Thứ Tư, 27 tháng 4, 2016

Trịnh công Sơn và những ngày Văn khoa



TỪ THỨC









Gởi những người bạn Sài gòn ngày xưa.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ ? (HĐL)





Một ngày đầu tháng tư (2001), tôi lên phi trường Charles de Gaulle đón một người bạn từ Việt nam qua. Trên xe về Paris, anh ta hỏi : cậu có nghe tin về Trịnh công Sơn ? Tôi gật đầu ; mấy hôm trước, có người gọi dây nói cho hay TCS vừa từ trần.

Anh bạn nói đám tang Sơn rất đông. Người ta ở đâu đổ về như kiến, chật cả đường phố. Quen có, lạ có. Không đủ chỗ đặt vòng hoa phúng điếu .Tôi nói với ông bạn : như vậy, cái xứ của ông vẫn còn văn minh, vẫn còn thuốc chữa.

Đó là cái tin lạc quan nhất về Việt nam mà tôi được nghe từ nhiều năm nay. Dostoievski nói : cái đẹp sẽ cứu vãn nhân loại. C’est la beauté qui va sauver le monde.Bỏ công ăn việc làm, đến tiễn đưa một thi sĩ-TCS là một thi sĩ-chứng tỏ người ta còn nghĩ đến cái đẹp, người ta còn có tâm hồn.

Tự nhiên tôi nghĩ đến bác sĩ Jivago của Boris Pasternak. Cũng như Sơn, Jivago là một thi sĩ. Cũng như Sơn, Jivago bị cuốn hút trong cơn lốc của lịch sử, bị quẳng vào một bi kịch kinh thiên động địa từ trời giáng xuống. Như hàng triệu người Nga, Jivago bị đánh bạt ra khỏi gia đình, quê hương khi cách mạng vô sản Nga ập xuống nước Nga, cuốn trôi tất cả : gia sản, vợ con, bè bạn, tình ái trong một xã hội thay đổi tận gốc rễ.

Chỉ có một điều không bao giờ thay đổi : là một thi sĩ, Jivago tiếp tục làm thơ. Lấy thơ làm nhân chứng, lấy thơ làm cái phao. Lấy thơ làm một nguồn hy vọng để vươn lên. Khi Jivago chết, người ta ở đâu đổ về rất đông, nhiều người không hề quen biết. Pasternak viết : người Nga yêu thơ, yêu thi sĩ. Nghĩa là yêu cái đẹp, nghĩa là chưa hoàn toàn tuyệt vọng. Chỉ hoàn toàn tuyệt vọng khi người ta không còn thiết tha đến điều gì, ngay cả cái đẹp. Đó là nét lạc quan nhất trong một cuốn sách đầy thảm kịch : chiến tranh, tang tóc, chia lìa, đổ vỡ. Một tia sáng loé lên trong bầu trời đen tối.



MƯA VẪN MƯA RƠI…


Khi Charles Trenet chết, hàng chục ngàn người kéo về đưa tang một thi sĩ hiện đại nổi tiếng nhất của Pháp. Đưa tang Trenet, người Pháp, trong vài giờ, quên mình đang sống trong một xã hội vật chất, suốt ngày túi bụi dành giựt. Trong vài giờ, thấy mình vươn lên, thấy đời có ý nghĩa hơn, bởi còn yêu cái đẹp. Trenet viết : Những thi sĩ đã qua đời, nhưngtiếng hát của họ vẫn bay nhẩy trên khắp đường phố.

TCS đã qua đời, nhưng tiếng hát của anh vẫn bay nhẩy trong các hang cùng, ngõ hẹp. Không phải chỉ ở Việt nam , mà trên khắp địa cầu. Người Việt, tan tác như một đàn gà mất mẹ, nương thân trên khắp nẻo đường thế giới, mang theo những kỷ niệm quê hương, mang theo mùi nước mắm, mùi sầu riêng, mùi phở, mang theo tiếng hát TCS.

Tôi đã nghe TCS qua tiếng hát nhừa nhựa khói thuốc của Khánh Ly ,tiếng hát thánh thót, không có tuổi của Thái Thanh, tiếng hát truyền cảm của Lệ Thu ; và rất nhiều tiếng hát vô danh, tiếng hát của những người sống ở ngoại quốc nhưng chỉ nói tiếng Việt, của những người thuộc thế hệ sau này, hát TCS với một thứ tiếng Việt pha giọng Mỹ, giọng Pháp, giọng Đức. Tôi đã nghe tiếng hát TCS vọng ra từ những căn nhà ở New-york, Tokyo, Budapest, Athène hay Palerme…Một buổi chiều tàn, trong một bìa rừng ở Brésil, cách Rio de Janeiro hàng ngàn cây số một nơi khỉ ho cò gáy, tưởng như không có hơi người, tôi nghe 1 giọng khàn khàn vọng ra từ 1 căn nhà gỗ. Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ. Dài tay em với những thoáng mây bay…Người hát là một ông già gốc Ấn Độ, sống ở Việt nam từ nhỏ.Vượt biển, thuyền đắm, ông già được tầu Ba tây vớt, ở lại Ba tây, làm nghề canh rừng. Suốt ngày, lủi thủi một mình, tháng năm dài đằng đẵng, ông già Ấn mơ đến những cơn mưa trên tầng tháp cổ ở một xứ ông đã nhận làm quê hương.

Một ngày ở ngoại ô La Havanne, trong một tiệm ăn nhỏ trên bờ biển, nơi người ta bán lậu tôm hùm cho du khách (tôm hùm là tài sản quốc gia, chỉ để xuất cảng hay bán trong những tiệm ăn quốc doanh), tôi nghe một giọng hát đàn bà, rất trong, rất ngọt từ trong bếp vọng ra .Ngày gió lớn, tai nghe môi gọi thầm. Gọi tên em, tên Việt nam, trong tiếng nói da vàng. Người hát là một bà Bắc kỳ, từ Hà nội tới Cuba, trong một chương trình hợp tác gì đó giữa hai nước ‘xã hội anh em’, có lẽ đã mệt nhoài sau nhiều năm thề ăn gan uống máu quân thù .

Tác phẩm TCS đã đi sâu vào tâm hồn dân tộc.Nước ta có trên 80 triệu dân. Trừ trẻ con và những người không biết đọc, biết viết, có khoảng 50 triệu người làm thơ. Sự thực, không cần phải biết đọc, biết viết mới biết làm thơ : tác giả những câu thơ đẹp nhất trong văn chương Việt nam – ca dao - là những người nông dân không biết đọc biết viết .Trong số 50 triệu người làm thơ, mỗi thế hệ cho vài ba thi sĩ. Những thi sĩ đi sâu vào tâm khảm đám đông, gặp gỡ tâm hồn một dân tộc còn hiếm hoi hơn nữa. TCS thuộc cái số hiếm hoi đó.



SAIGON, NHỮNG NGÀY XÁO TRỘN



Tiếng hát TCS đến với Sài gòn vào những năm 60, ở trường đại học Văn khoa Sàigon , nằm trên góc đường Gia Long-Nguyễn trung Trực, ngay trung tâm thành phố ; Sơn ở Bảo Lộc trôi giạt về, lai vãng thường xuyên vì cái sinh hoạt trẻ ở đó rất náo nhiệt. Trường đang rục rịch di chuyển một phần về cơ sở mới gần sở thú Sài gòn vì số sinh viên tăng rất nhanh, trường cũ không đủ chỗ. Văn khoa là trường đông sinh viên nhất ở Việt nam. Xa rồi, cái trường Văn khoa đầu tiên ngoài Bắc, do giáo sư Cao xuân Huy sáng lập năm 1949, với số sinh viên vỏn vẹn có bẩy người, gọi là thất hiền.(1).

Trường di chuyển, nhiều gỉảng đường bỏ trống. Gọi là giảng đường cho sang, sự thực đó chỉ là những căn nhà tiền chế. Tất cả những gì gọi là sinh hoạt văn hoá xã hội của giới trẻ Sai gòn kéo về, chiếm đóng những căn nhà tiền chế. Một phần dành cho CPS ( Chương trình Phát Triển Sinh Hoạt Thanh Niên Học Đường ), một phần dành cho hội hoạ sĩ trẻ, đoàn văn nghệ Nguồn Sống. Phần còn lại, một số sinh viên chúng tôi tịch thu làm Nơi tâp trung, hội họp. Hồi đó người ta tự hào thuộc giới trẻ, có lẽ vì thất vọng với những gì «lớp già » để lại. Gia tài của mẹ để lại cho con, gia tài của mẹ, một nước Việt buồn : hoạ sĩ trẻ, nhạc sĩ trẻ, ca sĩ trẻ… quên rằng người ta sớm muộn gì cũng …già. Các « cụ » trong nhóm Người Việt, Thế kỷ 21 ngày nay đều là những người trẻ ngày xưa ở sân trường Văn khoa.

Phải sống ở Văn khoa những ngày ấy mới thấy sinh hoạt văn nghệ, sinh hoạt xã hội là một nhu cầu thiết yếu của tuổi trẻ, và nếu có cơ hội , sinh hoạt ấy bùng lên, tuổi trẻ bùng lên, đất nước không còn là một nước Việt buồn

Sống ở đó rất tiện : Văn khoa nằm ngay trung tâm thành phố, đi vài bước là tới những tiệm cà phê nổi tiếng trên đường Catinat, vài bước tới Khai Trí, tiệm sách lớn nhất Sài gòn, tha hồ đọc sách cọp. Ông chủ Khai trí là một người mê sách, muốn phát triển văn hoá, ông ấy khuyến khích sinh viên đọc sách cọp. Nhà cửa điện nước đều của chùa, rất tiện, trong khi hầu hết chúng tôi đều nghèo kiết xác, từ những ông hoạ sĩ trẻ, những ông văn nghệ sĩ có tiếng nhưng không có miếng ở đất nước của Tản Đà (văn chương hạ giới rẻ như bèo), những ông ký giả đầu tháng đã hết lương, những ngày cuối tháng khó khăn, nhất là 30 ngày cuối tháng (Coluche), đến đám sinh viên trong đầu đầy những mộng đổi đời, cải tạo xã hội và trong túi không có đủ tiền uống một ly cà phê.



ĐẠI BÁC ĐÊM ĐÊM VỌNG VỀ…



Từ 1963, sinh hoạt giới trẻ Sài gòn cực kỳ náo nhiệt. Chúng tôi sống ở ngoài đường nhiều hơn ở trong nhà hay trong lớp học. Hết biểu tình, hội thảo chống đàn áp Phật giáo dưới thời ông Diệm, đến hội thảo, biểu tình chống các chính phủ thi nhau lên xuống. Xuống đường trở thành một sinh hoạt thường nhật. Giữa những cuộc biểu tình, những buổi hội thảo, thỉnh thoảng ghé vào giảng đường học vài chữ cho phải phép. Đó là giai đoạn giới trẻ tham gia tích cực vào đời sống chính trị xứ sở. Với lòng nhiệt thành, và cố nhiên với đôi chút ngây thơ. Ngây thơ tin vào sức mạnh vạn năng của tuổi trẻ, nhất là khi thấy chỉ vài buổi xuống đường cũng đủ lật đổ một chính phủ, một ông tướng, một chính khách ; quên rằng trong cái hỗn loạn của đất nước, người Việt chỉ là những quân cờ thí.

Trước tết Mậu thân, lớp trẻ Sài gòn còn tin tưởng, chưa hoàn toàn mệt mỏi, tuyệt vọng. Những ngày đầu thập niên 60, chiến tranh chưa thưc sự len vào thành phố, mặc dù hàng ngày vẫn đọc trên báo những cuộc đụng độ nẩy lửa ở Pleiku, Cà mau, Đồng Xoài, Bình giã ; thỉnh thoảng chứng kiến những vụ pháo kích ; thỉnh thoảng họp nhau, nhậu vài két la de, lạc rang, củ kiệu, tiễn một người bạn lên đường nhập ngũ. Chiến tranh còn ở xa, đại bác đêm đêm vọng về, người phu quét đường dựng chổi đứng nghe. Dân Sài gòn chưa thấy tận mắt những xác người nằm chết như mơ, những xác người nằm dưới mái sân chùa, trên giáo đường thành phố.

Sinh hoạt trẻ Sai gòn ồn ào, sinh hoạt trẻ Văn khoa còn náo nhiệt hơn nữa. Bên cạnh những hoạt động chính trị, những cuộc xuống đường, còn rất nhiều những đêm không ngủ, những hội Tết, những đêm văn nghệ Nguyễn Đức Quang, Nguồn Sống, những ngày túi bụi làm báo Xuân, nguyệt san Đối Thoại. Ở đó, (và ở trụ sở Tổng hội Sinh viên SG), Phạm Duy ra mắt trường ca Mẹ Việt nam, Vũ thành An ra mắt bài hát đầu tay. Chúng tôi, tuổi 20, kề vai nhau nghe Lệ Thu ngủ đi em, mộng bình thường ; ru em những tiếng thuỳ dương đôi bờ, nghe Thái Thanh ca tụng mẹ Việt nam không son không phấn, mẹ Việt nam chân lấm tay bùn ( Phạm Duy ); và thực tình xúc động với cái viễn ảnh Việt nam quê hương đất nước sáng ngời . Cái viễn ảnh ấy, trong những đêm không ngủ, tựa vai nhau, chỉ tưởng tượng cũng đã muốn khóc. Trước cái trống rỗng của hiện tại, và cái lo lắng cho một tương lại mù mịt, người ta ngồi sát lại nhau, người ta nắm tay nhau, xin chờ những rạng đông. Những câu hát đẹp như thơ của Sơn đã đi thẳng vào lòng người.

Phong trào hoạt động xã hội cũng phát triển rầm rộ. Ảnh hưởng của phong trào thanh niên chí nguyện quốc tế của Kennedy, những hội doàn như CPS, Thanh Niên Thiện Chí, Thanh Niên Chí Nguyện vv … mọc ra như nấm. Tuổi trẻ tích cực tham gia nhũng cuộc cứu lụt ngoài Trung, cải trang những xóm nghèo ở thành phố, leo lên những làng Thượng dạy học, đào giếng, chữa bệnh. Có anh tham dự những ngày cuối tuần, có anh bỏ học , hoạt động hai ba tháng, nhiều khi cả năm. Đó là một tuổi trẻ còn đầy lý tưởng, còn yêu đời, yêu người, còn đầy tình người trong mạch máu, ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau.

Điều đó chứng tỏ tuổi trẻ rất tha thiết dến dân tộc, sẵn sàng đóng góp cho đất nước. Nếu họ thờ ơ với đất nước như người ta than phiền, lỗi không phải ở họ : người ta đã không tạo cơ hội cho tuổi trẻ tham gia. Họ bị gạt ra ngoài lề. Đất nước không còn là đất nước của họ.



ĐƯỜNG PHƯỢNG BAY



TCS đến với Văn khoa trong bối cảnh đó. Sơn không phải sinh viên VK ; anh ở Huế vào, bỏ học vì hoàn cảnh gia đình. Những đêm trăng, chúng tôi ngồi trên baĩ cỏ trước quán Văn, nghe Sơn đàn, nghe Khánh Ly hát. Khánh Ly sinh ra để hát TCS, cũng như Thái Thanh sinh ra để hát Phạm Duy.

Quán Văn là một ngôi nhà tiền chế, nằm giữa sân trường VK. Một nhóm thổ công VK sửa sang lại, biến thành môt quán cà phê, làm nơi tụ họp, gặp gỡ. Đúng là môt cái quán, đơn sơ, nhưng đầy tình bè bạn. Giống như một cái quán ở miền quê, nơi người nông dân ghé qua, uống một bát chè tươi, hút một điếu thuốc lào, ngâm vài câu thơ, vài câu ca dao, tán gẫu với nhau sau những giờ lao động. Ở đó, chúng tôi khám phá ra cái đậm đà của tình bạn, cái thi vị của những buổi hẹn hò. Ở đó đã nở ra những mối tình, đôi khi dang dở, nhưng có nhiều cặp còn keo sơn tới ngày nay.

Người nhỏ bé, gầy gò, ăn nói nhỏ nhẹ, ôn tồn (tôi chưa hề thấy một TCS giận dữ, gây gổ ), Sơn trở thành bạn của mọi người một người một cách rất tự nhiên.

Đôi mắt tinh anh, láu lỉnh, nụ cười hiền lành như một thầy tu, Sơn có cái phong thái của một thi nhân, cái khiêm tốn của một người có thực tài. Từ cách nâng ly uống một ly rượu, tiếp truyện với bạn bè, cách trang phục, giản dị nhưng trang nhã, cái phong thái thi nhân ấy hiện diện ở Sơn, thường trực, tự nhiên. Đừng tưởng ông thi sĩ nào cũng có phong thái thi nhân. Sartre nói về Heidegger, một triết gia hàng đầu mà chính ông chịu nhiều ảnh hưởng : « có những người ta chỉ nên biết tác phẩm, không nên biết đến con người, nếu không muốn thất vọng ». Heidegger là một triết gia lỗi lạc, lại cũng là ngươi theo chủ nghĩa nazi. Tôi đã quen những ông thi sĩ, tác giả những câu thơ rất đẹp, ăn uống , cư xử như một con heo đực.

TCS ở ngoài đời rất giống TCS người ta tưởng tượng khi nghe những bản nhạc tình của anh.

Chúng tôi, mới đầu, ngạc nhiên thấy một gã người Huế, rất thanh nhã, rất ung dung, từ tốn ; không phải cái từ tốn của 1 ông già, mà là cái ung dung quí phái của một con mèo ; với nụ cười hiền hoà thường trực trên môi. Sơn học chương trình Pháp, nhưng xử dụng tiếng Việt một cách tài tình. Nhiều chữ rất tầm thường, với Sơn, chợt trở nên truyền cảm ; nhiều chữ do Sơn bịa ra, nhiều hình ảnh đến từ một trí tưởng tượng phong phú, nếu không nghe Sơn giải thích, chắn chắn không ai hiểu. Mặc dù vậy, người ta cũng vẫn rung động, vẫn thấy cái Sơn nói đến rất thực, rất gần gũi. Đó là cái ma lực của chữ nghĩa, của thơ. Khi thơ đạt, khi chữ nghĩa có duyên nợ với nhau. Nhiều chữ, nhiều câu rất cũ, đột nhiên ở Sơn trở thành rất mới. Nhiều chữ nhiều câu rất cầu kỳ, đột nhiên gần gũi. Khi thất tình - người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ-, khi tuyệt vọng , mùa thu không về, mùa xuân cũng ra đi,ngay cả khi nói đến chiến tranh tang tóc- xác người nằm như mơ-, TCS không lúc nào quên mình là thi sĩ.

TCS nói về những cái rất riêng tư, những kỷ niệm rất riêng tư, qua một ngôn ngữ rất riêng tư. Và lạ lùng, cái riêng tư ấy của thi sĩ thấm vào lòng người nghe. Người ta xúc động mặc dù không hiểu từng câu, từng chữ. Nhất là trong những bản nhạc tình. Nói về chiến tranh, ngôn ngữ TCS là ngôn ngữ của mọi người ; chiến tranh là một tai hoạ chung, một thảm kịch của cả một dân tộc, không phải là thảm kịch của một cá nhân, mặc dù mỗi cá nhân là một thảm kịch.

Một người bạn tôi nói khi nghe Sơn hát đường phượng bay mù không lối vào, anh thấy hình ảnh rất đẹp, rất mới , nhưng không biết tác giả nói gì, cho đến một hôm, ở một tỉnh nhỏ, anh thấy hoa phượng rơi, bị gió cuốn mịt mù, đỏ rực cả con đường trước mắt.

Nếu không quen Sơn, ít ai biết ngày mai nối bước Sơn khê, nói đến một người bạn gái tên Khê ; ngàn cây thắp nến hai hàng, mầu nắng bây giờ trong mắt em mô tả những tia nắng cuối cùng của một buổi chiều tà đọng trên những ngọn cây, giống như ngàn cây thắp nến. (2)

Ngôn ngữ TCS khác với ngôn ngữ Phạm Duy (PD). Ngôn ngữ PD là ngôn ngữ ca dao. Hình ảnh của PD là hình ảnh của ca dao. Nhiều câu, nhiều hình ảnh trong nhạc PD không hiểu là của PD hay mượn từ ca dao. Đó không phải một lời chỉ trích ; đó là một lời ca ngợi. Bởi vì dùng ngôn ngữ của một dân tộc, nói lên tình tự của dân tộc không phải ai cũng làm được, là một điều rất đáng tự hào. Lời ca của PD ai cũng hiểu, hình ảnh của PD ai cũng đã từng thấy, vì trong tiềm thức, chúng ta đã sống với ca dao từ hàng ngàn năm nay. Trong môt bài báo ngày xưa ở trong nước (3), tôi viết tiếng hát Thái Thanh không có tuổi, vì đã làm say mê ba thế hệ. Tôi nghĩ thêm : tiếng hát Thái thanh qua nhạc PD không có tuổi vì chúng ta vẫn nghe từ hàng ngàn năm nay. Tiếng hát ấy gợi ra trong đầu người nghe những cánh đồng lúa xanh, tiếng cười rúc rích cúa cô thôn nữ, những làn khói lam trên những mái nhà tranh, tiếng chuông chùa ngân nga, tiếng hò hát của người nông dân những ngày được mùa, tiếng nghẹn ngào của bà mẹ mù mắt chờ con đi chinh chiến, tiếng than vãn của những đời lầm than, đen tối.

