" Cả cuộc đời ba không có gì để lại cho các con ngoài số vốn kiến thức mà ba mẹ tảo tần nuôi các con ăn học.Mong các con trở thành những người hữu ích cho xã hội" ( trích từ TT "Vững Niềm Tin")
Thứ Sáu, 16 tháng 9, 2016
Văn chương: Đọc như thế nào và tại sao
Văn chương: Đọc như thế nào và tại sao
Harold Bloom (1936–), nhà phê bình văn học người Mỹ, là giáo sư hàm Sterling ngành nhân văn và văn học Anh tại Viện Đại học Yale. Sau cuốn sách đầu tiên năm 1959, ông đã xuất bản gần 30 tác phẩm phê bình văn học, trong đó có The Anxiety of Influence: A Theory of Poetry (1973),The Book of J (1990), The Western Canon: The Books and School of the Ages (1994), và Shakespeare: The Invention of the Human (1998). Tiểu luận “Why Read?” là lời nói đầu cuốn How to Read and Why (Scribner, 2000), gồm năm chương: Truyện ngắn, Thơ, Tiểu thuyết (I), Kịch, và Tiểu thuyết (II), của Bloom.
Tại sao đọc?
Điều quan trọng, nếu muốn duy trì bất cứ năng lực nào để hình thành phán xét và ý kiến của riêng mình, là phải tiếp tục đọc vì bản thân. Đọc như thế nào, đọc tốt hay đọc dở, và đọc những gì thì không thể nào hoàn toàn phụ thuộc vào bản thân, nhưng tại sao đọc thì phải là vì và xuất phát từ lợi ích của chính mình. Ta có thể đọc chỉ để giết thời gian, hoặc có thể đọc vì một điều bức thiết rõ ràng, nhưng cuối cùng ta sẽ thấy mình đọc trong cuộc chạy đua với thời gian. Độc giả của Kinh Thánh, những người tìm đến Kinh Thánh vì bản thân, có lẽ là ví dụ rõ ràng hơn so với độc giả của Shakespeare của việc đọc vì một điều bức thiết, nhưng cuộc truy tìm của họ thì như nhau. Một trong những công dụng của đọc là chuẩn bị cho sự thay đổi, và sự thay đổi cuối cùng thì, than ôi, ở đâu cũng vậy.
Tôi chuyển sang đọc như một thói quen đơn độc, hơn là một công việc giáo dục. Cách chúng ta đọc hiện nay, khi chúng ta chỉ có một mình, còn duy trì tính liên tục đáng kể với quá khứ, bất kể nó được thực hiện ra sao trong các học viện. Độc giả lý tưởng (và anh hùng suốt đời) của tôi là Dr. Samuel Johnson, người biết và diễn đạt được cả quyền lực và giới hạn của việc đọc không ngừng. Giống như mọi hoạt động khác của tâm trí, nó phải thỏa mãn mối quan tâm hàng đầu của Johnson, về “cái gần gũi với ta, cái ta có thể vận dụng.” Sir Francis Bacon, người đem lại một số ý tưởng mà Johnson đã vận dụng, từng đưa ra một lời khuyên nổi tiếng: “Đọc không để phản đối và bác bỏ, cũng không để tin tưởng và chấp nhận, cũng không để tìm cái để nói và diễn giảng, mà để cân nhắc và suy ngẫm.” Tôi đặt cạnh Bacon và Johnson một đấng hiền nhân thứ ba của việc đọc, Emerson, kẻ thù khốc liệt của lịch sử và mọi chủ nghĩa lịch sử, người nhận xét rằng những cuốn sách tốt nhất đều “khắc ghi lên chúng ta một niềm tin, rằng một bản chất viết và cũng bản chất đó đọc.” Cho phép tôi hòa trộn Bacon, Johnson, và Emerson vào một công thức của cách đọc: tìm cái gần gũi với ta mà ta có thể dùng để cân nhắc và suy ngẫm, và nói với ta như thể ta chia sẻ cùng một bản chất, bất chấp sự chuyên chế của thời gian. Về mặt thực dụng thì điều đó có nghĩa là, trước hết hãy tìm Shakespeare, và để ông tìm ta. Nếu King Lear đã tìm thấy ta một cách đầy đủ, thì hãy cân nhắc và suy ngẫm bản chất mà nó chia sẻ với ta, sự gần gũi của nó với ta. Tôi không có ý xem điều này như một sự lý tưởng, mà như một sự thực dụng. Dùng bi kịch đó như một lời than phiền về chế độ gia trưởng là từ bỏ những lợi ích hàng đầu của chính mình, đặc biệt khi ta là một phụ nữ trẻ, điều này nghe vẻ hơi mỉa mai so với thực tế. Shakespeare, hơn Sophocles, là bậc thầy không thể chối cãi về xung đột liên thế hệ, và hơn bất cứ ai khác về những khác biệt giữa nữ giới và nam giới. Mở lòng với một lần đọc đầy đủ King Lear, rồi ta sẽ hiểu rõ hơn nguồn gốc của những gì mà ta phán xét là gia trưởng.
