Thứ Sáu, 13 tháng 5, 2016

Hồng loan- giá 150k



Hồng loan- giá 150k-ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh

Kiểm soát được cái miệng của mình chính là một loại mỹ đức



Cổ nhân thường nói: “Bệnh từ cái miệng mà ra, họa cũng từ cái miệng mà ra”, bởi vậy một người có trí tuệ chính là phải biết kiểm soát được cái miệng của mình, đó cũng là một đức tính tốt đẹp cần tu dưỡng.


Một ngày nọ, tôi đi qua một cửa hàng mua sắm, người không đông lắm, có một nhóm người tập trung ở quầy tính tiền. Tôi tiến về phía trước, nhìn thấy một cô gái trẻ ăn mặc chỉnh tề đứng đầu tiên, cô gái quét thẻ nhiều lần, thế nhưng chiếc máy dường như lần nào cũng “cự tuyệt” cô gái.

“Có vẻ như đó là một thẻ phúc lợi”, người đàn ông phía sau tôi lẩm bẩm: “Trẻ, khỏe mạnh như thế, mà lại dựa vào phúc lợi để sống, tại sao không giống như người trẻ khác tìm việc làm đi?”

Cô gái trẻ quay đầu lại theo tiếng nói, ánh mắt cô như muốn tìm xem đó là ai. “Đúng, chính là tôi nói đó”, người đàn ông phía sau tôi chỉ tay vào chính mình.

Cô gái trẻ đỏ bừng mặt, nước mắt cứ thể chảy xuống, cô ném cái thẻ đi, rồi chạy nhanh ra khỏi cửa hàng, và rất nhanh chóng biến mất trong cái nhìn soi mói của mọi người.

Vài phút sau, một thanh niên bước vào cửa hàng, cậu đi vào cửa hàng hỏi cô thu ngân rằng có biết cô gái kia đâu không, thu ngân cửa hàng nói rằng cô ấy đã quăng thẻ rồi chạy đi rồi.

“Tôi là bạn của cô ấy, đã xảy ra chuyện gì vậy ạ?”, cậu thanh niên lo lắng hỏi.

Người đàn ông phía sau tôi nói: “Tôi không may nói ra những lời ngủ xuẩn, mỉa mai cô ấy dùng thẻ phúc lợi, đáng lẽ tôi không nên nói ra, thật xin lỗi!”

“Ôi, hỏng bét rồi. Hoàn cảnh cô ấy rất đáng thương, anh trai cô đã bị giết chết ở Afghanistan hai năm trước, để lại đằng sau ba đứa em. Cô ấy chỉ 21 tuổi mà phải lo cuộc sống cho 3 đứa em. Thật không ngờ, hôm nay lại xảy ra việc thế này”, người thanh niên lo lắng không yên.

“Đây là những món hàng cô bé kia mua sao?”, người đàn ông phía sau tôi hỏi thu ngân.

“Đúng ạ, nhưng tiếc là thẻ của cô ấy không sử dụng được”, thu ngân nói.

Trong cửa hàng bỗng nhiên trở nên im lặng.

“Cậu chắc chắn biết cô gái đó ở đâu chứ?”, người đàn ông hỏi cậu thanh niên trẻ, rồi ông chen lên phía trước, lấy ra thẻ tín dụng của mình đưa cho thu ngân: “Lấy thẻ của tôi tính tiền đi”.

Thu ngân nhận lấy thẻ, và bắt đầu tính tiền những mặt hàng cô gái đã mua.

“Đợi một chút”, người đàn ông quay người lấy một hộp sữa bò bỏ vào trong túi đồ của cô gái.

“Chúng ta nên giúp đỡ ba đứa bé kia nhiều hơn một chút chứ”, một người phụ nữ đi tới, đem một con gà bỏ vào túi của cô gái, sau đó mọi người lặng lẽ lấy đồ của mình bỏ vào túi đồ của cô gái.

“Chú, cảm ơn chú! Chú là một người tốt”, chàng thanh niên nói.

Dù cho chính mắt bạn nhìn thấy, nhưng có lẽ chân tướng sự việc có thể không phải là như vậy. Như lời một triết gia người Hy Lạp từng nói: “Mỹ đức lớn nhất mà nhân loại cần phải học chính là khống chế được cái miệng của chính mình”.

Kiểm soát tốt cái miệng của mình, cố gắng đừng nói những lời này:

1. Không nên đánh giá người khác tốt xấu thế nào, bởi vì tốt xấu của họ không ảnh hưởng tới miếng cơm manh áo của bạn.

2. Không nên đánh giá đức hạnh của người khác, bởi vì có thể có những khía cạnh họ còn cao quý hơn bạn.

3. Không nên đánh giá gia đình của người khác, bởi vì những người đó và bạn không có quan hệ.

4. Không nên đánh giá học vấn của người khác, bởi vì trên đời này kiến thức là mênh mông.

5. Không nên đánh giá bất kỳ người nào, cho dù người đó là người bạn xem thường nhất.

6. Không nên lãng phí tiền bạc, bởi vì ngày mai bạn có thể thất nghiệp.

7. Không nên vênh váo, tự đắc, bởi vì có thể ngày mai bạn thất thế.

8. Không nên nói quá phô trương, phải biết rằng bạn cũng chỉ là một người nhỏ bé.

9. Không nên dựa vào người khác, bởi vì cuộc sống nhiều gánh nặng, ai cũng muốn sống nhẹ nhõm.



Không nên làm tổn thương người khác, nhân quả sớm muộn đều sẽ đến.
(Ảnh: Internet)​
10. Không nên làm tổn thương người khác, nhân quả sớm muộn đều sẽ đến.

11. Không nên quá chú tâm giải thích đúng sai, hãy làm bậc trí giả. Trên đời chúng ta thường nghĩ cách giải thích cái gì đó. Nhưng mà, một khi giải thích, ta lại phát hiện rằng, bất kể ai giải thích đều là người yếu ớt, thậm chí sẽ càng bôi nhọ mình hơn.
Núi dẫu không nói rõ độ cao của mình, thì độ cao của nó cũng không hề bị ảnh hưởng; biển không nói rõ độ sâu của mình, thì việc dung nạp trăm sông đổ dồn về nó cũng không có gì là trở ngại; mặt đất dẫu không nói rõ độ dày của mình, thì cũng không có ai có thể thay thế nó làm chỗ dựa cho vạn vật được…Đừng đánh giá thấp bất kể ai, bạn không có nhiều khán giả, đừng mệt mỏi như vậy.

12. Không nên tự nhiên nổi giận, vì không phải ai cũng là “con nợ” bạn. Có thể hiện tại bạn đang rất thống khổ, nhưng khi vượt qua khoảng thời gian ấy, nhìn lại bạn sẽ phát hiện kỳ thực điều đó cũng chẳng là gì. Chúng ta thường phàn nàn cuộc sống bất công với mình, nhưng thực ra cuộc sống căn bản không biết được chúng ta là ai.

13. Không nên nói rằng ai tu luyện tốt hay không tốt. Tu hành là việc cá nhân, người khác chính là một cái gương phản chiếu chính cái thiếu sót trong tu luyện của bản thân mình.