PD sống với ca dao, thở với ca dao, cười khóc bằng ca dao. Ít có người Việt nam nào Việt nam hơn PD. Có lẽ có một người : Nguyễn Bính. Nguyễn Bính là ca dao, ca dao là NB .



HAI NGHỆ SĨ, HAI CUỘC CHIẾN


Trên bãi cỏ trường VK, trước quán Văn, TCS và Khánh Ly hát trước hàng ngàn người hay chỉ năm, bẩy anh em. Không phải chỉ hát cho tình yêu. Sơn càng ngày càng bị ám ảnh bởi chiến tranh. Từ hình ảnh lãng mạn của người phu quét đường dựng chổi đứng nghe, chiến tranh trở thành cụ thể hơn, ghê rợn hơn :

Một buổi sáng mùa xuân
Một đứa bé ra đồng
Một trái mìn nổ chậm
Xác không còn đôi chân.


Nhạc tình TCS là những tiếng thở dài, có buồn cũng chỉ buồn thoang thoảng : mùa đông vời vợ, mùa hạ khói bay, có trách cũng chỉ trách nhẹ nhàng : người tình bỏ ta đi, như những giòng sông nhỏ. Một thái độ rất thiền, rất ‘zen’ ; trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt, rọi xuống trăm năm một cõi đi về.

Nói về chiến tranh, TCS kêu gào, phẫn nộ. Chiến tranh không còn từ xa vọng về như những ngày đầu, nó ở trước mắt : Xác người nằm trôi sông ; phơi trên ruộng đồng ; trên nóc nhà thành phố ; trên những đường quanh co. Cùng với cuộc chiến càng ngày càng dữ dội, tiếng kêu gào của Sơn càng ngày càng thảm thiết. Anh nói đến những em bé loã lồ, suốt đời lang thang, đếnnhững xác người nằm bơ vơ, dưới mái hiên chùa, đến những trái mìn nổ chậm, người chết hai lần. Chiến tranh trở thành khốc liệt, tang tóc đổ xuống dân tộc kinh hoàng . Từng vạn chiếc xe , claymore lựu đạn. Hàng vạn chuyến xe mang vô thị thành. Từng vùng thịt xương, có mẹ có em. TCS của chiến tranh trở thành một người dở điên, dở dại, thất thểu, chiều đi trên đồi cao, hát trên những xác người. Hình ảnh bi thảm, ma quái . Một thi sĩ thất thểu trên bãi dâu, hát bên những xác người . Đi trên đồi cao, bên cạnh xác người là một hình ảnh bi thảm, nhưng hát bên những xác người, hình ảnh mang thêm một cái gì ma quái, điên dại. Bi đát như chiến tranh với những con ngựa hý điên cuồng trong tác phẩm Guernica của Picasso.

Ngôn ngữ TCS về chiến tranh khác với ngôn ngữ TCS về tình yêu. Chiến tranh trong nhạc TCS cũng khác chiến tranh trong nhạc Phạm Duy.


PD có ‘’ cái may ‘’ sống trong một cuộc chiến tranh chống Pháp, có địch, có thù, chiến tuyến phân minh. PD, 24 tuổi lên đường tham gia kháng chiến, như hàng ngàn hàng vạn thanh niên khác. Chiến tranh trong nhạc tiền chiến của PD nó hào hùng, nó bừng bừng khí thế. PD tiền chiến không có cái cấu xé, cái dằn vặt. Cái chọn lựa của PD nó hiển nhiên. Nhạc PD không có cái lưỡng lự, nó là một tiếng quân ca, tiếng gọi lên đường. Bên cạnh cái hào hùng là cái lãng mạn của một trí thức tiểu tư sản ở tuổi 20, của một nghệ sĩ giầu tình cảm. Đó là cuộc chiến của những cô nàng gánh lúa cho anh đi diệt thù, của những chiến sĩ dừng chân trên chiếc cầu biên giớitưởng tới người yêu ở quê xa.

Điều đó không có nghĩa là trong nhạc PD không có cái bi thảm của chiến tranh. Nhạc PD có bà mẹ Gio Linh lên đường đi kiếm xác con bị giặc chặt đầu, có bà mẹ đón người con thương binh trở về, tiếc rằng ta đôi mắt đã loà vì quá đợi chờ. PD nói ông làm tới ba bài người thương binh vì ông sống qua ba cuộc chiến. Tác giả Con Đường Cái Quan nói ông khác xa những nghệ sĩ khác thời tiền chiến vì họ chỉ làm nhạc hùng ; trong khi ông nói cả đến cái bi thảm của chiến tranh. Nhưng cái tàn phá của chiến tranh, cái thảm hoạ đổ lên đầu dân tộc càng khiến PD thấy cuộc chiến tranh của mình có ý nghĩa hơn. PD thuộc những người, như Malraux nói, không thích chiến tranh, ( bởi vì có những người thích chiến tranh, coi đó là lẽ sống) nhưng tham chiến một cách dứt khoát vì là chuyện phải làm.

Cuộc chiến của TCS khác, cái nhìn của TCS khác. Đối với Sơn, đó chỉ là một cuộc nội chiến tương tàn. Nạn nhân là nước Việt, người Việt :

Hàng vạn tấn bom trút xuống ruộng đồng
Cửa nhà Việt nam cháy đỏ cuối thôn

Lật xác người chết, chỉ thấy đồng bào, cha mẹ, anh em :

Bên xác người già yếu
Có xác còn thơ ngây
Xác nào là em tôi
Dưới hố hầm này
Trong vùng lửa cháy
Bên những vườn ngô khoai

Những câu hát làm người ta nghĩ đến chiến tranh của Quang Dũng :

Mẹ già tôi em có gặp đâu không
những xác già nua ngập cánh đồng
tôi cũng có đàn em nhỏ dại
bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông


Ngay cả ở cùng một thời điểm, cái nhìn về chiến cuộc của hai nhạc sĩ cũng khác nhau. Với TCS, đó là một cuộc nội chiến mà người Việt nam là nạn nhân. Với PD, đó là cuộc chiến Quốc Cộng nối dài, mặc dù sau này, Phạm Duy, vì cơm ăn áo mặc, hay vì một lý do gì khác, đã vứt bỏ cái hình ảnh của một nghệ sĩ dấn thân, đánh đổi vai trò thần tượng của một thế hệ để đóng vai trò ‘hàng thần lơ láo’.

Ca ngợi cái chết của một phi công-Phạm phú Quốc-PD gọi tên anh, anh là Quốc. Gọi tên anh, anh là nước. Đặt tình yêu nước vào nôi. Viết cho một phi công khác tử trận, TCS không nói đến chiến công, không ca ngợi anh hùng, chỉ nói đến một kiếp người : anh đã đến, đã bay cao trong vòm trời này, đã vui chơi trong cuộc đời này.

Trong « Em hỏi anh bao giờ trở lại » PD viết anh trở về bại tướng cụt chân. Nếu Sơn là tác giả, tôi nghĩ chắc Sơn viết anh trở về vì đã cụt chân. Đối với Sơn, không có chiến có bại ; chỉ có người Việt nam bị cuốn hút vào một cuộc chiến tương tàn. Nếu chưa bị cụt chân thì còn đánh nhau. Đó là một cái nhìn cực kỳ bi đát về cuộc chiến.



NGHỆ SĨ VÀ CUỘC CHIẾN


Trong cuộc chiến ấy, TCS không có chỗ đứng.

Người Cộng sản không chấp nhận anh là chuyện đương nhiên. Với người CS không có chuyện lưng chừng, lưỡng lự, phân vân.   Những người chống Cộng lên án Sơn đã trở cờ. Nhưng đọc kỹ những lời ca anh viết sau 75, không thấy một lời ca chứng tỏ anh về hùa, tâng bốc nhà cầm quyền. Nó vẫn chỉ là những lời ca ngợi tình yêu ; kêu gọi tình anh em, nghĩa đồng bào. Không hề thấy hô hào thù hận, như Xuân Diệu chẳng hạn, khi « nhà thơ của tình yêu ’’ ( ! ) kêu gọi đấu tố năm nào :

Lôi cổ bọn chúng ra đây
bắt quỳ gục xuống, dập đầu chết thôi
bắt chúng đứng, cấm cho ngồi…




Còn nhạc gọi là phản chiến trước 75 ? TCS chỉ làm công việc của một nghệ sĩ : diễn tả cái thảm kịch của chiến tranh, cái đoạ đầy của một dân tộc. Ai không chia sẻ giấc mộng của Sơn : khi đất nước tôi không còn giết nhau ,trẻ em đi hát đồng dao ngoài đường.


Một câu hỏi đáng được đặt ra : TCS có ảnh hưởng xa gần đến việc miền Nam thua trận ? Có thể. Rất có thể. Một người lính xúc động vì hàng vạn tấn bom trút xuống ruộng đồng ; từng vùng thịt xương có mẹ có em chắc chắn không chiến đấu hăng say bằng những người cuồng tín. Một người lính than vãn ‘ôi chinh chiến đã mang đi bạn bè, ngựa hồng đã mỏi vó, chết trên đồi quê hương’, chắc chắn không hữu hiệu chém giết bằng một người lính suốt đời chỉ đưọc dạy ăn gan uống máu quân thù. Một quân đội suốt ngày nghe (trên dài phát thanh nhà nước !) những câu người già co ro, buồn nghe tiếng nổ. Em bé loã lồ, khóc trẻ thơ đi, chắc chắn không xả súng tưng bừng bằng một cán bộ suốt đời chỉ biết vực sâu thăm thẳm, vực nào sâu bằng chí căm thù.( Hò Kéo Pháo )Nhưng nếu cuộc chiến đấu của miền Nam có ý nghĩa, cái ý nghĩa ấy chính ở chỗ nó cho phép mọi người, trong đó có nghệ sĩ, được tự do diễn đạt tư tưởng của mình. Đó là cái yếu của một chế độ dân chủ, ngay cả dân chủ tương đối. Năm người mười ý, trống đánh xuối, kèn thổi ngược. Đó cũng là lẽ sống của một nền dân chủ. Cái giá phải trả ; bởi vì không có chọn lựa nào khác. Nói theo kiểu Winston Churchill : dân chủ là chế độ dở nhất, nếu không kể các chế độ khác.

Khó trách người nghệ sĩ bày tỏ sự rung động của mình trước cái đau thương của đồng bào. Ngay cả Phạm Duy, tác giả bài ca tụng Phạm phú Quốc, người đã tử nạn trong chuyến oanh tạc Hà nội, gọi tên anh anh là Quốc, gọi tên anh là nước, gọi tình yêu nước vào nôi, cũng đã kêu giết người đi thì ta ở với ai ? Khó trách nghệ sĩ bày tỏ sự rung động của mình. Cái điều lạ, cái cảnh khó tin nhưng có thực, là những đêm không ngủ chống chiến tranh ở Văn khoa ngày xưa diễn ra ngay ở trung tâm Sài gòn, với … cảnh sát, quân đội giữ an ninh chung quanh sân trường.



HUYỀN THOẠI DA VÀNG



Nhiều người trách cái ngây thơ chính trị của TCS. Nhưng cái ngây thơ chính trị của nghệ sĩ, của trí thức là chuyện rất phổ thông. Chỉ cần nêu trường họp Jean Paul Sartre, suốt đời hô hào ủng hộ cách mạng vô sản, nhắm mắt trước cái dã man, chà đạp nhân quyền trong những goulag. Chiến tranh, chính trị phức tạp hơn là tình cảm của nghệ sĩ.

Chẳng hạn, TCS day dứt về ‘thân phận da vàng’, đến kiếp nô lệ da vàng ; hết tiếng nói da vàng đến dư khúc da vàng. Làm như cái bất hạnh của dân tộc nằm trong cái nghiệp sinh ra từ mầu da, quên rằng nhiều dân tộc khác, cũng vàng khè không thua gì người An nam ta, đang tiến nhanh, tiến mạnh. Nhật Bản đã làm Tây phương thất điên bát đảo trên mọi phương diện, Đại hàn trở thành một cường quốc, Trung Hoa sẽ là một trong hai lãnh tụ thế giới, và những nước phát triển nhất trên địa cầu, Đài Loan, Singapore là những nước da vàng. Một triết gia nói : ‘có hai loại người, những người chấp nhận làm nô lệ và những người không chấp nhận’. Vàng, xanh, trắng, đỏ không liên hệ gì đến thân phận của một dân tộc. Ai đã gặp một người Nhật có mặc cảm da vàng ? Họ không muốn thua ai, không muốn bằng ai, họ muốn trên mọi người, đứng đầu thiên hạ, họ không biết hai chữ thân phận, vàng hay xanh.

Những câu hát phản chiến của TCS là những tiếng nói của tình cảm, không phải là một phân tách chính trị, không phải những hô hào chính trị. Đó chỉ là những giọt nước mắt, Giọt nước mắt thương đất, đất cằn cỗi bao năm, giọt nước mắt thương dân, dân mình phận long đong, thoát ra từ trái tim, mặc dù những giọt nước mắt đó, vì khả năng truyền cảm của nó, chắc chắn đã có ảnh hưởng đến chính trị, đến chiến cuộc.


CHỮ NGHĨA ÍCH GÌ


Từ nhũng năm 64-65 chiến tranh càng ngày càng dữ dội. Xã hội càng ngày càng xáo trộn, tình hình chính trị càng ngày càng nát bét. Ngay cả trong bối cảnh đó, trường Văn khoa vẫn sinh hoạt mạnh. Số sinh viên càng ngày càng đông. Ban giảng huấn đã rất tận tuỵ góp phần vàp việc phát triển Văn khoa Sai gòn. Cố nhiên, đó chưa phải là một trường đại học tân tiến, kiểu mẫu. Phương pháp giáo huấn còn cổ hủ, từ chương khoa cử, chưa thực sự có đối thoại, trao đổi giữa thầy và trò. Nhưng ngay cả ở Sorbonne, cũng vẫn còn cái cảnh ông thầy ngồi trên giảng đường, thao thao bất tuyệt, đám sinh viên ngồi dưới hí hoáy biên chép như các cụ đồ ngày xưa dạy học

Nền giáo dục Việt nam thời đó hoàn toàn miễn phí, từ mẫu giáo đến đại học. Trong một nước chiến tranh, thực hiện một nền giáo dục hoàn toàn miễn phí là một cố gắng đáng kể. Người ta có thể chê trách chế độ rất nhiều điểm, nhưng đó là một điểm son phải ghi nhận. Điểm son đó là nhờ ý thức của những người có trách nhiệm, hay nhờ truyền thống tôn trọng học vấn của 1 xã hội Khổng giáo ? Khổng giáo, ít nhất trên phương diện đó, có khía cạnh tích cực với xã hội VN. Điều chắc chắn : nếu không có nền giáo dục hoàn toàn miễn phí, hầu hết chúng tôi đã bỏ học từ lâu.


Một câu hỏi luẩn quẩn trong đầu tôi từ nhiều năm : một trường Văn khoa đóng vai trò gì trong một nước chiến tranh ? Chữ nghĩa ích gì cho buổi ấy ? (Nguyễn Khuyến). Bên cạnh bom nổ, thịt rơi, cái sống cái chết gần kề, có phi lý không khi ngồi đó mổ xẻ Tứ thư ngũ kinh, phân tích tư tưởng Socrate, tìm hiểu nguồn gốc chữ nôm. Bên cạnh cái nghèo đói của một xã hội lạc hậu, có vô nghĩa không khi ngồi đó tụng niệm kinh điển bách gia, rung động với Lord Byron hay Beaudelaire ? Sartre nói bên cạnh một đứa trẻ chết đói, cuốn La Nausée không có một giá trị gì.

Câu hỏi ấy lởn vởn trong đầu, rất nhiều năm, và tôi đã thực sự nhiều lúc hoài nghi, không tìm được câu trả lời.

Câu trả lời, mãi sau này tôi mới tìm ra. Câu trả lời tên là Céline, một cô bạn Pháp. Một buổi chiều thứ bẩy, tôi lên phi trường đón Céline từ Sarajevo về. Céline là một thiếu nữ thông minh, có bằng cấp, có chỗ làm tốt trong một công ty lớn, sống nhàn hạ trong cái xã hội hưởng thụ là cái xã hội Pháp. Weekend bay qua Madrid hay Marakech. Mùa đông trượt tuyết ở Courchevel, mùa hè nghỉ mát ở Bali hay Bora Bora. Tóm lại, cô nàng có đủ thứ để hạnh phúc. Nhưng thay vì hạnh phúc, Céline lúc nào cũng tất tả ngược xuôi, mệt mỏi cả thể xác lẫn tinh thần ; nhất là tinh thần. Rồi thuốc ngủ, thuốc an thần, hết Lexomil đến Prozac.

Một buổi, Céline dẹp hết, bỏ việc, bán nhà, bán xe. Và biệt tăm. Adieu Céline. Cho đến cái hôm ở phi trương, tôi gặp lặi Céline, nhưng một Céline khác, má rất hồng và miệng rất tươi. Céline nói sau khi vứt bỏ mọi chuyện, cô nàng gia nhập một ban hợp tấu, lưu diễn khắp nơi. Céline là một tay violon thiện nghệ, từ nhỏ vẫn mơ thành nhạc sĩ. Céline lãnh một số lưng tượng trưng, đủ cà- phê, thuốc lá, vì ban nhạc thường đi trình diễn ở những nước nghèo. Họ vừa ở Sarajevo về. Trình diễn hoà tấu ở Sarajevo, nơi người ta giết nhau như ngoé, nơi người ta thí mạng để cướp một ổ bánh mì, một cái mền ? Ở đó, người ta chờ bột mì, thịt cá, đường muối, bột giặt, aspirine, ai chờ Beethoven với Mozazt ? Ban đầu, Céline cũng nghĩ như vậy. Nhưng đêm trình diễn nào cũng đông nghẹt.

Trong một ngôi nhà thờ đổ nát, một trường học còn đang cháy dở, mưa dột vì mái nhà bị pháo kích loang lổ, người ta chen lấn nhau tới nghe nhạc. Ban ngày, người ta chạy bom, dành giựt nhau miếng ăn, một mớ củi để sưởi. Đêm xuống, người ta kéo nhau đi nghe nhạc. Đàn bà lục hành lý, lôi ra những nữ trang, những bộ quần áo đẹp. Có ông thắt cà vạt chỉnh tề. Có bà vừa nghe nhạc vừa lặng lẽ khóc. Céline vừa chơi nhạc vừa cầm nước mắt. Cô nàng vừa tìm thấy hạnh phúc. Chưa bao giờ cô nàng thấy yêu đời như vậy, yêu mình như vậy. Lần đầu tiên, Céline thấy mình có ích. Cô ta tìm thấy hạnh phúc của mình trong cái hạnh phúc của người khác. Y chang tâm trạng của lớp người trẻ chúng tôi ngày xưa khi đi cứu lụt, đào giếng.

Céline nói có thấy tận mắt cái cảnh người ta lấy tờ báo che mưa nghe nhạc trong một ngôi nhà đổ nát, mới thấm thía cái câu quen thuộc của người Pháp : On ne vit pas que du pain. Người ta không phải chỉ sống bằng bánh mì. Ngay cả trong những lúc khốn cùng, cái đẹp, cái thẩm mỹ không phải là một xa xỉ, vô ích. Cái đẹp sẽ cứu nhân loại, không phải Marx hay Lénine, không phải Ben Laden hay Bush.

Cái đẹp sẽ cứu vãn nhân loại. Người ta đã từng giết nhau, hành hạ nhau, bỏ tù nhau nhân danh thượng đế , nhân danh chính nghĩa, nhân danh giáo điều, nhân danh đất nước, nhân danh đồng bào, nhân danh chân lý. Chưa bao người ta giết nhau nhân danh cái đẹp. Người ta giết nhau vì thánh kinh, vì Coran, vì Hitler, vì Mao, vì Mác, chưa bao giờ người ta giết nhau nhau vì Picasso, Beaudelaire, Nguyễn Du. Sau này, khi giận hờn sẽ quên, những gì người ta nhớ lại về TCS là những bát hát, những câu thơ đẹp.

