi thê, ninh vi phu tử thiếp giả, sổ thập nhi vị chỉ dã. vị thường hữu văn kỳ xướng giả dã, thường họa nhân nhi dĩ hĩ. Vô quân tử chi vị, dĩ tế hồ nhân chi tử, vô tụ lộc dĩ vọng nhân chi phúc, hựu dĩ ác hãi thiên hạ, họa nhi bất xướng, tri bất xuất hồ, tứ vức, thả nhi thư hùng hợp hồ tiên, thị tất hữu dị hồ nhân giả dã. Quả nhân triệu nhi quan chi, quả dĩ ác hãi thiên hạ, dữ Quả nhân xử, bất chí dĩ ngoạt số, nhi Quả nhân hữu ý hồ kỳ vi nhân đã; bất chí hồ cơ niên, nhi Quả nhân tín chi. Quốc vô tể, nhi Quả nhân truyền quốc yên. Muộn nhiên nhi hậu ứng. Tỵ nhược nhi từ, quả nhân xý hồ tốt thụ chi quốc, vô kỷ hà dã, khứ Quả nhân nhi hành. Quả nhân tuất yên, nhược hữu vong dã, nhược vô dữ lạc thị quốc dã. Thị hà nhân giả dã?"
Trọng Ni viết:
Khưu dã thường sứ ư Sở hĩ, thích kiến đồn tử thực ư kỳ tử mẫu giả; thiểu yên, tuần nhược giai khí chi nhi tẩu; bất kiến kỳ yên nhĩ, bất đắc loạn yên nhĩ! Sở ái kỳ mẫu giả, phi ái kỳ hình dã, ái sử kỳ hình giả dã. Chiến nhi tử giả, kỳ nhân chi táng dã, bất dĩ sáp tư, tắc giả chi lũ, vô vi ái chi, giai vô kỳ bản hĩ. Kim Ai Đài Đà vị ngôn nhi tín, vô công nhi thân, sử nhân thụ kỷ quốc, duy khủng kỳ bất thụ dã, thị tất tài toàn nhi đức bất hình giả dã.
Ai Công viết: Hà vị tài toàn?
Trọng Ni viết: Tử sinh, tồn vong, cùng đạt, bần phú, hiền dữ bất tiếu, hủy dự, cơ khát hàn thử: thị sự chi biến, mạng chi hành dã. Nhật dạ tương đại hồ tiền, nhi tri bất năng quy hồ kỳ thủy giả dã; cố bất túc dĩ hoạt hòa, bất khả nhập ư linh phủ sử chi hòa dự, thông nhi bất thất ư duyệt; sử nhật dạ vô khước nhi dữ vật giai xuân thị tiếp nhi sinh thời ư tâm giả dã, thị chi vị tài tòan.
Hà vị đức bất hình?
Viết: "Bình giả thủy đình chi thịnh dã kỳ khả dĩ vi pháp dã, nội bão chi nhi ngoại bất đãng dã. Đức giả thành hòa chi tu dã, đức bất hình giả, vật bất năng ly dã."
Ai Công dị nhật dĩ cáo Mẫn tử viết:
"Thủy dã ngô dĩ nam diện nhi quân thiên hạ, chấp dân chi kỷ, nhi ưu kỳ tử, ngô tự dĩ vi chí thông hĩ. Kim ngô văn chí nhân chi ngôn khủng ngô vô kỳ thực, khinh dụng ngô thân, nhi vong ngô quốc. Ngô dữ Khổng- Khưu, phi quân thần dã, đức hữu nhi dĩ hĩ."
CHÚ:
Linh phủ: chỗ ở của tinh thần, ám chỉ cái Tâm của mình. í nói những vấn đề thuộc về việc Sống Chết, Cùng Thông, Hiền Ngu, Phải Quấy… chỉ là những sự bất thường, không nên để cho nó làm điên đảo sự yên tĩnh của tâm hồn.
Linh phủ đồng một nghĩa với linh đài mà Trang tử thường dùng ở Canh Tang Sở trong câu "Bất khả nội ư linh đài". ở đây Quách Tượng giải chữ linh đài là ám chỉ cái Tâm.
DỊCH NGHĨA:
D. Lỗ Ai Công hỏi Trọng Ni:
Nước Vệ có một người xấu xí, tên là Ai Đài Đà. Đàn ông nào ở với nó, nhớ không thể bỏ đặng. Đàn bà nào thấy nó, về xin cha mẹ rằng: thà làm vợ bé của nó hơn làm vợ lớn kẻ khác. Số người ấy có đến mười mấy rồi, thế mà cũng chưa hết. Chưa thường nghe nó xướng lên ý gì, chỉ có họa theo ý người mà thôi. Không có địa vị quyền thế gì để cứu người khỏi chết; không có tiền bạc của cải gì để nuôi ai no bụng, lại còn hình thù xấu xí để thiên hạ phải sợ. chỉ có họa mà không có xướng. Trí nó không ra ngoài bốn vách rào làng. Thế mà giống đực giống cái lại xúm xít trước mặt, ấy là kẻ tất phải có cái gì khác lạ hơn người. Quả nhân triệu nó đến xem, thì quả là hình thù xấu xí làm cho thiên hạ đều phải sợ. ở với Quả nhân không đầy một tháng, mà Quả nhân đã để ý đến cách ăn ở của nó. Không đầy một năm, Quả nhân tin nó. Nước không có kẻ cầm quyền chính, Quả nhân giao việc nước cho nó. Nó buồn buồn, thờ ơ ra vẻ chối từ làm cho Quả nhân hổ thẹn. Sau cùng nó nhận, nhưng rồi, không bao lâu lại bỏ Quả nhân mà đi. Quả nhân buồn bực như mất một vật gì, như không còn có người để cùng vui như trong nước nữa! Vậy người ấy là người thế nào?"
Trọng Ni nói: "Khưu nầy, từng sang sứ bên nước Sở. Thấy đàn heo con đang bú mẹ, mà mẹ chúng đã chết rồi. Một lúc, chúng ngơ ngác chạy tứ tán cả vì chúng thấy mẹ không nhìn đến chúng nữa. Chúng sở dĩ yêu mẹ, không phải là yêu cái xác kia, mà yêu cái sai khiến xác kia của mẹ chúng! Ra trận mà chết, đâu cần phải yên ngựa để bọc thây. Cho kẻ cụt chân giày dép, họ đâu có ưa thích! Họ đều không có gốc! (…) Nay Ai Đài Đà chưa nói gì mà người lại tin; không công gì mà người lại thân, khiến có người muốn trao cho quốc chính mà lại không chịu nhận, như vậy ắt phải là kẻ toàn được cái Tài, và không để lộ ra cái Đức."
Ai Công nói: Sao gọi là "tòan được cái Tài"?
Trọng Ni nói: "Sống Chết, Còn Mất, Cùng Đạt, Giàu Nghèo, Hiền và Bất Tiếu, Khen Chê, Nóng Lạnh… là những cái biến của sự vật, cái chuyển của Mạng (cũng như) ngày đêm thay phiên tiếp nối nhau trước mặt ta mà trí thông minh của con người cũng không sao nhận thấy được chỗ khởi đầu. Như vậy, đâu có đáng gì để cho nó lọt vào "linh phủ", làm loạn lòng mình. Ngay cả sự hân hoan vui mừng cũng đừng để cho lòng mình dấy động. Đối với tất cả mọi việc, hòa nhã vui tươi như tiếp đón bốn mùa… Đó gọi là "toàn được cái TàiThiên.
Thế nào là Đức không lộ ra?
Là bình thản như mặt nước đứng im lìm, có thể lấy đó làm khuôn phép: bên trong giữ được thật trong sáng mà bên ngoài như bất động không bị lôi cuốn theo ngoại vật. Đức là thành được việc mình mà vẫn giữ được sự hòa với mọi người. Đức không lộ ra nên mọi vật không thể rời bỏ được mình[xiii].
Ai Công ngày khác nói chuyện với Mẫn tử:
Trước kia tôi cho việc day mặt về phía Nam làm vua thiên hạ, cầm quyền trị dân, lo cho chúng được an ninh, tôi tự cho được như thế là thông đạt lắm rồi. Nhưng từ khi nghe bậc chí nhân nói[xiv], tôi sợ không có thực tài, khinh dụng thân mình mà làm mất cả nước. Từ đây, tôi và Khổng- Khưu sẽ không còn phải là đạo vua tôi nữa, mà là bạn với nhau về đạo đức mà thôi vậy.
E. Nhân kỳ Chi Ly Vô Thần thuyết Vệ Linh Công. Linh Công duyệt chi nhi thị toàn nhân, kỳ đậu kiên kiên.
Ứng Ánh Đại Anh thuyết Tề Hoàn Công. Hoàn Công duyệt chi, nhi thị toàn nhân, kỳ đậu kiên kiên.
