" Cả cuộc đời ba không có gì để lại cho các con ngoài số vốn kiến thức mà ba mẹ tảo tần nuôi các con ăn học.Mong các con trở thành những người hữu ích cho xã hội" ( trích từ TT "Vững Niềm Tin")
Chủ Nhật, 18 tháng 9, 2016
Trang Tử tiết lộ 9 bí quyết tuyệt diệu để nhìn người
Tác giả: Theo Bayvoice.net | Dịch giả: Minh Nữ
Ảnh: Epochtimes
Nam Hoa kinh là cuốn sách triết học nổi tiếng do nhà triết học Trang Tử viết vào thời Chiến Quốc. Trong sách có đoạn: “Lòng người sâu hiểm hơn sông núi, khó biết hơn trời, vì trời còn có hạn kỳ: xuân, hạ, thu, đông, sớm mai, chiều tối, nhưng người thì bề ngoài kín đáo mà tình cảm sâu thẳm khó dò. Thế nên có nhiều kẻ bề ngoài đôn hậu mà ngầm kiêu căng tự mãn; bề ngoài giỏi giang nhưng bản chất bất tài; bề ngoài thận trọng cố chấp mà thấu tình đạt lý; bề ngoài kiên cường nhưng bản chất nhu nhược; bề ngoài hoà hoãn nhưng bản chất hung tàn”. Vậy làm thế nào để nhìn người cho chuẩn xác? Cũng trong Nam Hoa kinh, Trang Tử đã tiết lộ cho chúng ta 9 bí quyết tuyệt diệu để nhìn người, 9 bí quyết này không chỉ có tính ứng dụng rất cao cho đến tận ngày nay mà còn hàm chứa những ý nghĩa nhân sinh sâu sắc.
1.Xa cách giúp nhìn ra trung thành
Khoảng cách là thước đo mối quan hệ tốt xấu giữa hai người, nới rộng khoảng cách một cách thích hợp sẽ có thể hiểu rõ về nhau hơn. Con người hiện đại đều rất bận rộn, trong một đoạn thời gian nào đó có thể giữ một chút khoảng cách với bạn bè và nhìn xem anh ta có bận tâm đến bạn không. Khoảng thời gian này qua đi, hai người giao du thường xuyên trở lại, lúc ấy hãy nhìn xem còn có thể hòa hợp với nhau như trước hay không.
Phương pháp này cũng giống như “Quân tử giao tình nhạt như nước”, cả hai đều cho hiệu quả tương tự. Nếu như tình cảm của hai bên mà đủ vững chắc, lại có cùng mục tiêu và lý tưởng với nhau thì loại quan hệ này sẽ không bị trói buộc bởi khoảng cách và thời gian. Trái lại, nếu như quan hệ là dựa vào địa vị và lợi ích mà duy trì thì sau thời gian dài xa cách, quan hệ ấy cũng tự nhiên mà phai nhạt. Tuy nhiên cần phải chú ý rằng, loại khảo sát này không được lạm dụng quá đà, nếu không cái được chẳng bù nổi cái mất!
2.Thân cận giúp nhìn ra giáo dưỡng
Cái gọi là “ở lâu mới biết lòng người” có nghĩa là, hai người thường xuyên ở cùng một chỗ với nhau sẽ hiểu rất rõ ưu khuyết điểm cũng như văn hóa giáo dục của nhau. Hơn nữa trong khi nói chuyện có thể chú ý đến cách diễn đạt và hành vi của đối phương, có thể quan sát lời nói của người kia có thô tục không, hành vi có khiếm nhã không; hoặc khi đùa giỡn có thể xem xem người kia trong lúc buông lơi có còn lễ độ hay không.
Hai người kết giao thời gian dài thì mối quan hệ sẽ trở nên bình đẳng. Lúc đó lễ độ, giáo dục và kiến thức của một người sẽ thể hiện rõ ràng trước mặt người kia. Nếu như trong quá trình quen biết lâu dài, một người luôn cung kính và khiêm nhường với mọi người thì người bạn đó rất đáng để kết giao!
3.Việc phức tạp giúp nhìn ra năng lực
Loại phương pháp này thích hợp để cấp trên đánh giá cấp dưới. Có thể giao một số công việc phức tạp cho người mình cần đánh giá để xem người đó có thu xếp được gọn gàng ổn thỏa không, có xử lý hợp tình hợp lý được không.
Người có năng lực có thể chia làm hai loại: có năng lực và có khả năng chịu được áp lực. Thông thường, năng lực của một người cao thấp ra sao sẽ thể hiện khi họ đang phải chịu áp lực. Áp lực sẽ làm rối loạn hành vi và phán đoán của một người. Nếu ở trong hoàn cảnh áp lực như vậy mà vẫn có thể nhanh chóng thoát ra và tìm được phương pháp làm việc thích hợp thì năng lực của người ấy không kém chút nào!
4.Việc đột xuất giúp nhìn ra mưu trí
Đột nhiên hỏi một vấn đề có thể nhìn ra mưu trí của một người. Vấn đề ấy không cần quá hóc búa cũng không cần quá nhạy cảm, có thể là dựa trên logic có sự suy luận hoặc chuyển hướng đột ngột.
Qua “vấn đề đột xuất” có thể đánh giá được trình độ năng lực của một người, cũng như tốc độ phản ứng và khả năng khống chế cảm xúc của người đó. Khi bị hỏi bất ngờ, phản ứng đầu tiên của đối phương có thể là kinh ngạc, nhưng nếu có thể nhanh chóng trả lời thì dù đáp án có đúng hay sai cũng đã chứng tỏ rằng, trong một khoảng thời gian ngắn anh ta có thể khôi phục lại bình thường cảm xúc của mình. Câu trả lời đúng hay sai không quan trọng, quan trọng là nó có chặt chẽ và hợp lý hay không.
5.Việc gấp gáp giúp nhìn ra tín nghĩa
Chuyện xảy ra bất ngờ sẽ luôn khiến người ta bối rối không kịp chuẩn bị, lúc này đừng ngại gọi điện thoại cho bạn bè để nhờ giúp đỡ, hãy xem người đó có đáp ứng hay không và đáp ứng có đúng lúc và ổn thoả hay không.
Cách này chủ yếu dùng để khảo sát trong hai trường hợp: một là việc đó phải nằm trong khả năng của họ, hai là bạn phải có chỗ đứng tương đối trong lòng họ. Người coi trọng bạn thì khi đột nhiên được bạn cầu trợ bằng mọi cách sẽ nhanh chóng chạy tới. Ngược lại, người xem nhẹ bạn sẽ ậm ừ cho qua chuyện hoặc mượn cớ để thoái thác, thậm chí có người lúc đầu sảng khoái đồng ý nhưng sau lại lần lữa không đến, người như vậy không đáng để kết giao.
Nếu đối phương đã có hẹn hoặc có việc quan trọng cần làm nhưng lại đáp ứng lời nhờ vả của bạn mà lỡ việc của người khác, như vậy lòng tín nghĩa của người này cũng cần đặt một dấu hỏi.
6.Tiền bạc giúp nhìn ra nhân nghĩa
Nếu có vị bằng hữu muốn vay tiền bạn mà số tiền đó nằm trong khả năng của bạn thì đừng ngại cho vay, hãy xem xem anh ta có trả lại đúng hạn hay không.
“Quân tử ái tài, thủ chi hữu đạo”, người quân tử coi trọng tiền tài nên việc thu chi phải có đạo lý. Tiền tài là phương pháp trực tiếp để khảo nghiệm năng lực ý chí và phẩm chất của một người, và cũng là khâu dễ xảy ra vấn đề nhất trong quan hệ giữa người với người. Có không ít những mối quan hệ bạn bè tốt đẹp chỉ vì vay tiền thời gian lâu không trả hoặc không có khả năng trả nợ mà dẫn đến tuyệt giao. Tiền tài tuy là vật ngoài thân nhưng lại là thứ cơ bản để đảm bảo cho cuộc sống yên ổn. Cho nên dù là bạn thân đi nữa thì tiền bạc cũng phải rõ ràng.
7.Lúc nguy khốn giúp nhìn ra khí tiết
Cuộc đời có lúc lên lúc xuống, khi gặp phải khó khăn thì đừng ngại tâm sự với bạn bè. Người bạn chân chính sẽ kiên nhẫn lắng nghe, cho bạn những ý kiến xây dựng và thật lòng giúp đỡ chứ không lảng tránh bạn. Đây chính là điều mà người ta gọi là “Trong hoạn nạn mới thấy chân tình”. Khi bạn đang ở trên đỉnh cao danh vọng, sẽ có rất nhiều người vây quanh bạn, nhưng khi cuộc đời bạn lao xuống dốc thì sẽ có những người lựa chọn tránh xa hoặc thậm chí thừa cơ hãm hại bạn. Lúc này, những người ở lại cùng bạn vượt qua hoạn nạn mới là người bạn thực sự.