Cái đẹp sẽ cứu vãn nhân loại. Cái đẹp không phải chỉ là những tác phẩm văn hóa. Cái đẹp còn là, cũng là, nhất là tình người, một xã hội của những người tử tế, lương thiện. Đem cái dối trá, đểu cáng, bất nhân làm tiêu chuẩn cho đời sống là cách hữu hiệu nhất để làm tiêu vong dân tộc. Biến tác giả của ‘tôi khờ dại quá, ngây thơ lắm. Chỉ biết yêu thôi, chẳng biết gì’, của ‘ít nhiều thiếu nữ buồn không nói, tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì ’, thành một người gào thét, căm hờn lôi cổ bọn chúng ra đây, là một thành quả ghê rợn nhất của công cuộc huỷ diệt cái đẹp.

Ismail Kadaré nói ngay cả trong những lúc cực kỳ khó khăn vẫn phải có thái độ nghiêm trọng đối với văn hoá. Kadaré sinh ra, lớn lên và viết văn trong một hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, ở một nước Cộng sản độc tài bực nhất thế giới : Albanie. Kadaré viết văn trong một xứ kiểm duyệt khắt khe, một nước vỏn vẹn ba triệu dân, nghèo đói, người mù chữ đông hơn người biết đọc, biết viết. Và viết bằng tiếng Albanie. Mặc dầu vậy, ông viết văn với một thái độ cẩn trọng. Ngày nay, Kadaré được coi là một trong những nhà văn quan trọng nhất thế giới.

Nghệ thuật, cái đẹp có công dụng gì ? Chẳng có công dụng gì. Nhưng đời sống không có cái đẹp sẽ buồn tẻ biết bao nhiêu. Bức tượng của Michel Ange, bức tranh của Van Gogh không có công dụng gì, nhưng hãy tưởng tượng một thế giới không có Michel Ange, Van Gogh. Hãy tưởng tượng Paris không có tháp Eiffel, New-York không Nữ thần Tự do.

Nghe cô nàng Céline kể chuyện về những buổi trình tấu ở Sarajevo, tôi hiểu rằng trong một xứ chiến tranh, nghèo đói, một trường Văn khoa chẳng có ích lợi thiết thực gì, nhưng nó là cái cốt yếu cho một dân tộc còn muốn vươn lên .



ĐỜI SAO IM VẮNG



Tôi gặp lại TCS những ngày cuối cùng của năm 1999, khi về thăm Việt nam. Sơn ngồi trước một cái bàn nhỏ, trong sân Hội Văn nghệ sĩ gì đó ở Sai gòn. Vẫn nụ cười hiền lành, nhưng buồn bã, vẫn thái độ từ tốn, phong nhã,vẫn đôi kính đồi mồi nhưng trước mắt tôi là một TCS lục tuần bịnh hoạn, mệt mỏi, mặc dầu đôi mắt vẫn sáng lên khi nghe đến tin bè bạn. Sơn hỏi thăm tin tức về người này ở bên Tây, người kia ở bên Mỹ. Sơn nói về những người ở lại, kẻ mất, người còn.

Bơi trong cái áo sơ mi rộng thùng thình, Sơn nói :mình chỉ còn 39 kí. Sơn nói rượu đã tàn phá lá gan đến độ không có thuốc gì chữa nổi. Có người sẵn sàng đưa anh đi ngoại quốc giải phẫu gan nhưng anh từ chối. Sơn nói anh rất mệt, nhiều khi xây xẩm mặt mày vì bịnh áp huyết thấp (hypotension).

Vừa nói chuyện, Sơn vừa chào hỏi của những người qua lại. Vị nhạc sĩ lão thành, tác giả bài Dư Âm nổi tiéng hồi nào ở Hà nội (đêm qua mơ dáng em đang ôm đàn mơ bao tiếng tơ…) kể chuyện đi thăm bác sĩ, chuyện thuốc men. Nhạc sĩ Trần Tiến nói về đêm ca nhạc thành công tuần trước. Ông Vũ Hạnh chạy qua chạy lại hối bài cho một đặc san kỷ niệm ‘cuộc chiến chống Mỹ cứu nước’.

Sơn ngồi đó, mỉm cười hiền lành, buồn bã. Tôi hỏi Sơn có tính đi ngoại quốc chơi một chuyến, nhân tiện chữa bệnh, dù tôi biết Sơn đang sống những ngày tháng cuối cùng. Nếu người nghiện rượu tiếp tục uống, dù có thuốc thánh, dù có gỉai phẫu gan cũng không thay đổi gì. Sơn không muốn nghỉ rượu, hay không nghỉ được. Sơn nói mình uống ít hơn trước nhiều. Sơn mỉm cười : mình sang đó, sợ các ông ấy đập mình. Rồi tiếp : sự thực thì ở bên Pháp không có vấn đề gì, bên Pháp ít có người quá khích ; kỳ trước mình qua Pháp, anh em đãi ngộ rất tử tế.

Sơn tiếp : nói cho đúng, mình mệt lắm, có muốn cũng không đi được. Sơn nói, từ tốn, không lộ một chút xúc động. Anh đang ở một cõi khác, những cái lăng nhăng ở cuộc đời này không liên hệ gì đến anh nữa. Nghe tôi sắp đi Nhật, Sơn nói đến một cô sinh viên Nhật Bản làm một luận án về nhạc của Sơn, về ngôn ngữ và chiến tranh trong nhạc TCS.

Khi tôi ra về, Sơn đưa cho tôi số điện thoại ở nhà riêng : « ráng đến chơi, mình có chuyện muốn nói. Thằng em mình, biết cậu về, chắc nó mừng lắm ». Em Sơn ngày xưa cũng la cà ở quán Văn.

Tôi nghĩ Sơn muốn nói những gì không thể nói được ở một nơi có nhiều người qua lại. Tôi ân hận vì không có thì giờ tới nhà Sơn như đã hứa, vì phải rời Việt nam ngày hôm sau. Tôi rời Sai gòn ngày mùng 1 tháng giêng năm 2000. Thế giới đang bước sang một thế kỷ mới. Tôi gọi điện thoại chào Sơn. Anh hỏi : cậu đi ngày đầu năm 2000, không sợ ‘’ sự cố ‘’ à ? . Tôi nói sự cố nó sợ tôi chứ tôi sợ gì nó. Hồi ấy, ở Sai gòn, người ta kỵ đi máy bay ngày đầu năm 2000. Sơn nói, gịong buồn : nếu gặp lại X,Y cho mình gởi lời hỏi thăm ; chắc mình không có dịp gặp lại anh em nữa. Ôi chinh chiến đã mang đi bạn bè. Ngựa hồng đã mỏi gối chết trên đồi quê hương.

Mỗi lần nghe nhạc TCS, tôi nghĩ đến cái cô đơn cùng tận của người nhạc sĩ ngồi trước cái bàn nhỏ ngoài sân, mỉm cười với người này người kia, nhưng đầu óc ở một nơi khác. Sơn ngồi đó, cô độc. Một mình tôi về với tôi. Đem cái cô đơn của kiếp người nhân lên gấp 10, bạn có cái cô đơn của người nghệ sĩ, nhân lên trăm lần có cái cô đơn của người nghệ sĩ Việt nam, nhân lên ngàn lần có cái cô đơn của TCS. Cái cô đơn của một người suốt đời ca ngợi tình yêu, tình đồng bào – ngày mai sỏi đá cũng cần có nhau-mà cuối cùng bị chỉ trích từ mọi phía. Sơn ngồi đó, nâng niu cô đơn từng ngày. Cuộc đời còn nhiều đắng cay. Sơn ngồi đó, một mình, giữa nhiều người

Đời sao im vắng
Như đồng lúa gặt xong
Như rừng núi bỏ hoang
Người về soi bóng mình
giữa tường trắng lạnh câm


Cái sân chỗ Sơn ngồi đông người qua lại, và ngoài đường xe hơi, xe gắn máy chạy loạn xà ngầu, nhưng Sơn ngồi đó, giữa tường trắng lạnh câm.


ANH ĐÃ ĐẾN, ĐÃ VUI CHƠI…



Sơn ra đi ngày 1 tháng tư 2001, hưởng thọ 62 tuổi. Sáu mươi hai tuổi , đời người như gió qua. Ở bên Pháp, ngày 1 tháng tư là ngày ‘ cá tháng Tư ,(poissons d’Avril), ngày người ta đùa nhau bằng những chuyện hoàn toàn bịa đặt. Báo cho một ông nhà văn hạng bét là ông ta vừa chiếm giải Goncourt. Thú với cô fiancée là đã có vợ với ba con, rồi sau đó cho hay đó chỉ là những cá tháng Tư, những chuyện đùa chơi.

TCS ra đi thật hay chỉ thả một một con cá tháng Tư ?

Sơn đã đến, đã vui chơi trong cuộc đời này. Bây giờ có lẽ anh đang bay cao trong bầu trời này. Nhưng, nhiều lúc, tôi tự hỏi có quả thật anh đã vui chơi trong cuộc đời này. Có bao nhiêu người Việt nam đã thực sư vui chơi trong cuộc đời này ?



(1)Tư tưởng Phương Đông / Cao Xuân Huy.- Nhà xuất bản Văn Học. Hanoi, 1995

(2)Trịnh Cung, Phan Thanh Tâm. Thế kỷ 21, May 2001

(3)Đất Mới. Saigon, 1966

Thứ Ba, 26 tháng 4, 2016

Bàn Về Trung Cộng





Phan Hưng Duy



Gần đây tôi cũng thường theo dõi báo đài, các bản tin từ vietnamnet, BBC, VOA đến tận mạng sina, mạng fenghuang, mạng renmin của Trung Quốc. Bản thân cũng đã thu lượm được một bức tranh tương đối hoàn chỉnh với nhiều ý kiến khác nhau từ những bên khác nhau. Và dường như tôi càng đọc, tôi chỉ thấy được một điều rằng: mọi hành động của Trung Quốc là rất quá đáng, hung bạo, mang tính chất của một tên xâm lược còn mang nặng tư tưởng Đại Hán.



Phát ngôn viên bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Phương Nga (trái), bà Khương Du, phát ngôn viên bộ Ngoại giao Trung Quốc (ảnh ghép - RFI)

Nếu ai biết tiếng Trung đọc một số bài gần đây nhất của một số học giả Trung Quốc, chúng ta còn thấy họ chửi VN thậm tệ, không ra gì.. Nhưng đã có ai trong số các bạn thử suy ngẫm xem đằng sau mọi hành động, mọi phát ngôn của Trung Quốc từ bà Khương Du đến các học giả được coi là “chính danh” của họ ẩn chứa mục đích gì? Đã bao giờ bạn liên hệ với thực tế trước đó với hành động & phát ngôn TQ hiện tại để phát hiện ra được điều gì chưa? Như trong một bài Note gần đây, tôi đã dịch một bài trên mạng “Quân sự thiên thiên” của Trung Quốc – một trong những trang mạng được coi như cứng rắn và “dân tộc chủ nghĩa” nhất tại TQ, bài viết có tên là “TQ sử dụng vũ lực giải quyết vấn đề biển Đông, nước nào là đối tượng đầu tiên”.

Trong bài viết này, dù là những đối tượng ôn hòa hay hiếu chiến nhất cũng đều công nhận “4 điểm bất lợi khi TQ tiến hành tấn công các đảo tại biển Đông của VN”, và những người này đều khẳng định rằng: cái lợi mà TQ thu về không bằng những thiệt hại mà TQ phải hứng chịu khi tiến hành cuộc tấn công. Và trên những trang mạng như sina hay fenghuang, người TQ (những quan chức quân sự) cũng đã thừa nhận mục đích của những hành động mà họ gây ra với Việt Nam hay Phillipines đều nhắm vào một thỏa thuận có lợi với Mĩ tại diễn đàn quân sự Shangri La.

Ngoài ra TQ còn có mục đích khác chính là muốn thử thái độ cuả Việt Nam chúng ta và còn để thỏa mãn một bộ phận tại TQ “muốn dùng vũ lực giải quyết tranh chấp” tại biển Đông. Chứ thực sự những nhà lãnh đạo cũng còn lâu mới dám phát động một cuộc chiến tranh tổng lực tại biển Đông trong điều kiện TQ chưa phải là số một của thế giới và nên nhớ thực lực của TQ còn thua xa Mĩ. Còn nếu những nhà lãnh đạo này mù quáng thực thi một chính sách diều hâu thì chắc chắn tự họ sẽ chôn vùi dưới đáy biển Đông không chỉ tính mạng của binh sĩ, tàu bè, đạn dược mà còn là thành tựu kinh tế của quá trình Cải cách mở cửa trong suốt hơn 30 năm qua.

Thực lực của TQ cũng không cho phép TQ quá tự tin tiến hành những hành động quân sự đơn phương như Mĩ, không phép cho TQ thoát khỏi tình trạng“thao quang dưỡng hối”. Bởi nếu họ từ bỏ những gì mà họ đã tuyên bố, họ từ bỏ lời răn dạy của Đặng Tiểu Bình, từ bỏ một nước “TQ phát triển cùng thế giới” để trở thành một “cường quốc xét lại” thì họ chỉ đi theo vết xe đổ của các nước phát xít trước kia. Mà nên nhớ ngày xưa Phát xít còn có cả 1 phe Trục, còn nay TQ chỉ có một mình!

Các bạn à! Chúng ta đều là những con người yêu nước, đều là những con người có học, chúng ta cũng không thể phát ngôn hay hành động một cách thiếu suy nghĩ trước những vấn đề nhạy cảm như vậy. Bạn nên nhớ trong chính trị, trong quan hệ quốc tế, để giải quyết một vấn đề thì cái đầu luôn đi trước trái tim. Chúng ta phải nhìn cho thấu cho rõ sự việc rồi mới hành động. TQ thực sự vi phạm chủ quyền của VN và có những tuyên bố phi đạo lý. Đúng là như vậy! Nhưng những người làm những điều này là những kẻ mang nặng đầu óc Đại Hán của Trung Quốc – chỉ là một bộ phận nhỏ trong hơn 1 tỷ 3 dân TQ.

Chúng ta chống ở đây là chống tư tưởng cường quyền, Đại Hán, chống những hành động phi đạo lý chứ chúng ta không chống nhân dân TQ, không phỉ báng tiếng Trung, không phỉ báng những thành tựu mà nhân dân Trung Quốc đã gian khổ lao động để cống hiến cho nhân loại.

Nhân dân TQ họ cũng giống như nhân dân VN vậy, họ cũng là những con người bình dị, cần cù, chịu khó và trọng lễ tín. Những con người TQ đó bạn phải tiếp xúc thực sự mới hiểu được họ! Trong xã hội nào cũng vậy thôi bạn ạ, cũng có người tốt kẻ xấu. Ngay cả ở VN ta cũng vậy. Vẫn còn tồn tại những kẻ miệng thì nói tôi chống “Tàu khựa”, tôi yêu đồng bào tôi lắm trên Facebook, nhưng còn ra bên ngoài sẵn sàng chửi bới, đánh những người đồng bào của mình sứt đầu mẻ trán chỉ vì những vụ việc nhỏ nhặt trên đường, vẫn còn những kẻ sống hoang tàn, phá hoại, là con sâu ăn bám của xã hội.. Và đó chỉ là những kẻ muốn mượn thời cuộc để đánh bóng bản thân, thực sự đó chỉ là những kẻ bỏ đi mà thôi.

Vẫn có những kẻ ở hải ngoại muốn lợi dụng tinh thần chống Trung Quốc của người Việt Nam để chia rẽ dân tộc, muốn áp đặt lại cái tư tưởng “Nam- Bắc kỳ”. Hay chính những tay gián điệp của TQ muốn kích động, lợi dụng quần chúng tại VN, nhằm thực hiện những mục tiêu phá hoại.

Bạn ạ, thái độ nhẫn nhịn của ta với TQ là có nguồn gốc truyền thống rồi, từ thời Trần Hưng Đạo khi triều đình chịu cảnh sứ giả "uốn lưỡi cú diều mà xỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ", rồi thời Lê Lợi, giết được Liễu Thăng, nhưng mà vẫn phải cống cho nhà Minh 1 tượng Liễu Thăng bằng vàng.. TQ rõ ràng chỉ thử chúng ta, TQ nếu mà đánh thì bản thân TQ cũng không được lợi gì đâu.. Nên ở đây nói là nhẫn nhịn chứ không phải là nhục! Chúng ta chỉ hành động khi nào TQ có những hành động thực sự xâm phạm. Làm ngoại giao hay chính trị cái quan trọng là giữ được bình tĩnh và đừng nôn nóng.



Bạn à, hãy nhìn vào dân tộc Nhật Bản. Tại sao xuất phát điểm của họ từ một nước ngang hàng VN từ trước thế kỷ XIX mà họ đã vươn lên trở thành một cường quốc. Tôi cũng đã gặp gỡ nhiều người Nhật Bản và cái tôi nhận ra ở họ chính là sự điềm tĩnh, lòng can đảm.

Ở Nhật, trẻ em được dậy, trầm tĩnh là biểu hiện của can đảm, không để bị giao động vì những bất ngờ, không có gì có thể làm giao động, bình thản trong trận mạc, giữ bình tĩnh trước tai ương. Động đất không làm Samurai xao xuyến, Samurai cười trước bão tố, giữ được tự chủ làm thơ khi đợi cái chết đến.. Người Nhật Bản khiến tôi phải khâm phục, họ đã chỉ cho tôi những bài học về lòng can đảm, về sự bình tĩnh. Phải chăng chính lòng cam đảm, sự bình tĩnh đó đã giúp họ vượt qua được sự mặc cảm thấp kém, vượt qua được ảnh hưởng của những “ông thánh Trung Hoa” và trở thành một thực thể độc lập hòan toàn với Trung Quốc!

Bạn à! Hãy đừng có dễ dàng và vô tâm nói đến hai chữ “Chiến tranh”. Hãy đừng nói hai chữ đó, khi bản thân bạn chỉ là một kẻ suốt ngày ngồi trong phòng máy lạnh và giết thời gian một cách vô ích. Hãy đừng nói hai chữ đó khibản thân bạn chưa hiểu việc binh đao là như thế nào! Cũng đừng nói hai chữ đó khi bạn chưa hiểu độ thảm khốc của “Chiến tranh”. Bạn nên giữ bình tĩnh, bạn nên tỉnh táo! Bạn hãy yêu nước một cách thiết thực nhất, hãy biến những gì bạn suy nghĩ thành những hành động cụ thể và lí trí hơn. Theo tôi, những hành động đó tùy theo suy nghĩ của mỗi người nhưng mà đều có chung một cái nền tảng đó là “lí trí” và “trí tuệ”!

Chiến tranh không phải là điều mà 87 triệu con ngườ VN mong muốn, cũng không phải là điều mà 1,3 tỷ người TQ mong muốn. Chiến tranh chỉ là sản phẩm bẩn thỉu của những kẻ bá quyền mà thôi! Bản thân tôi, tôi yêu những người thân quanh tôi, tôi yêu con phố nơi tôi sống, tôi yêu mái trường nơi tôi học, tôi yêu đất nước nơi tôi sinh ra, tôi cũng có thể sẵn sàng bình thản chấp nhận cái chết khi đánh đổi bản thân tôi với những gì mà tôi yêu quí. Bản thân tôi cũng rất coi trọng, quí mến những con người TQ bình dị, những người bạn TQ của tôi, gia đình bác Diệp Kiến Quân- giảng viên trường Bắc Đại, những người đã gắn bó với gia đình tôi trong suốt 15 năm qua.. Và với tôi, để thể hiện tình yêu đó, nhiệm vụ duy nhất của tôi vẫn chỉ là học tiếng Trung thật tốt, nghiên cứu TQ thật sâu và luôn mong muốn một nền hòa bình thực sự lâu bền.

Phan Hưng Duy (098.797.3053)

“Trong trần ai, ai dễ biết ai?” hay chuyện Gieo và Gặt







Võ Hương An
Nhà Nghiên cứu, Hoa Kỳ.

Ai công hầu, ai khanh tướng, trong trần ai, ai dễ biết ai?
Thế Chiến quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế!”


Người Việt Nam chơi câu đối đều biết đến đôi câu đối trứ danh này bởi vế ra mang nghĩa thách thức cả về nội dung lẫn hình thức với 4 chữ ai nhiều nghĩa, và vế đối đã hiên ngang trả lời chan chát không một chút do dự, nhún mình. Người ra câu đối là Đặng Trần Thường, thuộc phe chiến thắng; người đối lại là Ngô Thì Nhậm, thuộc phe chiến bại. Nhưng vì đâu nên nỗi?