Hoàng Sâm, dịch từ Soundofhope

Thứ Năm, 12 tháng 5, 2016

SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT DƯỚI GÓC NHÌN CỦA TÂM LÝ HỌC




Lê Thị Thanh Hải

Đề cập đến quan điểm của Tâm lý học đối với sáng tạo nghệ thuật, bài viết chỉ đề cập đến các phần của sáng tạo nghệ thuật mà về nguyên tắc có thể áp dụng được cách phân tích Tâm lý học.



Dù cho khi phân tích về vấn đề này, Tâm lý học có thể rút ra cái gì đi chăng nữa thì cũng chỉ giới hạn ở cấu trúc tâm lý của hoạt động sáng tạo nghệ thuật, chứ không “chạm” đến những tầng sâu kín của nghệ thuật, chạm đến chúng là điều không thể đối với Tâm lý học.

Mặc dù đứng dưới góc độ tiếp cận khác nhau về nghệ thuật nhưng nhìn chung các nhà Tâm lý học đều thống nhất cho rằng, cấu trúc tâm lý của hoạt động sáng tạo nghệ thuật bao gồm ba thành phần cơ bản, đó là: tri giác, tưởng tượng và cảm xúc. Trong đó, tri giác được coi là cơ sở ban đầu, là điều kiện của hoạt động. Tưởng tượng đóng vai trò chủ đạo trong việc tạo nên hình tượng nghệ thuật, còn xúc cảm là nhân tố làm nền, liên kết, huy động các quá trình tâm lý, là nhân tố thúc đẩy hoạt động của tri giác và tưởng tượng.

1. Tri giác:

Theo L.X.Vưgotxki, quá trình sáng tạo nghệ thuật thực chất là quá trình người nghệ sỹ tiếp nhận sự tác động của thế giới hiện thực một cách nhạy cảm và tinh tế nhất. Sự tiếp nhận này được hỗ trợ bởi sự quan sát và cảm nhận tinh tế của người nghệ sỹ thông qua tri giác. Có thể nói, đây chính là giai đoạn người nghệ sỹ chuẩn bị chất liệu cho quá trình sáng tạo. Đối với người nghệ sỹ tài năng, khi tiếp cận với thế giới hiện thực, họ luôn thể hiện sự tập trung chú ý cao độ để quan sát một cách chi tiết, tỉ mỷ và toàn diện tất cả những gì đang diễn ra xung quanh họ. Một số nhà nghiên cứu cũng đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của quan sát khi cho rằng – Thiên tài không phải là cái gì khác mà là sự chú ý liên tục.

Johann Wolfgang von Goethe trong cuốn tự truyện của mình cũng đã viết: tất cả những gì làm cho người nghệ sỹ có khả năng sáng tạo nghệ thuật là các “ấn tượng quý giá”,những ấn tượng này chỉ có thể có được dựa trên sự nhạy cảm, tinh tế khi quan sát và cảm thụ thế giới. Nói cách khác, yếu tố góp phần tạo nên sự thành bại của một tác phẩm chính là sự “nhập thân” của tác giả khi tri giác một đối tượng nào đó, đối tượng của thị giác lúc này không còn là khách thể mà đã trở thành chủ thể sáng tạo. Có như vậy, người nghệ sỹ mới có thể chọn lọc được những chất liệu, những vốn sống cho sáng tác của mình.

Thị giác trong quan sát đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Nhờ sự sắc bén của thị giác mà người nghệ sỹ nắm bắt đựơc cái chỉnh thể, cái chi tiết của đối tượng về đường nét, màu sắc, độ chìm nổi, mức sáng tối, sự hài hoà, sự mất cân xứng… Tất cả các chi tiết đó sẽ được người nghệ sỹ phân biệt và ghi giữ lại với độ chính xác phi thường. Sự phân biệt này diễn ra không đơn giản, bởi nó không chỉ đòi hỏi sự nhạy bén, tinh vi của các cơ quan cảm giác mà còn đòi hỏi ở người nghệ sỹ trình độ thị hiếu thẩm mỹ cao để chọn lọc tất cả những thông tin cần thiết, khi đủ những thông tin đã được chọn lọc kỹ càng, ở người nghệ sỹ sẽ diễn ra một sự phối hợp độc đáo giữa cái bên trong (cái cảm xúc) và bên ngoài (đối tượng của thị giác) để xây dựng nên hình tượng nghệ thuật.

Có thể nói rằng, tri giác trong sáng tạo nghệ thuật là một quá trình tâm lý tích cực nhằm phân tích các thuộc tính của đối tượng được miêu tả và tổng hợp chúng thành hình ảnh thẩm mỹ trọn vẹn trên cơ sở xúc cảm thẩm mỹ. Nếu không có tri giác, các quá trình tưởng tượng, cảm xúc trong sáng tạo nghệ thuật sẽ không đạt hiệu quả cao như mong muốn, thậm chí có trường hợp các quá trình này không hề diễn ra.

2. Tưởng tượng:

Nghệ thuật là sự sáng tạo, muốn sáng tạo thì người nghệ sỹ phải có óc tưởng tượng phong phú, bởi bản thân hiện thực không đưa lại cho con người cái toàn vẹn, cái hoàn hảo trong các hình tượng nghệ thuật. Một hình tượng nghệ thuật muốn thể hiện sự tổng hợp và sự khái quát cao thì trong tư duy của người nghệ sỹ phải gắn liền với tưởng tượng và xúc cảm. Các nhà nghiên cứu cho rằng, tưởng tượng là cấu trúc hạt nhân cùng với xúc cảm tạo nên năng lực sáng tạo của người nghệ sỹ.

Theo Chu Quang Tiềm, tưởng tượng trong sáng tạo nghệ thuật là “căn cứ vào những ý tưởng có sẵn làm tài liệu, rồi cắt xén, gạt bỏ, chọn lọc, tổng hợp lại để thành một hình tượng mới” . Như vậy, ông quan niệm “chỉ có tưởng tượng sáng tạo mới sản sinh ra nghệ thuật”, tưởng tượng không thể tách rời khỏi các biểu tượng, mà biểu tượng là do kinh nghiệm thu thập được.

Ông chia tưởng tượng ra làm hai loại:

– Tưởng tượng tái tạo:Đó là quá trình người nghệ sỹ phục hồi, tái diễn lại những kinh nghiệm cũ trong ký ức của mình để tạo nên chất liệu, chuẩn bị cho việc xây dựng hình tượng nghệ thuật. Tuy nhiên, đây chưa phải là quá trình sáng tạo mà nó mới chỉ là quá trình tích luỹ, là sự chọn lựa trong thế giới hiện thực những sự kiện, những con người, những vấn đề phù hợp với xúc cảm, phù hợp với ý đồ sáng tạo của người nghệ sỹ mà thôi.

– Tưởng tượng sáng tạo: Theo Chu Quang Tiềm đây mới thực chất là quá trình sáng tạo nghệ thuật. Trong giai đoạn này, người nghệ sỹ sẽ tập hợp những yếu tố, những hồi ức, những tài liệu đã được lựa chọn trong quá trình tái tạo, thiết lập chúng theo một cơ cấu mới, một cấu trúc nhất định để tạo nên hình tượng nghệ thuật. Sự tổng hợp này có thể được phát triển theo chiều hướng dính kết các đặc điểm, các chi tiết của những đối tượng khác nhau hoặc theo hướng nhân cách hoá, điển hình hoá, khái quát hoá, nhấn mạnh từng chi tiết trong bản thân sự vật, hiện tượng để tạo nên những hình tượng nghệ thuật mới. Hình tượng nghệ thuật này càng chứa đựng yếu tố mới lạ bao nhiêu thì khả năng sáng tạo của người nghệ sỹ càng được đánh giá cao bấy nhiêu.