***
Suy cho cùng thì chúng ta đọc—như Bacon, Johnson, và Emerson đồng ý—là để củng cố bản ngã, và để biết được những quan tâm đích thực của nó. Ta trải nghiệm những quá trình tích lũy như vậy như một lạc thú, có lẽ do vậy mà các giá trị thẩm mỹ luôn bị các nhà đạo đức xã hội phản đối, từ Plato đến những tín đồ Thanh giáo trong trường học của chúng ta hiện nay. Những lạc thú của việc đọc quả thật đều mang tính ích kỷ nhiều hơn tính xã hội. Ta không thể trực tiếp cải thiện cuộc sống của bất cứ người nào khác bằng cách đọc tốt hơn hoặc sâu hơn. Tôi vẫn hoài nghi về niềm hy vọng xã hội truyền thống rằng sự phát triển của trí tưởng tượng cá nhân có thể kích thích sự quan tâm đến những người khác, và tôi rất cảnh giác đối với bất cứ lập luận nào gắn kết những lạc thú của việc đọc đơn độc với lợi ích công.
Nỗi buồn của việc đọc như một nghề là hiếm khi ta gặp lại lạc thú của việc đọc mà ta đã biết khi còn trẻ, khi sách là một niềm say mê kiểu Hazlitt. Cách đọc hiện giờ của ta phụ thuộc phần nào vào khoảng cách của ta, trong hay ngoài, với các trường đại học, nơi đọc chỉ được dạy vừa đủ như một lạc thú, theo bất kỳ một nghĩa sâu sắc nào hơn về mỹ học của lạc thú. Mở lòng đối đầu trực diện với Shakespeare ở nơi mạnh mẽ nhất của ông, như King Lear, chưa bao giờ là một lạc thú dễ dàng, dù trong tuổi trẻ hay tuổi già, nhưng không đọc King Lear một cách đầy đủ (nghĩa là không có những kỳ vọng ý thức hệ) là thiệt thòi về nhận thức cũng như thẩm mỹ. Một tuổi thơ mà phần lớn thời gian dành để xem ti vi thì sẽ dẫn đến tuổi vị thành niên gắn liền với máy tính, và trường đại học sẽ tiếp nhận một sinh viên ít khả năng sẽ hoan nghênh ý kiến rằng chúng ta phải chịu đựng hành trình của mình ngay cả khi hành trình đó đi về phía bên kia: sự chín muồi là tất cả. Sự đọc sụp đổ, và phần lớn bản ngã cũng tan rã theo nó. Tất cả đã là quá khứ buồn phiền, và sẽ không uớc nguyện hay chương trình nào có thể cứu vãn. Những gì làm được thì chỉ có thể được thực hiện bởi một phiên bản nào đó của chủ nghĩa tinh hoa, và điều đó thì hiện nay không thể chấp nhận được, vì những lý do cả tốt lẫn xấu. Nhưng vẫn còn những độc giả đơn độc, cả trẻ lẫn già, ở mọi nơi, ngay cả trong các trường đại học. Nếu phê bình có chức năng nào trong thời điểm hiện tại, thì nó phải hướng đến độc giả đơn độc, những người đọc vì bản thân mình, chứ không phải vì những lợi ích được cho là vượt lên trên bản ngã.