Cố đức hữu sở trường nhi hình hữu sở vong; nhân bất vong kỳ sở vong, nhi vong kỳ sở bất vong thử vị thành vong[xv]. Cố thánh nhân hữu sở du[xvi] nhi trí vi nghiệt[xvii], ước vi giao đức vi án, công vi thương. Thánh nhân bất mưu, ô dụng trí? Bất trác ô dụng giao? Vô táng, ô dụng đức? Bất hóa, ô dụng thương? Tứ giả, Thiên Dục[xviii] dã, Thiên Dục dã giả, thiên thực dã. Ký thụ thực ư thiên, hựu ô dụng nhơn? Hữu nhân chi hình, vô nhân chi tình. Hữu nhân chi hình, cố quần ư nhơn; vô nhân chi tình, cố thị phi bất đắc ư thân. Diểu hồ tiểu tai, sở dĩ thuộc ư nhân dã, ngao hồ đại tai, độc thành kỳ thiên.
DịCH NGHĩA:
E. Chi Ly Vô Thần vào thuyết Vệ Linh Công. Linh Công ưa thích đến đỗi nhìn lại những kẻ thân hình toàn vẹn đều có cái cổ bé nhỏ khẳng khiu!
Ứng Ánh Đại Anh vào thuyết Tề Hoàn Công. Hoàn Công ưa thích đến đỗi nhìn lại những kẻ thân hình toàn vẹn đều có cái cổ bé nhỏ khẳng khiu![xix]
Cho nên Đức mà hơn người có thể làm cho quên hẳn được hình hài. Người ta (trái lại) không biết quên cái nên quên (hình hài) mà lại hay quên cái không nên quên (đức), đó mới là thật quên. Bởi vậy, Thánh nhân có chỗ để mà tụ lại[xx]; hiểu rằng Trí là mầm của tội ác[xxi] thệ ước là keo sơn, đức[xxii] là nối tiếp, công là buôn bán. Thánh nhân không mưu tính, thì dùng chi đến Trí? Không đẽo gọt thì dùng chi đến keo? Không mất tính thì dùng chi đến đức? Không bán chác thì dùng chi đến buôn? Bốn cái đó là "Trời nuôi". Trời nuôi, tức là trời cho hấp thụ (cái món ăn của trời). Đã được Trời nuôi, cần gì dùng đến nhân tạo nữa! Thánh nhân có cái hình của người mà không có cái tình của người. Có cái hình của người nên mới cung một đàn với người. Không có tình của người, nên thị phi mới không động được lòng. Cùng một đàn với người là việc nhỏ, mà riêng cùng làm một với Trời là việc lớn vậy!
G. Huệ tử vị Trang tử viết:
"Nhân cố vô tình hồ?"
Trang tử viết: Nhiên!
Huệ tử viết: Nhân nhi vô tình, hà dĩ vị chi nhân?
Trang tử viết: Đạo dữ chi mạo, thiên dữ chi hình, ô đắc bất vị chi nhân?
Huệ- tử viết: Ký vị chi nhân ô đắc vô tình?
Trang tử viết: thị phi ngô sở vị tình dã, ngô sở vị vô tình giả, ngôn nhân chi bất dĩ hảo ác nội thương kỳ thân, thường nhân tự nhiên nhi bất ích sinh dã.
Huệ- tử viết: Bất ích sinh[xxiii], hà dĩ hữu kỳ thân?
Trang tử viết: Đạo dữ chi mạo thiên dữ chi hình, vô dĩ hảo ác nội thương kỳ thân. Kim tử ngoại hồ tử chi thần, lao hồ tử chi tinh, ỷ thụ nhi ngâm, cứ cảo ngô nhi minh, thiên tuyển tử chi hình, tử dĩ kiên bạch[xxiv] minh.
DỊCH NGHĨA:
G. Huệ- tử gọi Trang tử, bảo:
Người ta không có tình hay sao?
Trang tử nói:
Phải!
Huệ- tử nói:
Người mà không có tình, thì lấy gì gọi là người được?
Trang tử nói:
Đạo ban cho nó dung mạo, Trời ban cho nó hình hài, sao không gọi là người?
Huệ- tử nói:
Đã gọi là người, mà không có tình, được không?
Trang tử nói:
Đó không phải là cái mà tôi gọi là Tình đâu? Chỗ mà tôi gọi là không tình, chính là chỗ tôi muốn nói rằng con người, bên trong, đừng để cho cái tình cảm yêu ghét làm hại đến thân, thường nên theo lẽ tự nhiên mà đừng thêm gì cho thiên tính.
Huệ- tử nói:
Không thêm cho thiên tính, sao có được thân?
Trang tử nói:
Đạo cho nó dung mạo, trời cho nó hình hài bên trong, không để cho sự ưa ghét làm hại thân. Nay ông vụ cái bên ngoài của thần minh của ông, để hao tổn tinh lực của ông, ngồi dựa cột mà ngâm vang, bám vào gốc ngô cằn, nhắm mắt làm thinh! Trời đã chon cho ông một cái hình hài nầy, đem chi thuyết "kiên bạch" mà nhọc thân.
TỔNG BÌNH:
Thiên Đức Sung Phù là để mà giải cái nghĩa của thuyết "bất ngôn chi giáo" của Lão tử.
Thuyết nầy gốc ở chương thứ II của sách Đạo Đức Kinh: "Thị dĩ Thánh nhân, xử vô vi chi sự, hành bất ngôn chi giáo" (Thánh nhân dùng "vô vi" mà xử sự, dùng "bất ngôn" mà dạy dỗ).
Sở dĩ Trang tử, cũng như Lão tử, chủ trương thuyết "bất ngôn" là căn cứ vào ba điểm này:
Đạo mà nói ra được, không còn phải là Đạo thường nữa. Nghĩa là Đạo là một lẽ siêu hình, không thể dùng lời nói mà truyền dạy được.
Đức mà đầy đủ nơi trong thì người hóa nơi ngoài, tự nhiên cảm hóa được chung quanh, không đợi dùng đến lời mới dạy dỗ được.
Nhân theo tự nhiên mà không cần phải nói mới là dạy.
1. Bậc thánh nhân không dùng lời nói mà dạy người, là vì bàn về lẽ Đạo, tức là "cái điều chỉ có thể cảm mà không thể nói" không sao có thể được, nhất là phải dùng đến lời nói của giới tương đối nhị nguyên.
Cho nên Lão tử mới nói: "Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri" (biết, thì không nói; nói, là không biết), là vì "Đạo khả Đạo, phi thường Đạo". Kẻ nào tự cho là đã hiểu Đạo và đem cái Đạo ấy mà dạy ta, là kẻ dối ta, nếu không phải họ tự dối với lòng.
Thiên Trí Bắc Du giải đọan này có nói: "Trí đi chơi phương Bắc, tới Huyền- Thủy, lên núi ẩ- Phần, gặp Vô- Vi- Vị.
Trí gọi Vô- Vi- Vị, bảo:" Tôi muốn hỏi ông ít điều. Nghĩ làm sao, lo làm sao mà biết được Đạo? Dựa vào đâu, làm cách nào mà hiểu được Đạo? Theo đâu và đi đường nào mà tìm được Đạo?"
Hỏi ba lời, Vô- Vi- Vị không đáp. Chẳng phải không đáp, mà là không biết phải đáp làm sao.
Hỏi không được, Trí trở lại Bạch- Thủy, ở phương Nam, lên núi Hồ- Quyết, gặp Cuồng- Khuất. Trí cũng đem ba câu hỏi trước, hỏi Cuồng- Khuất.
Cuồng- Khuất nói:" à! Tôi biết, để tôi nói cho." Nhưng, vừa muốn nói, thì lại quên mất chỗ mình muốn nói.
Trí không hỏi ai được, bèn trở lại đế- cung ra mắt Hoàng- đế để hỏi:
Hoàng- đế nói: "không nghĩ, không lo mới biết Đạo. Không dựa vào đâu, không làm gì mới rõ Đạo. Không theo đâu, không đi đường nào cả mới được Đạo."
Trí hỏi Hoàng- đế:" Tôi cùng ông biết Đạo chăng? Còn hai người kia không biết Đạo chăng? Ai phải?"
Hoàng- đế nói:" Vô- Vi- Vị mới thật là phải. Cuồng- Khuất cũng giống như Vô- Vi- Vị. Rốt lại, chỉ có ta và ngươi là không gần Đạo mà thôi. Vả, kẻ biết thì không nói, kẻ nói là không biết. Nên chi, bậc Thánh- nhân mới thực hành cái thuyết "bất ngôn"!"
Ấy, Đạo chẳng thể nói ra đặng; nói ra đặng chẳng phải còn là cái Đạo "thường" nữa. Cho nên Trang tử mới nói: "Kẻ hỏi Đạo cũng như người đáp lại đều là những kẻ không hiều Đạo!"