Nhấn mạnh đặc điểm của quá trình tưởng tượng sáng tạo trong lĩnh vực nghệ thuật, P.A.Ruđich viết: “Đó là quá trình có cao trào cảm xúc đặc biệt và nó mang lại cho hoạt động sáng tạo của con người một tích chất hứng khởi, tức là một trạng thái mà con người dường như thoát lý, thăng hoa khỏi xung quanh” . Quan điểm này của Ruđich hoàn toàn thống nhất với quan điểm của các nhà Tâm lý học biện chứng, cho rằng không thể đem thứ tưởng tượng thông thường của tất cả mọi người để sáng tạo nghệ thuật mà phải là thứ tưởng tượng mang yếu tố cảm xúc.

M.A.Nauđrop trong tác phẩm “Tâm lý học sáng tạo văn học” cũng đã chia tưởng tượng sáng tạo của người nghệ sỹ thành 3 mức độ khác nhau:

– Tưởng tượng hoang đường: Đây có thể coi là giai đoạn thấp nhất trong hoạt động tưởng tượng của người nghệ sỹ. ở mức độ này, khi tưởng tượng người nghệ sỹ thường thiên về những điều kỳ diệu, khác thường. Ông cho rằng, trong giai đoạn này, người nghệ sỹ đã rơi vào chủ nghĩa duy tâm, ngây thơ, tức họ chỉ dựa vào những mâu thuẫn mang tính chất bất thường, kỳ lạ giữa một bên là thế giới hiện thực với một bên là cuộc sống tưởng tượng bay bổng của người nghệ sỹ. Và cái đích cuối cùng của họ là được thoả mãn các lý tưởng đạo đức mà họ khát vọng vươn tới nhưng không đạt được trong thế giới hiện thực, vì vậy họ phải gửi gắm vào những hình tượng nghệ thuật hoang đường. Đây cũng cũng chính là sự biểu hiện những ước mơ thầm kín về hạnh phúc và lòng khát khao tự do.

– Mức độ nhân cách hóa:Đây là giai đoạn người nghệ sỹ chuyển các đặc điểm về tinh thần và tâm trạng, chuyển tất cả những khát vọng hoang đường mà họ đã thực hiện ở giai đoạn trước vào hiện thực vào các vật thể vật chất (các loại hình nghệ thuật khác nhau: âm nhạc, hội hoạ, văn học…). Đây là hành động của một sự liên tưởng không lường trước và nhiều lúc bản thân người nghệ sỹ cũng không ý thức đựơc do các mối liên tưởng nào tạo nên. Và khả năng chuyển từ tưởng tượng sang tưởng tượng trong tác phẩm nghệ thuật thì chỉ có ở người nghệ sỹ mà thôi.

– Mức độ nhập thân: Tiền đề của sự nhập thân được tạo nên bởi các biểu tượng rõ ràng về những con người, những hoàn cảnh xuất thân… Đây chính là quá trình người nghệ sỹ tưởng tượng ra toàn bộ cuộc sống thực tại trong thế giới ảo về các hình tượng nhân vật mà họ sáng tạo nên. Khi nhập thân, người nghệ sỹ sẽ đặt mình vào chính đời sống của nhân vật, họ suy nghĩ, biểu cảm như nhân vật trong từng điều kiện, trường hợp cụ thể. Sự hoá thân càng cao, mức độ thành công của tác phẩm càng lớn. Điều kiện để tạo nên trạng thái nhập thân của người nghệ sỹ không nhất thiết là những cái họ đã trải qua trong cuộc sống mà đây thực chất là quá trình người nghệ sỹ tiếp nhận những tác động từ bên ngoài, dựa trên những kinh nghiệm đã có, họ sẽ suy nghĩ một cách sâu sắc, đầy đủ về nhân vật, chú ý tới những đặc điểm ngoại hình và nội tâm của nhân vật. Khi có đủ ba điều kiện này, trí tưởng tượng bắt đầu hoạt động và người hoạ sỹ sẽ hóa thân vào nhân vật của mình để sáng tạo.

Như vậy, cái đích cuối cùng trong tưởng tượng sáng tạo của người nghệ sỹ là tạo ra các hình tượng nghệ thuật. Đó chính là hệ thống các lớp cảm xúc tiêu biểu trong xã hội, là nơi lưu giữ các xúc cảm thẩm mỹ và cũng là nơi truyền đạt những thông điệp thẩm mỹ. Chính nhờ có tưởng tượng và thông qua tưởng tượng mà toàn bộ các hình tượng nghệ thuật tồn tại trong các tác phẩm đã đạt đến trình độ của sự tưởng tượng khái quát, tạo nên cái riêng, cái độc đáo của từng nhân cách sáng tạo và mang tính khác lạ so với thế giới hiện thực.

3. Cảm xúc:

Cảm xúc là một cấu tạo tâm lý xuất hiện thường xuyên trong cuộc sống của người nghệ sỹ. Có thể nói rằng, khi tiếp nhận thế giới hiện thực, song song với quá trình nhận thức (tri giác) thì cảm xúc của người nghệ sỹ cũng được trải nghiệm. Chính vì có sự trải nghiệm này mà người nghệ sỹ luôn luôn có sự đam mê, có những khát vọng cháy bỏng tạo nên động lực bên trong, thôi thúc họ thể hiện vào trong tác phẩm của mình.

Cảm xúc của người nghệ sỹ được thể hiện trong một cấu trúc đối nghịch. Chính cấu trúc đối nghịch này đã tạo nên tính hai mặt trong quá trình tiếp nhận thế giới hiện thực. Ở họ, khi nhìn nhận đánh giá các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan bao giờ cũng được phân định rõ ràng bởi các cặp phạm trù đối nghịch: Yêu – ghét, căm thù, kính trọng – khinh bỉ… Những cặp phạm trù này trong xúc cảm đã tạo ra cấu trúc đối nghịch của hình tượng nghệ thuật như:

+ Đối nghịch giữa nội dung và hình thức biểu hiện của hình tượng.

+ Đối nghịch giữa chất liệu sáng tạo và sản phẩm sáng tạo.

+ Đối nghịch giữa những nội dung phản ánh trong chính bản thân hình tượng.

Cảm xúc sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sỹ là cảm xúc được hoà nhập với óc tưởng tượng sáng tạo, trong cảm xúc có tưởng tượng, trong tưởng tượng có cảm xúc. Chính vì vậy, Cảm xúc trong hình tượng nghệ thuật bao giờ cũng vượt lên những xúc cảm của đời thường, sự mãnh liệt hay u uất của nó cũng được bộc lộ ở các cung bậc cảm xúc khác với cung bậc của người thường.

Tóm lại, tri giác, tưởng tượng và cảm xúc luôn phối hợp chặt chẽ với nhau trong việc tổ chức các khâu cơ bản của quá trình sáng tạo nhằm xây dựng nên các hình tượng nghệ thuật. Bài viết xin trích dẫn quan điểm của nhà văn Pháp Guy de Moupassant thay cho lời kết : “ Cảm xúc do nhận thức (tri giác) tạo nên thông qua tưởng tượng, muốn tưởng tượng đúng đòi hỏi người nghệ sỹ phải có vốn sống. Muốn vậy, phải tiếp cận thường xuyên và trực tiếp với cuộc sống của con người”.

