Thứ Năm, 5 tháng 5, 2016

kim thanh mai - giá 750k



ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh

TIẾN TỚI MỘT NỀN NHÂN BẢN TOÀN DIỆN






BẢN CHẤT NỀN TRIẾT HỌC ĐÔNG PHƯƠNG
DẪN NHẬP


Vào thời kỳ giữa hai Thế Chiến mà Phùng Hữu Lan có lần so sánh với tình trạng hỗn loạn của thời Chiến Quốc bên Tàu, một Hội Nghị Thế Giới về Triết Học đã được tổ chức lần đầu tiên vào năm 1939 tại Đại Học Hawaii với sự đóng góp của các nhà khoa bảng hay tư tưởng gia hàng đầu thời đó như D.T. Suzuki thuộc Đại Học Kyoto, W.E. Hocking thuộc Đại Học Harvard……..dưới sự Chủ Tọa của C.A. Moore thuộc Đại Học Hawaii. Hội Nghị đặc biệt chú ý đến Ý Nghĩa và Vai Trò của nền Triết Học Đông Phương đối với người Tây Phương. Mục tiêu nhắm đến là sửa soạn cho mai hậu sự ra đời của một nền Triết Học Thế Giới bằng một Tổng Hợp về mặt Tư Tưởng lẫn Cứu Cánh của hai nền Triết Học Đông-Tây. Hội Nghị cho rằng Tây Phương cần có những viễn cảnh mới mẻ và rộng lớn hơn mà Đông Phương có thể cung cấp nguồn hứng chung cũng như những chủ thuyết riêng cho một cuộc Phục Hưng Tư Tưởng của Nhân Loại.

I) VÀI NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA NỀN TRIẾT HỌC ĐÔNG PHƯƠNG

A) TÍNH ĐA DẠNG, PHỨC TẠP VÀ PHONG PHÚ

Tuy nhiên, công việc nêu trên cũng không dễ thực hiện có lẽ vì hai lý do sau đây:

– thứ nhất tính chất Đa Dạng, Phức Tạp, Phong Phú của nền Triết Học Đông Phương

– thứ hai, Hội Nghị cố tránh thái độ vội vã cũng như khuynh hướng giản dị hóa quá mức trong việc tìm hiểu và đúc kết nội dung của nền Tư Tưởng Đông Phương, là điều có thể gây ra về phía người Tây Phương sự thiếu trân trọng cần có hay ít nhất giảm thiểu những thành kiến, hiểu lầm có khi đạt tới trình độ trầm trọng đáng tiếc đối với nền Tư Tưởng Đông Phương.

Tính chất Phong Phú, Phức Tạp của Tư Tưởng Đông Phương được thấy qua địa bàn rộng lớn của các khuynh hướng Triết Học đôi khi trái nghịch nhau bao gồm các chủ nghĩa Duy Vật hay Duy Khoái Lạc hiện hữu song song với chủ nghĩa Duy Linh của khuynh hướng Nhất Nguyên tuyệt đối cùng với chủ nghĩa Khổ Hạnh tột cùng. Ở đây ta thấy sư có mặt ở cạnh nhau của các chủ nghĩa Tiêu Cực và Tích Cực, Khổ Hạnh xuất thế đi kèm với Hưởng Lạc nhập thế, Nhất Nguyên đi cùng với Nhị Nguyên theo đường lối Cá Nhân chủ nghĩa, nhu cầu Tôn Giáo hiện hữu bên cạnh khuynh hướng Vô Thần hoặc chủ trương “bất khả tri”…..Tóm lại, trong thực tế không thể giản lược hóa nền Triết Học Đông Phương vào một khuynh hướng hay một thái độ sống duy nhất. Điều này cũng thật đối với Tây Phương.

Thật vậy, không những Tư Tưởng Trung Hoa hay Viễn Đông khác với Tư Tưởng Ấn Độ: vấn đề này sẽ được đề cập ở phần sau. Ngay trong nền Triết Học Ấn Độ, bên cạnh Ấn Độ giáo có nhiều hệ phái khác như Charvaka, Janism và Phật Giáo. Trong lòng Ấn Độ giáo, ta gặp nhiều khuynh hướng: không những Vedanta mà còn có Sankhya, Yoga, Mimamsa, Nyaya và Vaiseshika. Ngay Vedanta còn bao gồm nhiều quan điểm khác nhau như của Badarayana, Sankara và Ramanuja…..v.v…..Trong lòng Phật Giáo có sự hiện hữu song song của các khuynh hướng khác nhau như Hiện Thực vời Tương Đối, khuynh hướng Duy Tâm với quan điểm Hư Vô…..v.v….. cũng như tình trạng bất đồng về phương diện Giáo Lý giữa hai hệ phái Tiểu Thừa và Đại Thừa.

Trung Hoa cũng “trình làng” với một “bộ mặt” phức tạp không kém. Nho Giáo với Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử và nhiều nhân vật khác, Đạo Giáo với Dương Chu, Lão Tử, Trang Tử và nhiều người khác, Mặc Giáo, chủ nghĩa Khoái Lạc với Dương Chu và một vài tác giả “khuyết danh” cùng với Tân Nho Giáo ở đời Tống với Chu Hy, đời Minh với Vương Dương Minh và nhiều tác giả khác. Đó là chưa kể đến những cố gắng phát triển và thích nghi của Phật Giáo với môi trường Trung Hoa và Viễn Đông và vô số các cuộc thử nghiệm nhằm Tổng Hợp các khuynh hướng đương thời về mặt Văn Hóa lẫn Triết Học xảy ra ở Trung Hoa vào thời Trung Cổ…..

B) CÁC KHUYNH HƯỚNG TƯ TƯỞNG NỔI BẬT ĐÔNG-TÂY

Ts Shastri trong tác phẩm “The Essentials of Eastern Philosophy” có đề cập đến tinh thần Hoạt Động làm nên chính tinh hoa của đời sống theo quan điểm của người Tây Phương. Ông tiếp tục công việc tổng quát hóa và đưa ra kết luận sau đây :“Văn Minh Tây Phương thực ra là hiện thân của sự Thần Thánh hóa của lòng Ham Muốn” có tính cách “vô hồn, phi tôn giáo và giả tạo” cũng như “quá nhấn mạnh đến con người Cá Nhân”.

Theo Gs C.A. Moore, câu tuyên bố trên của Shastri quá đơn giản để trở thành chính xác. Tuy nhiên theo ông, đặc biệt trong công việc so sánh hai nền Văn Hóa Tư Tưởng Đông-Tây, các yếu tố về nền Văn Minh Tây Phương mà tác giả Shastri có đề cập ở trên là những điều mà người nghiên cứu phải chọn để làm điểm NHẤN MẠNH, mặc dầu trong dòng lịch sử của Tư Tưởng và Văn Minh Tây Phương có nhiều khuynh hướng khác đi ngược lại với quan điểm nêu trên.

Tóm lại, Đông Phương- cũng như Tây Phương- đã biết đến hầu hết các khuynh hướng Triết Học về Đời Sống như Tích Cực và Tiêu Cực, Khoái Lạc và Khổ Hạnh, Nhập Thế và Xuất Thế, Tôn Giáo và Phi tôn giáo, Nhất Nguyên và Đa Nguyên…..v.v…..Bên Đông Phương-cũng như bên Tây Phương- vài Chủ Trương hay Thái Độ Sống tiếp tục tồn tại trong khi các chủ trương khác biến mất theo dòng thời gian. Các chủ trương được tiếp tục bên Đông Phương bao gồm Ấn Độ giáo (đặc biệt trường phái Vedanta theo khuynh hướng của Sankara) , Phật Giáo và Nho Giáo là những trường phái đã chiếm được Ưu Thế, trong khi các khuynh hướng Triết Học khác tương đối đã bị mất ảnh hưởng.

C) HỘI NGHỊ KẾT LUẬN VỀ ĐẶC TRƯNG CỦA TƯ TƯỞNG ĐÔNG PHƯƠNG

1) VỊ TRÍ ƯU TIÊN CỦA THỰC NGHIỆM TRÊN LÝ THUYẾT
a) ĐẠI CƯƠNG

Có một điểm Đặc Trưng có thể làm mẫu số chung cho toàn thể các khuynh hướng của nền Tư Tưởng Đông Phương là cuối cùng mọi nền Triết Học phải nhắm đến mục tiêu THỰC TIỄN. Hệ luận được rút ra là Đạo Đức học hay Triết Lý Nhân Sinh phải làm nền tảng cho Triết Học, và Lý Thuyết chỉ được biện minh qua vai trò hướng dẫn Thực Nghiệm mà thôi!

Mới xem qua có vẻ là điều nghịch lý, nhụng Triết ĐÔNG có tính chất “Thực Tiễn” một cách sâu đậm trong tinh thần cũng như trên thực tế, còn Triết TÂY thì ngược lại. Là vì theo quan điểm Đông Phương, Triết phải gắn liền với Đời Sống và những vấn đè của nó một cách mật thiết; và bên Đông Phương trước kia hiếm khi, nếu có, xảy ra trường hợp Triết nắm giữ vai trò Hàn Lâm tức chỉ có tính cách thuần túy lý thuyết mà thôi !

Trái lại, từ thời đầu tiên ở Hy Lạp, Triết Tây được phát triển theo đà tiến của sự tò mò của con người, tức theo khuynh hướng “biết để mà biết” mà thôi! Do đó, nội dung Triết Tây thường ít gắn liền với đời sống.
b) ẤN ĐỘ
Lấy một thí dụ cụ thể là Triết Lý của Nhà Phật mà điểm khởi đầu theo nội dung của “Tứ Diệu Đế” là một vấn đề Thực Tiễn : đó là sự Đau Khổ của con người trước Sinh, Bệnh, Lão, Tử……Các việc còn lại theo ‘Tứ Diệu Đế” là tìm ra nguyên nhân gây ra đau khổ, nguyên nhân khiến đau khổ được chấm dứt cũng như tìm ra con đường giúp chấm dứt đau khổ. Tóm lại, tất cả các phân tích về các phương diện Tâm Lý, Siêu Hình, Đạo Đức trong Phật Giáo đều nhắm đến mục tiêu đem lại một giải pháp Thực Tiễn cho vấn đề Đau Khổ được nêu ra ở điểm khởi đầu.

Ấn Độ giáo , bao gồm các trường phái Veda, Upanishad, Bhagavad Gita, và tất cả sáu hệ phái Triết Học, cũng chú ý đến khía cạnh Thực Tiễn. Cũng cùng một cảm thức về tình trạng Đau Khổ trong cuộc sống bình thường của cõi nhân sinh- hay ít nhất cảm nhận rằng đời sống không được đầy đủ như mơ ước- là nguồn gốc của vấn đề đã được đặt ra từ thời Upanishad xuyên qua sáu hệ phái Triết Học, và bao gồm cả trường phái phi chính thống Jainism. Tức cũng theo cùng một mô thức với Phật Giáo trong cùng một vấn đề.

Chẳng hạn theo hệ phái Luận Lý Nyaya: “Đau Đớn, Sinh Nở, Hoạt Động, Sai Lạc, Hiểu Lầm, nếu được triệt tiêu theo thứ tự ngược chiều của các điều nêu trên, sẽ kéo theo trạng thái Giải Thoát khỏi thế giới “ta bà” này, là điều kiện cho niềm Hoan Lạc cao độ được đánh dấu bởi sự Thinh Lặng tối hảo. Một người nhờ dựa vào sự hiểu biết chân thực về 16 phạm trù Triết Học , có thể tránh khỏi các điều hiểu lầm nêu trên. Tóm lại giải pháp Thực Tiễn nhằm đạt được trạng thái Giải Thoát đi kèm với niềm“Hoan Lạc cao độ” vừa nêu trên có thể bắt nguồn theo hệ phái Nyaya, từ sự hiểu biết về bản chất của Thực Tại qua 16 phạm trù của chính hệ phái này. Phần trình bày trên cho ta một thí dụ Điển Hình về phương pháp đặt vấn đề và tìm ra giải pháp của nền Triết Học Ấn Độ.

Đối với các hệ phái Sankhya và Vaiseshika, sự bắt đầu theo nghiã đen của Kinh Điển là nhằm thiết định rằng Đau Khổ là vấn dề cần phải vượt qua. Còn với hệ phái Vedanta, đối tượng của việc tìm kiếm là sự hiểu biết về bản chất của Thần Brahman, mà Thần Brahman vô hạn là đầu mối của niềm Hạnh Phúc tột cùng. Tóm lại, với Vedanta động lực tìm kiếm của hành giả bắt nguồn từ một vấn đề Thực Tiễn là vấn đề Hạnh Phúc.

Với trường phái Yoga, mục tiêu của việc “Tập Trung tinh thần” cũng là để giải thoát khỏi Đau Khổ. Cuối cùng với hệ phái Purva Mimamsa, vấn đề khởi thủy là tìm cách xác định bản chất của “Dharma” (bổn phận), và sự tuân theo cũng như thi hành “Dharma” một cách chân thực sẽ kéo theo sự “Cứu Độ”.

c) TRUNG HOA VÀ VIỄN ĐÔNG

Còn với Nho Giáo và các hệ phái Triết Học khác tại Trung Hoa và Viễn Đông thì đông cơ và mục tiêu Thực Tiễn còn đậm nét hơn nữa. Theo Hồ Thích, các phương pháp Luận Lý và Khoa Học của Tây Phương không phải hoàn toàn xa lạ đối với đầu óc của người Trung Hoa và Viễn Đông và có thể tìm thấy trong nội dung lý thuyết của các hệ phái Triết Học không phải Nho Giáo ở các thế kỷ thứ năm, thứ tư và thứ ba trước Công Nguyên.

Có thể tự thân không phải chỉ nhắm vào mục tiêu Thực Tiễn mà thôi, các lý thuyết kể trên xuất hiện ở một trong những trường hợp sau đây: như phải giải quyết một vấn đề Thực Tiễn hay trường hợp hầu như chỉ vì động cơ và mục tiêu thực tiễn hoặc là được giải thích như thế, hay vì lý do lý thuyết bị “bỏ bê” do tính chất không thực tiễn của nó hoặc tại vì khi so sánh, Nho Giáo có tính thực tiễn cao hơn hay là tại vì Nho Giáo nắm giữ ưu thế đối với các nhà Tư Tưởng Trung Hoa và Viễn Đông…..v.v…..

Ngoài ra, lý do xuất hiện của Nho Giáo và các trường phái Triết Học khác cũng là do nhu cầu tìm ra một Giải Đáp cho một vấn đề Thực Tiễn đương thời : đó là tình trạng Hỗn Loạn, Vô Trật Tự cả về mặt Tư Tưởng lẫn điều kiện Sinh Sống của thời kỳ đó. Tuy nhiên cũng đã thấy những dấu chỉ đầu tiên báo hiệu sự xuất hiện của một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của lề lối Suy Tư có tính cách xây dựng.