***
Giá trị, trong văn chương cũng như trong đời sống, có liên quan rất lớn đến sự độc đáo, ở mức độ ý nghĩa bắt đầu xuất hiện. Không phải ngẫu nhiên mà các nhà lịch sử chủ nghĩa—những nhà phê bình tin rằng tất cả chúng ta đều được quyết định bởi lịch sử xã hội—coi nhân vật văn chương như những dấu vết trên một trang sách, không hơn. Hamlet không phải một trường hợp lịch sử nếu suy nghĩ của chúng ta không hề là của chúng ta. Do đó tôi đến với nguyên tắc đầu tiên nếu chúng ta muốn cứu vãn cách đọc của mình hiện nay, một nguyên tắc mà tôi rút ra từ Dr. Johnson: Xóa bỏ sáo ngữ khỏi tâm trí. Từ điển sẽ cho ta biết sáo ngữ theo ý nghĩa này là những lời tràn ngập sự tầm thường giả tạo, vốn từ đặc biệt của một giáo phái hay môn phái. Bởi các trường đại học đã trao quyền cho những môn phái như vậy, như “giới và tính dục” và “chủ nghĩa đa văn hóa,” cảnh báo của Johnson do vậy trở thành “Xóa bỏ sáo ngữ học thuật khỏi tâm trí.” Một nền văn hóa đại học nơi sự đánh giá quần áo lót của phụ nữ thời Victoria thay thế sự đánh giá Charles Dickens và Robert Browning nghe như sự cường điệu của một Nathanael West mới, nhưng lại đơn thuần là chuẩn mực. Một sản phẩm phụ của “nền thơ ca văn hóa” như vậy là sẽ không thể có Nathanael West nào mới, bởi làm sao một nền văn hóa học thuật như vậy có thể duy trì sự giễu nhại? Thơ ca của bầu khí hậu chúng ta đã được thay thế bằng những chiếc tất bó cơ thể của nền văn hóa chúng ta. Những nhà duy vật chủ nghĩa mới của chúng ta bảo chúng ta rằng họ đã phục dựng được cơ thể của chủ nghĩa lịch sử, và khẳng định rằng họ làm việc dưới danh nghĩa của Nguyên tắc Hiện thực. Cuộc sống của tinh thần phải nhường đường cho cái chết của thể xác, nhưng điều đó gần như không đòi hỏi sự cổ vũ của một môn phái học thuật.
***
Xóa bỏ sáo ngữ khỏi tâm trí dẫn đến nguyên tắc thứ hai của việc khôi phục sự đọc: Đừng cố gắng cải thiện hàng xóm hoặc cộng đồng bằng những gì hoặc cách mình đọc. Tự cải thiện là một dự án đủ lớn cho trí tuệ và tinh thần: không có đạo đức nào trong việc đọc. Tâm trí nên được giữ ở nhà cho đến khi sự vô minh nguyên thủy của nó được thanh lọc; sớm đi vào hành động đúng là có sự hấp dẫn của nó, nhưng lại tốn thời giờ, và với việc đọc thì sẽ không bao giờ có đủ thời giờ. Lịch sử hóa, dù quá khứ hay hiện tại, là một kiểu thần tượng hóa, sự thờ phụng đến ám ảnh mọi thứ trong thời gian. Vậy nên hãy đọc bằng ánh sáng nội tâm mà John Milton ngợi ca và Emerson coi như một nguyên tắc đọc, có thể xem như nguyên tắc thứ ba của chúng ta: Học giả là một cây nến mà tình yêu và khát vọng của tất cả mọi người sẽ thắp sáng. Wallace Stevens, có lẽ quên mất nguồn, đã viết những biến thể tuyệt vời của ẩn dụ này, nhưng câu của Emerson vẫn là tuyên bố rõ ràng nhất của nguyên tắc đọc thứ ba. Đừng sợ tự do của sự phát triển của mình với tư cách độc giả là ích kỷ, bởi nếu đã thành một độc giả đích thực thì sự báo đáp những công lao của ta sẽ khẳng định ta là một nguồn sáng của những người khác. Tôi nghĩ về những lá thư mà tôi nhận được từ người lạ trong bảy tám năm qua, và nói chung tôi đã xúc động đến mức không thể trả lời. Điều cảm động của những lá thư đó, với tôi, là tất cả đều rất thường xuyên bày tỏ một mong muốn có một chương trình nghiên cứu văn chương chuẩn mực mà các trường đại học không buồn đáp ứng. Emerson nói rằng xã hội không thể vận hành mà không có những người đàn ông và phụ nữ có học thức, và, như tiên tri, ông nói thêm: “Nhân dân, chứ không phải trường đại học, mới là mái nhà của nhà văn.” Ông nói đến những nhà văn mạnh mẽ, những người tiêu biểu, đại diện cho chính mình chứ không phải cho cử tri, vì chính trị của ông là chính trị của tinh thần.