Lê Thị Thanh Hải

HỌC NGÀNH GÌ ĐỂ TRÁNH BỊ COMPUTER THAY THẾ ?




HOA KỲ – Trong hoàn cảnh máy điện toán và người máy đã khởi sự thay thế con người trong một số lãnh vực, những người trẻ ngày nay cần phải học những ngành nào để trong cuộc đời của họ không bị những máy móc thiết bị này lấy mất việc làm và vẫn có được công việc tốt, lương cao trong 20, 30 hay 50 năm tới? Nhật báo NYT đặt vấn đề.

Đây là câu hỏi mà các đại học Mỹ đang vất vả để có câu trả lời.

Theo NYT, phần lớn người ta hoàn tất thời gian học chính của mình khi ngoài 20 tuổi và sẽ nhờ cậy vào những gì học hỏi trong thời gian đó trong mấy chục năm sau. Nhưng một máy điện toán có thể chỉ cần ít giây đồng hồ để có các dữ kiện mà con người phải mất thì giờ thu thập khi ở bậc trung học và đại học.Và trong tương lai sẽ có các máy điện toán và người máy khác nhanh nhạy hơn, thông minh hơn, trước khi một thế hệ con người đến tuổi hưu.

Hiện có hai dòng tư tưởng chính trong nỗ lực nhằm đối phó với vấn đề này. Một là các trường học phải xác định và cung cấp cho sinh viên một kiến thức để hy vọng là không thể nào bị máy móc thay thế. Hướng thứ nhì là chúng ta phải làm sao vấn đề học vấn thiên về môi trường thương mại hơn – nghĩa là dạy về thực tế đời sống và đưa ra một tiến trình sáng tạo – cũng để hy vọng là máy không thể bắt chước.

Cả hai chiều hướng nói trên không nhất thiết là tương phản với nhau.

Vẫn theo bài báo, một số học giả đang tìm cách xác định những ngành học nào giúp người ta tồn tại và ít bị kỹ thuật thay thế hơn, như nghiên cứu những nghề nào phát triển và những nghề nào bị mất đi.

Những ngành nghề sống còn được thấy là có cùng những đặc điểm như cần khả năng truyền đạt trong những vấn đề phức tạp và sự hiểu biết chuyên biệt.Những khả năng loại này đòi hỏi người ta phải truyền đạt được “không chỉ tin tức mà còn là sự nhận định tin tức này.”

Cuộc nghiên cứu cũng cho thấy các đại học Mỹ nay phải cung cấp cho sinh viên một nền học vấn rộng rãi hơn chứ không chuyên biệt vào một lãnh vực nào.Giáo Sư Sean D. Kelly ở đại học Harvard nói rằng trường này phải làm sao để có thể cung cấp cho sinh viên “nghệ thuật sống trong thế giới ngày nay.”

Nhưng làm thế nào để các giáo sư có thể đạt được điều này? Nhiều người cho rằng nhà trường phải chuẩn bị cho sinh viên cách đón lấy các cơ hội kinh doanh mà ngành nghề có thể đưa tới. Ngay cả những ngành học hoàn toàn không liên hệ gì với thế giới thương mại cũng có thể làm được điều này bằng cách đưa ra những hoạt động liên quan tới doanh nghiệp, bất vụ lợi và những hoạt động mà người sinh viên sau này có thể sử dụng sự hiểu biết chuyên biệt của họ.

Nhu cầu tái xác định mục tiêu của giáo dục đại học cũng giúp có những lợi ích cho nhiều thập niên trong tương lai. Các trường đại học cần phải thích ứng với sự tiến bộ nhanh chóng của ngành tin học. Cùng lúc đó, các trường đại học cũng phải tiếp tục tái thẩm định cái gì là sự khác biệt căn bản giữa cách học của máy và của con người, cũng như những gì có giá trị thực tế cho sinh viên trên đường dài. Ðiều này có thể sẽ khiến người ta nhận ra rằng “nghệ thuật sống trong thế giới – art of living in the world” đòi hỏi phải có một phần nào đó của giáo dục về thương mại. (L.T.)

(Thu Vân chuyển bài)

Duyên nợ và Lời Phật Dạy trong tình yêu đáng suy ngẫm




Cuộc sống con người chỉ là một giai đoạn trong dòng chảy luân hồi. Kiếp này nối tiếp kiếp khác, thừa hưởng và kế thừa lẫn nhau. Con người gặp nhau là bởi chữ DUYÊN, sống và yêu nhau là bởi chữ NỢ.

Nhiều cặp vợ chồng, đôi lứa đang sống hạnh phúc với nhau mà một trong hai người bỗng có tình cảm với người khác, dẫn đến chuyện chia tay. Những người dung tục sẽ nói người kia là trăng hoa, đểu cáng… nhưng thật ra đó chỉ là người ta đã trả xong nợ và đã đến lúc phải rời đi. Chuyện tình cảm không thể níu kéo được. Cùng nghe Lời Phật Dạy về Duyên Nợ và Tình Yêu

Trước miếu Quan Âm mỗi ngày có vô số người tới thắp hương lễ Phật, khói hương nghi ngút. Trên cây xà ngang trước miếu có con nhện chăng tơ, mỗi ngày đều ngập trong khói hương và những lời cầu đảo, nhện dần có Phật tính. Trải nghìn năm tu luyện, nhện đã linh.



Phật dừng lại, hỏi nhện: “Ta gặp ngươi hẳn là có duyên, ta hỏi ngươi một câu, xem ngươi tu luyện một nghìn năm nay có thật thông tuệ chăng. Được không?”

Nhện gặp được Phật rất mừng rỡ, vội vàng đồng ý. Phật hỏi: “Thế gian cái gì quý giá nhất?”

Nhện suy ngẫm, rồi đáp: “Thế gian quý nhất là những gì không có được và những gì đã mất đi!”. Phật gật đầu, đi khỏi.

Lại một nghìn năm nữa trôi qua, nhện vẫn tu luyện trên thanh xà trước miếu Quan Âm, Phật tính của nhện đã mạnh hơn.

Một ngày, Phật đến trước miếu, hỏi nhện: “Ngươi có nhớ câu hỏi một nghìn năm trước của ta không, giờ ngươi đã hiểu nó sâu sắc hơn chăng?”

Nhện nói: “Con cảm thấy trong nhân gian quý nhất vẫn là “không có được” và “đã mất đi” ạ!”

Phật bảo: “Ngươi cứ nghĩ nữa đi, ta sẽ lại tìm ngươi.”

Một nghìn năm nữa lại qua, có một hôm, nổi gió lớn, gió cuốn một hạt sương đọng lên lưới nhện. Nhện nhìn giọt sương, thấy nó long lanh trong suốt sáng lấp lánh, đẹp đẽ quá, nhện có ý yêu thích. Ngày này nhìn thấy giọt sương nhện cũng vui, nó thấy là ngày vui sướng nhất trong suốt ba nghìn năm qua. Bỗng dưng, gió lớn lại nổi, cuốn giọt sương đi. Nhện giây khắc thấy mất mát, thấy cô đơn, thấy đớn đau.