Triết Học đang trên đường đi tìm ĐẠO cũng có nghĩa là tìm con đường hay phương pháp thích hợp cho đời sống cá nhân, nhu cầu xã hội, hoạt động công cộng và sinh hoạt chính quyền nhằm mục tiêu tiến tới một Thế Giới trật tự hơn, hiểu biết hơn, tốt đẹp hơn !

Hơn nữa, Nho Giáo với vai trò lãnh đạo Tư Tưởng ở Trung Hoa và Viễn Đông là một Chủ Thuyết hướng về hành đông Thực Tiễn. Và Khổng Tử có lối tiếp cận rất Khoa Học trong việc xây đắp các lý thuyết của mình. Tuy nhiên có lẽ vì Khổng Tử hướng nhiều đến khía cạnh Nhân Bản với đủ mọi mối liên hệ phức tạp trong xã hội con người, do đó Ông không có đủ thì giờ phát triển tối đa khía cạnh Khoa Học trong Học Thuyết của mình chăng ?

Một người kế thừa Khổng Tử là Tuân Tử , đại diện cho khía cạnh THỰC TIỄN của Nho Giáo còn đi xa hơn Ông về phương diện này với chủ trương Chinh Phục và Sử Dụng Thiên Nhiên cho mục tiêu phục vụ con người thay vì dừng lại ở khía cạnh tìm hiểu Thiên Nhiên một cách vô vị lợi !

Khổng Tử còn phát triển thuyết Chính Danh của mình theo một đường lối rất Thực Tiễn của một lý thuyết về Tổ Chức và Cải Thiện xã hội . Tính chất Nhân Bản và Thực Tiễn của Chủ Thuyết không chỉ hiện hữu ở thời kỳ khởi thủy của Nho Giáo mà còn tiếp tục suốt dòng Lịch Sử cho đến tận Thời Mới với nội dung và phương pháp được trình bày một cách súc tích và đầy đủ trong sách “Đạo Học”.

Ngoài Nho Giáo thì bản chất của các trường phái còn lại như Lão Giáo, Mặc Giáo, Âm Dương, Danh Gia, Pháp Gia cũng đều hướng về khía cạnh Thực Tiễn. Lão Giáo so với các trường phái khác, tuy có vẻ “Siêu Hình” hơn cũng đi tìm Đạo như Nho Giáo tức tìm một con đường Thực Tiễn nhằm giải quyết tình trạng Hỗn Loạn về cả mặt Tư Tưởng lẫn điều kiện Sinh Sống của thời ấy. Giải pháp được Lão Tử đề nghị xuất hiện dưới hình thức của một loại triết lý “Trở Về Với Thiên Nhiên” nhằm phê bình chủ trương Nhân Nghĩa, Lễ Nhạc….. của Nho Giáo.

Dương Chu tuy trên nguyên tắc đồng ý với các Nguyên Lý Siêu Hình mà Lão Tử đã đề ra, nhưng lại có một lối giải thích khá khác biệt với Lão Tử trong việc áp dụng lý thuyết vào một vấn đề Thực Tiễn : thuyết “Vị Ngã” của Dương Chu có “dáng dấp” ít nhất một nửa của chủ nghĩa “Duy Khoái Lạc” (semi.hedonistic) của Tây Phương! Còn Trang Tử thì phát triển một hình thái Huyền Niệm có vẻ cùng cực cùng với một lý thuyết về tính Tương Đối của các khái niệm, nên đi xa hơn Lão Tử về phương diện này Tuy nhiên, Trang Tử vẫn còn giữ lại khía cạnh Thực Tiễn của Thầy mình trong việc giải quyết các vấn đề như được chứng minh qua nội dung của bảy chương căn bản nhất trong tác phẩm của Trang Tử.

Mặc Tử ngược lại, có đầu óc rất Thực Tiễn cả về mặt lý thuyết lẫn thực tế với chủ trương ‘Kiêm Ái” cùng với quan niệm của ông này về Của Cải và Dân Số như la tài sản quý báu nhất của một xã hội. Trong phép “Tam Biểu” của ông gồm ba biểu là “gốc, nguyên và dụng” , về “Dụng” là biểu quan trọng hơn cả, Mặc Tử chủ trương rằng “phải đưa ra làm việc hình chính xem có LỢI cho nhà nước trăm họ hay không ?” Rõ ràng là Mặc Tử với chủ trương “Duy Lợi” nêu trên rất hướng về khía cạnh Thực Tiễn và Ích Dụng của vấn đề!

Ngay các Danh Gia như Huệ Thí với câu tuyên bố “hãy yêu mọi vật bằng nhau vì vũ trụ là Một” cũng có vẻ nhắm vào một mục tiêu Thực Tiễn về mặt Chính Trị là dùng Siêu Hình và Luận Lý để biện minh cho thuyết “Kiêm Ái” của Mặc Tử! Còn phái “Âm Dương gia” thì chú ý tới khía cạnh Thực Tiễn như là một phương pháp Bói Toán hơn là khía cạnh Triết Lý! Cuối cùng, mối bận tâm của phe Pháp Gia có vẻ là đem lại Trật Tự thực tiễn cho xã hội bằng các phương tiện Pháp Lý chăng?.

Nhưng trên hết khía cạnh Thực Tiễn của Tư Tưởng Đông Phương có lẽ được phản ảnh một cách chính yếu qua quan điểm rằng Triết Học không chỉ dành cho một thiểu số Trí Thức, mà trái lại cho đại đa số quần chúng để SỐNG với, mặc dầu trên thực tế, họ chưa hiểu hết ý nghiã của Triết Thuyết. Riêng nhà Triết Học phải cố gắng sống một cuộc đời Đạo Đức cũng như tiếp cận cuộc sống một cách Toàn Diện chứ không chỉ dừng lại ở khía cạnh Trí Thức mà thôi. Lý do là Trí Thức và Thực Tiễn tuy Hai mà MỘT vì người ta sẽ không hiểu hết Chân Lý nếu không thực sống với nó!

2) “VIỄN CẢNH TỐI HẬU”

Ngoài đòi hỏi rằng TRI phải đi đôi với HÀNH, một nét Đặc Trưng khác theo Hội Nghị, là Triết ĐÔNG (Ân Giáo, Phật Giáo, Janism, và có lẽ cả Lão Giáo) rất chú trọng đến tình trạng và vị trí Tối Hậu của con người đối với xã hội và vũ trụ. Và điều trên được phản ảnh qua sự kiện là Giải Thoát (Moksha) luôn là cứu cánh của Ấn Giáo và hệ phái Jainism, cũng như Niết Bàn mới là mục tiêu thực sư của Phật Giáo.

Đường lối giải thích tỏ ra rất là giống nhau giữa các hệ phái liên quan đến bản chất của trạng thái Tối Hậu của người và vật mà Hội Nghị đặt tên là Thực Tại “Liên Tục, Vô Phân Biệt”(Undifferentiated Continuum) thường được mô tả với các từ ngữ như nhất nguyên, phi thế, tiêu cực và dứt bỏ, vượt lên thiện ác, giảm trừ tối đa các sinh hoạt của thế gian, cảm xúc bi quan đối với các giá trị của cõi hiện tượng…..v.v.…..

Tuy nhiên, các điều vừa nêu trên thường xuất phát từ lối giải nghĩa Cực Đoan hiện hữu bên cạnh những lối giải thích KHÁC Ôn Hòa hơn của các hệ phái khác nhau hoặc ngay trong cùng một hệ phái.

3) THỰC TẠI “HAI TẦNG”

Một thí dụ về lối giải thích Ôn Hòa là quan niệm về Thực Tại có “Hai Tầng”: như sự khác biệt giữa “ý kiến và hiểu biết”, “thực tại và biểu hiện”, “thực tại và hiện tượng”…..v.v…..

Ngoài ra, còn có chủ trương của hệ phái Karmayoga đòi hỏi hành giả phải thi hành bổn phận xã hội và đạo đức của mình , nhưng luôn luôn với tinh thần không “bám víu” vào thế giới hiện tượng “ít thật” của sự vật. Quan niệm trên cũng được minh nhiên chấp nhận bởi Phật Giáo, Ấn Giáo và hệ phái Jainism. Mặt khác, lý thuyết về “các tầng” hiểu biết cùng với tinh thần “Karmayoga” cũng được Lão Giáo chấp nhận qua ý nghĩa cao nhất của “Vô Vi” là “không phải là không làm, mà làm theo lẽ Tự Nhiên”.

Để biện minh cho lý thuyết “Hai Tầng” ở trên, có thể đơn cử thí dụ về trường hợp Phật Tổ khi Phật khen ngợi lối sống đạo đức của một Cư Sĩ , hay của Kinh Thần Ca, đại diện cho Ấn Giáo, nhấn mạnh đến các bổn phận và sinh hoạt hàng ngày của hành giả, hay của hệ phái Jainism cho thiết lập một bộ luật Tôn Giáo rất chi tiết dành cho các vị “Chủ Gia Đình”. Tuy nhiên, loại luân lý đạo đức nêu trên, giống như thế giới hiện tượng , chỉ có giá trị rất Tương Đối của một “thực tại hạng nhì” vì tự thân nó không đủ để dẫn dắt hành giả tới cõi Niết Bàn hay trạng thái Giải Thoát thực sự.

4) CHỦ NGHĨA “TIÊU CỰC” (theo định nghĩa của Tây Phương)

Hậu quả của nền Siêu Hình về một Thực Tại “Vô Phân Biệt” hay của tình trạng “Viễn Cảnh Tối Hậu” nêu trên là sự xuất hiện của chủ nghĩa “Tiêu Cực”

Sở dĩ bị gọi là “Tiêu Cực” là vì đứng từ quan điểm của người Tây Phương, chứ người Đông Phương không xem chủ trương của mình là “Tiêu Cực” vì đối với họ, vấn đề chỉ là chuyện từ bỏ một vật có giá trị thấp kém để đạt tới một Thực Tại lớn hơn hay một Giá Trị cao hơn.

Tuy nhiên, nếu như người Tây Phương, xem “Đời là Thực, Đời là chuyện đứng đắn, ” và sẵn sàng đáp “Vâng” với cuộc Đời một cách trọn vẹn, diễn tả Tinh Hoa của một nền triết lý Tích Cực, và nếu “Tích Cực” có nghĩa là chấp nhận cuộc Đời với tất cả hành trang của nó, để mà “sống với” một cách nghiêm chỉnh, một cách đầy đủ trọn vẹn (trong mức có thể), và trong một ý nghĩa nào đó, sống cho chính Cuộc Đời, thì chẳng lạ gì khi các loại thái độ của người Đông Phương đang được bàn đến, ngoại trừ Nho Giáo, bị người Tây Phương xem là “Tiêu Cực”

Nhưng không chỉ có một mà NHIỀU loại thái độ “Tiêu Cực” với những hình thức và mức độ khác nhau ở bên Đông Phương. Thực ra, ít có hệ phái nào đồng ý với nhau trong chi tiết, nhưng một cách chung chung, hầu hết chủ trương rằng phải LÊN ÁN hay ít nhất GIẢM THIỂU các loại sinh hoạt trần tục của Thế Gian này, nhất là thái độ dùng chính chúng như là CỨU CÁNH để biện minh cho chúng!

Trên căn bản của định nghĩa nêu trên, Phật Giáo, Ấn Giáo và có thể cả Lão Giáo, nếu đứng từ căn bản của Chân Lý Tối Hậu, đều có thể gọi là “Tiêu Cực” cả! Quan điểm về trạng thái “Giải Thoát Tối Hậu” giả thiết về sự đánh mất Cá Nhân tính với mọi sự phân biệt đi kèm, cùng với sự Dứt Bỏ cần thiết tùy theo mức độ đòi hỏi của mỗi Giáo Lý. Riêng về các hệ phái xuất phát từ Ấn Độ, thì tiêu chuẩn có thể làm mẫu số chung cho họ về phương diện này có lẽ là sự chấm dứt tiến trình Tái Sinh.

Tuy nhiên, như đà đề cập , thái độ “Tiêu Cực” vừa nêu trên thuộc về loại khuynh hướng có tính cách Cùng Cực, Triệt Để. Còn có một loại “Tiêu Cực” ÔN HÒA hơn được thấy qua chủ trương của hệ phái Karmayoga nhằm dung hòa hai thái độ mới xem có vẻ mâu thuẫn nhau :

_ Thái độ về “Karma” tức một loại “Triết Lý về Hành Động” nhằm áp dụng trong thế giới hiện tượng tương đối này: đó là chủ trương “có những công việc phải làm vì đó là bổn phận” của hành giả.

_ Thái độ Yoga hay “Tự Kiểm Soát” trước nhất Tâm Trí của mình để có thể hành đông mà không “bám víu” vào hành động và kết quả của nó. Mục tiêu nhắm tới là giúp hành giả giữ được “An Bình trong Tâm Trí”.

Và đó có lẽ không phải là quan niệm Hành Động của nhiều người Tây Phương, do đó họ vẫn giữ một cái nhìn TIÊU CỰC về lối hành động nêu trên của người Đông Phương. Thật vậy, thông thường đối với người Tây Phương, Hành Động thực sự thì phải “năng nổ”, “hoạt náo” có thể đạt tới trình độ Náo Động, là phải luôn luôn tỏ ra Bận Rộn nên câu trả lời chúng ta thường nghe ngày nay là “Tôi không có thì giờ. Bận lắm!”. Với người Tây Phương, Hành Động là để tự phát triển các khả năng tiềm tàng nơi mình và nhắm vào mục đích Thành Công, Danh Lợi, của cải, tiền bạc, “hãnh diện vì được người ta biết đến”, đạt được sự Thích Thú vì mạo hiểm. thử thách…..v.v….. Và đó có lẽ là tất cả Mục Tiêu của nhiều người Tây Phương ngày nay. Vậy nên không lạ gì khi họ xem lối sống của người Đông Phương cách chung là Tiêu Cực, Thụ Động…….Nhưng liệu họ có đạt được Hạnh Phúc với lối sống kiểu trên hay không ?

5) NHẤT NGUYÊN LUẬN

Một điểm khác biệt quan trọng khác giữa hai nền Triết Học Đông-Tây là nói chung, Đông Phương thiên vê “Nhất Nguyên luận”, trong khi Tây Phương thì nhấn mạnh quá đáng đến vai trò của con người Cá Nhân.