2. Thánh nhân biết rằng mỗi vật trong đời đều có cái "Đức" của nó, và phận sự duy nhất của mỗi vật là phải biết gìn giữ cái "Đức" ấy nơi mình cho đầy đủ, nghĩa là lo sống cái sống ấy một cách triệt để và nuôi dưỡng nó được luôn luôn đầy đủ nơi trong. đức mà đầy đủ bên trong thì tự nhiên ứng hiện ra ngoài, thiên hạ nhờ đó mà tự hóa, đâu cần phải dùng lời nói mà hóa ai. Nên mới gọi là "đức sung phù", nghĩa là "đức mà đầy đủ nơi trong, thì người ở ngoài nhờ đó mà tự hóa; tự nhiên cảm hóa, không phải cần dùng đến lời mà dạy."
"Tại nước Lỗ, có người cụt chân, tên là Vương Đài. Số người theo học ngang với Trọng Ni."
Thường Quý hỏi Trọng Ni: Vương Đài là kẻ cụt chân lại cùng với thầy chia hai học trò nước Lỗ. Người ấy, đứng thì không dạy điều chi, ngồi thì không nghị luận việc gì. Thế mà người học, đến thì không có gì cả, mà khi ra về, thấy mình đầy đủ. Vậy thì, có lối dạy mà không cần đến lời, mặc nhiên mà cảm hóa được lòng người ư?"
"Nước Vệ có một người xấu xí, tên là Ai Đài Đà. Đàn ông nào ở với nó, nhớ không thể bỏ đặng. Đàn bà nào thấy nó, về xin cha mẹ rằng: thà làm vợ bé của nó hơn làm vợ lớn kẻ khác (…) Chưa thường nghe nó xướng lên ý gì, chỉ có họa theo ý người thôi". Thế mà Lỗ Ai Công phong cho nó chức Tướng Quốc, nó nhận rồi từ bỏ mà đi, Ai Công buồn bã đến tự thấy không làm sao an ủi được khi mất nó.
Chi Ly Vô Thần, cũng như Ứng Ánh Đại Anh, người thì què chân, sứt môi, người thì cổ bướu dị hình… thế mà khiến cho Vệ Linh Công và Tề Hoàn Công ưa thích đến nỗi nhìn thấy kẻ thân hình tòan vẹn đều xấu xí cả.
Cho nên "đức mà hơn người có thể làm cho ta quên hẳn cả hình hài xấu xí".
Trên đây, một Vương Đài tàn tật, không nói gì cả mà thiên hạ tự hóa; một Ai Đài Đà hình thù xấu xa, không nói gì cả mà thiên hạ đều quên cái xấu xí của hình thù, đủ thấy rằng Đức mà đủ nơi trong thì người sẽ hợp với mọi người, đâu đợi cần phải nhiều lời mới cảm hóa.
3. Điểm thứ ba của thuyết "bất ngôn chi giáo" là căn cứ vào lý tự nhiên.
Thiên Biền Mẫu giải rất rõ về điều nầy: "Thiên hạ có vật thường tự nhiên như vậy! Có vật tự nhiên cong, đâu cần phải dùng đến câu móc! Có vật tự nhiên ngay, đâu cần phải dùng đến dây mực! Có vật tự nhiên tròn, đâu cần phải dùng đến cái khuynh! Có vật tự nhiên vuông, đâu cần phải dùng đến thước nách! Vạn vật tự nhiên chằng chịt dính líu nhau, đâu cần phải dùng đến keo sơn. Vạn vật sống, đâu cần gì phải biết vì cớ gì mà sống; đặng, cũng không cần biết vì sao mà đặng. Nguyên lý của cái sống và cái đặng kia là việc cố hữu, xưa nay không hai. Nó là cái luật bất di bất dịch. Vậy thì, vì cớ gì lại đòi đem những thứ "nhân, nghĩa, lễ, nhạc" những sợi dây nhơn tạo để mà trói buộc thiên hạ, khiến cho thiên hạ lầm lạc!"
Đó gọi là lẽ thường nhiên, tức là lẽ tự nhiên. Tự nhiên là cái lẽ phải như vậy, vì nó phải như vậy, không vậy không đặng. [xxv]Đã nhận theo lẽ tự nhiên, thì hãy để cho vạn vật tự nhiên sống theo cái sống của nó, cần gì phải dùng đến lời nói mà làm chi?
---------------------------------------------------
Với nhãn quang Nhị nguyên, thì ngay trong thân thể của ta sẽ thấy các tạng phủ như là nghịch với nhau cả (như nước Sở nước Việt cách biệt nhau vậy).
[ii] Tức là quên mất cả thanh sắc thị phi, mỹ ác…
[iii] (đức chi hòa), tức là "hòa" của đạo và đức, tức là chỗ mà Lão Tử gọi "thượng đức bất đức" cái đức siêu việt của đạo gồm nắm cả thị phi, thiện ác…
[iv] Cái "biết" đây, là ám chỉ "chân trí" (cái biết thật).
[v] Tầm thường: tức là cái tâm thường- trụ, bất biến đồng với Đạo thường nơi mình. Chữ "tâm" trước, là ám chỉ cái tâm bất thường, còn vọng động của mình.
[vi] Chữ "tối" ở đây có nghĩa là "tụ": hợp lại, tựu lại. í nói, tại sao chúng nhân lại tựu về theo ông ta (Vương đài).
[vii] Không ai lại đi cầu học nơi một kẻ mà lòng còn vọng động (náo loạn vì ngoại vật). chỉ có sự điềm đạm hư vô là đặc tánh của bậc thánh nhân sống giữa sự náo động không dừng của thiên hạ, cũng như mọi thứ cây cối đều thụ mạng nơi đất, thế mà chỉ riêng có cây tùng cây bách thì cành lá bốn mùa vẫn xanh tươi không thay đổi… vì nó còn giữ được đặc tính trường xuân của nó.
[viii] Chữ chính đây, là chính kỷ.
Chữ sinh đây, nguyên là chữ Tính, hay là Bản Tính (theo Quách Tượng).
[ix] Chống lại với tư cách "khuyến dụ" người theo đạo của phần đông các tôn giáo.
[x] Tử Sản đang là Tướng quốc nước Trịnh.
[xi] Tên của một người xưa có tài bắn cung không ai bì kịp.
[xii] Xúc quỷ: là kỳ dị
[xiii] Đại ý là nói về Đức điềm đạm, không để cho ngoại vật động được Tâm mình.
[xiv] Tức là Khổng- tử (thay lời Trang- tử mà giảng về lẽ Đạo cho Ai Công).
[xv] Hình thì nên quên; mà đức, thì không nên quên.
[xvi] Du: là rong chơi trong cõi hư không.
[xvii] Hoặc viết là "yêu nghiệt".
[xviii] Chữ "chúc" đây phát âm là dục, tức là "nuôi dưỡng".
[xix] Chi Ly Vô Thần, là người có hình thể chia lìa như què chân và sứt môi (xấu xí, kỳ dị). ứng ánh Đại Anh, tức là người cổ bướu dị hình. Nhân đây mà gọi tên.
Thích cái đẹp bên trong, đến quên cả sự xấu xí của hình hài bên ngoài: đó là cái thích đến tột độ.
Trong Tình sử Trung Hoa có chép câu chuyện một chàng trai si tình một người đàn bà một mắt, bấy giờ trong thiên hạ anh ta nhìn lại tất cả mọi người đàn bà khác trong nước đều có thừa một mắt cả.
[xx] Nghĩa đen là "rong chơi", mà nghĩa bóng, là tiêu diêu tự đắc, để cho cái tâm ung dung linh hoạt trong cõi Hư Vô, tức là đã đến cõi "toàn đức" rồi vậy.
[xxi] Nghiệt, tức là yêu nghiệt, là tội ác. Tư Mã bàn rằng: "Trí tuệ sinh yêu nghiệt"
[xxii] Đức ở đây, là ám chỉ lễ nghĩa. So sánh với câu "Đại Đạo phế, hữu Nhân Nghĩa" (Lão tử Đ.Đ.K)
[xxiii] Sinh: ở đây cùng nghĩa với chữ tinh.
[xxiv] Kiên bạch: là thuyết biện luận của Công tôn Long, tức là thuyết "bạch mã kiên thạch". Trang- tử chê Huệ- thi không biết thiện dưỡng thiên chân, suốt đời biện luận để tiêu hao sinh lực trong những cái học tranh biện vô ích cho con đường giải thoát.
[xxv] Bất đắc bất nhiên.

Đạo của vật lý- Chương 3 : Bên kia ngôn ngữ



Cái mâu thuẫn, cái làm cách tư duy thông thường bị lạc lối, xuất phát từ thực tế là, ta dùng ngôn ngữ để diễn tả kinh nghiệm nội tâm của ta, thế mà tính của kinh nghiệm đó lại vượt lên trên ngôn từ.
D.T. Suzuki

Các vấn đề của ngôn ngữ ở đây là sự thật nghiêm trọng. Chúng ta muốn nói về cơ cấu của nguyên tử, nói một cách nào đó... Nhưng chúng ta không thể dùng ngôn ngữ thông thường mà nói về nguyên tử được.
W.Heisenberg

Tất cả mọi mô hình khoa học và mọi lý thuyết đều chỉ gần đúng và sự diễn bày của chúng đều chịu mất mát với sự thiếu chính xác của ngôn ngữ điều đó nói chung đã được các nhà khoa học thừa nhận từ đầu thế kỷ này, nhờ một thành tựu mới mẻ và hoàn toàn bất ngờ. 

Việc nghiên cứu thế giới của nguyên tử đã buộc nhà vật lý nhận ra rằng, ngôn ngữ của ta không những không chính xác mà nó còn hoàn toàn không phù hợp để mô tả thực tại của nguyên tử và thế giới hạ nguyên tử. Nền cơ học lượng tử và thuyết tương đối, hai cột trụ của nền vật lý hiện đại đã làm rõ rằng, thực tại này đã vượt lên logic cổ điển và chúng ta không thể dùng ngôn ngữ thông thường mà nói về nó. Heisenberg viết:

Vấn đề khó nhất của việc sử dụng ngôn ngữ xuất phát từ cơ học lượng tử. Trước hết ở đây ta không có giềng mối gì cả cho phép ta thiết lập mối quan hệ giữa biểu tượng toán học và khái niệm của ngôn ngữ thông thường. Điều duy nhất mà ta biết được trước hết là, khái niệm thông thường của ta không thể áp dụng được cho cơ cấu nguyên tử.

Về mặt triết học thì dĩ nhiên đây là một bước phát triển hấp dẫn của nền vật lý hiện đại và gốc rễ của nó là mối liên hệ với triết học phương Đông. Trong các trường phái của triết học phương Tây thì môn logic và tư duy logic luôn luôn là công cụ quan trọng nhất để phát biểu những ý niệm triết học và theo Bertrand Russell cho cả nền triết lý tôn giáo.
 Còn trong nền triết học phương Đông thì từ xưa đến nay người ta đã rõ là thực tại vượt ngoài ngôn ngữ thông thường và các nhà minh triết phương đông không ngại vượt qua ranh giới của logic và khái niệm thông thường. Theo tôi, đó là lý do chính yếu tại sao mô hình của các vị đó về thực tại đã cung cấp một cơ sở triết lý thích hợp với vật lý hiện đại hơn là mô hình của triết lý phương Tây.

Vấn đề của ngôn ngữ đặt ra cho các nhà đạo học phương Đông y hệt như đối với vật lý hiện đại. Hai câu nói được trích dẫn ở đầu chương này là của D.T.Suzuki về Phật giáo và Werner Heisenberg về vật lý nguyên tử , thế nhưng hai câu nói gần như đồng nhất với nhau. Cả nhà vật lý lẫn nhà đạo học đều muốn trao truyền kiến giải của mình, nhưng khi họ dùng ngôn từ thì những gì nói ra nghịch lý và đầy mâu thuẫn. Sự nghịch lý này là đặc trưng của những phát biểu tâm linh từ Heraklitus đến Don Juan và từ đầu thế kỷ này, chúng là đặc trưng của ngành vật lý.

Trong vật lý nguyên tử, nhiều nghịch lý bắt nguồn từ thể tính hai mặt của ánh sáng-hay nói chung- của bức xạ điện từ. Một mặt thì rõ là chúng phải do sóng tạo thành vì chúng có hiện tượng giao thoa, hiện tượng đó chỉ có với thể tính sóng: tức là khi có hai nguồn sáng giao thoa với nhau thì độ sáng tại một điểm nhất định không nhất thiết phải là tổng số của hai nguồn sóng, chúng có thể lớn hơn hoặc nhở hơn. Điều này có thể giải thích rõ ràng bằng sự giao thoa của hai nguồn sóng như sau:

Tại những nơi mà hai đỉnh sóng gặp nhau, ta có nhiều ánh sáng hơn tổng số hai nguồn hợp lại; còn nơi một đỉnh một bụng gặp nhau, ta có ít hơn. Trị số chính xác của sự giao thoa có thể được tính dễ dàng. Hiện tượng giao thoa này luôn luôn được quan sát mỗi khi ta làm việc với tuyến điện từ và buộc ta phải thừa nhận những tia này là do sóng hợp thành.