Ai dễ biết ai” – Hồi một

Ngô Thì Nhậm (1746 – 1803) – từ năm 1848 trở đi đổi gọi là Ngô Thời Nhiệm vì kiêng húy của vua Tự Đức là Nhậm và Thì – vốn thuộc dòng dõi danh gia vọng tộc của đất Bắc, con của Ngô Thì Sĩ, quê làng Tả Thanh Oai, nay thuộc Thanh Trì, Hà Nội. Vốn thông minh, học giỏi nên năm 21 tuổi đỗ giải nguyên (thủ khoa hương cống, 1768), rồi tiến sĩ (1775), và ra làm quan vào đời chúa Trịnh Sâm (1763 – 1782) đến chức Đốc đồng trấn Kinh Bắc, sau qua Thái Nguyên.

Năm 1788, vâng lệnh Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ, Văn Nhậm (rể Nguyễn Nhạc) đem quân ra Bắc, diệt Nguyễn Hữu Chỉnh, đuổi vua Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc. Cũng trong năm đó, Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ hai, giết Vũ Văn Nhậm, thu lại binh quyền, trực tiếp cai trị Bắc hà và kêu gọi các cựu thần nhà Lê ra hợp tác. Phan Huy Ích, Nguyễn Huy Lượng, Ngô Thì Nhậm… là ba trong số những người hưởng ứng lời kêu gọi của tân triều.

Vốn đã nghe tiếng Ngô Thì Nhậm nên khi được ông này ra hợp tác, Bắc Bình Vương rất lấy làm mừng, coi Nhậm như là của trời dành cho. Nhậm được phong ngay làm Tả Thị lang bộ Lại và chỉ một thời gian sau đó, thăng làm Thượng thư bộ Lại rồi Thượng thư bộ Binh. Khi Bắc B.nh Vương về lại Phú Xuân thì Ngô Thì Nhậm là một trong những người được tin cậy giao nhiệm vụ hợp tác với Đại Tư Mã Ngô Văn Sở, Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết, Nội hầu Phan Văn Lân lo việc cai trị Bắc hà. Quả thật, Ngô Thì Nhậm đã không phụ lòng tin tưởng của Bắc Bình Vương. Khi quân Thanh ồ ạt xâm lăng Việt Nam dưới chiêu bài “phù Lê”, chính Ngô Thì Nhậm đã đưa ra kế hoạch bỏ ngỏ Thăng Long, rút đại quân về giữ đèo Tam Điệp để bảo toàn lực lượng trong khi chờ viện binh từ Phú Xuân ra. Rồi sau khi đại thắng quân Thanh, cũng chính nhờ ngòi bút tài ba của Ngô Thì Nhậm qua những văn thư ngoại giao khôn khéo mà tránh được can qua có thể tiếp diễn giữa hai nước, biến nỗi tức giận thua trận của vua khi vua Quang Trung thăng hà (1792) thì ông không còn được tín nhiệm như trước nữa nên cáo lão về hưu.

Còn Đặng Trần Thường (1759 – 1813) là ai?

Đại Nam liệt truyện (sau đây gọi tắt là Liệt truyện) viết khá chi tiết về cuộc đời của ông này. Theo đó, Đặng TrầnThường người huyện Chương Đức, trấn Sơn Nam (nay thuộc Chương Mỹ, Hà Nội) cũng thuộc con nhà dòng dõi, đậu Sinh đồ (Tú tài) cuối đời Lê, có quen biết với Ngô Thì Nhậm từ hồi ở huyện Thanh Oai. Vốn học rộng và tự biết mình có tài nhưng chưa được ai biết đến nên khi thấy Ngô Thì Nhậm ra cộng tác với Tây Sơn và được trọng dụng thì ông tìm đến gặp Nhậm để nhờ tiến cử.

Theo Wikipedia, thấy thái độ khúm núm nhờ vả của Thường làm mất phong độ kẻ sĩ, Nhậm đã nói rằng:

“Ở đây cần dùng người vừa có tài vừa có hạnh, giúp vua cai trị nước. Còn muốn vào luồn ra cúi thì đi nơi khác”.1

Riêng Liệt truyện thì thuật lại rằng, trong cuộc gặp gỡ này, Nhậm đã không nhiệt tình giúp đỡ mà còn lên mặt kẻ cả đang lên voi, cho Thường một bài học khi hai người bàn về việc đời.

Nhậm nói: “Người quân tử quí ở chỗ biết thông biến mới có thể làm nên được công nghiệp, chứ kẻ thất phu chỉ biết tự tin mình, rồi có ích gì.”

Thường nghe vậy, rũ áo đứng dậy ra về. Về đến nhà, ông nói với người nhà:

Ta sẽ giết tên giặc ấy”2 và quyết chí tìm đường vào Nam để tiến thân với Nguyễn Vương nhưng chưa có cơ hội.

Tại miền Nam, sau khi tái chiếm Gia Định năm 1787, thế lực Nguyễn Vương ngày một mạnh.

Năm 1793, Nguyễn Vương lấy lại thành Diên Khánh và cuối năm đó, giao cho Đông cung Cảnh (tức Hoàng tử Cảnh) trấn giữ thành này. Vương cũng đồng thời cử một cận thần là Nguyễn Đình Đắc bí mật ra Bắc tìm người có tài để thuyết phục vào Nam giúp sức.

Đang muốn vào Nam, nay gặp được Nguyễn Đình Đắc là người có thẩm quyền được ủy nhiệm tìm đến cầu hiền thì còn cơ hội nào tốt hơn, đúng là vận hên đã tới, nên sau cuộc gặp gỡ này, Đặng Trần Thường rủ Nguyễn Bá Xuyên và vài người đồng chí hướng khác nữa vượt biển vào Nam.

Đặng Trần Thường đầu tiên cập bến Diên Khánh, nơi Đông cung Cảnh đang trấn nhậm. Yết kiến Đông cung, Thường không lạy mà chỉ vái ba cái (hành tam khấu lễ) với lời thưa rằng chưa gặp quân vương (Nguyễn Vương) nên chưa dám lạy Thái tử. Có lẽ đã được Nguyễn Vương hay Nguyễn Đình Đắc thông báo trước, lại thêm cái phong độ ra mắt của Thường hơi khác người – tôn kính nhưng không hạ mình, sợ sệt – nên Đông cung Cảnh sinh biệt nhãn, tiếp đón Đặng Trần Thường khá niềm nở, vui vẻ, tặng tiền lộ phí rất hậu để Thường dong buồm đi tiếp vào Gia Định.

Mùa xuân năm Giáp Dần (1794), thuyền đến cửa Cần Giờ. Ông cho người đi trước, mang biểu dâng lên Nguyễn Vương. Chúa Nguyễn xem biểu, thấy đây là người có tài nên ra lệnh cho tả hữu rằng khi Thường đến thì đưa vào ra mắt ngay. Trong cuộc gặp gỡ đầu tiên, qua đối đáp rất trúng , Nguyễn Vương nhận ra đây là người mà Vương đang cần để giúp chóng hoàn thành nghiệp lớn nên tỏ rõ trọng đãi, ban ngay 300 quan tiền và 100 phương gạo để làm phương tiện định cư ban đầu.

Thấy được Nguyễn Vương biết tài và tin cậy nên từ đó Đặng Trần Thường ra sức bày mưu hiến kế để đem lại chiến thắng cho quân Gia Định. Ngay trong năm đầu tiên (1794) ở miền Nam, ông đã được đi theo đạo quân do Nguyễn Vương chỉ huy, giữ việc tham mưu, ra giải vây thành Diên Khánh cứu Đông cung Cảnh.

Với thành tích này, Đặng Trần Thường được thăng làm Hữu Tham tri bộ Lại (chỉ đứng sau Tả Tham tri và Thượng thư). Từ đó, ông thường được phái theo các đạo quân lớn của các tướng kỳ cựu như Tôn Thất Hội, Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt, khi th. giữ vai tham mưu, khi thì giữ chức phó tướng, chỉ huy một cánh quân, phối hợp chiến đấu, lập được nhiều công trạng.

Năm 1802, vua Gia Long tiến quân ra Bắc, chấm dứt nhà Tây Sơn, thống nhất đất nước. Chức Tổng trấn Bắc Thành được lập ra, giao cho Nguyễn Văn Thành trông coi việc cai trị và trị an miền Bắc (gồm 11 trấn) với sự giúp đỡ của ba cơ quan lớn là Tào Binh, Tào Hộ và Tào Hình. Đặng Trần Thường coi Tào Binh. Năm 1809, ông được thăng Thượng thư bộ Binh nhưng vẫn coi Tào Binh, mùa đông năm 1810 được triệu về Kinh.

Trở lại, vào mùa Xuân năm 1803, ba cựu Thượng thư của triều Tây Sơn là Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích và Nguyễn Gia Phan, sau một thời gian trốn tránh đã ra đầu thú vì nghe có lệnh tha. Cả ba được giải về Kinh.

Đặng Trần Thường nhân dịp này, dâng sớ, nói: “Bọn Nhậm là bề tôi nhà Lê, nỡ cam tâm thờ giặc [Tây Sơn], đặt lời dối trá để lừa bịp nước Thanh, hãm đồng loại vào con đường bất nghĩa… Thực là người có tội trong danh giáo, nếu không giết đi, lấy gì để răn bảo người sau”.3

Vua giao vụ việc cho các quan nghị tội. Nguyễn Văn Thành nói rằng tội của bọn Nhậm thật quá đáng chết nhưng vì đã có chiếu chỉ tha tội cho người ra đầu thú, nên nếu bây giờ giết đi, hóa ra nhà vua thất tín. Vì vậy, triều đình quyết định chỉ đem ba người ra trước Văn Miếu Thăng Long đánh đòn rồi tha về.

Đặng Trần Thường là người chủ trì việc thi hành án phạt. Chính trong cuộc giáp mặt sau mười lăm năm không gặp này đã làm nảy sinh đôi câu đối bất hủ. Ngồi trên ghế nơi công đường oai vệ. Đặng Trần Thường hất hàm hỏi Ngô Thì Nhậm đang quỳ dưới sân:

Ai công hầu, ai khanh tướng, trong trần ai, ai dễ biết ai?

Họ Ngô không chút e dè, lấy mệnh trời đáp ngay:

Thế Chiến quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế!

Thấy tới bước đường cùng này mà kẻ thù xưa vẫn không chịu hạ mình thua cuộc, Đặng Trần Thường lấy làm giận lắm, sai lính đánh đòn. Sau khi cả ba cựu thần Tây Sơn chịu đòn xong thì được về nhà, hai người kia bình thường, riêng Ngô Thì Nhậm về nhà mấy hôm sau thì mất. Liệt truyện nói rằng, vì Nhậm bị đau quá, chịu không nổi mà chết nhưng nguồn tin khác lại ghi nhận rằng vì thù xưa quyết trả nên Thường đã bí mật ra lệnh cho lính tẩm thuốc độc vào roi, đánh thật đau, gây thành thương tích, thuốc ngấm vào người, về nhà thì tất Nhậm phải chết.

Wikipedia dẫn nguồn tài liệu không rõ kể rằng, trước khi chết, Ngô Thì Nhậm có làm bài thơ, sai người nhà chuyển đến cho Đặng Trần Thường, như sau:

Ai tai Đặng Trần Thường
Chân như yến xử đường
Vị Ương cung cố sự
Diệc nhĩ thị thu trường.

Nghĩa là:

Thương thay Đặng Trần Thường. Nay quyền thế lắm đấy, nhưng khác nào như chim yến làm tổ trong cái nhà sắp cháy, rồi sẽ khốn đến nơi. Giống như Hàn Tín giúp Hán Cao tổ, rồi bị Hán Cao tổ giết ở cung Vị Ương. Kết cuộc của ngươi rồi cũng thế đó.

Tạm dịch:

Thương thay Đặng Trần Thường
Tổ yến nhà xử đường
Vị Ương cung chuyện cũ
Tránh sao kiếp tai ương?”

Quả nhiên bài thơ ứng nghiệm như một lời tiên tri hay một lời nguyền. Nhưng đó là câu chuyện thuộc “Ai dễ biết ai” – Hồi hai. Riêng tôi, không mấy tin chắc rằng đó là thơ của Ngô Thì Nhậm; biết đâu sau này có người hiếu sự, sau khi biết rõ cuộc đời hai người trong cuộc đã làm ra bài thơ đó cho đậm đà câu chuyện!

“Ai dễ biết ai” – Hồi hai
Tây Sơn có một tướng tài, người huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định là Lê Chất (1774 – 1826), hễ quân Gia Định của Nguyễn Vương đụng trận với Lê Chất thì thường thua đậm.

Chất làm đến chức Đô đốc, dưới quyền của Tư lệ Lê Trung. Từ năm 1797, khi thấy nội tình bất ổn và suy yếu của Tây Sơn, Chất đã có ý hàng Nguyễn Vương nhưng chưa có dịp.

Khi Lê Trung bị vua Cảnh Thịnh giết, Lê Chất sợ bị vạ lây, bèn giả chết bằng cách đem một người có khuôn mặt giống mình cho uống thuốc độc, rồi phao lên Chất đã sợ mà tự tử, làm ma chay xong, ông bí mật đem mẹ và vợ con trốn vào núi Trà Bồng để tránh sự truy nã.

Màn kịch diễn ra hay đến nỗi ai cũng lầm, ngay cả mẹ Lê Chất lúc đầu cũng tưởng con mình chết thật, thương khóc thảm thiết. Sau đó, nhờ người giới thiệu, Lê Chất trốn vào Quy Nhơn đầu quân dưới trướng Đại Tổng quản Lê Văn Thanh.

Năm 1799, khi Võ Tánh đem quân đánh thành Quy Nhơn, Lê Chất đem 200 thuộc hạ về hàng, Nguyễn Vương cho đặt dưới quyền điều khiển của Võ Tánh, lập được nhiều chiến công ban đầu. Thu phục được thành này, vua đổi tên làm Bình Định, cho Lê Chất làm Tả đồn Thống chế. Sau đó thành bị Võ Văn Dũng và Trần Quang Diệu đem quân thủy bộ vào vây đánh rất ngặt, Võ Tánh phải vào thành cố thủ, phái Lê Chất về Gia Định.

Năm 1801, Nguyễn Vương đem đại binh giải vây Bình Định, Lê Chất giữ vai tiên phong, đánh rất hăng nhưng trước lực lượng bao vây hùng hậu của Tây Sơn, không làm gì được. Theo đề nghị của Võ Tánh, đạibinh Nguyễn Vương tiến ra đánh Phú Xuân. Lê Chất và Lê Văn Duyệt dẫn quân đi trước, đã phối hợp nhịp nhàng chọc thủng được phòng tuyến Tư Hiền, mở đường tái chiếm cố đô, lập công đầu.

Khi Lê Văn Duyệt, Lê Chất và Nguyễn Văn Thành được lệnh đem quân vào giải vây cho Võ Tánh và Ngô Tùng Châu ở thành Bình Định thì thành này đã thất thủ và cả hai đều tuẫn tiết.

Năm 1802, Nguyễn Vương ban bố niên hiệu Gia Long tại Phú Xuân, mở đầu một triều đại mới, sau đó cùng Lê Văn Duyệt, Lê Chất và các tướng khác đem quân ra Bắc, truy quét Tây Sơn, bắt được vua tôi Cảnh Thịnh, hoàn thành công cuộc thống nhất đất nước.

Với công trạng này, Lê Chất được phong tước Quận công, mang ấn Bình Tây Tướng Quân.

Thấy Chất là bầy tôi mới, thuộc loại hàng thần mà được chức lớn, Đặng Trần Thường nói với những người thân cận rằng:

“Chất mà bình Tây thì ai bình Chất? Chất mà quận công thì ta nên 10 quận công”.

Lê Chất nghe vậy rất hận Đặng Trần Thường nhưng để bụng và cũng biết đang có sự ganh ghét ngấm ngầm nên trong lòng không yên, bèn dâng biểu nói:

“… tôi bất tài, mới phụ, ví với các quan lao khổ vạn phần, tài không kịp một phần, đã tước quận công, lại chưởng hậu quân, lạm ở cao quý, không dám tự đương, xin xuống đứng cùng hàng với đô thống chế”4 nhưng vua không chịu.

Trong thời gian vua Gia Long trị vì (1802 – 1820), Lê Chất đã được giao những nhiệm vụ quan trọng sau:

– Năm 1803, cùng Phạm Văn Nhân, Nguyễn Văn Khiêm đốc xuất hàng vạn quân binh xây dựng Kinh thành Phú Xuân.

– Cũng trong năm đó, đang khi hộ tống vua Gia Long ra Bắc nhận sắc phong của nhà Thanh, đã theo lệnh vua cùng Nguyễn Văn Trương đem quân dẹp yên giặc biển ở Quảng Yên. Khi trở về, tiếp tục cùng các đại thần khác trông coi việc xây dựng cung điện, hoàng thành, tu sửa các lăng.

– Năm 1810, được cử làm Hiệp Tổng trấn Bắc thành.

– Năm 1813, làm Giám đốc Cục Bảo tuyền, cơ quan đúc tiền của Bắc thành.

– Năm 1818, làm Tổng trấn Bắc thành.

Năm 1826, Lê Chất xin nghỉ phép về quê Bình Định thì phát bệnh và mất tại đấy, hưởng thọ 53 tuổi(ta). Vua Minh Mạng nghỉ chầu 3 ngày, ban các loại gấm, sa, đoạn và 3.000 quan tiền để làm đám, tặng hàm Thiếu phó, thụy Trung Nghị.

Bi kịch “Ai dễ biết ai” – Hồi hai diễn ra khi Lê Chất lên nắm quyền ở Bắc Thành. Bấy giờ là năm Gia Long thứ 10 (1811), Lê Chất giữ chức Hiệp trấn Bắc thành (Phó Tổng trấn). Từ chỗ nghe phong thanh có sự man trá trong việc phong sắc thần thời Đặng Trần Thường làm việc, Lê Chất tìm hiểu, điều tra, phát giác ra có đến 560 đạo sắc phong cho thần linh là giả mạo (sắc phong của vua là thật nhưng thần giả, không đáng làm thần). Liên quan đến vụ này có Đặng Trần Thường, Tham tri Bộ Lễ Nguyễn Gia Cát cùng với con là Nguyễn Dục và Thiêm sự Vũ Quý Dĩnh. Điển hình là Vũ Quý Dĩnh đẫ làm sắc phong cho cha cố và bố mẹ vợ làm phúc thần và làm gian cho người khác nữa, còn Đặng Trần Thường dư biết Hoàng Ngũ Phúc là tướng họ Trịnh, người đã đem đại quân vượt lũy Trường Dục đánh chiếm Phú Xuân năm 1774, tiêu diệt cơ nghiệp chúa Nguyễn ở Đàng Trong mà vẫn che giấu, xin phong làm Thanh Danh Văn Võ Thánh Thần Đại Vương,… Khi bị xét hỏi, các người liên hệ đều thú tội. Vua Gia Long nói:

… Bọn ngươi làm gian trá, dối người khinh thần, không tội nào lớn bằng. Và cuộc biến loạn năm Giáp Ngọ (1774) Hoàng Ngũ Phúc là thủ ác, nay lại cất lên mà cho là thần, thế chẳng phải là bán nước sao? Việc ấy còn nỡ làm thì việc gì lại chẳng nỡ!”.5
Tất cả đều bị hạ ngục và vua giao án cho Bộ Hình nghị tội. Phạm Như Đăng cho là tội của Đặng Trần Thường nên cách chức, còn tội Gia Cát thì xử tử. Lê Bá Phẩm cho rằng cả hai cùng tội như nhau, sao hình phạt lại khác, vậy phải xử tội chết cả hai mới công bình. Vua chưa quyết định, đưa án nghị của Bộ Hình ra cho triều đình xét lại. Các quan lớn như Nguyễn Văn Thành, Lê Quang Định, Nguyễn Đức Huyên, Nguyễn Hữu Thận viện dẫn việc Thường và Cát đều có công, xin được theo bát nghị (8 hạng người được chiếu cố, xem xét giảm nhẹ hình phạt luận tội) mà xét xử.

Nhóm các quan lớn khác như Trịnh Hoài Đức, Trần Văn Trạc theo lời nghị của Phạm Như Đăng. Vua Gia Long quyết định:

Vũ Quý Dĩnh bị án trảm (chém), Thường và Gia Cát bị án trảm giam hậu (giam lại, chém sau).

Vào dịp duyệt xét các vụ án vào mùa thu (thu thẩm) năm Gia Long thứ 12 (1813), vua nghĩ thương tình cả hai đều có công trong thời gian phục quốc nên tha tội chết cho Đặng Trần Thường và Nguyễn Gia Cát, chỉ xóa tên trong sổ bộ các quan (quan tịch) và cho phép lưu ngụ tại Kinh.