8.Lúc say rượu giúp nhìn ra phép tắc
Khi đối phương say rượu có thể xem xem biểu hiện của anh ta có thái quá không, lời nói cử chỉ có còn đúng mực không. Một người khi uống rượu vào thì khả năng kiểm soát sẽ bị giảm xuống, cho nên ở một mức độ nào đó có thể thể hiện suy nghĩ và phẩm hạnh của anh ta. Dân gian có câu: “Tửu phẩm như nhân phẩm” (Phẩm chất của rượu như phẩm chất của người), “Tửu hậu thổ chân ngôn” (Lúc say mới nói lời thật). Tuy nhiên mỗi người khi say lại có biểu hiện khác nhau, có người chỉ vùi đầu vào ngủ cũng không thể đánh giá được gì nhiều. Vì vậy biểu hiện khi say chỉ có thể dùng để tham khảo, cũng không thể hoàn toàn dựa vào “tửu phẩm” mà đánh giá “nhân phẩm” được.
9.Chỗ gặp gỡ tụ hội giúp nhìn ra thái độ làm người
Quan sát cách đối xử của một người khi tiếp xúc với những người có tính cách, chức nghiệp, thân phận khác biệt, có thể thấy được nhân cách và đạo xử thế của họ. Ví dụ như, có những người nhìn thấy bậc quyền cao chức trọng thì cúi đầu khom lưng, còn đối với những người có địa vị kém hơn mình thì ngạo mạn khinh thường; có những người đối với bậc bề trên thì cung cung kính kính nhưng đối với lớp đàn em thì chỉ tay giậm chân. Chỉ khi đối xử với mọi người đều bình đẳng như nhau thì mới có thể nhận được sự tôn trọng của người khác.
Những kết tinh trí tuệ này mặc dù đã trải qua hàng ngàn năm lịch sử nhưng vẫn còn nguyên giá trị ứng dụng cho đến tận ngày nay. Tuy nhiên cần chú ý rằng, khi ứng dụng 9 bí quyết này thì phải kết hợp với tình huống thực tế, không được rập khuôn máy móc, càng không thể cố ý bày đặt ra sự việc để thăm dò, nếu không rất có thể sẽ phá hỏng những mối thâm tình quý giá. Nhìn người quả nhiên là một nghệ thuật, và cũng là một loại trí tuệ vậy.
Cuộc sống chính là một chuỗi những tuyển chọn
Tác giả: Hà Quyền Phong | Dịch giả: Tâm Nguyễn
Ảnh: Vương Gia Ích – Epochtimes
Cuộc sống chính là một chuỗi những tuyển chọn. Khi mỗi một tình huống phát sinh, đều là một sự lựa chọn, bạn có thể chọn ứng đối như thế nào với tình huống, chọn tâm tình cùng những biểu đạt tình cảm của riêng mình, chọn đối diện như thế nào với sinh mệnh và cuộc sống của bạn.
Bạn có thể chọn nét mặt vui vẻ mỉm cười, cũng có thể chọn vẻ mặt nhăn nhó than thở; có thể chọn bị động tiêu cực, cũng có thể chọn chủ động tích cực.
Bạn có thể chọn tha thứ, cũng có thể chọn báo phục cừu hận; có thể chọn oán trách, cũng có thể chọn cảm ơn.
Đang khi đi đường té ngã một cái, trầy xước cả miếng da, bạn có thể nói với chính mình: quá sui xẻo; cũng có thể cảm thấy được sự may mắn, vẫn còn hên! May chưa gãy chân.
Con người thường hay tìm ra một mớ lý do biện minh cho bản thân vì sao không vui vẻ, giả dụ như: cảnh ngộ không thuận, thân thể không thích hợp, gặp người bất lương, mệnh không tốt v.v… Nhưng mà, hoặc là bạn chưa ý thức đến được, rằng thực sự bạn có quyền tuyển chọn. Khi bạn liên tục chọn sai, có thể sẽ trở thành thói quen của mình, thậm chí tưởng rằng chính bản thân mình đã không có sự chọn lựa nào khác. Điều này tựa hồ như một người đang bị giam hãm ở một nơi nào đó, trong túi tuy rằng có chìa khóa, nhưng không biết dùng chìa khóa để mở cửa, bởi vì người ấy không hề biết rằng ở trong túi có trang bị sẵn chiếc chìa khóa.
Đã là một ngày đều lặp lại giống như một ngày, tại sao không để ngày hôm nay được ý nghĩa.
Có một bộ phim điện ảnh nhan đề “Hôm nay tạm thời ngừng lại”, nam diễn viên chính của thước phim là một người hẹp hòi, ích kỷ tự tư, và là một phóng viên truyền hình bất mãn, anh ta luôn ôm một bụng khí oán giận đầy trách cứ, cho nên một mạch không cảm thấy vui vẻ. Liên tục trong bốn năm, anh ta đều được điều phái đi phỏng vấn hoạt động lễ hội mang tên “Groundhog Day – Ngày chuột chũi”.
Năm này cũng y chang như thường lệ, vừa mới đến thị trấn nhỏ để tiến hành công tác phỏng vấn, anh ta chỉ một tâm mong nhanh chóng cho xong cái việc thối này, rồi sau đó mọi người nhanh chóng rời đi, không ngờ ập đến một trận bão tuyết lớn, khiến anh ta bất đắc dĩ phải lưu lại thêm một ngày. Và rồi điều kỳ lạ đã xảy ra,6 giờ sáng hôm sau, khi anh ta bị tiếng chuông báo thức của đồng hồ làm thức tỉnh, anh phát hiện bản thân lại phải quay lại chương trình “Ngày chuột chũi”, trừ anh ta ra, không có ai khác phát giác ngày tháng có sai khác, anh ta cứ như thế ngày nối tiếp ngày khổ sở mệt mỏi và chán nản mắc kẹt tại chỗ giống như những tháng ngày trước kia, anh ta bắt đầu rơi vào trạng thái bồn chồn lo lắng, không biết như thế nào để khá hơn, anh ta chọn lối sống sa đọa, ngông cuồng, gây tai họa, bất cần đời, nhưng vẫn cứ như cũ vô tế vô sự chẳng có ích lợi gì: nản lòng nhụt chí, muốn chọn tự sát cho rồi, nhưng đến cả chọn tự sát cũng chẳng biến đổi nổi được điều gì, làm gì cũng đều không thể cải đổi được gì cả! Bởi vì cách một ngày, từ sáng sớm anh ta vẫn đúng giờ tỉnh dậy như mọi khi, và an nhiên vô sự, một ngày mới lặp lại trôi qua giống như mọi ngày, anh ta không biết điều này là nguyên gốc từ đâu, chỉ biết rằng mỗi ngày của anh ta đều trùng lặp diễn ra lặp lại giống như một ngày, cuộc sống của anh ta đã dừng lại tại chỗ, dường như mãi không biết tiến về phía trước
Vì vậy, anh ta bắt đầu suy nghĩ: Đã là mỗi ngày đều ngày trôi qua ngày, tiếp nối lặp lại giống như một ngày, thế thì tại sao không làm cho một ngày hôm nay trôi qua có được một ý nghĩa, anh ta bắt đầu lựa chọn một thái độ sống khác, anh ta sử dụng thế mạnh biết trước của tình tiết, ôm và an ủi vỗ về đứa bé té ngã từ trên cây xuống, mời ông lão lang thang vô gia cư một bữa ăn no, khuyên ngăn một một cặp vợ chồng cãi nhau… Sau cùng, khi chính anh ta tìm thấy tình yêu đích thực của tâm hồn, ngay từ 6 giờ sáng sớm tiếng chuông báo thức của chiếc đồng hồ lại kêu vang, anh ta nhận ra tất cả mọi thứ đều đổi khác, đều trở nên khác trước, không còn là cái ngày “Ngày chuột chũi” kia nữa, một ngày mới cuối cùng đã đến.
Nếu bạn có thể sử dụng một thái độ chính diện, tích cực, khi đó bạn sẽ tìm thấy chiếc chìa khóa
Cuộc sống là không ngừng lặp đi lặp lại sự tình tương tự, không ngừng đụng phải những sự tình tương tự, sau đó chúng ta phải học cách khác nhau để đối mặt với những vấn đề, cho đến một ngày chúng ta biết dùng cách tốt nhất để giải quyết vấn đề, và vấn đề ấy sẽ không còn là vấn đề nữa.
Một khi biết đâu là sự lựa chọn của riêng mình, thế thì bạn đã tìm thấy chiếc chìa khóa. Nếu bạn muốn vây khốn trong đó, đó là sự lựa chọn của bạn, chớ đừng trách cứ, nếu bạn muốn để cả đời thống khổ, vậy đó cũng là quyết định của bản thân bạn, bạn hoàn toàn tự do. Nếu bạn có thể chọn phản ứng để vui vẻ và lạc quan, nếu bạn có thể sử dụng một thái độ tích cực, khi đó bạn đã khai mở cánh cửa của con đường.
Có một câu chuyện: Một ông lão cả ngày từ sáng sớm tới chiều muộn đều rất vui vẻ hạnh phúc, mọi người cũng đều từ ông mà cảm thấy thoải mái vui vẻ. Sau đó liền có người hỏi ông làm thế nào ông luôn vui vẻ và hạnh phúc. “Lão tiên sinh, ông nhất định phải có một bí quyết gì đó!”
“Không” ông lão trả lời rằng: “Rất đơn giản, không có cái gì để gọi là bí quyết cả” ông tiếp tục giải thích: “Buổi sáng mỗi ngày khi tôi vừa thức dậy, tôi có hai lựa chọn ─ là mong chờ ngày hôm nay vui vẻ hay không vui vẻ, các bạn đoán tôi chọn gì nào? Tôi chỉ mong muốn được vui vẻ, vui vẻ thực sự”
Vâng, bạn cũng có thể dùng nụ cười và khai mở ngày hôm nay của bạn. Cuộc sống không thể có ánh nắng mặt trời đều phổ chiếu khắp mỗi ngày, nhưng bạn có thể chọn để mở cánh cửa sổ, cửa ra vào, hoặc khép kín hết thảy. Nếu bạn mở các cánh cửa, trong nhà dễ dàng tràn đầy tia nắng thái dương, còn nếu bạn một mạch tự mình khép kín hết thảy, tất cả các cửa sổ và cửa chính đều đóng chặt, vậy thì ngay cả khi ánh nắng mặt trời đã lên cao, bạn cũng sẽ luôn sống trong bóng tối.
Bạn, chính là kết quả của những lựa chọn bạn đã chọn. Trước tiên hãy mỉm cười, rồi niềm vui liền sẽ cùng theo đến.
Một phương pháp để nhìn nhận và đối đãi cuộc sống chính là quy nó trở thành một chuỗi các lựa chọn, sử dụng nó để bắt đầu mỗi sớm mai của chúng ta.
Khi bạn có quyền chọn, bất kể là chọn gì, bạn cần hỏi chính mình hai điều: Đầu tiên, “Điều này tôi chọn kết quả sẽ như thế nào?” như thế có thể giúp trong tâm bạn có tiếng nhạc. Lần sau, “Tôi thực hiện chọn điều này, nó sẽ đem đến cho tôi và những người bên cạnh tôi niềm vui không?”. Nếu đáp án khẳng định là có, vậy thì cứ thế đi thực hiện, sự tình chính là đơn giản thế.
Bạn là tự do, bạn có thể khiến hiện tại trở thành một thời khắc thống khổ, cũng có thể giúp nó trở thành một thời khắc mỹ hảo. Những bất đồng của cuộc sống không những chỉ bởi do các loại sự kiện đan xen mà thành, phương thức độc đáo mà chúng ta hồi ứng với sinh mệnh mới thật sự quyết định cuộc sống của chúng ta.
Rừng Bạch Tuyết ( 8 cây) -giá 650k
Rừng Bạch Tuyết ( 8 cây) -giá 650k-ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh
Thứ Bảy, 17 tháng 9, 2016
Sự Tích Khăn Tang
Ngày xưa, có vợ chồng nhà phú hộ nọ sinh được năm người con gái. Nhà giàu nhưng lại không con trai, nên bao nhiêu tình thương họ đều dồn vào những cô con gái. Lần lượt năm cô lớn lên, ai nấy đều lập gia đình và đi ở riêng.
Vì các cô lấy chồng xa, nên hai ông bà phú hộ cảm thấy nhớ con quá. Một hôm bà bảo chồng:
- Sắp tới, ông chịu khó trông nhà cửa cho tôi đi thăm chúng một lượt, sau đó tôi lại về trông để ông đi...
- Phải đó - ông đáp - nhưng bà phải đi nhanh nhanh lên mới được, đừng bắt tôi đợi lâu!
- Không được đâu, tôi tính ở lại với các con đứa nào ít nhất cũng một tháng, năm đứa vị chi là năm tháng, c̣òn đi đường tổng cộng độ vài ba chục ngày, như vậy cũng mất ngót nửa năm rồi ông ạ!
- Thôi được, thế thì bà nó đi đi, bà nhớ đừng để cho đứa nào quấn quýt quá rồi ăn dầm nằm dề ở đó làm cho tôi mỏi ṃòn trông đợi.
Rồi người vợ cùng con hầu ra đi. Nhưng chỉ được vài tháng đă thấy bà trở về, vẻ mặt buồn xo. Thấy thế, ông liền hỏi dồn:
- Cơn cớ làm sao mà bà về nhanh như vậy? Có gặp điều gì khó khăn dọc đường hay không mà vẻ mặt bà không được vui?
Bà phú hộ đáp:
- Chẳng có gì hết, tôi vẫn bình yên, chúng nó đều mạnh khỏe cả. Tôi về sớm là vì tôi muốn ông khỏi trông. Ông cứ đi một lần cho biết.
Thấy vợ nói úp úp mở mở, ông phú hộ chẳng hiểu gì nên cuối cùng cũng sắm sửa hành lý ra đi.
Ông ghé nhà người con gái thứ nhất. Chàng rể tiếp đón niềm nở làm ông hài ḷòng, nhưng con gái ông lại không được như thế, nó chỉ chuyện trò giả lả được đôi câu rồi quay vào công việc của nó.
Đến khi chồng nó ra đồng trông coi thợ cày cấy, thì con gái ông lúi húi lo việc bếp núc, cha con chẳng có dịp chuyện trò.
Măi đến gần trưa, ông cảm thấy bụng đói cồn cào, định bảo nó dọn cho mình ăn trước như khi còn ở nhà, nhưng rồi lại nghĩ thầm: “Để xem nó đối đãi với cha nó ra sao cho biết?!”. Ông thấy con gái chờ chồng về mới dọn cơm ra. Chàng rể của ông lúc ấy tuy đã về rồi mà vẫn còn bận một số công việc nên ông phải đợi tiếp. Đến khi thấy quá trưa, con gái ông mới gọi chồng:
- Mình ơi, hãy để đó vào ăn cơm đi, cho ông già ăn với!
Nghe con gái nói thế, ông cảm thấy không được vui. Chiều hôm ấy và liên tiếp những ngày sau cũng vậy. Ông nghiệm ra rằng con gái ông chăm sóc cho chồng nó chứ không phải cho ông: “Thì ra bây giờ nó coi cha nó chẳng ra cái quái gì. Nếu chồng nó không ăn thì có lẽ mình cũng phải ngồi nhịn đói”. Ở chơi được ít ngày, thấy con gái không được vồn vã đằm thắm như xưa, ông liền từ giã vợ chồng nó mà đi đến nhà đứa khác xem sao.
Lần này vừa đi ông vừa lẩm bẩm: “Chắc thế nào những đứa sau cũng phải khác chứ, chẳng lẽ đứa nào cũng như vậy cả sao? Vợ chồng ta trông cậy chúng nó rồi đây sẽ chia nhau về phụng dưỡng một khi bố mẹ tuổi già kia mà!”
Nhưng khi đến nơi, ông thấy đứa thứ hai cũng chẳng khác gì đứa đầu. Nghe bố đến thăm cũng tiếp đãi gọi là cho tròn bổn phận rồi lại loay hoay vào công việc nhà chồng, bỏ mặc ông chẳng chút quan tâm.
Lần lượt ông đi thăm đủ cả năm cô con gái yêu quý nhưng chẳng đứa nào là không say mê với công việc của nó, chẳng đứa nào quan tâm chăm sóc đến ông như lúc còn ở nhà. Sau cùng, ông chép miệng:
- Vậy là con gái một khi bước về nhà chồng thì chẳng c̣òn là con mình nữa. Nó xem chồng trọng hơn bố mẹ nó nhiều.
Nghĩ vậy nên ông quày quả trở về. Ông tính lại thời gian thăm con cả đi lẫn về còn ngắn hơn cả bà.
Khi về, ông gọi vợ lại bàn rằng:
- Thế là mấy đứa con gái có cũng như không, chẳng hy vọng gì vào chúng nó đỡ đần mình tuổi già nữa rồi. Bây giờ bà để tôi đi kiếm một đứa con nuôi đặng mai sau nó săn sóc chúng mình lúc mắt lòa chân chậm. Bà nó nghĩ sao?
Vợ phú hộ trả lời:
- Thôi ông ạ! Đừng có đi mà mất công lại nhọc xác. Con đẻ rứt ruột ra mà chúng không đoái không hoài thì con nuôi có làm được gì ?
Phú ông liền bảo:
- Trên đời này có kẻ tốt người xấu, đâu phải ai cũng như ai, bà đừng ngại.
- Được rồi, ông cứ đi đi, cố tìm một đứa con ngoan phụng dưỡng, mọi việc ở nhà mặc tôi lo liệu.
Phú hộ bèn đóng vai một ông già nghèo khó rồi ra đi từ làng này đến làng khác, đến đâu ông cũng rao:
- Ai mua cha không ? Có ai mua cha thì ra mà mua! Mua ta về làm cha chỉ mất năm quan tiền thôi...
Mọi người nghe ông già rao như vậy thì tưởng ông điên. Có người còn vui miệng nói :
- Mua lăo ấy để về nhà mà hầu ư ? và để rồi đây lão ta trăm tuổi qua đời có được đồng nào còn phải lo tống táng nữa sao ? Thà là nuôi một người đầy tớ còn hơn.
Tuy có nghe nhiều lời mỉa mai cười cợt, phú ông vẫn không nản chí, vẫn đi hết xóm này đến ấp kia, miệng rao không ngớt:
- Có ai mua cha không này?
Bấy giờ ở làng nọ có hai vợ chồng một nông phu nghèo, nghe có người đi bán mình làm cha, chồng bảo vợ :
- Hai vợ chồng mình mồ côi từ thuở bé, chưa bao giờ được hưởng tình cha con, lại chưa có mụn con nào, thật là buồn. Thôi th́ì ta mua ông già này về thủ thỉ với nhau khuya sớm cho vui cửa vui nhà.
Thấy vợ bằng lòng, anh chàng chạy ra đón ông già vào và nói :
- Ông định bán bao nhiêu tiền?
- Năm quan không bớt.
Anh chồng liền thưa:
- Thú thật với ông, nhà tôi nghèo quá, muốn mua ông nhưng không sẵn tiền. Vậy ông ngồi chơi để tôi bảo nhà tôi đi vay xem sao.
Phú hộ ngồi chờ hồi lâu, thấy chị vợ chạy đi một lát rồi lại quay về, nhưng số tiền vay được cùng với tiền nhà gom lại cũng chỉ có hai quan. Anh chồng liền nói:
- Thôi thì ông thông cảm cho, hai ngày nữa mời ông trở lại, chúng tôi sẽ có đủ tiền.
Hai ngày sau, vợ chồng anh nông phu trao tiền cho ông, mời ông vào nhà “cha cha, con con” rất thân tình. Phú hộ thấy đầu tóc người vợ bây giờ biến đi đâu mất liền hỏi:
- Này con ơi, tại sao đầu tóc của vợ con lại cắt cụt đi như vậy ?
Anh chồng tần ngần đáp:
- Chẳng giấu gì cha, nhà con quá nghèo không đủ tiền mua, mà nếu không mua thì biết có dịp nào tốt hơn. Vì vậy, vợ con phải cắt tóc đi bán mới có đủ số tiền năm quan đó.
Từ ngày có người cha nuôi, hai vợ chồng nông phu tỏ ra rất niềm nở và chịu khó chăm sóc hầu hạ ông không biết mệt. Phú ông vẫn không cho biết gốc tích quê quán thật của mình, hằng ngày vẫn cứ ăn no ngủ kỹ, đôi lúc lại kêu váng đầu mỏi lưng, bắt họ phải xoa bóp hoặc tìm thầy chạy thuốc.
Mặc dầu vậy, hai vợ chồng vẫn cơm nước săn sóc không bê trễ. Cứ như vậy được vài tháng sau, nhà họ đă nghèo lại càng mạt thêm.
Hai vợ chồng phải cố gắng làm thêm để nuôi cha, có bữa phải nhịn đói để nhường cơm cho ông già.
Tình hình như vậy kéo dài nửa năm, nợ nần của họ chồng chất quá nhiều mà trong nhà gạo tiền đã kiệt. Tuy vậy, họ vẫn không hề lộ vẻ mỏi mệt, cố làm vui lòng cha già.
Một hôm, hai vợ chồng ngủ dậy đã thấy người cha nuôi khăn gói chỉnh tề, ông bảo họ:
- Các con hãy đốt cái nhà này rồi đi theo ta!
Vợ chồng anh nông phu trố mắt nhìn nhau, tưởng ông phát điên, nhưng sau đó lại thấy ông phú hộ giục bảo:
- Làm con thì phải vâng theo cha mẹ, chớ có sai lời. Cha đã bảo các con đi theo cha kiếm ăn thì cứ việc đi, còn cái nhà này ọp ẹp chẳng đáng bao nhiêu đừng tiếc nữa.
Vợ chồng nghe thế thì biết ông nói thật, không dám cãi, đành nhặt nhạnh một vài món đồ buộc thành một gói, rồi châm lửa đốt nhà.
Đi theo ông già, họ thấy ông ban ngày lần hồi xin ăn, tối tối lại vào nhà người xin ngủ nhờ, họ vẫn vâng lời, không chút phân vân.
Ba người đi xin ăn như thế được năm ngày, cuối cùng đến trước một ngôi nhà ngói tường vôi, ông mới vui vẻ bảo họ:
- Các con ơi, đã đến nhà ta rồi!
Bà phú hộ bước ra cổng đón vào, ông tươi cười bảo vợ:
- Bà nó này, đây mới thật là con của chúng ta đấy!
Bấy giờ vợ chồng anh nông phu mới ngớ người ra, biết được cha mẹ nuôi mình là một nhà giàu có.
Phú hộ bảo anh nông phu lấy theo họ mình, và từ đó hai vợ chồng bước vào một cuộc đời sung sướng.
Ít lâu sau, phú hộ lâm bệnh nặng. Biết mình sắp gần đất xa trời, ông bèn làm tờ di chúc để phần lớn gia tài cho đứa con nuôi, đoạn ông gọi vợ đến trối rằng:
- Sau khi tôi chết, bà nhớ đừng cho năm đứa con gái biết tin đấy!
Ông nói tiếp: - Nếu chúng nó có nghe ai mách mà về đây, chưa biết chừng tôi sẽ “bứt néo” trổi dậy cho mà coi. Việc để tang thì đứa con trai cứ theo cổ tục, cắt tóc, đội mũ, quấn rơm trên đầu để chứng tỏ mình chịu cực chịu khổ với cha mẹ thì thôi cũng được, nhưng đứa con dâu thì bà bảo nó khỏi cắt tóc, vì tôi chưa bao giờ quên được cái việc nó đã hy sinh mái tóc dài của nó để mua cha, vậy nó chỉ cần đội khăn tang là đủ.
Nhưng khi khâm liệm cho chồng xong, bà phú hộ vì nặng lòng nên cũng cho người lén báo tin cho năm đứa con gái biết. Khi chúng về, bà đón ở cổng, thuật lại lời trối của cha cho chúng nghe và bảo chúng đừng có vào nhà, kẻo có sự chẳng lành.
Năm đứa con gái hối hận lắm, nhưng việc đã rồi biết làm sao? Khi đưa linh cữu cha, chúng đòi đi đưa cho bằng được. Khuyên can con mãi không xong, cuối cùng bà buộc lòng phải xé cho chúng ngoài khăn tang ra còn thêm mỗi đứa một vuông vải cho chúng che mặt lại để mong linh hồn bố chúng khỏi biết.
Từ đó, người ta bắt chước để tang theo cách gia đình này đã làm:
“Con trai cắt tóc vành rơm, mũ mấn, dây lưng chuối như cổ tục, con dâu được miễn cắt tóc, chỉ đội khăn tang, lại miễn cả che mặt. Còn con gái ngoài khăn tang còn có thêm một mảnh vải che mặt.”
LỜI DẶN DÒ CUỐI CÙNG CỦA ĐỨC PHẬT
Bures-Sur- Yvette (Pháp quốc)
Hoang Phong
Biên soạn dựa theo một bài viết của Thiền sư và Giáo sư Triết học ngưới Pháp Gérard Pilet, đăng trong nội san của Hội Thiền học Quốc tế AZI (Association Zen Internationale), trụ sở tại Paris, và tài liệu của Bukkyo Dendo Kyokai (Society For the Promotion of Bouddhism), trụ sở tại Tokyo).
Xin hãy lắng lòng nghe, chiêm nghiệm, và thực hành những lời dặn dò cuối cùng của Đức Phật để thân tâm an lạc thật sự.
Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-nan-đà tập họp các đệ tử để nghe giảng và thông báo trước sự tịch diệt của mình. Lúc ấy Phật đã 80 tuổi. Trong những tháng cuối cùng, Phật đã gầy còm và mệt mỏi, nhưng vẫn đi thuyết giảng như thường, tuy không còn đi xa được nữa. A-nan-đà xin Phật hãy tĩnh dưỡng trong những ngày còn lại, nhưng Ngài khoát đi và dạy rằng
"Thân ta tuy có kém mạnh khoẻ, nhưng lòng từ bi của ta, trí sáng suốt của ta không kém sút. Ta còn tại thế ngày nào thì ngày ấy không phải là một ngày vô ích".
"Thân ta tuy có kém mạnh khoẻ, nhưng lòng từ bi của ta, trí sáng suốt của ta không kém sút. Ta còn tại thế ngày nào thì ngày ấy không phải là một ngày vô ích".
Trong một khu rừng cạnh thị trấn Câu-thi-na (Kusinaga, còn viết là Kuçinagara), ngày nay là một thị trấn nhỏ tên là Kasia, cách 50 cây số về phía đông tỉnh Gorakhpur, và cách 150 kilomét về phía bắc-đông-bắc Varanasi (Bénarès), Phật nằm nghỉ giữa hai gốc cây sa-la. Ngài tự gấp áo cà sa làm bốn, rồi nằm nghiêng về phía tay phải, đầu hướng về phía bắc, mặt hướng về phía tây, hai chân duỗi thẳng, chân này gác lên chân kia. Sau đó Phật ngỏ những lời cuối cùng với các đệ tử để nhắc lại một lần nữa tầm quan trọng của Đạo Pháp. Phật nhắc nhở các đệ tử phải hiểu rằng vị thầy của họ không phải là một nhân vật nào cả, dù đó là Phật, vị thầy đích thực của họ chính là Đạo Pháp. Phật cất tiếng và nhắn nhủ các đệ tử đang ngồi chung quanh Ngài như thế này :
"Này các đồ đệ, các con hãy tự làm đuốc để soi sáng cho các con, hãy trông cậy vào chính sức mạnh của các con; không nên lệ thuộc vào bất cứ ai. Những lời giảng huấn của ta sẽ làm ngọn đuốc dẫn đường cho các con, làm nơi nương tựa cho các con; không cần phải lệ thuộc thêm vào những lời giảng huấn nào khác nữa.
Hãy nhìn vào thân xác các con, các con sẽ thấy cái thân xác đó ô uế biết chừng nào. Khi các con hiểu được rằng lạc thú lẫn đớn đau của thân xác cũng chỉ là cội nguồn chung của khổ đau, khi hiểu được như thế, các con sẽ không thể nào tự buông lỏng cho dục vọng chi phối các con.
Hãy nhìn vào tâm thức các con, các con sẽ thấy cái tâm thức đó biến dạng không ngừng. Vì thế các con sẽ không thể nào tự buông rơi vào chính những ảo giác của tâm thức, để rồi tự duy trì những kiêu căng và ích kỷ do tâm thức tạo ra, nhất là khi các con đã hiểu rằng những xúc cảm đó nhất định chỉ mang đến khổ đau mà thôi.
Hãy nhìn vào tất cả các vật thể chung quanh xem có vật thể nào trường tồn hay chăng? Có vật thể nào không phải là những cấu hợp sinh ra hay không? Tất cả sẽ gẫy nát, tan rã và phân tán. Các con chớ sợ hãi khi nhận thấy khổ đau cùng khắp mọi nơi, hãy noi theo những lời giáo huấn của ta, kể cả sau khi ta đã tịch diệt. Như thế các con sẽ loại bỏ được khổ đau. Thật vậy, cứ noi theo những lời giáo huấn của ta, rồi nhất định các con sẽ trở thành những đồ đệ thật sự của ta.
Này các đồ đệ của ta, những lời giáo huấn ta giảng cho các con, các con đừng bao giờ quên, đừng bao giờ để cho mai một đi. Phải bảo tồn những lời giáo huấn ấy, đem ra nghiên cứu và thực hành. Nếu theo đúng những lời giáo huấn ấy, các con sẽ đạt được an vui.
Những gì hệ trọng nhất trong những lời giáo huấn của ta là các con phải kiểm soát được tâm thức các con. Hãy gạt bỏ mọi thèm muốn và giữ cho thân xác đứng thẳng, tâm thức tinh khiết và ngôn từ chân thật. Nếu các con biết tự nhắc nhở là cuộc sống của các con chỉ là tạm bợ, các con sẽ đủ khả năng loại bỏ mọi thèm khát và hung dữ đưa đến khổ đau.
Nếu các con nhận ra được là tâm thức các con đang có xu hướng bám níu hay vướng mắc vào ham muốn, các con phải gạt bỏ ngay sự ham muốn và chận đứng sự cám dỗ đó. Các con phải làm chủ được tâm thức các con.
Tâm thức có khả năng biến một con người thành một vị Phật hay một con thú. Khi rơi vào sự lầm lẫn, ta có thể trở thành quỷ sứ, nhưng khi Giác ngộ ta sẽ thành Phật. Vì thế, các con phải kiểm soát lấy tâm thức các con và không đi lạc ra ngoài Chính Đạo.
Để có thể giữ đúng như lời giáo huấn của ta, các con hãy kính trọng lẫn nhau và đừng cãi vã. Đừng bắt chước như nước với dầu xô đẩy lẫn nhau; hãy bắt chước như nước với sữa, có thể hoàn toàn hòa lẫn vào nhau.
Hãy cùng nghiên cứu với nhau, cùng giảng giải cho nhau, thực hành với nhau. Không nên phí phạm tâm thức của các con và thời giờ của các con trong sự cãi vã hay lười biếng. Hãy hân hoan đón nhận hoa thơm của Giác ngộ vào lúc ra hoa và hái lấy quả ngọt trên Đường Ngay Thật.
Những lời giáo huấn ta ban cho các con là do nơi kinh nghiệm của chính ta, và chính ta đã noi theo con đường đó. Các con nên tuân theo những lời giáo huấn ấy và giữ đúng như thế dù phải gặp hoàn cảnh khó khăn nào. Nếu các con xao lãng, có nghĩa là các con chưa hề gặp được ta, các con thật sự còn đang ở một nơi nào đó thật xa, dù cho trong lúc này đây các con đang ngồi bên cạnh ta cũng vậy. Nhưng nếu ngược lại, các con chấp nhận và đem ra thực hành những lời giáo huấn của ta, thì dù cho các con ở thật xa trong một chốn tận cùng của thế giới, nhưng cũng giống như các con đang ở bên cạnh ta trong lúc này.
Hỡi các đồ đệ, phút cuối cùng của ta đã gần kề, phút xa lìa giữa ta và các con không còn bao lâu nữa. Tuy nhiên các con không nên than khóc. Sự sống là một sự đổi thay không ngừng và không có gì cản trở được sự tan rã của xác thân. Cái sự thực đó, ta đang chứng minh cho các con thấy ngay trên thân xác của ta, thân xác ta sẽ tan rã như một cỗ xe hư nát. Đừng than khóc một cách vô ích, trái lại các con phải hân hoan khi nhận ra được cái quy luật biến đổi ấy và hiểu được rằng sự sống của con người chỉ là trống không mà thôi. Đừng cố gắng duy trì cái khát vọng phi lý, mong muốn những gì tạm bợ phải nhất định trở thành trường tồn.
Con quỷ của những dục vọng thế tục luôn luôn tìm cách đánh lừa tâm thức các con. Nếu có một con rắn độc trong phòng, các con sẽ không thể nào ngủ yên nếu chưa đuổi được nó ra ngoài. Các con phải cắt đứt những mối dây ràng buộc của thèm khát thế tục và dứt bỏ những mối dây đó như các con đã đuổi bỏ con rắn độc ra khỏi phòng. Các con phải bảo vệ thật cẩn thận tâm thức các con.(1)
Này các môn đệ của ta, giây phút cuối cùng của ta đã đến, tuy vậy các con phải hiểu rằng cái chết chỉ là sự tan rã của xác thân vật chất mà thôi. Thân xác được cha mẹ sinh ra, nó lớn lên nhờ thức ăn, nó không có cách gì tránh khỏi bịnh tật và cái chết. Một vị Phật đích thực không mang thân xác con người, mà vỏn vẹn chỉ là sự Giác ngộ. Chỉ có sự Giác Ngộ mà thôi. Thân xác con người phải tiêu tan, nhưng Trí tuệ của Giác ngộ sẽ trường tồn vô tận trong thực thể của Đạo Pháp, trên con đường tu tập Đạo Pháp. Nếu có ai chỉ thấy thân xác ta thì kẻ ấy không thấy ta một cách thật sự. Chỉ có người nào chấp nhận những lời giáo huấn của ta mới thật sự nhìn thấy ta.
Sau khi ta tịch diệt, Đạo Pháp thay ta làm vị thầy cho các con. Biết noi theo Đạo Pháp, ấy chính là cách các con tỏ lòng trung thành với ta. Trong bốn mươi lăm năm sau cùng trong cuộc đời của ta, ta không hề giấu giếm điều gì trong những lời giáo huấn. Chẳng có một lời giáo huấn nào bí mật, không có một lời nào mang ẩn ý. Tất cả những lời giảng của ta đều được đưa ra một cách ngay thật và minh bạch.
Này các con yêu quý của ta, đây là giây phút chấm dứt. Trong một khoảnh khắc nữa ta sẽ nhập vào Niết bàn. Những lời này là những lời dặn dò cuối cùng của ta cho các con".
Người chép lại những lời này của Phật xin chắp tay mong rằng :
- Vì Phật, chúng ta hãy đọc lại những lời nhắn nhủ trên đây thêm một lần.
- Vì tất cả chúng sinh, vì sự đau khổ của muôn loài, chúng ta lại đọc thêm một lần nữa.
- Để gửi đến từng đơn vị nhỏ nhoi nhất của sự sống, chúng ta lại đọc thêm một lần nữa, đọc thêm một lần nữa…
Chúng ta nguyện sẽ đọc lên và đọc lên cho từng chúng sinh một, ta đọc cho đến khi nào những lời dặn dò trên đây của Phật trở thành những lời dặn dò xuất phát từ chính tâm thức ta, để nhắn nhủ cho chính ta, nhắn nhủ những người chung quanh ta, kể cả những sinh linh nhỏ nhoi nhất của sự sống. Khi những lời nhắn nhủ chân thật và tràn đầy Từ bi trên đây của Phật trở thành làn hơi thở của của chính ta, thì biết đâu lúc ấy ta cũng sẽ là một vị Phật?
Bures-Sur-Yvette (Pháp quốc)
(Biên soạn dựa theo một bài viết của Thiền sư và Giáo sư Triết học ngưới Pháp Gérard Pilet, đăng trong nội san của Hội Thiền học Quốc tế AZI (Association Zen Internationale), trụ sở tại Paris, và tài liệu của Bukkyo Dendo Kyokai (Society For the Promotion of Bouddhism), trụ sở tại Tokyo).
Mai chiếu thủy lá lớn- giá 850k
Mai chiếu thủy lá lớn- giá 850k-ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh
Thứ Sáu, 16 tháng 9, 2016
MÙA THU...
Mùa thu chết hay mùa thu sống mãi
Tuổi đã tàn thu
Thu vẫn sang thu
Lòng khờ dại tưởng rằng thu độc tố
Sắc màu thu
Không nhuốm sắc nhân gian...
Một ngày đầu thu
Mùa thu vấn nạn
Lời rao giảng thấm vào hồn khô hạn
Thế giới hận thù
Xin rũ áo, từ quan...
Một ngày đầu thu
Mùa thu sân hận
Đá quặn nghìn năm biển đảo lấp bồi
Im lặng thôi ư
Đời đời công tội...
Một ngày đầu thu
Thu còn "quyến rũ"
Mùa thu chết hay mùa thu sống mãi
Thơ dại trong tôi
Mùa thu không tàn...
Trần Đình Sơn Cước
(9/15)
Văn chương: Đọc như thế nào và tại sao
Văn chương: Đọc như thế nào và tại sao
Harold Bloom (1936–), nhà phê bình văn học người Mỹ, là giáo sư hàm Sterling ngành nhân văn và văn học Anh tại Viện Đại học Yale. Sau cuốn sách đầu tiên năm 1959, ông đã xuất bản gần 30 tác phẩm phê bình văn học, trong đó có The Anxiety of Influence: A Theory of Poetry (1973),The Book of J (1990), The Western Canon: The Books and School of the Ages (1994), và Shakespeare: The Invention of the Human (1998). Tiểu luận “Why Read?” là lời nói đầu cuốn How to Read and Why (Scribner, 2000), gồm năm chương: Truyện ngắn, Thơ, Tiểu thuyết (I), Kịch, và Tiểu thuyết (II), của Bloom.
Tại sao đọc?
Điều quan trọng, nếu muốn duy trì bất cứ năng lực nào để hình thành phán xét và ý kiến của riêng mình, là phải tiếp tục đọc vì bản thân. Đọc như thế nào, đọc tốt hay đọc dở, và đọc những gì thì không thể nào hoàn toàn phụ thuộc vào bản thân, nhưng tại sao đọc thì phải là vì và xuất phát từ lợi ích của chính mình. Ta có thể đọc chỉ để giết thời gian, hoặc có thể đọc vì một điều bức thiết rõ ràng, nhưng cuối cùng ta sẽ thấy mình đọc trong cuộc chạy đua với thời gian. Độc giả của Kinh Thánh, những người tìm đến Kinh Thánh vì bản thân, có lẽ là ví dụ rõ ràng hơn so với độc giả của Shakespeare của việc đọc vì một điều bức thiết, nhưng cuộc truy tìm của họ thì như nhau. Một trong những công dụng của đọc là chuẩn bị cho sự thay đổi, và sự thay đổi cuối cùng thì, than ôi, ở đâu cũng vậy.
Tôi chuyển sang đọc như một thói quen đơn độc, hơn là một công việc giáo dục. Cách chúng ta đọc hiện nay, khi chúng ta chỉ có một mình, còn duy trì tính liên tục đáng kể với quá khứ, bất kể nó được thực hiện ra sao trong các học viện. Độc giả lý tưởng (và anh hùng suốt đời) của tôi là Dr. Samuel Johnson, người biết và diễn đạt được cả quyền lực và giới hạn của việc đọc không ngừng. Giống như mọi hoạt động khác của tâm trí, nó phải thỏa mãn mối quan tâm hàng đầu của Johnson, về “cái gần gũi với ta, cái ta có thể vận dụng.” Sir Francis Bacon, người đem lại một số ý tưởng mà Johnson đã vận dụng, từng đưa ra một lời khuyên nổi tiếng: “Đọc không để phản đối và bác bỏ, cũng không để tin tưởng và chấp nhận, cũng không để tìm cái để nói và diễn giảng, mà để cân nhắc và suy ngẫm.” Tôi đặt cạnh Bacon và Johnson một đấng hiền nhân thứ ba của việc đọc, Emerson, kẻ thù khốc liệt của lịch sử và mọi chủ nghĩa lịch sử, người nhận xét rằng những cuốn sách tốt nhất đều “khắc ghi lên chúng ta một niềm tin, rằng một bản chất viết và cũng bản chất đó đọc.” Cho phép tôi hòa trộn Bacon, Johnson, và Emerson vào một công thức của cách đọc: tìm cái gần gũi với ta mà ta có thể dùng để cân nhắc và suy ngẫm, và nói với ta như thể ta chia sẻ cùng một bản chất, bất chấp sự chuyên chế của thời gian. Về mặt thực dụng thì điều đó có nghĩa là, trước hết hãy tìm Shakespeare, và để ông tìm ta. Nếu King Lear đã tìm thấy ta một cách đầy đủ, thì hãy cân nhắc và suy ngẫm bản chất mà nó chia sẻ với ta, sự gần gũi của nó với ta. Tôi không có ý xem điều này như một sự lý tưởng, mà như một sự thực dụng. Dùng bi kịch đó như một lời than phiền về chế độ gia trưởng là từ bỏ những lợi ích hàng đầu của chính mình, đặc biệt khi ta là một phụ nữ trẻ, điều này nghe vẻ hơi mỉa mai so với thực tế. Shakespeare, hơn Sophocles, là bậc thầy không thể chối cãi về xung đột liên thế hệ, và hơn bất cứ ai khác về những khác biệt giữa nữ giới và nam giới. Mở lòng với một lần đọc đầy đủ King Lear, rồi ta sẽ hiểu rõ hơn nguồn gốc của những gì mà ta phán xét là gia trưởng.
***
Suy cho cùng thì chúng ta đọc—như Bacon, Johnson, và Emerson đồng ý—là để củng cố bản ngã, và để biết được những quan tâm đích thực của nó. Ta trải nghiệm những quá trình tích lũy như vậy như một lạc thú, có lẽ do vậy mà các giá trị thẩm mỹ luôn bị các nhà đạo đức xã hội phản đối, từ Plato đến những tín đồ Thanh giáo trong trường học của chúng ta hiện nay. Những lạc thú của việc đọc quả thật đều mang tính ích kỷ nhiều hơn tính xã hội. Ta không thể trực tiếp cải thiện cuộc sống của bất cứ người nào khác bằng cách đọc tốt hơn hoặc sâu hơn. Tôi vẫn hoài nghi về niềm hy vọng xã hội truyền thống rằng sự phát triển của trí tưởng tượng cá nhân có thể kích thích sự quan tâm đến những người khác, và tôi rất cảnh giác đối với bất cứ lập luận nào gắn kết những lạc thú của việc đọc đơn độc với lợi ích công.
Nỗi buồn của việc đọc như một nghề là hiếm khi ta gặp lại lạc thú của việc đọc mà ta đã biết khi còn trẻ, khi sách là một niềm say mê kiểu Hazlitt. Cách đọc hiện giờ của ta phụ thuộc phần nào vào khoảng cách của ta, trong hay ngoài, với các trường đại học, nơi đọc chỉ được dạy vừa đủ như một lạc thú, theo bất kỳ một nghĩa sâu sắc nào hơn về mỹ học của lạc thú. Mở lòng đối đầu trực diện với Shakespeare ở nơi mạnh mẽ nhất của ông, như King Lear, chưa bao giờ là một lạc thú dễ dàng, dù trong tuổi trẻ hay tuổi già, nhưng không đọc King Lear một cách đầy đủ (nghĩa là không có những kỳ vọng ý thức hệ) là thiệt thòi về nhận thức cũng như thẩm mỹ. Một tuổi thơ mà phần lớn thời gian dành để xem ti vi thì sẽ dẫn đến tuổi vị thành niên gắn liền với máy tính, và trường đại học sẽ tiếp nhận một sinh viên ít khả năng sẽ hoan nghênh ý kiến rằng chúng ta phải chịu đựng hành trình của mình ngay cả khi hành trình đó đi về phía bên kia: sự chín muồi là tất cả. Sự đọc sụp đổ, và phần lớn bản ngã cũng tan rã theo nó. Tất cả đã là quá khứ buồn phiền, và sẽ không uớc nguyện hay chương trình nào có thể cứu vãn. Những gì làm được thì chỉ có thể được thực hiện bởi một phiên bản nào đó của chủ nghĩa tinh hoa, và điều đó thì hiện nay không thể chấp nhận được, vì những lý do cả tốt lẫn xấu. Nhưng vẫn còn những độc giả đơn độc, cả trẻ lẫn già, ở mọi nơi, ngay cả trong các trường đại học. Nếu phê bình có chức năng nào trong thời điểm hiện tại, thì nó phải hướng đến độc giả đơn độc, những người đọc vì bản thân mình, chứ không phải vì những lợi ích được cho là vượt lên trên bản ngã.
***
Giá trị, trong văn chương cũng như trong đời sống, có liên quan rất lớn đến sự độc đáo, ở mức độ ý nghĩa bắt đầu xuất hiện. Không phải ngẫu nhiên mà các nhà lịch sử chủ nghĩa—những nhà phê bình tin rằng tất cả chúng ta đều được quyết định bởi lịch sử xã hội—coi nhân vật văn chương như những dấu vết trên một trang sách, không hơn. Hamlet không phải một trường hợp lịch sử nếu suy nghĩ của chúng ta không hề là của chúng ta. Do đó tôi đến với nguyên tắc đầu tiên nếu chúng ta muốn cứu vãn cách đọc của mình hiện nay, một nguyên tắc mà tôi rút ra từ Dr. Johnson: Xóa bỏ sáo ngữ khỏi tâm trí. Từ điển sẽ cho ta biết sáo ngữ theo ý nghĩa này là những lời tràn ngập sự tầm thường giả tạo, vốn từ đặc biệt của một giáo phái hay môn phái. Bởi các trường đại học đã trao quyền cho những môn phái như vậy, như “giới và tính dục” và “chủ nghĩa đa văn hóa,” cảnh báo của Johnson do vậy trở thành “Xóa bỏ sáo ngữ học thuật khỏi tâm trí.” Một nền văn hóa đại học nơi sự đánh giá quần áo lót của phụ nữ thời Victoria thay thế sự đánh giá Charles Dickens và Robert Browning nghe như sự cường điệu của một Nathanael West mới, nhưng lại đơn thuần là chuẩn mực. Một sản phẩm phụ của “nền thơ ca văn hóa” như vậy là sẽ không thể có Nathanael West nào mới, bởi làm sao một nền văn hóa học thuật như vậy có thể duy trì sự giễu nhại? Thơ ca của bầu khí hậu chúng ta đã được thay thế bằng những chiếc tất bó cơ thể của nền văn hóa chúng ta. Những nhà duy vật chủ nghĩa mới của chúng ta bảo chúng ta rằng họ đã phục dựng được cơ thể của chủ nghĩa lịch sử, và khẳng định rằng họ làm việc dưới danh nghĩa của Nguyên tắc Hiện thực. Cuộc sống của tinh thần phải nhường đường cho cái chết của thể xác, nhưng điều đó gần như không đòi hỏi sự cổ vũ của một môn phái học thuật.
***
Xóa bỏ sáo ngữ khỏi tâm trí dẫn đến nguyên tắc thứ hai của việc khôi phục sự đọc: Đừng cố gắng cải thiện hàng xóm hoặc cộng đồng bằng những gì hoặc cách mình đọc. Tự cải thiện là một dự án đủ lớn cho trí tuệ và tinh thần: không có đạo đức nào trong việc đọc. Tâm trí nên được giữ ở nhà cho đến khi sự vô minh nguyên thủy của nó được thanh lọc; sớm đi vào hành động đúng là có sự hấp dẫn của nó, nhưng lại tốn thời giờ, và với việc đọc thì sẽ không bao giờ có đủ thời giờ. Lịch sử hóa, dù quá khứ hay hiện tại, là một kiểu thần tượng hóa, sự thờ phụng đến ám ảnh mọi thứ trong thời gian. Vậy nên hãy đọc bằng ánh sáng nội tâm mà John Milton ngợi ca và Emerson coi như một nguyên tắc đọc, có thể xem như nguyên tắc thứ ba của chúng ta: Học giả là một cây nến mà tình yêu và khát vọng của tất cả mọi người sẽ thắp sáng. Wallace Stevens, có lẽ quên mất nguồn, đã viết những biến thể tuyệt vời của ẩn dụ này, nhưng câu của Emerson vẫn là tuyên bố rõ ràng nhất của nguyên tắc đọc thứ ba. Đừng sợ tự do của sự phát triển của mình với tư cách độc giả là ích kỷ, bởi nếu đã thành một độc giả đích thực thì sự báo đáp những công lao của ta sẽ khẳng định ta là một nguồn sáng của những người khác. Tôi nghĩ về những lá thư mà tôi nhận được từ người lạ trong bảy tám năm qua, và nói chung tôi đã xúc động đến mức không thể trả lời. Điều cảm động của những lá thư đó, với tôi, là tất cả đều rất thường xuyên bày tỏ một mong muốn có một chương trình nghiên cứu văn chương chuẩn mực mà các trường đại học không buồn đáp ứng. Emerson nói rằng xã hội không thể vận hành mà không có những người đàn ông và phụ nữ có học thức, và, như tiên tri, ông nói thêm: “Nhân dân, chứ không phải trường đại học, mới là mái nhà của nhà văn.” Ông nói đến những nhà văn mạnh mẽ, những người tiêu biểu, đại diện cho chính mình chứ không phải cho cử tri, vì chính trị của ông là chính trị của tinh thần.
Chức năng phần lớn bị quên lãng của một nền giáo dục đại học đã được tóm gọn vĩnh viễn trong bài phát biểu có nhan đề “Học giả Mỹ” của Emerson, khi ông nói về những trách nhiệm của học giả: “Có thể gói gọn tất cả chúng vào sự tự tin.” Tôi rút ra từ Emerson nguyên tắc đọc thứ tư: Để đọc tốt ta phải đọc như một nhà phát minh. Tôi từng gọi “đọc sáng tạo” theo nghĩa của Emerson là “đọc sai,” một từ khiến cho những người đối lập với tôi tin rằng tôi mắc chứng khó đọc tự nguyện. Sự đổ nát hay trống rỗng mà họ thấy khi nhìn vào một bài thơ nằm trong đôi mắt của chính họ. Tự tin không phải thiên bẩm mà là sự ra đời lần thứ hai của tinh thần, không thể đến nếu không có nhiều năm đọc sâu. Không có tiêu chuẩn tuyệt đối nào đối với thẩm mỹ. Nếu ta muốn tin rằng uy danh của Shakespeare là một sản phẩm của chủ nghĩa thực dân thì ai sẽ buồn tranh cãi? Shakespeare sau bốn thế kỷ vẫn nổi tiếng hơn bao giờ hết; người ta sẽ diễn ông ngoài vũ trụ, và ở những thế giới khác, nếu người ta đến được đó. Ông không phải một âm mưu của văn hóa Phương Tây. Ông chứa đựng mọi nguyên tắc đọc, và là chuẩn mực của tôi trong cuốn sách này. Borges quy sự phổ quát đó cho vẻ phi vị kỷ của Shakespeare, nhưng phẩm chất đó chỉ là một ẩn dụ lớn về sự khác biệt của Shakespeare, tự thân nó suy cho cùng là sức mạnh nhận thức. Chúng ta đọc, nếu không vô thức thì cũng thường là trong cuộc truy tìm một tâm trí độc đáo hơn tâm trí của chính mình.
Do ý thức hệ, đặc biệt là trong những phiên bản nông cạn hơn của nó, có sức phá hoại phi thường đối với khả năng tri nhận và thưởng thức sự châm biếm, tôi đề xuất lấy việc phục hồi sự châm biếm làm nguyên tắc thứ năm của chúng ta trong việc khôi phục sự đọc. Hãy nghĩ về sự châm biếm bất tận của Hamlet, người nói một đằng nhưng gần như luôn ý một nẻo, thường là trái ngược với những gì ông nói. Nhưng với nguyên tắc này, tôi gần như tuyệt vọng, bởi lẽ dạy ai đó trở nên châm biếm thì cũng bất khả chẳng khác gì hướng dẫn họ trở nên đơn độc. Vậy nhưng mất đi sự châm biếm lại là cái chết của sự đọc, và của những gì đã được khai hóa trong bản chất của chúng ta.
I stepped from Plank to Plank
A slow and cautious way
The Stars about my Head I felt
About my Feet the Sea.
I knew not but the next
Would be my final inch—
This gave me that precarious Gait
Some call Experience.
Phụ nữ và nam giới có thể đi đứng khác nhau, nhưng trừ khi nằm trong một trung đoàn thì tất cả chúng ta đều có xu hướng có cách đi riêng. Dickinson, bậc thầy của sự Siêu phàm bấp bênh, có thể rất khó hiểu nếu chúng ta đui mù trước những châm biếm của bà. Bà chỉ bước đi theo một con đường khả dĩ, “từ Ván sang Ván” (“from Plank to Plank”), nhưng sự thận trọng chậm rãi của bà lại liền kề một cách mỉa mai với một sự thách thức mà trong đó bà cảm nhận được “Sao trên Đầu” (The Stars about my Head), dù dưới chân bà rất gần là biển. Không biết liệu bước tiếp theo có phải là “tấc cuối cùng” (final inch), bà mang “dáng đi bấp bênh” (precarious Gait) mà bà không đặt tên, chỉ nói với chúng ta rằng “ai đó” gọi đó là “Experience” (“Some call Experience”). Dickinson đã đọc tiểu luận “Experience” của Emerson, một đỉnh cao cũng như “On Experience” là đỉnh cao đối với Montaigne thầy ông, và sự châm biếm của bà là lời đáp dễ chịu với lời mở đầu của Emerson: “Chúng ta thấy mình ở đâu? Trong một chuỗi mà chúng ta không biết những cực điểm của nó, và tin rằng nó không có cực điểm nào.” Cực điểm đó, với Dickinson, là không biết bước tiếp theo có phải là tấc cuối cùng hay không. “Nếu bất cứ ai trong chúng ta biết chúng ta đang làm gì, hoặc chúng ta đang đi đâu, thì lúc đó chúng ta sẽ nghĩ mình đã biết rất rõ!” Cơn mơ màng xa hơn của Emerson khác cơn mơ màng của Dickinson về khí chất, hay như Dickinson nói, về dáng điệu. “Vạn vật bơi lội và lấp lánh,” trong địa hạt trải nghiệm của Emerson, và sự châm biếm hòa nhã của ông rất khác sự châm biếm bấp bênh của Dickinson. Nhưng hai người không người nào là nhà tư tưởng, và họ sống lặng lẽ trong thứ quyền lực kình địch của những châm biếm của mình.
Ở cuối con đường của sự châm biếm đã mất là tấc cuối cùng, ra khỏi đó thì giá trị văn chương sẽ không thể cứu vãn. Châm biếm chỉ là một ẩn dụ, và châm biếm của một thời đại văn chương hiếm khi là châm biếm của một thời đại khác, nhưng không có sự phục hưng của một cảm quan châm biếm hơn những gì mà chúng ta từng gọi là tưởng tượng thì văn chương sẽ mất. Thomas Mann, châm biếm nhất trong số các nhà văn lớn của thế kỷ này, có vẻ đã mất. Các cuốn tiểu sử mới về ông xuất hiện, và gần như luôn được bình phẩm dựa trên sự đồng tính luyến ái của ông, cứ như ông có thể được giữ lại cho sự quan tâm của chúng ta chỉ khi ông có thể được chứng nhận là người đồng tính, và nhờ vậy mà được đưa vào chương trình giảng dạy. Điều đó giống như việc nghiên cứu Shakespeare chủ yếu vì ông có vẻ song tính luyến ái, nhưng những bất thường trong chủ nghĩa phản Thanh giáo hiện thời của chúng ta dường như vô tận. Châm biếm của Shakespeare, như chúng ta vẫn nghĩ, là những châm biếm toàn diện và biện chứng nhất trong toàn bộ nền văn học phương Tây, nhưng không phải lúc nào chúng cũng làm trung gian cho những dục vọng của các nhân vật của ông, phạm vi xúc cảm rộng lớn và mãnh liệt của họ, với chúng ta. Shakespeare do vậy sẽ sống sót qua thời đại của chúng ta; chúng ta sẽ đánh mất những châm biếm của ông, và lưu giữ phần còn lại. Nhưng ở Thomas Mann, mọi cảm xúc, tự sự hay kịch, đều được trung gian bởi một thẩm mỹ châm biếm; dạy Death in Venice hay Disorder and Early Sorrow cho các sinh viên đại học gần đây nhất, ngay cả sinh viên năng khiếu, gần như là bất khả. Khi các tác giả bị lịch sử tiêu diệt, chúng ta gọi đúng tác phẩm của họ là tác phẩm một thời, nhưng khi họ trở nên không thể tiếp cận vì ý thức hệ bị lịch sử hóa, tôi nghĩ chúng ta gặp một hiện tượng khác.
Châm biếm đòi hỏi một khoảng chú tâm nhất định, và khả năng duy trì những ý tưởng phản đề, ngay cả khi chúng xung đột với nhau. Tước bỏ châm biếm khỏi việc đọc thì lập tức nó mất đi mọi khuôn phép và bất ngờ. Hãy tìm cái gần gũi với mình, có thể dùng để cân nhắc và suy ngẫm, và rất có thể sẽ mang tính châm biếm, cho dù nhiều vị giáo viên của ta sẽ không biết nó là gì, hay có thể tìm thấy nó ở đâu. Châm biếm sẽ xóa bỏ sáo ngữ của những nhà tư tưởng ra khỏi tâm trí, giúp ta phát sáng như học giả là cây nến.
***
Đến tuổi thất tuần, ta sẽ không muốn đọc tồi, chẳng khác gì không muốn sống lỗi, vì thời gian sẽ không mủi lòng. Tôi không biết chúng ta nợ cái chết là nợ Thượng đế hay nợ tự nhiên, nhưng dù sao tự nhiên cũng sẽ thu lại nó, còn chúng ta chắc chắn không nợ gì sự tầm thường, bất kể tính tập thể nào mà nó ngụ ý thúc đẩy hay ít nhất là đại diện.
Bởi độc giả lý tưởng của tôi, trong nửa thế kỷ qua, là Samuel Johnson, tôi sẽ chuyển đến một đoạn ưa thích của tôi trong Preface to Shakespeare của ông:
Đây, do vậy, là lời ngợi ca Shakespeare, rằng kịch của ông là tấm gương của cuộc đời; rằng ai có trí tưởng tượng lạc lối theo những bóng ma do các nhà văn khác khơi dậy trước ông ở đây đều có thể được cứu chữa khỏi những ảo tưởng mê sảng bằng cách đọc những tình cảm con người bằng ngôn ngữ loài người, bằng những cảnh mà nhờ đó một người ẩn dật cũng có thể ước đoán những giao dịch của thế giới và một vị cha giải tội có thể đoán trước tiến trình của dục vọng.
Để đọc những tình cảm con người bằng ngôn ngữ loài người, ta phải có khả năng đọc một cách nhân văn, bằng toàn bộ con người mình. Ta không phải một ý thức hệ mà còn hơn thế, bất kể niềm tin của ta là gì, và Shakespeare nói với ta nhiều như những gì ta có thể mang đến với ông. Nói như vậy có nghĩa là: Shakespeare đọc ta đầy đủ hơn ta có thể đọc ông, ngay cả khi ta đã xóa bỏ sáo ngữ khỏi tâm trí mình. Không nhà văn nào trước hoặc sau Shakespeare có được bất cứ điều gì tương tự như khả năng kiểm soát chủ nghĩa quan điểm của ông, thứ vượt lên trên mọi sự ngữ cảnh hóa mà chúng ta áp đặt lên những vở kịch. Johnson, nhận ra điều đó một cách đáng khâm phục, thúc giục chúng ta hãy để Shakespeare cứu chữa chúng ta khỏi những “ảo tưởng mê sảng.” Cho phép tôi tiếp lời Johnson bằng cách thúc giục chúng ta nhận ra những bóng ma mà chỉ có cách đọc sâu Shakespeare thì mới có thể diệt trừ. Một bóng ma như vậy là Cái chết của Tác giả; một bóng ma khác là sự khẳng định rằng bản ngã là một giả tưởng; một bóng ma nữa là quan điểm nhân vật văn chương và kịch chỉ là vô vàn dấu vết trên trang sách. Một bóng ma thứ tư, và nguy hại nhất, là việc ngôn ngữ làm công việc tư duy cho chúng ta.
Tuy nhiên, tình yêu dành cho Johnson, và dành cho việc đọc, đã xoay tôi khỏi bút chiến và hướng đến vinh danh nhiều độc giả đơn độc mà tôi liên tục gặp gỡ, dù là trong lớp học hay trong những bức thư mà tôi nhận được. Chúng ta đọc Shakespeare, Dante, Chaucer, Cervantes, Dickens, Proust, và tất cả đồng nghiệp của họ là bởi họ không chỉ mở rộng cuộc sống mà còn hơn thế. Về mặt thực dụng, họ đã trở thành Phước lành, theo ý nghĩa Jahwist đích thực của nó là “thêm đời sống vào một thời gian không ranh giới.” Chúng ta đọc sâu vì nhiều lý do khác nhau, phần lớn đều quen thuộc: vì chúng ta không thể biết đủ người đủ sâu; vì chúng ta cần biết mình rõ hơn; vì chúng ta muốn có tri thức, không chỉ về mình và những người khác, mà còn về lề lối của vạn vật. Nhưng động cơ mạnh mẽ nhất, chân thực nhất của việc đọc sâu những cuốn sách kinh điển truyền thống đang bị lạm dụng rất nhiều, là truy tìm một lạc thú khó khăn. Tôi không hẳn là một nhà thầu giới thiệu lạc thú tình dục của việc đọc, và sự khó nhọc đầy lạc thú với tôi có vẻ là một định nghĩa khả dĩ của sự Siêu phàm, nhưng một lạc thú cao hơn thế vẫn là cái mà độc giả tìm kiếm. Có một sự Siêu phàm của độc giả, và nó có vẻ là sự siêu việt thế tục duy nhất mà ta có thể đạt được, ngoại trừ một sự siêu việt thậm chí còn bấp bênh hơn thế mà chúng ta gọi là “phải lòng [ai].” Tôi mong mọi người hãy tìm cái thực sự gần gũi với mình, có thể dùng để cân nhắc và để suy ngẫm. Đọc sâu, không để tin, không để chấp nhận, không để phủ nhận, mà để học cách đi vào chia sẻ trong cái bản chất duy nhất cùng viết và cùng đọc đó. ♦
Copyright © 2000 by Harold Bloom | Bản dịch © 2016 Nguyễn Huy Hoàng.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)