Lúc đó Phật tới, ngài hỏi: “Nhện, một nghìn năm qua, ngươi đã suy nghĩ thêm chưa: Thế gian này cái gì quý giá nhất?” Nhện nghĩ tới giọt sương, đáp với Phật: “Thế gian này cái quý giá nhất chính là cái không có được và cái đã mất đi.”

Phật nói: “Tốt, nếu ngươi đã nhận thức như thế, ta cho ngươi một lần vào sống cõi người nhé!”

Và thế, nhện đầu thai vào một nhà quan lại, thành tiểu thư đài các, bố mẹ đặt tên cho nàng là Châu Nhi. Thoáng chốc Châu Nhi đã mười sáu, thành thiếu nữ xinh đẹp yểu điệu, duyên dáng. Hôm đó, tân Trạng Nguyên Cam Lộc đỗ đầu khoa, nhà vua quyết định mở tiệc mừng sau vườn ngự uyển.

Rất nhiều người đẹp tới yến tiệc, trong đó có Châu Nhi và Trường Phong công chúa. Trạng Nguyên trổ tài thi ca trên tiệc, nhiều tài nghệ khiến mọi thiếu nữ trong bữa tiệc đều phải lòng. Nhưng Châu Nhi không hề lo âu cũng không ghen, bởi nàng biết, chàng là mối nhân duyên mà Phật đã đưa tới dành cho nàng.

Qua vài ngày, tình cờ Châu Nhi theo mẹ lên miếu lễ Phật, cũng lúc Cam Lộc đưa mẹ tới miếu. Sau khi lễ Phật, hai vị mẫu thân ngồi nói chuyện. Châu Nhi và Cam Lộc thì tới hành lang tâm sự, Châu Nhi vui lắm, cuối cùng nàng đã có thể ở bên người nàng yêu, nhưng Cam Lộc dường như quá khách sáo.

Châu Nhi nói với Cam Lộc: “Chàng còn nhớ việc mười sáu năm trước, của con nhện trên xà miếu Quan Âm chăng?”

Cam Lộc kinh ngạc, hỏi: “Châu Nhi cô nương, cô thật xinh đẹp, ai cũng hâm mộ, nên trí tưởng tượng của cô cũng hơi quá nhiều chăng?”. Nói đoạn, chàng cùng mẹ chàng đi khỏi đó.

Châu Nhi về nhà, nghĩ, Phật đã an bài mối nhân duyên này, vì sao không để cho chàng nhớ ra chuyện cũ, Cam Lộc vì sao lại không hề có cảm tình với ta? Vài ngày sau, vua có chiếu ban cho Trạng Nguyên Cam Lộc sánh duyên cùng công chúa Trường Phong, Châu Nhi được sánh duyên với thái tử Chi Thụ. Tin như sấm động giữa trời quang, nàng không hiểu vì sao Phật tàn nhẫn với nàng thế.

Châu Nhi bỏ ăn uống, nằm khô nhắm mắt nghĩ ngợi đau đớn, vài ngày sau linh hồn nàng sắp thoát khỏi thân xác, sinh mệnh thoi thóp.

Thái tử Chi Thụ biết tin, vội vàng tới, phục xuống bên giường nói với nàng: “Hôm đó, trong những cô gái giữa bữa tiệc sau vườn thượng uyển, ta vừa gặp nàng đã thấy yêu thương, ta đã khốn khổ cầu xin phụ vương để cha ta cho phép cưới nàng. Nếu như nàng chết, thì ta còn sống làm chi.” Nói đoạn rút gươm tự sát.

Và giây khắc ấy Phật xuất hiện, Phật nói với linh hồn sắp lìa thể xác Châu Nhi: “Nhện, ngươi đã từng nghĩ ra, giọt sương (Cam Lộc) là do ai mang đến bên ngươi chăng? Là gió (Trường Phong) mang tới đấy, rồi gió lại mang nó đi. Cam Lộc thuộc về công chúa Trường Phong, anh ta chỉ là một khúc nhạc thêm ngắn ngủi vào sinh mệnh ngươi mà thôi.

Còn thái tử Chi Thụ chính là cái cây nhỏ trước cửa miếu Quan Âm đó, anh ta đã ngắm ngươi ba nghìn năm, yêu ngươi ba nghìn năm, nhưng ngươi chưa hề cúi xuống nhìn anh ta. Nhện, ta lại đến hỏi ngươi, thế gian này cái gì là quý giá nhất?”

Nhện nghe ra sự thật, chợt tỉnh ngộ, nàng nói với Phật: “Thế gian này cái quý nhất không phải là thứ không có được và đã mất đi, mà là hạnh phúc hiện đang nắm giữ!”

Vừa nói xong, Phật đã đi mất, linh hồn Châu Nhi quay lại thân xác, mở mắt ra, thấy thái tử Chi Thụ định tự sát, nàng vội đỡ lấy thanh kiếm…

Câu chuyện đến đây là hết, bạn có hiểu câu cuối cùng mà nàng Châu Nhi nói không?

“Thế gian này cái quý nhất không phải là thứ không có được và đã mất đi, mà là hạnh phúc hiện đang nắm giữ!”

Trong suốt đời ta, sẽ gặp hàng nghìn hàng vạn loại người.

Để yêu một người thì không cần cố gắng, chỉ cần có “duyên” là đủ.

Nhưng để tiếp tục yêu một người thì phải cố gắng.

Tình yêu như sợi dây, hai người cùng kéo hai đầu, chỉ cần một người kéo căng hoặc bỏ lơi, tình yêu ấy sẽ căng thẳng hoặc chùng xuống.

Vậy khi bạn đi kiếm người ở đầu kia dây, hãy cân nhắc. Hoặc bạn có quá nhiều sợi dây tình cảm, hoặc bạn cứ liên tục tìm cái mới, hoặc khi dây đã đứt, bạn không còn can đảm hay lòng tin, tình yêu để đi tìm một tình yêu mới nữa.

Bất kể thế nào, khi sợi dây đó đứt, bạn chỉ mất đi một người không yêu bạn, nhưng người đó đã mất đi một người yêu họ.

Mất một người không biết trân quý bạn, có gì phải buồn rầu?

Bởi bạn còn cơ hội, một lần nữa, gặp người biết rằng bạn quý giá.

Có muốn nghe tôi kể câu chuyện ấy lần nữa không, ngày xưa, trước miếu Quan Âm…

***


Đêm khuya, trong một ngôi Chùa, có một người quỳ dưới chân Đức Phật nhờ Ngài dạy về chuyện tình yêu.

Người: Thưa Đức Phật thánh minh, con là một người đã có vợ, con hiện đang yêu say đắm một người đàn bà khác, con thật không biết nên làm thế nào?

Đức Phật: Con có thể xác định người đàn bà con đang yêu hiện nay là người đàn bà cuối cùng và duy nhất trong cuộc đời con không?

Người: Thưa vâng.

Đức Phật: Con ly hôn, sau đó lấy cô ấy ?

Người: Nhưng vợ con hiện nay dịu dàng, lương thiện, thảo hiền. Con bỏ cô ấy liệu có phần tàn nhẫn không, có mất đạo đức không, thưa Đức Phật?

Đức Phật: Trong hôn nhân không có tình yêu mới là tàn nhẫn và mất đạo đức. Con hiện giờ đã yêu người khác, không yêu vợ nữa. Con làm như thế là đúng.