Nhất Nguyên luận đi tới chỗ cùng cực của nó, được thể hiện qua hệ phái Vedanta của Sankara xem tính chất “Liên Tục, Vô Phân Biệt” như là Thực Tai Tối Hậu. Chủ trương trên từ chối mọi phân chia hữu hạn, đặc thù bị xem là “không thực” hay “không đáng kể”. Hệ phái này đứng từ quan điểm của “viễn cảnh Tối Hậu” mà hệ quả của lối nhìn đó là các ý nghiã và giá trị của con người Cá Nhân đều bị vượt qua, vì chính cá nhân ấy đã bị ”nhập vào” Thái Nhất. Đó là điều mà nhiều người Tây Phương không chấp nhận.

Để biện minh, người Ấn Độ thường lý luận rằng con người đâu có đánh mất Thực Tại mà trái lại đạt được cõi Vô Biên cho mình. Cũng theo họ, con người đâu có đánh mất cái Ngã, mà Tự Hiện Thực bằng cách đồng hóa cái Ngã của mình với Tuyệt Đối. Tức là triển nở cái Ngã của mình vào cõi Vô Cùng. Do đó “Ta là cái Ấy” theo họ, không có nghĩa Hủy Diệt mà là Hiện Thực !

Trường hợp của Phật Giáo có vẻ khó xác định hơn, nhưng tựu trung cũng nằm trong dòng Triết Lý chủ trương Thực Tại là “Vô Phân Biệt”. Do đó có thể nói lý thuyết của Nhà Phật là Phi Ngã vì quan niệm cho rằng chính ý thức về Bản Ngã là nguồn gốc của Đau Khổ và Ác Nghiệp.

Quan điểm của Lão Giáo về Nhất Nguyên có lẽ ít triệt để hơn Ấn Giáo. Theo Lão, Đạo mới là Thực, là Một, là Nhất Thể. Đạo cũng sinh ra “Đa” nhưng đó chỉ là Biểu Hiện ở bên ngoài mà thôi. Lão từ chối chủ trương “Đa Nguyên siêu hình” vì theo Lão “Đa” không làm nên Thực Tại . Tuy nhiên, đồng thời và có lẽ khác với Ấn Giáo của Sankara, Lão có vẻ không chủ trương rằng ‘Đa” bị “cuốn hút” hoàn toàn vào “Nhất” . Lý do là mỗi cá thể muốn tuân theo Đạo một cách tối hảo nhất, thì trên thực tế phải tuân theo cái Đức, cái Tính của mình. Vì “Đa” do “Nhất” sinh ra, nên có lẽ vì vậy theo Lão không “phi thực”, tuy nhiên “Đa” chỉ ” thực nhất” khi tuân theo Đạo một cách tuyệt đối. Tựu trung, khuynh hướng của Lão là “Nhất Nguyên”, tuy không triệt để như Ấn Giáo.

6) HƯỚNG VỀ TINH THẦN

Một nét Đặc Trưng khác của Triết Học Đông Phương so với Tây Phương theo Hội Nghị, là nói chung Đông Phương thiên về khía cạnh TINH THẦN hơn Tay Phương, theo nghĩa là Đông Phương chú ý đến Ý Nghiã, Giá Trị của Sự Vật hay của Đời Sống hơn là chính Sự Vật và Đời Sống. Tây Phương trái lại có vẻ lo Sống hơn là Suy Nghĩ về Đời Sống!

Do đó, câu tuyên bố ở trên của Ts Shastri có thể hơi quá đáng nhưng cũng có chứa đựng một phần Sự Thật rằng “Văn Minh Tây Phương thực ra là hiện thân của sự Thần Thánh hóa của lòng Ham Muốn” có tính cách “vô hồn, phi tôn giáo và giả tạo” cũng như “quá nhấn mạnh đến con người Cá Nhân”.

Ngoài ra, do hai khuynh hướng Tiếp Cận sự vật và đời sống cũng như lối Nhấn Mạnh khác nhau, thiên về Tinh Thần hơn với Đông Phương và thiên về Vật Chất hơn với Tây Phương mà hệ quả là đưa tới hai lối Giải Thích cũng như hai Thái Độ Sông khácnhau, mặc dầu cả hai đều có một mối bận tâm và loại vấn đề phải giải quyết giống nhau lúc ban đầu.

Hãy lấy thí dụ về vấn đề “chủ nghĩa Khoái Lạc” để tìm hiểu về lối Tiếp Cận khác nhau của đôi bên.

CHỦ NGHĨA KHOÁI LẠC

Trong một nghĩa nào đó, Tư Tưởng Đông Phương cũng có mối liên hệ với khuynh hướng Khoái Lạc (Hedonistic). Chẳng hạn, chủ trương của Ân Giáo một mặt là tìm cách thoát khỏi tình trạng Đau Khổ của thế giới ta bà này bằng một trong hai phương pháp: “Moksha” (= Giải Thoát) hay “Bliss” (= Hoan Lạc với Thần Brahman). Mặt khác Ấn Giáo có vẻ không chú ý tới khía cạnh Đạo Đức, ngoài việc sử dụng Đạo Đức như phương tiện giúp tiến tới mục tiêu “hoan lạc” nêu trên! Phật Giáo cũng nhắm tới mục tiêu Giải Thoát tương tự với cùng đích của hành giả là “nhập Niết Bàn” tức cũng nhắm tới mục tiêu “hoan lạc” như Ấn Giáo. Do đó, ta có thể gọi chủ trương trên ít nhất bằng nhóm chữ “Khoái Lạc Tiêu Cực”!

Trung Hoa và Viễn Đông với quan niệm “Sống Giản Dị và Ham Muốn Vừa Phải” có thể áp dụng cho cả Lão lẫn Nho, cũng là một loại chủ trương “Hưởng Lạc” khác!

Tuy nhiên có một sự Khác Biệt nền tảng giữa quan niệm “Hưởng Lạc” của Đông Phương và chủ nghĩa Khoái Lạc của Tây Phương. Lý do là với Đông Phương, ta có thể áp dụng một lối nhìn KHÁC đối với cả Ấn Giáo lẫn Phật Giáo mà Giáo Lý vừa được trình bày ở phần trên dưới một khía cạnh mà thôi!

Thật vậy, dưới một góc độ khác, “Moksha”(=Giải Thoát) và “Nirvana”(=Niết Bàn) không chỉ có nghĩa là “giải thoát khỏi đau khổ” , mà còn là “giải thoát khỏi các điều kiện hạn chế và phân chia của cõi hiện tượng tương đối. Các trạng thái siêu tuyệt nêu trên là thành quả của công phu tu luyện nhằm đạt được Thực Tại tối hậu: vậy nên, đó không phải là “chủ nghĩa Khoái Lạc” theo nghĩa thông thường! Ngoài ra, Giáo Lý còn đòi hỏi nơi hành giả sự trong sạch Tâm Hồn cũng như thái độ Đạo Đức nơi ý nghĩ, lời nói, hành động nữa!

Điều trên cũng có thể áp dụng cho Trung Hoa, Viễn Đông, Nho Giáo và Lão Giáo !

Trái lại, chủ nghiã Khoái Lạc bên Tây Phương cũng có nghĩa là “Duy Khoái Lạc” và đặt Luân Lý, Đạo Đức trên căn bản của số lượng Khoái Lạc được hưởng thụ. Chủ nghĩa này không công nhận việc từ bỏ hay tiết chế khoái lạc bằng cách nhân danh một giá trị cao hơn!

Đó chính là sự Khác Biệt nền tảng giữa Đông Phương và Tây Phương, giữa lối nhìn TOÀN DIỆN của thế giới Tinh Thần và lối nhìn MỘT CHIỀU của thế giới Vật Chất!

D) VAI TRÒ GIÀN HÒA CỦA NHO GIÁO VỚI CUỘC TỔNG HỢP ĐÔNG-TÂY

Phần trình bày trên đây cho ta thấy là có quá nhiều Khác Biệt giữa hai nền Văn Hóa, Đông-Tây về các khía cạnh lối sống, cảm nghĩ, suy tư…..Khác Biệt có nhiều khi đạt đến mức độ Trái Nghịch nhau nữa. Do đó, có người đặt vấn đề rằng mới dừng lại ở giai đoạn tìm Giải Pháp cho mục tiêu Thông Cảm giữa đôi bên thôi mà đã là chuyện khó khăn rồi, do đó có lẽ khoan vội nói tới việc Giàn Hòa hai nền Tư Tưởng Triết Học nhằm đạt đến một cuộc Tổng Hợp Đông-Tây chăng ?!

Tuy nhiên, nếu nghiên cứu một cách thấu đáo để có một cái nhìn Toàn Diện hơn, thì tình hình có vẻ không dến nổi “u ám “ như vậy! Thật vậy, giữa hai cực Vô của Ấn Độ và Hữu của Tây Phương , con đường thứ Ba với vai trò Giàn Hòa nổi bật của Nho Giáo, nhất là Việt Nho, có vẻ đang “ló dạng” ở phía chân trời Văn Hóa, Triết Học của Nhân Loại! Chúng ta bắt đầu xét lại từng đề mục để xem có vai trò nào được dành cho sự đóng góp của Nho Giáo nói chung và Việt Nho nói riêng chăng?

1) LÝ THUYẾT VÀ THỰC NGHIỆM

Hôi Nghị có nhận xét rất Đúng rằng Triết ĐÔNG nhấn mạnh đến khía cạnh THỤC TIỄN vì quan niệm rằng Triết phải gắn liền với Đời Sống và vai trò của Lý Thuyết chỉ được biện minh như dẫn đường đến Thực Tiễn mà thôi! Tây Phương thì khác vì thiên về khía cạnh “biết để mà biết”.

Có lẽ vào thời rất xa xưa ở Tây Phương, khi Triết Học còn gắn liền với Minh Triết, thì Tây Phương cũng có quan niệm giống như Đông Phương là TRI phải đi đôi với HÀNH. Nhưng Triết Cổ Điển với Socrates chủ trương rằng “Tri” có thể không đi đôi với “Hành” vì chủ trương“biết để mà biết” mà thôi, vì theo Socrates “Biết đã là nhân đức” rồi thì cần gì phải Làm nữa! Thì từ đó, Triết Học trở thành Duy Lý, hàn lâm, xa rời với đời sống cụ thể và các vấn đề của nó. Nhưng ngày nay, với các nhóm Hiện Sinh và Hiện Tượng luận, Tây Phương đã bắt đầu ý thức về sự sai lầm của Socrates và đang tìm cách sửa sai. Riêng Nho Giáo với thuyết “Tam Tài” luôn hướng về Hành Động, và đường lối trên còn được minh nhiên hóa với lý thuyết “Tri Hành Hợp Nhất” của Nho Sĩ Vương Dương Minh nữa.

Về ý nghiã của từ ngữ “Thực Tiễn (practical), Hội Nghị có đưa ra hai lối giải thích:

_ lối thứ nhất áp dụng cho Ấn Giáo : khi nói Ân Giáo thiên về ‘Thực Tiễn” thì phải hiểu rằng Ấn Giáo sử dụng Giáo Lý như là một phương tiện để đạt được mục tiêu Giải Thoát hay Cứu Độ, hoặc Thể Nghiệm tâm linh. Và theo Hội Nghị, ở đây người Tây Phương có thể học hỏi điều này với người Đông Phương rằng các giá trị Tối Hậu như Giải Thoát hay Niết Bàn cũng có thể là Tinh Hoa của Thực Tiễn!

_ Trái lại, ý niệm “Thực Tiễn” có một ý nghĩa khác đối với người Tây Phương: thường hiểu như Hoạt Động, Bận Rộn, tình trạng“ bị nuốt trôi vào cái tức thì, khoảnh khắc”, “thường thiếu đường hướng hay giá trị tối hậu”…….

_ Tóm lại, Ấn Độ có lối nhìn dài hạn đối với ý niệm “Thực Tiễn”, còn lối nhìn của Tây Phương có tính cách ngắn hạn. Cũng theo Hội Nghị, Trung Hoa và Viễn Đông với thuyết Trung Dung có lập trường lành mạnh nhất nên tránh được cả hai khuynh hướng cực đoan của Ấn Độ lẫn Tây Phương. Thật vậy, người Viễn Đông không bận tâm đến vấn đề Giải Thoát, Cứu Độ hay kinh nghiệm Tôn Giáo, cũng không bị “nô lệ” cho những cái hiện tiền, tức thì, trần tục…..

2) VIỄN CẢNH TỐI HẬU VÀ THỰC TẠI “HAI TẦNG”

Đối với phần lớn người Tây Phương thì Đông Phương nói chung và Ấn Độ nói riêng thường có thái độ Cực Đoan trong Triết Học và Tôn Giáo như thói quen đặt vi trí của con người trong “viễn cảnh Tối Hậu” đối với xã hội và vũ trụ hoặc sử dụng những ý niệm cùng cực, triệt để như Giải Thoát, Cứu Độ……

Họ cũng thường không biết là đã có những lối giải thích Ôn Hòa hơn như quan niệm về Thực Tại “Hai Tầng” hoặc lý thuyết về Hành Động của hệ phái Karmayoga chủ trương “làm bổn phận chỉ vì bổn phận mà không “bám víu “ vào gì cả” !

Nhưng mục tiêu của lý thuyết “Thực Tại Hai Tầng” cũng như Karmayoga cũng chỉ là để điều chỉnh tính chất Cùng Cực, Triệt Để, quá đáng của ý niệm“viễn ảnh Tối Hậu” trong Ấn Giáo và các lý thuyết tương tự mà thôi, chứ chưa được dành cho ghế Danh Dự như thuyết TRUNG DUNG của Vương Nho hay AN VI của Việt Nho mà các Nguyên Lý Siêu Hình đã được đặt căn bản từ đợt căn cơ trên thuyết Tam Tài của Dịch Lý. Do đó, Trung Dung hay An Vi mới có khả năng Giàn Hòa được Hữu Vi của Tây Phương và Vô Vi của Ấn Độ.

3) TÍCH CỰC VÀ TIÊU CỰC

Nếu Hữu Vi kéo theo tính “Tích Cực” của người Tây Phương và Vô Vi là nguyên nhân của thái độ “Tiêu Cực” của người Ấn Độ và những người có triết lý Sống tương tự. Và theo Hôi Nghị, Trung Hoa và Viễn Đông mới có thái độ “Trung Dung”.

Tiết Chế, Ôn Hòa, Điều Độ là những nét Đặc Trưng của Trung Hoa và Viễn Đông, mà theo Hội Nghỉ là kết quả tốt đẹp mà ‘Tam Giáo Đồng Nguyên” đã đem lại với “khẩu hiệu” “Sống Giản Dị và Ham Muốn Vừa Phải”. Tuy nhiên, cũng theo Hội Nghị, Lão Giáo có tính cách ‘Tiêu Cực” hơn nhiều khi so với Nho Giáo. Vì mục tiêu của Lão không phải là sống trọn vẹn đầy đủ mà là Sống Thọ và Hài Lòng. Thật là trái ngước với lối sống của người Tây Phương đã được đề cập ở phần trên.

