Thứ Ba, 25 tháng 3, 2014

Tiếng Khóc Của Trăm Năm



Tác giả : Võ Diệu Thanh



Gần mười cây vàng cho nó. Không phải là quá sức nhưng ông không thể có ngay khoản tiền này. Ráng vài tháng nữa. Ông chắc chắn tới chừng đó, có hai mươi cây vàng ông cũng không thể mua được nó. Phong trào chơi kim quýt đang rầm rộ. Người ta có thể đẩy giá một cây đôi mươi tuổi lên hàng cây vàng thì một cây gần trăm tuổi như nó hỏi thử làm sao họ chịu để yên. Với ông, nó không tính được bằng tiền.

Nó là duyên nợ của ông. Một lần chiêm bao, thấy đi vào một vách núi dựng đứng. Có một thân cây trân mình bên vách núi giữa cuồng phong, với cái dáng nghiêng nghiêng nhẫn nhịn. Cây nói trong gió. “Tôi chờ ông”. Lúc nhìn thấy cây kim quýt, ông chới với. Chỉ cần ông cắt bỏ đi hết mấy cái chi vướng víu rườm rà kia, hạ nó ở mức thấp nhất. Chỉ còn lại mỗi cái trăm năm gan góc và chờ đợi một đợt đâm chồi mới. Nó sẽ hiện ra như mơ.

Hiện tại, nó đủ đẹp để có thể bắt mắt bất cứ nghệ nhân nào. Thế dáng nó quá bình dị, không bài bản cũ kỹ cũng chẳng mới mẻ dị thường. Nó có một cốt cách phong trần gan góc. Như một mỹ nhân không son phấn lụa là và nàng cũng không hay mình đẹp. Nàng coi những ánh mắt thèm thuồng như những chiếc lá rơi bên đường trong phút chuyển mùa. Người chủ cũ là một lão già mê vợ nhưng ưa nổi khùng. Lão không có kiến thức gì về kiểng. Lão lo làm kiếm tiền nuôi vợ nên thường quên nó. Chỉ thỉnh thoảng nhìn đất khô lại tưới cho mớ nước. Mỗi lần giận vợ, lão cắt nó trụi lủi. Khi thấy nó trọc lóc lão lại thương, ngồi xuống trò chuyện xin lỗi nó. Cứ như vậy từ khi lão trẻ khô cho tới lúc lão run tay. Một lần vợ gom vàng bỏ lão đi theo một thằng non choẹt. Lão cầm dao chém loạn. Thấy nó, lão phạt từng nhát điên dại. Lá rơi, nhánh rơi. Lão xô nó ngã một bên rồi bỏ nó đi biệt. Bộ rễ bày ra, phơi nắng, phơi mưa rồi phơi nắng...

Khi khuây khỏa, lão trở về. Nó đã còi cọc. Thương nó quá, lão lại hốt rải lên rễ nó mớ đất. Thay vì dựng nó lên, lão để y như vậy. Nó lại sống và thành có dáng nghiêng như ngày nay.

Ông thương nó có lẽ do nó mang đủ thời gian và chất nặng bi kịch. Có phải trong từng thớ da u nần, sù sì kia là tất cả dồn nén đớn đau của hai tâm hồn. Một người, một cây.

Ông cảm ơn lão ta đã cho nó đau khổ. Và ông căm thù lão. Biết bao người vì dốt nát đã tàn sát cho bằng hết những lão kiểng hiếm hoi. Vốn dĩ chúng lặng lẽ trường tồn ở một góc núi, vạt rừng hay một cánh đồng hoang vắng. Mưa dầm nắng dãi, chúng vẫn sống. Khi người nghệ nhân phát hiện mướn thợ cắt trụi rễ, đốn sạch lá, đem đi xa hằng mấy ngày đường, chúng vẫn không hề hấn. Khi chúng rơi vào một bàn tay bảnh tỏn thì chuyện gì xảy ra. Họ không dám động nó một nhát dao. Rảnh rỗi bước ra xịt tí nước, rờ rẫm, mân mê với tất cả đam mê. Vậy mà nó chết. Nó là cây, nó cần tĩnh. Sao mà cứ phiền hà nó hoài không biết.
Ông nóng ruột quá. Ông quyết định vào buồng với con dao. Tiền trong nhà là của chung nhưng vợ ông người cầm chìa khóa. Không khi nào bà đồng ý bỏ ra bảy tám cây vàng chỉ vì cây kim quýt. Đây là con đường cùng. Ông hì hụi cạy. Ông không hề nghĩ trong cuộc đời mình lại có lúc biến thành người cạy tủ. Ông lại không thấy có gì là tội lỗi trong hành động này. Vì nó, cây kim quýt trăm năm, hơn tất cả mọi tội lỗi hay đạo đức cộng lại.

Ông không nhớ mình đã ôm mớ vàng đi như thế nào. Chỉ nhớ lúc xe chở về va phải một trụ nước ngoài lề đường. Cây kim quýt lắc lư như một cọng cỏ trong nước. Ông không nhìn tới mặt tài xế. Khi hạ nó xuống đất chỗ sân, thằng làm vườn phụ khiêng lại vuột tay. Ông méo mặt biểu thằng đó đi chỗ khác. Nhưng rồi mọi chuyện cũng êm xuôi. Gốc kiểng tề tĩnh ở giữa sân với tất cả hồn cốt của nó. Ông cắn môi để chứng thực, đây là sự thật. Ông đưa tay sờ lên cái dáng nghiêng hiền lành nhẫn nhục.
- Á!