Người: Nhưng vợ con vẫn rất yêu con, quả thật yêu con lắm, thưa Đức Phật.

Đức Phật: Vậy thì vợ con hạnh phúc.

Người: Sau khi con chia tay vợ để lấy người khác, vợ con sẽ rất đau khổ, tại sao lại hạnh phúc, thưa Đức Phật?

Đức Phật: Trong hôn nhân, vợ con vẫn có tình yêu đối với con, còn con đã mất đi một tình yêu đối với vợ con. Bởi vì con đã yêu người khác, chính vì có hạnh phúc, mất đi mới đau khổ, cho nên người đau khổ là con.

Người: Nhưng con cắt đứt vợ, sau đó cưới người khác, vậy là cô ấy đã mất con, cô ấy mãi là người đau khổ.

Đức Phật: Con nhầm rồi, con chỉ là người vợ con yêu thật sự trong hôn nhân. Khi một người như con không tồn tại, thì tình yêu thật sự của vợ con sẽ tiếp nối sang một người khác, bởi vì tình yêu thực sự của vợ con trong hôn nhân xưa nay chưa từng mất, cho nên vợ con mới là người hạnh phúc, con mới là người đau khổ.

Người: Vợ con đã từng nói kiếp này chỉ yêu mình con thôi. Cô ấy sẽ không yêu ai khác.

Đức Phật: Con cũng đã từng nói thế phải không?

Người: Con…con…con…

Đức Phật: Bây giờ con nhìn ba ngọn nến trong lư hương trước mặt, xem ngọn nào sáng nhất?

Người: Quả thật con không biết, hình như đều sáng giống nhau.

Đức Phật: Ba ngọn nến ví như ba người đàn bà. Một ngọn trong đó là người đàn bà hiện giờ con đang yêu. Đông đảo chúng sinh, đàn bà đâu chỉ là mười triệu trăm triệu…Ngay đến một trong ba ngọn nến, ngọn nào sáng nhất con cũng không biết, cũng không tìm được người con hiện đang yêu, thì làm sao con xác định được người đàn bà hiện nay là người đàn bà cuối cùng và duy nhất trong cuộc đời con?

Người: Con…con…con…

Đức Phật: Bây giờ con cầm một cây nến đặt trước mắt để tâm nhìn xem ngọn nào sáng nhất?

Người: Đương nhiên ngọn trước mặt sáng nhất.

Đức Phật: Bây giờ con đặt nó vô chỗ cũ, lại xem xem ngọn nào sáng nhất.

Người: Quả thật con vẫn không nhìn ra ngọn nào sáng nhất.

Đức Phật: Thật ra cây nến con vừa cầm giống như người đàn bà cuối cùng con đang yêu hiện nay, tình yêu nảy sinh từ trái tim, khi con cảm thấy yêu nó, để tâm ngắm nghía, con sẽ thấy nó sáng nhất. Khi con để nó vô chỗ cũ, con lại không tìm được một chút cảm giác sáng nhất. Thứ gọi là tình yêu cuối cùng và duy nhất của con chỉ là hoa trong gương trăng dưới nước, suy cho cùng chỉ là con số không, một cuộc tình trống rỗng.

Người: Con hiểu rồi, không phải Đức phật bảo con phải ly hôn vội vã, Đức Phật đang niệm chú làm cho con ngộ đạo.

Đức Phật: Nhìn thấu sẽ không nói trắng ra, con đi đi!

Người: Bây giờ con đã biết thật sự con yêu ai, người đó chính là vợ con hiện nay, thưa Đức Phật.

Đức Phật: A Di Đà Phật…

LỜI PHẬT DẠY VỀ DUYÊN NỢ TRONG TÌNH YÊU

“Có 1 chàng trai đau khổ vì người yêu bỏ đi lấy chồng. Anh ta đau khổ nên tìm lên chùa và hỏi 1 vị sư thầy.

-Tại sao Con yêu cô ấy nhiều như thế mà cô ấy vẫn đi lấy người khác?

Sư thầy mỉm cười và cho anh chàng xem 1 chiếc gương. Trong đó có hình ảnh 1 cô gái đẹp khỏa thân nằm chết bên đường.

Mọi người đi qua đều bỏ đi…

Chỉ có 1 anh chàng dừng lại nhưng cũng chỉ đắp cho cô gái ấy 1 cái áo rồi cũng bỏ đi.

Mãi sau có 1 chàng trai khác đến và đem xác cô gái đi chôn.

Sư thầy nhìn anh chàng và nói:

-Kiếp trước anh mới chỉ là người đắp áo cho cô ấy thôi. Còn người chồng cô ấy lấy bây giờ chính là người kiếp trước đã chôn cô ấy,đó chính là chữ NỢ, anh chỉ có DUYÊN với người Con gái ấy thôi!”

Phật nói rằng, cuộc sống con người chỉ là một giai đoạn trong dòng chảy luân hồi. Kiếp này nối tiếp kiếp khác, thừa hưởng và kế thừa lẫn NỢ nhau. Con người gặp nhau là bởi chữ DUYÊN, sống và yêu nhau là bởi chữ NỢ . Nhiều cặp Vợ chồng, đôi lứa đang sống với nhau mà một trong hai người bỗng có tình cảm với người khác, dẫn đến chuyện chia tay. Những người dung tục sẽ nói người kia là trăng hoa, đểu cáng… nhưng thật ra đó chỉ là người ta đã trả xong nợ và đã đến lúc phải rời đi. Chuyện tình cảm không thể níu kéo được.



Xem chi tiết: http://xuangiao.com/duyen-no-va-loi-phat-day-trong-tinh-yeu-dang-suy-ngam.html#ixzz48VLJLH00

Bàn về “Biên Giới Thù Hận” giữa người Quốc gia và người Quốc gia






Phỏng thể năm 1975, miền Nam chiến thắng được miền Bắc thì người Quốc gia có đối xử với người miền Bắc như người Cộng sản đã đối xử với người miền Nam hay không? Đặc biệt là có bắt “nguỵ quân, nguỵ quyền” đi cải tạo hay không?

Theo tôi thì người Quốc gia hẳn đã trả thù người Cộng sản và người miền Bắc cũng mãnh liệt, tàn ác, khủng bố, đâu có thua gì người Cộng sản. Tôi nói vậy vì suốt 30 năm chiến tranh giữa người Quốc gia với nhau, giữa người cùng một chiến tuyến mà còn đàn áp, khủng bố, bốc lột lẫn nhau, còn những trại giam như trại Chín Hầm, trại giam P42 ở Sở Thú, còn trói người yêu nước ném xuống sông Nhà Bè, còn độc quyền buôn gạo, buôn gỗ, buôn phân, buôn quế, buôn cát, buôn yến sào, buôn thuốc Tây, buôn thuốc phiện. Còn hàng ngàn trại giam khắp cả nước mà rất đông kẻ bị giam suốt mấy năm trời không được đưa ra toà án xét xử, (tr.141) nhiều kẻ bị thủ tiêu như cuốn Đảng Cần Lao của Chu Bằng Lĩnh mô tả, v.v...Do đó, chắc chắn nếu(tôi nhấn mạnh, nếu) miền Nam chiến thắng miền Bắc, người Quốc gia sẽ trả thù, sẽ gây ra biết bao tội ác cho người Cộng sản, cho dân chúng miền Bắc.