Trái lại, Trung Dung của Nho không có nghĩa là “nửa nạc nửa mỡ” như có người hiểu, mà là, nếu lấy Tâm Lý mà xét, dung hòa Tình với Lý tới mức độ lý tưởng là ‘3 Tình 2 Lý” và dùng Chí để đẩy tương quan nêu trên tới mức “Chí Thiện”. Vì “Quân Tử vô sở bất dụng kỳ cực” có nghĩa là “không làm thì thôi, mà đã làm thì cố gắng làm cho tới nơi tới chốn”.

Do đó, so với Lão, Nho sống tích cực hơn nhiều, vì An Vi là một Triết Lý về Hành Động, nhưng cũng khác với Tây, An Vi là làm vì Nghĩa, chứ không làm vì bị cưỡng bách, vì lợi, vì danh….Do đo, Vương Nho với thuyết Trung Dung, Việt Nho với thuyết An Vi mới có khả năng giàn hòa được Vô Vi của Ấn Giáo và Lão Giáo với Hữu Vi của Tây Phương.(1)

KẾT LUẬN

Phần trình bày trên cho ta thấy lý do tại sao Nho Giáo đã được Hội Nghị Triết Học Thế Giới lần thứ nhất năm 1939 và lần thứ hai năm 1949 chọn để đóng vai trò Giàn Hòa Đông Tây về mặt Tư Tưởng, Triết Học từ tương quan giữa “Lý Thuyết và Thực Tiễn” qua vấn đề“ Viễn Cảnh Tối Hậu và Thực Tại Hai Tầng” đến mối liên hệ giữa hai yếu tố “Tích Cực và Tiêu Cực” trong thái độ Sống cũng như trong các lãnh vực khác….. Đối với tất các vấn đề nêu trên, Vương Nho với thuyết TRUNG DUNG, Việt Nho với thuyết AN VI đã chứng tỏ Khả Năng Siêu Đẳng trong việc Hóa Giải mâu thuẫn, bắt nhịp cầu Thông Cảm giữa Đông và Tây cũng như chỉ tỏ ra cho Nhân Loại Hướng Tiến Chung trong thời gian sắp tới. Do đò, Khổng Tử tỏ ra xứng đáng khi tại Hội Nghị Thế Giới về Triết Học được tổ chức vào năm 1949 tại Honolulu, Ông đã được bầu làm Nhạc Trưởng cho cuộc Hoà Tấu Đông-Tây mai hậu.
Lê Việt Thường


CHÚ THÍCH

(1) Charles A. Moore, “Philosophy – East and West”, Princeton University Press, Second Ptinting, USA, 1946

Trái đất nóng dần nhưng ngày càng xanh hơn



(Theo LiveScience.com)


Mặc dầu hãy còn nhiều tranh luận, nhưng hầu hết giới khoa học bây giờ đều đồng ý rằng khí hậu địa cầu đang ấm lên và sẽ gây nhiều hậu quả tai hại khó lường cho sinh hoạt của nhân loại trong tương lai. Những quan điểm phản bác sự kiện này hầu hết có nguồn gốc từ chính trị hay quyền lợi kinh tế và dần dần tỏ ra bị kém thế.





MẶT ĐỊA CẦU CHỈ CÒN LẠI ÍT NƠI HOÀN TOÀN KHÔNG CÓ CÂY CỎ (KHOẢNG TRẮNG), NHƯ SA MẠC SAHARA, GOBI, Á RẬP, HAY VÙNG BĂNG TUYẾT. (HÌNH: BOSTON UNIVERSITY/R. MYNENI/VIA AP)


Nhưng theo nghiên cứu mới nhất, cùng với tình trạng nhiệt độ tăng lên, trái đất ngày càng xanh hơn. Nhiều vùng xưa kia băng giá bao phủ, đất trơ trụi hay chỉ là hoang mạc bây giờ cây xanh mọc lên. Trong hơn ¼ thế kỷ, từ 1982 đến 2009, cây cỏ che phủ một diện tích ngang với nội địa nước Mỹ.

Cây xanh là tốt với đời sống con người, tuy nhiên hiện tượng ấy đi cùng với những nguy cơ khác, và mọi sự không phải mãi mãi chuyển biến theo chiều hướng hiền hòa như thế. Vì vậy chưa thể biết hậu quả về lâu về dài sẽ như thế nào.

Tình trạng địa cầu ấm dần là do một hiệu ứng tương tự như ở các nhà kiếng để trồng cây. Các loại khí thải công nghệ, nhiều nhất là khí carbonic (CO2) tập trung trong bầu khí quyển tạo nên một lớp gọi là ‘khí nhà kiếng’ ngăn cản bức xạ nhiệt từ mặt đất thoát ra ngoài không gian.

Phản ứng quang hợp, hấp thụ khí carbonic và phối hợp với ánh sáng mặt trời, làm cây cối tạo ra nhựa để sống. Sự gia tăng khí carbonic giúp cho cây cối phát triển mạnh hơn. Chừng 32% diện tích mặt đất có cây cối bao phủ. Ngày nay, mỗi năm, những hoạt động của con người – bao gồm chạy xe, tàu, máy bay và năng lượng tiêu thụ ở các nhà máy – phát ra khoảng 10 tỷ tấn khí carbonic và phân nửa số này được giữ lại trong cây cối.

Zichun Zhu, nhà nghiên cứu thuộc Đại Học Bắc Kinh, nói rằng “sự xanh tươi của cây cỏ có thể làm thay đổi hoàn toàn chu trình chuyển hóa của nước và carbon trong hệ thống khí hậu.”

Đồng tác giả của bản nghiên cứu được đăng trên tạp chí Live Science số phát hành tháng Năm, giáo sư Shilong Piao, phân khoa Khoa Học Đô Thị và Môi Trường, Đại học Bắc Kinh, giải thích: “Nghiên cứu của chúng tôi không đề cập về hiện tượng xanh tốt và lượng carbon tích tụ trong thảo mộc, nhưng các nghiên cứu khác đã cho biết có sự gia tăng carbon trong đất kể từ thập niên 1980 phù hợp với hiện tượng mặt đất xanh tốt hơn.”

Tuy nhiên, chưa rõ mặt đất xanh cây cỏ như các dữ kiện thu được bằng vệ tinh trong những năm gần đây có thể được giải thích bằng sự tập trung khí carbonic trên tầng cao của bầu khí quyển hay không (lượng khí thải tập trung lớn nhất của địa cầu từ 500,000 năm nay). Thêm nữa, mưa, nắng, nitrogen trong đất và việc sử dụng đất đai cũng tác động đến sự phát triển cây cỏ.

Phối hợp tất cả dữ kiện do vệ tinh cung cấp và những mẫu lập ra bằng toán học cũng như mô phỏng của máy điện toán, toán nghiên cứu của Đại Học Bắc Kinh kết luận rằng 70% sự xanh tốt của cây cỏ là do từ khí carbonic tập trung trong bầu khí quyển.

Một đồng tác giả khác, Ranga Myneni, khoa học gia đất và môi trường ở Boston University, nói rằng “tác động quan trọng thứ nhì là nitrogen, ảnh hưởng khoảng 9%. Như vậy có thể thấy rõ vai trò của khí carbonic như thế nào.”

Dù cho cây xanh là đáng mừng, quá nhiều khí thải carbonic vẫn đem đến một loạt hậu quả đáng ngại, bao gồm địa cầu ấm dần, băng tan, nước biển dâng cao và những hiện tượng nguy hiểm trong thời tiết.

Philippe Ciais, phó giám đốc Phòng Thí Nghiệm Khoa Học Khí Hậu và Môi Trường ở Gif-sur-Yvette, Pháp, giải thích thêm: “Những nghiên cứu đã cho thấy cây cối có thể thích nghi, hay điều chỉnh, với tình trạng tập trung khí carbonic và đất kém màu mỡ theo từng thời gian.” (HC)

TỘI ÁC PHẢI BỊ TRỪNG PHẠT







Thành Khương

Theo infonet.vn các ngày 12 và 14/4/2016, từ 3 bài viết của N. Huyền và Tiến Dũng thì mới đây, ngày 7/4/2016 ở Hà Nội đã xảy ra một vụ đe dọa giết nhà báo Nguyễn Thị Thu Trang ( Phóng viên báo Phụ nữ TP. HCM). Có thể tóm tắt vụ việc như sau: Nhà báo Thu Trang – tác giả một loạt bài phóng sự điều tra về đường dây chạy công chức ở Huyện Sóc Sơn, Hà Nội bỗng nhận được tin nhắn trong điện thoại “ đi mua quan tài cho cả gia đình ngay”; nhà báo gọi lại để xác định thực hư thì anh ta dọa tiếp “ Mày đi mua quan tài ngay. Mỗi người một cái. Nhà mày có bao nhiêu người thì mua bấy nhiêu cái”; đồng thời, một nữ giáo viên - người đồng hành với nhà báo Thu Trang trong việc lật tẩy một đường dây chạy công chức kể trên - cũng bị đe dọa tương tự và bị một bọn người lạ mặt tấn công trên đường. Hoảng hốt và sợ hãi, nhà báo Thu Trang đã đến tường trình với Công an TP. Hà Nội đồng thời gửi thư kêu cứu đến Quốc hội, Bộ Giáo dục đào tạo và Bộ công an. Công an Hà Nội đã mời người đó lên làm việc. Đã rõ danh tính người đe dọa nhà báo Thu Trang là trung tá Đàm Hữu Dũng, giảng viên Học viện kỹ thuật quân sự, sinh năm 1972, thường trú tại 212 Tân Xuân, Phường Xuân Đỉnh, Quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội; nhà báo Thu Trang nghĩ lại và có vẻ muốn dung tha cho viên trung tá.
Nếu tất cả sự việc đã diễn ra đúng như vậy thì có vẻ như việc này chẳng nên nói gì thêm cho tốn giấy tốn mực và tốn thì giờ của bạn đọc, vì ở đây đương sự đã xin tha thứ và nhà báo có vẻ muốn dung tha cho anh ta. Có nghĩa là giống như một vụ việc dân sự gần như đã có thể khép lại. Tuy nhiên, tính chất nghiêm trọng của vụ này cũng như đòi hỏi khách quan từ luật pháp và cuộc sống buộc chúng ta phải nhìn nhận nó một cách thấu đáo và tinh tế hơn mới có thể nhận diện bản chất của nó.



Đã phạm tội nghiêm trọng
Với những gì đã xẩy ra như đã kể trên thì hành vi của viên trung tá Đàm Hữu Dũng có dấu hiệu phạm tội đe dọa giết người, được quy định tại điều 103 Bộ luật hình sự. Điều luật như sau:

“ 1. Người nào đe dọa giết người, nếu có căn cứ làm cho người bị đe dọa lo sợ rằng việc đe dọa này sẽ được thực hiện thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Đối với nhiều người;
b) Đối với người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
c) Đối với trẻ em;
d) Để che giấu hoặc trốn tránh việc xử lý về một tội phạm khác.”

(Trích Chương XII Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự con người – Bộ luật hình sự).

Về hành vi khách quan, người phạm tội đã đe dọa giết cả gia đình nhà báo Thu Trang và người nữ giáo viên bằng việc nhắn tin liên tục, có lúc nhắn vào cả hai máy điện thoại của nhà báo, đã nói lời đe dọa trực tiếp trên điện thoại và một bọn giả danh côn đồ đón đường tấn công dằn mặt người giáo viên. Hành vi nguy hiểm ấy đã làm cho người bị đe dọa lo lắng, tin rằng mình có thể bị giết. Căn cứ để nói lên rằng người bị hại hết ức lo lắng, sợ hãi và tin rằng hành vi đe dọa sẽ có thể được thực hiện, là ở chỗ nhà báo Thu Trang đã phải tường trình với Cơ quan công an và gửi thư cầu cứ tới Quốc hội, Bộ Giáo dục đào tạo và Bộ công an. Như vậy những hành vi đó có dấu hiệu vi phạm hai bộ luật: Luật hình sự và Luật báo chí ,và đã ít nhiều ảnh hưởng đến đời sống xã hội - nó phản ánh sự suy đồi đạo đức cá nhân coi rẻ mạng sống con người; nó nhạo báng quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, danh dự, nhân phẩm con người, nhạo báng cả đạo đức và luật pháp .

Mặt khác, hành vi của Đàm Hữu Dũng là tội phạm nghiêm trọng, bởi vì:
- Vi phạm điểm a) Khoản 2 – Phạm tội đối với nhiều người. Ở đây có ít nhất 2 người bị dọa giết: nhà báo Thu Trang và người nữ giáo viên ( Đáng tiếc là ở cả ba bài viết trên infonet đều không nói rõ danh tính của người nữ giáo viên đó nên chúng tôi cũng không thể gọi khác), chưa kể các thành viên gia đình nhà báo ( vì bị dọa mua quan tài cho cả nhà, có bao nhiêu người thì mua bấy nhiêu cái), và cả hai người đó đều tin rằng mình có thể bị giết.
- Vi phạm điểm b), Khoản 2 - Đe dọa giết người thi hành công vụ. Hành vi đe dọa giết người xảy ra ngay sau khi nhà báo Thu Trang công bố vụ chạy công chức, tức là trong thời gian nhà báo đang thi hành công vụ và vì thế nhà báo mới sớm nhận ra người nhắn tin đe dọa là có liên quan đến loạt phóng sự của mình
- Vi phạm điểm d) Khoản 2 - Đe dọa giết người để trốn tránh xử lý về một tội phạm khác. Trước khi có hành vi đe dọa giết người, viên sĩ quan này đã là một trong những đối tượng trong đường dây chạy công chức ( đối tượng mà nhà báo đã suy nghĩ rất nhiều trước khi công bố phóng sự điều tra vụ này), biết rất rõ là mình có thể bị tố cáo trước công luận nên nhắn tin đe dọa hòng che dấu tội lỗi của minh.
(Và như chúng ta thấy ở điều luật, trường hợp phạm tôi đe dọa giết người có mức án cao nhất là 3 tháng đến 3 năm tù giam, nhưng phạm tội nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 2- 7 năm tù).
Nói nghiêm trọng còn vì hành vi của viên trung tá này còn vi phạm Điều 15, tiết đ) Luật báo chí. Điều 15. Quyền và nghĩa vụ của nhà báo quy định như sau:
“…
đ) Được phép bảo hộ trong hoạt động nghề nghiệp. Không ai được đe dọa, uy hiếp tính mạng, xúc phạm danh dự, nhân phẩm nhà báo, phá hủy, thu giữ phương tiện, tài liệu, cản trở nhà báo hoạt động đúng pháp luật” .
(Trích Luật số 12/1999/ QH10 số 12 ngày 12/6/1999 sửa đổi, bổ sung một số điều luật báo chí ).