Mặt khác những bức xạ điện từ cũng có tác dụng của hạt : hiệu ứng của các hạt quang tử. Khi ánh sáng cực tím chiếu lên bề mặt một số kim loại thì một số electron (âm điện tử) của bề mặt kim loại đó bị tách ra, do đó tia này phải gồm có những hạt đang vận động. Một hiện tượng tương tự cũng xảy ra với thí nghiệm quang tuyến X. 

Những thí nghiệm này chỉ có thể giải thích một cách thích đáng khi ta mô tả rằng chúng là sự chạm nhau của những hạt quang tử với electron. Thế mà chúng lại có đặc trưng của sóng với hiện tượng giao thoa. Câu hỏi trong thời kỳ đầu của vật lý nguyên tử làm nhiều nhà vật lý hoang mang là: làm sao được, một tuyến điện từ đồng thời vừa là hạt (đơn vị có khối lượng rất nhỏ) vừa là sóng, có thể lan rộng trong một vùng không gian? Cả ngôn ngữ lẫn tư duy trừu tượng không thể tiếp cận với dạng thực này của thực tại.

Nền đạo học phương Đông đã phát triển nhiều cách nhằm nắm bắt thể tính đầy nghịch lý thực tại. Nếu trong Ấn Độ giáo thể tính đó được tránh né bằng văn chương huyền thoại thì trong Lão giáo và Phật giáo, người ta thấy nên nhấn mạnh tính nghịch lý đó thay vì che giấu nó. Tác phẩm chính của Lão tử, bộ Đạo Đức Kinh được viết với một loại văn làm người đọc hoang mang, dường như thiếu logic. Nó chứa toàn những mâu thuẫn kỳ lạ và ngôn ngữ mạnh bạo, sắc sảo và hết sức thi vị của nó buộc chặt lấy tâm hồn người đọc và ném ta ra khỏi quĩ đạo thông thường của tư duy logic.

Phật giáo Trung quốc và Nhật đã dùng cách thế này của Lão giáo, thông qua nghịch lý mà truyền đạt kinh nghiệm tâm linh. Khi thiền sư Tâm Phong Diệu Siêu gặp nhà vua Godaigo, một thiền sinh, vị thiền sư nói:

Ta đã xa nhau từ ngàn kiếp trước, nhưng chưa một phút nào rời xa nhau.
Suốt ngày nhìn thấy nhau, nhưng chúng ta chưa bao giờ gặp mặt.

Thiền tông Phật giáo là người biết cách biến những mâu thuẫn của ngôn từ thành một đức hạnh, và với hệ thống “công án”, Phật giáo đã xây dựng một con đường vô song, truyền đạt giáo pháp mà không cần chữ nghĩa. Công án là những câu chuyện, câu đố được soạn thảo kỹ lưỡng, nghe qua rất vô nghĩa, nhưng nó ghi dấu ấn vào đầu thiền sinh một cách hết sức triệt để về giới hạn của logic và lý luận logic. Cách dùng chữ vô nghĩa và nội dung mâu thuẫn của công án làm cho nó không thể giải được bằng tư duy. Chính nó muốn chấm dứt tiến trình suy luận và làm cho thiền sinh sẵn sàng cho chứng nghiệm phi suy luận, tri chứng về thực tại trực tiếp. Thiền sư Yasutani sống cùng thời với chúng ta đưa một thiền sinh phương Tây vào một công án nổi tiếng với những câu sau đây:

Một trong những công án tốt nhất là “Mu”, vì nó giản đơn nhất. Đây là câu chuyện: một vị tăng đến gặp Triệu Châu, một thiền sư nổi tiếng sống vài trăm năm trước tại Trung quốc và hỏi: “Con chó có Phật tính không?”. Triệu Châu trả lời: “Mu”. Dịch nghĩa thì Mu là “Không” nhưng câu trả lời của Triệu Châu không phải là ở chỗ đó. Mu là dạng sinh động, tạo tác, năng động của Phật tính. Điều bạn phải làm là khám phá tâm và thể tính sâu nhất của Mu, không phải bằng đầu óc suy luận mà bạn hãy chứng nghiệm cái thể sâu xa nhất của chính bạn. Sau đó bạn hãy chứng minh cho tôi xem, một cách cụ thể dễ hiểu và không dựa vào bất cứ khái niệm gì, lý thuyết gì hay giải thích trừu tượng gì rằng bạn đã nắm Mu được như một sự thật sinh động. Bạn hãy nhớ: bạn không thể nắm Mu bằng kiến thức thông thường; bạn hãy nắm bắt nó bằng toàn bộ sự hữu hiện của chính bạn. 5

Thiền sinh tập sự thường được thầy cho nghe công án Mu này hay một trong hai công án sau đây:

Bản lai diện mục của người là gì trước khi cha mẹ sinh ra?. Hay:

Với hai tay thì có tiếng vỗ tay.
Tiếng vỗ của một bàn tay là thế nào?

Tất cả những công án này có nhiều hay ít lời giải đặc biệt mà một vị thầy đích thực sẽ nhận ra ngay. Một khi lời giải đã được tìm ra, công án không còn là nghịch lý nữa và nó trở thành một phát biểu quan trọng của dạng tâm thức, dạng đã được đánh thức.

Với thế giới vi mô này, nhận thức không còn do giác quan trực tiếp mang lại nữa và do đó ngôn ngữ thông thường của ta (vốn do giác quan tạo ra hình ảnh), không còn đủ khả năng để mô tả các hiện tượng được quan sát...

Trong tông Lâm, Tế, thiền sinh phải giải một loạt công án, mỗi công án đề cập đến một mặt của thiền. Tông phái này chỉ giáo hoá bằng cách đó. Tông này không khẳng định điều gì cả mà chỉ để thiền sinh tự mình nắm bắt sự thật với những công án.

Ở đây ta thấy một sự tương đồng nổi bật với những mâu thuẫn mà nhà vật lý gặp phải trong giai đoạn đầu của nền vật lý nguyên tử. Như trong Thiền, sự thật bị che lấp trong sự nghịch lý, sự thật không do suy luận logic mà lý giải được, mà chỉ được hiểu trong khung cảnh của ý thức mới về sự thật của thế giới nguyên tử. Ở đây người thầy dậy dĩ nhiên cũng lại là Tự nhiên, mà cũng như trong thiền, người thầy đó không khẳng định điều gì cả. Tự nhiên chỉ đặt câu hỏi.

Muốn giải đáp một công án, thiền sinh phải hết sức tập trung và tinh tấn. Qua sách vở về Thiền, ta biết rằng công án chiếm hết tâm trí của thiền sinh, đưa người đó vào một ngõ cụt tư tưởng, một tình trạng căng thẳng liên tục, cả thế giới là một khối khổng lồ những câu hỏi và nghi ngờ. Các nhà sáng lập lý thuyết lượng tử đều đã trải qua tình trạng tương tự mà Heisenberg viết rõ như sau:

Tôi nhớ lại nhiều cuộc thảo luận với Bohr kéo dài suốt đêm và chấm dứt hầu như với sự tuyệt vọng. Và cứ sau mỗi cuộc thảo luận đó tôi còn đi dạo một mình trong công viên gần đấy, tôi tự nhắc lại mái câu hỏi, liệu thế giới tự nhiên có thể vô lý thế chăng như nó đã xuất hiện trong các thí nghiệm nguyên tử.