Tiếng vợ la thất thanh. Ông chạy riết lên lầu đụng vợ ngay cầu thang. Vợ hớt hải.
- Trộm… trộm… trộm. Công an, báo công an ông ơi.
- Trộm đâu, nó đâu.
- Nó cạy cửa tủ ăn cắp vàng tôi. Chết tôi rồi. Bắt nó. Kêu công an.
- Không kêu công an được. Không có ăn trộm đâu.
- Ông đừng có khùng nữa, đi báo công an nhanh lên?

Vợ hét vô mặt ông, rồi nhào ra đường. Ông ôm bà đẩy vô nhà. Bà cứ quýnh quáng nhào ra. Ông cà lăm.
- Tui… tui… tui…
- Ông làm sao?
- Tui cạy tủ…

Bà nhìn ông một chút rồi chạy loạn trong vườn kiểng. Bà chửi, bà nhổ, bà đá từng cây kim quýt con. Ông chạy riết đến cây kim quýt mới mua, dang tay che cho nó. Bà vẫn chửi rủa bứt phá, đạp lật ngang mấy chậu kiểng. Ông đứng nhìn chúng nằm la liệt trên đất mà rối lòng. Chúng không phải là rác. Ông đã bỏ nhiều tiền để mua từng cây. Loại kiểng cao cấp của dân chơi. Giờ ông không nghĩ ngợi nhiều tới tụi nó, trừ khi bà tấn công cái cây phía sau ông.

Rồi bà cũng mệt.
Bà ngồi im nhìn ra sân với đôi mắt bất lực. Những vết máu in theo từng bước chân của bà. Nhìn lại mới hay móng chân cái bị gãy sâu vào thịt, đang rịn máu. Ông thấy máu, bỏ cây kim quýt chạy riết vào nhà lấy chai dầu nước xanh và một nhúm bông gòn. Bà hất tay. Ông lấm lét ngồi xuống lau máu, xức dầu rồi băng bó cho bà.

Ngày hôm sau bà nguội lại. Nhìn cái móng chân lại nhớ tới cái mặt lấm lét của chồng. Bà chợt nhận ra bữa cơm chiều qua, bữa cơm sáng nay ông không cùng ăn với bà. Bà đi kiếm khắp các phòng... Thấy những khoảng trống lòng bà chùng xuống. Sao mình dữ quá. Tiền bạc là vợ chồng cùng làm. Ông cũng vất vả nhiều rồi. Phải đâu ông đem tiền nuôi vợ bé. Bà cũng biết trừ người thân ông mê nhất chỉ có những cây kim quýt. Bà nghĩ tới cái sân ngổn ngang cây kiểng.

Vừa phụp tới sân bà đứng chết trân. Ông đang cầm cây kéo sửa kiểng trong tay. Đầu nghiêng nghiêng nhìn theo từng cái nhánh được cắt ngọt thả xuống đất. Mắt dán vào cái dáng sần sùi lượn lờ, mặt mê mẩn ngất ngây. Bất giác ông đưa tay vuốt ve nó, bất giác cất tiếng hát một bài quen thuộc. Giọng hát ông ngọt ngào truyền cảm. Hát bằng ruột gan và tâm hồn.
Bà bước tới vắt hai tay lên hông nói với tất cả bực tức.
- Trời ơi, có khác mê vợ bé miếng nào đâu. Đúng là… khùng tiểu thơ.

Rồi bà quay mặt, đùng đùng bước đi.
Ông không ngồi nhìn giấc mơ của mình. Ông không nhớ mình đã bỏ bao nhiêu thời gian với giấc mơ. Ông chỉ nhớ mình đã xô cho nó nghiêng thêm chút nữa. Gì mà hạc lập hay phụng vũ. Tầm thường. Ông phải cho đại bàng vượt bão. Đại bàng gặp nạn đang tung cánh vẫy vùng. Chỉ cần bàn tay ông đi qua mớ cành nhánh. Những cái tượt mới. Một đôi cánh với tất cả sức mạnh của nghị lực sẽ được tung vút lên trời cao. Đôi cánh tung tẩy giữa lồng lộng đất trời. Chỉ cần nhìn thấy nó một lần, nó sẽ hiện trong trí nhớ rành rạnh, hùng hồn. Cái hồn của kiểng là chỗ đó. Sức ám ảnh như một tiếng nói tri âm.

Cây kim quýt nằm gọn trong dòng ý nghĩ và vận hành vùn vụt. Như một loại chất dẻo cực lỏng. Khi tan chảy tuôn tràn, khi hốt gọn trong lòng bàn tay. Có thể rót từ chai ra ly, từ ly ngược lại chai, thậm chí có thể đổ vào miệng rồi nuốt trôi xuống bụng. Đang ngủ, ông chợt bừng tỉnh mỉm cười một mình khi nhớ về nó. Đang ngồi ăn cơm, nhìn thấy bộ xương cá trơ trong mâm ông chợt ngẩn người lên mở trừng mắt nhìn ra sân. Ông bỏ chén cơm chạy riết ra với nó.

Cho tới khi trời chập choạng tối ông mới lọ mọ về phòng. Bước chân vấp phải một vật mềm mềm. Nhìn lại là cái mùng. Vợ chỉ vào nó nói mạnh.
- Đi ra ngoài sân ngủ với cây kim quýt luôn đi!