Cần khởi tố điều tra

Được biết Cơ quan Cảnh sát điều tra CATP. Hà Nội đã mời trung tá Đàm Hữu Dũng lên làm việc, tuy thông tin của tác giả Tiến Dũng chưa cho biết nội dung kết quả buổi làm việc ra sao, nhưng với những phân tích trên đây, chúng tôi cho rằng không thể không khởi tố vụ án hình sự nghiêm trọng này theo Điều 103 Bộ luật hình sự. Bởi vì:
- Tội phạm đe dọa giết người đã rõ: có hành vi nguy hiểm, kẻ gây án đã rõ danh tính, có địa chỉ thường trú và nơi công tác rõ ràng; người bị hại là nhà báo và người nữ giáo viên và hậu quả tác hại đã xảy ra: nhà báo lo sợ hoang mang, người nữ giáo viên đã bị tấn công trên đường.
- Khởi tố điều tra vụ án này không chỉ đáp ứng đòi hỏi khách quan của công luận, đòi hỏi của luật pháp và còn là phản ánh trách nhệm và sự nghiêm túc của cơ quan điều tra trong hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm, trong bảo vệ sự nghiêm minh, công bằng của pháp luật và là góp phần răn đe, phòng ngừa tội phạm.
- Nếu không khởi tố vụ án này ( Chúng tôi xin nhấn mạnh chữ “ Nếu” vì ở thời điểm này chưa có thông tin nào nói lên rằng Cơ quan điều tra Công an TP Hà Nội đã ra quyết định khởi tố vụ án hay chưa) thì Cơ quan cảnh sát điều tra sẽ vi phạm Điều 294 của Bộ luật hình sự, đó là Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội.
Nội dung điều 294 như sau:
“1. Người nào có thẩm quyền mà không truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết là có tội thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Không truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội đặc biệt nghiêm trọng;
b) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười hai năm.
4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm”.
( Trích BLHS, Chương XXII Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp)


Đôi lời cuối bài

Như đã phân tích trên, đây là vụ án hình sự nghiêm trọng, vi phạm luật hình sự và luật báo chí song hiện giờ có những dấu hiệu cho thấy việc xử lý vụ này có thể sẽ đi theo một hướng khác bởi nạn nhân muốn dung tha cho người phạm tội: “ Nói không lo lắng là dối lòng, tôi suy nghĩ đến bạc cả tóc”… “ Vì chị ấy, vì anh đã nhận ra sai lầm của mình. Tôi sẽ tha thứ cho anh và chắc chắn tôi sẽ làm mọi cách để sự tha thứ ấy có ý nghĩa” ( Lời nhà báo Thu Trang nói với phóng viên N. Huyền). Nói cách vụ án hình sự đe dọa giết người này rất có thể sẽ khép lại.
Tôi thực sự ngạc nhiên về việc nhà báo Thu Trang có ý định tha thứ cho kẻ đã dọa giết người và tôi băn khoăn tự hỏi tại sao chị lại có thể mở lòng khoan dung tha thứ cho một đối tượng tội phạm nguy hiểm như vậy? Nếu Thu Trang sẵn lòng tha thứ cho anh ta thì chị cứ việc thực hiện như người ta âm thầm làm việc Thiện, thì đấy là quyền của chị, vậy tại sao hai phóng viên N. Huyền và Tiến Dũng (được chị đồng ý), lại đưa vụ này lên báo chí? Một nhà báo dám dấn thân làm rõ cái xấu, cái hư hỏng để góp phần làm lành mạnh xã hội, vậy tại sao đối với hành vi xấu xa hơn thế, đê hèn hơn thế (thậm chí phải gọi là tội ác mới đúng với tính chất của nó) thì nhà báo Thu Trang bỏ qua? Chị dấn thân vạch trần đường dây chạy công chức ( và cả những phóng sự điều tra trước đó) là để làm gì vậy? Phải chăng, với ba bài viết về vụ này, các nhà báo muốn chuyển đến bạn đọc thông điệp về lòng vị tha, về sự khoan dung của cá nhân nhà báo Thu Trang ?
Chúng ta đang sống trong thời kỳ mà vận nước ngả ngiêng, phận người mong manh. Con người có thể bắt bớ tù đày bất cứ lúc nào, ở đâu. Người nông dân bị cướp đất và bị xe ủi đè lên người; ngư dân bị tấn công và bỏ mạng ngoài khơi; nhà báo tử tế đang thi hành công vụ thì bị côn đồ đập nát bàn tay; luật sư bị vu khống trắng trợn trên báo chí và bị đón đánh trọng thương; các trí thức, các nhà hoạt động dân chủ bị câu lưu hạ nhục xà bị bắt giữ xử tù tùy tiện; và gần đây, tính mạng hàng vạn, hàng triệu bà con miền Trung đang bị đe dọa hết sức nghiêm trọng ( nói như cô giáo Trần Thị Lamsinh mạng người chỉ như cái móng tay)…Tội ác muôn mặt đang tác oai tác quái trên đất nước chúng ta mà không hề bị trừng phạt, khiến cho lòng người luôn luôn bất an, chất chứa đầy oán hận.
Lòng khoan dung bao giờ cũng là trữ lượng đạo đức để nâng đỡ nâng đỡ cuộc đời, nâng đỡ và giáo hóa con người và vì thế lòng khoan dung thuộc về Cái Đẹp, cái Cao Thượng luôn được tôn vinh nhưng chỉ có thể và nên khoan dung với người phạm lỗi lầm trong những điều kiện và hoàn cảnh nhất định chứ không thể khoan dung cho những kẻ phi nhân tính coi mạng người như cỏ rác. Nếu lòng khoan dung xa sỉ thì vô hình trung lại tạo ra cái ác đối với đồng loại.
Danh dự, nhân phẩm, tính mạng con người là vô cùng quan trọng và bất khả xâm phạm, không thể đem xúc phạm, bôi nhọ, đe dọa một cách tùy tiện để rồi xin tha thứ.
Tội ác cần phải bị trừng phạt – đó là đòi hỏi của công bằng, của lương tâm, của Công lý chứ không phải là đòi hỏi của riêng ai./.
30/4/2016
T.K
.

Hồng ngọc mai - giá 250k



Hồng ngọc mai - giá 250k-ĐT 0974548883.
STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây ninh

Thứ Tư, 4 tháng 5, 2016

cuộc thế







Giữa những ngổn ngang
tôi nhìn thấy mặt trời

Giữa những đổ vỡ
tôi nhìn thấy bông hoa

Giữa những mơ hồ
tôi nhìn thấy sự thật

Đòi hỏi gì cho nhau
trong giây phút lặng yên
cho những vội vàng thoáng qua
còn lưu luyến

Đòi hỏi gì cho nhau
trong phút chốc tan biến đi
còn lại hư không

Giữa những bộn bề cuộc thế đổi thay
tôi nhìn thấy niềm tin
thế giới trong lòng bàn tay
hay trong chiếc bản đồ số phận
hay sự phân chia trật tự lớn nhỏ
sự quy đồng mẫu số chung
đầy hồ nghi
của thánh đường hay những tôn nghiêm của thánh thần

Giữa những nát tan
tôi nhìn thấy sự hàn gắn
trên đôi môi
trong trái tim ngập tràn nắng
đừng phân chia
đừng xa cách
loài người đơn côi
giữa các thể chế chính trị
mỗi cá nhân
tìm đường sống cho riêng mình
trong cõi của mình
như những tín đồ của cá nhân
sự mạnh mẽ tạo nên lan toả của sẻ chia
sự yếu ớt khiến cho kẻ quyền lực dẫm nát
phải tin vào bản thể cá nhân mình
của những trái tim đơn độc
của những bộ não bộn bề nếp nhăn


Một người nằm xuống
tôi mới biết rằng con người đó tồn tại
tài hoa
tử tế
thế giới thật rộng lớn
khi sự hiểu biết của tôi còn giới hạn
tôi nghiêng mình trước một người xa lạ
thành thân quen
trong thế giới loài người
trong đồng loại của mình
tôi nên biết nhiểu hơn
chia sẻ nhiều hơn
gặp gỡ nhiều hơn
viết nhiều hơn
để được tồn tại
được sống
trải nghiệm
để được mất mát
đớn đau





Như Quỳnh de Prelle

Tiểu cảnh LS 86- giá 450k-


giá 450k- ĐT 0974548883.  STK Phạm Đình Trúc Thu 711ab2332746 Vietinbank Tây nin

Thứ Ba, 3 tháng 5, 2016

Hãy nhìn xuống chân


ƯNG VÔ SỞ TRỤ NHI SANH KỲ TÂM LÀ NGHĨA THẾ NÀO?






Truyền Bình

 

Câu “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” 應無所住而生其心 trích từ kinh Kim Cang, nhờ nghe câu này mà anh tiều phu Huệ Năng hoát nhiên tỏ ngộ, sau đó có cơ hội làm bài kệ “Bồ đề bổn vô thụ, Minh kính diệc phi đài, Bổn lai vô nhất vật, Hà xứ nhạ trần ai” 菩提本無樹 明鏡亦非台 本來無一物 何處惹塵埃 trình cho ngũ tổ Hoằng Nhẫn của Thiền tông và được truyền y bát để trở thành tổ thứ sáu của Thiền tông Trung Hoa. Lục Tổ và các môn đồ làm cho Thiền tông đại hưng thịnh, thiền sử ghi nhận có hơn 5000 người kiến tánh.

Kinh Kim Cang, tên đầy đủ là Kim cang (cương) bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh (zh. 金剛般若波羅密多經, sa. vajracchedikā-prajñāpāramitā-sūtra) là một bộ kinh liễu nghĩa (tức nói ý nghĩa rốt ráo chứ không phải nghĩa phương tiện, do đó không dễ hiểu đối với người bình thường). Có ít nhất 6 bản dịch từ Phạn sang Hán trong đó bốn dịch giả người Ấn (Cưu Ma La Thập, Đạt Ma Cấp Đa, Chân Đế -真諦Paramartha- và Bồ Đề Lưu Chi) và hai dịch giả người Hoa, Huyền Trang và Nghĩa Tịnh. Trong đó phổ biến nhất là bản dịch của Cưu Ma La Thập (鳩摩羅什 Kumārajīva 344-413, dịch vào đời Diêu Hưng nước Hậu Tần trong thời kỳ các dị tộc xâm chiếm Trung Quốc sau nhà Tây Tấn, trước sau dựng lên tất cả 16 nước, thời kỳ mà sử gọi là Ngũ Hồ loạn Hoa (năm dị tộc xâu xé nước Trung Hoa).

Nội dung kinh là cuộc đàm luận giữa Phật và tôn giả Tu Bồ Đề, bày tỏ ý nghĩa thù thắng, rốt ráo của Phật pháp . Bộ kinh kết luận bằng bài kệ :

一切有爲法 Nhất thiết hữu vi pháp
如夢幻泡影 Như mộng huyễn bào ảnh
如露亦如電 Như lộ diệc như điện
應作如是觀 Ưng tác như thị quán

Tất cả các pháp hữu vi tức là pháp có sinh có diệt, đều như mộng huyễn, như bọt nước, như hạt sương mong manh hoặc như điện chớp, tức không có gì thật sự vững chắc, nên xem xét nhận thức như thế.

Ý kinh nói rằng vũ trụ vạn vật chỉ là ảo ảnh, không phải thật, do đó không nên chấp trước cho là thật. Ngày xưa khoa học chưa phát triển nên trong nguyên tác, các bản dịch và luận giải đều chưa có dẫn chứng khoa học, nên ý nghĩa của câu chủ đề trên còn khá mơ hồ. Ngày nay chúng ta có điều kiện hơn, vì khoa học đã phát triển, nên có điều kiện giải thích cụ thể rõ ràng hơn.

Bây giờ chúng ta sẽ phân tích ý nghĩa của câu chủ đề :

應無所住而生其心 Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm

Ưng vô sở trụ : Đây là câu bàng thái cách (subjonctif) với nghĩa cần phải không có chỗ trụ, nếu chúng ta dùng tiếng Pháp là một ngôn ngữ rất tinh tế để diễn đạt thì có thể dịch : Il faut que vous soyez nonlocal. Hoặc tiếng Anh : You must be nonlocal.

Nhi sinh kỳ tâm : thì cái tâm ấy mới xuất hiện: pour que cet esprit apparaisse. Hoặc tiếng Anh : for the appearing of this mind. Cái tâm ấy tức là tâm giác ngộ.

Thế nào là không có chỗ trụ, tại sao không thể có chỗ trụ ? Đây là chỗ cần dùng khoa học để dẫn chứng. Phật pháp nói rằng các pháp đều là ảo hóa. Mà sự ảo hóa cần đến chuyển động không thể ngừng. Ví dụ để có sự xuất hiện của nguyên tử, electron phải chuyển động vòng quanh hạt nhân rất nhanh và không ngừng. Để cho cuộc sống trong phim sống động như thật, máy chiếu phim phải chạy đều đều không thể ngừng. Các vật thể vi mô hay vĩ mô đều phải chuyển động không ngừng. Hành tinh chuyển động chung quanh mặt trời, vệ tinh như mặt trăng chuyển động chung quanh hành tinh, thái dương hệ chuyển động trong ngân hà, các thiên hà chuyển động không ngừng trong vũ trụ. Tâm thức của con người chúng ta cũng luôn luôn vận động, nhất niệm vô minh cứ nối tiếp nhau thành dòng tâm thức vô tận. Tất cả sự chuyển động đó tạo ra thế giới mà Phật pháp đã tóm tắt trong danh xưng Ngũ Uẩn五蘊 hay còn gọi là Ngũ Ấm五陰, đó là Sắc色,Thọ受,Tưởng想, Hành行,Thức識 .Đó là năm yếu tố tạo thành thế giới trong đó Sắc là vật chất, Hành là chuyển động, Thọ là cảm giác, Tưởng là nghĩ ngợi, tưởng tượng, Thức là nhận biết. Phật pháp nói rằng Ngũ Uẩn Giai Không五蕴皆空 Năm yếu tố cấu thành thế giới đều không có thật nên không thể có chỗ trụ.