Luôn luôn, một khi thể tính của sự vật được trí suy luận phân tích thì nó hiện ra một cách vô lý hay mâu thuẫn. Điều này đã được các nhà đạo học nhận biết và đối với nhà khoa học, vấn đề này mới được biết sau này thôi. Từ bao nhiêu thế kỷ nay các nhà khoa học đi tìm Định luật căn bản của thế giới tự nhiên, trên cơ sở đó mà muôn hình hiện tượng xuất hiện. Những hiện tượng này nằm trong thế giới vĩ mô của nhà khoa học, tức là nằm trong lĩnh vực nhận biết được của giác quan. Chính vì hình ảnh và khái niệm suy luận của ngôn ngữ xuất phát từ sự trừu tượng hóa các cảm thọ giác quan đó, nên chúng đủ để mô tả các loại hiện tượng đó.

Các tra vấn về vấn đề tự tính sự vật trong vật lý cổ điển được trả lời với mô hình cơ học Newton, đó là mô hình qui mọi hiện tượng về lại với sự vận động và tương tác của các nguyên tử không phân huỷ, tương tự như mô hình Hy Lạp của Demokritus. Tính chất của thứ nguyên tử này được rút ra từ hình dung vĩ mô của trái banh bi-da, tức là từ kinh nghiệm thông thường của giác quan. Người ta không hề hỏi, liệu hình dung đó có thật đúng với thế giới của nguyên tử thật không. Thời đó người ta chưa thể nghiên cứu thực nghiệm về điều này.

Thế nhưng ở thế kỷ 20, nhà vật lý đã đủ khả năng đặt những câu hỏi thực nghiệm về bản chất cuối cùng của vật chất. Nhờ kỹ thuật tiến bộ, họ nghiên cứu ngày càng sâu vào thế giới tự nhiên, khám phá từ tầng này xuống đến tầng kia, đi tìm hạt cơ bản của vật chất. Nhờ thế mà ta khẳng định có sự hiện diện của nguyên tử cũng như những hạt cấu thành nó, hạt nhân và electron; và cuối cùng thành phần của hạt nhân, tức là những hạt proton và neutron và nhiều hạt hạ nguyên tử khác.

Những thiết bị phức tạp và tinh xảo của ngành vật lý thực nghiệm hiện đại giúp ta đi sâu vào thế giới vi mô, trong lĩnh vực của tự nhiên nằm xa thế giới vĩ mô của chúng ta, và giúp ta có thể nhận biết được bằng giác quan. Tuy nhiên điều này chỉ có thể thực hiện thông qua một loạt tiến trình, mà cuối cùng có thể nghe được bằng tiếng “cóc” của một máy đo phóng xạ hay thấy được bằng một chấm nhỏ trên tấm ảnh. Điều mà chúng ta nghe thấy không bao giờ là bản thân hiện tượng, mà chỉ là hệ quả của nó. Bản thân thế giới của nguyên tử và của các hạt hạ nguyên tử thì nằm bên kia khả năng nhận biết của chúng ta.

Như thế thì, với thiết bị hiện đại ta có thể quan sát tính chất của nguyên tử và thành phần của nó một cách gián tiếp và có thể nhận biết thế giới hạ nguyên tử tới một mức độ nhất định. Thế nhưng những kinh nghiệm này lại không phải thông thường, nếu so sánh với đời sống hàng ngày của chúng ta. Với thế giới vi mô này, nhận thức không còn do giác quan trực tiếp mang lại nữa và do đó ngôn ngữ thông thường của ta (vốn do giác quan tạo ra hình ảnh), không còn đủ khả năng để mô tả các hiện tượng được quan sát. Càng đi sâu vào thế giới tự nhiên, ta càng phải từ bỏ hình ảnh và khái niệm của ngôn ngữ thông thường.

Trên bước du hành vào thế giới cực nhỏ về mặt triết học, bước đầu là bước quan trọng nhất: bước đi vào thế giới nguyên tử. Tìm hiểu nguyên tử và nghiên cứu cơ cấu của nó, khoa học đã vượt qua biên giới của khả năng nhận thức bằng giác quan. Do vậy, khoa học không còn thấy vững tin hoàn toàn nơi logic và óc suy luận nữa. Thế giới nguyên tử hé mở cho nhà khoa học thấy chút ít tự tính của sự vật. Cũng như nhà đạo học, nhà vật lý bây giờ cũng phải đương đầu với kinh nghiệm phi giác quan về thực tại và cũng như nhà đạo học, họ cũng phải trăn trở với những tính chất nghịch lý của các kinh nghiệm này.

CÁC LOẠI VỢ


Mithra Wettimuny
Diệu Liên Lý Thu Linh





Bạo hành trong gia đình luôn đưa đến đổ vỡ. Dư luận gần đây đều bức xúc trước những thông tin về việc chồng đốt vợ, giết vợ, tạt acid vợ, vân vân. Thật khó có một giải pháp vẹn toàn cho vấn đề đó. Dưới đây là một bài viết ngắn nhằm soi một chút ánh sáng vào vấn đề này qua lăng kính Phật giáo.



Người phụ nữ có cần chịu đựng một ông chồng nát rượu và hay đánh vợ không?

(Câu hỏi này đã được gửi tới mạng Beyond The Net, là một trang điện tử của Phật giáo Nguyên Thủy ở Tích Lan, và được Giáo Sư Mithra Wettimuny trả lời. Giáo sư đã tu Thiền với ngài Thiền sư Matara Sri Nanarama theo truyền thống ẩn tu trong rừng của Thiền viện Nissarana, Tích Lan.)

Để có thể trả lời thẳng câu hỏi này, chúng ta cần xem xét nhiều khía cạnh quan trọng. Người nghiện rượu hay thường uống rượu đến say xỉn là kẻ dại khờ. Người chồng mà phải dùng đến bạo lực với vợ là người đầy sân hận và cũng là kẻ dại khờ. Người mà phạm cả hai lỗi này thì hoàn toàn là kẻ ngu.

Trong kinh Pháp Cú Đức Phật đã dạy rằng thà sống một mình còn tốt hơn là sống với kẻ ngu. Đó là vì khi bạn thường xuyên phải tiếp xúc với kẻ ngu thì điều đó sẽ làm phát khởi những tính chất bất thiện trong bạn. Do đó bạn sẽ không bao giờ phát triển theo hướng thiện lành.

Tuy nhiên, bản tính con người thường dễ nhìn người khác để phán xét hơn là soi lại bản thân mình. Cũng trong kinh Pháp Cú, Đức Phật đã thuyết, “Đừng nhìn lỗi của người, những cái tốt hay xấu của họ, mà hãy tự quan sát hành động của chính mình, xem xét những gì bạn đã làm được, và những gì còn chưa hoàn tất”.

Từ hai lời dạy này của Đức Phật, chúng ta có thể tạo nền tảng cho quyết định phải đối phó như thế nào đối với vấn đề được nêu trong câu hỏi. Do đó trước khi kết tội người chồng và đi đến một kết luận nào, trước hết người vợ hãy tự xét lại mình.