Nhân đọc bài: “Những chén trà uống cho con người” của ông Phạm Gia Hòa từng là sĩ quan trong quân đội VNCH, trong tạp chí Người Dân Thầm Lặng (số 50, tháng 10/1994) bàn về “Biên giới thù hận”, hai trường hợp đã làm cho tôi chú ý.



Trường hợp thứ nhất là vụ một viên hạ sĩ quan kế toán biết chia phần số “tiền người chết” cho đến việc chia phần “ngủ với vợ” người chết để hoàn thành thủ tục giấy tờ sớm cho một quả phụ khốn nạn của một quân nhân.

Trường hợp thứ hai là việc các sĩ quan cao cấp của miền Nam đã lợi dụng chức vụ, thế lực để ép hay dụ vợ của sĩ quan thuộc cấp phải “hủ hoá” với mình.

Sau đó ông Phạm Gia Hòa kết luận:

“Giữa những nạn nhân và kẻ bốc lột, đàn áp họ chắc hẳn phải có một biến giới nào đó. Và cái biên giới này có dẫn đến thù hận thì cũng chẳng phải là điều khó hiểu”

Giữa người cùng một hàng ngũ quân đội VNCH mà còn có biên giới thù hận như thế huống chi giữa người VNCH với người Cộng sản, giữa người miền Nam và miền Bắc.

Trước hết tôi xin khen ông Phạm Gia Hòa đã có can đảm vì trước một không khí chống Cộng“bằng mồm” rất ồn ào mà ông dám nêu lên những sự thực, nhưng tôi thấy ông Hòa chỉ mới nói được một phần nhỏ sự thực mà thôi. Nếu ông Hòa biết như dân Huế đã rõ việc Ngô Đình Cẩn (tr.142) em ruột Tổng Thống Diệm bắt giam hàng trăm người nhà giầu, một số bị giết để làm tiền rồi bắt vợ họ đến tư dinh để hú hoá. Nếu ông Hòa còn nhớ vụ một ông tướng Tư lệnh Sư đoàn cho binh lính đi bắt con gái nhà lành của dân về hãm hiếp và cũng chính ông tướng này đã bị tai tiếng về cái chết của ông tướng Tư lệnh Phó của ông ta, mà người ta cho rằng, ông ta là thủ phạm để phi tang vụ ông ta tham nhũng v.v...Nếu ông Hòa còn nhớ vụ đạo quân của Tướng Đỗ Cao Trí qua Cao Miên giúp nước bạn chống Cộng, nhưng đã không giúp đỡ được gì mà binh lính chỉ lo đi phá chùa, cướp tượng vàng, chỉ lo cho thiết giáp đi vây bắt hàng ngàn con bò và cướp của dân chúng hàng trăm chiếc xe Mercedes đem về Tây Ninh chia chác nhau, đến độ một tờ báo Mỹ đã gọi lính Việt Nam Cộng Hòa là... “cọp đói”. Và nếu ông Hòa còn nhớ đội quân Cao nguyên triệt thoái từ Pleiku về khi ngang qua các thành phố Tuy Hòa, Nha Trang, Phan Rang, Phan Thiết cướp bóc đốt phá nhà dân chúng cho đến khi Đại tá Nghĩa, Tỉnh Trưởng Bình Thuận (hiện ở Hoa Kỳ), cho xe tăng và phái binh chận lại, tước khí giới mới thôi, thì ông Hòa sẽ thấy biên giới thù hận giữa người Quốc gia và người Quốc gia còn chất ngất như núi cao. Thử hỏi đối với người cùng một chiến tuyến mà lính Việt Nam Cộng Hòa còn gây ra biết bao trò như thế, thử hỏi đánh chiếm được miền Bắc, người Quốc gia còn đối xử ra sao với người Cộng sản và dân chúng miền Bắc.



Trich TÂM THƯ ĐỖ MẬU “Ta Về Ta Tắm Ao Ta”

Dân chủ thời Việt Nam Cộng Hòa - tìm thấy trong một bài báo


8 thỉnh cầu của một giáo viên gửi bộ trưởng Bộ GD-ĐT




TTO - Tuổi Trẻ xin giới thiệu bài viết của cô giáo Hoàng Thị Thu Hiền, hiện đang giảng dạy tại một trường THPT ở TP.HCM. Bài viết này chính là lá thư cô nhờ 
Tuổi Trẻ chuyển đến tân Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Phùng Xuân Nhạ.


Nhiều học sinh suốt ngày bị giam trong cái “vòng kim cô” của việc học - Ảnh: Như Hùng

Ngành giáo dục của chúng ta phải giáo dục được cho học sinh lòng tự trọng. Bởi có tự trọng thì con người sẽ hạn chế làm điều ác, điều xấu, ra đời sẽ không tham ô, tham nhũng, không chạy chức chạy quyền bằng mọi giá, không vì quyền lợi của mình mà giẫm đạp lên người khác