Nguyên lý vô sở trụ đã được Heisenberg nhận thức thành nguyên lý bất định (principle of uncertainty) trong vật lý học. Vô sở trụ còn được nhận thức thành định lý bất toàn (Theorem of incompleteness) trong toán học do Kurt Godel phát hiện. Vô sở trụ còn hiển hiện trong nhiều lỗ hổng không thể lấp đầy của Sinh vật tiến hóa luận do Charles Darwin đề xướng. Xem loạt bài về

SỰ KẾT THÚC CỦA KHOA HỌC

Khoa học lượng tử tương quan (RQM : Relational Quantum Mechanics) ngày nay cũng đi đến kết luận rằng đã đến lúc chúng ta cần xét lại hình ảnh của thế giới bên ngoài! :

Thực tế khách quan không phải là một thực tế tuyệt đối cũng không phải là một thực tế độc lập mà chỉ là một thực tế tương quan.

Điều này có ý nghĩa cụ thể như thế nào ? Có nghĩa rằng vật không có thật, nhưng chúng ta vẫn thấy có vật, vì cái mà chúng ta thấy là sự tương tác giữa các giác quan của chúng ta (lục căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể, não bộ) với mối quan hệ (tương quan) của các cấu trúc ảo của vật chất. Cấu trúc ảo đó là gì ? Từ những hạt ảo là quark và electron, cấu trúc thành proton, neutron, hạt nhân nguyên tử, nguyên tử, phân tử và cuối cùng là thế giới, sinh vật, con người. Vật thì không thật sự hiện hữu, nhưng những hạt ảo làm thành cấu trúc ảo, và chúng ta thấy và tương tác với mối quan hệ giữa các cấu trúc ảo đó.

Tóm lại vì bản chất của thế giới là ảo hóa, là chuyển động nên không thể trụ, không thể dừng lại, kể cả chết cũng không dừng lại, vì thức sẽ chuyển qua một đời sống khác gọi là tái sinh chuyển kiếp, vì bản chất là không nên không có chỗ trụ. Kinh nói :

若以色見我 Nhược dĩ sắc kiến ngã
以音聲求我 Dĩ âm thanh cầu ngã
是人行邪道 Thị nhân hành tà đạo
不能見如來 Bất năng kiến Như Lai

Nếu lấy vật chất để thấy ta (ta là Như Lai) nghĩa là hình dung ta dưới hình thức vật chất với 32 tướng tốt, phương phi tuấn tú, sức mạnh vô địch v.v…Hoặc lấy âm thanh để cầu ta, nghĩa là dùng tiếng nói để tán thán, cầu khấn ta, hay dùng âm nhạc để diễn tả những phẩm đức của ta trong những bài thánh ca tuyệt hay. Thì người đó đã đi sai đường, không thể thấy được Như Lai, nghĩa là không thể giác ngộ. Tóm lại không thể trụ ở các pháp trần.

Bản chất của thế giới là vô sở trụ, nghĩa là không có một điểm cố định nào để dừng nghỉ. Tất cả những chỗ an tĩnh dừng nghỉ đều chỉ là ảo tưởng. Khoa học ngày nay đã hiểu được điều này. Ví dụ một thiền sư đang ngồi tham thiền, liệu thân ông ta có chuyển động không ? Bên trong thân, máu đang lưu thông, nhiều tế bào chết đi, nhiều tế bào mới sinh ra, cơ thể đang tiến hành tiêu hóa, bài tiết, tăng trưởng, không lúc nào ngừng nghỉ. Tâm thức cũng không hề im lặng, nó đang quán tưởng, đang phiêu du qua vô số cảnh giới hay đang phát khởi nghi tình. Cả cái thân tứ đại ấy cũng chuyển động hỗn loạn theo chuyển động xoay tròn của địa cầu, theo chuyển động trên quỹ đạo chung quanh mặt trời, theo chuyển động của thái dương hệ trong ngân hà và theo sự chuyển động của ngân hà trong vũ trụ.

Vô sở trụ còn có nghĩa là khắp không gian và khắp thời gian, không hạn chế ở một chỗ nhất định nào trong không gian hoặc một thời điểm nào trong thời gian. Tính chất này, ngày nay khoa học gọi là nonlocality (bất định xứ). Hơn 2500 năm trước, Đức Phật đã chứng ngộ tính chất này, vì vậy mới có danh xưng Như Lai, danh xưng này cũng có nghĩa là bất định xứ, đồng thời tuyên thuyết Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm. Còn khoa học thì mãi đến thế kỷ 20 mới hiểu được qua hiện tượng vướng víu lượng tử (quantum entanglement). Trên blog này, đã nói rất nhiều về hiện tượng này, nếu cần xem lại thì bấm vào đây :

KHẮP KHÔNG GIAN, KHẮP THỜI GIAN VÀ VÔ SỐ LƯỢNG CÓ Ý NGHĨA GÌ ?

Nhiều nhà khoa học nghĩ rằng tính chất bất định xứ chỉ xảy ra trong thế giới lượng tử, còn thế giới đời thường thì các vật thể đều có định xứ. Đó là một nhận thức hạn hẹp, nói hạn hẹp vì họ chỉ mới biết một mà chưa biết hai, họ chưa biết và chưa thấy vật thể cũng có tính chất bất định xứ như lượng tử. Điều này đã được các nhà đặc dị công năng như Trương Bảo Thắng và Hầu Hi Quý chứng tỏ một cách rõ ràng qua các sự kiện như : Trương Bảo Thắng đã dùng tâm niệm lấy sợi dây nịt đang mang trong lưng quần của một nhà xã hội học ngay lúc ông ta đang đăng đàn diễn thuyết chỉ trích đặc dị công năng. Anh cũng dùng tâm niệm lấy trái táo ra khỏi một thùng sắt mà nắp bị hàn kín. Hầu Hi Quý đã dùng tâm niệm lấy xăng từ Bắc Kinh đổ vào bình xăng của một chiếc xe hơi đang đậu ở suối Sa Cốc, cách đó khoảng 50 km. Những vật đó bản chất vẫn là ảo, là bất định xứ, nên có khả năng di chuyển tự do nếu hành giả có tâm lực đủ mạnh, không một lực nào níu kéo lại được dù đó là chiếc thùng sắt kiên cố.

Tính chất vô sở trụ ngày nay đã được khoa học ứng dụng vô cùng phổ biến với mạng internet và điện thoại di động thông minh (smartphone). Tất cả bài báo, thông tin, âm nhạc, phim ảnh…có thể đến với người sử dụng bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, chỉ cần có sóng thích hợp như wifi, 3G, 4G, sóng vệ tinh v.v…Khoa học còn có tham vọng một ngày kia sẽ chuyển các vật thể đi khắp nơi bằng phương thức gọi là vô tuyến vận tải (télétransport) cũng giống như chuyển thông tin hiện nay. Tất cả đều dựa trên nguyên lý vô sở trụ. Từ bao đời nay, các vong linh, thần thức, tái sinh chuyển kiếp trong khắp tam giới đều bằng tốc độ của ý niệm, đều dựa trên nguyên lý vô sở trụ.

Thế nào là nhi sinh kỳ tâm ? Chữ sinh ở đây phải hiểu là xuất hiện chứ không phải sinh ra vì nó vốn đã có sẵn. Khi nào có đủ điều kiện thì nó xuất hiện. Tâm là vô sanh pháp nhẫn, bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh như Bát Nhã Tâm Kinh đã nói. Giống như mặt trời bị mây che nên không nhìn thấy, khi nào mây tan thì mặt trời xuất hiện. Kỳ tâm có nghĩa là cái tâm ấy. Cái tâm ấy là tâm giác ngộ, tâm bất nhị. Bất nhị có nghĩa là không phải hai, không phải nhiều, cũng không phải một, tóm lại bất nhị là không có số lượng. Tại sao không có số lượng ? Vì tất cả vật đều là ảo. Một tấm ảnh ảo thì không có số lượng vì nó có thể biến thành vô lượng vô số tấm ảnh. Một vật thể cũng là ảo nên cũng không có số lượng. Hạt photon là ảo nên trong thí nghiệm của Nicolas Gisin năm 2008 tại Geneva, Thụy Sĩ, nó có thể xuất hiện ở hai vị trí khác nhau, cách nhau 18 km theo thiết lập của thí nghiệm. Còn trong thí nghiệm của Maria Chekhova và các đồng sự tại Viện Khoa học Ánh sáng Max Planck và Đại học Moscow năm 2012, hạt photon xuất hiện ở 100.000 vị trí khác nhau. Như vậy số lượng vốn là không có thật, tùy ý ta muốn bao nhiêu cũng được. Trong Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh có kể câu chuyện để biểu thị tính vô lượng cũng như tính bất định xứ của không gian và thời gian, như sau:

Bấy giờ, Xá Lợi Phất nghĩ rằng:

– Sắp đến giờ ăn. Các Bồ Tát sẽ thọ thực ở đâu? Duy Ma Cật biết ý, nên nói rằng:

– Phật thuyết bát giải thoát. Nhơn giả đã thọ hành. Há có xen cái tâm muốn ăn mà nghe pháp ư! Nếu muốn ăn, hãy đợi giây lát, tôi sẽ cho ông được bữa ăn chưa từng có. Duy Ma Cật liền nhập chánh định. Dùng sức thần thông thị hiện cho đại chúng thấy một cõi phương trên, cách bốn mươi hai hằng sa quốc độ, có Phật Hương Tích thị hiện ở cõi Chúng Hương. Mùi hương cõi ấy bậc nhất, siêu việt mùi hương trời người của các cõi Phật mười phương. Cõi ấy chẳng có tên gọi nhị thừa. Chỉ có chúng đại Bồ Tát trong sạch, đang nghe Phật thuyết pháp. Sự vật trong đó, tất cả đều dùng hương làm thành. Lầu các, vườn tược cho đến đất kinh hành đều có mùi hương. Mùi hương của cơm lan tràn khắp mười phương thế giới. Lúc ấy, Phật cùng các Bồ Tát đang ngồi ăn. Có các thiên tử cùng một danh hiệu gọi là Hương Nghiêm, đều phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, cúng dường Phật và các Bồ Tát. Đại chúng nơi cõi này đều thấy rõ cả.

Duy Ma Cật hỏi các Bồ Tát rằng:

– Các nhơn giả! Vị nào có thể đến thỉnh cơm của Đức Phật ấy? Do e ngại sức oai thần của Văn Thù, nên cả chúng đều im lặng.

Duy Ma Cật nói:

– Này các nhơn giả! Chẳng tự hổ thẹn sao?

Văn Thù nói:

– Như lời Phật dạy, chớ khinh sơ học.

Khi đó, Duy Ma Cật chẳng rời chỗ ngồi. Trước mặt đại chúng hóa ra vị Bồ Tát tướng tốt rực rỡ, oai đức thù thắng hơn cả chúng trong hội, mà bảo rằng:

– Ông hãy đến cõi Phật Chúng Hương, bạch như lời tôi đây:

“Duy Ma Cật đảnh lễ dưới chân Thế Tôn, và vô cùng cung kính tỏ lời hỏi thăm sự ăn ở hằng ngày, ít bệnh, ít phiền não, khỏe mạnh chăng? Mong được cơm thừa của Phật, đem về cõi Ta Bà bố thí làm Phật sự. Khiến kẻ ưa pháp tiểu thừa được vào đại thừa. Cũng khiến cho tiếng tăm của Như Lai ai cũng được nghe.”

Khi ấy, đại chúng trong hội đều thấy hóa thân Bồ Tát bay lên phương trên, đến cõi Chúng Hương đảnh lễ chân Phật và lập lại lời Duy Ma Cật như trên. Các đại sĩ cõi ấy thấy hóa thân Bồ Tát, tán thán việc chưa từng có, liền hỏi Phật:

– Thượng nhơn này từ đâu đến? Cõi Ta Bà ở chỗ nào? Thế nào gọi là kẻ ưa pháp tiểu thừa?

Phật Tối Thượng Hương Đài bảo:

– Nơi phương dưới cách bốn mươi hai hằng sa cõi Phật, có thế giới Ta Bà là ngũ trược ác thế. Hiện có Phật Thích Ca, đang vì những chúng sanh ưa pháp tiểu thừa, diễn giảng Phật pháp. Ở đó, có vị Bồ Tát tên là Duy Ma Cật, trụ nơi giải thoát bất khả tư nghì. Vì đang thuyết pháp cho các Bồ Tát, nên sai hóa thân đến khen ngợi danh hiệu ta, và tán thán quốc độ này, khiến các Bồ Tát ấy tăng thêm công đức.

Các Bồ Tát hỏi:

– Vị đó như thế nào, sao có sức công đức vô úy hóa ra Bồ Tát thần túc như thế?

Phật Tối Thượng Hương Đài bảo:

– Thần lực của Duy Ma Cật rất lớn. Thường sai hóa thân đến khắp cõi mười phương bố thí làm Phật sự để lợi ích chúng sanh.

Tức thì Hương Tích Như Lai dùng bát Chúng Hương đựng đầy cơm hương trao cho hóa thân Bồ Tát.

Khi ấy, chín triệu Bồ Tát kia đều nói:

– Chúng con muốn đến cõi Ta Bà cúng dường Phật Thích Ca và muốn gặp Duy Ma Cật với các Bồ Tát cõi ấy.

Phật Tối Thượng Hương Đài bảo:

– Được thôi! Nhưng phải thu nhiếp mùi hương của các ngươi. Chớ khiến chúng sanh cõi kia khởi lòng mê đắm. Lại nữa, hãy bỏ hình dạng của các ngươi. Chớ khiến những người cầu Bồ Tát thừa cõi kia sanh lòng hổ thẹn. Và các ngươi đối với cõi ấy chớ khởi tâm khinh chê mà tự chướng ngại. Tại sao? Mười phương quốc độ đều như hư không. Chư Phật vì muốn hóa độ những kẻ ưa pháp tiểu thừa, nên chẳng hiện cõi thanh tịnh ấy thôi.

Khi hóa thân Bồ Tát thọ lãnh bát cơm xong, cùng với chín triệu Bồ Tát thừa oai thần Phật và thần lực của Duy Ma Cật, ở nơi cõi ấy bỗng nhiên biến mất, chốc lát đến nhà Duy Ma Cật. Lúc đó, Duy Ma Cật liền hóa ra chín triệu tòa sư tử tốt đẹp như trước, các Bồ Tát đều an tọa.

Hóa thân Bồ Tát đưa bát cơm hương cho Duy Ma Cật. Mùi hương của cơm tỏa khắp thành Tỳ Da Ly và đại thiên thế giới. Các Bà La Môn và cư sĩ trong thành Tỳ Da Ly ngửi được mùi hương, thân tâm khoan khoái, tán thán việc chưa từng có.

Trưởng giả Nguyệt Cái cùng với tám mươi bốn ngàn người đến nhà Duy Ma Cật, thấy trong phòng đông đảo các Bồ Tát và những tòa sư tử cao rộng trang nghiêm, đều rất vui mừng, đảnh lễ các Bồ Tát và đại đệ tử rồi đứng qua một bên.