Trước tiên người vợ phải hiểu rõ ràng rằng mình là người vợ tốt hay xấu. Về phương diện này, Đức Phật đã dạy rằng có bảy loại vợ trên thời gian này. Đó là:
Loại vợ này không thương yêu chồng. Người này có thể giết chồng nếu có cơ hội. Người vợ này không lắng nghe chồng, không trung thành, không biết giữ gìn tài sản cho chồng. Một người vợ như thế được gọi là “Vợ Sát Nhân”.
Cũng có loại vợ không biết gìn giữ tài sản cho chồng, ăn cắp, phung phí của cải của chồng, không vâng lời và không trung thành với chồng. Loại vợ này được gọi là “Vợ Ăn Cắp”.
Lại có loại vợ hành xử độc đoán, tàn nhẫn, đàn áp, hống hách, cứng đầu, không trung thành, không gìn giữ tài sản của chồng. Loại vợ này được gọi là “Vợ Độc Đoán”.
Lại có người vợ chăm sóc chồng như người mẹ chăm con. Quan tâm đến tất cả mọi nhu cầu của chồng, gìn giữ tài sản của chồng, trung thành, hết lòng vì chồng. Người vợ đó được gọi là “Vợ Từ Mẫu”.
Có người vợ xem chồng như người anh lớn của mình. Kính trọng chồng, khiêm hạ, vâng lời, bảo vệ tài sản và trung thành với chồng. Loại vợ đó được gọi là “Vợ Huynh Muội”.
Có người vợ xem chồng như bạn. Đối xử với chồng như người bạn thân thiết lâu ngày mới gặp. Người vợ này khiêm hạ, dễ bảo, trung thành và biết bảo vệ tài sản của chồng. Loại vợ này được gọi “Vợ Bằng Hữu”.
Cũng có loại vợ luôn phục tùng chồng dưới bất kỳ hình thức nào, không than phiền, chịu đựng những thiếu sót của chồng, nếu có, một cách âm thầm, dễ bảo, khiêm hạ, trung thành và bảo vệ tài sản của chồng. Loại vợ này được gọi là “Vợ Tận Tụy”.

Đó là bảy loại vợ có thể tìm thấy trên thời gian. Trong số họ, ba loại vợ đầu tiên (Vợ Sát Nhân, Vợ Ăn Cắp và Vợ Độc Đoán) trong hiện tại họ sống khổ sở, lúc chết sẽ bị đọa đày [thí dụ như tái sinh vào cõi súc sanh, cõi ngạ quỷ, a-tu-la và địa ngục].

Bốn loại vợ còn lại, Từ Mẫu, Huynh Muội, Bằng Hữu và Tận tụy, thường sống hạnh phúc trong cuộc sống hiện tại, và chết được vào cõi cực lạc [thí dụ cõi chư thiên hay cõi người].

Do đó, người vợ cần phải quán xét bản thân kỹ lưỡng để xem mình thuộc loại vợ nào. Nếu người vợ thấy bản thân mình thuộc vào ba loại vợ đầu tiên, thì rõ ràng là người đó phải tự sửa mình trước khi có thể kết án chồng. Việc làm này suy cho cùng cũng là vì lợi ích của người vợ.

Nếu người vợ thuộc vào bốn loại vợ hiền, mà phải sống với người chồng say xỉn và hay đánh vợ là một trường hợp thật sự ngoại lệ, có thể bị vướng vào hoàn cảnh này là do nghiệp duyên (hành động có chủ tâm trong quá khứ).

Nếu sau khi đã là người vợ tốt như đã miêu tả ở trên, nhưng người chồng vẫn tiếp tục làm kẻ nát rượu và đánh vợ (trường hợp này rất hiếm, hoàn toàn ngoại lệ), thì người vợ phải đi đến quyết định có tiếp tục sống chung với chồng hay chia tay. Người vợ phải chắc rằng mình không sống để phải khổ sở hơn. Thí dụ trong hoàn cảnh mà những tính chất bất thiện cứ phát khởi trong tâm (thí dụ sân hận, oán thù, sợ hãi, căm ghét, v.v.). Nếu đó là kết quả của việc sống chung với nhau, thì tốt hơn là chia tay một cách êm thấm. Vì như đã nêu trên trong kinh Pháp Cú rằng, “Thà sống một mình hơn là sống với kẻ ngu, giống như con voi sống một mình trong rừng”, hay “như vị vua đã bỏ ngôi, vào sống trong rừng”. Đây là quyết định cần thiết lập để người phụ nữ có thể tự phát triển trên con đường chân chính, hầu đạt được trí tuệ, và tự giải thoát khỏi khổ đau.

Mặt khác, nếu hoàn cảnh đặc biệt này được chấp nhận bằng sự chịu đựng với lòng từ bi, thì ở một giai đoạn nào đó trong luân hồi không thể tránh khỏi, người đó chắc chắn sẽ được vào thế giới chư thiên, được hưởng hạnh phúc siêu thế, niết bàn, và sẽ đạt được trí tuệ, giải thoát khỏi tất cả mọi khổ đau, do đã thiết lập một nền tảng dựa trên sự hy sinh và chịu đựng với tâm từ bi.

Tóm lại, trong hoàn cảnh đặc biệt này, người vợ cần quán chiếu tâm mình thật cẩn thận trong một thời gian và từ đó đi đến quyết định đúng cho cuộc đời của mình.

Diệu Liên Lý Thu Linh(Chuyển Ngữ theo Beyond The Net).

Thứ Tư, 30 tháng 4, 2014

Học để biết hay học để không biết?



Học để biết.
Biết bao nhiêu là đủ?
Học để hỏi
Hỏi là không biết!

Càng học nhiều càng thấy mình dốt
Dốt không phải là ngu.





Sử dụng tục ngôn trong văn học?



Con cặc là một phận sinh dục đàn ông
Cái lồn là bộ phận sinh dục đàn bà
Vú là nhũ hoa
Có chi là đẹp xấu?

Gặp phải bất công tôi nổi nóng chửi thề
Em bảo tôi là " Vô văn hóa"
Bạn tôi bảo cứ chửi đi cho nhẹ lòng!



Sử dụng tục ngôn trong văn học?

Gần đây, một số tác phẩm văn học, kể cả sách dịch và sách trong nước đã gây ra các cuộc tranh luận từ các nhà văn, nhà phê bình và bạn đọc. Nên hay không nên sử dụng những từ quá phô, quá tục? Ví như tập truyện ngắn Những thứ họ mang của Tim O’brien, dịch giả Trần Tiễn Cao Đăng. Dịch giả Dương Tường nói về việc nên để nguyên từ hay viết tắt những từ tục trong cuốn sách đó như thế này: Viết tắt những từ nhạy cảm? Tôi nghĩ cũng chả cần, một khi trên thực tế đó đúng là cách văng tục của đám lính, trong văn cảnh cụ thể và chấp nhận được của nó, như chính tác giả của nó đã mô tả trung thực. Cũng không nên hiểu đường đi của cái đẹp (cũng như cái xấu) trong văn học một cách đơn giản thế. Có cái đẹp mượt mà, óng ả thì cũng có cái đẹp dữ dằn, gồ ghề, miễn sao không khiên cưỡng, gượng ép. Theo tôi, nếu không thực sự nhất thiết thì tốt nhất hãy để người dịch chọn đi đường thẳng hơn là đường vòng. Và Trần Tiễn Cao Đăng - theo tôi - là một dịch giả nghiêm túc, đáng tin cậy!

Còn nhà văn Chu Lai thì nói: quan điểm của tôi khi cầm bút là bất cứ từ ngữ thô ráp nào (không loại trừ những “khẩu ngữ tính dục”) nếu được đặt đúng văn cảnh và phù hợp với logic tâm lý của nhân vật thì đều rất đắt. Tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng của tôi vì thế cũng không ngại ngần né tránh những từ kiểu đó. Có lần tôi còn được xem nhân vật của NSND Hoàng Dũng (Nhà hát Kịch Hà Nội) văng tục ngay trên sân khấu mà vẫn không hề thấy phản cảm. Vấn đề là anh ta có một hoàn cảnh thích hợp, một cơn cớ đầy tràn để có thể “trớ” ra. Bằng không thì tốt nhất là nên “chùi” đi để giữ lại sự sang trọng của văn hóa đọc!

Đó là sự nhìn nhận của những người làm nghề viết. Họ dễ thông cảm hơn. Chưa kể những cuốn sách được cho là có vấn đề sẽ tìm được sự chú ý của độc giả nhanh hơn chính giá trị văn chương của nó. Còn với phần đông bạn đọc vẫn là sự phản ứng vì cho rằng văn hóa Việt không dễ dàng chấp nhận những trang viết quá phô, quá tục dù bên cạnh là những trang viết rất văn, rất đời.

Tôi đưa ra câu hỏi về khía cạnh có vẻ tế nhị này với một số nhà văn, nhà thơ. Đa phần từ chối. Có người bận. Có người ngại. Có nhà văn nói thẳng, vấn đề này khó trả lời lắm. Nói cho hết ý lại đụng chạm nhà văn nọ, nhà thơ kia. Thôi né cho lành! Nhưng cũng có nhà văn chẳng ngại. Họ thấy thú vị. Và họ trả lời:

- Anh nghĩ sao về vấn đề sử dụng tục ngôn trong các tác phẩm văn học? (không phải theo gương Hồ Xuân Hương mà là theo lối đường phố, tục tĩu)?

Nhà văn Nguyễn Quang Vinh: Tôi không quan tâm ngôn ngữ nhà văn lựa chọn là tục hay thanh. Cái quan trọng bậc nhất là đặt đúng ngữ cảnh, đặt đúng nơi, đúng nhân vật thì tục vẫn rất hay. Tôi cũng đã sử dụng một số từ tục, thậm chí không thèm viết tắt, nhưng đọc không thấy tục mà thấy sinh động, thấy đúng. Vấn đề là không được lạm dụng.Vấn đề nữa, nhà văn còn có trách nhiệm tạo thêm thứ ngôn ngữ mới bổ sung vào kho tàng ngôn ngữ cuộc sống, nhưng chính cuộc sống cũng mang tới cho nhà văn phong phú ngôn ngữ đời thường. Cái giỏi của nhà văn là dùng như thế nào, vào lúc nào và cương quyết không lạm dụng.

Nhà văn Nguyễn Toàn Thắng: Theo tôi, việc dùng ngôn ngữ đường phố, ngôn ngữ bình dân trong văn học giờ đang là một xu hướng có thật. Đâu đó độc giả đã thấy những tác phẩm mà lời văn cứ như lời nói suồng sã với nhau, bắt đầu có những câu chửi tục trong văn và nhất là trong thơ. Thời nay, nhờ công nghệ internet, thơ văn không khó đến với người đọc và người ta bắt đầu viết như người ta nói.

- Theo anh, nó hay - dở ở đâu?

Nhà văn Nguyễn Quang Vinh: Tác phẩm là chữ, chữ là cốt cách của nhà văn, không thể sử dụng ngôn ngữ một cách tùy hứng, tự nhiên chủ nghĩa, đặc biệt là những ngôn ngữ mang tính khu biệt (phương ngữ) hoặc từ “tục”. Nếu thích dùng là dùng thì e không xứng với danh xưng nhà văn chuyên nghiêp. Hay dở là do cái tài của nhà văn.



Nhà văn Nguyễn Quang Vinh.


Nhà văn Nguyễn Toàn Thắng: Việc dùng ngôn ngữ bình dân, đường phố có cái hay, bởi nó gần gũi với người đọc, giúp họ cảm nhận được hơi thở cuộc sống. Tuy nhiên, văn có nghĩa là đẹp, cho nên ngôn ngữ đường phố, theo tôi, nó chỉ nên dừng lại như một thứ gia vị. Dùng vừa đủ thì tuyệt, còn một khi lạm dụng, nó sẽ khiến bữa tiệc văn chương trở nên cay nồng hoặc chua loét.

- Vì sao họ lại thích dùng ngôn ngữ như vậy trong các tác phẩm của mình? Vì mục đích gì hay đơn giản chỉ là sở thích?

Nhà văn Nguyễn Quang Vinh: Văn chương, nói cho cùng là hướng tới người đọc về cái đẹp. Ngay cả khi buộc phải sử dụng ngôn ngữ tục thì mục đích tối cao vẫn phải mang tới người đọc thông điệp về cái đẹp, không làm được thế đồng nghĩa với thất bại.

Nhà văn Nguyễn Toàn Thắng: Các nhà văn thế hệ mới thường hay dùng, một mặt là để tác phẩm của mình mang được hơi thở của cuộc sống ngày hôm nay, mặt khác là để văn của mình có phong cách khác lạ. Khi thiếu vốn sống, chưa đủ sức để tạo nên một ngôn ngữ mới, họ cứ thấy từ nào hay, từ nào lạ ở ngoài đường là bê nguyên vào, không gọt giũa, không đặt vào ngữ cảnh phù hợp, đâm ra nhiều khi gây phản cảm.

Thực ra, ngôn ngữ đường phố, ngôn ngữ bình dân rất hợp với thể loại trào phúng, châm biếm, bởi nó tạo được không khí, nó gần gũi với người đọc. Vũ Trọng Phụng là nhà văn đã sử dụng rất thành công ngôn ngữ này. Xã hội ngày nay, văn chương ngày nay cần những Vũ Trọng Phụng như thế, bởi quanh ta, chẳng thiếu gì chuyện cười ra nước mắt. Tôi cũng hay dùng ngôn ngữ đó để tạo màu sắc cho truyện ngắn của mình, chẳng hạn trong những truyện như Diva xóm phố, Người da gấu năm 20xx, Khẩu chiến, Bé Tơn vào lớp 1... vì tôi thích viết theo lối châm biếm nên dùng ngôn ngữ đường phố, ngôn ngữ bình dân cho tác phẩm của mình dễ đọc, dễ được tiếp nhận.

Đừng nghĩ rằng ngôn ngữ đường phố là hạ cấp bởi nó vẫn được nuôi dưỡng bởi văn hóa dân gian. Chẳng hạn cách nói vần bây giờ mà người ta đã tập hợp thành truyện tranh thì cũng chỉ là kế thừa cách nói vần của các cụ. Hay nói lái chẳng hạn, bao năm nay vẫn vậy. Hay những câu vè hiện đại đầy vần điệu. Cũng đều do những người trí thức nghĩ ra trong lúc nhàn tản, trà dư tửu hậu mà thôi.

Vấn đề ngôn ngữ đường phố chẳng có gì đáng ngại và đáng lo. Tôi chỉ sợ những tư duy đường phố, tư duy vỉa hè. Còn bản thân từ ngữ, chúng sang trọng hay không, đẹp hay không là do cách dùng của người viết.



Nhà văn Nguyễn Toàn Thắng.


- Anh có thấy tác phẩm nào tuy viết ngôn ngữ đường phố nhưng lại hay và hợp lý không?

Nhà văn Nguyễn Quang Vinh: Rất khó để nêu tên tác phẩm nào viết ngôn ngữ đường phố, không có, chính xác là chỉ có một số tác phẩm dùng ngôn ngữ đường phố ở những mức độ và tình huống nào đó. Không sao. Nhà văn có quyền dùng. Như đã nói ở trên, không vì sử dụng ngôn ngữ đường phố làm tầm thường hóa tác phẩm hoặc làm cho tác phẩm “bẩn chữ”. Chắc chắn những nhà văn chuyên nghiệp không dại tới mức lạm dụng thứ ngôn ngữ này. Họ biết tiết chế, họ biết sử dụng, họ biết cách viết tục thành thanh.

Nhà văn Nguyễn Toàn Thắng: Vì lý do công việc (tôi phụ trách website của Tạp chí Nhà văn) nên tôi hay phải đọc các tác phẩm văn học mới nhất, tuy nhiên, tôi cảm giác rằng các nhà văn chưa làm chủ được ngôn ngữ đường phố, đưa vào tác phẩm của mình chưa hấp dẫn và thuyết phục lắm. Chắc phải một thời gian nữa, khi có độ lùi cần thiết, ngôn ngữ đó mới được đưa vào nhuần nhuyễn hơn.

- Cảm ơn các nhà văn!

Tuyết Lan (thực hiện)