Ông sà vào năn nỉ vợ mà bụng thấy nhẹ nhàng thanh thản. Ông ôm vợ nhưng trong đầu là dáng dấp cây kim quýt. Nó đã được định đúng dáng ông mong đợi. Chỉ còn chờ thời gian.

Cho tới lúc ông cảm thấy đuối. Ông cảm thấy sự chờ đợi của mình đã cạn kiệt. Ông nhìn kỹ lại. Những vết thẹo trên thân cho biết là ông đã cần mẫn như thế nào. Ông biết là suốt một quãng dài nó đã chịu đựng ông trong mỏi mòn, kinh hãi. Nó đã vừa rên siết, vừa buông thõng tay thả từng chiếc lá nhỏ gọn thanh tao. Nó cất tiếng kêu thảng thốt trong tuyệt vọng?

Giấc mơ trăm năm đã tan vào hư không. Dù có lúc người ta đốn nó trụi trơ, xô bật rễ trong mưa, phơi lụi tàn trong nắng, nó vẫn cố dành dụm từng giọt nhựa hiếm hoi để sinh tồn, để đến với ông. Vậy mà… Ông nhìn đôi tay dày dặn kinh nghiệm của mình rồi gục đầu bên xác cây. Ông đã giết nó bằng quá nhiều yêu thương.

Mượn.



Tác giả : Hà Quang Minh




Cho anh mượn em dòng sông quên
Anh thắt bím, gửi đêm về cho biển
Sông bỏ lại năm ngón, cành khô, nghẹn
Vòng tay gom biển lại thấm vào tim

Cho anh mượn em đôi cánh đồi nghiêng
Anh đắp lại, thành núi xanh, xuân trước
Trên ngọn đồi, ngủ quên đài hoa vụng
Hoa về nằm bên núi, cánh xôn xao

Cho anh mượn em một bình nguyên im
Anh khơi lại mạch ngầm dòng suối ngọt
Và cỏ mềm, và hoạ mi lại lảnh lót
Và môi người lại đón một môi sương

Thứ Hai, 24 tháng 3, 2014

Thế nào là Tự do- Dân chủ?



(a) Quyền lợi công dân & nghĩa vụ đối với quốc gia là hai thành tố của một quyền duy nhất vì không thể dựa vào những “quyền” được ghi trong Hiến Pháp hay quy định bởi pháp luật mà người dân có “quyền” thực hiện “quyền” ấy khi bất chấp nghĩa vụ phải góp phần ổn định tình hình chung của quốc gia;

(b) Ý kiến cá nhân được lắng nghe & ý kiến thiểu số chỉ có giá trị tham khảo – nếu thực sự có giá trị, vì nếu không, sẽ chỉ có bất ổn và bạo loạn;

(c) Ý kiến cá nhân, ý kiến thiểu số, kể cả ý kiến đa số cũng không được đặt trên sự an nguy và sinh tồn của quốc gia-dân tộc, nghĩa là ngay cả trường hợp các bô lão toàn quốc tại Hội Nghị Diên Hồng không ủng hộ “chiến” thì vương triều phong kiến độc tài Nhà Trần vẫn phải tự quyết vì vận mệnh cả quốc gia không bao giờ nằm trong duy chỉ các “ý kiến” của người dân;

(d) Ý kiến liên quan đến sự an nguy và sinh tồn của quốc gia đều nhất thiết phải do những công dân đoan chính và liêm chính có học thức và được đa số dân chúng biết đến và kính trọng đề đạt theo đúng khuôn khổ luật định hay mặc định xã hội và bằng các phương tiện văn minh như truyền thông đại chúng, vì rằng không thể phủ nhận có những nhóm người nhận tiền để rước voi về giày mả tổ, gây rối – bằng biểu tình ôn hòa hay bằng bạo loạn – phục vụ ý đồ của hoặc ngoại bang hoặc một cá nhân hay một nhóm cá nhân; và

(e) Quốc gia là một thực thể tồn tại song hành cùng các thực thể quốc gia khác,nên bất kỳ những hành vi tương tự như việc dân Thái theo PAD triển khai Chiến Dịch Hiroshima chiếm đóng phong tỏa sân bay Suvamabhumi ngày 25/11/2008, gây họa cho bao du khách nước ngoài, là việc không thể chấp nhận được, tỷ như văn hóa văn minh không cho phép một gia đình gấu ó nhau được làm phiền hàng xóm chung quanh, thậm chí bằng quát tháo to tiếng hay ngăn chặn lối đi trong ngõ ngách.

Tự do-dân chủ, do đó, là quyền lợi và môi trường văn minh mà những công dân văn minh có văn hóa cao tại một quốc gia văn minh có văn hóa cao và có quyền lực trấn áp bảo vệ tính văn minh văn hóa cao của nước nhà được hưởng trong những hoàn cảnh thuận lợi của quốc gia.

Không có sự suy nghĩ thấu đáo về tự do-dân chủ, không có cái chánh tâm về tự do-dân chủ, không có cái chánh đạo về tự do-dân chủ, thì những cái loa kêu gào về tự do-dân chủ chỉ thuần xách động bạo loạn với tà tâm và tà đạo.

Quyền lợi và hy sinh quyền lợi là hai mặt của chỉ một vấn đề duy nhất: tư cách công dân thực thụ của bất kỳ quốc gia nào tự xưng có tổ tiên cao đẹp và lịch sử hào hùng. Nếu không có bao vạn người con trai duy nhất của bao vạn giòng họ Việt Nam hy sinh quyền lợi được miễn nghĩa vụ quân sự thì đất nước này có tồn tại được trước sự xâm lược của Trung Quốc trên toàn tuyến biên giới phía Bắc và tay sai của chúng là Khmer Đỏ trên toàn tuyến biên giới Tây Nam để ngày nay Việt Nam có cảnh thanh bình, phát triển kinh tế đẹp giàu, để những người còn sống và con cháu của họ ngày đêm tìm hiểu về quyền lợi công dân?

Đó là suy nghĩ của tôi, một công dân bình thường, không đảng tịch, của Việt Nam

Hoàng Hữa Phước

Mắc nợ phù sa



Người già quanh tôi luôn hoài niệm về những cánh đồng
Dẫu hạt lúa trả công họ bằng đời người nước mắt
Lũ quét qua đêm sáng ngày tay trắng
Buổi gió sương ghìm nén niềm vui.


Cha tôi
Trùi trũi ngực trần
Manh áo mỏng bốn mùa không kết nút
Từng giọt thời gian…
Bao giọt thời gian rắc mùa lên tóc?
Luống cày đi lấp bóng bàn chân
Những mặc cảm chữ nghĩa neo vào giấc mơ con trẻ.

Tôi cúi xuống
Nơi gót chân tím bầm rịn rơi dáng mẹ
Râm ran nhịp trầm trứng nước Âu Cơ
Tôi bắt gặp
Những người đàn bà quẩn quanh
Nhìn ngóng sao trời đếm đong lụt hạn
Thuyền duyên neo không kịp chọn bến đời.

Đã bao lần
Tôi quỳ trước bãi mộ hoang phủ dày đặc cỏ
Trước những tiền nhân khai sáng đất đai gieo trồng giống má
Trước những phận người chưa lần hưởng trái sinh thành
Đã lấp vùi thân thể mình vào cát.

Cánh cò chở ước mơ chưa rạng
Bão đời làm chống chếnh câu thơ
Đêm đỏ mắt phù sa nhót mình mắc nợ…

Nguyễn Đức Phú Thọ

Cách sống Việt ở Đức


Truyện ngắn của  Hùng Lý 



LỐI SỐNG

1. CHỦ ĐẤT.

Nhìn bề ngoài anh không khác gì người nông dân chân lấm, tay bùn. Cái gì ở anh cũng mang hơi hướng của đất. Từ cái quần bò sờn, áo khoác nhà binh dày cộp của Mỹ, đôi giày quá khổ, đến da dẻ, khuôn mặt. Tất cả đều nhầu nhĩ dấu ấn thời gian và mang một màu nâu của đất. Nhưng thật sự anh là chủ đất. Gọi thế không ngoa, vì ngay ở vùng giáp ranh giữa đông và tây Đức này anh ta sở hữu hàng chục ngàn m2 đất đai, nhà cửa, trường học, chưa kể hàng chục km2 rừng. Riêng toà nhà anh ta đang ở, có mặt tiền dài cả trăm mét. Dưới là hệ thống nhà hàng. Trên là hệ thống nhà ở. Đằng sau là xưởng, vườn trồng rau, ao thả cá, trại nuôi gà... bát ngát, mênh mông. Nghe nói dinh thự này vốn của dòng họ thợ rèn lâu đời nhất vùng. Khi anh mua, nó gần như hoang phế. Anh đã gây dựng lại nó theo cách riêng của mình. Cách của con chim xây tổ. Tức cứ đi nhặt nhạnh, gom góp từng viên gạch, mẩu sắt, thứ mà người ta vứt đi. Kiên trì, nhẫn nại biến đống hoang tàn trở về thành quách nguy nga cổ xưa. Thấy tôi nghi ngờ, anh xòe bàn tay. Quả không thể tin nổi đó là bàn tay của một Việt kiều, của một ông chủ đất. Nó khô cằn và u từng cục những chai sần.

Tới bữa, anh đãi khách một mâm thịnh soạn. Nào là cá được dân câu địa phương cho, để trong tủ đá cả năm nấu với dưa tự muối, một đĩa bò xào với vài cọng cần hái trong vườn nhà, đĩa đậu phụ rán lướt, lá cải già luộc chấm xì dầu.
Trịnh trọng bê bình rượu từ trên tủ cao đặt vào giữa bàn, anh khoe đây là thứ rượu vang quý của người em rể tự nấu đem cho. Cả buổi anh nâng niu chai rượu và dè sẻn rót vào cốc nào đã thực sự uống hết. Không nài ép.

Do mải chuyện trò, tôi vô ý để rơi mẩu ớt cắn dở xuống đất. Tôi nhặt lên để cạnh bàn. Cuối buổi tôi cầm mẩu ớt định vứt đi, anh nhẹ nhàng ngăn lại, rồi trân trọng cầm mẩu ớt màu đỏ tía cho vào bát nước mắm ăn dở, bọc biệc cẩn thận, cất vào tủ lạnh.


2. ĐẠI GIA.

Dù được mời, nhưng khi tôi đến vẫn phải chờ mươi phút, đại gia mới tất tả từ văn phòng về nhà. Tôi quen đại gia này cả chục năm nhưng hôm rồi mới có dịp mục sở thị dinh cơ hoành tráng mà đại gia và gia đình đang sở hữu. Toạ lạc ngay trên ngã tư một con phố đẹp giữa Thủ đô Berlin, ngôi biệt thự nổi bật hơn hẳn những ngôi biệt thự khác trong con phố chỉ toàn biệt thự dành cho người giàu, cả về tầm vóc lẫn kiểu cách kiến trúc.

Bước vào sau cánh cửa sắt tự động là một khuôn viên rộng cả ngàn mét với cây cối, vườn tược, non bộ, ao thả cá, chiếc cầu gỗ mảnh mai được chạm khắc cầu kỳ bắc qua đôi bờ hồ liễu rũ. Dưới mặt nước đã gần đóng băng, hàng chục con cá với đủ màu sắc vẫn tung tăng uốn lượn. Nghe nói mỗi con cá đó có giá cả ngàn Euro vì sống được dưới mọi thời tiết. Ngay cổng ra vào là Gara ô tô đang nhốt hai con xe Mẹc đời mới, ngoài con xe Poche cả trăm ngàn mà đại gia đang ngự. Bước vào nhà tôi choáng ngợp bởi sự sang trọng tới từng chi tiết của đồ đạc, tranh ảnh lẫn hoa lá, tiện nghi của từng phòng.

Vẳng ra từ phòng khách tiếng Piano thánh thót, du dương. Bên đàn là thiếu gia thứ hai nhà đại gia đang lướt phím. Mới 15 tuổi thiếu gia đã sở hữu chiều cao 1,80m, gương mặt điển trai, thông minh với đôi mắt đen giống tạc bố lấp lánh sau gọng kính trắng.

Sau màn giới thiệu gia sản, con cái đại gia vồn vã mời khách vào bàn. Cầm mấy ly uống rượu láng cóng đặt trên mặt bàn phủ khăn trắng muốt, đại gia nâng niu cầm chai rượu vang rót cẩn trọng vào từng ly thứ rượu màu đỏ sậm. Tôi nhìn chai rượu mà giật mình. Thứ rượu đó thường thấy trong góc nhà của bất cứ người Việt bình dân nào. Mà cũng chỉ còn lưng chai. Sau màn mời rượu đại gia móc thuốc ra hút. Không phải là loại xì gà giá cả trăm Đô một điếu như các đại gia ở nhà ta thường dùng mà là loại thuốc bất cứ anh cửu vạn nào cũng có trong nhà cả tút. Loay hoay mãi đại gia mới lôi từ trong túi một vỏ bao thuốc bẹp dúm bẹp dó chẳng còn lấy một điếu. Lục quanh các ngăn tủ cũng chẳng còn một bao dở. Rồi kêu đói, đại gia vơ vội mấy mẩu bánh con ăn thừa, ngồi nhai tem tém. Chưa đã cơn, đại gia lấy gói mỳ tôm, đổ nước sôi và xì xụp chén hồn nhiên trước mặt khách như đang chén một món đặc sản đầy khoái khẩu.

Khuya, lúc tôi về, thấy đại gia lại tay xách nách mang máy tính, cặp da. Hóa ra về tiếp khách xong, đại gia lại tất tả trở lại văn phòng với công việc.


3. THỢ THUYỀN.

Tôi có thằng đàn em thân thiết như anh em ruột thịt. Chồng làm bếp, vợ làm bồi. Cũng có hai đứa con gái xinh xắn. Tính tình hắn cương trực, nóng nảy. Được cái yêu con và thịnh tình với bạn bè. Năm nào nghỉ hè, nghỉ đông cũng đưa vợ con đi du lịch bất cứ nơi nào trên Thế giới, miễn là con thích. Vào căn hộ tuềnh toàng hắn ở thuê, góc nào cũng lủng củng rượu ngoại, rượu thuốc. Toàn thứ quý hiếm, đắt tiền. Hắn thì không hề uống dù một giọt rượu, chỉ bia. Trong tủ lạnh đầy đồ ăn châu Á. Toàn thứ hắn thích và người xa xứ nào cũng thèm: từ rau muống, rau đay, mướp hương tới cà tím, tía tô, kinh giới… đủ cả, còn hơn ở Việt Nam. Mỗi lần hắn đãi khách, chỉ một tấm ny lon trải trên nền nhà nhưng bày lên đó nào là những con tôm hùm to như cái thuyền, những con cua biển to như cái chậu lại còn bạch tuộc, ốc hấp, hào sống, xôi gà... thôi thì ê hề. Chưa kể rượu mạnh, rượu vang, bia rót cứ tràn cung mây. Ly này chưa vơi đã rót thêm ly khác. Đến nhà hắn trăm lần giống thế, mỗi khi đứng dậy "bàn" tiệc chưa vơi quá nửa và cốc nào cốc nấy vẫn lưng lửng rượu, bia uống thừa.

Hôm rồi nhờ hắn chở vào chợ Đồng Xuân mua tý đồ, cánh cửa chiếc xe Mẹc thể thao đời cũ mèm của hắn bấm mãi chẳng chịu mở. Tôi hỏi:

-"Hỏng sao không sửa?". Hắn cười ngoác:
-"Kệ mẹ nó. Miễn đi là được".

Chỉ chạy được vài ba cây xe chết máy. Hoá ra hết xăng. Hai anh em hì hục đẩy. Giữa trời đông tuyết giá mà mồ hôi vã ra như tắm. Tôi bực mình bảo nó:

-"Sao hết xăng mà không bơm?". Nó hồn nhiên:
-"Biết chết liền".
-"Sao không biết?" Tôi sẵng giọng.
-"Kim xăng chết từ lâu rồi"
-"Chết sao không chữa? Đáng bao nhiêu tiền đâu". Nó cười ỏn ẻn:
-"Đời ta muôn vàn đời nó. Quan trọng gì".

Bơm xăng xong, nhấn cái, máy nổ. Nó lại ngoác cười. Nụ cười hồn nhiên và rạng rỡ như trẻ được quà.

Sông sâu hay cạn?










Tại một con sông, có người đàn ông đứng bên bờ sông hỏi một cậu bé chăn trâu gần đó:


- Sông này có sâu không cháu?

Cậu bé nhanh nhảu trả lời:

- Nông lắm bác ạ.

Người đàn ông lội sang sông, mới lội một đoạn đã ngập đầu. Quay lại, người đàn ông tức giận hỏi cậu bé:

- Sao cháu bảo sông này nông lắm?

Cậu bé trả lời:

- Cháu đâu biết. Cháu thấy con vịt chân ngắn thế mà nó cũng lội sang được cơ mà!

(Sưu tầm)


Chủ Nhật, 23 tháng 3, 2014

Thơ Hoàng Thanh Hương










Dấu hiệu

Em chẳng nói được với tôi điều gì
Dấu hiệu cô đơn tâm trạng mất tích
Bất an và hoang tưởng
Xa lạ tôi thế giới khác
Gần sát mặt
Bỏng thịt da
Lòng nhau không chạm...

Bắt đầu và mãi mãi
Mùa thu ở đâu
Ám ảnh sắc vàng Levitan
Khăn choàng thổ cẩm
Tôi thèm mùi rừng
Móng chân vẽ
Mi nối, tóc nối
Ba lô đại hạ giá
Da nâu môi nhũ
...
Loạng choạng
Tôi bíu vào đâu chiều nay?

Làng chỉ toàn người già
Ngồi hoài tưởng
Thời rừng xanh mênh mông
Đêm mang tác, sói tru, côn trùng rả rích
Đêm chiêng mừng cơm mới thâu canh
Đêm cỏ êm môi em men say
Mùi cỏ cháy mùi hồng hoang

Còn lại gì sáng mai
Thời gian nước xiết
Tôi bíu vào đâu đêm nay?




Ngày trên phố và tôi


Sững sờ
Cục ức ngang cuống họng
Cái cách họ vứt tiền vào mũ người ăn xin
Bĩu môi liếc xéo đồng nghiệp xinh đẹp
Môi xăm đỏ chót, da mốc phấn
Vênh vang giàu sang, địa vị
Phố lắm kẻ khinh người

Em sọt rau long lanh nắng
Mắt hiền mưa thu
Tay tím tái xếp xếp dịu nhẹ
Sợ giập đau những khó nhọc
Câu mời nhỏ nhẻ
Em tặng ban mai đến thượng đế
Ai trong số đông mềm lòng

Đi qua phố
Gặp bao điều mắc mớ
Thời gian dài nặng trĩu
Báu vật lời thân ái
Tôi là ai trong số đông?

Dự cảm



Tháng Tư vàng nắng đẹp
Quán cà phê vẫn hẹn
Mở những con đường trong tim

Mang về giấc mơ những tin nhắn
Dường như người sợ ta buồn?
Hay ta không biết mình buồn
Có thể…

Không muốn đặt cược
Vì biết mình sẽ thua
Vì những điều gì, không rõ

Người chỉ nói về sách
Ta chỉ nói về sách
Nhưng sách là gì
Khi trái tim dần chai sạn?

Kết thúc buồn mở ra trước mắt
Rảo quanh những con đường
Bằng nỗi cô đơn buổi chiều im lặng
Một tháng Tư tuổi trẻ
Những người yêu nhau
Hoang mang mà nồng nàn
Bình yên mà trống vắng

Rồi sẽ đến lúc
Chỉ mình ta thinh lặng…

Dường như tháng năm đã mài mòn
Và cứ thế lòng người hoài lo sợ
Về một vết thương
Chưa thành hình, đã đau.

Nguyễn Đức Phú Thọ

Rong chơi




Trôi thoai thoải những túi hương đẫm mật
Từ cánh đồng cỏ may nở đầy sự hoang hóa
Những nỗi hạnh phúc dặt dìu gió bay
Đợi chờ một mùa mưa thấm đẫm
Nơi vết chân chim còn mới tinh
Đọng lại một khuôn mặt thiếu nữ
Mà tôi đã gặp ở nơi nào đó
xa lắm
Mơ hồ mọc lên
trên bồi hồi ngực trẻ.


Tôi đem cả những thứ tha, cứu rỗi vào giấc mơ
Niệm về loài chim chỉ hót một lần
trong khoảnh khắc cuối đời đau đớn
Lại nghĩ về tình yêu
Với trăm ngàn định nghĩa quen lạ
“Tình yêu xanh hơn rêu
Tình yêu là bông cỏ ửng hồng ấm áp…”
Ta vô tình bỏ mặt buổi chiều ngơ ngác
trước vành đai gió mùa.

Thôi ta về đặt tên cho mộng mị
Ép vội ngu ngơ vào mắt nâu trong trẻo
Con đường vẫn nở rộng
Bầu trời vẫn căng xanh
Sao ta mãi mắc cạn vào nhau
Như bó cúc gai dệt nên ngổn ngang cành lá
Với khối kỉ niệm bốc cao theo từng chiếc hôn nhiệt đới
Xin tạ từ tháng năm
Ta trở về bến mơ
Xanh giấc tùy tùng…

Nguyễn Quốc Việt

Lá rụng về đâu?


Truyện ngắn của Thu Nguyệt





“Đợi gió!” - Tôi suýt trả lời như thế với câu hỏi bất ngờ cất lên phía sau:

- Con đang đợi ai à?”

- Dạ thưa thầy, không ạ! - Tôi kính cẩn chắp tay chào thầy trụ trì - Con đang suy nghĩ để hoàn tất bức tranh này thôi. Thầy xem, những chiếc lá này con phải vẽ chúng rơi vào khoảng nào là đẹp nhất ạ?

Tôi mở cho thầy xem bức tranh tôi vẽ đường đi của gió, có mấy chiếc lá bồ đề đang bay lơ lững chưa rõ hướng rơi. Thầy cười hiền lành, chân tín:

- Thì lá rụng về cội chớ về đâu con !

Tôi cuốn bức tranh lại, nói như với chính mình

- Giá mà được như vậy ! Nhưng không biết ...

Tôi bỏ lửng câu nói và thầy mỉm cười, nhẹ nhàng đi vào trong.



Năm ngoái, tôi đến ngôi chùa này để vẽ. “Chùa trong thành phố” là đề tài mà tôi ấp ủ. Những ngôi chùa cổ kính, rêu phong, nằm tách biệt với đô thị ồn ào đã đi vào tác phẩm của biết bao bậc đàn anh, tôi biết khả năng mình không chen vào lối mòn ấy được, nên cố tự tìm cho mình một lối đi khác. Tĩnh lặng trong sự ồn ào, đó là điều không dễ. Cuộc sống công nghiệp gấp gáp, một làn khói nhang quyện lẫn vào trong khói xe có làm cho người ta vài phút giây lắng lại ?

Chùa nằm trong vòng vây của đủ loại tiếng ồn. Những âm thanh hòa trộn vào nhau tạo ra một cái gọi là “âm thanh phố thị”, mà khi đã quen, ta như không còn nghe thấy nó nữa. Khoảng sân rộng vuông vắn, ngay ngắn những hàng cây kiểng được chăm sóc kỹ càng. Giữa sân là một cây bồ đề cổ thụ rợp bóng. May mà người ta không thể chăm sóc nó theo kiểu chăm sóc những cây kiểng nhỏ kia. Nó tha hồ vươn ra, xòa xuống những tán lá vàng, xanh, rách, lành... lẫn lộn, để khi có những cơn gió dạo qua thì còn có cái để mà rụng rơi.

Buổi trưa hôm ấy thật là vắng vẻ. Bất chấp những âm thanh của phố ong ong ngoài kia, tiếng chim trong vòm lá trong trẻo cất lên làm cho ta có cái cảm giác yên ắng thật tuyệt vời. Chùa cũng là một cơ sở phật học cho nhiều tăng ni về đây học tập nên rất đông người, chỉ có buổi trưa thì đôi lúc còn được yên tĩnh. Tôi đang sung sướng tận hưởng những giây phút hiếm hoi, lắng nghe tiếng gió, tiếng chim, thả rộng tầm mắt mà không vấp bóng người... thì lại thấy thấp thoáng dưới cội cây bồ đề dáng một chiếc áo lam. Một vị tu sĩ trẻ khỏang 20 -25 tuổi đang cúi lượm những chiếc lá trên sân. Tôi thầm chán nản nghĩ: Lại một sự chăm sóc quá đáng! Mảnh sân đã quá sạch sẽ rồi, có mấy chiếc lá rơi để coi chơi mà cũng đi nhặt sạch! Nhưng hay kìa! Vị ấy chỉ nhặt qua loa vài chiếc lá bỏ vào gốc cây rồi đi vô. Tôi thầm cám ơn sự lười biếng, cẩu thả ấy. Thế nhưng hôm sau, rồi hôm sau nữa, đúng vào giờ ấy, vị tu sĩ kia lại đi ra và lập lại công việc như hôm trước. Tôi quan sát kỹ thì thấy vị ấy nhặt lá một cách rất trang nghiêm, và hình như chỉ vừa đúng 8 chiếc lá, không hơn không kém.Cúi nhặt, nhìn ngắm, rồi cẩn thận xếp vào gốc...

Đến ngày thứ sáu thì tôi không nén nổi tò mò. Sau vài ngày làm quen và tìm hiểu, tôi được biết:

Đạo Trí - pháp danh của vị ấy - vào chùa từ năm 6 tuổi. Được thầy hết lòng thương yêu vì tính tình ôn hòa, kiên nhẫn, chịu khó. Suốt mười hai năm ở trong thiền viện, Đạo Trí là niềm hy vọng của thầy, của các huynh đệ, bởi đạo hạnh và công phu tu.

Năm ấy, thiền viện mở khoá tập tu cho tăng ni sinh một số chùa. Dịp này Đạo Trí đã quen với Tâm Nhân. Hai người nhanh chóng trở thành bạn thân với nhau bởi Tâm Nhân tỏ ra gần gũi và rất đồng điệu với Đạo Trí. Tuổi mới lớn, ở thiền viện lâu năm, chung quanh là thầy và các huynh trưởng, dẫu yêu thương nhưng luôn nghiêm khắc, Đạo Trí không có dịp bày tỏ những suy nghĩ vu vơ lãng mạn của mình. Như một trái gòn, ém trong mình một số lượng bông mà chính nó cũng không thể rõ hết, nay được nứt võ, trở mình, nó nghĩ rằng nếu được sổ tung ra, thì chắc nó sẽ nặng hơn trọng lượng mà nó có. Tuổi mười tám dễ dàng kết thân và trở thành bạn tâm đầu ý hợp với những ai tỏ ra ra quí phục, biết lắng nghe và tỏ ra đồng điệu với mình. Tâm Nhân đã mang đến cho Đạo Trí những điều mà ở thiền viện mọi người không có. Tất cả những nỗi lòng, tâm sự, ước mơ...(mà trước đây Đạo Trí không nghĩ rằng mình cũng có những điều như thế) được trút ra. Một cây bút chì khi nằm trong tay đứa học trò lớp vỡ lòng, nó chỉ viết ra được những chữ cái, đến khi gặp một kiến trúc sư thì nó tưởng rằng mình có thể làm nên những ngôi nhà! (Mà quên rằng trên đầu mình còn có một cục tẩy và bên cạnh còn có sẵn một cái dao gọt viết.!)

Thế rồi Đạo Trí trốn thầy “ xuống núi” theo Tâm Nhân về ngôi chùa này để đi học.

“Phải học hành đàng hoàng trước đã, đó là điều chắc chắn đúng trong thời đại ngày nay, người tu sĩ cần phải có một trình độ học vấn uyên thâm mới mong đem đạo pháp đến gần với cuộc sống hiện đại, công việc hoằng pháp mới thuận lợi được; thầy đang còn trẻ và với khả năng của mình, nếu được học hành đến nơi đến chốn sẽ tiến rất xa...” đó là lời khuyên của Tâm Nhân.

Không biết Đạo Trí sẽ tiến xa đến đâu, nhưng trước mắt là cách sống và suy nghĩ của Đạo Trí đã phải khác trước. Bước đầu là hình thức bên ngoài: Cũng vẫn ba màu áo ấy nhưng chất liệu vải nay đã khác; cũng vẫn chỉ đôi dép đỡ chân nhưng nay phải êm hơn; từ chiếc xe đạp cà tàng để đến trường, nay vì thời gian gấp gáp, phải thay bằng chiếc xe máy mới theo kịp giờ giấc học tập từ lớp Phật học đến các môn học bên ngoài: Anh văn, Hán văn, vi tính, ..v..v... Có gì quan trọng đâu, đó chỉ là phương tiện, chấp làm gì! Tỏ ra kham khổ quá mà chi, mình phải hòa đồng với mọi người xung quanh chớ.

Đạo Trí đã bước đầu thành công, học hành rất tốt. Vậy mà... mỗi khi có dịp gặp lại các huynh đệ cũ, nghe những lời phân tích, trách cứ... Đạo Trí lại cảm thấy buồn, thấy hình như mình đã sai, đã chạy theo vọng tưởng nhiều quá. Khổ tâm nhất là khi gặp lại thầy, thầy không nói gì cả, không trách mắng cũng không khuyến khích, vẫn điềm đạm từ bi nhìn Đạo Trí như ngày nào; nhưng không hiểu sao Đạo Trí không thể yên tâm được! Những câu nói của mọi người cứ như một cuộn băng cứ quay đi quay lại rối tinh trong đầu: “Đã được Hoà Thượng tự thân tận tình chỉ dạy, đường thẳng không đi lại đi đường vòng.” ... “Học viện đã nhiều hơn tu viện, người của tu viện lại chạy ra học viện!” ... “Liệu đã đủ bản lĩnh để vừa học vừa tu?”... “Trường lớp như một cái tiệm uốn tóc, người có tóc vào đó, khi bước ra chưa chắc ai cũng được một mái tóc đẹp, huống chi mình là người đã cạo trọc đầu !” ... “Con đường nào cũng được, miễn về đích là tốt, hãy đi đúng con đường mà mình đã chọn, đừng nhảy lung tung”....

Nghiệp phước khó đoán! Thôi thì tùy duyên vậy. Để tự nhắc nhở mình, Đạo Trí quyết định làm một việc: Mỗi trưa, sau giờ quả đường, khi mọi người đã đi nghỉ cả, Đạo Trí lại ra gốc bồ đề, nhặt lấy tám chiếc lá gom vào gốc cây...thể hiện lòng mong mỏi, triết lý sống của mình.

Không biết công việc ấy Đạo Trí thực hiện được bao lâu, bởi sau đó tôi phải đi công tác xa một năm. Tôi ấp ủ bức tranh và mong ngày trở lại chùa. Và giờ đây tôi đang đứng chờ... Đã quá cái giờ mà Đạo Trí đi ra nhặt lá, vẫn chưa thấy bóng người đâu. Đạo Trí đã trở về thiền viện? Đạo Trí đã đi học xa? Đạo Trí đã đủ vững, không còn cần đến cái việc tự nhắc nhở mình một cách lãng mạn, giáo điều như vậy nữa. Hay là Đạo Trí đã... chính điều này làm tôi không dám hỏi thăm về Đạo Trí. Tôi sợ...

Vài cơn gió thoảng qua, những chiếc lá bồ đề lại rơi một cách nhẹ nhàng thanh thản. Khi đã chắc chắn rằng không còn có Đạo Trí ra nhặt lá nữa, tôi đứng tần ngần thầm gởi ước mong vào những cơn gió. Cơn gió nào sẽ đưa những chiếc lá kia về cội, cơn gió nào sẽ thổi chúng bay xa ? ...

Rời chùa ra về, khi bước qua cội bồ đề, tự dưng tôi cúi xuống nhặt lấy tám chiếc lá. Chưa biết vì sao và để làm gì.