Các địa thần, hư không thần và chư thiên cõi dục giới, sắc giới ngửi được mùi hương cũng đều đến nhà Duy Ma Cật.

Bấy giờ, Duy Ma Cật bảo Xá Lợi Phất và các vị đại Thanh Văn rằng:

– Các nhơn giả cứ tùy ý dùng cơm cam lồ của Như Lai, vì cơm nầy do đại bi sở huân, nếu có ý hạn lượng mà ăn thì chẳng thể tiêu.

Có hàng Thanh Văn lại nghĩ rằng:

– Cơm này ít thế làm sao đủ cho đại chúng ăn?

Hóa thân Bồ Tát nói rằng:

– Chớ dùng tiểu đức, tiểu trí của Thanh Văn mà đo lường vô lượng phước huệ của Như Lai. Nước bốn biển có thể hết, chứ cơm này thì vô tận. Dẫu cho tất cả mọi người đều ăn từng nắm cơm to bằng núi Tu Di, ăn mãi cho đến một kiếp cũng chẳng thể hết. Tại sao? Vì cơm dư của Người đầy đủ các công đức như vô tận giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến v.v… thì ăn mãi cũng không thể hết được.

Vì thế, một bát cơm cho tất cả chúng trong hội ăn đều no đủ, mà cơm vẫn còn dư. Các Bồ Tát, Thanh Văn, Trời người ăn cơm này rồi, thân thể an vui giống như các Bồ Tát ở cõi Nhất Thiết Lạc Trang Nghiêm, và từ lỗ chân lông phát ra mùi hương cũng như cây hương của cõi Phật Chúng Hương vậy.

Câu chuyện trên giống như truyện thần thoại bịa đặt, nhưng thí nghiệm của Nicolas Gisin và Maria Chekhova chứng tỏ rằng vật chất (hạt photon) quả thật có những tính chất giống như thế. Điều này khó tin đến nỗi, sinh thời Einstein đã không tin, cố bài bác bằng giả thuyết EPR, nhưng ngày nay các nhà khoa học đều biết rằng giả thuyết EPR là sai, lượng tử quả thật có những tính chất giống như trong kinh nói. Nhiều nhà khoa học sẵn sàng xây dựng lý thuyết trên cơ sở thế giới là ảo, vũ trụ là số, như chúng ta đã thấy David Bohm và Craig Hogan đã làm.

Tóm lại Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm biểu thị các tính chất vô sở trụ không thể tưởng tượng nổi của tâm giác ngộ. Đó là tâm như hư không vô sở hữu, nhưng đó lại là nguồn gốc của vũ trụ vạn vật, nó biểu thị rằng không gian, thời gian và số lượng đều là ảo hóa, đều là không có thật. Trong tâm giác ngộ đó thì không có chỗ trụ, không được chấp có, không được chấp không, không vừa có vừa không, cũng không chẳng có chẳng không. Tóm lại là không để lọt vào tứ cú. Tình trạng đó không thể dùng ngôn ngữ, lời nói để diễn tả được, mà phải chứng nghiệm, thiền Ấn Độ gọi là nhập niết bàn, hay chứng vô thượng chánh đẳng chánh giác. Còn thiền Trung Hoa thì gọi là kiến tánh thành Phật.

Truyền Bình (Duy Lực Thiền)




Sau
In Trang




Ý KIẾN BẠN ĐỌC

12/04/20161:03 SA
Đàm thanh Giang
Khách

Đồng nhận định với đạo hữu Diệu Mai , các Kinh liễu nghĩa chỉ ra trung đạo (thể là nhất nguyên) để diễn bày thường phải dùng lối phủ định để hiểu ý, nay người viết lại lấy khoa học (mà cái thấy là tương đối và nông can hơn nhiều) để chia chẻ phân tích (đa nguyên) thì đúng là lầm lẫn.



14/03/20163:54 SA
Thiện Quang
Khách

Giải thích: Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.
Ưng: nên thế, cần phải, hãy.
Vô sở trụ: Không có trụ chỗ nào, đừng trụ vào đâu cả. Dịch “vô sở trụ” là “không có chỗ trụ” là sai văn pháp, từ đó suy diễn sai theo.
Lưu ý ngữ cảnh: “Thị cố Tu-bồ-đề, chư Bồ-tát Ma-ha tát ưng như thị sanh thanh tịnh tâm, bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.”
Ưng như thị sanh thanh tịnh tâm = nên như vầy sanh cái tâm thanh tịnh [để trang nghiêm cõi Phật], hay nên sanh cái tâm thanh tịnh như vầy: “bất ưng trụ … kỳ tâm.”
“Bất ưng trụ” được lập lại 2 lần, dịch là “không nên trụ”, “không nên trú”, “không nên trú ở”, “không nên trụ vào”. Trú là động từ.
Ưng vô sở trụ: Dịch sát là “nên không trụ vào chỗ nào”, “phải không trụ vào chỗ nào”, “hãy đừng trụ vào đâu cả”. Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là đối tượng của tâm thức. Đoạn trên, Phật dạy không nên trụ vào “sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp”. Trụ đồng nghĩa với thủ, chấp thủ, thủ đắc. Cho nên đoạn sau, Phật dạy “chớ nên trụ vào chỗ nào cả”, “chớ nên thủ đắc bất cứ gì”, thì ngay nơi đó là tâm thanh tịnh.
Kỳ tâm = cái tâm ấy, tâm kia. Cái tâm thanh tịnh [để trang nghiêm cõi Phật] nói ở đoạn trên.
Trong Pháp bảo đàn kể câu chuyện về một chàng tiều phu không biết chữ, chưa vợ con, còn mẹ già. Một hôm nhân bán củi mà được nghe tụng Kim cương, liền đốn ngộ. Hỏi về kinh Kim cương thì được biết ngũ tổ Hoằng Nhẫn dạy ai cũng nên tụng kinh ấy. Tiều phu liền thu xếp cho mẹ già, lặn lội đến Hoàng Mai yết kiến ngũ tổ. Rồi một đêm, tế nhị và bí mật, ngũ tổ lấy ca sa trương ra che kín thiền thất, đem kinh Kim cương giảng cho. Giảng đến câu "hãy đừng trụ vào bất cứ nơi nào mà sinh tâm ra" thì tiều phu đại ngộ tất cả các pháp không ngoài tự tánh, và thưa rằng: “không ngờ tự tánh vốn tự trong sáng, không ngờ tự tánh vốn bất sinh diệt, không ngờ tự tánh vốn tự đủ cả, không ngờ tự tánh vốn không dao động, không ngờ tự tánh vốn sinh vạn pháp.” Đó là cuộc truyền ngôi tổ vị thứ 6, anh chàng tiều phu liền thành lục tổ Huệ Năng. Sau này lục tổ khuyên người làm theo chánh định Bát nhã bằng cách tụng niệm Kim cương, với lời nói giản dị: “Lúc nào, chỗ nào tâm cũng đừng ngu, ngu một chút là bát nhã mất một chút, trí một chút là bát nhã sanh một chút.”
Trung A hàm, kinh Phân biệt quán pháp: “Này chư Hiền, thế nào gọi là tâm Tỳ-kheo không hướng ra ngoài, không bị phân rải, tán loạn? Này chư Hiền, với con mắt, Tỳ-kheo thấy sắc, thức không chạy theo sắc tướng, thức không đắm trước lạc của sắc tướng, thức không bị trói buộc bởi lạc của sắc tướng, vị ấy không bị vị ngọt của sắc tướng cột chặt tâm nên không hướng ra ngoài, không bị phân rải, tán loạn. Cũng vậy, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; với ý Tỳ-kheo nhận thức pháp, thức không chạy theo pháp tướng, thức không đắm trước lạc của pháp tướng, thức không bị trói buộc bởi lạc của pháp tướng. Vị ấy không bị vị ngọt của pháp tướng cột chặt tâm nên không hướng ra ngoài, không bị chi phối, tán loạn. Này Chư Hiền, như vậy gọi là tâm Tỳ-kheo không hướng ra ngoài, không bị phân rải, tán loạn.” … “Lại nữa, chư Hiền, Tỳ-kheo vượt qua tất cả vô sở hữu xứ, nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ, thành tựu an trụ. Thức của vị ấy không trú trước vào vị ngọt của vô tưởng trí, không y vào đó, không trú vào đó, không duyên vào đó, không gắn chặt vào đó, nên thức trú vào bên trong. Này chư Hiền, như vậy gọi là tâm Tỳ-kheo trú vào bên trong.” (Thích Tuệ Sỹ dịch)
Lưu ý: “Không y vào đó, không trú vào đó, không duyên vào đó, không gắn chặt vào đó, nên thức trú vào bên trong.” Đó chẳng phải là “ưng vô sở trụ” hay sao?



14/03/20163:19 SA
Thiện Quang
Khách

Hán: 佛告須菩提:「於意云何?如來昔在然燈佛所,於法有所得不?」 「世尊!如來在然燈佛所,於法實無所得。」 「須菩提!於意云何?菩薩莊嚴佛土不?」 「不也,世尊!何以故?莊嚴佛土者,則非莊嚴,是名莊嚴。」 「是故須菩提,諸菩薩摩訶薩應如是生清淨心,不應住色生心,不應住聲、香、味、觸、法生心,應無所住而生其心。」

Âm: "Phật cáo Tu-bồ-đề: 「Ư ý vân hà? Như Lai tích tại Nhiên Đăng Phật sở, ư pháp hữu sở đắc phủ? 」 「Thế Tôn! Như Lai tại Nhiên Đăng Phật sở, ư pháp thật vô sở đắc. 」 「Tu-bồ-đề, ư ý vân hà? Bồ-tát trang nghiêm Phật độ phủ? 「Phất dã, Thế Tôn! Hà dĩ cố? Trang nghiêm Phật độ giả, tắc phi trang nghiêm, thị danh trang nghiêm. 」 「Thị cố Tu-bồ-đề, chư Bồ-tát Ma-ha tát ưng như thị sanh thanh tịnh tâm, bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm. 」

Nghĩa: “Phật hỏi Tu-bồ-đề: - Ý ông nghĩ sao? Như Lai xưa kia, nơi đức Phật Nhiên Đăng, có được pháp gì? - Bạch Thế Tôn! Nơi đức Phật Nhiên Đăng, thật sự Thế Tôn không có được pháp gì. - Tu-bồ-đề, ý ông nghĩ sao? Có chăng Bồ-tát trang nghiêm cõi Phật? – Không, bạch Thế Tôn. Vì cớ sao? Sự trang nghiêm cõi Phật, [Thế tôn nói] là phi trang nghiêm, [thế nên] gọi đó là trang nghiêm. – Do vậy, Tu-bồ-đề, các đại Bồ-tát hãy sanh cái tâm thanh tịnh như vầy: không nên trụ nơi sắc mà sanh tâm ra, không nên trụ nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp mà sanh tâm ra, hãy không trụ vào đâu cả để mà sanh cái tâm [thanh tịnh] kia.”

Anh ngữ: “The Buddha addressed Subhuti: "What do you think? When the Tathagata was formerly staying with the Buddha Dipamkara, in the Dharma he had attainment, no?"
"No, World Honored One. When the tathagata was staying with the Buddha Dipamkara, in the Dharma he really had no attainment."
"Subhuti, what do you think? The bodhisattva adorns the buddhaland, no?"
"No, World Honored One. What is the reason? The adornment of the buddhalands is not adornment. This is called 'adornment'."
"This is why, Subhuti, that bodhisattva-mahasattvas should thusly give rise to the purified mind. They should not dwell in forms when giving rise to that mind; they should not dwell in sounds, odors, tastes, sensations, or dharmas when giving rise to that mind. They should dwell nowhere while giving rise to their thoughts.”
[The Diamond Sutra (Vajracchedika Prajnaparamita Sutra)
Translated from Kumarajiva's Chinese [T235] by Charles Patton]



PHẬT GIÁO CÓ THỂ CỨU VÃN QUẢ ĐỊA CẦU?




David R. Loy, John Stanley | Thị Giới chuyển ngữ



 

Nếu chúng ta cứ tiếp tục hành hạ quả đất cách nầy, chắc chắn nền văn minh của chúng ta sẽ bị hủy diệt. Cuộc quay đầu nầy đòi hỏi sự giác ngộ, thức tỉnh. Sự giác ngộ của đức Phật có tính cách cá nhân. Chúng ta cần một sự giác ngộ tập thể để làm chậm lại dòng hủy diệt nầy. Nền văn minh sẽ đi đến chỗ chấm dứt nếu chúng ta tiếp tục chìm đắm trong sự tranh đua về sức mạnh, tiếng tăm, tình dục, và lợi nhuận.”
(Thích Nhất Hạnh, The Art of Power.)



Chúng ta đang sống trong một cuộc khủng hoảng lớn, sự thách thức nghiêm trọng nhất mà nhân loại đang đối diện: những hậu quả về sinh thái do cộng nghiệp của chúng ta gây ra. Các nhà khoa học ngày nay đã không còn nghi ngờ rằng chính sinh hoạt của con người đang gây ra sự sụp đỗ về môi trường trong phạm vi toàn cầu. Đối với người Phật tử, sự quan tâm đến tình trạng nguy ngập về sinh thái và suy nghĩ việc áp dụng những nguồn tài nguyên truyền thống lớn lao của chúng ta trong việc cứu nguy cho địa cầu là một nhu cầu cấp bách.

Báo động toàn cầu xảy ra nhanh hơn những dự đoán của chỉ vài năm trước, đặc biệt là ở các Cực địa cầu. Năm 2007, cơ quan Intergovernmental Panel on Climate Change (IPCC) dự đoán Bắc cực có thể không còn băng mùa hè vào khoảng năm 2100. Ngày nay người ta lại thấy rằng tuyết mùa hè ở Bắc cực sẽ không còn chỉ trong vòng năm năm. Theo cùng bản báo cáo của IPCC, băng ở Hy mã lạp sơn sẽ hoàn toàn tan hết trước năm 2035. Riêng người Tây tạng rất nhạy cảm đối với vấn đề nầy. Đức Đạt Lai Lạt ma đã từng lưu ý: “Những người già nói rằng những rặng núi nầy đươc phủ với lớp tuyết dày khi họ còn trẻ và tuyết đang trở nên mỏng hơn, đó có thể là một dấu hiệu của ngày tàn của thế giới.”