Thưa Bộ trưởng,
1. Xin Bộ trưởng hãy nhìn vào học sinh lớp 12 trong giờ học. Có được một kẽ hở thời gian nào là các em gục xuống bàn ngủ ngay bất cứ lúc nào. Những gương mặt hốc hác, mệt mỏi, bơ phờ vì thiếu ngủ, vì phải học quá nhiều.
Học ở trường, học thêm ở các trung tâm và thầy cô; học ở nhà; học từ sáng đến tối không kịp ăn, không được ngủ. Học như điên như khùng, để rồi khi thi xong thì chẳng nhớ gì. Ôm mớ kiến thức ôm đồm, nhưng ra đời chẳng áp dụng được bao nhiêu.
Suốt ngày các em bị giam trong cái “vòng kim cô” của việc học, mà không biết những gì đang xảy ra xung quanh mình. Nếu có biết cũng chỉ lơ mơ vì không có thời gian. Nhận thức các vấn đề xã hội một cách ấu trĩ.
Để rồi khi ra đời các em lại thiếu những kỹ năng cần thiết nhất: kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp ứng xử, không biết cách bảo vệ mình; không biết bênh vực cái tốt. Và trước cái ác, cái xấu cũng không dám lên tiếng phản đối.
2. Xin Bộ trưởng chấm dứt nỗi lo sợ cho giáo viên, học sinh và cả phụ huynh nữa bởi sự thay đổi liên tục trong giáo dục, đặc biệt là trong thi cử. Hãy cho chúng tôi sự yên lòng. Đừng có năm nay thi kiểu này, năm sau thi kiểu khác.
Dạy học theo “Nghiên cứu bài học” chưa đâu vào đâu lại chuyển sang “Tích hợp liên môn”, rồi phương pháp “Bàn tay nặn bột”. Liệu sau đó có còn phương pháp “nhào bột”, “làm bánh” nữa hay không?
Mà tất cả những thay đổi ấy, bộ chỉ phán một cách chung chung về lý thuyết, còn nữa là giáo viên tự bơi, và mỗi nơi bơi một kiểu, có nơi bơi được có nơi bị chìm.
3. Xin Bộ trưởng hãy mở rộng cơ chế bổ nhiệm đội ngũ quản lý. Hãy để cho tất cả giáo viên có quyền thật sự được lựa chọn hiệu trưởng của trường, và quyền được ứng cử vào vị trí mà họ thấy phù hợp. Miễn rằng họ có đủ năng lực, uy tín và đề án của họ thuyết phục mọi người, mà không bị ràng buộc bởi các tiêu chí: bằng cấp, cơ cấu, đảng viên...đặc biệt là “được lòng” cấp trên.
Một người hiệu trưởng có tầm, có tâm, có tài sẽ tạo ra sự bứt phá ngoạn mục, làm thay đổi bộ mặt của một ngôi trường.
Hiện nay, có rất nhiều hiệu trưởng tư duy già nua cũ kỹ, bảo thủ, ngại đổi mới, đi theo lối mòn đã từ mấy chục năm về trước. Trong lúc giáo dục đang thời kỳ toàn cầu hóa, đang thay đổi từng ngày mà họ vẫn “bình chân như vại”, ngồi yên chễm chệ trên “ngai” của mình.
Bên cạnh đó, Bộ trưởng cũng hãy cho các hiệu trưởng khoảng tự do cần thiết để họ đổi mới sáng tạo. Đừng bảo họ bay lên trong khi đôi cánh đã bị buộc chặt.
Và cũng rất không nên để tình trạng mỗi khi đã làm hiệu trưởng có nghĩa sẽ làm suốt đời, đến khi về hưu mà không có hình thức “buộc thôi chức”. Chính điều này dẫn tới tâm lý an phận.
Thực tế là mọi sự đổi mới của một hiệu trưởng chỉ tập trung trong vài ba năm đầu, còn sau đó là “lối cũ ta về”.
Cho nên, để một người làm hiệu trưởng tại một trường tới 15 - 20 năm đó là một sự kìm hãm, thậm chí là một thảm họa.
Cần có sự luân chuyển hiệu trưởng tới nhiều loại trường khác nhau. Không nên để một người làm hiệu trưởng quá 2 nhiệm kỳ tại một nơi, và mỗi nhiệm kỳ tối đa chỉ nên 4 năm.
Có vậy mới chứng minh được thực tài hay yếu kém, và họ mới nỗ lực phấn đấu hết mình.
Ngay cả đối với giáo viên, các tổ trưởng chuyên môn cũng nên có sự luân chuyển như thế thì mới phát huy được tiềm năng ẩn chứa trong mỗi người. Phải đặt họ vào hoàn cảnh luôn phải đổi mới, phải thích nghi.
4. Thưa Bộ trưởng, có cần phải duy trì quá nhiều sổ sách như vậy cho mỗi giáo viên hay không? Mà trong đó rất nhiều cuốn chủ yếu để “hành là chính”: sổ báo giảng, sổ tự bồi dưỡng, sổ ghi chép...
Hằng năm, tất cả các giáo viên đều phải trải qua kiểm tra giáo án, kể cả giáo viên mới ra trường và giáo viên sắp về hưu. Sự cào bằng này làm mất tính sư phạm và sự tôn trọng đối với thầy cô lớn tuổi có kinh nghiệm lâu năm trong nghề.
Và nhất là làm cho giáo viên có cảm giác họ bị quản lý như học trò, chứ không phải thầy cô.
Hiệu quả làm việc của một giáo viên là ở chất lượng giờ dạy, là sự tâm huyết với nghề, chứ đâu phải ở những cuốn sổ kia.
Chưa kể thời đại công nghệ, mỗi giáo viên có cách lưu trữ tài liệu theo cách riêng của mình. Đâu nhất thiết phải ghi chép ra sổ sách?
Giáo viên giỏi là tất cả các giáo án phải nằm trong đầu, chứ không phải ở trên những trang giấy.
Hãy đánh giá giáo viên ở phương pháp làm việc giỏi, chứ không phải ghi chép giỏi như kiểu thi “vở sạch chữ đẹp”!
5. Xin Bộ trưởng hãy nhân rộng những sáng kiến, kinh nghiệm hay trong ngành để các trường, các sở kịp thời học hỏi lẫn nhau. Thời đại công nghệ thông tin nhưng vẫn tồn tại tình trạng “đèn nhà ai nhà nấy rạng”.
Ví dụ như sáng kiến “Thư viện xanh” của tỉnh Lâm Đồng - đưa thư viện lưu động ra ngay giữa sân trường, hay là đề thi trắc nghiệm của Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2015... đều rất tuyệt.
Tuy nhiên những điều này ít người biết và không được nhân rộng. Rất uổng phí.
6. Xin Bộ trưởng hãy tăng thêm chế độ đãi ngộ cho những giáo viên ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo; những giáo viên đang cắm bản để bám lớp, bám trường; những giáo viên đến trường phải đu dây hay trầm mình qua suối; những giáo viên mà trong cái nóng nực của mùa hè, một tháng họ chỉ được tắm gội có 2 lần vì không đủ nước; những giáo viên phải dạy ở những ngôi trường chỉ có nhà tranh vách đất, không điện, không nước, mỗi lớp chỉ có chục học sinh nhưng lại đủ các loại lớp khác nhau...
Thực sự họ là những người anh hùng của thời đại mới. Họ xứng đáng được đãi ngộ và tôn vinh.
7. Thưa Bộ trưởng, một thực tế ai cũng thấy là chương trình đại học của chúng ta hiện nay có đến 30% môn học không cần thiết. Với cương vị Bộ trưởng, ông có dám mạnh dạn bỏ những bộ môn đó, thay bằng những bộ môn chuyên ngành hữu dụng? Để khi ra trường sinh viên không đến nỗi thất nghiệp nhiều như hiện nay, vì một phần rất lớn là do chất lượng đào tạo quá yếu kém.
8. Trong mọi sự giáo dục thì giáo dục nhân cách con người vẫn là yếu tố hàng đầu. Việc quá thiên lệch về nhồi nhét kiến thức, coi nhẹ giáo dục đạo đức của ngành giáo dục mấy chục năm nay đã thấy được hệ lụy của nó.
Thưa Bộ trưởng, ngành giáo dục của chúng ta phải giáo dục được cho học sinh lòng tự trọng. Bởi có tự trọng thì con người sẽ hạn chế làm điều ác, điều xấu, ra đời sẽ không tham ô, tham nhũng, không chạy chức chạy quyền bằng mọi giá, không vì quyền lợi của mình mà giẫm đạp lên người khác. Những hình ảnh xấu xí của người Việt hiện nay phần lớn cũng do thiếu tự trọng mà ra

HOÀNG THỊ THU HIỀN

EM VỀ TỰA LẠI BỜ VAI




Đêm bức bối
bầu trời co giựt
tia chớp chẻ đôi
rạch ròi mê- tỉnh
ta giật mình nuốt trọn thinh âm...


Bao nhiêu năm lặng thầm cô phận
bỗng lại thèm vó ngựa tang bồng
mưa rền rã tự do vẫy gọi
tình yêu ta chôn giấu xé mộ bình an

Một thuở ngang tàng thảo nguyên bát ngát
mênh mông gió lộng thả sức bay
cánh đồng cúc dại hoa bướm say
tàn phai rực rỡ bọc thây da trời

Dương cung bắn nát mặt trời giả dối
trả lại muôn loài ánh sáng sinh sôi
sự thật ngập tràn thảo nguyên hôn phối
vầng trăng nở tròn vẽ đẹp Hằng Nga

Mưa rạo rực hất tung cánh cửa
em hiện thân về tựa lại bờ vai...

Du trung quốc- giá 500k-ĐT 0974548883.






Du trung quốc- giá 500k-ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh