Thứ Tư, 13 tháng 12, 2017

THUYẾT NHÂN DUYÊN


Tuệ Thiện Nguyễn Tối Thiện

Để diễn tả sự liên hệ giữa hai sự vật trong vũ trụ, triết học Trung hoa đưa ra nguyên lý Ngũ Hành bao gồm 5 yếu tố tượng trưng cho năm cơ quan tạng phủ hay năm năng lực khí hóa : Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy. Nguyên lý Ngũ Hành có thể được phát biểu như sau : « phàm cái gì hiện hữu đều có cái sinh ra nó, cái khắc nó, cái nó sinh ra và cái nó khắc, tạo thành một toàn thể 5 yếu tố liên hệ chặc chẻ. »
Nguyên lý này áp dụng cho các phần tử (éléments) vật chất hoặc các năng lực khí hóa nhưng nó bị giới hạn trong một đơn vị thời gian nào đó tùy theo sự vận hành của yếu tố vật chất nầy.
thuyet nhan duyen
Phật giáo đưa ra hai nguyên lý để giải thích sự tương quan nầy : Duyên Sinh và Duyên Hệ
1/ DUYÊN SINH : (hay DUYÊN KHỞI) là nguyên lý giải thích sự tương quan nhân quả trong tiến trình sinh tử, tử sinh của chúng sanh trong vòng luân hồi. Nguyên lý Duyên sinh có thể được phát biễu như sau :
« Khi cái nầy có, cái kia có.
Khi cái nầy không có, cái kia không có ».
2/ DUYÊN HỆ : là nguyên lý đề cập một cách tổng quát và rốt ráo sự tương quan giữa hai yếu tố có thể là vật chất hay tinh thần, đồng thời còn cho biết đặc tính của sự liên hệ giữa hai yếu tố.
Nguyên lý Duyên hệ tiến xa hơn một bước :
« Khi cái nầy có, cái kia không có
Khi cái nầy không có, cái kia có
Cái sinh sau trợ duyên cho cái sinh trước (hoặc ngược lại)
Cái yếu trợ duyên cho cái mạnh (hoặc ngược lại) »
Chúng ta thử đi vào chi tiết các nguyên lý nầy.
DUYÊN SINH hay DUYÊN KHỞI
Duyên sinh hay Duyên khởi dịch từ chữ Paticca Samuppada (paticca= tùy thuộc, dựa vào ; samuppada = sanh khởi, phát sinh) nên còn được gọi là thuyết « Tùy thuộc phát sinh » hay thuyết « Thập Nhị Duyên Khởi » hoặc « Thập Nhị Nhân Duyên ». Đây là thuyết nói về 12 yếu tố liên quan Nhân và Quả với nhau. Yếu tố trước là điều kiện trợ duyên cho yếu tố sau sanh khởi để hoàn thành diễn trình sinh tử của vòng luân hồi. Thuyết nầy nêu ra những điều kiện nào duy trì sự vận hành của bánh xe sanh tử và làm cho nó xoay chuyển từ kiếp nầy sang kiếp khác.
1/ VÔ MINH : là sự thể hiện của nhân Si (tâm sở Si), nói lên sự không sáng suốt, không chính xác, mù mờ diễn tiến của tâm trên hoài nghi và phóng tâm. Vô minh là không biết những gì xảy ra trong tâm mình (vô ký).Vô minh là không biết cái đáng biết và biết cái không đáng biết.
Những cái đáng biết là : khổ đau, nguồn gốc của nó, trạng thái giải thoát khỏi khổ đau và con đường dẫn tới sự chấm dứt của khổ đau (Tứ Diệu Đế)
Những cái đáng biết là : danh sắc trong hiện tại (pháp thiền để nhận diện danh sắc) ; danh sắc trong quá khứ và vị lai (sự luân hồi) ; Nhân duyên để làm cho danh sắc sanh khởi, lưu chuyển và tái diễn (nhân quả, nghiệp báo).
Phật giáo dạy ta 3 mức độ của sự hiểu biết :
- hiểu biết qua sách vở, danh từ
- hiểu biết qua sự suy nghĩ, luận giải
- hiểu biết nhờ sự thâm nhập thấu đạt thực trạng của sự vật. Trí tuệ trực giác nầy chỉ có được khi tâm đã được gột rửa mọi bợn nhơ, lậu hoặc .
Mặc dầu Vô Minh được nêu lên đầu tiên trong chuỗi 12 nhân duyên, nhưng không nên coi Vô Minh như một nguyên nhân đầu tiên của chúng sanh, nhất là xem nó như một nguyên lý của vũ trụ. Vô Minh có nhân duyên là lậu hoặc
Như Thanh Tịnh Đạo (chương XVII, mục 36) đã viết : « Khi lậu hoặc sanh khởi, vô minh sanh khởi ».
Nói tóm lại:
* Bản chất của Vô Minh là tâm sở Si.
* Thể hiện của Vô Minh là sự không sáng suốt, mu mờ của tâm diễn tiến trên sự hoài nghi phóng tâm và không thấu hiểu những điều đáng biết.
* Kết quả của Vô Minh : làm vận chuyển sự luân hồi
* Nguyên nhân của nó là lậu hoặc
2/ Vô minh duyên cho HÀNH:Hành là sự chủ tâm, cố ý hành động qua thân khẩu ý để tạo nghiệp thiện, nghiệp bất thiện hoặc không tạo nghiệp : hành đồng nghĩa với nghiệp. Về phương diện đạo đức có 3 loại hành :
a/ Phúc hành : là nghiệp thiện qua thân, khẩu, ý :
- Qua thân : bố thí, trì giới, tham thiền, phục vụ, kính trọng người đáng kính, hồi hướng công đức, tùy hỉ, học đạo, luận đạo, rèn luyện chánh kiến.
- Qua khẩu : nói lời chân thật, lời đoàn kết, hòa nhã, lời lợi ích.
- Qua ý : tu tập không tham, không sân, không ngã mạn, không tà kiến, không nghi ngại.
b/ Phi Phúc hành : là nghiệp bất thiện qua thân, khẩu, ý :
- Qua thân : bỏn xẻn, ôm giữ, phá giới (phạm luật), ăn chơi hưỏng thụ, khinh khi người già, ganh tức, ghen ghét, không học hỏi đạo lý, không trao đổi ý kiến, chấp thủ tà kiến, buôn lậu, bán vũ khí, chất độc hại, buôn bán nô lệ.
- Qua khẩu : nói dối, nói đâm thọc, nói thô lỗ, nói nhảm nhí.
- Qua ý : tư tưởng tham ái và ngã mạn, ý nghĩ sân hận và bạo hành, những tư tưởng diễn dịch sai thực tại, những tư tưởng đi ngược lại với định luật thiên nhiên và con người.
c/ Bất động hành : là những hành động không tạo nghiệp, không tốt không xấu.
Nói tóm lại :
* Bản chất của Hành : là sự phối hợp của tâm với một số tâm sở thích hợp dưới sự chủ động của tâm sở tư (cetana) để tạo nghiệp.
* Thể hiện : hành động qua thân, khẩu, ý.
* Kết quả : nghiệp thiện, nghiệp bất thiện, hoặc không tạo nghiệp.
* Nguyên nhân trực tiếp là Vô Minh.
3/ Hành duyên choTHỨC
Thức là thành phần tinh thần cấu tạo nên con người. Có nhiều loại thức tùy theo nhiệm vụ của mỗi loại trong số 14 nhiệm vụ. (Xin xem thêm bài Ngũ uẩn của cùng tác giả). Ở đây trong Thuyết Duyên Khởi, Thức là Thức tái sinh (Patisandhi vinnana) là tâm nối liền kiếp sống trước với kiếp sống sau làm cho dòng luân hồi tiếp diễn liên tục. Thức tái sanh chỉ xảy ra trong một satna khi noãn và tinh trùng gặp nhau trong lúc thụ thai. Thức tái sanh thu nhận tất cả những chủng tử nghiệp từ kiếp sống trước và bắt đầu một cuộc hành trình mới. Có một sự trao đổi thông tin giữa tâm tử của chúng sanh trước và tâm tái sinh của chúng sanh mới ở kiếp nầy. Nguồn năng lượng tải chở những thông tin nầy không thay đổi, cũng giống như nguồn điện lực thấp sáng ngọn đèn đã chết và ngọn đèn mới được thay vào. Có thuyết cho rằng đây chính là năng lượng quang tử (énergie quantique) khi biến khi hiện trong vũ trụ. Không phải tâm nào cũng làm được nhiệm vụ tái sanh, chỉ có 19 tâm quả tương ứng với nghiệp đã đủ nhân duyên để trở thành thức tái sanh.
Nói tóm lại :
* Bản chất của thức : 19 tâm quả làm việc tái sinh.
* Thể hiện : sự tái sanh
* Kết quả : vòng luân hồi tiếp diễn
* Nguyên nhân : hành (nghiệp)
Còn nghiệp thì còn tái sanh, hết nghiệp thì hết tái sanh.
4/ Thức duyên cho DANH SẮC :
Danh Sắc ở đây chính là bào thai đã được hình thành, noãn đã được thụ thai.
Danh ở đây thể hiện cho các tâm sở đồng sanh với tâm tái sanh tức là Thọ, Tưởng, Hành ( 3 uẩn: thọ, tưởng, hành).
Sắc biểu thị cho các sắc sanh do nghiệp. Có 18 loại sắc sanh ra do nghiệp là : 8 sắc bất ly, 5 sắc thần kinh, 2 sắc phái tính, sắc mạng quyền, sắc ý vật và sắc hư không.( xem them bài ngủ uẩn)
- Nếu tái sanh ở cõi có Ngũ uẩn thì Thức duyên cho cả Danh và Sắc.
- Nếu tái sanh ở cõi vô Sắc thì chỉ có 4 uẩn (thọ, tưởng, hành, thức), nên Thức chỉ duyên cho Danh mà thôi.
- Nếu tái sanh ở cõi vô tưởng chỉ có sắc uẩn, thì Thức chỉ duyên cho Sắc.
Nói tóm lại :
* Bản chất của Danh-Sắc : thức tái sanh + các sắc do nghiệp sanh.
* Thể hiện : một chúng sanh mới ra đời.
* Kết quả : sự hình thành của Ngũ uẩn.
* Nguyên nhân : của danh-sắc là thức tái sanh.
5/ Danh Sắc duyên cho LỤC NHẬP
Lục nhập là sự hình thành và phát triển của Lục Căn (hay 6 nội xứ) tức là hệ thần kinh của 5 giác quan và của não bộ. Ở tuần lễ thứ 6 chúng ta đã thấy tượng hình những bộ phận thần kinh của các giác quan (Ở tuần lễ thứ 28 óc não đã có hình dạng bình thường nhưng phải đợi đến 25 tuổi thì óc não con người mới hoàn thành sự phát triển. Đối với Phật giáo ý căn là giác quan thứ 6. Như vậy trong bụng mẹ thai bào đã có thể : nghe, nếm, đụng (trừ thấy vì không có ánh sang và ngửi vì không c ó mùi hương ). Vừa sanh ra là đứa trẻ có thể nhìn thấy.
Trung bình từ 18 tuần lễ (vị giác) cho đến 28 tuần (thính giác), 25 tuần (thị giác) là các giác quan đã có thể hoạt động được.
Nói tóm lại:
- Bản chất của Lục Nhập : chính là Lục Căn hay 6 nội xứ
- Thể hiện : sự phát triển và hoàn thành của Lục Căn
- Kết quả : Lục Căn đã có thể tiếp xúc với Lục trần khi sanh ra
- Nguyên nhân : trực tiếp của Lục nhập là danh sắc.
6/ Lục nhập duyên cho XÚC
Xúc là sự gặp gở của Căn, Trần, Thức. Khi Xúc sanh khởi ở nhãn căn (thần kinh mắt) thì gọi là nhãn xúc
Như vậy có 6 loại xúc tương ứng với 6 căn : Nhãn xúc, Nhĩ xúc, Tỷ xúc, Thiệt xúc, Thân xúc, Ý xúc. Thân xúc rất quan trọng trong thiền ,nhất là thiền hơi thở và thiền Tứ Oai Nghi.
Xúc chính là tâm sở Xúc kết hợp với các tâm Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức và Ý thức.
Nói tóm lại:
- Bản chất của Xúc : là tâm sở Xúc
- Thể hiện : sự gặp gở của căn, trần, thức
- Kết quả : xuất hiện của Thức quả
- Nguyên nhân : của xúc Lục nhập
7/ Xúc duyên choTHỌ :
Thọ là cảm tính của tâm, bao gồm khía cạnh cảm giác và tình cảm của nó. Thọ chính là Thọ uẩn là một tâm sở trong 52 tâm sở. Không có tâm nào mà không mang màu sắc cảm tính.
Có 5 loại thọ kết hợp với 6 loại thức (Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức và Ý thức) : Lạc (thân dễ chịu), Hỉ (tâm dễ chịu), Khổ (thân khó chịu), Ưu (tâm khó chịu), Xả (thân, tâm trung tính).
Nói tóm lại :
- Bản chất của Thọ : là tâm sở Thọ
- Thể hiện : Lạc, Hỉ, Khổ, Ưu, Xả
- Kết quả : sự xuất hiện của Thọ qua 6 loại Thức
- Nguyên nhân : Xúc
8/ Thọ duyên ÁI (vedana-paccaya TANHA)
Ái là tham lam, ham muốn, khao khát, tâm cầu
Là sự thể hiện của tâm Tham qua 6 cửa : Sắc ái, Thinh ái, Hương ái, Vị ái, Xúc ái, Pháp ái, Chúng ta muốn nhìn thấy màu sắc, hình ảnh đẹp mắt, muốn nghe những âm thanh êm dịu, muốn ngửi những mùi hương nông nàn, muốn ăn những món ngon béo, muốn sờ đụng những vật mịn màng, muốn hay biết những điều thú vị. tham đắm các dục lạc thế gian
Theo quan điểm triết học Ái có 2 loại :
-Hữu Ái (bhava tanha) : sự ham muốn hiện hữu (désir ardent pour l’existence). Hữu ái được phân chia làm 3 loại nữa :
- Dục ái (kamatanha) tham đắm các dục lạc thế gian: (désir ardent pour les expériences sensuelles)
- Sắc ái (rupatanha) : tham đắm trong cõi sắc giới (désir ardent pour les formes matérielles)
- Vô sắc ái (arupatanha) : tham đắm trong cõi vô sắc giới (désir ardent pour l'existence sans forme)
-Phi hữu ái (vibhavatanha), hay đoạn ái : ham muốn không hiện hữu ( désir pour la non-existence, ou d’auto-annihilation).
Trong định luật duyên khởi, đây là cái khâu (II) quan trọng nhất để thoát khỏi vòng luân hồi. Thật vậy vì nó xảy ra trong kiếp hiện tại, nên ta có thể tác động được. Còn khâu I xãy ra giữa quá khứ và hiện tại, cũng như khâu III xãy ra giữa kiếp hiện tại và kiếp vị lai, nên ta không thể hành động được.
Hành động như thế nào ?
* Khi ta cảm nhận một cảm giác vui thích hoặc khoái lạc tức khắc Ái sẽ sanh lên. Đó là một thói quen tập nhiễm lâu đời, Ái là tâm tham. Chúng ta muốn 6 trần phải êm ái, dễ chịu theo ý thích của mình và càng ngày càng có nhiều hơn nữa.
* Khi ta cảm nhận một cảm giác đau đớn, khổ sở (Thọ khổ, Thọ ưu) tức khắc Vô Ái (không thích) sẽ sanh lên. Vô Ái là sự bực bội, bức rức, bất bình, chối bỏ, tức giận đó là tâm Sân. Hoặc một loại Ái khác sanh lên là muốn đừng đau đớn khổ sở nữa. Như vậy ta thấy rõ ràng là THỌ duyên cho ÁI. Làm sao cắt đứt mối tương duyên nầy ? Chỉ có thiền Tứ Niệm Xứ mới giúp ta làm được việc nầy, bằng cách quan sát các cảm thọ khi nó vừa sanh khởi, quan sát những trạng thái của tâm để nhận diện thế nào là tham, thế nào là sân, quan sát những đối tượng của tâm để thấy sự phát sanh và hoại diệt của chúng, để thấy những đặc tính thay đổi, bất tịnh gây khổ đau của chúng. Chỉ có quan sát như thế chúng ta mới tự tách rời ra khỏi lòng ham muốn, tâm sân hận, xem chúng như là một hiện tượng và không tự đồng hóa với nó, chúng sẽ bị tiêu hoại và không còn làm chủ ta được nữa.
Nói tóm lại :
- Bản chất của Ái : là tâm tham hợp với các sở hữu thuộc tham và những sở hữu khác.
- Thể hiện : sự ham muốn qua 6 cửa
- Kết quả : nghiệp bất thiện nuôi dưỡng sự luân hồi
- Nguyên nhân : do THỌ
9/ ái duyên choTHỦ :
Thủ là sự giữ chặt, không buông bỏ, như người đã ghiền rượu hay ma túy, khó mà xa lìa những thói quen ấy.
Có 4 loại Thủ :
a- Dục thủ : bám víu vào những thú vui dục lạc
b- Kiến thủ : bám víu vào những quan điểm cá nh ân hay sai lầm (những tà kiến)
c- Giới cấm thủ : bám víu vào những tập tục nghi lễ dị đoan, mê tín, không đưa đến giải thoát hay lợi ích tinh thần.
d- Ngã chấp thủ : bám víu vào ảo tưởng về một cái ta.
Thanh Tinh Đạo (XVII, 242) giải thích Ái là ham muốn những điều chưa đạt được, còn THỦ là bám chặt những điều đã đạt được (câu chuyên Nữ Hoàng thành con giòi)
Nói tóm lại :
- Bản chất của Thủ : là tâm tham hợp với với các sở hữu giống như Ái
- Thể hiện : qua 4 sắc thái dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ và ngã chấp thủ.
- Kết quả : có sự bám víu, giữ chặt.
- Nguyên nhân : ái
10/ Thủ duyên cho HỮU
Chữ HỮU (existence, devenir) chỉ định những cõi sinh tồn khác nhau trong 3 cõi dục giới, sắc giới, vô sắc giới và đồng thời cũng nói lên những tiến trình đưa đến sự tái sinh trong những cõi đó. (Dục hữu, Sắc hữu, Vô sắc hữu)
Có hai loại HỮU
a/ Nghiệp Hữu : là sắc thái chủ động và nguyên ủy (nguyên động lực) của đời sống hay tất cả các loại nghiệp thiện và bất thiện dẫn tới kiếp sống mới.
Nói theo Vi Diệu Pháp là 29 tâm thiện và bất thiện hiệp thế hành động dưới sự điều khiển của tâm sở Tư (cetana)
b/ Sanh Hữu : là tiến trình tái sanh và kiến tạo ngũ uẩn, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ…
Hữu là nghiệp ở hiện tại còn Hành là nghiệp trong quá khứ .
Tóm lại :
- Bản chất : 29 tâm bất thiện và thiện hiệp thế.
- Thể hiện : tiến trình tái sanh vào 3 cõi : Dục giới , Sắc giới và Vô sắc giới
- Kết quả : (trở thành) cuộc sống trong 3 cõi.
- Nhân gần : của Hữu là Thủ.
11/ hữu duyên SANH : (JATI)
Đối với con người SANH diễn tả tiến trình từ lúc thụ thai cho đến khi ra khỏi bụng mẹ và tiếp tục cho đến hết tiến trình sinh trưởng (croissance). Ở người con trai có thể kéo dài đến 25 tuổi và con gái đến 18 tuổi.
Sự tái sinh của chúng sinh tùy thuộc 4 yếu tố : nghiệp, cách sinh, chủng loại, sự khẩn cầu của 1 vị trời.
a- Nghiệp : Nghiệp là căn nguyên của sự luân hồi. Chúng ta có nghiệp quá khứ (hành) và nghiệp hiện tại (hữu). Khi nào hết nghiệp thì hết tái sanh. Vì vậy cần phải tu để rũ sạch nghiệp
b- Cách sinh : - noãn sinh : những loài sinh từ quả trứng : chim, gà, vịt, rùa…
- thai sinh : như loài có vú sinh ra từ bào thai và cho con bú.
- thấp sinh : như loài ký sinh trùng sinh ra từ chỗ ẩm thấp.
- hóa sinh : tự sinh ra trực tiếp, không qua trung gian của cha mẹ như các vị trời, chư thiên, ma quỉ.
c- Chủng loại : Theo v ũ tr ụ luận c ủa Phật giáo, chúng sinh có 31 cõi sinh tồn
d- Sự khẩn cầu : trường hợp nầy rất hiếm, do sự khẩn cầu của vị trời Sakka, là vua của cỏi trời 33, một vị trời có thể tái sinh làm người trong một gia đình đã được chọn lựa trước để sau nầy có thể đảm nhiệm một vai trò quan trọng trong xã hội loài người như là sẽ trở thành 1 chuyển luân thánh vương, một vị Phật.
Tóm lại : - Bản chất : là sự khởi đầu của một chúng sanh.
- Thể hiện : qua 4 cách : noãn, thai, thấp, hóa.
- Kết quả : một chúng sinh ra đời và trưởng thành.
- Nhân gần : là hữu (nghiệp).
12/ Sanh duyên cho LÃO TỬ
Lão, Tử là tiến trình ngược lại của sự sinh và trưởng. Tiến trình Lão hóa (sénescence) bắt đầu khi tiến trình sinh trưởng (croissance) chấm dứt vào khoảng 30 tuổi. Tiến trình sinh trưởng của bộ óc con người chấm dứt vào khoảng 25 tuổi.
Sau 30 tuổi chỉ còn là Hoại và Diệt. Đó là lẽ thường. Không nên có ảo tưởng là chúng ta trẻ mãi không già.
Sự Tử cũng giống như sự Sinh, chỉ xảy ra trong 1 satna tâm, khi đó mọi chủng tử nghiệp được trao truyền, giữa hai chúng sinh, vừa chết bên nầy và sẽ sinh ra bên kia thế giới để tiếp tục cuộc luân hồi không dứt.
Đối với khoa học sự chết xãy ra khi điện não đồ trở nên đường thẳng, không còn những sóng não lến xuống theo nhịp độ nữa.
Theo đạo Phật có 4 cách chết :
a/ Chết vì hết tuổi thọ : tuổi thọ của mỗi loài sinh vật đã được định trước theo những định luật di truyền và những điều kiện sinh sống của mỗi loài, mỗi cá thể. Tuổi thọ của con người ở các nước văn minh được kéo dài. Hiện tại Nhật và Pháp là những nước có nhiều người sống trên 100 tuổi nhất.
b/ Chết vì hết nghiệp : nghiệp ở đây có thể được hiểu là sinh nghiệp của kiếp sống đó hoặc nghiệp của toàn bộ kiếp sống của một chúng sinh, như vậy chúng sinh nầy đã đắt đạo quả A la Hán, đã thoát khỏi dòng sinh tử luân hồi.
c/ Chết vì hết tuổi thọ và hết nghiệp : đây là cái chết của người lớn tuổi, đã sống hết tuổi thọ sinh học và đồng thời hết nghiệp của kiếp sống đó
- hoặc là cái chết của một vị A la Hán đã hết tuổi thọ (như của Đức Phật, của ngài Ananda (120 tuổi), ngài Ca Diếp…) Những vị nầy đã chết vì hết tuổi thọ và đồng thời cũng chấm dứt mọi nghiệp báu từ những tiền kiếp.
d/ Chết vì một Đoạn nghiệp : có những Đoạn nghiệp cho quả làm cắt đứt thình lình dòng sinh nghiệp trước kỳ hạn của kiếp sống. Đây là cái chết bất đắc kỳ tử do tai nạn, bịnh tật, hoặc tự tử. Sinh nghiệp là năng lực có thể làm phát sinh và duy trì tâm và sắc trong đời sống hiện tại, đồng thời lúc vừa chết có khả năng tái tạo một đời sống mới, nó là sức mạnh để đưa đi tái sinh.
Tóm lại : - Bản chất : là sự hoại diệt của danh và sắc.
- Thể hiện : là sự đau đớn, khổ sở của thân và tâm do sự già yếu bịnh tật và sự chết hoặc sự suy yếu dần của thân tâm do tuổi già.
- Kết quả : 4 cách chết.
- Nguyên nhân : do có sanh mới có Lão và Tử.
Chúng ta đã học qua 12 yếu tố của thuyết Nhân duyên (hay Luật Duyên Khởi, hay còn gọi vòng luân hồi) trong đó chúng ta cần để ý những khía cạnh sau đây :
1/ Ba thời kỳ :
- kiếp quá khứ : gồm có : Vô Minh và Hành.
- kiếp hiện tại : gồm có từ Thức àHữu.
- kiếp vị lai: gồm có Sanh và Lão Tử.
Sự phân chia ra ba thời kỳ là để cho thấy cấu trúc sanh khởi của nhân quả trong vòng luân chuyển của các kiếp sinh tồn. Điều nầy không có nghĩa là các yếu tố chỉ có mặt cố định trong một thời kỳ mà không thể có mặt và tác động ở thời kỳ khác. Như ngay trong kiếp hiện tại, cả 12 yếu tố đều hiện hữu và tác động lẫn nhau.
2/ Ba Trục (hay 3 Khâu) :
- Trục I : giữa nhân quá khứ và quả hiện tại.
(HànhàThức)
- Trục II : giữa nhân hiện tại và quả hiện tại.
(Thọà Ái)
- Trục III : giữa nhân hiện tại và quả tương lai
(Hữuà Sanh)
3/ Bốn nhóm Tích Cực hoặc Tiêu Cực (hay Nhân và Quả)
- Năm Nhân (tích cực) quá khứ : Vô Minh, Hành (+ Ái, Thủ, Hữu).
- Năm Quả (tiêu cực) hiện tại : Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ.
- Năm Nhân (tích cực) hiện tại : Ái, Thủ, Hữu (+ Vô Minh, Hành)
- Năm Quả (tiêu cực) vị lai : Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ.
Trong 4 nhóm Nhân Quả (hay Tích Cực, Tiêu Cực) trên, Sanh và Lão Tử không được liệt kê vì chúng chỉ là đặc tính của danh sắc không phải là thực tại chân đế. Chúng tùy thuộc vào pháp chân đế là nhóm « Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ »
4/ Ba Vòng Luân :
- Phiền não luân gồm : Vô Minh, Ái và Thủ.
- Nghiệp luân gồm : Hành và một phần của Hữu là Nghiệp hữu.
- Quả luân gồm : Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ, Sanh, Lão Tử và,
một phần của Hữu là Sanh hữu .
Ba Vòng Luân cho thấy rõ mô hình luân chuyển của các kiếp sinh tồn trong cõi ta bà (vòng samsara). Quan trọng nhất là Phiền não luân : vì bị Vô minh che mờ và Ái Thủ lôi cuốn, nên ta mới tạo nghiệp bởi các hành động bất thiện cũng như thiện. Như vậy Phiền não luân trợ duyên cho Nghiệp luân sanh khởi. Quả sẽ trổ khi đầy đủ nhân duyên, như vậy Nghiệp luân trợ duyên cho Quả luân. Yếu tố quan trọng nhất trong Quả luân là Thọ. Quả thiện sẽ cho ta thọ Lạc hoặc thọ Hỉ, Quả bất thiện sẽ cho ta thọ Ưu hoặc thọ Khổ ; vì vẫn còn chìm đắm trong Vô minh và Ái Thủ nên ta vẫn bị Ái Dục hành xử, ta muốn những cảm giác Hỉ Lạc kéo dài và tăng thêm mãi mãi. Do đó Quả luân lại trợ duyên cho Phiền não luân.
Bằng cách nầy 3 vòng luân cứ vận chuyển cho tới khi Vô minh bị diệt tận gốc rễ bởi Tuệ Minh Sát là Trí Tuệ phát sinh do hành thiền Minh sát , để dẫn đến Tâm Siêu thế.
5/ Hai nhân gốc :
Thuyết Duyên khởi cho ta thấy rõ hai nhân gốc :
- Trong quá khứ Vô Minh khởi đầu cho giai đoạn tích cực tạo nghiệp (Hành).
- Trong hiện tại Ái dục cũng khởi đầu cho giai đoạn tích cực tạo nghiệp (Hữu)
Vô Minh là nguồn gốc của Ái Dục. Ái Dục là nhân sinh ra khổ đau. Vô Minh là cha, Ái dục là mẹ, khổ đau là con.(sư Giác Tuệ)
6/ Hai sự thật :
Quán xét Thập Nhị Nhân Duyên theo chiều thuận từ Vô Minh đến Lão Tử cho ta thấy hai sự thật
- « Vô Minh, Hành » là Tập Đế quá khứ
« Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ » là Khổ Đế hiện tại
- « Ái, Thủ, Hữu » là Tập Đế hiện tại
« Sanh, Lão Tử » là Khổ Đế vị lai
7/ Áp dụng : quán niệm 12 nhân Duyên theo chiều thuận và chiều nghịch.
Đức Phật đã phân tách trong bài kinh « Đại Đoạn-Tận Ái »( MN38) do 1 vị tỳ khưu tên Sati, khi nghe kể về các truyện tiền thân của Thế tôn mới có ý nghĩ sai lầm về một Thức thường hằng luân chuyển từ đời nầy sang đời khác.Phật cho gọi ông để hỏi có thực ông nghĩ như vậy không ? Ông trả lời đúng như vậy. Phật nói đó là xuyên tạc lời ngài dạy và là một loại tà kiến (thường kiến).
-Rồi ngài giảng Duyên Sinh theo chiều nghịch từ Ái -> Vô Minh ;
-Sau đó ngài giảng theo chiều thuận toàn bộ Thập Nhị Nhân Duyên từ Vô Minh -> Lão Tử ;
-Tiếp theo ngài hỏi lại các tỳ khưu từng khoen sanh khởi của 12 Nhân Duyên bắt đầu từ Sanh : « này các tỳ khưu Sanh duyên Lão Tử, có phải vậy không ?...Vô Minh duyên Hành, có phải vậy không ? hay ở đây nghĩa như thế nào ?... » các tỳ khưư trả lời rằng họ cũng thấy như vậy. Ngài xác nhận ngài và các tỳ khưu đều nói cùng một ý là : « Khi cái nầy có, cái kia có. Với sự sanh khởi của cái nầy, cái kia sanh » Thập nhị Nhân Duyên là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn nầy.
-Rồi ngài lại hỏi các tỳ khưu từng khoen hoại diệt của 12 Nhân Diệt bắt đầu từ Sanh : « này các tỳ khưu, do Sanh diệt nên Lão Tử diệt, có phải vậy không ?...Do Vô Minh diệt nên Hành diệt, có phải vậy không ? hay ở đây nghĩa như thế nào ?... » các tỳ khưu trả lời rằng họ cũng thấy như vậy. Ngài xác nhận ngài và các tỳ khưu đều nói cùng một ý là : « khi cái nầy không có, cái kia không có.Với sự diệt tận của cái nầy,cái kia diệt ». Thập nhị Nhân diệt là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn nầy.
DUYÊN HỆ
Nguyên lý Duyên Hệ được trình bày trong bộ Vị Trí (Patthana) là bộ thứ 7 của Tạng Luận, bộ sách quan trọng nhất và to lớn nhất của Tạng Diệu Pháp. Hệ thống Duyên Hệ trình bày 24 duyên, mà tên gọi diễn tả đặc tính của sự tương quan giữa Năng Duyên Pháp và Sở Duyên Pháp. Năng Duyên Pháp là cái tạo điều kiện duy trì, hỗ trợ, ảnh hưởng để cho Sở Duyên Pháp có mặt hay xuất hiện.
A- Lược giải 24 duyên hệ :
1-NHÂN DUYÊN(Hetu paccaya) : điều kiện tương quan giữa 2 pháp là 6 nhân : Tham, Sân, Si, Vô Tham, Vô Sân, Vô Si.Thí dụ : Khi tức giận thì sắc mặt chúng ta thay đổi, lời nói và hành động của chúng ta dể sai lầm và ta lại tạo thêm oan trái cũng như nghiệp xấu.
2-CẢNH DUYÊN (Arammara p.) : điều kiện tương quan là 6 cảnh : sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.Thí dụ : chúng ta luôn luôn tiếp xúc với 5 cảnh bên ngoài và các cảnh bên trong (cảnh pháp) Nếu cảnh vui đẹp thì chúng ta vừa lòng thích thú, nếu cảnh xấu buồn thì chúng ta chán nản.
3-TRƯỞNG DUYÊN (Adhipati p.) : tương quan giữa 2 pháp do tính cách ưu việt, mạnh mẻ như một đối tượng có sức hấp dẫn mảnh liệt làm thống trị tâm và tâm sở đã bắt được cảnh đó (Cảnh Trưởng Duyên) hoặc do tính cách đồng sanh với một trong 4 yếu tố ưu thắng : Dục, cần, tâm, thẩm trong Tứ Như Ý Túc (ở đây ta có Đồng Sanh Trưởng Duyên).TD : trong một nhóm người có 1 người có ước vọng cao cả (Dục) và có trí tuệ nhìn xa hiểu rộng( thẩm), sẽ chinh phục được lòng người và được tôn là lảnh tụ của cả nhóm.( Gandhi, N.Mandela)
4-VÔ GIÁN DUYÊN (Anantara p.) : tương quan giữa hai pháp do tính cách tiếp nối liên tục, không gián đoạn. TD : dòng tâm thức được tiếp nối liên tục từ satna tâm trước qua satna tâm sau từ vô lượng kiếp luân hồi, cho tới khi tâm được giải thoát hoàn toàn khỏi dòng sanh tử .Cho nên cái ý niệm Vô thuỷ Vô chung dành cho những ai còn mờ mịt, còn ai biết tu sẽ có ngày ra khỏi luân hồi. Bởi vì tu là sự dấn thân trên con đường giải thoát.
5-ĐẲNG VÔ GIÁN DUYÊN (Samanantara p.) : gần như đồng nghĩa với Vô-Gián Duyên, sự tương quan có tính cách tiếp nối, nhưng có những khoảng gián đoạn đều đặng. Một người ngủ đều đặn 6-7 giờ một ngày, thì trong lúc ngủ tâm tạm thời không tiếp xúc với ngoại cảnh mà quay vào trong và làm việc riêng của nó, đến khi thức dậy lại tiếp xúc với bên ngoài. Ngày qua ngày, tâm có những khoảng Đẳng vô gián.
6-ĐỒNG SANH DUYÊN (Sahajata p.) : sự tương quan do cùng sanh, cùng hiện hữu hỗ trợ nhau.Như trong buổi giảng pháp này, sự có mặt của quí vị hỗ trợ cho tôi và sự có mặt của tôi hỗ trợ cho quí vị, chúng ta cùng sách tấn nhau tu tập.
7-HỖTƯƠNG DUYÊN (Annamanna p.) : tương quan do hỗ trợ nhau như vợ với chồng hỗ trợ nhau để cùng tát bễ Đông.
8-Y CHỈ DUYÊN (Nissaya paccaya) : tương quan do cái nầy làm chỗ nương tựa cho cái kia sanh khởi : như Lục căn là chỗ nương tựa cho Lục thức cùng các tâm sở sinh khởi. Cha mẹ là Y chỉ Duyên cho con cái, nhưng khi lớn tuổi con cái sẽ là Y chỉ Duyên cho cha mẹ.
9-CẬN Y DUYÊN (Upanissaya p.) : do làm chỗ nương tựa vững chắc hơn Y-Chỉ Duyên, ta có Cảnh Cận-Y duyên giống như gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Cha mẹ già yếu mất hoàn toàn sự tự quản ( autonomie) thì con cái hoặc nhà già là Cận Y duyên
10-TIỀN SANH DUYÊN (Purejata p.) : do sự có mặt trước. Như Lục căn có mặt trước làm duyên cho sự sinh khởi của Lục thức.
11-HẬU SANH DUYÊN (Pacchàjàta p.) : do cái có mặt sau làm duyên cho cái đã hiện hữu trước. Ví dụ : sự chứng quả của vị Tỳ khưu Bakula sẽ xãy ra sau nầy đã hỗ trợ cho ông khỏi chết chìm lúc còn trẻ. Một người yếu đuối bịnh tật, cố gắng tập thiền đều đặn một thời gian cảm thấy sức khỏe cải thiện, hết đau ốm lặt vặt, người trông trẻ ra. Thân tâm an lạc nhờ thiền xãy ra sau đã ảnh hưởng trên thân thể ốm yếu trước đây. Ở đây Tâm sinh sau trợ duyên cho Sắc sinh trước bằng hậu sinh duyên.
12-TẬP HÀNH DUYÊN (Asevana p.) : do sự lập đi lập lại của sự huân tập làm cho một pháp hành trở nên thuần thục.
13-NGHIỆP DUYÊN (Kamma paccaya ) : có hai loại :
- Sự cố ý (tâm sở tư) làm điều kiện cho các tâm và sắc pháp sinh khởi (ở đây ta có Đồng sanh Nghiệp duyên)
- Những nghiệp tạo ở các kiếp quá khứ, khi có đủ điều kiện sẽ trổ quả ở kiếp sau (ở đây ta có Dị thời Nghiệp Duyên)
14-QUẢ DUYÊN(dị thục duyên,Vipaka p.) : sự tương quan do quả TD :trong Thập nhị Nhân Duyên Thức Tái sanh là một tâm quả trợ duyên cho Danh Sắc phát sinh. bằng Quả Duyên.
15-THỰC DUYÊN(Ahara p.) : tương quan do 4 loại thực phẩm làm duyên sinh ra :
- Đoàn thực : thức ăn vật chất nuôi dưỡng cơ thể.
- Xúc thực : 6 trần nuôi dưỡng 6 căn. (hay nuôi dưỡng 6 thọ)
- Tư thực : chính là nghiệp nuôi dưỡng sự luân hồi.
- Thức thực : chính là thức tái sanh nuôi dưỡng danh sắc lúc thụ thai.
16- QUYỀN DUYÊN(Indriya p.) : điều kiện do những khả năng chuyên biệt trong lãnh vực của nó (chẳng hạn mắt có khả năng thấy chứ không
nghe được)
Có 22 quyền : - 6 căn : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
- 2 phái tính : nam, nữ.
- 1 mạng quyền. (danh mạng quyền)
- 5 thọ quyền : hỉ, lạc, ưu, khổ, xã.
- 5 quyền tâm linh : tín, tấn, niệm, định, tuệ.
- 3 quyền siêu thế : Vị tri quyền, Dĩ tri quyền, Cu tri quyền là 3 mức trí tuệ của các bậc thánh từ Tu Đà Hoàn tới A La Hán
17- THIỀN DUYÊN (Jhana p.) : là những điều kiện do 7 yếu tố thiền tạo
ra cho các tâm và sắc pháp : Niệm, Trạch Pháp, Cần, Hỉ, Lạc, Định, Xả
đễ chế ngự các triền cái, lậu hoặc.
18- ĐẠO DUYÊN (Magga p.) : là những điều kiện : do 12 yếu tố :8 chánh đạo dẫn tới Niết Bàn, 4 tà đạo dẫn vào khổ cảnh : tà kiến, tà tư duy, tà tinh tấn và tà định.
19- TƯƠNG ƯNG DUYÊN : (Sampaytta p.) : là những điều kiện do sự
kết hợp, phối hợp với nhau như 4 danh uẩn : Thọ, Tưởng, Hành, Thức
cùng sanh, cùng diệt, cùng tác động hỗ trợ nhau.Hoặc Tâm với Tâm sở.
20- BẤT HỢP DUYÊN (Vippaytta p.) : là những điều kiện do sự không kết hợp, không hòa trộn của năng duyên pháp và sở duyên pháp. Như dầu và nước hay Thiện và Ác.
21- HIỆN HỮU DUYÊN (Atthi paccaya) : là điều kiện liên hệ giữa Năng Duyên và Sở Duyên do sự cùng có mặt. Như Cảnh thấy được do có ánh sáng.
22- VÔ HIỆN HỮU DUYÊN (Natthi paccaya) : là điều kiện liên hệ giữa Năng Duyên và Sở Duyên do sự không có mặt. Một loại tâm phải diệt đi thì một loại tâm khác mới sanh khởi. Như tâm Sân phải diệt đi thì tâm Từ mới sinh khởi. Ánh sáng phải tắt đi thì bóng tối mới xuất hiện.
23- LY KHỨ DUYÊN (Vigata p.) : điều kiện liên hệ do sự tách rời ra giống như Duyên số 22, nhưng Năng Duyên chưa hoàn toàn biến mất thì Sở Duyên đã bắt đầu xuất hiện. Như trong buổi hoàng hôn, ánh sáng mặt trời chưa tắt, nhưng mặt trăng đã có mặt.
24- BẤT LY KHỨ DUYÊN(Avigata p.) : điều kiện liên hệ do sự không thấy tách rời, giống như Duyên số 21 (Hiện hữu duyên). Như vua cha nhường ngôi cho con, nhưng vẫn có mặt để làm cố vấn.
B-Luận giải theo những tính cách liên hệ của 24 duyên:
- liên hệ về không gian : có Cảnh Duyên (2), Cảnh Cận-Y duyên(9)
- liên hệ về thời gian : có Đồng Sinh Duyên (6), Tiền Sinh Duyên (10), Hậu Sinh Duyên (11), Vô Gián Duyên(4), Đẳng Vô Gián Duyên(5)
- liên hệ về tính cách tương sinh : có Thực Duyên (15), Y Chỉ Duyên (8), Cận Y duyên (9).
- liên hệ về tính cách tương khắc : Thiền Duyên (17)
- liên hệ về tính cách quan trọng : Trưởng Duyên (3)
- liên hệ về tính cách chuyên biệt : Quyền Duyên (16)
- liên hệ về tính cách hổ tương : Hổ Tương Duyên (7)
- liên hệ về tính cách tương đồng : Tương Ưng Duyên (19)
- liên hệ về tính cách tương phản : Bất Hợp Duyên (20)
- liên hệ về tính cách có mặt : Hiện Hữu Duyên (21)
- liên hệ về tính cách vắng mặt : Vô Hiện Hữu Duyên (22)
- liên hệ về không xa lìa : Bất Ly Duyên (24)
- liên hệ về sự lập lại : Tập Hành Duyên (12)
- liên hệ về Nhân, Nghiệp, Quả : Nhân Duyên (1), Nghiệp Duyên (13), Quả Duyên (14)
- liên hệ về phương tiện và con đường : Đạo Duyên (18)
Tổng cộng có tất cả 24 Duyên.
Nguyên lý Duyên Hệ đưa ra những điều kiện cần và đủ để đưa tới một kết quả như lâu nay ta vẫn thường nói một cách tổng quát mà không đưa ra chi tiết : phải có thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Cũng như khi ta nấu cơm, chúng ta phải kể hết những yếu tố : gạo, nước, lửa, nồi… Nếu người nông dân không sản xuất gạo thì tất cả yếu tố khác đều vô ích ; Nguyên lý Duyên Sinh cốt cho thấy cái yếu tố căn bản, ở đây là gạo. Còn Nguyên lý Duyên Hệ xem xét tất cả các điều kiện quan hệ hoặc hoàn cảnh cần thiết để làm thành món cơm. Ngoài ra giữa hai yếu tố của Duyên Sinh, chẳng hạn giữa Vô Minh và Hành những yếu tố của Duyên Hệ có thể chen vào để chi phối. Hoặc giả 2 yếu tố của Duyên Hệ có thể phối hợp lại để tác động cùng một lúc tạo thành một Duyên mới : Cảnh Duyên + Trưởng Duyên = Cảnh Trưởng Duyên. Do đó nên mới có câu “trùng trùng duyên khởi”.
Các nhà khoa học, mặc dầu không có nghiên cứu Phật giáo, nhưng trong thực tiễn quan sát và thí nghiệm, cũng đã nhìn thấy phần nào những sự liên hệ như thế giữa những phần tử vật chất nên họ đã đưa ra những ý niệm như yếu tố tiền sinh( facteur prédisposant), yếu tố trợ tạo (facteur favorisant), yếu tố nguy hại (facteur de risque)… Phật giáo đưa ra một cái nhìn tổng thể có tính cách tri thức luận (épistémologie) về những yếu tố thời gian, không gian, vật chất và tinh thần…
C-Áp dụng : theo những tương quan Danh, Sắc, Danh-Sắc, Khái niệm
(6) Danh
-> Danh
(5) Danh
-> Danh Sắc
(1) Danh
-> Sắc
(1) Sắc
-> Danh
(2) Danh Sắc Khái niệm
-> Danh
(9) Danh Sắc
-> Danh Sắc
4. Vô gián
anantara
5.Đẳng vô gián
samanantara
12. Tập hành
āsevana
19. Tương ưng
sampayutta
22.Vô hiện hữu
natthi
23. Ly khứ
vigata
1. Nhân hetu
13.Nghiệp
kamma
14. Quả vipāka
17.Thiền jhāna
18. Đạo magga
11. Hậu sanh
pacchājāta
10. Tiền sanh
purejāta
2. Cảnh
ārammaṇa
9. Cận y
upanissaya
3. Trưởng
adhipati
6. Đồng sanh
sahajāta
7. Hỗ tương
aññamañña
8. Y chỉ
nissaya
15. Thực
āhāra
16. Quyền
indriya
20. Bất hợp
vippayutta
21. Hiện hữu
atthi
24. Bất ly
avigata
Muốn tìm hiểu Nhân, Duyên, Quả trước hết phải xem xét cái quả, rồi từ từ tìm ngược lại cái nhân. Ví dụ muốn có một nhãn thức (quả) một cách tổng quát chúng ta cần có 4 điều kiện sau :
1/-Nhãn thức là một tâm quả, nhân duyên trực tiếp của nó là Tâm Khán Ngủ môn , có mặt trước nó trong lộ trình tâm nhãn môn. Sự tương quan ở đây là Danh => Danh. Ta có những duyên sau đây :Vô-gián duyên(4), Đẳng Vô-gián duyên (5), Vô-gián Cận-Y duyên(9b), Vô Hiện-hữu duyên(22) (vì tâm K5M phải biến mất thì Nhãn thức mới xuất hiện được, Ly-khứ duyên(23)
-Điều kiện đủ để có Nhãn thức là phải có sự phối hợp của 7 tâm sở biến hành : xúc, thọ, tưởng, tư, định, mạng quyền, tác ý.Trong đó Tác ý làm chủ để hướng tâm tới đối tượng. Sự tương quan ở đây là giữa Danh=>Danh, có tính cách đồng sinh, hỗ tương, tương ứng, nghiệp, quả. Ta có ở đây 10 duyên ( nếu kể những duyên không trùng tên) : 15b,13a, 16c, 7, 14, 19, 6, 8a, 21a, 24.
-Vì là một tâm quả, kết quả của nghiệp, ta cũng có Nghiệp duyên.
2/-Kế đến là phải kể Nhãn vật ( mắt và thần kinh nhãn). Nhãn vật phải có mặt trước để làm căn cứ cho Nhãn thức xuất hiện. Sự tương quan ở đây là giữa Sắc=> Danh ; với tính cách tiền sanh là quan trọng nhứt và Vật ( vatthu) là quan trọng thứ nhì. Ta có 6 Duyên : 16a, 8b, 10a, 20b, 21b, 24.( xem bảng đối chiếu)
3/-Điều kiện sau đó là Ánh sáng : bởi vì trong bóng tối sẽ không thấy cảnh. Sự tương quan ở đây là giữa Sắc=> Sắc, ta có Tự-Nhiên Cận-y duyên (9c) và Sắc mạng-quyền duyên (16b).
4/-Sau cùng điều kiện cần để có 1 nhãn thức là phải có Cảnh (đối tượng), bởi vì thấy là phải thấy 1 cái gì. Sự tương quan ở đây là giữa Sắc(cảnh)=> Danh (nhãn thức), với tính cách là Cảnh duyên và Tiền sanh duyên, ta có 4 duyên : Cảnh duyên (2), Cảnh Tiền-sinh duyên(10b), Cảnh Tiền-sinh Hiện-hữu duyên(21b), Cảnh Tiền-sanh Bất-ly (10b+24).
KẾT LUẬN
Từ hai nguyên lý Duyên Sinh và Duyên Hệ chúng ta có thể rút ra được những hệ luận sau đây :
1-Không có gì hiện hữu mà không có Nhân Duyên hợp trợ và sinh thành Nhân khi hội đủ Duyên sẽ sinh ra Quả.
2-Vật chất tuân theo những Định luật của nó. Tâm thức cũng có những Định luật của nó.
3-Vật chất ảnh hưởng đến tâm thức. Tâm thức cũng ảnh hưởng đến vật chất.
4-Không có cái Ngã nào chen vào làm chủ vật chất và tinh thần.
5-Không có Thượng Đế nào làm chủ vật chất và tinh thần.
6-Vô thường, Vô ngã là chân lý phổ quát.
7-Khổ là chân lý dành cho chúng sanh hữu thức.
8-Tái sanh và luân hồi là sự thật hiển nhiên của chúng sanh hữu thức.
9-Mỗi người đều tùy thuộc 3 yếu tố : Nghiệp Quả, Hoàn cảnh và Ý chí.
Nguyên lý Duyên Sinh đã được Đức Phật phát hiện ở canh ba trong đêm ngài đắc đạo quả Chánh Đẳng Giác. Nguyên lý Duyên Hệ được ngài nghiền ngẫm trong tuần lễ đầu tiên sau khi thành đạo. Những Tuệ giác nầy đã giúp Ngài giải thích bản thể của con người nói riêng và chúng sanh nói chung trong cuộc trầm luân vô tận. Ngài đã tuyên bố về định luật nầy như sau : “Nầy Ananda, chuỗi dây Tùy thuộc Phát sanh rất sâu sắc. Do không thấu hiểu, không thấm nhuần định luật nầy nên thế gian giống như một nùi chỉ rối, một tổ chim đan, một bụi tre sậy. Do đó mà con người không thoát khỏi tái sanh vào những cõi sinh tồn thấp kém, những trạng thái phiền muộn tiêu hoại và đau khổ trong vòng sanh tử luân hồi. Người nào hiểu được chuỗi Tùy thuộc Phát sanh sẽ hiểu được giáo pháp.”
Thật là cần thiết cho một phật tử phải hiểu sâu xa giáo huấn nầy.Trước hết phải tìm hiểu qua sách vở, sau đó phải bổ túc bằng sự luyện tập tâm linh để có thể nhìn thấy định luật nầy trong chính thân tâm và đời sống của mình, có như thế mới mong vượt thoát vòng sinh tử luân hồi. Tu phải chăng là sự dấn thân trên con đường chuyển nghiệp, muốn chuyển nghiệp phải thanh lọc tâm, muốn thanh lọc tâm phải thiền ; có như vậy mới tiến bước vững chắc trên con đường giải thoá

THƠ VÀ VẬT LÝ (TRAO ĐỔI VỚI NHÀ THƠ LÊ ĐẠT)

Đông La


(Lê Đạt ngồi bên tay phải Bác Hồ)


Lê Đạt là một tác giả lão thành, nhưng tinh thần ông lại rất trẻ trung. Ông luôn khao khát đổi mới thơ ca dựa trên cơ sở những tri thức cao nhất mà trí tuệ nhân loại đã đạt đến. Những bài viết rất nhỏ của ông luôn nhắc đến những thành tựu rất lớn của khoa học như thuyết Tương đối, cơ học Lượng tử, nguyên lý Bất định, nguyên lý Bổ sung... Chúng chính là những thành quả chủ yếu của vật lý hiện đại, cái xương sống của nhận thức, cái xa lộ tri thức mà từ đó sẽ lan tỏa ra các đại lộ, mọi con đường, mọi ngõ ngách làm nên nền văn minh. Trong khi đó, nhiều tác giả trẻ vẫn quan niệm về cái mới của thơ với những tiêu chí vụn vặt về hình thức như thơ có vần hay không, câu thơ ngắn hay dài, viết cái tôi hay cái ta, viết rõ nghĩa hay mù mờ, sex hay không sex, thô tục hay không thô tục...



Dựa trên cơ sở những khám phá của khoa học, đặc biệt là những phát minh của vật lý lý thuyết, loài người đã phải điều chỉnh lại nhiều nhận thức lầm lẫn về triết học và các ngành Khoa học Xã hội khác, và cả trong tôn giáo; đặc biệt, trong sự sáng tạo nghệ thuật, những nhà siêu thực là những người đã đi tiên phong khi dựa trên những khám phá về vô thức, trực giác, thuyết tương đối, cơ học lượng tử... để đưa ra một quan niệm sáng tác mới, cho có một hiện thực cao siêu, một hiện thực đích thực mà nghệ thuật cần phải thể hiện, đó chính là siêu thực. Ở Việt Nam, Lê Đạt là một trong số rất ít người nhiệt thành truyền bá cái tinh thần sáng tạo nghệ thuật dựa trên cơ sở khoa học ấy, ông viết: “Nhà nghệ thuật thiếu lý tính chỉ là một nghệ sĩ thứ phẩm mắc bệnh vĩ đại cũng cần chữa trị hoặc nên đổi nghề (Tạp chí Tia sáng xuân 2002, tr.25). Thế nhưng, có điều rắc rối ở đây là, để hiểu cho đúng được những tri thức cao siêu của vật lý lý thuyết lại không đơn giản, nó khó khăn ngay cả với những nhà vật lý nếu không theo chuyên ngành này. Ngay đến S. Hawking, nhà bác học tật nguyền người Anh, hiện đang ở trên tuyến đầu của khoa học, cũng phải viết rằng, để hiểu thấu được những lý thuyết vật lý mới, bạn phải là một chuyên gia, mà dầu có là một chuyên gia đi nữa cũng chỉ hy vọng nắm bắt được một phần mà thôi. Riêng người viết bài này tuy học Hóa, nhưng khoa học là một thể thống nhất, hơn nữa lại từng làm việc tại các viện và trung tâm nghiên cứu, nên cũng buộc phải học vật lý và những môn liên quan mật thiết đến vật lý như Hóa lượng tử; vì thế tự thấy cũng có điều kiện hơn một chút một nhà thơ thuần túy mơ tưởng, bước vào cái địa hạt cao siêu huyền bí của vật lý lý thuyết. Hơn nữa, bản thân cũng rất thích vật lý, đơn giản chỉ vì lịch sử phát triển của nó hay như một cuốn tiểu thuyết vĩ đại, đầy kịch tính, các nhân vật lại đều là những người kiệt xuất; và với một ý nghĩa thực dụng hơn, cầm bút viết phê bình mà không hiểu những phát minh nền tảng của khoa học thì không thể viết cao sâu được khi phải đụng chạm đến những vấn đề liên quan đến triết lý, tư tưởng và sự phát triển. Tôi thật e ngại khi thấy có tình trạng một số ít người không có chuyên môn khoa học cơ bản nhưng lại tung tăng đi vào các khu rừng tri thức như vào chỗ không người, nên có quá nhiều sai lạc. Riêng Lê Đạt, thật tiếc, khi ông chưa hiểu được chính xác những vấn đề khoa học hiện đại nhưng ông lại có cao vọng dựa vào chúng để đưa ra những nguyên lý sáng tạo thơ ca.



Vậy dựa trên một cơ sở sai lạc để đưa ra cái mới thì cái mới cũng sẽ sai lạc. Dù rất kính trọng tinh thần trẻ trung, đổi mới của Lê Đạt, hôm nay tôi vẫn buộc phải viết bài thảo luận này.



Bài “Thì... là...” của Lê Đạt là bài tôi chú ý đầu tiên đăng trên Tạp chí Sông Hương số 127, tháng 9-1999, dựa trên Vật lý Lượng tử, ông bàn đến sự phát triển của thế giới hiện đại: “Ánh sáng vừa là hạt vừa là sóng... Sóng và hạt không loại trừ nhau và cùng song song tồn tại./ Đó là nền tảng của nguyên lý bổ sung cũng như hệ quả của nó, phương châm chung sống hoà bình và thế giới đa cực”. Chỉ độc chuyện viết chữ hạt trước haysóng trước trong câu trên đã có nhiều điều cần bàn rồi. Trong Vật lý Lượng tử, người ta chia ra hai loại hạt: loại chất và loại trường(sóng); loại chất là những hạt như những viên gạch xây nên thế giới vật chất; loại trường là những hạt ảo, là lực liên kết, tức là “vữa” gắn kết các hạt vật chất tạo nên thế giới chúng ta đang sống. Ánh sáng là lực của trường điện từ, theo Einstein, tronghiện tượng quang điện, nó cũng thể hiện tính chất hạt. Vì vậy, câu trên của Lê Đạt phải viết: “Ánh sáng là sóng lại vừa có tính chất hạt...” mới đúng. Tùy theo điều kiện, nó là sóng hoặc là hạt, chứ không phải “song song tồn tại”, “vừa là hạt vừa là sóng”.



Cũng trong bài trên, khi bàn về đổi mới thơ ca, Lê Đạt viết: “sống là chống lại ăngtropi, sống là đổi mới.../ Một nền thơ lành mạnh sống động không thể không luôn luôn đổi mới. Đổi mới là lội ngược dòng suy thoái. Đổi mới là tạo ra ăngtropi âm nó chính là sinh tố cải lão hoàn đồng của trí tuệ”.



Có một sự không ổn khi Lê Đạt dùng khái niệm “ăngtropi”ở trên. Vậy ăngtropi là gì? Trong cơ học thống kê, entropy là đơn vị đo lường mức độ hỗn loạn của hệ. Sự tăng độ hỗn loạn, sự đổ vỡ cái cũ là một quy luật khách quan, người ta chỉ có thể can thiệp bằng việc tiếp thêm năng lượng để có thể giảm sự hỗn loạn hoặc cao nhất cũng chỉ giữ được trạng thái trật tự cũ. Trong khi đó ngược lại, đổi mới thơ ca nói riêng và nghệ thuật nói chung là phải xóa bỏ cái trật tự cũ để sinh ra cái mới. Như vậy, Lê Đạt “muốn nói cho có tính khoa học”, muốn đổi mới thì cần phải làmtăng ăngtropi, còn viết như trên, nghĩa là Lê Đạt đã cổ xúy cho việc dẫm chân tại chỗ, ngược với ý ông muốn diễn tả.



Trong tạp chí Tia sáng xuân 2002, chuyên đề bàn về trí tưởng tượng, Lê Đạt viết: “Khoa học Tự nhiên và quyết định luận của nó tuởng như đã có thể vĩnh viễn ngự trị tất cả thế giới./ Những thể nghiệm nghiêm ngặt và công phu tại các phòng thí nghiệm khiến các nhà khoa học tin rằng cuối cùng đã nắm được hiện thực và do đó có thể điều khiển được nó - như tiểu Thượng đế thực sự”.



Câu này Lê Đạt viết ngược với tinh thần làm việc khoa học cũng như lịch sử ngành vật lý. Cuối thế kỷ XIX, đúng là các nhà vật lý tưởng đã “nắm được hiện thực” nhưng “Những thể nghiệm nghiêm ngặt và công phu tại các phòng thí nghiệm khiến các nhà khoa học” không tin rằng chứ không phải “đã tin rằng” “cuối cùng đã nắm được hiện thực” như Lê Đạt viết. Vì chính nhờ những thí nghiệm đó mà các nhà khoa học đã phát hiện ra những điều mà Huân tước Kelvin coi là “hai gợn mây nhỏ” còn làm vẩn đục bầu trời trong xanh bao la của khoa học: đó là kết quả của thí nghiệm đo bức xạ của vật đen khi bị nung nóng và kết quả thí nghiệm đo vận tốc ánh sáng; hai kết quả đó đã chứng tỏ tính ngang bướng của tự nhiên, không tuân theo suy luận logic của tri thức vật lý hiện có. Và chính “hai gợn mây nhỏ” đó đã khiến các nhà khoa học không yên tâm, và trong quá trình tìm hiểu để lý giải chúng, họ đã không ngờ rằng mình đã đưa lịch sử vật lý sang một thời đại mới, với hai cột trụ là Thuyết Tương đốivà Cơ học Lượng tử.



Lê Đạt viết tiếp: “Ngày hội đuơng đông vui rôm rả lại bỗng xuất hiện những khách không mời mà đến. Niels Bohr ông tổ thứ nhất của ngành vật lý lượng tử quẳng ra một lời phát biểu hết sức “chối tai”: / Hiện tượng không phải là hiện thực, nó là hiện thực cộng với dụng cụ quan sát và người quan sát./ Chưa hết ông còn bồi thêm một đòn trí mạng nữa thông qua lý thuyết bổ sung:/ Ánh sáng vừa là hạt vừa là sóng”.



Với các nhà bác học, tôn vinh bằng lời lẽ thế nào cũng chưa xứng với họ, nhưng Lê đạt viết như trên đã không đúng với lịch sử nghiên cứu Cơ học Lượng tử. Thứ nhất Borh không phải là “khách không mời mà đến” mà ông cũng là một chủ nhân bữa tiệc vật lý. Chính dựa vào phát minh của thầy (Rutherford) và thầy của thầy mình (J.J.Thomson), ông đã đưa ra ”Thuyết cấu tạo nguyên tử” theo tinh thần Cơ học Lượng tử.



Thứ hai, Borh không phải là “ông tổ thứ nhất của ngành vật lý lượng tử”. Danh hiệu đó nên dành cho M. Planck thì đúng hơn. Để chiều theo tính ương bướng của tự nhiên trong hiện tượng phát xạ của vật đen như đã nói, ông đã đưa ra một giả định “ngược đời”: năng lượng được vật đen bức xạ không liên tục mà chỉ từng lượng nhỏ, tức lượng tử, và ông đã đúng! Đó chính là viên gạch đầu tiên của lâu đài vật lý lượng tử. Tiếp đến ông tổ thứ hai phải kể là A. Einstein, dựa vào phát minh của Planck, cho: trong hiện tượng quang điện, ánh sáng là sóng nhưng đã thể hiện tính chất của một hạt. Rồi mới đến lượt Borh, đã áp dụng những thành tựu trên để cải tiến thuyết cấu tạo hành tinh nguyên tử của Rutherford theo tinh thần lượng tử, cho khớp với kết quả thí nghiệm về quang phổ.



Còn câu phát biểu của Borh nói về thế giới vi mô không phải là “chối tai” mà thực chất rất êm tai bởi ông có cái nhìn duy vật. Câu: “Hiện tượng không phải là hiện thực, nó là hiện thực cộng với dụng cụ quan sát và người quan sát” mà Lê Đạt đã dẫn cần phải chỉnh lại theo đúng tinh thần của ông: Hiện tượng quan sát được không phải là hiện thực mà là thuộc tính của hiện thực đã chịu tác động của dụng cụ đo, còn Lê Đạt viết thêm “và người quan sát” nữa là sai, vì đó mới là quan điểm duy tâm chủ quan “chối tai” của phái thực chứng theo W. Heisenberg, cho: hiện tượng trong thế giới vi mô là thực tại phụ thuộc vào chủ quan người quan sát, tức cho ý thức quyết định được vật chất.



Lê Đạt tiếp: “Chưa hết ông còn bồi thêm một đòn trí mạng nữa thông qua lý thuyết bổ sung:/ “Ánh sáng vừa là hạt vừa là sóng”.



Thực chất phát minh về lưỡng tính sóng hạt của thế giới vi mô công đầu phải kể là Planck, rồi Einstein như đã nói ở trên. Tiếp theo là A. Compton, bằng những thí nghiệm tinh xảo đã chứng tỏ ánh sáng đã thể hiện tính chất như một hạt khi va chạm đàn hồi với điện tử. Sau một phần tư thế kỷ, thí nghiệm của Compton này mới làm Planck an lòng được, vì nó đã chứng thực giả thuyết lượng tử “ngược đời” của ông. Cuối cùng phải kể đến L. De Broglie đã đưa ra giả thuyết điện tử cũng có tính chất sóng, và đã được kiểm chứng đúng. Vậy thực chất Borh không phải phát minh ra lưỡng tính sóng hạt mà ông chỉ dựa trên những kết quả đã có để đưa ra nguyên lý bổ sung, cho: hạt hoặc sóng là tính chất của thế giới vi mô thể hiện trong những điều kiện quan sát khác nhau, chúng mâu thuẫn nên cần được bổ sung để phản ánh các mặt khác nhau của đối tượng nghiên cứu, chứ không nên gộp lại sẽ phi logic.



Lê Đạt viết tiếp: “Tôi không phủ nhận vai trò những dụng cụ tinh xảo, nhưng tôi có cảm giác về số người quá nhấn mạnh đến vai trò (quyết định) của chúng./ Người ta kể lại rằng khi vợ chồng nhà bác học Einstein được mời đến thăm một đài quan sát thiên văn nổi tiếng tại Hoa Kỳ, vị giám đốc có vẻ hơi tự đắc hỏi vợ nhà bác học:/ “Bà thấy trang thiết bị ở đây thế nào?”/ Vợ nhà bác học điềm nhiên trả lời:/ “Hơi nhiều. Khi nghĩ ra thuyết tương đối ông nhà tôi chỉ có một cuốn sổ tay và một cây bút chì”.



Câu này Lê Đạt muốn đề cao trí tưởng tượng. Trong nghiên cứu khoa học nói chung, việc làm thí nghiệm và sự phân tích các hiện tượng nảy sinh để đưa những suy luận bằng trí tưởng tượng để đạt được kết quả là một thể thống nhất. Còn nếu muốn chia ra thì e rằng Lê Đạt đã đề cao ngược. Theo triết học duy vật biện chứng, trí tưởng tượng chỉ nảy sinh được từ thực tại chứ không thể từ hư vô. Chính hiện tượng nguyệt thực đã chỉ cho loài người thấy là trái đất tròn khi nhìn thấy bóng của nó là hình tròn in trên mặt trăng. Lịch sử khoa học chỉ ra, trí tượng chỉ thực hiện tốt trong một phạm vi khi suy luận lôgic được tuân theo, nhưng tự nhiên luôn ương bướng như đã trình bầy ở trên, nó luôn đưa ra những kết quả ngược với trí tưởng tượng, buộc các nhà khoa học phải nghĩ cách khác, như Planck đã phải mò ra chuỗi tính năng lượng cho khớp với tính phát xạ gián đoạn; và Borh, để khớp với các vạch quang phổ nguyên tử, đã tự ý cho điện tử chỉ chuyển động theo những quỹ đạo được phép, không phát xạ theo những quy luật đã biết của vật lý cũ, chỉ phát xạ khi rơi vào quỹ đạo có mức năng lượng thấp hơn. Vậy đoạn đối thoại: “Bà thấy trang thiết bị ở đây thế nào?”/ Vợ nhà bác học điềm nhiên trả lời:/ “Hơi nhiều. Khi nghĩ ra thuyết Tương đối, ông nhà tôi chỉ có một cuốn sổ tay và một cây bút chì”, chỉ nên coi là câu nói vui của vợ Einstein, còn nếu bà nói thực thì chứng tỏ bà không hiểu gì công việc của chồng mình.



Gần như toàn bộ các nhà vật lý trong lịch sử đã công kênh cho Einstein đứng trên vai mình để hái trái táo “thuyết Tương đối”, đặc biệt từ phép biến đổi Lorentz và kết quả đo vận tốc ánh sáng của Michelson. Chỉ trong năm 1905, Einstein đã đưa ra 5 phát minh, trong đó có thuyết Tương đối hẹp, một phát minh vĩ đại; mà nếu chỉ một mình ông làm từ đầu, chắc có sống đến nhiều đời cũng không làm nổi. Nói vậy thì ông có vĩ đại không? Ông vẫn hoàn toàn vĩ đại, vẫn xứng đáng là công dân ưu tú nhất của thế giới trong thế kỳ XX mà TIME đã chọn, vì để đưa ra những phát minh, ông phải dũng cảm dựa vào những điều kỳ lạ không ai dám tin, tức phải chấp nhận thời gian, không gian không phải là tuyệt đối, tách bạch, mà chúng co giãn theo chuyển động và liên quan mật thiết với nhau; và nhân loại đang sống không phải trong một không gian phẳng mà bị uốn cong bởi trường hấp dẫn. Và thật tuyệt vời là người ta lại có thể kiểm chứng được những điều kỳ lạ đó, nên những phát minh của Einstein là đúng! Những đồng hồ tinh xảo y hệt, được những người đeo trên máy bay, bay xuôi chiều và ngược chiều vòng quay trái đất (để làm tăng sự khác biệt về vận tốc của hai loại đồng hồ), sau thí nghiệm, người ta đã thấy hai đồng hồ chỉ khác nhau. Điều này đã chứng tỏ thời gian đã co giãn theo vận tốc đúng với thuyết Tương đối. Khi nhật thực, người ta cũng đã thấy không gian đúng là cong, bởi nhận thấy tia sáng từ một ngôi sao, đi qua không gian cạnh mặt trời đến trái đất, đã bị uốn cong!



Gần đây nhất, qua trang web chungta.com, tôi đã đọc bàiThơ và vật lý hiện đại của Lê Đạt. Bài viết như một lời tâm sự rất xúc động của một nhà thơ già sau chặng đường đời dài đầy thăng trầm, với một tâm hồn nhạy cảm và vẫn với một trí óc đầy suy tư, ông luôn khát khao nhận diện được thế giới hiện đại và đổi mới thơ ca. Ông kể lại cái duyên kỳ ngộ cho ông gặp vật lý rồi đắm say nó qua một kỳ vận hạn đã đẩy ông vào: “một tình trạng hết sức trầm luân về vật chất cũng như tinh thần”; ông đã được “...một anh bạn... (đó là nhà vật lý lý thuyết Đặng Mộng Lân) giới thiệu với tôi cuốn Einstein: cuộc đời, tư tưởng và lý thuyết của Kouznetsov”; “Lâu lắm tôi mới được đọc một cuốn sách khoa học viết hấp dẫn đến thế. Tôi đọc đi đọc lại nhiều lần. Cuốn sách đã dậy tôi rất nhiều về lý thuyết tương đối nhưng hơn thế nó còn dậy tôi một bài học lớn lao về cách sống và cách nghĩ của một người tìm tòi”. Ông đã ngẫm ra một điều rất đúng: “Khoa học thực nghiệm cổ điển đã đem lại cho nhân loại những bước tiến lớn thoát khỏi những vũng lầy mê tín...” Nhưng ông lại tiếp “...nhưng nó cũng có nhược điểm là dễ khiến người ta quá chú trọng đến những hiện tượng tai nghe mắt thấy mà lơ là những khía cạnh sâu xa và bí ẩn của tự nhiên mà chỉ tư duy mới nhìn thấy” thì không được đúng lắm về vật lý. Vì vật lý cổ điển hay hiện đại cũng đều phải sử dụng cái nhìn của tư duy. Lý thuyết điện từ của Maxwell, các nhà hóa học, sinh học của “khoa học cổ điển” cũng đã buộc phải nhìn thấy những cấu trúc vật chất mà các giác quan không thể nhận thấy rồi. Còn riêng vật lý, cuối thế kỷ XIX, người ta không nhìn thấy những quy luật mới do chưa ai có đủ tài để nhìn thấy chứ không phải tại phương pháp nghiên cứu thiên về giác quan kìm hãm. Và chính Einsten là người mà lịch sử vật lý cần đến đã xuất hiện, bàn tiệc đã dọn sẵn, và ông chỉ cần chỉ cho mọi người cách ăn mà thôi.



Lê Đạt viết: “Những nguyên lý bất định, nguyên lý bổ sung của vật lý lượng tử đã giải phóng nhân loại khỏi lý thuyết nhân quả tất định cứng nhắc...Chúng đã đánh một đòn chí mạng vào lý thuyết chết người "loại trừ vế thứ ba" của logic cổ điển từng gây thảm họa cho loài người (mà không phải chỉ trong phạm vi tư tưởng). Không nên quên hệ quả cao điểm của nó là định thức “Kẻ nào không đi với ta là chống lại ta". Các nhà vật lý lượng tử đã góp phần thiết kế cho nhân loại một phạm trù mở, cái khác. Từ trước đến nay tư duy cổ điển chỉ vận hành trên hai trục đúng sai giờ đây cái vạc hai chân kia đã thêm một trụ mới, trụ thứ ba về cái khác góp phần tạo nên một cách ứng xử mới, mở ra kỷ nguyên đối thoại thay thế cho thói quen độc thoại chuyên chế và bạo lực”. Ở đây, Lê Đạt dựa vào vật lý để suy ngẫm như trên là không khớp, vì thực ra lưỡng tính sóng hạt của cơ học lượng tử ngụ ý: trong cái này có cái kia và ngược lại trong cái kia có cái này chứ không phải “có cái thứ ba” như Lê Đạt viết.



Lê Đạt tiếp: “Từ khi cầm bút tôi đã quan niệm việc cách tân thơ Việt là mục đích quan trọng nhất của đời mình... Vật lý hiện đại (và thơ hiện đại) khuyến khích những giả thuyết thoạt nhìn như rồ dại nhưng có khả năng mở ra những khía cạnh kỳ bí của ngoại giới (cũng như thiết kế những tập họp chữ mới vượt qua biên giới cảm nhận sang những vùng tri nhận phức hợp và quyến rũ, chuyển sự chú tâm của người làm thơ vào những tác hiệu (siguthants) đa nghĩa sống động hơn là vào những thụ hiệu (siguihés) minh bạch nhưng cằn cỗi)”. Tôi rất ủng hộ sự khao khát đổi mới, tán thành cái quan niệm thơ hiện đại cần phải đưa ra được cấu trúc mới (tôi thấy có nét tương đồng với các công thức vật lý chuyển tải những quy luật của tự nhiên). Ý của Lê Đạt: “Thiết kế những tập họp chữ mới vượt qua biên giới cảm nhận sang những vùng tri nhận phức hợp và quyến rũ, chuyển sự chú tâm của người làm thơ vào những tác hiệu (siguthants) đa nghĩa sống động hơn là vào những thụ hiệu (siguihés) minh bạch nhưng cằn cỗi” có thể là một tuyên ngôn rất hay về thơ hiện đại. Chính bản thân tôi cũng đã tâm niệm điều này rất nhiều khi làm thơ, đã muốn dựng lên những bài thơ với kết cấu sao cho chúng như những bức chân dung của tư tưởng và tình cảm, muốn làm sao đó có thể thể hiện được một cách súc tích nhất sự phức hợp của tâm hồn con người cũng như thế giới ngổn ngang ta đang sống. Tiếc là cái tuyên ngôn của Lê Đạt trên lại không liên quan gì đến tri thức vật lý mà ông dựa vào: “Lý thuyết về những phô tông đã khẳng định tầm quan trọng hàng đầu của những cấu trúc gián đoạn thay thế những cấu trúc liên tục tăng chế ngự khoa học cũng như thơ ca trong nhiều thế kỷ”. Tính liên tục và tính lượng tử chỉ khác nhau như một sợi dây liền và một sợi dây đứt đoạn. Tôi thấy cả thơ cũ cũng như mới đều là gián đoạn cả, mỗi con chữ như một lượng tử, rồi mỗi câu thơ, ý thơ, khổ thơ cũ hay mới thì cũng phải gián đoạn. Có lẽ ở đây Lê Đạt muốn nói đến sự diễn tả ý tứ liền mạch và gián đoạn, và theo ông cần phải thể hiện ý đứt đoạn bằng cách “cần phải phá vỡ “những quy luật nghiệt ngã nhiều khi bảo thủ của ngữ pháp”. Tôi thấy ở đây ông lại giống không ít người rơi vào chủ nghĩa hình thức, cho đổi mới thơ chỉ bằng thay đổi hình thức giản đơn. Theo tôi, sự chặt khúc ý tưởng bằng sai ngữ pháp chỉ có thể tạo ra được cái lạ, cái ngô nghê, còn cái thuộc tính chính của thơ mà ông đã tuyên ngôn ở trên là cần phải tăng sức biểu cảm, biểu đạt thì không thể được. Mà nếu dựa vào khoa học mà xét thì lại càng không thể. Tất cả các định luật, công thức của khoa học đều phải thống nhất với nhau, còn những chỗ chưa thống nhất tức còn “sai ngữ pháp” thì chính là những bài toán mà khoa học chưa giải được. Ngữ pháp thực chất chỉ là quy tắc của ngôn ngữ, còn ngôn ngữ cũng chỉ là công cụ giao tiếp của con người, không phải là thực tại khách quan. Khi sử dụng ngôn ngữ sai thì hoặc do khả năng ngôn ngữ, hoặc do trạng thái tâm thần người sử dụng, chứ hoàn toàn không thể có chuyện: diễn tả hiện thực một cách “sai ngữ pháp” thì sẽ sâu sắc toàn diện hơn. Trong tác phẩm, ngôn ngữ nhân vật có thể sai ngữ pháp, còn nhà văn viết tác phẩm mà sai ngữ pháp là do học dốt. Để diễn đạt những điều phức tạp, thực ra người ta càng phải viết cho chuẩn mực hơn.



Hiện tại, thủ pháp “phá vỡ ngữ pháp” thể hiện nhiều kiểu, như câu thiếu thành phần, hoặc ghép các hình ảnh ngẫu nhiên thành câu phi lô-gic ngữ nghĩa... giống như bên hội họa phá vỡ hình thể khi vẽ vậy. Lịch sử ngôn ngữ hội họa đi từ giống thật, đến khác thật, đến trừu tượng, rồi lại quay lại “hiện thật” (như các trường phái trình diễn, xếp đặt). Vậy cái nào là chân lý? Tôi đã tự hỏi, hội họa đã có trình diễn, sắp đặt, không biết đến bao giờ sẽ có thơ tương tự; nếu có, người ta sẽ diễn tả nụ hôn như thế nào, sẽ cắt những cặp môi trai gái tẩm ướp rồi dán lên giấy chăng?



Hình thức thơ là quan trọng nhưng nó không quyết định được phẩm chất của thơ, không có chất, nó sẽ rỗng, giống như thức ăn không có gluxit, protid, lipit... vậy. Con người khi đói ăn cái gì cũng ngon, nhưng lúc no nê, người ta kinh sợ trước những bàn tiệc tú hụ với những món được tẩm ướp đủ kiểu, làm cho không còn nhận ra những mùi vị cơ bản của thức ăn nguyên chất nữa, tất cả đều mặn mặn, ngọt ngọt, beo béo, cay cay, dai dai, ròn ròn. Ở thành phố ba mươi năm rồi, tôi vẫn luôn nhớ về dĩa thịt gà luộc giản đơn rắc lá chanh thơm của mẹ và những món ăn dân giã. Nhiều quán “Cơm Hà Nội” ở Sài Gòn đã cố bắt chước cái nguyên sơ ấy, nhưng không tài nào tạo ra được đúng cái hương vị tuyệt vời của nó, bởi giữa thời đại cái gì cũng công nghiệp này, thực phẩm cũng bị ép thành thực phẩm, chúng không đủ không gian và thời gian để tẩm hút linh khí của trời đất để trở thành thực phẩm thứ thiệt. Từ đây tôi liên tưởng đến thơ ca. Nếu tâm hồn, tư duy nhà thơ cũng tẩm hút không đủ những cay đắng, mặn chát, ngọt bùi của đời sống để có thể cung cấp chất liệu đích thực cho thơ ca, chỉ với một chút vốn ngôn ngữ trống rỗng, liệu có nhào nặn nổi thành thơ mới hay hơn thơ cũ được không?



Với Lê Đạt, tôi chưa đọc thơ ông nhiều nên không dám nhận xét. Tôi luôn trân trọng tinh thần đổi mới của ông, tiếc là bài này tôi lại phải viết những điều phản bác những lý luận của ông. Dựa vào tri thức, người ta buộc phải hiểu biết sâu sắc tri thức, như nhà khoa học muốn làm ra sản phẩm phải hiểu đúng mới đưa ra được quy trình sản xuất. Nếu hiểu lờ mờ không thể làm gì được. Khi ấy, tri thức giống như con dao cùn của người mở đường, không thể phát quang được con đường dẫn đến vùng đất mới mầu mỡ, và như thế đã đẩy anh ta rơi vào cái tình cảnh như dân gian thường nói: bỏ đường quang đâm quàng bụi rậm. Vậy có nên không?

http://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/tho_va_vat_ly_hien_dai-4.html

Thứ Ba, 12 tháng 12, 2017

Các sự kiện bất thường


Thứ nhất là vụ khủng hoảng con tin đầy kịch tính tại xã Đồng Tâm. Từ 15/4/2017, người dân Đồng Tâm đã bắt giữ 38 người (chủ yếu là cảnh sát cơ động) làm con tin để trao đổi lấy những người của họ bị chính quyền bắt cóc. Tuy cuộc khủng hoảng này đã được tháo ngòi kịp thời, tránh được xung đột đẫm máu, nhưng hệ quả của việc chiếm đoạt đất đai thô bạo và thất tín với dân vẫn kéo dài, làm mất lòng tin của dân đối với chính quyền. 

Thứ hai là vụ khủng hoảng dầu khí Repsol. Từ giữa tháng 6/2017, lực lượng cảnh sát biển Việt Nam đối đầu với lực lượng “hải cảnh” quá mạnh của Trung Quốc tại bãi Tư Chính (Vanguard Bank), khi Trung Quốc đòi Việt Nam và Repsol (Tây Ban Nha) dừng khoan tại lô 136-03, thuộc chủ quyền của Việt Nam (bên rìa “đường chín đoạn”). Trước sức ép của Trung Quốc (đe dọa tấn công Trường Sa), Việt Nam đã phải yêu cầu Repsol dừng khoan lâu dài (24/7/2017) và chịu đền bù thiệt hại (ít nhất $27 triệu). Theo Bill Hayton (BBC), “Hà Nội đã đầu hàng vì Washington bỏ rơi Việt Nam, để mất Biển Đông vào tay Trung Quốc” (Bill Hayton, “The Week Donald Trump Lost the South China Sea”, Foreign Policy, July 31, 2017).

Thứ ba là vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh. Sau khi phía Đức chính thức thông báo Trịnh Xuân Thanh đã bị phía Việt Nam bắt cóc tại Berlin (23/7/2017) để đưa về Việt Nam, quan hệ ngoại giao Việt-Đức đã bị khủng hoảng. Nếu Việt Nam không đáp ứng yêu cầu của Đức, không chỉ quan hệ Việt-Đức mà cả hiệp định thương mại tự do EVFTA cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Ngày 22/9/2017, Bộ ngoại giao Đức thông báo “tạm dừng quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam” và trục xuất thêm một nhà ngoại giao Việt Nam thứ hai. 

Thứ tư là thiên tai và nhân họa nghiêm trọng từ Bắc vào Nam, vừa do biến đổi khí hậu (thiên tai) vừa do tàn phá rừng đầu nguồn, làm thủy điện tràn lan, phải xả lũ (nhân họa). Riêng cơn bão số 12 có tên “Damrey” (nghĩa là “con voi”) đổ bộ vào tỉnh Khánh Hòa (4/11/2017) đã làm 91 người chết, sụp đổ 1.500 ngôi nhà, đắm 1.300 tàu thuyền, thiệt hại lớn về người và của tại các tỉnh Nam Trung Bộ (theo VietnamNet, 9/11/2017). Trong khi đó, tai họa môi trường biển miền Trung do dự án Formosa gây ra, vẫn còn như một cơn ác mộng, không chỉ đe dọa hủy hoại môi trường biển, mà còn là hiểm họa lớn về an ninh quốc gia. Đó là một “quả bom nổ chậm” vẫn chưa được tháo ngòi, có thể gây ra đại họa bất cứ lúc nào.

Thứ năm là tổng thống Trump đến Việt Nam dự họp APEC (Đà Nẵng, 10/11/2017) và thăm chính thức (Hà Nội, 11-12/11/2017). Theo báo Diplomat, chuyến đi Châu Á của Trump có ba mục tiêu chính. Thứ nhất là răn đe và cô lập Bắc Triều Tiên, nhằm giảm thiểu đe dọa hạt nhân. Thứ hai là đặt nền tảng cho quan hệ thương mại song phương, nhằm giảm thiểu thâm hụt thương mại. Thứ ba là tuyên bố tầm nhìn mới về “khu vực Indo-Pacific tự do và mở cửa” (The Policy Significance of Trump’s Asia Tour, Roncevert Ganan Almond, Diplomat, November 18, 2017). Trong diễn văn đọc tại APEC, Trump đã đề cập đến tầm nhìn “Indo-Pacific” tới 11 lần. Nhưng trong Tuyên bố Chung (14 điểm) Trump chỉ đề cập đến Biển Đông ở gần cuối (điểm 13) và chỉ nhắc qua đến vấn đề nhân quyền. Nhưng “lạ nhất” là Trump đề nghị làm trung gian hòa giải tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc. (Trump Is Causing Conflict by Playing Peacemaker, Bill Hayton, Foreign Policy, November 14, 2017).
Nguyễn Quang Dy

Thứ Hai, 11 tháng 12, 2017

PHẬT GIÁO





Niết bàn = sự sống vĩnh hằng được nuôi dưỡng bởi nguồn năng lượng vô tận của sinh và diệt. nên sinh cũng như không sinh, diệt cũng như không diệt
Hằng hà sa số Phật = hằng hà sa số cõi sống tồn tại trong vũ trụ
Phật tại tâm =vạn vật trong mọi cõi sống đều tiềm ẩn sự sống vĩnh hằng
Luật nhân quả = là quá trình phân hóa hay tái hợp sự sống vĩnh hằng

Nhân Quả và Phật pháp nhiệm màu”


Phạm Phú Quãng




Đọc xong cuốn này tự dưng mình nhớ đến chuyện bác giúp việc nhà mình kể ghê. Chỉ tiếc là mình không có tài mà phù phép như ông Sướng chứ nếu không giờ chỉ cần ngồi nhà mà bán vé, trông xe cho bọn dân đen nó tham quan ngôi nhà hổ vồ thì cũng ối tiền.

Chuyện là thế này,

Ngày trước nhà mình có một bác giúp việc. Rất thật thà, chăm chỉ. Nhà mình ai cũng yêu quý bác. Duy có mỗi điều là thi thoảng bác lại thậm thụt kể với một ai đó một chuyện giật vãi cả gân.

Có hôm bác thì thào với mình rằng:

“Chú ơi, đêm qua trời nóng quá tôi mở cửa sổ. Thế nào gần sáng nghe sột soạt. Tôi dậy thì thấy ào một cái. Một con cọp chú ạ. To lắm, chừng này này(bác vong cả hai cánh tay như ôm cây cột)… Nó chồm lên đòi vồ tôi rồi nó bay qua cửa sổ ra ngoài sân. Eo ôi, kinh lắm chú ạ…”

Mình hay nghe bác kể nên cũng quen rồi. Thường thì bao giờ mình cũng gạt đi nếu thấy vô lý. Nhưng lần này quả thật trông bác rất sợ nên mình mới hỏi lại:

– Thế sau đó nó đi đâu? Cổng nhà mình khoá thế kia mà?

Bác lại thì thào:

– Nó lại bay qua hàng rào(hàng rào nhà mình cao chừng 2,5 m). Chỗ này này…

Mình bực quá bảo:

– Bác thế nào ấy, loạng quạng nhìn gà hoá cuốc. Chắc lại mơ ngủ chứ gì?

Bác thề sống thề chết rằng bác hoàn toàn tỉnh táo và nhìn thấy rõ rành rành. Con hổ nó to… khủng khiếp và trông hung dữ kinh hồn…

Thế là từ đó cứ tối đên bác đóng chặt cửa lại chẳng dám ra ngoài dù trời có nóng đến mấy. Mình có mắng rằng hổ bây giờ có con nào bọn loãng xương nó bắt nấu cao hết rồi, làm gì còn mà thả rông. Nhưng bác vẫn một mực khăng khăng rằng chưa hết đâu, vẫn còn có một con lang thang ngoài kia…

Bẵng đi khoảng một tuần, mình cũng đã quên chuyện con hổ và bác cũng đã bớt sợ hơn. Một hôm mình có việc đi sớm lúc trời chưa sáng. Mình mở cửa định dắt xe ra thì quả thật thấy một con hổ vằn vện, đốm trắng, đốm vàng. Nó ngồi chồm hỗm trước sân đang nhìn vào cái cửa sổ đóng im ỉm nơi bác giúp việc nằm. Nó phải to chừng… gấp đôi con mèo mướp nhà mình đang động tình ai oán trong bếp.

Mình liền nhẹ nhàng gọi bác dậy, kéo bác ra cửa, chỉ cho bác thấy “con hổ hung dữ kinh hồn” kia rồi mình dẫm mạnh chân. Con “hổ hung dữ kinh hồn” giật mình. Meo lên một tiếng thảng thốt và vọt qua hàng rào như một mũi tên bắn. Ngay đúng chỗ bác giúp việc chỉ hôm trước con hổ bay ra…

***

Mình vốn thích đọc, thích tìm hiểu về Phật pháp, các vấn đề tâm linh. Và luôn cố gắng hiểu nó theo hướng duy vật nhất mặc dù mình không phủ nhận hay chối bỏ những hiện tượng tâm linh, huyền hoặc.

Ví dụ như vấn đề lên đồng, gọi hồn chẳng hạn. Mình nghe ti tỉ lần “người ta nói”, chứng kiến vài lần trực tiếp và không thể hiểu được tại sao người đang sống sờ sờ lại giật đùng đùng rồi leo lẻo cái mồm bằng giọng người đã chết?

Nhưng mình lại rất ghét người nào lợi dụng chuyện huyền hoặc cho mục đích cá nhân.

Riêng ông Sướng này mình nghe báo viết nhiều, nói nhiều. Nhất là Trần Đăng Khoa và Tạ Duy Anh ca tụng ông nhiều cuốn này. Lại được biết ông sang tận Mỹ thụ giáo thầy Thích Nhất Hạnh cả thời gian dài. Ngày ngày được hầu chuyện, được nghe pháp của thầy, được vấn đáp cùng thầy… Thế nên nghiến răng bỏ hơn lít mua về đọc.

Đọc xong, cũng như chuyện gọi hồn nói trên, mình tuyệt nhiên đéo thể hiểu được các ông ca ngợi cái gì?

Tất cả các câu chuyện ông ghi chép ở trong sách(theo ông là có thật) mình cho đều là nhảm nhí. Câu view. Và nếu có điều kiện mình sẽ cố tập cho được cơ bụng 6 múi rồi về quê ông đi tìm chị Kim Oanh(như ông này nói thì oan hồn của chị rất thích giai đẹp) để hỏi chuyện cho ra nhẽ.

Mình thừa nhận ông là người từng trải. Màu sắc ông tô vẽ cho các câu chuyện cộng thêm vài sợi lông của thần đồng Khoa rắc lên cũng khiến đa phần dân đen thấy hoa mắt chóng mặt. Nhưng nếu nói sách ông giúp cho “đời hiểu đạo” hơn, giúp cho người ta thấu lẽ “nhân quả nhiệm màu” hơn, giúp cho người ta “thiện” hơn… thì mình nhổ toẹt vào.

Văn ông chỉ là loại văn thô tục, mê tín dị đoan quá trớn. Nếu ông là người hiểu Phật pháp thì rõ ràng ông đang đi ngược lời Phật dạy. Ông đang truyền bá mê tín, lừa bịp dân để bán sách.

***

Nếu ai đã đọc “Việt điện u linh”, “Nam Hải dị nhân”, “Lĩnh Nam chích quái”, “Truyền kỳ mạn lục”… thì sẽ thấy rõ cái “khác”, cái “nhân văn” trong đó. Cũng là nội dung huyền hoặc, nhưng các cụ xưa đã thổi vào đó một luồng tư tưởng vượt lên trên cả cái nhìn mê tín dị đoan, khiến cho cái nhìn về mê tín dị đoan trở nên nhỏ bé và tầm thường, khiến cho người đọc bỏ qua nó mà hướng tới những điều tốt đẹp hơn rất nhiều.

Cũng như trong lời dẫn của “Việt điện u linh”:

“…Đọc xong Việt Điện U Linh Tập, ta xôn xao vì bóng dáng hùng vĩ của những vị anh hùng liệt nữ ngày hôm qua, ngày hôm nay còn đủ uy lực để làm phấn khởi cả một đoàn người hăm hở vì lý tưởng quốc gia đang rực rỡ trong đầu óc. Ta nhận thấy phải làm một cái gì như người xưa; dòng máu anh hùng bừng bừng sôi trong huyết quản. Ta không thể không thấy lòng mình dũng liệt hơn, hăng hái hơn trên đường phụng sự quốc gia dân tộc, thông dự vào một đời sống cụ thể để thực hiện cái bản chất đầy tiềm lực của con người”.

Đó mới là giá trị đích thực của một tác phẩm!

***

Quay lại chuyện ông Sướng,

Theo như ông là mong muốn để người đọc có thể hiểu hơn về “nhân quả”, và thông qua các câu chuyện “có thật” về nhân quả mà ông đưa ra sống cho tốt hơn, thiện hơn…

Vậy mà ông đưa chuyện đứa trẻ bạn ông bị “ông ngựa” canh đền vật chết một cách dã man, máu me be bét, do dám trêu ông ấy.

Theo mình, một đứa trẻ vải tuổi chưa nhận thức được gì nhiều, có lỡ trêu chọc, báng bổ thần thánh một chút thì cũng chẳng ông thần, ông thánh nào bắt lỗi chứ đừng nói gì đến phải nhận “quả” là mất đi mạng sống. Và dù chuyện ông kể có thật thì cũng chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Vì các cụ nhà ta đã đúc kết “không biết là không có tội”. Và quê mình cũng đầy đứa ngoan hiền, sợ thần, sợ thánh đến khiếp vía mà vẫn ngã cây chết như thường. Đến như mình hồi 12 tuổi cũng ngã cây mít cụt một ngón tay, gãy một tay, nát mặt, máu me be bét… chỉ vì nhà mình nuôi một con chó Tô cực kỳ linh thiêng mà sáng hôm đó mình lại lỡ đá đít nó mấy cái(viết theo cách ông Sướng).

Và xét về tính nhân văn thì nếu có thật chuyện ông thần ngựa giết đứa trẻ đi nữa thì có nên tuyên truyền, quảng bá sự “linh thiêng” thiếu đạo đức này cho cái xã hội vốn dĩ đã sẵn lắm kẻ bất lương đang rình rập cơ hội để hành kế bất lương này không?

Nếu có kẻ đọc chuyện này rồi nhân tiện xui người khác “trêu chọc” ông chó, ông hạc, ông rắn nào đó và ra tay sát hại họ thì sao?

Rồi đến chuyện mộ tổ bảy, tám đời nhà thần đồng Khoa. Theo như ông viết là chôn từ 1770 mà đến năm 1968, tức là 200 năm sau mà “da thịt vẫn còn tươi nguyên”. Và cũng chưa lạ bằng chuyện “toàn bộ sách chữ nho trong mộ vẫn y nguyên, xé ra giấy trắng bay lả tả(tức là phải rất khô) khắp cánh đồng…”. Với một ngôi mộ chôn ở ngoài cánh đồng vùng Hải Dương(không phải vùng núi cao) là điều không thể.

Chưa hết, chuyện anh em nhà thần Khoa bị tai nạn không chết cũng là chém gió. Mình khẳng định vậy!

Với một chiếc xe cup 82 mà ông Khoa có thể cày vài vòng dưới ruộng rồi “bay thẳng” lên đường cao hơn mặt ruộng cả bánh xe là chuyện không tưởng… Rồi đến ông anh ruột của thần Khoa đi một chiếc xe Mazda bốn chỗ đang dừng mà chỉ một chiếc bò ma chạy với tốc độ 60km/h có thể chồm lên, ngoạm trọn chiếc xe Mazda, rê đi 55 mét, xét đứt dải phân cách và thổi chiếc Mazda “bay chéo lên không trung” thêm 57 mét mới hạ cánh???

Thôi, mình để đây và đéo nói gì nữa!

Nha Trang, ngày 09 tháng 12 năm 2017

Chủ Nhật, 10 tháng 12, 2017

Luật an ninh mạng: Đừng tự mình trói mình vào lạc hậu, lạc lõng




Ls. Trần Hồng Phong

Pháp luật nào cũng cần bảo đảm tính khả thi, vì lợi ích lâu dài của quốc gia, vì sự phát triển kinh tế xã hội và hoà nhập với thế giới. Trong đó bao gồm tăng cường và bảo vệ quyền con người, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí mà Hiến pháp đã quy định và Việt Nam cũng đã tham gia trong các công ước quốc tế. Dự thảo Luật an ninh mạng hiện tại cho thấy phải chăng chúng ta đang đi theo một hướng khác, tự trói mình vào lạc hậu, lạc lõng và cũng không thực sự có lợi cho đất nước, người dân.

Google, với các dịch vụ miễn phí như Gmail, rõ ràng đang là phương tiện kỹ thuật tốt nhất và thông dụng nhất để liên lạc, gửi thông tin mà hầu hết mọi doanh nghiệp, người dân tại Việt Nam đang sử dụng (ảnh minh hoạ)

Quyền biểu đạt, tự do ngôn luận cần được bảo đảm

Có thể thấy nội dung xuyên suốt của dự luật bộc lộ và thể hiện mối quan ngại của cơ quan soạn thảo về các vấn đề mang tính chính trị, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân, cùng các biện pháp ngăn chặn cả về hành chính và kỹ thuật theo hướng cấm đoán, ngăn chặn hoặc gây khó khăn, nặng nề cho người dùng và nhà cung cấp dịch vụ. Một số điều khoản thậm chí là sự vô lý, bất khả thi và không phù hợp với tính năng và xu thế công nghệ liên quan đến mạng internet trên thế giới hiện nay.

Trong dự luật đã đưa ra nhiều khái niệm, quy định mà theo tôi đã được quy định hay điều chỉnh trong nhiều luật khác, nhưng lại theo hướng khó khăn, cấm đoán nặng nề hơn. Chẳng hạn như quyền tự do ngôn luận trong Hiến pháp, các quyền dân sự trong Bộ luật dân sự, Luật báo chí ...vv.

Đơn cử như tại Điều 22 quy định về việc xử lý thông tin trên không gian mạng "có nội dung kích động gây bạo loạn, phá rối an ninh, gây rối trật tự công cộng; làm nhục, vu khống; tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam". Tuy nhiên đây rõ ràng là những nội dung thuộc phạm vi điều chỉnh của nhiều luật khác, như Hiến pháp, Bộ luật dân sự, Luật xử lý vi phạm hành chính hay Bộ luật hình sự ... Theo đó, trước khi xử lý phải tiến hành thẩm định, giám định làm rõ một bài viết hay ý kiến của ai đó có phải là "vu khống", hay "chống phá Nhà nước" không - thuộc thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng. Chứ không thể chỉ từ đánh giá cảm tính là cơ quan an ninh có quyền "chặn", "xoá" ... vv.

Chúng ta cần nhớ rằng tự do ngôn luận, tự do báo chí là quyền công dân được Hiến pháp bảo đảm. Và chính nhờ thông tin của người dân trên mạng xã hội, mà đã khám phá, phanh phui ra nhiều vụ tham ô, tham nhũng, phát hiện rất nhiều trường hợp cán bộ sa đoạ, giàu bất chính ... và bị cơ quan chức năng xử lý.

Yêu cầu đặt máy chủ tại Việt Nam không khả thi

Một trong những nội dung gây tranh luận nhiều nhất, là tại Khoản 4, Điều 34 Dự thảo Luật quy định: “Các doanh nghiệp nước ngoài khi cung cấp dịch vụ viễn thông, internet tại Việt Nam phải tuân thủ pháp luật, tôn trọng chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia Việt Nam, có giấy phép hoạt động, đặt cơ quan đại diện, máy chủ quản lý dữ liệu người sử dụng Việt Nam trên lãnh thổ VN".

Quy định như trên trực diện đích danh đến những tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới hiện nay và dịch vụ của họ. Đó là Facebook, Google, Microsoft, Apple ... - với hàng tỷ người đang sử dụng trên toàn thế giới, và hàng trăm ngàn doanh nghiệp, nhiều chục triệu người tại Việt Nam đang sử dụng miễn phí, với rất nhiều tiện ích, hữu dụng.

Rõ ràng hàng chục triệu người VN đang sử dụng miễn phí các dịch vụ như gmail, tin nhắn, không gian lưu trữ và các ứng dụng văn phòng của Google, hay Microsoft, Apple ... Đây đã và đang là những các "phương tiện kỹ thuật" không thể thiếu trong kinh doanh của hàng trăm ngàn doanh nghiệp, hàng triệu cá nhân tại Việt Nam. Hãy thử hình dung điều gì sẽ xảy ra nếu gmail hay internet bị cấm đoán hay không còn nữa? Đó chính là sự tê liệt về thông tin liên lạc, ảnh hưởng nghiêm trọng đến toàn bộ nền kinh tế đất nước...

Theo tôi, việc trong dự luật An ninh mạng đặt vấn đề các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông như Google hay Microsoft phải đặt "máy chủ" tại Việt Nam là một ý tưởng bất khả thi, trên cơ sở nhận thức có phần lạc hậu, chưa hiểu rõ về tính năng cũng như xu hướng công nghệ, không gian lưu trữ dữ liệu số trên thế giới hiện nay. Vì hiện nay hầu như tất cả các dịch vụ, ứng dụng đều lưu trữ theo mô hình "đám mây" (cloud), tức là phải bảo đảm luôn thông suốt trên mạng internet, với không gian lưu trữ khổng lồ là các Trung tâm dữ liệu (Cloud Campus), kinh phí đầu tư lên tới hàng tỷ USD, dùng chung và kết nối toàn thế giới. Việc mở một Cloud Campus hoàn toàn không đơn giản, phục thuộc vào rất nhiều yếu tố, chiến lược kinh doanh của nhà đầu tư. Việc "bắt" các tập đoàn khổng lồ như Google hay Apple phải đầu tư Cloud Campus vào VN trong bối cảnh hiện nay rõ ràng là không thể và cũng không theo nguyên tắc nào.

Với quy định như vậy, không gì khác hơn là chúng ta đẩy hoạt động của Google, Facebook ... vào thế "bất hợp pháp" mà không thể xử lý. Hoặc tệ hơn, dẫn đến việc Google, Facebook ... phải rút khỏi Việt Nam, cùng đó là những thiệt hại khổng lồ và không thể lường hết về hậu quả.

Hãy thử hình dùng trường hợp một doanh nghiệp VN mua bán háng hoá quốc tế, trao đổi tài liệu, ký kết hợp đồng qua Email, Messenger. Nếu không có Google thì làm sao liên lạc được, trong khi cũng không có lựa chọn nào khác! Và các doanh nghiệp VN thì có lẽ vài chục năm nữa cũng không thể có được những dịch vụ tương tự như vậy.

Đó là chưa kể quy định trên cũng không phù hợp với nội dung Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP), Chương Thương mại điện tử, khoản 2 Điều 14.13 có quy định: “Không bên nào yêu cầu đối tượng áp dụng của Chương này được sử dụng hoặc lựa chọn địa điểm lắp đặt các cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin trong phạm vi lãnh thổ của bên mình để xem đó như là điều kiện để triển khai công việc kinh doanh trong lãnh thổ đó”. Mà Việt Nam đang là một bên tham gia đàm phán gia nhập. Cũng như các nguyên tắc về tự do thương mại của WTO mà VN là một thành viên.

Không nên tự trói mình vào lạc hậu, lạc lõng

Bất kỳ quốc gia nào cũng cần có hệ thống pháp luật chặt chẽ và đủ mạnh, bảo đảm an ninh, chủ quyền và lợi ích quốc gia. Đó là điều không có gì phải bàn cãi. Điều quan trọng hơn, là pháp luật ấy phải khả thi, áp dụng được trong đời sống hiện thực.

Mặt khác, an ninh chủ quyền dân tộc không đơn thuần và không chỉ là vấn đề "an ninh mạng", mà liên đới, có quan hệ mật thiết với nhiều vấn đề khác. Trong đó có việc phải bảo đảm vì lợi ích lâu dài của quốc gia lâu, vì sự phát triển kinh tế xã hội và hoà nhập với thế giới. Bao gồm tăng cường và bảo vệ quyền con người, quyền tự do dân chủ mà Hiến pháp đã quy định và Việt Nam đã tham gia trong các công ước quốc tế. Đó cũng chính là mục tiêu và mục đích mà pháp luật hướng tới.

Với Dự thảo Luật an ninh mạng như hiện tại, phải chăng chúng ta đang đi theo một hướng khác biệt so với xu hướng chung trên toàn thế giới, so với xu hướng của nền khoa học, công nghệ ngày càng phát triển? Phải chăng chúng ta đang tự trói mình vào lạc hậu, lạc lõng với thế giới? Điều này cũng hoàn toàn không có lợi cho lợi ích quốc gia, cho người dân. Nếu không muốn nói là ngược lại.
.....

Google, Facebook ... lưu trữ dữ liệu ở đâu?

Để cung cấp các dịch vụ và không gian lưu trữ, các công ty công nghệ lớn thường xây dựng trung tâm dữ liệu của riêng mình (Cloud Campus), nơi tập trung sức mạnh lưu trữ và xử lý khổng lồ. Cloud Campus được coi là biểu hiện vật chất của Internet, thường được xây dựng ở khu vực xa trung tâm, giá điện rẻ, thoáng mát. Dưới đây là Cloud Campus của một số công ty công nghệ hàng đầu hiện nay.

Facebook: Gồm hai trung tâm dữ liệu khổng lồ, diện tích mỗi điểm gần 28 nghìn mét vuông, phục vụ cho khoảng 2 tỷ người dùng. Facebook đã đầu tư hơn 780 triệu USD vào đây và thu hút các công ty công nghệ khác cùng đặt hệ thống máy chủ.

Apple: Apple đã đầu tư 1 tỷ USD để tạo nên một Cloud Campus rộng hơn 46 nghìn mét vuông ở Maiden, Carolina (Mỹ). Ngoài ra, Apple hiện nay còn có trung tâm dữ liệu ở Oregon, Nevada, Ireland và Đan Mạch để cung cấp cơ sở hạ tầng cho các dịch vụ như iTunes và iCloud.

Google: Công ty hiện chi hơn 2 tỷ USD mỗi quý để phát triển cơ sở hạ tầng Cloud Campus đặt tại Council Bluffs (Mỹ).

Microsoft: Microsoft có nhiều cụm máy chủ tập trung chủ yếu ở Virginia (Mỹ). Được triển khai từ năm 2011 với tổng mức đầu tư vào khoảng 1,7 tỷ USD.

Từ Bình An-Thủ Dầu Một đến Bình Dương



Phạm Đình Lân


Nam Kỳ chạy dài từ Biên Hòa đến mũi Cà Mau trên một diện tích rộng 65,000 km2. Dưới triều vua Gia Long Nam Kỳ có ngũ trấn. Từ triều đại vua Minh mạng đến đời vua Tự Đức Nam Kỳ có lục tỉnh.
Pháp xâm chiếm Nam Kỳ và biến vùng đất này thành thuộc địa của họ trước khi biến Trung và Bắc Kỳ thành đất bảo hộ. Để tiến đến việc kiểm soát an ninh lãnh thổ họ chia Nam Kỳ ra làm 21 tỉnh. Nam Kỳ có tổ chức hành chánh hoàn toàn khác với hai vùng đất bảo hộ ở Trung và Bắc Kỳ. Các đơn vị hành chánh địa phương là: tỉnh, quận, tổng, xã (làng).
Đứng đầu guồng máy cai trị Nam Kỳ có thống đốc người Pháp (gouverneur de la Cochinchine). Các thống đốc Nam Kỳ đầu tiên đều là các tướng lãnh Hải Quân. Đến năm 1879 Le Myre de Villers là thống đốc dân sự đầu tiên ở Nam Kỳ
Đứng đầu tỉnh vào thập niên 1860 là các sĩ quan Hải Quân Pháp. Danh tước thời bấy giờ là Inspecteur des Affaires Indigènes (Thanh Tra Bản Xứ Vụ) về sau gọi là Chánh Tham Biện (tỉnh trưởng) có một phó tham biện phụ giúp. Sau này có chánh tham biện dân sự tốt nghiệp ENA. Dưới thời quốc trưởng Bảo Đại (1949- 1955) người đứng đầu tỉnh ở Nam Việt là tỉnh trưởng. Chức vụ này nằm trong tay các đốc phủ sứ.
Đứng đầu quận có vị quận trưởng. Quận trưởng có khi là một người Pháp tốt nghiệp ENA. Có khi là người Việt Nam. Từ năm 1949 về sau tỉnh trưởng và quận trưởng ở Nam Việt do các nhà hành chánh Việt Nam đảm trách.
Đứng đầu tổng có cai tổng (chef de canton) do người Việt đảm nhận.
Trông coi việc hành chánh xã có ban hội tề (Conseil des Notables) gồm có 12 vị . Ban Hội Tề như một nội các nhỏ ở đơn vị hành chánh căn bản trong nước. Ông Cả, ông Chủ đứng đầu ban Hội Tề thực sự chỉ là người lớn tuổi chớ không có thực quyền. Người thực sự có thực quyền là ông xã (maire) trong ban Hội Tề.
Người Pháp tách rời huyện Bình An thuộc tỉnh Biên Hòa để thành lập ra tỉnh Thủ Dầu Một. Trước kia hai tỉnh phía bắc Nam Kỳ là Biên Hòa và Gia Định phân cách nhau bằng sông Sài Gòn. Phần đất bên hữu ngạn sông Sài Gòn thuộc tỉnh Gia Định tức Phiên Trấn dưới triều vua Gia Long. Phần đất bên tả ngạn sông Sài Gòn thuộc tỉnh Biên Hòa. Theo tổ chức hành chánh cũ Thủ Đức thuộc Biên Hòa chớ không thuộc về Gia Định như sau này vì Thủ Đức nằm về phía tả ngạn sông Sài Gòn. Tỉnh Gia Định thời nhà Nguyễn bị mất đất vì người Pháp lập ra tỉnh Tây Ninh, Chợ Lớn, Gò Công, Tân An nên phải an ủi tỉnh Gia Định bằng cách đưa Thủ Đức và Dĩ An thuộc Biên Hòa cho Gia Định.

Thủ Dầu Một xưa
Huyện Bình An đã trở thành tỉnh Thủ Dầu Một, nơi Pháp đặt chân lên sau khi chiếm đồn Kỳ Hòa (1860). Thành Công Binh sau này do người Pháp xây dựng lên. Người đương thời gọi là thành Pháo Thủ (artilleur) hay thành Săn Đá do chữ soldat (lính; chiến sĩ) mà ra. Thành xây dựng nơi uốn khúc của sông Sài Gòn. Gần đó có một cây dầu đơn độc cao ngất. Có một người leo bắt ổ diệc và bị té chết nên ca dao địa phương có câu:
Ngó lên chợ Thủ cây dầu (1)
Có thằng bắt diệc (2) té nhào lộn xương.
Thoát thai từ một huyện của tỉnh Biên Hòa, tỉnh Thủ Dầu Một phải nhường bước trước Biên Hòa về nhiều phương diện: dân số nhỏ hơn, sinh hoạt kinh tế kém hơn Biên Hòa đôi chút. Cho đến năm 1960 Bình Dương (tên mới của Thủ Dầu Một) chưa có tòa án. Vì vậy muốn lục khai sinh phải đi Biên Hòa.
Dưới thời Pháp thuộc tỉnh Thủ Dầu Một gồm Lái Thiêu, quận Châu Thành, Bến Cát, Dầu Tiếng, Lộc Ninh.
Trong thời kỳ chiến tranh Việt- Pháp hai tỉnh Thủ Dầu Một và Biên Hòa sáp nhập thành tỉnh Thủ Biên. Vai trò chiến lược của tỉnh Thủ Dầu Một có vẻ quan trọng hơn Biên Hòa. Vì Thủ Dầu Một nằm gọn trong Chiến Khu D tiếp giáp với Chiến Khu C ăn thông qua biên giới Việt- Cambodia.
– Năm 1954 Việt Nam bị qua phân. Phía bắc vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải- cầu Hiền Lương) là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và phía nam vĩ tuyến 17 là Việt Nam Cộng Hoà. Năm 1956 tỉnh Thủ Dầu Một được cải danh thành tỉnh Bình Dương. Lộc Ninh- Hớn Quản nơi có nhiều đồn điền cao su tách rời khỏi Bình Dương để trở thành tỉnh Bình Long. Bù lại một phần lãnh thổ ở hữu ngạn sông Sài Gòn, vùng Phú Hòa Đông được sáp nhập vào tỉnh Bình Dương. Năm 1957 ba quận của tỉnh Biên Hòa là Hiếu Liêm, Tân Uyên và Phú Giáo hợp lại thành một tỉnh mới: Phước Thành. Đến năm 1965 tỉnh Phước Thành giải thể. Hai quận Hiếu Liêm và Tân Uyên trở về với Biên Hòa. Tỉnh Phước Thành trở thành quận Phú Giáo thuộc tỉnh Bình Dương. Nói một cách vắn tắt từ năm 1956 đến 1975 Bình Dương có 06 quận: Lái Thiêu, Châu Thành, Bến Cát, Dầu Tiếng, Phú Giáo, Phú Hòa Đông. Bình Dương càng quan trọng hơn trong cuộc Chiến Tranh Việt Nam II vừa qua. Bến Cát, Dầu Tiếng, Phú Giáo, Phú Hòa Đông được xem là vùng mất an ninh trầm trọng. Bến Cát nằm trong vùng tam giác sắt liên hệ với Củ Chi, cửa ngõ tiến về Sài Gòn.
Từ thập niên 1960 Bình Dương có tòa án nên cư dân không phải vất vả đi Biên Hòa khi có chuyện kiện tụng hay sao lục khai sinh hay xin tư pháp lý lịch.
Dưới thời tổng thống Ngô Đình Diệm, Nam Việt (danh xưng của Nam Kỳ dưới thời quốc trưởng Bảo Đại) được đổi thành Nam Phần. Chức Thủ Hiến được thay thế bằng chức Đại Biểu Chánh Phủ. Ít lâu sau, vì tình hình bất an ninh, chức Đại Biểu Chánh Phủ được chia ra làm hai:
– Đại Biểu Chánh Phủ miền đông Nam Phần
– Đại Biểu Chánh Phủ miền tây Nam Phần.
Như đã nói, tỉnh Bình Dương càng lúc càng quan trọng hơn so với Biên Hòa khi văn phòng toà Đại Biểu Chánh Phủ miền Đông Nam Phần và Bộ Tư Lịnh Sư Đoàn V Bộ Binh di chuyển từ Biên Hòa về Bình Dương (Phú Lợi rồi Lai Khê).
Sau năm 1975 tỉnh Bình Dương được cải danh thành Bình Thủ tức Bình Long- Thủ Dầu Một rồi Sông Bé. Mãi đến năm 1997 mới trở lại tên cũ trước năm 1975: Bình Dương.
Bình Dương sau năm 1997 gồm 09 (chín) huyện: Thuận An (Lái Thiêu), Châu Thành Thủ Dầu Một, Dĩ An, Tân Uyên, Bắc Tân Uyên, Bầu Bàng, Bến Cát, Dầu Tiếng, Phú Giáo. Phú Hòa Đông nằm bên hữu gần sông Sài Gòn được trở về với Thành Phố Hồ Chí Minh. Bình Dương bây giờ có Tân Uyên, Bắc Tân Uyên và Dĩ An. Ba huyện này trước kia là hai quận (Dĩ An & Tân Uyên) của tỉnh Biên Hòa. Như vậy tỉnh Bình Dương bây giờ rộng, đông dân và phú túc về mặt kinh tế hơn Bình Dương trước 1975. Tỉnh Bình Dương có sông Sài Gòn, sông Bé, sông Thị Tính và một phần hữu ngạn sông Đồng Nai. Núi Châu Thới nằm trong tỉnh Bình Dương.
Tên Năm Diện Tich
Bình Dương trước 1975 2,000 km2
Bình Dương bây giờ 2,695 km2



****
Dưới thời Pháp thuộc tỉnh Thủ Dầu Một nổi tiếng về các trại mộc (Thủ Dầu Một, Lái Thiêu), sơn mài (Phú Cường, Tương Bình Hiệp), đồ gốm (Bình Nhâm, Hưng Định, Thuận Giao, Phú Cường, Tân Khánh), nhà máy ép dầu (Phú Cường, Tân Thới, Tân Khánh), đồn điền cao su (Dầu Tiếng, Lộc Ninh), đất sét (Bình Chuẩn, Thuận Giao, Tân Khánh, Phú Chánh).
Lái Thiêu có sông Sài Gòn và nhiều rạch (arroyos), đất mùn rất tốt cho việc trồng cây ăn trái miền nhiệt đới. Những vườn sầu riêng, chôm chôm, măng cụt ở Bình Nhâm, Hưng Định, An Sơn do các giáo sĩ Thiên Chúa Giáo học ở Penang đem giống từ Mã Lai về trồng. Bình Nhâm, Nhị Bình (Gia Định), Cái Mơn (Bến Tre) nổi tiếng về các vườn sầu riêng, măng cụt, chôm chôm vì đó là những địa danh có tỷ lệ tín đồ Thiên Chúa Giáo cao ở Nam Kỳ vào thế kỷ XIX. Các lò gốm ở địa phương đều do người Hoa làm chủ. Nghề mộc phát triển. Ở Phú Long có Mộc Tổ Miếu để các thợ mộc đủ mọi ngành đến cúng Tổ ngành mộc hàng năm.
Bến Cát có trại chăn nuôi và trường nông lâm nghiệp đào tạo kiểm lâm (contolleur forestier) và cán bộ canh nông. Từ Lai Khê lên Lộc Ninh, Hớn Quản đất đỏ màu mỡ thích hợp cho cây cao su, cà phê, hồ tiêu, và cây ăn trái không cần nhiều nước như mít, điều.
Ở Chơn Thành có Viện Nghiên Cứu Cao Su Đông Dương (IRCI: Institut de Reserche du Caoutchouc de l’Indochine).
Dầu Tiếng nổi tiếng với đồn điền cao su Michelin, tên Công Ty sản xuất vỏ ruột xe hơi nổi tiếng trên thế giới.
Thủ Dầu Một sản xuất nhiều đậu phọng, đậu đen, đậu xanh, thuốc lá, mía trên những cánh đồng khô hạn ở Bình Chuẩn, An Mỹ, Phú Chánh, Phú Hữu, Chánh Lưu. Hai xã Phú Chánh và Phú Hữu còn nổi tiếng về việc trồng nghệ và ớt.

Năm 1905 chánh tham biện tỉnh Thủ Dầu Một ra lịnh cho thợ mộc dùng gỗ trong tỉnh làm một căn nhà dựa vào kiến trúc của đình Bà Lụa để đem sang Pháp dự cuộc Đấu Xảo Thuộc Địa ở Marseille. Ngôi nhà này được gọi là Maison de Thudaumot (Nhà Thủ Dầu Một). Có người gọi là Temple de Thudaumot (Đình Thủ Dầu Một vì ngôi nhà phỏng theo kiến trúc của đình Bà Lụa). Năm 1907 ngôi nhà theo kiến trúc đình miếu này được đưa về Jardin Colonial (Vườn Thuộc Địa) ở Nogent sur Marne cách trung tâm Paris 10.6 km. Sau khi đệ nhất thế chiến chấm dứt người ta xây tại Đình Thủ Dầu Một này một cái Đền dành cho các công nhân và lính Việt Nam tử trận dưới lá cờ của Pháp trong đệ nhất thế chiến. Đó là Đền Kỷ Niệm Đông Dương (Temple du Souvenir Indochinois) tưởng niệm 1,548 người Việt Nam gồm các công nhân phục vụ chiến trường (ouvrier non spécialisé- công nhân không chuyên nghiệp) và lính Việt Nam chiến đấu chống quân Đức và tử trận. Đền được khánh thành ngày 09-06-1920 với sự hiện diện của thống chế Joffre (1852- 1931) , Albert Sarraut (1872- 1962), cựu toàn quyền Đông Dương và tổng trưởng bộ Thuộc Địa lúc bấy giờ, Alexandre Millerand (1859- 1943), thủ tướng sau là tổng thống Pháp. Về phía Việt Nam, đại diện cho vua Khải Định có ông Đặng Ngọc Oánh (1871- 1922). Ông Đặng Ngọc Oánh đọc diễn văn khánh thành Đền Kỳ Niệm Đông Dương. Ông là người Biên Hòa, giỏi tiếng Pháp, làm việc cho triều đình Huế. Ông là ngoại tổ của ông Tôn Thất Thiện, cựu tổng trưởng bộ Thông tin, và nội tổ của nữ sĩ Đặng Ngọc Lệ Khánh. Năm 1922 trong chuyến tây du Pháp Quốc vua Khải Định và hoàng tử Vĩnh Thụy (vua Bảo Đại sau này) có đến viếng thăm Đền Kỷ Niệm Đông Dương từng được gọi là Đình Thủ Dầu Một này. Cũng năm 1922 Miếu Tử Trận được khánh thành ở Thủ Dầu Một.
Cho đến ngày đất nước qua phân Thủ Dầu Một chưa có trường trung học mà chỉ có hai trường tiểu học lớn dành cho Nam và Nữ học sinh riêng biệt tại tỉnh lỵ. Trường tiểu học nữ học sinh sau này là Tòa Án Bình Dương và văn phòng toà Đại Biểu Chánh Phủ Miền Đông. Học sinh muốn học trung học phải qua một kỳ thi tuyển gay go vào trường Pétrus Ký hay Chasseloup Laubat. Trường Chasseloup Laubat là trường dành cho con cái các viên chức Pháp hay con của các quan và các nhà kinh thương Việt Nam giàu có học. Tại địa phương có trường trung học tư thục Tân Ánh Mai hoạt động yếu ớt vì thiếu thầy và học sinh. Vào đầu thập niên 1950 có trường trung học tư thục Nguyễn Trãi. Trường nầy tồn tại đến năm 1975 và có dạy đến lớp 12 để thi tú tài II. Sau năm 1954 có trường bán công. Ông Trần Văn Trai lập trường trung học An Mỹ, xã sinh quán của ông. Mãi đến sau nầy trường An Mỹ mới được bộ Quốc Gia Giáo Dục công nhận. Đến thập niên 1970 trường có đầy đủ các lớp đệ nhị cấp.
Vào cuối thập niên 1940 thầy giáo dạy các lớp trung học đệ nhất cấp (từ lớp 1ère année đến 4ème année) đã mang danh hiệu ‘professeur’. Những nhà giáo tốt nghiệp Cao Đẳng Sư Phạm Hà Nội chỉ dạy các lớp đệ nhất cấp (1er Cycle). Học đến năm thứ tư trung học và đậu DEPSI gọi nôm na là bằng Thành Chung (Diplôme de fin d’étude) nghĩa là đậu rồi thì xem như học xong, thành công rồi nên đi tìm việc làm và cưới vợ, gả chồng. Việc làm lý tưởng và được người đương thời trông đợi là có bằng DEPSI và được đậu trong kỳ thi tuyển để được làm thơ ký hành chánh cho chánh phủ (secrétaire du gouvernement). Từ đó nếu có tinh thần hiếu học và cầu tiến sẽ được chấm đậu vào ngạch cò- mi (commis), huyện và cao tột đỉnh là đốc phủ. Người có cử nhân luật muốn theo ngành hành chánh sẽ được cho vào ngạch huyện.
Sau năm 1954 Hoa Kỳ giúp đỡ xây dựng trường Trung Học Trịnh Hoài Đức và trường Cộng Đồng sau này là trường Nông Lâm Súc Bình Dương. Trường Trung Học Trịnh Hoài Đức được xây dựng xa thành phố. Trường nằm trên Quốc Lộ 13 trong xã An Thạnh (Búng) giữa Lái Thiêu và Phú Cường (xa tỉnh lỵ Bình Dương). Trường Nữ nằm cách xa Quốc Lộ 13 lối 500 m. Trường trở thành trung tâm văn hóa của tỉnh. Trường thuận lợi cho cư dân Phú Cường và Lái Thiêu hơn là các quận xa xôi hẻo lánh khác như Bến Cát, Dầu Tiếng, Phú Giáo, Phú Hòa Đông. Từ sau 1965 nhu cầu giáo dục của tỉnh được đáp ứng viên mãn. Nhiều trường trung học công lập và tư thục Phật Giáo, tư nhân hay Thiên Chúa Giáo ra đời đáp ứng nhu cầu giáo dục của cư dân trong tỉnh. Đó là một cố gắng rất lớn của chánh phủ Sài Gòn nhờ sự viện trợ của Hoa Kỳ trong tình trạng chiến tranh.
Thời Pháp thuộc có thiết lộ nối liền Sài Gòn- Thủ Dầu Một, Sài Gòn- Lộc Ninh. Thiết lộ Sài Gòn- Lộc Ninh đi ngang qua Thủ Dầu Một đổi hướng không đi ngang qua thành phố Lái Thiêu sau khi cầu sắt nối liền Thạnh Lộc và Phú Long bị giựt sập năm 1949. Sau năm 1954 đường sắt này bị hủy bỏ vì hoạt động yếu ớt của các đồn điền cao su do người Pháp làm chủ và vì Chiến Tranh Việt Nam II bùng nổ. Trong thời gian 1954- 1957 đường xe lửa Sài Gòn- Lộc Ninh thường xảy ra những trận đánh cướp táo bạo nhằm vào tiền lương phát cho công nhân đồn điền hàng tháng.
Sau năm 1954 hoạt động của các đồn điền cao su do Pháp làm chủ ở Lai Khê, Dầu Tiếng sụt giảm. Ảnh hưởng chánh trị của Pháp ở miền Nam sụt giảm trước ảnh hưởng của Hoa Kỳ. Tình hình an ninh trong tỉnh bắt đầu có những dấu hiệu xấu từ năm 1957 về sau. Các tỉnh trưởng và quận trưởng được thay thế bằng những quân nhân. Các phó tỉnh trưởng đều là dân sự. Một ít trong số nầy tốt nghiệp Trường Quốc Gia Hành Chánh Đà Lạt do tiến sĩ Trần Cửu Chấn làm Giám Đốc. Về sau có chức phó quận trưởng để đặt những phó đốc sự tốt nghiệp Học Viện Quốc Gia Hành Chánh trông coi việc hành chánh bên cạnh các quận trưởng quân nhân.
Dưới thời đệ nhất và đệ nhị Cộng Hoà công nghiệp ép dầu, ép mía làm đường sụt giảm. Nhà máy đường Vĩnh Phú (Lái Thiêu) được thay thế bằng nhà máy đường Bà Lụa với máy móc và kỹ thuật sản xuất tối tân như các nhà máy sản xuất đường trên thế giới. Xưởng sản xuất sơn mài Thành Lễ được danh tiếng quốc tế vì các quốc khách thăm viếng VNCH đều được tổng thống Ngô Đình Diệm tặng một bức tranh sơn mài Thành Lễ Bình Dương. Trường Mỹ Nghệ Bình Dương đã có từ thời Pháp thuộc cũng được nổi danh với các giáo sư Báu và Yến, tốt nghiệp Cao Đẳng Mỹ Thuật Hà Nội cuối thập niên 1930.
Sau năm 1954 ông Trần Văn Thành có công phát triển chăn nuôi heo, gà và sản xuất thực phẩm gia súc ở các xã Tân Thới, Phú Long, Hưng Định trong quận Lái Thiêu. Ông sáng lập ra Hợp Tác Xã Đồng Tiến và là thành viên Hội Đồng Kinh Tế Quốc Gia dưới thời tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Hưng Định phát triển việc nuôi cá nhưng kết quả không khả quan. Việc nuôi cá phi vào những năm 1953, 1954, 1955 thất bại nặng nề vì có dư luận cho rằng ăn cá phi bị cùi!

Thủ Dầu Một là nơi đào luyện thiếu úy Dương Văn Minh sau này là đại tướng quốc trưởng rồi tổng thống 02 ngày của VNCH. Cùng thời này có ông Nguyễn Văn Theo (Xuyên Sơn) sau này là đại tá trong Quân Đội Nhân Dân ở miền Bắc. Dưới thời Pháp, Phú Lợi là nơi huấn luyện kỵ binh và pháo binh. Kỵ binh và pháo binh Thủ Dầu Một đều có mặt trong các cuộc diễn binh trên đường Norodom (Thống Nhất; Lê Duẩn) hàng năm vào ngày Quốc Khánh 14-07 của Pháp.
Trong một cuộc nói chuyện với Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh tại nhà của ông ở San José năm 2000 người viết được Giáo Sư Vinh cho biết ông Nguyễn Văn Nghĩa, người Thủ Dầu Một, là người tốt nghiệp Không Quân Pháp trước ông Vinh, vị Tư Lịnh Không Quân đầu tiên của VNCH trong thời kỳ độc lập và qua phân. Đại tá Trần Văn Hổ, người gốc Thủ Dầu Một, là tư lịnh Không Quân thời quốc trưởng Bảo Đại khi Pháp chuyển giao Không Quân cho chánh phủ Quốc Gia nhưng ông Hổ không phải là sĩ quan của ngành này. Một người Thủ Dầu Một khác tốt nghiệp trường Không Quân Salon de Provence là ông Lưu Văn Đức.
Thủ Dầu Một nổi tiếng về võ thuật với võ Tân Khánh- Ba Trà. Đó là võ Bình Định theo chân người miền Trung vào miền Nam lập nghiệp. Những võ sư khét tiếng trong tỉnh vào đầu thế kỷ XX là các ông Võ Văn Đẳng (Tân Khánh), ngoại tổ của bác sĩ Đặng Như Tây, thầy năm Dục (An Phú), ông cả Đại (An Sơn) v.v. Ông giáo Khai ở Tân Ba, Biên Hòa, nổi tiếng về gồng và võ thuật vào thập niên 1920 là võ sinh do ông năm Dục đào tạo. Đông Phương Sóc một thời làm sống dậy tên tuổi sinh quán Thủ Dầu Một của ông trên võ đài. Như vậy Thủ Dầu Một tức Bình Dương sau này cũng có chút truyền thống võ nghiệp. Dù vậy chưa có một cư dân Thủ Dầu Một (Bình Dương) nào là tướng bốn sao cả. Ông Đặng Thanh Liêm là trung tướng được cho về hưu non năm 1965 khi ông mới 40 tuổi. Đại tướng Đỗ Cao Trí là cháu rể của ông Võ Văn Vân không phải là người Thủ Dầu Một (Bình Dương). Ông được thụy phong đại tướng sau khi mất năm 1971. Những sĩ quan được đào tạo thời Pháp thuộc và có chức vụ khá quan trọng quân đội VNCH gồm có: tướng Nhảy Dù Lê Quang Lưỡng, chuẩn tướng Nguyễn Văn Tý (Tổng Cục Truyền Tin), đại tá Nguyễn Trí Hanh, Tư Lịnh phó Quân Đoàn III, đại tá Nguyễn Duy Ninh (Không Quân), đại tá Nguyễn Văn Tường, chỉ huy pháo binh của binh chủng Nhảy Dù, đại tá Nguyễn Hữu Phước (cựu phó đô trưởng Sài Gòn thời đệ nhất Cộng Hoà), đại tá Dương Văn Tảo, đại tá Nguyễn Hoà Phùng, con của ông Nguyễn Hòa Hiệp tức Giang Đông (VNQDD miền Nam), trung tá Nguyễn Văn Hội, vô địch kiếm thuật Việt Nam . Cha ông là Nguyễn Văn Hia, giám đốc Cercle Sportif Saigonnais, đồng sáng lập Hội Khuyến Lệ Cổ Ca với ông Đỗ Văn Rổ, quốc vụ khanh đặc trách Văn Hoá.
Tuy là một tỉnh tân lập thời Pháp chiếm đóng, Thủ Dầu Một rồi Bình Dương sớm tiếp thu văn hóa Tây Phương và có tên tuổi trong nước trước và sau năm 1975 với các ông Trần Văn Trai (Lưỡng tiến sĩ Luật & Văn Chương, chánh văn phòng đức Quốc Trưởng Bảo Đại, dân biểu đệ nhất Cộng Hòa, luật sư); Nguyễn Lâm Sanh (luật sư, chủ tịch Liên Minh Á Châu Chống Cộng); Lê Văn Hai (tốt nghiệp ENS .<.École Normale Supérieure.>., dạy Triết ở Chasseloup Laubat sau cải thành Jean Jacque Rousseau), Trần Công Vàng (Tiến sĩ Dược Khoa); Trần Tấn Thông (tiến sĩ Dược Khoa, dân biểu đệ nhất Cộng Hoà; giáo sư đại học Dược Khoa); Phạm Đình Hưng (thẩm phán, tham chánh văn phòng phủ Tổng Thống .<.đệ nhất Cộng Hoà.>., chánh văn phòng bộ Nội Vụ, dân biểu, giám sát viên); Đặng Như Tây (bác sĩ giải phẫu nổi tiếng); Phan Kiều Dương (kỹ sư Kiều Lộ .<.Ingénieur de Ponts et Chaussées.>., con của ông Phan Văn Hùm).
Trường Trịnh Hoài Đức chào đời sau năm 1954 nhưng đã có Ph.D Cao Văn Hở (dạy Học Viện Quốc Gia Hành Chánh), Ph.D Nguyễn Viết Đức (Tâm Trị liệu California), Tam tiến sĩ Phạm Quốc Kiệt (Giáo Sư ENS .<. École Normale Supérieure.>. ở Paris) v.v. Thế hệ sau 1975 không thuộc trường Trịnh Hoài Đức có Ph.D Phạm Đình Khôi Nguyên (Harvard & Vanderbilt). Danh sách này có thể thiếu sót xin người Bình Dương bổ túc thêm.
Bây giờ Bình Dương không còn là Bình Dương Lục Quận (Lái Thiêu, Châu Thành, Phú Giáo, Bến Cát, Dầu Tiếng, Phú Hòa Đông) mà là Bình Dương Cửu Huyện (Thuận An (Lái Thiêu), Dĩ An, Tân Uyên, Bắc Tân Uyên, thị xã Thủ Dầu Một, Bến Cát, Phú Giáo, Bầu Bàng, Dầu Tiếng).
Tân Uyên vừa phồn thịnh về kinh tế vừa là nơi có nhiều nhân vật nổi tiếng trong nước như nhà văn Bình Nguyên Lộc (Tô Văn Tuấn), tiến sĩ Nguyễn Ngọc Huy Giáo Sư Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, tổng thơ ký đảng Tân Đại Việt và Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến, tác giả tập thơ Hồn Việt và nhiều tác phẩm chánh trị bằng Việt, Pháp, Anh ngữ có giá trị khác); Lê Văn Khoái (Đại Biểu Chánh Phủ miền Đông Nam Phần, glam sát viên), Trần Văn Linh (thẩm phán Tối Cao Pháp Viện), Huỳnh Văn Nghệ (quân nhân thuộc Quân Đội Nhân Dân miền Bắc. Ông nổi tiếng trong thời kháng chiến chống Pháp. Nhưng cấp bậc của ông chỉ là thượng tá nghĩa là thấp hơn đại tá! Năm 1975 ông về miền Nam và giữ chức thứ trưởng bộ Lâm Nghiệp).
Dĩ An là sinh quán của thiếu tướng Cộng Sản Đào Sơn Tây.
Bến Cát là sinh quán của ông Nguyễn Minh Triết, chủ tịch Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam từ năm 2006 đến 2011.
Ông Võ Văn Vân nổi tiếng với nhà thuốc Đông Y. Thuốc của ông được bán khắp bán đảo Đông Dương. Hai con ông là Võ Văn Thêm và Võ Văn Ứng là hai nhà kinh doanh có tiếng. Ông Võ Văn Ứng là bầu của hội Ngôi Sao Bà Chiểu (Étoile de Bà Chiểu), chủ nhà hàng Nam Đô và hãng mực Song Long. Ông còn là chủ nhiệm nhật báo Bình Minh. Ông Võ Văn Thêm là nhạc phụ của đại tướng Đỗ Cao Trí. Ông cũng có nhiều cổ phần trong hãng mực Song Long.
Ông Trần Văn Thành là một nhà kinh doanh có tầm vóc lớn. Ông là người đầu tiên lập trại chăn nuôi qui mô ở ấp Đông Ba, Tân Thới, sau năm 1954. Ông sáng lập Hợp Tác Xã Đồng Tiến và là hội viên Hội Đồng Kinh Tế Quốc Gia. Con ông là Trần Quang Minh, thủ trưởng bộ Canh Nông.
Hai nhà kinh doanh nữ có tầm vóc quốc gia gốc người Thủ Dầu Một là bà Nguyễn Thị Giàu và bà bảy Lình tức Trần Kim Liên (gốc người Hoa).
Bà bảy Lình là nhà tỷ phú (tiền Việt Nam- piastres) trong tỉnh Bình Dương cho đến năm 1975. Con bà là tiến sĩ Trần Tấn Thông có phòng thí nghiệm và viện bào chế thuốc Trần Tấn. Sau năm 1975 bà chết trong khám. Ông Thông chết trong trại học tập cải tạo Nhà Đồ, Sông Bé (tên của Bình Dương lúc bấy giờ).
Bà Nguyễn Thị Giàu là chủ nhà máy dệt Liên Phương ở Thủ Đức. Sau năm 1975 bà định cư ở Canada và mất ở đó.
Thủ Dầu Một là địa bàn hoạt động của Thiên Địa Hội, Hội Kín Nguyễn An Ninh, Giáo Hội Cao Đài (Phú Văn, Tân Khánh, Phú Chánh, Thuận Giao, Chánh Lưu v.v.). Ông Nguyễn Hòa Hiệp, một tín hữu Cao Đài, theo Việt Nam Quốc Dân Đảng. Năm 1965 ông là tổng trưởng bộ Nội Vụ trong nội các Phan Huy Quát.
Ông Phan Văn Hùm cùng với Nguyễn An Ninh họp dân để diễn thuyết chống Pháp. Ông Hùm gốc ở Búng làm cán sự Công Chánh (đốc công) ở Huế. Sau khi gặp nhà cách mạng Phan Bội Châu an trí ở Bến Ngự ông từ chức và dấn thân vào đường cách mạng gặp lúc ông Nguyễn An Ninh từ Pháp về. Phương tiện đấu tranh của Nguyễn An Ninh lúc bấy giờ là sản xuất và bán dầu cù là theo toa của cha ông là Đông y sĩ ái quốc Nguyễn An Khương (người chủ trương tờ Nông Cổ Mín Đàm và dịch truyện Tàu ra quốc ngữ vào đầu thế kỷ XX) và tờ báo Pháp ngữ La Cloche Félée (Chuông Nứt). Lợi dụng lúc bán dầu cù là ông lớn tiếng chỉ trích chánh sách của người Pháp ở Đông Dương. Sau khi ra khỏi khám lớn Sài Gòn (khuôn viên Thư Viện Quốc Gia và Phủ Quốc Vụ Khanh Văn Hoá sau này) ông Hùm sang Pháp học và lấy cử nhân triết học. Về nước ông trở thành người Cộng Sản thuộc khuynh hướng Đệ Tứ Quốc Tế của Trotsky.
Bình Dương là đất chuộng tâm linh. Đó là nơi có giáo đường cổ kính ở Nam Kỳ (giáo đường Bình Nhâm, Hưng Định, Phú Cường).
Bình Nhâm là sinh quán của Á Thánh Gầm (mộ nằm trên đường Frères Louis; Võ Tánh). Đó là nơi xuất phát nhiều linh mục Thiên Chúa Giáo trong nước như Nhị Bình (Gia Định) và Cái Môn (Bến Tre).
Các chùa cổ kính trong tỉnh Bình Dương là chùa Hội Khánh, chùa Tây Tạng, chùa trên núi Châu Thới, chùa Thầy Sửu, chùa Giác Nguyên sau được gọi là chùa bà Tám v.v. Chùa Hội Khánh đã có từ năm 1741 trước khi dân tộc Việt Nam hoàn tất cuộc Nam tiến ở phần đất cực nam của đất nước. Trong thời đại Xã Hội Chủ Nghĩa, Bình Dương có Đại Nam Quốc Tự xây từ năm 1999 đến năm 2010 mới hoàn thành. Đại Nam Quốc Tự chiếm 450 ha (4.5 triệu m2) đất với khách sạn dài 13 km với 5,000 phòng, chuồng nuôi dã thú và thú hiếm lạ, hồ nhân tạo v.v! Tất cả chi phí xây cất Đại Nam Quốc Tự để thờ Phật kể cả “phật” Hồ Chí Minh, anh hùng dân tộc, chiến sĩ trận vong lên đến 4,000 tỷ tiền Việt Nam (tức 4 cải đồng hay 4 trillion đồng tương đương 170 triệu Mỹ Kim) đều do đại gia Dũng Lò Vôi đài thọ.
Phú Văn, Phú Long có Thánh Thất Cao Đài.
Người Hoa ở Bình Dương có chùa Ông, chùa Bà và trường học. Chùa Ông thờ Guan Gong (Quan Công). Chùa Bà thờ bà Tianhou (Thiên Hậu). Họ có truyền thống :
– rước Ông Bốn tức đô đốc Zheng He hay Cheng Ho (1371- 1433) tức Trịnh Hòa, người chỉ huy đoàn tàu Trung Hoa xuống Nam Dương và sang Ấn Độ Dương để đến vùng Trung Đông và Đông Phi năm 1405
– rước cộ Bà (bà Tianhou (Thiên Hậu: hoàng hậu Thiên Đình) hàng năm rất trọng thể. Người Hoa ở các tỉnh khác đổ xô về Phú Cường, xa tỉnh lỵ Bình Dương, để tham dự lễ rước cộ Bà. Vào ngày nầy các phú thương người Hoa tranh nhau đốt pháo để rước Bà và để phô trương sự giàu có của mình. Nhang khói mịt mù ở Chùa Bà, chùa Linh Không Dàn vào ngày rước cộ Bà (rằm tháng giêng hàng năm). Người ta đến khấn vái Bà và vay mượn tiền tượng trưng để được may mắn trong việc làm ăn trong năm mới. Vay tượng trưng $1 tiền cúng trả lễ có thể là $1 triệu đồng nếu công việc làm ăn được may mắn, hưng vượng như lời khấn nguyện.
Bình Dương là đất lành đãi khách phương xa.
Ông Dương Văn Minh khởi nghiệp ở Thủ Dầu Một, sau này là đại tướng, quốc trưởng và tổng thống VNCH trong hai ngày.
Ông Lê Công Chất làm phó tỉnh trưởng Bình Dương trở thành tổng trưởng bộ Nội Vụ trong nội các Trần Thiện Khiêm.
Ông Nguyễn Thanh Liêm là hiệu trưởng thứ nhì của trường Trịnh Hoài Đức sau ông Trương Văn Di đã trở thành thứ trưởng bộ Giáo Dục và Thanh Niên.
Khi Lộc Ninh, Quản Lợi, Xa Cam, Xa Trạch còn nằm trong tỉnh Thủ Dầu Một, vùng đất đỏ trên (Terre Rouge) là vùng đồn điền cao su. Một người Huế làm việc trong đồn điền Quản Lợi đã trở thành chủ tịch CHXHCNVN từ năm 1992 đến 1997. Đó là đại tướng Lê Đức Anh (1920- ). Ông hoạt động ở Nam Bộ suốt thời kỳ kháng Pháp. Vào thập niên 1980 ông chỉ huy bộ đội Việt Nam tấn công Khmer Đỏ theo chủ nghĩa Maoist trên chiến trường Cambodia. Nhưng ông được xem là người thân Beijing (Bắc Kinh).
Bình Dương Lục Quận là Bình Dương nổi tiếng trong chiến tranh với những trận đánh đẫm máu như trận Dầu Tiếng, Bầu Bàng, Thới Hòa, Bố Lá, Bình Mỹ, An Nhơn Tây, Hố Bò, Rạch Bắp, khu Tam Giác Sắt, trận đột kích Gò Dầu (Phú Văn) v.v. Hàng ngàn cư dân Bến Súc được đưa về định cư ở Bình Hòa (Lái Thiêu) năm 1967. Sau năm 1975 nhiều người trở về quê quán. Hiện nay Bình Hòa trở thành một xã thành phố với đầy đủ tiện nghi của một thành phố tân tiến.
Trong cuộc chiến tranh vừa qua chỉ có Lái Thiêu là quận tương đối an ninh hơn 05 quận còn lại. Bù lại những vùng kém an ninh có sự hiện diện của quân sĩ Hoa Kỳ. Snack Bar mọc lên như nấm từ năm 1965 đến 1973. Cư dân địa phương phát đạt nhờ buôn bán hàng Mỹ hay là buôn đô la xanh và đỏ là đô la dành cho các quân nhân Mỹ chiến đấu ở miền Nam Việt Nam. Đó là sự phồn vinh giả tạo trong chiến tranh. Bình Dương không còn nhà lá. Nhiều nông dân có sân phơi lúa, phơi đậu và chuồng nuôi gia súc tráng xi măng sạch sẽ. Hầu hết nhà nào cũng có một xe Honda gắn máy. 60% thị dân trong tỉnh có TV, ra-dio, tủ lạnh. Năm 1973 quân Hoa Kỳ rút ra khỏi miền Nam Việt Nam, sự ‘phồn vinh’ trên như vụt tắt. Các snack bar bị bỏ hoang tạo cảnh vắng vẻ, hoang tàn dù không bị bom đạn tàn phá.

Năm 1973 Lộc Ninh là địa điểm trao đổi tù binh giữa VNCH và MTDTGP. Đó là địa điểm gần Sài Gòn nhất do MTDTGP chiếm giữ và được xem như thủ đô của chánh phủ Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam. Những năm 1973 và 1974 vài vùng đất gò trong tỉnh Bình Dương chịu ảnh hưởng văn hóa trồng cây lương thực của Lộc Ninh. Diện tích trồng khoai mì (sắn: cassava; manioc .<.Pháp.>.) Manihot dulcis được nới rộng đáng kể. Đó là dấu hiệu báo động sự sụp đổ của miền Nam và tình trạng thiếu thực phẩm cho những ngày sắp tới như câu sấm ký Phật Giáo Hòa Hảo đã ghi:
Khoai lang rồi lại khoai mì
Đến khi Tần (3) khởi độ thì khẩu ta.
Khi mang tên Bình Thủ và Sông Bé cư dân Bình Dương lâm vào sự lo âu, sợ sệt cho sự sống trong tương lai. Về vật chất họ lâm vào tình trạng thiếu lương thực và thiếu dinh dưỡng nhưng chưa đến nỗi chết đói. Sông Bé lại là nguồn sống tạm bợ và bấp bênh cho những cựu quân nhân chở than, củi từ Lai Khê, Chơn Thành, Bến Cát và lu, hủ, chén từ Lái Thiêu về bán ở Sài Gòn hay các tỉnh trên đồng bằng sông Cửu Long.
Ngày nay Bình Dương Cửu Huyện có vẻ tân tiến và phú túc nhờ có hòa bình, thực thi kinh tế thị trường nên có nhiều quốc gia như Đại Hàn, Taiwan, Nhật Bản, Singapore đầu tư hay mở nhiều nhà máy kỹ nghệ trong tỉnh. Bình Dương Cửu Huyện được đô thị hóa và đứng trước ngưỡng cửa kỹ nghệ hóa của thời kỳ tiền tư bản Âu Châu vào thế kỷ XIX. Dù chậm trễ nhưng có vẫn hơn không dẫu biết rằng cho đến nay Việt Nam vẫn chưa sản xuất được một con vít (vis) đạt tiêu chuẩn quốc tế.

Bình Dương là một tỉnh của Việt Nam nên tỉnh cũng rơi vào mâu thuẫn kinh tế- chánh trị của quê hương:
1. Ấm no trong chinh chiến (miền Bắc có viện trợ Liên Sô, Trung Quốc và các nước Cộng Sản Đông Âu. Miền Nam có viện trợ Hoa Kỳ)
2. Nghèo khổ, thiếu thốn khi hòa bình (không còn viện trợ; không thể có một nền kinh tế phồn vinh trong một quốc gia Cộng Sản đề cao kinh tế chỉ huy).
3. Việt Nam là một nước Cộng Sản. Dân chúng Việt Nam lại no cơm ấm áo từ khi CHXHCNVN theo kinh tế tự do hay kinh tế thị trường hay nói rõ hơn kinh tế tư bản.
4. Một số người no cơm ấm áo nhờ bán đất đai cho các công ty ngoại quốc. Một số người khác bỏ ruộng nương ra thành phố tìm công việc trong các hãng xưởng, xí nghiệp. Công nhân có lương cố định hàng tháng. Công nhân không phải dải nắng dầm mưa như nông dân và được tiếp xúc với ánh sáng văn minh đô thị. Lợi tức của nông dân biến thiên bất định tùy theo thời tiết, giá bán ngoài thị trường. Thanh niên nam, nữ ở nông thôn ước muốn rời bỏ đời sống nông thôn để thay vào đó là nếp sống thành thị hay xa hơn nếp sống ngoài nước Việt Nam. Nông nghiệp dễ bị quên lãng giữa lúc đất nước chưa thực sự kỹ nghệ hóa.
Đó là vài suy nghĩ thô thiển về sự nghịch lý kinh tế- chánh trị, tâm lý nông thôn, thành thị và hướng ngoại và tiến trình phát triển của tỉnh sinh quán của người viết trong lòng cố hương Việt Nam vào đầu thế kỷ XXI.PHẠM ĐÌNH LÂN, F.A.B.I.



Chú Thích
(1) Cây dầu là một loại cây to không nhánh. Thân đốt có dầu. Tên khoa học làDipterocarpus alatus. Trái có hai cánh. Ngày nay trong khuôn viên tòa hành chánh tỉnh Bình Dương vẫn còn nhiều cây dầu cổ thụ.
(2) Con diệc là con cò trắng heron hay egret tên khoa học là Ardea alba modesta (alba: trắng). Những địa danh, Thủ Dầu Một, Dầu Tiếng, Gò Dầu Hạ cho thấy sự hiện diện phong phú của loại cây to và có nhiều nhựa dầu này.
(3) Tần ở đây ám chỉ nước Cambodia chớ không phải nước Tần bên Trung Hoa.

Thứ Sáu, 8 tháng 12, 2017

Rất người





Ông R là một người cao tuổi có gia sản bề thế, đến thăm một học giả trẻ tuổi là tiến sĩ F. Chuyện trò hồi lâu, ông R nói:
-Robot thì cũng tốt rồi, nhưng có thể nào làm cho khá hơn một chút được không? Ở nhà tôi cũng đã có sử dụng robot từ lâu rồi, nhưng không vừa ý lắm.
Tiến sĩ F bèn hỏi lại:
-Bác không vừa ý về điểm nào ạ? Cháu cũng là một chuyên gia về ngành này, nên cũng muốn biết để tham khảo ạ.
- Nói tóm lại là nhạt nhẽo vô vị. Quả là robot rất chính xác, là một thứ tiện lợi thật đấy, nhưng bảo gì cũng đáp vâng hiểu ạ, rồi chỉ biết làm đúng y như thế. Làm thật đúng một cách máy móc. Tôi hiểu là phải biết ơn thành quả này của khoa học, nhưng vẫn thấy chán làm sao ấy.
Những tưởng sẽ bị phản luận là chỉ được voi đòi tiên, nào ngờ tiến sĩ F gật đầu nói:
-Cháu hiểu được tâm trạng ấy. Từ lâu rồi, cháu đã đoán là thế nào cũng sẽ đến lúc có người đưa ra ý kiến này.
-Thật không ngờ lại được nghe những lời như vậy thốt ra từ một học giả về robot. Cậu nói thế, hẳn là đang nghiên cứu cách giải quyết, phải không?
-Vâng đúng thế. Thật ra là cháu cũng mới chế thử một robot kiểu mới. Và đã cho đi tu tập làm người rồi ạ.
-Tu tập làm người là làm sao? Tôi chưa bao giờ nghe nói tới chuyện cho robot đi tu bao giờ cả. Như thế là thế nào?
Ông R rất đỗi ngạc nhiên, mắt trợn tròn cả lên. Tiến sĩ F bèn giải thích:
-Robot từ trước đến nay khi được chế tạo thì đồng thời cũng được cài sẵn những ký ức cơ bản. Tuy nhiên đó chỉ là những ký ức đủ dùng sau này khi cần đến. Nhưng robot mới lần này thì khác. Bộ phận ký ức được chừa lại một khoảng, rồi cho sống chung với người. Vì thế so với robot từ trước đến nay thì có thêm phần trội hơn này.
-Ra là vậy, nghĩa là robot sẽ mang tính người hơn. Thế kết quả ra sao rồi?
-Dạ, chưa biết có thể nói như thế nào ạ. Là vì robot đi tu vừa mới trở về vào ngày hôm qua. Giai đoạn sắp tới là dùng thử để quan sát xem robot làm trò trống ra sao.
Vừa nghe tiến sĩ F nói xong, ông R đã hăm hở nói:
-Vậy thì cậu cho tôi đem về nhà dùng thử có được không. Tôi sẽ viết báo cáo về cảm tưởng khi sử dụng. Tôi đã chán ngấy, không còn chịu nổi những robot lâu nay, chỉ được mỗi một cái là bảo sao làm vậy. Robot mới này không có gì nguy hiểm chứ nhỉ.
-Về điểm đó thì xin bác yên tâm. Robot này đã được thiết kế để tuyệt đối không làm hại người. Thế nhưng, robot đã lĩnh hội được tính nết gì từ người, thái độ làm việc ra sao, thì hiện hoàn toàn chưa rõ ạ.
-Như thế mới là hay cậu ạ. Cậu cho tôi mượn đi. Nếu phải trả lệ phí sử dụng, tôi cũng xin trả.
Ông R cố hỏi mượn cho bằng được nên cuối cùng cũng khiến tiến sĩ F phải xiêu lòng. Thế là ông mượn được robot của tiến sĩ F và đem về nhà.

-Xem nào..
Ông R vừa buông mình xuống ghế và nói thế, thì robot đã đáp ngay:
-Dạ thưa ngài, có việc gì ạ?
-Xem ra thì chú mày cũng chẳng khác những robot từ trước đến giờ là bao. Nhưng thôi cũng được vậy. Ta muốn uống rượu. Hãy pha cho ta một ly cốc tay Blue Nova. Nếu không biết cách pha thì có trong sách để trên giá đấy.

Nếu là những robot từ trước đến nay thì đã bắt tay vào việc ngay, nhưng robot lần này vẫn cứ đứng yên. Ông R giục:
-Ơ kìa, sao không pha đi hả? Chú mày không pha được à?
-Dĩ nhiên là được ạ. Nhưng uống rượu là không nên. Không tốt cho sức khỏe. Hoàn toàn không có lợi lộc gì cho cả ruột gan lẫn trí óc.
-Không phải lo. Nếu đau dạ dày thì đã có thuốc uống.
-Chính vì thế nên mới là không ích lợi gì cả. Ngài nên bỏ rượu ạ. Dĩ nhiên là nếu ngài không quyết chí bỏ được, thế nào cũng bảo phải pha rượu thì robot tôi sẽ pha thôi.
-Thôi được, ta hiểu rồi. Chú mày làm ta chẳng còn hứng thú đâu mà uống rượu. Để khi nào ta tự pha lấy mà uống vậy. Thôi, thay vì uống rượu, bây giờ lái xe ra ngoại ô dạo mát vậy. Chú mày hãy lái xe cho ta.
Ông R bèn sai việc khác, nhưng robot vẫn đứng ì một chỗ. Ông R càu nhàu thì robot đáp:
-Dạo này tai nạn xe cộ ngày càng tăng, là vì phải chi giao cho robot lái thì an toàn xong vẫn có những người thích tự mình lái xe. Hễ đụng phải những hạng ấy thì không biết làm sao. Ngài nên ở yên trong nhà cho được an toàn. Nếu muốn ngắm cảnh thì xin hãy dùng tivi mầu lập thể. Nếu muốn hít thở không khí mới thì vặn nút thiết bị điều chỉnh không khí. Trừ phi ngài bảo dù có bị tai nạn cũng không sao, cứ lái xe đi thay đổi không khí, thì dĩ nhiên là tôi xin tuân lệnh. Cơ thể tôi thì dù có thế nào cũng không hề gì, không hỏng được.
-Chỉ nói toàn những chuyện dở hơi làm người ta chẳng còn muốn đi đâu nữa. Ta đi ngủ đây. Chú mày hãy dán giấy tường mới cho căn phòng này.
Thế nhưng robot lại đáp:
-Nếu vậy, ngài nên đợi thêm ít lâu nữa thì hơn ạ. Là vì chẳng bao lâu nữa người ta sẽ phát minh ra loại giấy dán tường mới, so với các loại giấy từ trước đến nay thì bền, không bẩn, tuyệt hảo về mọi mặt như màu sắc hay âm hưởng. Nếu thay giấy dán tường bây giờ thì sẽ phí đi, vì rồi sẽ dán lại ngay thôi.
-Chú mày không phải lo về chuyện tiền bạc.
-Dạ vâng. Nếu ngài đã biết rõ là phí phạm vô ích mà vẫn ra lệnh thì..
-Thôi được. Không làm nữa. Chú mày hãy ở đấy mà nghỉ đi.

Ông R chán nản không sai robot làm gì nữa. Ông cũng gọi điện thoại cho công ty sản xuất giấy dán tường để hỏi thử xem sao, thì quả đúng như lời robot, công ty này dự định chỉ trong may mai sẽ bán ra loại giấy mới.

Ngày hôm sau, ông R đem robot đến chỗ tiến sĩ F. Tiến sĩ hỏi:
-Bác dùng thấy thế nào ạ?
-Quả là có vẻ như người, khác với những robot từ trước đến nay. Nhưng lại có vẻ người quá. Hễ mình ra lệnh sai bảo điều gì thì nó lại khuyên bảo mình, nào là không tốt cho cơ thể, nào là nguy hiểm hay vô ích. Như thế cũng là trung thành với chủ đấy, nhưng mà khó dùng quá. Hình như nó đã học được khi đi tu làm người hay ở đâu đấy, cái thói dậy đời thì phải.
-Nhưng mà có cho nó đi tu ở những chỗ hay dậy đời đâu chứ.
-Thế nhưng thực tế là như vậy. Cậu hãy xem kỹ lại cho.

Tiến sĩ F lấy làm lạ, bèn xét nghiệm thật kỹ, rất tốn thì giờ. Ông R tò mò muốn biết kết quả, thì chẳng bao lâu được tiến sĩ F cho biết:
-Ra là vậy, đúng là khác với những robot từ trước đến nay, robot này đã có tính người.
-Chắc là vậy rồi. Nhưng mà, tại sao lại có cả cái thói hay dậy đời thế chứ?
-Thưa bác, đấy không phải là thói dậy đời đâu ạ.
-Thế thì là cái gì?
-Đấy là tính lười, chỉ giỏi nại cớ để trốn việc.

(22/10/2017)
Quỳnh Chi dịch “Ningen teki” của Hoshi Shinichi

Sinh sản vô tính







Một hôm các vì sao trên trời bàn chuyện của người dưới thế.



Đó là chuyện chính phủ của một nước nọ đã nghe lời các chuyên gia của họ, một mực cấm đoán việc giải phẫu cấy ghép nội tạng. Họ e sợ làm như thế sẽ đưa đến việc buôn bán thân xác, coi rẻ tính mạng con người. Nhiều người nghĩ rằng điều này xúc phạm đến sự cao quý của con người. Cũng có người cảm thấy như là các bộ phận trong thân thể cũng có một phần hồn, mà điển hình là như trái tim. Đối với họ, ghép tim người này cho người kia cũng tương tự như chuyện hồn Trương Ba da hàng thịt.



Vì sự cấm đoán này, có một gia đình kia có người bệnh đã phải tạm di cư sang nước khác, nơi mà luật pháp cho phép những cuộc giải phẫu cấy ghép như thế. Nhưng một nước đi tiên phong chấp nhận những điều mới mẻ, thì thường thường họ cũng tiên tiến về mọi mặt. Các bác sĩ của nước này có thể chữa lành bệnh cho hầu hết mọi bệnh nhân. Ai ai cũng có công ăn việc làm nên không mấy ai bị thất nghiệp. Dân chúng của họ đều biết tôn trọng luật lệ. Tóm lại là chẳng dễ gì mà có người chết đột ngột vì tai nạn giao thông, hay vì một vụ nổ súng đánh cướp ngân hàng, hoặc bị giết chết vì có ai đó thất nghiệp sinh hận đời mà gây ra án mạng. Cũng chẳng có ai nhẩy bừa xuống đường tàu tự tử v.v.. Không có ai đang khỏe mạnh mà chết vì một trong những trường hợp như thế để có sẵn bộ phận nội tạng mà giải phẫu thay ghép cho người khác.



Vì phải chờ đợi lâu quá, người bệnh của gia đình ấy lại đành đến một nước thứ ba, nơi thường hay có những nạn nhân thiệt mạng như trong các trường hợp vừa kể, nên có sẵn nhiều bộ phận để cấy ghép cho bệnh nhân hơn. Nhưng người ta đã quên khuấy trình độ và trang bị y tế yếu kém ở nước này. Tai nạn xảy ra khiến bệnh nhân bị thiệt mạng ngay trên bàn mổ. Gia đình của bệnh nhân oán trách chính phủ nước họ cũng vì ở nước của họ thì thiếu gì những trường hợp người chết như vừa kể ở trên, và muốn cấy ghép đâu có khó khăn gì, vì trình độ và thiết bị y tế của họ cũng khá hiện đại..Thật là một cái chết oan uổng !



Ở cương vị nhà trời, dường như người ta cũng khó nêu ý kiến về một vấn đề thật là tế nhị như thế. Vì sao có chòm râu bạc phơ như tiên ông lên tiếng trước tiên:

-Con người phải nhớ giữ gìn cẩn thận những gì Trời đã ban cho trong cơ thể . Đó là một tuyệt tác của Thương đế, lỡ làm hỏng một bộ phận nào rồi thì không dễ gì tìm được phụ tùng thay thế.

Có một vì sao khác còn ra chiều lo âu nhắc nhở:

-Con người đang định dùng nguyên tác của Thương Đế để chế ra phiên bản đấy. Họ đã thử ở động vật, và đặt tên cho tác phẩm làm thử đầu tiên là Dolly. Họ gọi đó là sinh sản vô tính.

Các vì sao chăm sóc các vườn hoa liền lên tiếng đáp lại như thở than :

-Ồ, trong giới thực vật thì họ đã làm chuyện đó lâu rồi. Họ đã dùng phương pháp ấy để tạo ra những củ khoai tây mà củ nào củ nấy giống hệt nhau. Họ nhân giống hoa lan khiến cành hoa nào cũng giống cành nào, chợt nhìn cứ tưởng là hoa nylon !

Lẽ ra phải trân trọng từng gốc hoa lan, chờ nắng gió bốn mùa cho gốc hoa đủ lớn, rồi hàng năm chia gốc, ươm thêm từ từ từng bụi hoa mới. Họ đã quên khuấy rằng những năm tháng chờ mong cũng chính là niềm hạnh phúc. Một ngày nào đó vườn hoa của họ dần dần chẳng còn gì là thơ mộng nữa. Hoa lá gì mà như sản phẩm sản xuất hàng loạt, đại trà !



Cuối cùng, hình như là Thượng Đế, đã ôn tồn lên tiếng.

-Cứ để con người tự do làm theo ý họ. Xưa kia họ cũng đã tự ý ăn trái cấm, từ chối hạnh phúc trong vườn Địa đàng.

Sinh sản vô tính à ?

Trần gian rồi sẽ tràn ngập những con người ích kỷ, bởi từng tế bào trong cơ thể họ đều sinh ra từ một tế bào của chỉ một người, mà không phải là từ một phôi thai kết hợp với tha nhân. Vì vậy, mỗi người sẽ chỉ còn biết có cái tôi của họ mà chẳng biết đến người khác. Con người sinh sản vô tính vẫn có hai tay hai chân mà giống như là chỉ có một, nên họ đi xiêu vẹo về một bên. Tương lai của nhân loại rồi chẳng biết sẽ về đâu nếu người sinh sản vô tính chiếm đa số, bởi đầu óc họ cũng đầy những tế bào thần kinh chỉ biết tiếp thu ý kiến một chiều. Họ sẽ như những con thuyền luôn đi lạc vì chỉ biết chèo về một hướng.



Quỳnh Chi (8/6/2009)

Thứ Ba, 5 tháng 12, 2017

BỐN NĂM




Bốn năm ẩn trú cội nguồn
chờ tàn phai đến gửi buồn nợ vay
gom hồn vào lá lắt lay
giữ tình trong chén đắng cay sưởi lòng


Đêm mang dạ chửa gọi chồng
gió mon men chém mùa đông guộc gầy
bốn năm ta vẫn còn đây
cơn say ảo mộng dâng đầy trăng khuya

Bốn năm trọn một chu kỳ
xuân cầu hạ đón thu đi đông về
riêng ta ở giữa hương quê
chờ duyên trả lại đam mê cõi người