Việc thoát chết của Thường không làm cho Lê Chất hài lòng, ông nén lòng chờ cơ hội khác.

Năm Gia Long thứ 18 (1819), Lê Chất lên giữ chức Tổng trấn Bắc thành, quyền uy tột bậc. Ông (hay thuộc hạ theo lệnh ông?) phát hiện ra những việc làm sai trái khác của Đặng Trần Thường, chẳng hạn che giấu thuế đầm ao, che giấu việc kê khai sổ đinh và sổ điền thổ (ẩn lậu đinh điền) liền tâu xin trị tội. Đặng Trần Thường liền bị hạ ngục để điều tra. Trong ngục, ông làm bài Hàn Vương tôn phú, lấy chuyện Hàn Tín giúp Lưu Bang dựng nên nhà Hán rồi bị vu tội để ví với mình, và khi có rượu vào thì phát ngôn bừa bãi, có ý oán hận. Bởi vậy, khi vua giao vụ án cho đình nghị, ông bị kết án giảo (thắt cổ ngay) và gia sản bị tịch thu.

Thế là màn kịch Đặng Trần Thường hạ màn nhưng chưa hạ màn với Lê Chất, dù đã chết.

“Ai dễ biết ai” – Hồi ba

Lúc sinh thời, Lê Chất giao du thân mật với Lê Văn Duyệt. Hai người rất ăn ý với nhau; năm 1824, ông cùng Lê Văn Duyệt rủ nhau xin từ chức Tổng trấn Bắc thành và Gia Định thành, gây khó xử cho vua Minh Mạng không ít.

Lê Văn Duyệt mất vào năm 1832. Năm 1833, vua Minh Mạng bỏ chức Tổng trấn Gia Định thành, đổi các trấn ở phía Nam làm tỉnh và đặt các chức Tổng đốc, Tuần vũ, Bố chánh, Án sát. Cũng trong năm 1833, do sự hà khắc của Tổng đốc Bạch Xuân Nguyên, con nuôi của Lê Văn Duyệt là Lê Văn khôi nổi loạn chiếm thành Phiên An và các tỉnh Nam Kỳ, triều đình mất ba năm hao binh tổn tướng mới dẹp yên.

Vua Minh Mạng rất giận về việc này. Biết ý vua, người ta mới truy cứu trách nhiệm đến Lê Văn Duyệt, làm thành án. Từ vụ Lê Văn Duyệt, Lại bộ Tả Thị lang Lê Bá Tú dâng sớ hạch Lê Chất phạm 17 tội (vì khi còn sống, cả hai người này chơi thân với nhau và ngầm cùng có ý không phục tùng vua). Khi vua giao triều đình nghị án, các quan lớn khác như Tổng đốc Nguyễn Công Trứ, Tuần phủ Hà Thúc Lương, Hộ phủ Trần Văn Tuyên lại tố cáo thêm tội khác và các đồng lõa khác.

Triều đình kết án Chất 6 tội xử lăng trì (xẻo thịt cho tới chết), 8 tội trảm (chém đầu) và 2 tội giảo (thắt cổ). Khi bản án dâng lên, vua Minh Mạng quyết định: vì Chất đã chết (1826) nên sai Tổng đốc Võ Xuân Cẩm san bằng mộ phần, dựng bia đá nơi mộ, đề mấy chữ “Gian thần Lê Chất phục pháp xử” (Đây là nơi gian thần Lê Chất chịu hình phạt) để răn đời, truy thu các sắc phong, tịch thu gia sản (được hơn 22 ngàn quan tiền), đem cấp cho dân nghèo 12 tỉnh Bắc Kỳ. Vợ là Lê Thị Sa bị đày làm nô tì, các con là Cận, Trương, Thường, Ky đều bị trảm quyết.

Năm 1848, đời Tự Đức, Đông các Đại học sĩ Võ Xuân Cẩn (nhạc gia của vua) xin vua truy lục công của Chất, nhờ vậy cháu là Luận được làm Cai đội. Năm sau, Tổng đốc Tạ Quang Cự xin vua rửa sạch tội cho Chất vua không chấp thuận, vì rằng về tư cách và công trạng, không thể đem Chất sánh với Lê Văn Duyệt và Nguyễn Văn Thành. Vua xem việc tha dựng bia kể tội và thu dụng cháu tên là Luận vào hàng ngũ quan lại là đã tỏ ân điển của triều đình rồi.

Đến đây thì chuyện Trong trần ai, ai dễ biết ai? tạm kết thúc. Quả thật danh lợi làm điên đảo lòng người,gây ra biết bao thảm cảnh cho người, cười đó rồi khóc đó. Nguyễn Công Trứ, sau mấy chục năm quay trong cơn lốc xoáy ấy, đến khi thoát ra mới thấm thía mà hát rằng:


Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
Giữa trời vách đá cheo leo
Ai mà chịu rét thì trèo với thông.

V.H.A.

Tạp chí Nghiên cứu-Trao đổi số 56-8

CHÚ THÍCH
1 http://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%B4_Th%C3%AC_Nh%E1%BA%ADm
2, 3, 4 Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, Tập 2, Bản dịch của Tổ phiên dịch Viện Sử học (Huế: Thuận Hóa, 1997), 491, 494, 444.
5 Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, Tập 1. Bản dịch của Tổ phiên dịch, Viện Sử học (Hà Nội: Giáo dục, 2002), 815.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Quốc sử quán triều Nguyễn. 2002. Đại Nam thực lục.Tập 1. Bản dịch của Tổ phiên dịch Viện Sử học. Hà Nội: Giáo dục.
Quốc sử quán triều Nguyễn. 1997. Đại Nam liệt truyện. Tập 2. Bản dịch của Tổ phiên dịch Viện Sử học. Huế: Thuận Hóa.
V. Hương-An. 2012. Từ điển Nhà Nguyễn. Califonia: Nam Việt.
http://vi.wikipedia.org/

Vô ngã hay không có linh hồn




Một khoảnh khắc ý thức khởi lên có nghĩa là một khoảnh khắc ý thức khác diệt mất, và ngược lại.

Quan điểm Phật giáo về linh hồn và nghiệp báo
Linh hồn sau khi chết vẫn tồn tại?

Chúng ta cần phân biệt thuyết luân hồi sinh tử của Phật giáo với thuyết linh hồn tái sinh, thuyết linh hồn ngụ ý sự chuyển kiếp của một linh hồn và hình thức tái sinh không thay đổi của nó. Phật giáo phủ nhận sự hiện hữu của một linh hồn bất biến hay vĩnh cửu do Thượng đế hay thần ngã (Paramàtma) tạo ra.


Nếu linh hồn bất tử được giả định là bản thể của con người, thì nó phải vĩnh cửu, chứ không thể nào thăng trầm được. Ngoài ra, chúng ta không thể hiểu tại sao những linh hồn khác nhau được cấu tạo theo nhiều cách như thế ngay từ khởi thủy.


Để chứng minh có hạnh phúc vô tận trong thiên đường vĩnh cửu và sự đày đọa không cùng trong địa ngục miên viễn, tất nhiên cần phải có một linh hồn bất tử. Bằng không, thì cái gì bị trừng phạt trong địa ngục hay được ân thưởng trên thiên đường?


Bertrand Russell viết: “Phải nói rằng sự phân biệt xưa cũ giữa linh hồn và thể xác thực sự đã biến thành mây khói, vì vật chất đã mất cái tính cứng rắn của nó, cũng như tinh thần đã mất tính chất linh thiêng. Tâm lý học hiện đang bắt đầu có tính cách khoa học. Trong tình trạng tâm lý học hiện tại, niềm tin vào tính bất tử dù sao đi nữa cũng không được khoa học ủng hộ.”


Các Phật tử biểu đồng tình với Russell khi ông nói: “Có một số lý do hiển nhiên chứng tỏ rằng tôi hôm nay cùng là một người như tôi hôm qua, và thử lấy một ví dụ hiển nhiên hơn nữa, nếu tôi thấy một người và nghe y nói, điều đó phải được hiểu theo “cái tôi” đang thấy cũng là “cái tôi” đang nghe.”





Mãi cho đến gần đây các nhà khoa học đã tin chắc có một nguyên tử bất khả phân và bất khả hủy. “Do những lý do đầy đủ, các nhà vật lý học đã chuyển đổi nguyên tử này thành một tràng sự kiện. Vì những lý do tương tự khác, các nhà sinh lý học thấy rằng tâm không phải là một thể đồng nhất đơn thuần và liên tục mà là một chuỗi diễn biến được buộc vào nhau bằng những mối tương quan mật thiết nào đó. Do đó, vấn đề bất tử đã trở nên vấn đề có hay không những mối tương quan mật thiết giữa các diễn biến liên hệ với cái thân còn sống và những diễn biến khác xảy ra sau khi chết.”


Như C.E.M. Joad (1891-1953) nói trong cuốn “Ý nghĩa của đời sống”: “Từ nay vật chất đã tan rã thành từng phần ngay trước mắt chúng ta. Vật chất không còn cứng, không còn bền, không còn quy định bởi luật nhân quả bắt buộc. Và quan trọng hơn cả là, ta không còn biết được nó ra sao nữa.


Hình như những cái được gọi là nguyên tử đều mang tính chất “vừa khả phân vừa khả hủy”. Những điện tử âm và những điện tử dương tạo thành nguyên tử, có thể gặp gỡ nhau và hủy diệt lẫn nhau, trong khi độ bền của chúng hầu như chỉ là độ bền của một làn sóng không có biên giới nhất định, và ở trong một quá trình đổi thay liên tục vừa cả hình dáng lẫn vị trí hơn là độ bền của một vật thể (cố định).”


Giám mục Berkeley nêu rõ rằng cái được gọi là nguyên tử này là một vật giả tưởng của siêu hình học, và chủ trương rằng có một chất tâm linh được gọi là linh hồn.


Ví dụ Hume (1711-1776) nhìn sâu vào ý thức và nhận ra rằng không có gì ngoài những trạng thái tâm lý trôi qua nhanh, nên đã kết luận rằng “Cái ngã trường tồn được xem là có kia” vốn không có thật. Ông nói: “Có một số triết gia tưởng tượng rằng chúng ta lúc nào cũng có ý thức về cái gọi là “bản ngã của ta”, rằng chúng ta cảm nhận được sự hiện hữu của nó và tính liên tục hiện hữu của nó, và thế là chúng ta tin chắc cả tính đồng nhất toàn vẹn lẫn tính đơn thuần của “cái ngã”. Về phần tôi, khi tôi tiến thật sâu vào cái được gọi là “tự ngã”, tôi luôn luôn vấp phải một cảm giác đặc biệt nào đó như nóng hoặc lạnh, sáng hoặc tối, yêu hoặc ghét, buồn hoặc vui, chứ tôi không bao giờ nắm được cái “tự ngã”, và tôi không bao giờ quan sát được cái gì khác ngoài cảm giác ấy. Tôi cũng không quan niệm có cái gì cần thiết hơn làm cho tôi trở thành vô ngã hoàn toàn.”


Bergson (1859-1841) nói: “Tất cả tâm thức chỉ là sự hiện hữu của thời gian, và một trạng thái của tâm thức là một trạng thái luôn luôn thay đổi. Đó là một sự biến đổi không ngừng; khi sự biến dịch ngừng thì nó cũng ngừng hiện hữu; chính nó không gì khác hơn là sự biến dịch.”


Bàn đến vấn đề linh hồn, giáo sư William James (1842-1910): “Thuyết linh hồn thật là cái gì hoàn toàn thừa thãi cho đến khi nào những sự kiện của kinh nghiệm tâm thức có thể thực sự xác nhận được. Từ trước đến nay không ai bị bắt buộc phải thừa nhận thuyết ấy vì những lý do khoa học rõ ràng”. Để kết luận chương sách thú vị của ông về linh hồn, ông nói: “Trong quyển sách này giải pháp tạm thời mà chúng ta tìm được có thể là câu cuối cùng: những tư tưởng chính là những người tư tưởng.”


Watson (1878-1958) , nhà tâm lý học lỗi lạc, nhận định: “Chưa ai từng sờ mó linh hồn hay đã thấy được nó trong ống nghiệm, hoặc bằng cách nào đó giao tiếp với những đối tượng khác trong kinh nghiệm hằng ngày của họ. Mặc dù thế, nghi ngờ sự hiện hữu của linh hồn tức là trở thành kẻ tà đạo, và rất có thể vì thế mà bị mất đầu. Thậm chí ngày nay một người có địa vị xã hội cũng không dám đặt vấn đề đó nữa.”


Đức Phật đã biết trước sự kiện này cách đây 2500 năm. Theo Phật giáo, tâm chỉ là một kết hợp phức tạp của những trạng thái tâm lý trôi nhanh. Một đơn vị ý thức gồm có 3 giai đoạn: Hiện khởi hay phát sinh (uppàda), an trụ hay phát triển (thiti), và hủy diệt hay tan rã (bhanga). Giai đoạn sinh khởi của khoảnh khắc tư tưởng sau xảy ra ngay sau giai đoạn hủy diệt của khoảnh khắc tư tưởng trước. Mỗi ý niệm chớp nhoáng của tiến trình đời sống luôn biến dịch này, khi hủy diệt, truyền lại tất cả năng lực của nó, toàn bộ những ấn tượng đã được ghi lại không phai mờ cho ý niệm kế tiếp. Mỗi ý niệm mới sinh gồm những tiềm năng của những ý niệm trước nó cộng thêm với những gì khác nữa. Do đó, có một dòng ý thức liên tục như một dòng nước trôi chảy không ngừng. Khoảnh khắc tư tưởng kế tiếp không hoàn toàn đồng nhất với khoảnh khắc tư tưởng trước nó, vì cái tạo ra nó không giống hệt nó, và cũng không hoàn toàn khác nó mà là một tràng liên tục của nghiệp lực. Ở đây không có một cá thể đồng nhất mà chỉ có một tiến trình đồng nhất.


Mỗi khoảnh khắc đều có sinh và tử. Một khoảnh khắc ý thức khởi lên có nghĩa là một khoảnh khắc ý thức khác diệt mất, và ngược lại. Trong dòng đời, có sự tái sinh nhất thời mà không có linh hồn.


Không nên hiểu tâm thức bị chặt từng khúc và nối lại với nhau như một toa xe lửa hay một chuỗi dây xích. Mà trái lại, “tâm thức trôi chảy liên tục như một con sông tiếp nhận từ những phụ lưu giác quan những chất bồi thêm vào dòng nước của nó, và luôn luôn phân phối cho thế giới chung quanh những chất liệu tư tưởng mà nó đã thu lượm được trên đường đi”. Con sông phát sinh từ nguồn và kết thúc tại cửa sông. Dòng sông chảy mau lẹ đến nỗi khó có một tiêu chuẩn nào để đo lường được, dù chỉ là đại khái. Tuy nhiên, các nhà bình luận thích nói rằng khoảng thời gian kéo dài của một khoảnh khắc ý niệm còn ngắn hơn một phần tỷ thời gian của một tia chớp.


Ở đây, chúng ta thấy một sự nối liền những trạng thái ý thức vụt trôi qua, trái hẳn với sự chồng chất của những trạng thái ý thức kia, như một số người có vẻ tin tưởng. Không một trạng thái nào qua rồi còn trở lại nữa, nó cũng không đồng nhất với trạng thái trước đó. Nhưng, chúng ta là những phàm nhân bị lưới vô minh che khuất, vẫn lầm tưởng cái dòng liên tục bề ngoài này là một cái gì vĩnh cửu, và còn đi xa đến độ đưa vào một linh hồn bất biến, một cái ngã, và xem là chủ thể hành động vừa là nơi nhận mọi hành động vào cho dòng ý thức luôn biến dịch này.


“Cái gọi là tự ngã kia giống như một ánh chớp lóe sáng được phân tán ra thành một tràng tia sáng liên tục, cái nọ tiếp liền cái kia nhanh đến độ võng mạc phàm nhân không thể nào nhận thức được chúng một cách riêng lẻ, cũng như người ít học không thể nào quan niệm được một tràng tia sáng rời rạc như thế.” Như bánh xe lăn chạm vào mặt đất ở một điểm, cái tự ngã ấy cũng chỉ tồn tại trong một khoảnh khắc tư tưởng. Bao giờ nó cũng ở trong hiện tại mà nó vẫn mãi trôi về quá khứ không trở lại. Và trong tương lai ta sẽ trở thành ra sao đều do khoảnh khắc tư tưởng hiện tại này qui định.


Người ta có thể hỏi, nếu không có linh hồn thì cái gì tái sinh?


Phải, không có cái gì để tái sinh cả. Khi đời sống chấm dứt thì nghiệp lực tự cụ thể hóa trong một hình thức khác. Như Tỳ kheo Silacara nói: “Cái nghiệp lực vô hình đi bất cứ nơi đâu có những điều kiện thích hợp cho sự hiện hữu của nó. Ở chỗ này nó hiện hình như một con sâu bọ bé nhỏ, ở chỗ kia nó lộ diện trong ánh hào quang rực rỡ của một thiên thần hay một đấng thiên chủ. Khi một kiếp sống kết thúc, nó lại tiếp tục tái hiện ở những hoàn cảnh tinh tế hơn trong một tên khác, hoặc một hình thức khác.


Sinh là sự phát khởi của hiện tượng tâm sinh lý, và chết chỉ là sự kết thúc tạm thời của một hiện tượng thoáng qua.


Giống hệt như sự sinh khởi của một trạng thái vật lý được tạo nên bởi một trạng thái đi trước nó, như là nguyên nhân của nó, sự xuất hiện của hiện tượng tâm sinh lý cũng do những nguyên nhân có trước, tạo điều kiện để nó sinh ra. Như tiến trình của một quãng đời sống có thể thực hiện được mà không cần có một bản thể thường còn di chuyển từ thời niệm nọ đến thời niệm kia, cũng vậy, một chuỗi dòng đời có thể tiến triển mà không cần có một linh hồn bất tử truyền từ kiếp nọ sang kiếp kia.


Phật giáo không hoàn toàn phủ nhận sự có mặt của một cá nhân theo nghĩa thực nghiệm, mà chỉ chứng minh rằng cá thể ấy không có thực, trong một ý nghĩa cùng tột. Danh từ triết học của Phật giáo để chỉ một cá nhân là Santana, nghĩa là một dòng trôi chảy hay là một chuỗi liên tục. Nó bao gồm cả những yếu tố tâm lý và vật lý, nghiệp lực của mỗi cá nhân nối kết những yếu tố đó lại với nhau. Dòng biến dịch không gián đoạn hay chuỗi liên tục hiện tượng tâm sinh lý này do nghiệp tạo nên, và không chỉ bị giới hạn vào đời sống hiện tại, mà bắt nguồn từ quá khứ vô thỉ và còn tiếp tục trong tương lai, đó là từ ngữ của Phật giáo thay thế cho tự ngã thường hằng hay linh hồn bất tử của các Tôn giáo khác.

http://kienthuc.net.vn/thien/vo-nga-hay-khong-co-linh-hon-195743.html

Thứ Hai, 25 tháng 4, 2016

Quê hương là duyên hay định mệnh




TIẾN THÀNH

Miền Bắc đã vào hè. Cái nắng oi ả, dù chưa có tiếng ve và hoa phương nhưng cũng báo hiệu cho một mùa thi, một mùa chia ly. Vậy là đã 18 năm mình xa quê, ở một thành phố lạ. Bằng đúng thời gian mình sinh ra ở quê đến khi rời đi, nên bây giờ không biết mình là người ở đâu nữa.


Nhìn bạn bè ngày xưa củng học chia sẻ những hình ảnh “gia đình hạnh phúc” ở Tây Nguyên, Sài Gòn, rồi ở nước ngoài, biết những người xa quê đã mấy chục năm, mình hiểu người ta sẽ không về quê nữa. Nhà ở quê bán rồi, có người giữ nhưng ít về. Chợt một suy nghĩ thoáng qua trong đầu, không hiểu quê hương là duyên hay định mệnh?

Nhìn những cuộc “di cư” hàng năm của người Trung Quốc, Việt Nam về quê ăn tết, ta hiểu với rất nhiều người quê hương vẫn là định mệnh. Nước Mỹ, đại diện cho các nước hiện đại cũng làm rất nhiều phim nói về đầm ấm gia đình, quây quần bên người thân trong dịp tết. Nhưng thử hỏi, một vài ngày như thế có ích gì?

Là một đất nước bước ra từ chiến tranh, người Việt Nam hiểu nỗi đau của chia ly. Chiến tranh kết thúc, hàng triệu người ly hương, người Việt Nam thấm hiểu niềm vui, nỗi buồn của chuyện hợp tan. Chả thế mà bài hát “Nối vòng tay lớn” của Trịnh Công Sơn lại được yêu thích đến vậy.

Ngày xưa giao thông và viễn thông chưa phát triển, thành ra ta thấy quả địa cầu này lớn lắm. Đi từ Hà Nội đến Sài Gòn có khi còn mất cả tháng, nữa là đi từ Sài Gòn ra nước ngoài. Cho nên ngày xưa nỗi nhớ là lớn lắm, tình cảm là lớn lắm.



Bây giờ nhớ nhau chỉ một cuộc điện thoại là được. Nhớ quá thì mua vé máy bay, xa mấy cũng chỉ nửa ngày là gặp được nhau. Cuộc sống hiện đại tiện lợi hơn nên mọi vất vả về thể xác và tâm hồn đã được lược bớt.

Ngày xưa lý tưởng và tình yêu là lớn lắm, lớn đến nỗi chỉ có hai thứ đó là người ta đã cho mình là giàu. Ngày nay nhà nhà, ai ai cũng có điện thoại, tivi, tủ lạnh, xe cộ; thành phố nào cũng có siêu thị điện máy, siêu thị tiêu dùng… Đồ đạc, của cải lan tràn xã hội mà ai ai cũng cho mình là nghèo. Rồi ganh đua, dẫm đạp lên nhau chạy theo những điều vớ vẩn.

Ngày xưa biên giới quốc gia là quan trọng lắm. Độc lập, tự chủ là ở đó. Cho nên người ta có thể hy sinh tất cả vì nó. Ngày nay ta hiểu biên giới còn nằm trong trong văn hóa, ở truyền thống dân tộc. Người dân còn giữ truyền thống văn hóa thì đất nước còn. Chứ có biên giới đó, mà người dân cứ chạy theo văn hóa nước khác thì cũng vô nghĩa. Ngày xưa nhìn thấy người Mỹ (giặc lái) thì ghét lắm, ngày nay đon đả mời người ta sang đầu tư, du lịch…

Quay lại chủ đề của bài, quê hương là duyên hay định mệnh? Tại sao trên đời có bao nhiêu cuộc hợp tan, gặp gỡ rồi chia ly, nào là thời phổ thông hay lên đại học, nào là chuyển công tác hay chia tay trong tình yêu; cuộc sống có bao nhiêu cuộc di dời nơi chốn, mà ta vẫn coi “nơi” quê hương là quan trọng nhất? Chả lẽ việc ta sinh ra ở đâu lại quan trọng thế sao?

Xin trả lời là quê hương cũng là duyên, và chả có nơi nào là định mệnh cả. Định mệnh là do ta tạo ra, trong các sự lựa chọn của mình. Mà thứ gì ta tạo ra là thứ ta có thể thay đổi được. Nên hãy “thiết kế” định mệnh cho mình theo sở thích để sống vui. Quan trọng là luôn nhớ: tất cả đều là duyên!

Hồ sơ hủy hoại môi trường của Formosa trên thế giới !





 Ts Trần Bắc Hải (Trí thức trẻ)

.Formosa nhận giải “Hành tinh đen” năm 2009. Đây là một giải do Ethecon – tổ chức bảo vệ môi trường ở Đức dành cho những cá nhân/tổ chức “đóng góp” vào việc phá hủy môi trường..





Đừng vào hùa ném đá Formosa chỉ vì “bài Hoa”. Formosa là tập đoàn công nghiệp hàng đầu của Đài Loan, là nhà sản xuất sản phẩm hóa dầu hàng đầu thế giới. Được biết Formosa đầu tư khoảng 10 tỷ Mỹ kim vào dự án Vũng Áng – Hà Tĩnh, và dự án được cả các bên thứ ba quan tâm đầu tư.

Công ty JFE, nhà sản xuất thép lớn thứ hai của Nhật, tuyên bố có thể tham gia đầu tư khoảng 27 tỷ yên (220 triệu Mỹ kim) vào dự án này (Reuter, 30/7/2015).

Đó là dự án quy mô rất lớn ở Việt Nam. Không thể phủ nhận ý nghĩa của dự án này đối với kinh tế Việt nam, nhưng để có thông tin đa chiều, bài viết này tập hợp các thông tin về vi phạm môi trường của Formosa trên phạm vi thế giới.

Công nghiệp hóa, với nhiều nước đang phát triển, nhất là Trung Quốc, thường đi liền với tàn phá môi trường. Nhưng xét rộng ra thì ở đâu cũng vậy, nhiều tập đoàn tư bản thường sẵn sàng hy sinh môi trường, hy sinh lợi ích của cộng đồng vì lợi nhuận của mình.

Vấn đề là cộng đồng phải có các cơ chế (luật pháp, chính quyền, báo chí, các tổ chức xã hội dân sự…) để ngăn ngừa, giảm thiểu sự tàn phá môi trường do công nghiệp hóa gây ra và tự bảo vệ mình.

Tôi mong muốn bất kỳ nhà đầu tư nào từ nước ngoài đến Việt Nam cũng phải trình bày được những “hồ sơ môi trường” sạch sẽ, bất kể họ đến từ nước nào.

Ethecon, một tổ chức bảo vệ môi trường ở Đức, đã lập ra các giải hàng năm “Hành tinh xanh” tặng cho các cá nhân/tổ chức có thành tích vượt trội trong bảo vệ môi trường thế giới.

Song song với đó là giải “Hành tinh đen”, cho những cá nhân/tổ chức đóng góp nhiều vào việc phá hủy môi trường thế giới.

Trong danh sách nhận giải “Hành tinh đen” có mặt các nhân vật nổi trội như công ty Monsanta (tác giả của chất độc da cam), Công ty điện lực Tokyo (chủ của nhà máy điện hạt nhân Fukushima bị vỡ cách đây mấy năm)…


Tập đoàn Formosa, tên tiếng Anh là Formosa Plastics Group (FPG), là một tổ hợp công nghiệp đa ngành của Đài Loan (hóa dầu mỏ, chất dẻo, công nghệ sinh học, nhà máy phát điện, máy móc điện tử, quang sợi, công nghiệp ô tô…).

Cùng với các thành tựu rất lớn đóng góp vào công nghiệp hóa Đài Loan, tập đoàn này cũng mang nhiều tai tiếng về vi phạm môi trường tại chính Đài Loan cũng như một số nước khác.

Tại Đài Loan, các nhà khoa học ĐH Quốc Gia Đài Loan đã công bố về ô nhiễm các chất gây ung thư và phá hủy mô gan, do công nghệ cracking dầu mỏ của Formosa tại Yulin.

Trụ sở của Formosa từng bị người biểu tình phản đối vi phạm môi trường (Nhật báo Đài Bắc, 24/2/2014).

Tại Hoa Kỳ, ở các bang Texas và Louisiana, các nhà máy của Formosa bị phát hiện xả các chất độc như 1,2-dichloroethane (EDC), dioxin và chroroform… vào đất và nước ngầm, kể cả xuống sông Mississippi.

Năm 2009, Formosa bị EPA (Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa kỳ) “phạt dân sự” số tiền là 2,8 triệu Mỹ kim, đồng thời bị buộc phải bỏ ra 10 triệu Mỹ kim để khắc phục các vấn đề gây ô nhiễm môi trường tại các bang Texas và Louisiana.

Hồ sơ môi trường của Formosa cộm cán đến nỗi đã trở thành ví dụ minh họa trong bộ sách giáo khoa Luật Môi trường của Barry Hill tại Hoa Kỳ (Environmental Justice, Legal Theory and Practice, Barry Hill, 3rd Edition, 2014).

Tại Campuchia năm 1998, Formosa dính dáng đến một cả một vụ bạo loạn chết người. Năm đó, Formosa “xuất khẩu” sang Campuchia 3000 tấn rác nhiễm thủy ngân, do tàu Chang-Shun vận chuyển vào cảng Sihanoukville.

Rác gồm những khối nén, bọc trong bao nhựa khá dày. Người dân quanh vùng đổ xô đến bãi rác, thấy những tấm nhựa này có thể dùng làm tấm lợp nhà. Họ dùng dao, dùng tay, thậm chí dùng răng cắn bóc các bao nhựa nhiễm độc.

Chỉ vài ngày sau, nhiều người bị sốt, tiêu chảy. Một công nhân bến cảng làm việc dọn dẹp hầm tàu Chang-Shun phải nhập viện và chết ngay trong ngày. Khi tin tức lộ ra rằng rác này chứa thủy ngân, người dân trong vùng tức giận đập phá các công sở.

Chất thải độc hại của Formasa Plastic được đựng trong những thùng chứa thô sơ, không được rào chắn ở một bãi rác thải tại Sihanoukville, Campuchia năm 1999. Ảnh: Internet.

Hàng chục ngàn người hoảng sợ rời bỏ thành phố trong đó khoảng 10000 người định tiến về Phnom Penh. Cuộc bạo loạn này đã làm chết thêm 5 người nữa.

Trong vụ này, Việt Nam đã cấp tốc viện trợ cho Campuchia 500 bộ quần áo và mặt nạ phòng độc để giúp tẩy độc. Formosa sau đó bị buộc phải nhận lại toàn bộ số rác nhiễm độc thủy ngân này.

Đáng chú ý, Formosa là nhà sản xuất nhựa PVC lớn nhất thế giới. Do sử dụng thủy ngân trong quá trình sản xuất ra chất xút để dùng cho sản xuất PVC, họ có thể đã tích lũy lại hàng ngàn tấn rác độc mà không nơi nào nhận chứa chấp.

Và cũng đáng chú ý nữa, là trong các vụ scandal môi trường ở nước ngoài, lãnh đạo Formosa đã tìm cách che giấu hoặc giảm nhẹ các tai họa do họ gây ra cho dân địa phương, thậm chí mua chuộc các nhà chức trách địa phương.

Tại Mỹ, trong vụ kiện ở tiểu bang Louisiana, nhóm luật sư thay mặt cư dân khu vực bị thiệt hại vạch rõ Formosa không những đã không cảnh báo người dân về tác hại của các chất thải với môi trường và sức khỏe.

Mà họ còn dấu nhẹm rằng trước đó họ đã bị phạt nhiều triệu Mỹ kim vì các vụ vi phạm bên bang Texas.

Trong vụ Sihanoukville ở Campuchia, người phát ngôn Formosa nói rằng rác gửi theo tàu Chang-Shun chỉ nhiễm thủy ngân “hơi vượt mức quy định một chút” (0,2 PPM).

Nhưng khi Campuchia gửi mẫu đi xét nghiệm tại nước ngoài, tất cả cả mẫu đều cho kết quả nhiễm thủy ngân ở mức nguy hiểm.

Kết quả xét nghiệm tại Hong Kong cho thấy chỉ số này là 10971 PPM! Chính phủ Campuchia cũng tố cáo Formosa đã đút lót số tiền tổng cộng là 3 triệu Mỹ kim cho các quan chức địa phương, và có khoảng 30 vị đã bị chính phủ treo giò trong vụ này.

http://cafef.vn/ho-so-huy-hoai-moi-truong-cua-formosa-tren-the-gioi-kinh-khung-nhu-the-nao-20160425164430363.chn

VĨNH HẰNG VÀ Ý NGHĨA CUỘC SỐNG






Trần Mỹ Duyệt





Từ “vĩnh hằng” hay “đời đời” mới nghe qua cũng đủ thấy nó mang tính chất tâm linh và triết học.

Thông thường khi nghe nói đến đời đời, vô cùng, mãi mãi, vô tận, hay một hình thức nào đó để diễn tả cái không cùng, không tận của thời gian và không gian, tự nhiên trí khôn con người cảm thấy như ngừng đọng, và nhỏ bé lại. Ngay cả các cổ thụ triết học lẫy lừng như Plato, Socrates, Aristotle thì cũng chỉ đề cập đến cái tận cùng kia qua sự diễn đạt rất giới hạn của trí khôn và cũng rất mông lung trìu tượng qua triết học. Đối với những khoa học gia nổi tiếng như Einstein, thì cũng chỉ đến thuyết “tương đối” là cùng. Như vậy có nghĩa là gì? Có nghĩa là trí khôn con người không có thể đo lường được cái vô cùng, hay vĩnh cửu. Điều này chỉ có Thượng Đế mới có câu trả lời và định nghĩa đầy đủ về vĩnh hằng, đời đời, và trường sinh. Vì Ngài vô cùng từ nguyên thủy. Ngài hiểu thế nào là vĩnh hằng, thế nào là đời đời, và thế nào là vĩnh cửu.

Gần đây, Nietzsche (1844-1900) đã lếu láo cấp giấy khai tử cho Thượng Đế khi tuyên bố “Thượng Đế đã chết”. Thế nhưng chưa thấy Ngài chết, mà Nietzsche thì đã ra người thiên cổ từ lâu rồi. Thượng Đế chưa chết, vĩnh hằng, đời đời, và trường cửu vẫn còn đó. Vũ trụ, trăng, sao, vẫn đều đều vận hành theo đúng chu kỳ và qui luật của thiên nhiên do Ngài sáng tạo. Khi tìm tài liệu để viết bài này, tôi đã vào thư viện và đọc một nghiên cứu về vũ trụ. Điều làm tôi ngạc nhiên rất nhiều là các nhà thiên văn học khi phải đo lường kích thước của vũ trụ đã phải dùng đến đơn vị là năm ánh sáng. Một năm ánh sáng thì đường dài của nó khủng khiếp đến như vô tận, vì chiều dài không gian của nó đo được 5.878.000.000.000 dặm. Thế mà khi nhìn từ đầu này đến đầu kia của một ngân hà gần nhất đối với trái đất, các thiên văn gia đã đo được khoảng cách là 10 triệu năm ánh sáng. Mười triệu năm ánh sáng cho một chiều dài của ngân hà, nhưng trong vũ trụ này lại có hàng tỉ, tỉ ngân hà. Chỉ duy cái nhìn sơ khởi như thế cũng đủ cho thấy cái vĩ đại, bao la của đời đời, và của vĩnh hằng, vì cái mà con người có thể đo đếm được mà đã không làm được, thì cái mà con người không thể đo đếm được sẽ mãi mãi là vĩnh hằng. Đến đây, ta chắc phải nhớ lại 2 câu thơ vừa cay cú vừa ngạo đời của một thi sĩ Việt Nam:

“Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy
Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười”.

Cái phù du của kiếp người nay còn mai mất, chỉ đo đếm trong vòng ba vạn, sáu ngàn ngày, thế mà đối với nhiều người đã tưởng chừng như thiên thu, nhưng có sánh gì với hai chữ vĩnh cửu, đời đời, hay vĩnh hằng. Đến đây thì triết học, tâm lý học, hay khoa học phải dừng lại và nhường bước cho niềm tin, cho tôn giáo, cho đạo đức để nói chuyện đời đời, chuyện vĩnh cửu, và chuyện trường sinh bất tận. Vì ngoài ý nghĩa của tôn giáo và qua cái nhìn tôn giáo, cả triết học, tâm lý học, hay khoa học cũng thất bại khi diễn tả hai chữ vĩnh cửu. Đã có ông hay bà triết gia, tâm lý gia, hay khoa học gia nào đến được vĩnh hằng rồi về lại trái đất mà viết thành sách đâu. Ngay cả Tông Đồ Phaolô, người cho mình đã lên đến tầng trời thứ ba, nhưng khi ông nói về điều này, thì cũng chỉ như một trẻ em ấp úng, với vài nét đan thanh như sau: “Mắt chưa hề xem, tai chưa hề nghe, lòng trí chưa hề tưởng tượng” (1 Cor 2:9).

Vì thế, khi trình bày về vĩnh hằng, về đời đời thì niềm tin là cốt lõi. Chỉ có niềm tin, chỉ có tôn giáo mới giải thích được vĩnh cửu, đời đời như thế nào. Thật vậy, các tôn giáo bao giờ cũng đề cao vĩnh cửu, và con đường các đạo giáo bao giờ cũng là con đường dẫn về vĩnh hằng. Vĩnh hằng, trường cửu trở thành một niềm mơ ước của kiếp người cho cả kẻ khổ sầu lẫn người hạnh phúc. Người đau khổ mong thoát khỏi cảnh lầm than mà đến nơi cực lạc. Người hạnh phúc mong sao cho niềm vui và hạnh phúc mình có kéo dài đến bất tận. Tóm lại, ai cũng mong được hạnh phúc, nhất là được đời đời hạnh phúc. Toma A’quinas, một triết gia và thần học gia bậc thầy của thế giới, đã diễn tả đời đời và trường cửu bằng một thí dụ rất đơn sơ nhưng cũng thâm thúy như sau:

Giữa tôi và bạn là hai người đang có những tư tưởng đối nghịch về đời đời. Tôi tin là có đời đời, còn bạn thì không tin. Nhưng mình hãy đánh cá với nhau về niềm tin ấy. Và nếu xẩy ra như những gì tôi và bạn đang tin tưởng, thì tôi sẽ có một đời đời hạnh phúc; còn bạn, bạn sẽ phải chịu một đời đời bất hạnh trong hỏa ngục.

Hãy cho rằng tôi là người thua cuộc trước. Vậy khi tôi thua bạn về niềm tin của mình, thì tôi thua bạn những gì, và bạn được tôi những gì. 100 năm hạnh phúc của trần gian thôi. Hãy cứ cho là tôi thua bạn 100 năm hạnh phúc trần gian, nhưng có phải là bạn không gặp đau khổ, buồn phiền, bệnh tật trong cái thời gian 100 năm ấy đâu. Và chắc chắn rằng bạn cũng không được hưởng tất cả những gì bạn muốn trong 100 năm ấy. Ngược lại, tôi cũng không phải là mất tất cả, và không bao giờ được hưởng một hạnh phúc nào trong suốt 100 năm.

Nhưng nếu tôi thắng, thì lúc ấy sự thay đổi sẽ là vô cùng khác nhau. Bạn hãy nhớ tới hai chữ đời đời, hoặc hai chữ vĩnh cửu. Như vậy thì tốt hơn là tôi tin. Tôi tin có vĩnh cửu, có đời đời bên kia thế giới.

Tư tưởng của Toma cho ta một suy tư về cuộc đời, về vĩnh hằng, và về giá trị cuộc sống của con người. Con người ngày nay, có lẽ phần đông đang muốn chối bỏ cái ý nghĩ vĩnh cửu để tự chôn bám vào cái tạm bợ của 100 năm trần thế. Nhưng như Toma đã phân tách, nào có được hưởng trọn vẹn và tuyệt đối cái hạnh phúc 100 năm ấy đâu, vậy sao đành bỏ mặc và không bao giờ nghĩ tới vĩnh cửu, nghĩ tới đời đời. Điều làm cho con người ngày nay không muốn nghĩ tới vĩnh cửu, nghĩ tới đời đời phải chăng vì họ đang bị cuốn hút vào cái mù mịt và độc hại của thứ văn minh sự chết như Đức Gioan Phaolô II đã từng cảnh cáo. Vậy ta hãy sống trọn vẹn với thân phận con người trong tâm tưởng và hành động hướng về chân, thiện, mỹ, và suy nghĩ để tìm gặp vĩnh hằng trong những giá trị thực tiễn của kiếp người.

Chủ Nhật, 24 tháng 4, 2016

Những câu trả lời đầy minh triết của Đức Lama










Tất cả sự tồn tại, dù nội tại hay ngoại tại, đều không phải ngẫu nhiên mà có; tiềm năng của tất cả hiện tượng nội tại và ngoại tại là phụ thuộc lẫn nhau. Ví dụ, năng lực cơ thể của bạn có mối quan hệ với năng lực cơ thể cha mẹ bạn; năng lực cơ thể của họ có mối quan hệ với năng lực cơ thể cha mẹ của họ v.v Sự tiến triển đó là nghiệp.

Hỏi: Phật giáo luôn luôn nói về nghiệp. Vậy, nghiệp là gì?

Lama: Nghiệp là những kinh nghiệm của thân và tâm. Bản thân từ nghiệp (Karma) là tiếng Sanskrit; nó có nghĩa là nguyên nhân và kết quả. Các kinh nghiệm của bạn về hạnh phúc hoặc khổ đau thuộc tâm sinh lý là kết quả của các nguyên nhân chắc chắn, nhưng chính những kết quả đó trở thành nguyên nhân của các kết quả trong tương lai.

Một hành động nào đó gây ra phản ứng lại tức là nghiệp. Cả triết học và khoa học phương Đông giải thích rằng tất cả vật chất đều tương quan lẫn nhau; nếu không hiểu điều đó, bạn sẽ không hiểu cách mà nghiệp tạo tác. Tất cả sự tồn tại, dù nội tại hay ngoại tại, đều không phải ngẫu nhiên mà có; tiềm năng của tất cả hiện tượng nội tại và ngoại tại là phụ thuộc lẫn nhau. Ví dụ, năng lực cơ thể của bạn có mối quan hệ với năng lực cơ thể cha mẹ bạn; năng lực cơ thể của họ có mối quan hệ với năng lực cơ thể cha mẹ của họ v.v Sự tiến triển đó là nghiệp.

Hỏi: Niết Bàn là gì và có nhiều người chứng đạt nó không?

Lama: Khi phát huy các năng lực thiền định của mình đến nỗi có thể hợp nhất tâm mình tập trung vào một điểm duy nhất, thì bạn sẽ dần giảm bớt các phản ứng cảm xúc của bản ngã cho đến khi nó hoàn toàn biến mất. Tại thời điểm đó, bạn thoát khỏi bản ngã của mình và phát hiện một trạng thái tâm hạnh phúc an vui tuyệt đối. Đó là những gì chúng ta gọi Niết Bàn. Nhiều người đã chứng đạt trạng thái này và nhiều người hơn nữa đang trên đường đến đó.

Hỏi: Ở Niết Bàn, Ngài chấm dứt sự tồn tại sắc thân; con người biến mất?

Lama: Không, bạn vẫn có một sắc thân, nhưng không có một hệ thống thần kinh bông lung như chúng ta bây giờ. Đừng lo lắng, khi đạt được Niết Bàn, bạn vẫn tồn tại nhưng tồn tại trong một trạng thái hạnh phúc hoàn toàn. Vì vậy, hãy nổ lực chứng đạt Niết Bàn càng sớm càng tốt.

Hỏi: Đức Phật vốn không nói rằng Như Lai sẽ không bao giờ tái sanh một khi đã chứng đắc Niết Bàn?

Lama: Có lẽ, nhưng đức Phật muốn nói gì? Đức Phật muốn nói rằng Ngài không tái sanh trong tình trạng buông lung bị năng lực mạnh mẽ của bản ngã thúc ép, đó là con đường mà tất cả hữu tình chúng ta luân hồi trong sanh tử. Thay vào đó, Ngài có thể tái sanh với sự chế ngự hoàn toàn, mục đích duy nhất của Ngài là cứu độ chúng sanh.

Hỏi: Ngài trình bày quá nhiều về an vui và hạnh phúc, và tôi đang cố gắng dùng tâm trí để phân biệt rõ ràng giữa hai điều này. Vậy, chúng giống nhau? Có thể một ai đó nắm bắt được an vui nhưng không nắm bắt hạnh phúc?

Lama: Chúng đều giống nhau và chúng ta cần nắm bắt cả hai. Những gì chúng ta nên nhắm tới là kinh nghiệm an vui mà không có chấp thủ; chúng ta nên thưởng ngoạn các cảm giác hạnh phúc của mình trong khi hiểu rõ bản chát của của chủ thể, tâm, đối tượng và các cảm giác của chúng ta. Một ai đó đãchứng đạt Niết Bàn là có thể thực hiện điều này.

Hỏi: Tôi muốn làm sáng tỏ ý nghĩa thiền của Phật giáo. Vậy, tôi có quyền giải thích nó như “hãy quan sát sự chuyển biến của tâm bạn”?

Lama: Vâng, bạn có thể nghỉ về nó theo cách đó. Như tôi đã trình bày trước đây, thiền Phật giáo không có nghĩa phải cần thiết ngồi kiết già và nhắm mắt lại. CHỉ đơn giản quán chiếu cách tâm bạn đang phản ứng lại thế giới cảm giác như chăm lo công việc của mình—đi đứng, nói chuyện, mua sắm hay bất cứ việc gì—thì có thể là thiền định hoàn hảo thực sự và mang lại một kết quả tuyệt vời.

Hỏi: Đối với tái sinh, nó có nghĩa là gì?

Lama: Khi chết, ý thức của bạn tách rời khỏi thể xác, nhập vào trạng thái trung ấm, và từ đó nó được sinh ra trong một sắc thân khác. Chúng ta gọi đó là tái sanh. Năng lực tâm sinh lý đều khác biệt nhau. Năng lực sinh lý là vô cùng giới hạn, nhưng năng lực tâm lý luôn luôn tương tục.

Hỏi: Liệu rằng ý thức có thể phát triển ngay trong trạng thái sau khi chết hay nó chỉ tiến triển trong đời sống đã hình thành?

Lama: Suốt trong quá trình chết, ý thức của bạn thường xuyên tuôn trào, giống như dòng điện, nó bắt nguồn từ máy phát nhưng lại chuyển tải qua nhiều nhà khác nhau, nhiều thiết bị khác nhau v.v và chiếm cứ những đồ dùng khác nhau. Do đó, ý thức có thể phát triển trong trạng thái trung ấm.

Hỏi: Như vậy, tâm không cần một cơ thể vật lý để phát triển?

Lama: Vâng, có một trạng thái thân trung ấm, nhưng nó không giống như cơ thể của chúng ta; nó là trạng thái thân rất nhẹ và nhanh nhẹn.

Hỏi: Khi trì chú, Ngài luôn luôn tập trung vào bất kỳ một trong các cơ quan cảm giác nào của thân hoặc chỉ chú ý vào tâm của mình? Ngài có thể tập trung vào các luân xa[1] của mình hoặc chỉ chý ý đến trọng tâm năng lực?

Lama: Điều đó có thể xảy ra, nhưng bạn phải nhớ rằng có những phương háp khác nhau cho những mục đích khác nhau. Đừng nghỉ đức Phật vốn chỉ giảng dạy một phương pháp duy nhất. Đạo Phật bao gồm hàng ngàn, có lẽ thậm chí vô số phương pháp thiền định, tất cả đều được chỉ dạy nhằm thích ứng với thiên hướng và tâm tính khác nhau của vô vàn chúng sanh riêng biệt.

Hỏi: Liệu ý thức phát triển trong đời sống của chúng ta và biến mất khi chúng ta tê liệt một phần của ý thức siêu nhiên nào đó? Giống như Thượng Đế hoặc ý thức vạn năng?

Lama: Không, đó là tâm rất đổi bình thường, đơn giản và tương tục trực tiếp với tâm mà bạn đang có ngay bây giờ. Điều khác biệt là nó đã tách rời khỏi cơ thể của bạn và đang tìm kiếm một thân khác. Tâm thuộc trạng thái trung ấm này nằm dưới sự kiểm soát của nghiệp, đồng thời nó trở nên bị kích động, xung đột và xáo trộn. Bạn không thể gọi nó là cao cả hơn hoặc tối thượng.

Hỏi: Quan điểm của Ngài có giống với các khái niệm về đại ngã và tiểu ngã[2] của Ấn Độ giáo?

Lama: Trong khi triết học Ấn Độ giáo chấp nhận có linh hồn (atman) thì Phật giáo không thừa nhận nó. Chúng ta hoàn toàn phủ nhận một “ cái tôi” tồn tại, hoặc một linh độc lập miên viễn. Mọi khía cạnh thuộc thân và tâm của bạn đều là vô thường: luôn luôn thay đổi và thay đổi. Các Phật tử cũng phải nên phủ nhận quan điểm có một địa ngục tồn tại miên viễn. Mọi khổ đau và hạnh phúc mà chúng ta kinh qua đều nằm trong một trạng thái của dòng chảy tương tục, quá tạm bợ, quá vô thường, luôn luôn thay đổi chứ không bao giờ trường cữu.

Do đó, phải nhận thức bản chất vô thường của hiện hữu chúng ta và từ bỏ thế giới mà trong đó các đối tượng cảm giác tức thời tiếp xúc với các cơ quan cảm giác tức thời để tạo ra các cảm thọ tức thời, không có điều gì có giá trị để nắm bắt, chúng ta tìm kiếm các nhận thức an vui đời đời, vĩnh viễn của giác ngộ hoặc Niết Bàn.

Hỏi: Ngài nghỉ rằng lễ nghi trở nên quan trọng đối với người phương Tây đang thực tập Phật giáo cũng như người phương Đông, ai có cảm giác đối với nó?

Lama: Điều đó phụ thuộc vào những gì bạn muốn. Thực chất, thiền của Phật giáo không đòi hỏi bạn phải mang theo các đối tượng vật chất; điều duy nhất có ý nghĩa là tâm của bạn. Bạn không cần phải đánh chiêng hay khua trống. Đó là những gì bạn muốn nói về lễ nghi? Rất tốt, vì vậy, bạn không cần phải lo lắng và điều đó đều áp dụng cho phương Đông lẫn phương Tây. Tuy nhiên, một số người cần những điều này; tâm khác nhau nên cần những phương pháp khác nhau.

Ví dụ, bạn đeo mắt kính. Nó không phải là một điều quan trọng nhất, nhưng một số người cần đến nó. Tương tự, có nhiều tôn giáo khác nhau trên thế giới chỉ dạy nhiều phương pháp khác nhau tùy theo khả năng và trình độ cá nhân của các tín đồ khác nhau. Do đó, chúng ta không thể nói “đây là con đường thực sự duy nhất. Mọi người nên đi theo con đường của tôi”.

Hỏi: Có những phương pháp mới mẽ cần phải có ở phương Tây?

Lama: Không. Không có bất kì phương pháp mới mẽ nào được yêu cầu. Tất cả các phương pháp đều đã có sẳn, bạn chỉ cần khám phá chúng thôi.

Hỏi: Tôi đang nổ lực tìm hiểu mối quan hệ giữa tâm và thân theo quan điểm của Phật giáo. Vậy, tâm quan trọng hơn thân? Ví dụ, trong trường hợp các tu sĩ thực tập thiền quán với kết hợp với việc đọc tụng thần chú, nhất định họ phát triển một phần cơ thể của mình để đọc tụng, như vậy, thân quan trọng như thế nào?

Lama: Tâm là điều quan trọng nhất, nhưng có một số phương pháp thực tập thiền được tăng tiến bởi các bài tập luyện yoga đích thực. Ngượ lại, nếu cơ thể mắc bệnh, thì có thể ảnh đến tâm của bạn. Do đó, việc giữ gìn thân thể khỏe mạnh cũng rất quan trọng. Tuy nhiên, nếu bạn chỉ chú trọng đến thân và xao lãng việc nghiên cứu thực tại của nội tâm, thì điều đó cũng không phải là cách khôn khéo; nó không quân bình và thiếu thực tế.

Vì vậy, tôi nghỉ tất cả chúng ta nên đồng ý rằng tâm quan trọng hơn thân, nhưng trong cùng một thời điểm, chúng ta không thể hoàn toàn lãng quên thân. Tôi đã từng thấy người phương Tây đến phương Đông để nghiên cứu giáo lý, và khi nghe về những vị thầy Du-già của Tây Tạng sống trên những ngọn núi cao mà không có thức ăn, họ liền suy nghỉ “ồ, thật kỳ bí! Tôi muốn trở thành như người siêu việt”. Đó là một quan niệm sai lầm. Nếu sinh ra ở phương Tây, cơ thể của bạn thường thích nghi với các điều kiện chắc chắn riêng biệt, vì thế, để giữ cho thân mạnh khỏe, bạn cần phải tạo ra một môi trường hữu ích. Bạn không thể thực hiện một cuộc du ngoạn đến dãy Hi-mã-lạp sơn. Hãy khôn khéo, đừng quá cực đoan.

Hỏi: Có thực sự khi một người mới chào đời thì tâm của người ấy hoàn toàn trong sáng và thuần khiết?

Lama: Như tất cả chúng ta biết, khi mới sinh ra, tâm của bạn không bị các vấn đề rắc rói thuộc trí óc chiếm hữu quá mức. Tuy nhiên, khi bạn lớn hơn và biết suy nghỉ, nó bắt đầu tràn ngập quá nhiều thông tin, triết lý, cái này, cái kia, cái này tốt, cái kia xấu, tôi nên có cái này, tôi không nên có cái kia…đến nổi bạn tri thức hóa quá mức khiến các thứ phiền não rác rưởi chứa đựng đầy tâm của mình. Điều đó nhất định khiến tâm bạn trở nên tồi tệ hơn nhiều.

Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa bạn sinh ra vốn hoàn toàn thuần khiết và chỉ sau khi có sự hiểu biết thì bạn mới trở thành bất thiện. Nó không có nghĩa đó. Tại sao không? Trên cơ bản, bởi vì nếu bạn đã thoát khỏi vô minh và chấp thủ, thì bất cứ phiền não nào xuất hiện trong bạn đều sẽ không tồn tại. Tiếc thay, chúng ta không phải như vậy. Về cơ bản, không những chúng ta rộng mở bất cứ phiền não trí óc nào đến từ cuộc sống của mình, mà còn biểu lộ một triệu chứng thú vị lớn lao.

Do đó, trong từng giây phút, càng ngày càng nhiều phiền não lấp kín tâm của chúng ta. Bởi vậy, bạn không thể nói tâm của trẻ con mới chào đời là hoàn toàn thuần khiết. Điều đó là sai lầm. Những đứa bé khóc bởi vì chúng có các cảm giác. Khi một cảm giác khó chịu sanh khởi—có lẽ chúng thèm bú sữa mẹ—nên chúng khóc.

Hỏi: Chúng ta có khái niệm này về ý thức luân hồi từ thân này đến thân khác, từ đời sống này đến đời sống khác, nhưng nếu có một ý thức tương tục, thì tại sao chúng ta không nhớ các kiếp trước của mình?

Lama: Có quá nhiều siêu thị thông tin bủa vây lấy tâm khiến chúng ta quên đi các kinh nghiệm trước đây của mình. Khoa học thậm chí cho rằng não bộ bị giới hạn vì nhiều thông tin mới đè nén thông tin củ. Họ nói vậy, nhưng điều đó không phải hoàn toàn đúng chính xác. Về cơ bản, thực chất những gì đang xảy ra, tâm của con người hầu như trở nên vô thức, mê mờ, và bị những kinh nghiệm mới chiếm hữu đến nổi nó quên đi những kinh nghiệm củ.

Hãy nhìn lại một tháng qua: chính xác là những gì đã xảy ra, đích thực là những cảm giác gì bạn đã kinh qua trong mỗi ngày? Bạn không thể nhớ ra, có đúng không? Do đó, hãy nhìn lui quá khứ xa hơn, hoàn toàn trở lại thời gian khi bạn vốn chỉ là một vài tế bào nhỏ bé nằm trong bào thai mẹ, rồi hãy quay lại xa hơn thời điểm đó: nó rất khó, phải vậy không? Nhưng nếu thực tập từ từ, liên tục quán sát tâm mình, cuối cùng bạn sẽ ngày càng nhớ ra những kinh nghiệm trước đây của mình.

Nhiều người trong chúng ta có thể có kinh nghiệm phản ứng rất kỳ lạ đối với một số việc đã xảy ra và trở nên bối rối trước phản ứng của mình, điều dường vốn không hiện hữu dựa trên bất cứ kinh nghiệm nào trong cuộc sống này: “nó thật phi thường. Tại sao tôi đã phản ứng như vậy? Tôi không biết điều đó xuất phát từ đâu”. Điều đó xảy ra bởi vì dựa trên kinh nghiệm của kiếp trước. Các nhà tâm lý học hiện đại không thể lý giải những phản ứng như vậy bởi vì họ không hiểu sự tương tục của tâm thức, bản chất bất biến của tâm mỗi cá nhân con người. Họ không hiểu rằng các phản ứng tâm thức bắt nguồn từ các động lực thúc đẩy được tạo ra cách đây hằng nghìn năm. Tuy nhiên, nếu duy trì việc quán sát tâm mình bằng thiền định, thì rốt cuộc bạn sẽ hiểu rõ tất cả những điều này qua chính kinh nghiệm của mình.

Hỏi: Có thể trở nên tiêu cực khi nhận ra các kiếp trước? Nó có thể trở thành bất ổn?

Lama: Vâng, nó có thể là một kinh nghiệm tích cực hoặc tiêu cực. Nếu bạn nhận thức rõ các kiếp trước của mình, thì nó sẽ trở nên một kinh nghiệm tích cực. Sự bất ổn xuất phát từ vô minh. Bạn nên nổ lực nhận thức rõ bản chất đặc thù của tiêu cực. Khi bạn nhận thức rõ, thì vấn đề ấy sẽ được giải quyết. Việc hiểu biết bản chất của tiêu cực chính là chấm dứt các vấn đề mà nó mang đến.

Bởi vậy, hiểu biết đúng đắn là giải pháp duy nhất cho các vấn đề thuộc tâm sinh lý. Bạn nên thường xuyên quan sát thật cẩn thận cách mà bạn sử dụng năng lực của mình: nó sẽ khiến bạn trở nên hạnh phúc hoặc không hạnh phúc. Đó là trách nhiệm lớn lao, bạn không nghỉ vậy? Đó là sự lựa chọn của bạn: con đường của trí tuệ hoặc con đường của vô minh.

Hỏi: Khổ đau có nghĩa là gì?

Lama: Sự kích động của tâm thức là khổ đau; sự bất mãn là khổ đau. Thực chất, rất quan trọng để hiểu rõ các mức độ tinh vi khác nhau của khổ đau, nếu không, con người sẽ cho rằng “tại sao Phật giáo nói dến khổ đau của mọi người? Tôi đang hạnh phúc mà”. Khi nói về khổ đau, đức Phật vốn không chỉ đến cập đến sự đau đớn của thương tích hoặc nổi khổ của tâm thức mà chúng ta thường kinh qua.

Chúng ta cho rằng mình có hạnh phúc, nhưng nếu quan sát kỉ lưỡng hơn về hạnh phúc ấy, chúng ta sẽ nhận thấy vẫn còn tràn đầy bất mãn trong tâm mình. Theo quan điểm Phật giáo, trên thực tế, việc chúng ta không thể kiểm soát tâm mình chính là khổ đau thuộc tâm thức. Điều đó còn tồi tệ hơn những khổ đau thân xác khác mà chúng ta kinh qua. Bởi vậy, khi Phật giáo nói về khổ đau, thì nó đang nhấn mạnh đến mức độ tâm thức nhiều hơn là thân xác, và đó là lý do tại sao, trong những điều kiện thực tiễn, về cơ bản, giáo lý Phật giáo được áp dụng cho lãnh vực tâm lý. Đạo Phật chỉ dạy bản chất của khổ đau ở mức độ tâm thức và các phương pháp diệt tận khổ đau.

Hỏi: Tại sao chúng ta kinh qua khổ đau và học được gì từ khổ đau?

Lama: Điều đó quá đơn giản, không phải vậy? Tại sao bạn khổ đau? Bởi vì bạn quá bị cuốn hút vào hoạt động của vô minh và chấp thủ. Bạn học hỏi từ khổ đau bằng cách nhận thức rõ nó xuất phát từ đâu và chính xác nó là gì mà phải khiến bạn chịu khổ đau.

Trong vô vàn kiếp trước của mình, chúng ta đã từng có quá nhiều kinh nghiệm nhưng chúng ta vẫn không học hỏi được gì nhiều. Nhiều người nghỉ họ đang học hỏi từ những kinh nghiệm của mình, nhưng họ không bao giờ học được. Có vô vàn kinh nghiệm ở quá khứ trong vô thức của họ, nhưng họ vẫn không biết gì về bản chất đích thực của chính họ.

Hỏi: Tại sao chúng ta có cơ hội để bị ràng buộc?

Lama: Bởi vì chúng ta đang gợi lên ảo tưởng; chúng ta không thấy được thực tại của chủ thể hoặc đối tượng. Khi bạn hiểu rõ bản chất bám chấp của đối tượng, thì tâm chủ thể bám chấp tự nhiên biến mất. Nó là tâm mơ hồ, tâm bị cuốn hút vào một đối tượng và vẽ ra một kế hoạch xuyên tạc trong nó khiến bạn chịu khổ đau. Đó là tất cả. Nó thực sự hoàn toàn đơn giản.

Hỏi: Tôi đã thấy những biểu tượng hung dữ của các vị thần ở Tây Tạng, tuy nhiên, mặc dù họ trông có vẽ hung tợn, nhưng không xấu ác. Điều đó khiến tôi tự hỏi Phật giáo có nhấn mạnh về cái ác và những điều xấu hay không?

Lama: Phật giáo chưa bao giờ nhấn mạnh về sự tồn tại của cái ác bên ngoài. Cái ác là một biểu hiện trong tâm của bạn. Nếu cái ác tồn tại, thì nó ở ngay trong chính bạn. Không có cái ác bên ngoài để sợ hải. Hình tượng các vị thần phẩn nộ là hiện thân của trí tuệ giác ngộ và giúp cho những người có nhiều tức giận không kiềm chế được. Trong thiền định, người tức giận chuyển hóa sự phẩn nộ của mình thành trí tuệ, điều được hình dung như là một vị thần phẩn nộ; vì vậy, năng lực tức giận của người ấy được trí tuệ chuyển hóa. Nói chung, đó là cách mà phương thức thể hiện.

Hỏi: Ngài nghỉ gì về một người giết người khác để tự vệ? Ngài có nghỉ con người có quyền bảo vệ chính họ, thậm chí trả giá bằng sinh mạng của kẻ xâm hại mình?

Lama: Hầu hết trong các trường hợp giết người để tự vệ, thì đó là sự phẩn nộ không kiềm chế được. Bạn nên bảo vệ chính mình theo cách tốt nhất có thể nhưng không giết hại người khác. Ví dụ, nếu bạn tấn công tôi, thì tôi có thể bảo vệ chính mình nhưng không giết bạn.

Hỏi: Nếu giết tôi là cách duy nhất để bạn tồn tại, thì bạn có làm không?

Lama: Nếu vậy, thì bạn nên giết tôi là tốt hơn.

Vâng, nếu không còn câu hỏi nào nữa, thì chúng ta dừng ở đây. Cám ơn các bạn rất nhiều về mọi thứ.
________________________________

[1] Luân xa: Trong Ấn Độ giáo và một số nền văn hóa châu Á được cho là một dòng chảy của năng lượng tâm linh hay sinh lý ẩn trong cơ thể con người. Từ nguyên thủy trong tiếng Sanskrit cakra mang ý nghĩa là "bánh xe" hay "vòng tròn", và đôi khi được dùng để chỉ đến "bánh xe của luân hồi", đôi khi còn được gọi là Luân xa theo âm Hán Việt. Một số truyền thống miêu tả 5 hay 7 luân xa, một số khác là 8.

Các luân xa được miêu tả như là xếp thành một cột thẳng từ gốc của cột sống lên đến đỉnh đầu. Mỗi Luân xa liên quan tới một số chức năng tâm sinh lý, một khía cạnh của nhận thức, một phần tử cổ điển (nước, lửa, khí, đất), một màu sắc nào đó và nhiều đặc điểm khác. Chúng thường được hình tượng hóa bằng các hoa sen với số cánh khác nhau cho mỗi luân xa.

Các luân xa được cho là đem lại năng lượng cho cơ thể và có liên quan đến các phản ứng của cơ thể, tình cảm hay tâm lý của một người. Chúng được xem là các điểm chứa năng lượng sống, hay là prana, (cũng còn được gọi là shakti, hay khí), được cho là lưu chuyển giữa các điểm đó dọc theo các đường chảy gọi là nadis. Chức năng của các chakra là xoay tròn để thu hút vào Năng lượng sống từ vũ trụ để giữ cân bằng cho sức khỏe về tâm linh, tâm lý, tình cảm và sinh lý của cơ thể.

Các luân xa được đặt ở các tầng lớp khác nhau của các mức độ tinh vi của tâm linh, với Sahasrara (Luân xa vương miện) tại đỉnh đầu liên quan đến nhận thức thuần túy, và Muladhara (Luân xa gốc) tại điểm đáy liên quan đến vật chất, được xem đơn giản như là nhận thức đã được làm thô hóa.

[2] Đại ngã và tiểu ngã: Đại ngã (Brahman) là nguyên lý siêu việt, thường tại, vô thủy vô chung, là quỹ đạo chi phối vạn vật theo một trật tự như là điều lý có sẵn. Trong khi đó, vạn vật là những thực tại hữu thủy, hữu chung, được điều lý và định hướng trong Brahman.

Đại ngã (Brahman) là một thực tại đồng nhất, vượt ngoài các ý niệm, các tổng số ý niệm; nhưng để lý giải cho những người chưa có trình độ thực nghiệm tâm linh thì phải mượn những ý niệm. Vì thế, Taittiriya Upanishad đã hình tượng hóa đại ngã như một cái tổ chim có ba con chim nhô cái đầu ra là Viraj, Hiranya Garbha và Ishvara: “Khi tuyệt đối được quan niệm là độc lập, tự hữu thì gọi là đại ngã. Khi được coi là hiện thân thành vũ trụ thì gọi là Hiranya garbha, khi được coi là thượng đế sáng tạo hữu ngã thì gọi là Ishvara. Ishvara trở thành Brahman, Vishnu và Shiva khi ba chức phận của Ngài được phân biệt”

Không thể miêu tả đại ngã, nhưng Mundaka Upanishad đã lấy hình tượng con nhện giăng tơ để miêu tả hành động sáng tạo và thu hồi của đại ngã như sau: “Cũng như con nhện giăng tơ và rút tơ về, cũng như cỏ sinh trên mặt đất, cũng như lông mộc trên thân người sống, thì nơi đây trong vũ trụ, phàm cái hữu tồn là xuất tự Bất di bất dịch”.

Bất lực trong việc miêu tả đại ngã Brihad Aranyaka Upanishad dùng toàn bộ những chữ “không” để nói: “đại ngã không lớn, không nhỏ, không ngắn, không dài, không rực rỡ, không tối tăm, không mùi, không vị, không mắt, không tai, không tiếng nói, không hơi thở, không trong, không ngoài, không tiêu hủy mà cũng không bị tiêu hủy”.

Mặc dù không thể miêu tả được đại ngã là gì, nhưng đại ngã vẫn có những tính thiết yếu là: Thực hữu (Chat), Ý thức (Chit), An lạc (Ananda). Đại ngã là thực hữu vì không phải là hư không, Đại ngã là ý thức vì là nguồn gốc của mọi nhận biết, Đại ngã là an lạc vì đó là hạnh phúc vĩnh hằng.

Mandukya Upanishad cho rằng con người chỉ có thể cảm nhận đại ngã bằng trực giác tâm linh (Turiya). “Turiya là bản chất của ý thức về tự ngã duy nhất, nơi mà tất cả muôn vật trong thế giới đều trở về, yên vui, thanh tịnh, không hai”.

Tiểu ngã (Atman) là một thực thể nội tại trong mỗi cá nhân. Hơi thở là nguồn sống vật chất thì Atman là hơi thở siêu nhiên, là nguồn sống thiêng liêng. Tiểu ngã là thực thể làm cho con nguời vượt lên trên vạn vật. Có thể nói Atman là thành phần của Brahman trong con người. Dại ngã là cái ngã vũ trụ đại đồng, còn tiểu ngã là cái ngã cá nhân. Braman chỉ có một, Atman là số nhiều, nhưng cái nhiều ấy chỉ là giả tưởng vì bản chất cả hai chỉ là một. Cho rằng khi thân xác chết thì tiểu ngã lại trở về hợp nhất với Đại ngã (Brahman).

Tiểu ngã không phải là lý trí, tình cảm và giác quan, nhưng Atman là nguồn cội của các sinh hoạt tinh thần ấy. Không có tiểu ngã, tất cả sinh hoạt tinh thần và thể chất đều chấm dứt. Nhưng ngay khi cả sinh hoạt tinh thần và thể chất chấm dứt thì Atman vẫn tồn tại bất diệt. Với nhiều nỗ lực, nhưng Upanishad cũng không thể nói rõ về tiểu ngã, cho nên luôn cảnh giác rằng tự ngã không thể hiểu được, tự ngã phải cần được thực hiện. Katha Upanishad nói: “tiểu ngã không thể nhận biết được bởi sức mạnh của trí óc, cũng không thể nhận biết được bởi giác quan”.

Lama Thubten Yeshe, Minh Chánh chuyển ngữ

Học Phật bằng cách nào?










Phương pháp học Phật tức là ba môn Huệ học: Văn huệ, Tư huệ, và Tu huệ. Bởi vì muốn vào cửa giác ngộ không trí huệ thì không sao vào được. Phật pháp là chân lý, là những sự thật, nếu không có ngọn đuốc trí huệ soi sáng, làm sao chúng ta thấy mọi sự thật ở chung quanh, không cần trí huệ, chỉ dùng lòng tin đến với đạo Phật, để học Phật pháp, thật là sai lầm lớn lao. Đây là chứng bệnh trầm trọng của Phật tử hiện thời. Cần chữa lành bệnh này, chúng ta phải ứng dụng triệt để ba môn huệ học vào công trình tu học Phật pháp.

Thế nào là Văn huệ?
Văn là nghe, do nghe giáo lý Phật pháp, trí huệ mở sáng, gọi là Văn huệ. Chúng ta nghe Phật pháp qua lời giảng dạy của chư tăng, của thiện hữu tri thức đã tu học trước ta. Những lời giảng dạy ấy xuất phát từ kinh điển của Phật, trong đó chứa toàn lời lẽ chân chánh, chỉ bày mọi sự thật cho chúng sanh. Càng nghe, trí huệ chúng ta càng sáng. Hoặc chúng ta trực tiếp đọc kinh sách Phật, khiến mở mang trí huệ cũng thuộc Văn huệ. Chịu khó nghe giảng dạy, chịu khó nghiên cứu kinh sách Phật, đó là người biết từ cửa Văn huệ tiến thẳng vào ngôi nhà Phật pháp.

Thế nào là Tư huệ?

Tư là suy xét phán đoán, do suy xét phán đoán những lời dạy trong Phật pháp, trí huệ càng tăng trưởng. Chúng ta được nghe lời chỉ dạy của thầy bạn, dẫn từ trong kinh Phật ra, song nghe rồi tin liền là chưa đủ tư cách học Phật. Buộc chúng ta phải dùng trí phán đoán xem đúng hay sai, nếu quả thật đúng, từ đó chúng ta mới tin. Có thế mới thực hành đúng câu "các người phải tự thắp đuốc lên mà đi, thắp đuốc lên với chánh pháp" trong kinh Pháp Cú. Chúng ta muốn mở mang trí huệ, song tự mình làm sao mở được, phải mồi ngọn đuốc trí huệ của mình với ngọn đuốc chánh pháp của Phật, trí huệ mới phát sáng.

Mồi bằng cách nào?

Ví như chúng ta nghe vị Sư giảng rằng: "Tất cả thế gian đều là vô thường." Sau đó phải dùng trí huệ của mình phán đoán xem đúng hay không. Chúng ta tự đặt câu hỏi: tất cả thế gian đều là vô thường, có sự vật nào thoát ngoài luật lệ ấy chăng? Nếu có, câu nói này chưa phải chân lý. Bằng không, mới thật đúng chân lý, chúng ta sẽ hoàn toàn tin. Thế rồi, ta tự khảo sát :

Con người có phải vô thường không? Từ ông bà đến cha mẹ chúng ta đều có sanh ra, lớn lên, bệnh hoạn, già yếu rồi chết. Kể luôn cả ta, khi nào còn nhỏ bé, lớn lên, bệnh hoạn, già yếu, rồi cũng sẽ chết. Trong gia đình thân tộc chúng ta đã thế, ngoài xã hội cũng thế, cả nhân loại trên thế giới cũng thế; ngàn xưa là thế, mãi sau này cũng thế. Quả là con người vô thường.

Đến những sự vật, nào nhà cửa, bàn ghế, xe cộ... có bị vô thường không? Chính cái nhà của mình, khi mới cất thì tốt đẹp lành lặn, qua vài ba năm thấy cũ dần, đến năm mười năm thì hư sập. Cái bàn viết cũng thế, khi mới đóng, xem bóng loáng tốt đẹp, dùng mấy năm thấy đã cũ, tróc sơn khờn mặt, rồi đây sẽ mục nát hư hoại. Chiếc xe đạp khi mới mua đem về mới toanh, chạy được một năm vỏ đã rách, cổ lỏng, các con ốc lờn... vài năm nữa sẽ hư. Thế là, nhà cửa, bàn ghế, xe cộ... những vật cần dùng bên cạnh chúng ta thảy bị vô thường chi phối. Cho đến trăm ngàn vật khác, nếu khảo sát đều thấy đồng một số phận như nhau.

Chúng ta có thể kết luận rằng: "tất cả thế gian là vô thường", quả thật là chân lý. Ta tin chắc lẽ này, dù có ai nói khác đi, cũng không làm lay động được lòng tin của ta. Bởi lòng tin này đã được gạn lọc qua sàng lý trí, nên nó vững chắc không dễ gì làm lung lay.

Lại một thí dụ, chúng ta nghe vị Sư giảng lý luân hồi, bảo rằng: "Muôn vật ở thế gian đều xoay quanh vòng luân hồi." Ta tự đặt câu hỏi: Tại sao muôn vật đều luân hồi? Có vật nào không luân hồi chăng? Chúng ta bắt đầu xét từ thực vật: Cây cối thành hình bắt nguồn từ hạt, hạt nẩy mầm tăng trưởng thành cây, nở hoa, kết trái; trái sanh hạt, hạt lại nẩy mầm... lộn đi đảo lại không cùng. Song đó là sự lộn đi đảo lại từ cây này sang cây khác, ngay bản thân cây ấy có đảo lộn vậy không? Cũng lộn đi đảo lại như thế. Thân cây hiện sống đây, do châm rễ hút đất nước... nuôi dưỡng mới được sanh trưởng, dần dần thành đại thọ. Rễ hút đất nước nuôi dưỡng thân cành lá, lá rụng biến thành phân đất, cành gãy mục cũng thành phân đất, thân cây ngã mục cũng trở về đất nước. Thân cây nhờ đất nước sanh trưởng, khi ngã mục lại trở về đất nước.

Nước do ánh nắng bốc thành hơi, hơi lên cao gặp khí lạnh đọng lại, rơi xuống thành nước; nước lại bốc hơi... mãi mãi không cùng. To như quả địa cầu vẫn quay tròn quanh cái trục, sáng rồi tối, tối lại sáng. Căn cứ vào sự quay tròn của nó, người ta chia ra ngày giờ tháng năm, thời tiết xuân hạ thu đông, xoay vần thế mãi không cùng. Do sự khảo sát trên, chúng ta khẳng định rằng "muôn vật ở thế gian đều xoay quanh vòng luân hồi", là sự thật không còn gì phải nghi ngờ.

Trên đây tạm cử vài thí dụ làm căn bản cho công cuộc suy xét phán đoán Phật pháp. Căn cứ vào đây, chúng ta phán xét những lời Phật dạy, hoặc chư tăng dạy trong những trường hợp khác. Có thế, mới phân biệt được chánh tà và mới đúng tinh thần người học Phật.

Thế nào là Tu huệ?

Sau khi phán xét lời Phật dạy là đúng, chúng ta đem áp dụng trong cuộc sống hằng ngày của mình, khiến chánh lý càng bày hiện sáng tỏ, là tu huệ. Ví như, đã biết rõ "tất cả thế gian là vô thường", chúng ta ứng dụng sự vô thường vào đời sống của mình, trong những trường hợp như sau:

Đã biết rõ thế gian là vô thường, khi gặp vô thường đến với bản thân, với gia đình ta, ta vẫn giữ bình tĩnh không hốt hoảng hãi sợ. Vì biết chắc điều đó ở thế gian không ai tránh khỏi, sợ hãi kinh hoàng chỉ làm rối thêm vô ích. Bởi không sợ nên tâm ta bình tĩnh sáng suốt, giải quyết mọi việc một cách tốt đẹp. Chúng ta vẫn đủ sáng suốt để khuyên giải cho những người đồng cảnh ngộ bớt đau khổ.

Biết rõ thế gian là vô thường, mọi sự tranh giành danh lợi, tài sắc... lòng ta nguội lạnh. Tranh giành những thứ tạm bợ ấy làm gì, để rồi chuốc khổ về mình, gây đau khổ cho người, rốt cuộc chỉ thành việc mò trăng bắt bóng. Lòng tham lam giành giật dục lạc thế gian, do đây dứt sạch.

Do thấy rõ lẽ vô thường, chúng ta không thể ngồi yên chờ chết. Phải cố gắng làm mọi việc lành, nếu cơn vô thường đến, chúng ta có muốn làm cũng không sao làm được. Lại biết quý tiếc thời giờ, một ngày qua rồi không tìm lại được, phải cấp bách nỗ lực làm lợi mình lợi người, không thể chần chờ.

Đó là ba trường hợp do biết "thế gian vô thường", chúng ta khéo ứng dụng tu hành trong cuộc sống hiện tại của mình. Bao nhiêu sự lợi ích tốt đẹp sẽ theo đó mà tăng trưởng. Sự tu hành ấy, đi đôi với tâm trí tỉnh táo sáng suốt, nên gọi là "Tu huệ".

Ví dụ khác, chúng ta nhận rõ "muôn vật luân hồi", liền ứng dụng lý luân hồi vào cuộc sống của mình. Nếu phải luân hồi, chúng ta chọn cái luân hồi nào tốt đẹp an ổn hơn. Ví như, biết các loài thảo mộc từ hạt nẩy mầm, sanh trưởng thành cây, đơm hoa, kết quả; hạt lại nẩy mầm... Chúng ta nên chọn lựa hạt tốt giống ngon đem ương, để sau này kết quả ngon, cho ta và mọi người được thưởng thức vị ngon. Cũng thế, trong vòng luân hồi bản thân ta cũng không thoát khỏi, ta cần tạo những nhân tốt, nhân an vui, để mai kia có lăn lộn cũng lăn lộn trong chỗ tốt, chỗ an vui.

Đã biết muôn vật luân hồi, chúng ta phải tìm xem nguyên nhân nào lôi cuốn vào trong ấy. Biết rõ nguyên nhân rồi, phải tìm cách thoát ra ngoài vòng luân hồi. Không đầu hàng khuất phục, để chịu lăn mãi trong luân hồi. Như các nhà khoa học nghiên cứu biết sức hút của quả đất, sau đó tìm cách chế phi thuyền đủ sức mạnh vượt ra ngoài vòng hút của quả đất, đi thẳng vào quĩ đạo v.v... Biết luân hồi để tìm cách thoát ra, chính là tinh thần "Tu huệ".

Văn huệ, Tư huệ rất cần thiết, song Tu huệ lại càng quan trọng hơn. Nếu có văn huệ, tư huệ mà thiếu tu huệ thì chỉ là huệ rỗng, không lợi ích thiết thực cho đời sống con người. Nhờ tu huệ mới thẩm định được giá trị văn, tư ở trên và giúp cho văn, tư được kết quả viên mãn.

Vì thế, đức Phật dạy hàng Phật tử đi chùa là cốt gặp Sư tăng, Sư ni, gặp Tăng ni rồi cần phải thưa hỏi Phật pháp, thưa hỏi xong phải ghi nhớ, ghi nhớ rồi cần phán xét, phán xét rồi phải tiến tu. Được vậy mới đúng tinh thần Phật tử (Phỏng theo bài kinh Ma-ha-nam trong Tập A-hàm). Bồ-tát Quán Thế Âm cũng trình với Phật, thuở quá khứ lâu xa Ngài gặp Phật dạy tu phương pháp văn, tư, tu được vào chánh định và cho hiệu là Quán Thế Âm (Kinh Lăng Nghiêm). Chính trong giới Bồ-tát, Phật cũng dạy dù ở xa trăm ngàn dặm, nghe có người nói kinh luật, người mới thọ giới Bồ-tát cũng phải mang kinh luật đến đó học (Kinh Phạm Võng). Quả nhiên đức Phật không chấp nhận đệ tử tu hành tối dốt, phải đầy đủ ba môn huệ học, mới xứng là đệ tử của Ngài.

Ba môn huệ học này hoàn toàn thích hợp với tinh thần khoa học hiện nay. Bất luận môn học nào, trước tiên học lý thuyết, kế phê bình lý thuyết, sau thí nghiệm hay thực hành lý thuyết. Lý thuyết tức là văn huệ, phê bình tức là tư huệ, thí nghiệm tức là tu huệ. Có như vậy môn học mới tiến bộ và phát minh những điều mới lạ.

Tuy nhiên, về mục tiêu chánh yếu Phật học vẫn khác khoa học. Khoa học cốt phát minh mọi sự thật của ngoại giới, chinh phục giành quyền làm chủ thiên nhiên, bắt thiên nhiên làm theo ý muốn con người, để tạo vật chất dồi dào sung túc cho nhân loại. Phật học xoay lại ngự trị bản thân mình, gạn lọc đào thải những tâm thức nhơ xấu, kiến tạo một tâm hồn trong sáng an vui tự tại.

Bởi khoa học gây tạo điều kiện vật chất dồi dào, nên con người dễ tranh đua giành giật kình chống lẫn nhau, Phật học cốt xây dựng tâm hồn trong sáng, nên người biết tu theo, lòng sẽ mở rộng thương yêu bảo bọc lẫn nhau.Vì thế, ba môn huệ học đều đặt căn cứ trên nguyên tắc "xem lại chính mình". Nắm vững nguyên tắc này, đọc kinh sách Phật, chúng ta nhận định phán xét không bị sai lẫn.

Được trích từ sách: BƯỚC ĐẦU HỌC PHẬT
HT. Thích Thanh Từ