Sự thay đổi khí hậu, phần lớn là do hậu quả của sự khủng hoảng sinh thái, đóng một vai trò chính trong nhiều thứ khác, trong đó có sự tuyệt chủng của một số loài chia sẻ sự sống với chúng ta trên địa cầu nầy. Edward O. Wilson, một trong những nhà sinh vật học khả kính nhất thế giới, là một trong những người dự đoán rằng một nửa cây cối và thú vật trên trái đất có thể sẽ bị tiêu diệt vào cuối thế kỷ nầy. Điều nầy có nghĩa gì đối với những vị Bồ tát, những người nguyện cứu vớt tất cả chúng sanh?

Chúng ta không muốn nghĩ về cuộc khủng hoảng sinh thái, cũng như không muốn nghĩ đến cái chết của chúng ta. Nhưng càng ngày càng có nhiều khoa học gia tin rằng sự sống còn của nền văn minh nhân loại, và có thể sự sống còn của loài người, hiện đang bị đe dọa.

Nói như triết gia về sinh thái và học giả Phật giáo Joanna Macy, phủ nhận điều đang xảy ra là mối nguy hiểm lớn nhất mà chúng ta đối diện. Trấn áp đem đến một giá cao phải trả: theo nhiều nhà tâm lý, con người trong những xã hội kỹ nghệ phát triển cao bị chứng tê liệt tâm lý, kết quả của sự tách rời khỏi thiên nhiên, không còn khả năng cảm nhận cái đẹp của thế giới – hoặc khả năng đáp ứng trước nỗi đau của nó. Điều đó tạo ra khoảng trống trong tâm thức con người. Và họ chạy theo quảng cáo, bỏ ra nhiều thời gian chạy theo những cái thay thế để lấp đầy khoảng trống đó. Nhưng họ không bao giờ cảm thấy thỏa mãn vì con người không bao giờ có thể có được đầy đủ về cái mà họ không thật sự mong muốn. Họ sống trong những nỗi lo sợ mơ hồ, từ đó bị ám ảnh chạy theo cuộc tranh đua về sức mạnh, danh tiếng, tình dục và lợi nhuận.

Tin tức sai lạc về báo động toàn cầu cho chúng ta thấy rằng vấn đề trực tiếp nhất của chúng ta là thiếu sự tỉnh thức. Điều nầy đưa chúng ta trở về với Phật giáo. Con đường Phật giáo là tỉnh thức trước vọng tưởng. Nói như thầy Thích Nhất Hạnh, chúng ta cần một sự tỉnh thức tập thể trước vọng tưởng tập thể – đặc biệt đối với vọng tưởng gây nên do những mánh khóe thiện nghệ của các tập đoàn nhiên liệu hóa thạch. Chúng ta không thể chỉ dựa vào những hệ thống kinh tế và chính trị hiện tại để giải quyết vấn đề, bởi vì trong phạm vi lớn, chính chúng là vấn đề. Thay vì vậy, chúng ta cần có những chọn lựa có ý thức đặt nền tảng trên sự thức tỉnh nhiều hơn nữa về tình trạng thực sự của chúng ta.

Sự khủng hoảng sinh thái cho chúng ta thấy rõ rằng loại xã hội tiêu dùng của chúng ta ngày nay là nguồn độc hại cho môi trường. Tiếp tục như vậy sẽ là một mối đe dọa lớn cho sự sống còn của chúng ta. Để nói lên nỗi ám ảnh của chúng ta đối với chủ nghĩa tiêu dùng, chúng ta cần những cái nhìn khác nhau về tình trạng nguy ngập và tiềm năng của điều kiện con người. Những kỹ thuật mới không thể cứu vãn chúng ta trừ phi chúng được kết hợp với một thế giới quan mới. Chúng ta cần chuyển sự quan tâm của chúng ta từ lòng mong muốn phát triển không ngừng về kinh tế và kỹ thuật sang việc hàn gắng mối liên hệ giữa chúng ta với Địa cầu.

“Sự phá hoại thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên là kết quả của sự vô minh, tâm tham lam, và thiếu lòng tôn trọng đối với những sự vật sống trên Địa cầu. Sự thiếu lòng tôn trọng nầy còn mở rộng cho đến những hậu duệ loài người của Địa cầu, những thế hệ tương lai, những thế hệ sẽ thừa hưởng một hành tinh xuống cấp trầm trọng nếu nền hòa bình của thế giới không trở thành hiện thực và sự phá hoại môi trường thiên nhiên tiếp tục ở mức độ hiện nay… Rõ ràng đây là một thế hệ then chốt.”
Đạt Lai Lạt ma thứ Mười bốn, Collected Statements on the Environment, 2007.

Giải pháp Phật giáo đưa ra cho sự khủng hoảng môi trường không dễ thực hiện. Tuy nhiên, giáo lý về vô thường, tương duyên và vô ngã cung cấp một cái nhìn sâu sắc có giá trị vào bản chất của tình trạng nguy ngập về sinh thái của chúng ta. Thêm vào đó, việc thấy rằng lòng tham lam, ý chí bịnh hoạn, và vọng tưởng về một cái ngã tách biệt là nguồn gốc của khổ giúp chúng ta tìm thấy phương hướng cứu chữa. Về tập thể, chúng ta khổ sở với cảm giác về ngã, nó làm cho chúng ta cảm thấy không chỉ mất sự kết nối với những con người khác mà còn với quả Địa cầu.

Theo cách nói hiện đại, ý nghĩa của ngã là một cấu trúc tâm lý và xã hội, không có một sự hiện hữu tự hữu hay thực tại của riêng nó. Vấn đề nền tảng của cái ngã đó là ảo tưởng về tính chất nhị nguyên. Khi chúng ta tạo dựng một cái ngã riêng biệt bên trong, thì cùng lúc, chúng ta tạo dựng một thế giới bên ngoài khác với cái “tôi.” Phật giáo dạy rằng cảm giác phân ly nầy là khổ (dukkha), bởi vì một cái ngã đánh lừa, không có thực thể, rõ ràng là không vững chãi. Để chống lại cảm giác đó, chúng ta bị ám ảnh với việc tìm cách kiểm soát hoàn cảnh của chúng ta, đưa đến những cạnh tranh về sức mạnh, tiếng tăm, tình dục và lợi nhuận. Tuy nhiên, những cố gắng đó thường chỉ làm lớn mạnh thêm cảm giác phân ly.

Giải pháp của Phật giáo cho tình trạng đó không phải là loại trừ cái ngã. Điều đó không thể được vì thật sự chưa từng có một cái ngã. Thay vì vậy, nói như thầy Thích Nhất Hạnh, “Chúng ta ở đây để tỉnh thức khỏi ảo tưởng về sự riêng rẽ của chúng ta.” Khi nhận ra rằng “Tôi” là cái mà toàn bộ thế giới đang hoạt động, ngay tại đây và bây giờ, thì việc chăm sóc “người khác” sẽ trở nên tự nhiên như chăm sóc đôi chân của tôi. Nhận thức nầy là điểm nối sống động giữa trí tuệ và từ bi. Sự tốt đẹp của tôi trong cứu cánh không thể tách rời với sự tốt đẹp của những người khác.

Tình trạng của mỗi cá nhân chúng ta tương ứng một cách rõ ràng với tình trạng sinh thái hiện nay của địa cầu. Nền văn minh nhân loại là một cấu trúc tập thể, nó đã dẫn đến sự phân ly tập thể với thế giới thiên nhiên, một sự phân ly tạo nên đau khổ. Đứng trước sự phân ly đó, chúng ta bị chi phối bởi một ám ảnh tập thể về sự an toàn, cố gắng “tạo chỗ đứng” cho chúng ta bằng kỹ thuật và kinh tế. Nhưng cho dù chúng ta có tàn phá hoặc chế ngự thiên nhiên bao nhiêu, chúng ta cũng không bao giờ thấy đủ, vì vấn đề nền tảng không phải là không đủ giàu hay đủ mạnh, nhưng là sự phân ly mà chúng ta cảm thấy đối với quả Địa cầu. Chúng ta không thể “trở về với thiên nhiên” vì chúng ta chưa bao giờ thật sự rời khỏi nó. Chúng ta cần tỉnh dậy và nhận ra rằng Địa cầu là Mẹ và cũng là nhà của chúng ta – và chúng ta thấy rằng sợi dây rốn nối liền chúng ta với Địa cầu không bao giờ có thể bị cắt đứt.

“Đối với những vấn đề toàn cầu như hậu quả nhà kiếng, các tổ chức cá nhân và những quốc gia riêng lẻ sẽ không làm được việc gì. Ngoại trừ chúng ta cùng chung sức làm việc với nhau, chúng ta sẽ không tìm ra giải pháp nào. Mẹ Đất dạy cho chúng ta một bài học về tinh thần trách nhiệm chung.”
– Đạt Lai Lạt ma thứ Mười bốn, Collected Statements on the Environment, 2007.

Nhìn thấy sự thất bại của những hệ thống kinh tế và chính trị của chúng ta, các tôn giáo ngày nay có một trách nhiệm đặc biệt về việc cổ vũ cho một thế giới quan tập thể mới. Đây là một cơ hội để các tôn giáo đứng lên bước vào cuộc phấn đấu mà không một tổ chức nào có vẻ có khả năng thực hiện. Để hoàn thành việc nầy, các tôn giáo cần học hỏi thêm việc trao đổi và học hỏi lẫn nhau. Những tôn giáo khác nhau chỉ có thể thực hiện được việc đó khi nào những nhóm trong cùng tôn giáo đối thoại với nhau có hiệu quả. Cuộc khủng hoảng sinh thái toàn cầu đòi hỏi chúng ta, những người Phật tử, làm việc và học hỏi với nhau để đáp ứng một cách thỏa đáng.

Bằng cách làm sáng tỏ giáo lý nền tảng của đức Phật, tiềm tàng trong những hình thức văn hóa khác nhau, chúng ta có thể củng cố thông điệp căn bản sống động của giáo pháp đó cho thời đại then chốt hiện nay. Mặc dầu những tổ chức Phật giáo – giống như những tổ chức của những tôn giáo khác – có khuynh hướng bảo thủ, sự nhấn mạnh của Phật giáo vào tính chất vô thường và không có bản thể cho chúng ta sự cởi mở và chấp nhận đối với những trách nhiệm mới mà chắc chắn chúng ta cần thiết hiện nay. Nếu những truyền thống Phật giáo khác nhau tập hợp lại để phát thảo một đáp ứng chung cho tình trạng khẩn cấp về khí hậu, thì đó thật sự là một điển hình gây cảm hứng mà Phật giáo có thể cung cấp cho những tôn giáo khác trên thế giới.

Chúng tôi tin rằng cuộc khủng lớn lao hiện nay kêu gọi các nhà lãnh đạo của mọi truyền thống Phật giáo một cuộc hội thảo quốc tế để tìm một sự đáp ứng chung. Tình trạng cấp bách của chúng ta ngày nay cũng nói lên sự cần thiết của một cuộc Kết Tập Phật Giáo – điều đã chỉ xảy ra sáu lần từ trước trong lịch sử Phật giáo. Cuộc Kết tập lần thứ nhất diễn ra tại Rajagaha ngay sau khi đức Phật nhập Niết bàn theo truyền thống Pali; cuộc Kết tập lần thứ sáu diễn ra ở Rangoon (Yangon) vào năm 1954.

Vì có ít nhà lãnh đạo Phật giáo là những người chuyên môn về khí hậu học, cuộc họp được đề nghị mở đầu bằng việc thông qua những số liệu mới nhất và ý nghĩa của chúng do các nhà khoa học khả kính đưa ra. Thời gian còn lại có thể được dùng cho những cuộc thảo luận tập trung giữa những người tham dự, chia sẻ cái nhìn Phật giáo về thời điểm quan trọng nầy, làm việc để đi đến một nhận thức với những nhắn gởi chung cho cộng đồng Phật tử toàn thế giới về cách ứng phó với cuộc khủng hoảng hiện nay. Sự hợp nhất của chúng ta sẽ cung cấp một điển hình có sức mạnh cho những truyền thống tôn giáo khác. Có thể tất cả chúng ta sẽ tham gia vào một cố gắng tạo thế cân bằng với những sức mạnh kinh tế đã kiềm chế và đánh lạc hướng cuộc tranh luận trong thời gian qua cho đến hiện tại.

Trong việc đề nghị một cuộc họp mặt Phật giáo toàn cầu, chúng tôi đã có những cuộc thảo luận khởi sự với các vị giữ những vài trò trọng yếu trong các truyền thống Phật giáo Tây tạng như Trangu Rinpoche, Dzigar Kongtrul Rinpoche, Ringu Tulku Rinpoche, Chokyi Nyima Rinpoche, và Tsoknyi Rinpoche. Sự đáp ứng của các vị nầy rất tích cực. Chúng tôi cũng tiếp xúc những vị Thầy của các tông phái Theravada, Zen, và Tịnh độ tông và những tổ chức thuộc các tông phái nầy ở Á châu và Tây phương. Chúng tôi đề nghị một một cuộc họp vào năm tới, chuẩn bị cho Hội Nghị Về Sự Thay Đổi Khí Hậu Của Liên Hiêp Quốc (United Nations Climate Change Conference) diễn ra vào tháng mười hai năm 2009.

Cuộc họp nầy dù được coi là một hội thảo quốc tế hay một cuộc Kết Tập, tầm quan trọng của nó là nhiều truyền thống Phật giáo sẽ có cơ hội gặp gỡ và xem xét tình trạng chung của chúng ta một cách kỹ lưỡng. Tất cà những kỳ Kết Tập trước kia là để chuẩn định và duy trì Giáo pháp và Giới luật, nhưng cuộc khủng hoảng ngày nay kêu gọi một nền tảng khác hơn. Thay vì hướng vào bên trong và tập trung vào việc làm sáng tỏ Giáo pháp của đức Phật, các vị Thầy Phật giáo cần nhìn ra bên ngoài và đặt vấn đề làm thế nào để giáo pháp của đức Phật có thể giúp chúng ta hiểu và đáp ứng cho vấn đề cấp bách của hành tinh chúng ta.

Cuộc khủng hoảng môi trường cũng là cuộc khủng hoảng đối với Phật giáo, không phải vì Phật giáo sẽ chịu thiệt hại nếu nền văn minh nhân loại thiệt hại, nhưng bởi vì Phật giáo là một tôn giáo quan tâm trực tiếp đến việc làm giảm sự đau khổ của mọi chúng sanh. Phật giáo có những điều đặc biệt có thể đóng góp cho cơn nguy ngập nầy, khi loài người cần sử dụng những điều tốt nhất cho một giai đoạn lịch sử của họ. Chúng ta cần những vị Bồ tát nguyện cứu độ không chỉ những chúng sanh đơn lẻ, mà còn cứu độ những hệ thống giúp cho sự sống và những loại đau khổ của một sinh quyển đang bị đe dọa.

(Buddhadharma số Mùa Đông 2008)

David R. Loy và John Stanley
Thị Giới dịch