Chức năng phần lớn bị quên lãng của một nền giáo dục đại học đã được tóm gọn vĩnh viễn trong bài phát biểu có nhan đề “Học giả Mỹ” của Emerson, khi ông nói về những trách nhiệm của học giả: “Có thể gói gọn tất cả chúng vào sự tự tin.” Tôi rút ra từ Emerson nguyên tắc đọc thứ tư: Để đọc tốt ta phải đọc như một nhà phát minh. Tôi từng gọi “đọc sáng tạo” theo nghĩa của Emerson là “đọc sai,” một từ khiến cho những người đối lập với tôi tin rằng tôi mắc chứng khó đọc tự nguyện. Sự đổ nát hay trống rỗng mà họ thấy khi nhìn vào một bài thơ nằm trong đôi mắt của chính họ. Tự tin không phải thiên bẩm mà là sự ra đời lần thứ hai của tinh thần, không thể đến nếu không có nhiều năm đọc sâu. Không có tiêu chuẩn tuyệt đối nào đối với thẩm mỹ. Nếu ta muốn tin rằng uy danh của Shakespeare là một sản phẩm của chủ nghĩa thực dân thì ai sẽ buồn tranh cãi? Shakespeare sau bốn thế kỷ vẫn nổi tiếng hơn bao giờ hết; người ta sẽ diễn ông ngoài vũ trụ, và ở những thế giới khác, nếu người ta đến được đó. Ông không phải một âm mưu của văn hóa Phương Tây. Ông chứa đựng mọi nguyên tắc đọc, và là chuẩn mực của tôi trong cuốn sách này. Borges quy sự phổ quát đó cho vẻ phi vị kỷ của Shakespeare, nhưng phẩm chất đó chỉ là một ẩn dụ lớn về sự khác biệt của Shakespeare, tự thân nó suy cho cùng là sức mạnh nhận thức. Chúng ta đọc, nếu không vô thức thì cũng thường là trong cuộc truy tìm một tâm trí độc đáo hơn tâm trí của chính mình.
Do ý thức hệ, đặc biệt là trong những phiên bản nông cạn hơn của nó, có sức phá hoại phi thường đối với khả năng tri nhận và thưởng thức sự châm biếm, tôi đề xuất lấy việc phục hồi sự châm biếm làm nguyên tắc thứ năm của chúng ta trong việc khôi phục sự đọc. Hãy nghĩ về sự châm biếm bất tận của Hamlet, người nói một đằng nhưng gần như luôn ý một nẻo, thường là trái ngược với những gì ông nói. Nhưng với nguyên tắc này, tôi gần như tuyệt vọng, bởi lẽ dạy ai đó trở nên châm biếm thì cũng bất khả chẳng khác gì hướng dẫn họ trở nên đơn độc. Vậy nhưng mất đi sự châm biếm lại là cái chết của sự đọc, và của những gì đã được khai hóa trong bản chất của chúng ta.
I stepped from Plank to Plank
A slow and cautious way
The Stars about my Head I felt
About my Feet the Sea.
I knew not but the next
Would be my final inch—
This gave me that precarious Gait
Some call Experience.
Phụ nữ và nam giới có thể đi đứng khác nhau, nhưng trừ khi nằm trong một trung đoàn thì tất cả chúng ta đều có xu hướng có cách đi riêng. Dickinson, bậc thầy của sự Siêu phàm bấp bênh, có thể rất khó hiểu nếu chúng ta đui mù trước những châm biếm của bà. Bà chỉ bước đi theo một con đường khả dĩ, “từ Ván sang Ván” (“from Plank to Plank”), nhưng sự thận trọng chậm rãi của bà lại liền kề một cách mỉa mai với một sự thách thức mà trong đó bà cảm nhận được “Sao trên Đầu” (The Stars about my Head), dù dưới chân bà rất gần là biển. Không biết liệu bước tiếp theo có phải là “tấc cuối cùng” (final inch), bà mang “dáng đi bấp bênh” (precarious Gait) mà bà không đặt tên, chỉ nói với chúng ta rằng “ai đó” gọi đó là “Experience” (“Some call Experience”). Dickinson đã đọc tiểu luận “Experience” của Emerson, một đỉnh cao cũng như “On Experience” là đỉnh cao đối với Montaigne thầy ông, và sự châm biếm của bà là lời đáp dễ chịu với lời mở đầu của Emerson: “Chúng ta thấy mình ở đâu? Trong một chuỗi mà chúng ta không biết những cực điểm của nó, và tin rằng nó không có cực điểm nào.” Cực điểm đó, với Dickinson, là không biết bước tiếp theo có phải là tấc cuối cùng hay không. “Nếu bất cứ ai trong chúng ta biết chúng ta đang làm gì, hoặc chúng ta đang đi đâu, thì lúc đó chúng ta sẽ nghĩ mình đã biết rất rõ!” Cơn mơ màng xa hơn của Emerson khác cơn mơ màng của Dickinson về khí chất, hay như Dickinson nói, về dáng điệu. “Vạn vật bơi lội và lấp lánh,” trong địa hạt trải nghiệm của Emerson, và sự châm biếm hòa nhã của ông rất khác sự châm biếm bấp bênh của Dickinson. Nhưng hai người không người nào là nhà tư tưởng, và họ sống lặng lẽ trong thứ quyền lực kình địch của những châm biếm của mình.
Ở cuối con đường của sự châm biếm đã mất là tấc cuối cùng, ra khỏi đó thì giá trị văn chương sẽ không thể cứu vãn. Châm biếm chỉ là một ẩn dụ, và châm biếm của một thời đại văn chương hiếm khi là châm biếm của một thời đại khác, nhưng không có sự phục hưng của một cảm quan châm biếm hơn những gì mà chúng ta từng gọi là tưởng tượng thì văn chương sẽ mất. Thomas Mann, châm biếm nhất trong số các nhà văn lớn của thế kỷ này, có vẻ đã mất. Các cuốn tiểu sử mới về ông xuất hiện, và gần như luôn được bình phẩm dựa trên sự đồng tính luyến ái của ông, cứ như ông có thể được giữ lại cho sự quan tâm của chúng ta chỉ khi ông có thể được chứng nhận là người đồng tính, và nhờ vậy mà được đưa vào chương trình giảng dạy. Điều đó giống như việc nghiên cứu Shakespeare chủ yếu vì ông có vẻ song tính luyến ái, nhưng những bất thường trong chủ nghĩa phản Thanh giáo hiện thời của chúng ta dường như vô tận. Châm biếm của Shakespeare, như chúng ta vẫn nghĩ, là những châm biếm toàn diện và biện chứng nhất trong toàn bộ nền văn học phương Tây, nhưng không phải lúc nào chúng cũng làm trung gian cho những dục vọng của các nhân vật của ông, phạm vi xúc cảm rộng lớn và mãnh liệt của họ, với chúng ta. Shakespeare do vậy sẽ sống sót qua thời đại của chúng ta; chúng ta sẽ đánh mất những châm biếm của ông, và lưu giữ phần còn lại. Nhưng ở Thomas Mann, mọi cảm xúc, tự sự hay kịch, đều được trung gian bởi một thẩm mỹ châm biếm; dạy Death in Venice hay Disorder and Early Sorrow cho các sinh viên đại học gần đây nhất, ngay cả sinh viên năng khiếu, gần như là bất khả. Khi các tác giả bị lịch sử tiêu diệt, chúng ta gọi đúng tác phẩm của họ là tác phẩm một thời, nhưng khi họ trở nên không thể tiếp cận vì ý thức hệ bị lịch sử hóa, tôi nghĩ chúng ta gặp một hiện tượng khác.
Châm biếm đòi hỏi một khoảng chú tâm nhất định, và khả năng duy trì những ý tưởng phản đề, ngay cả khi chúng xung đột với nhau. Tước bỏ châm biếm khỏi việc đọc thì lập tức nó mất đi mọi khuôn phép và bất ngờ. Hãy tìm cái gần gũi với mình, có thể dùng để cân nhắc và suy ngẫm, và rất có thể sẽ mang tính châm biếm, cho dù nhiều vị giáo viên của ta sẽ không biết nó là gì, hay có thể tìm thấy nó ở đâu. Châm biếm sẽ xóa bỏ sáo ngữ của những nhà tư tưởng ra khỏi tâm trí, giúp ta phát sáng như học giả là cây nến.
***
Đến tuổi thất tuần, ta sẽ không muốn đọc tồi, chẳng khác gì không muốn sống lỗi, vì thời gian sẽ không mủi lòng. Tôi không biết chúng ta nợ cái chết là nợ Thượng đế hay nợ tự nhiên, nhưng dù sao tự nhiên cũng sẽ thu lại nó, còn chúng ta chắc chắn không nợ gì sự tầm thường, bất kể tính tập thể nào mà nó ngụ ý thúc đẩy hay ít nhất là đại diện.
Bởi độc giả lý tưởng của tôi, trong nửa thế kỷ qua, là Samuel Johnson, tôi sẽ chuyển đến một đoạn ưa thích của tôi trong Preface to Shakespeare của ông:
Đây, do vậy, là lời ngợi ca Shakespeare, rằng kịch của ông là tấm gương của cuộc đời; rằng ai có trí tưởng tượng lạc lối theo những bóng ma do các nhà văn khác khơi dậy trước ông ở đây đều có thể được cứu chữa khỏi những ảo tưởng mê sảng bằng cách đọc những tình cảm con người bằng ngôn ngữ loài người, bằng những cảnh mà nhờ đó một người ẩn dật cũng có thể ước đoán những giao dịch của thế giới và một vị cha giải tội có thể đoán trước tiến trình của dục vọng.
Để đọc những tình cảm con người bằng ngôn ngữ loài người, ta phải có khả năng đọc một cách nhân văn, bằng toàn bộ con người mình. Ta không phải một ý thức hệ mà còn hơn thế, bất kể niềm tin của ta là gì, và Shakespeare nói với ta nhiều như những gì ta có thể mang đến với ông. Nói như vậy có nghĩa là: Shakespeare đọc ta đầy đủ hơn ta có thể đọc ông, ngay cả khi ta đã xóa bỏ sáo ngữ khỏi tâm trí mình. Không nhà văn nào trước hoặc sau Shakespeare có được bất cứ điều gì tương tự như khả năng kiểm soát chủ nghĩa quan điểm của ông, thứ vượt lên trên mọi sự ngữ cảnh hóa mà chúng ta áp đặt lên những vở kịch. Johnson, nhận ra điều đó một cách đáng khâm phục, thúc giục chúng ta hãy để Shakespeare cứu chữa chúng ta khỏi những “ảo tưởng mê sảng.” Cho phép tôi tiếp lời Johnson bằng cách thúc giục chúng ta nhận ra những bóng ma mà chỉ có cách đọc sâu Shakespeare thì mới có thể diệt trừ. Một bóng ma như vậy là Cái chết của Tác giả; một bóng ma khác là sự khẳng định rằng bản ngã là một giả tưởng; một bóng ma nữa là quan điểm nhân vật văn chương và kịch chỉ là vô vàn dấu vết trên trang sách. Một bóng ma thứ tư, và nguy hại nhất, là việc ngôn ngữ làm công việc tư duy cho chúng ta.
Tuy nhiên, tình yêu dành cho Johnson, và dành cho việc đọc, đã xoay tôi khỏi bút chiến và hướng đến vinh danh nhiều độc giả đơn độc mà tôi liên tục gặp gỡ, dù là trong lớp học hay trong những bức thư mà tôi nhận được. Chúng ta đọc Shakespeare, Dante, Chaucer, Cervantes, Dickens, Proust, và tất cả đồng nghiệp của họ là bởi họ không chỉ mở rộng cuộc sống mà còn hơn thế. Về mặt thực dụng, họ đã trở thành Phước lành, theo ý nghĩa Jahwist đích thực của nó là “thêm đời sống vào một thời gian không ranh giới.” Chúng ta đọc sâu vì nhiều lý do khác nhau, phần lớn đều quen thuộc: vì chúng ta không thể biết đủ người đủ sâu; vì chúng ta cần biết mình rõ hơn; vì chúng ta muốn có tri thức, không chỉ về mình và những người khác, mà còn về lề lối của vạn vật. Nhưng động cơ mạnh mẽ nhất, chân thực nhất của việc đọc sâu những cuốn sách kinh điển truyền thống đang bị lạm dụng rất nhiều, là truy tìm một lạc thú khó khăn. Tôi không hẳn là một nhà thầu giới thiệu lạc thú tình dục của việc đọc, và sự khó nhọc đầy lạc thú với tôi có vẻ là một định nghĩa khả dĩ của sự Siêu phàm, nhưng một lạc thú cao hơn thế vẫn là cái mà độc giả tìm kiếm. Có một sự Siêu phàm của độc giả, và nó có vẻ là sự siêu việt thế tục duy nhất mà ta có thể đạt được, ngoại trừ một sự siêu việt thậm chí còn bấp bênh hơn thế mà chúng ta gọi là “phải lòng [ai].” Tôi mong mọi người hãy tìm cái thực sự gần gũi với mình, có thể dùng để cân nhắc và để suy ngẫm. Đọc sâu, không để tin, không để chấp nhận, không để phủ nhận, mà để học cách đi vào chia sẻ trong cái bản chất duy nhất cùng viết và cùng đọc đó. ♦
Copyright © 2000 by Harold Bloom | Bản dịch © 2016 Nguyễn Huy Hoàng.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét