" Cả cuộc đời ba không có gì để lại cho các con ngoài số vốn kiến thức mà ba mẹ tảo tần nuôi các con ăn học.Mong các con trở thành những người hữu ích cho xã hội" ( trích từ TT "Vững Niềm Tin")
Chủ Nhật, 20 tháng 12, 2015
chỉ có hiện tại là thật
Khaly Cham
hãy nghĩ đến quá khứ
là giấc mơ trống rỗng của sự tưởng tượng
tất cả đều mất hút vào hư không của quá khứ
chẳng thể nào hình dung được
hình thái cứu cánh về mặt tâm linh...
có thể chấp nhận mọi khía cạnh lịch sử
hiện tại thi hài lịch sử đã được lý trí khâm liệm
để nó trở thành một kỳ quan?
dối trá luôn thể hiện qua nhiều bộ mặt
chứng nhân tôn sùng giả hiệu
loài người đang lạm dụng ảo tưởng
không bao giờ có cuộc đời nào khác tốt đẹp hơn
nói về một thế giới khác
ta đang phỉ báng thời gian
khi biết rằng: ta mặc nhiên tồn tại theo từng hơi thở
ta phớt lờ trước cảm xúc sợ hãi pha lẫn bi thương
những kỹ năng thao tác tuyệt vời của phu đào huyệt
không cần biết quá khứ hay tương lai
PHỐ GỌI
Phố trong veo hơi thở buổi sáng
Gió cuối thu nuột nà nhung lụa
Thơm hương hoa cúc vừa vặn màu nhớ
Ướm dịu dàng vào gót chân…
Phố gọi lòng nhau bằng ảo vọng xa gần
Mặt trời to son đôi môi của người đàn bà ba mươi tuổi
Tí tách giọt cà phê đặc quánh nâu trầm
Du dương violon đan xen nhấm nháp sợi tóc rối…
Phố gọi những ngón tay đan lầm lỗi
Mơ mộng trái mùa
Chiếc lá ngả vàng khuôn mặt già nua
Dòng nhựa vẫn da diết chảy từng mạch gân lặng lẽ…
Cuối tuấn con đường reo vui bao rộn rã mới mẻ
Sức sống căng đầy ngực phố
Vẫn biết mình không còn trẻ nữa
Sao trái tim cứ tha thiết như nụ phập phồng bắt đầu mùa yêu…
Thứ Bảy, 19 tháng 12, 2015
Phản Bác 26 Tà Kiến Tuyên Truyền "Nói Thật" Hay "Nói Trật"?
Mike Wilson
Con ngựa thành Troy - đạo quân thứ 5
VN có cả đạo quân thứ 5 - mai phục trong và ngoài nước - để liên tục tuyên truyền kích động chống phá theo mật lệnh từ nước ngoài ...
Mấy kẻ chống phá này là những phần tử bất mãn rồi theo giặc hoặc thua chạy từ 1975 mà phần đông là người gốc công giáo theo giặc âm thầm trong tâm - trong khi ngoài mặt thì cứ ti toe "yêu nước, yêu nước"...
Lâu lắm mới thấy tập hợp tại một chỗ hầu như toàn bộ những luận điểm chống phá ấy từ một tâm thức lầm lạc - đã lầm đường lạc lối mà vẫn còn ngoan cố "ta đây"! Kết nên một tổ kén láo xạo, một mê hồn trận mù ám để tự giam tâm trí mình và đồng bọn vào trong!
Với kiến thức và thông tin lịch sử hai chiều - sẽ không có gì khó cho bất kỳ ai - để phản bác, bẻ gãy và chôn sống một cách nghiêm túc toàn bộ 26 luận điệu gian tặc dưới đây. Và nhân đấy càng làm sáng tỏ chính nghĩa và sự vĩ đại của dân tộc ta qua giai đoạn đuổi giặc 1946-1979 éo le, bi thảm, hùng tráng, oai nghi, lẫm liệt nhất của lịch sử VN cận đại!
Nếu không tự thoát khỏi mê cung mù lối hận thù tự tạo thì những kẻ chống phá ấy sẽ không bao giờ hòa giải với chính dân tộc của họ!!!
Nhà nước VN đã làm tất cả để hòa giải ngoại trừ trao quyền cai trị cho họ, những kẻ lóp ngóp chui lên ... từ dưới háng ông chủ ngoại nhân của họ (!)
Bọn chống phá chỉ ngưng trò mất dạy này - chỉ khi nào ông chủ Mỹ của chúng cài cắm chúng được vào trung tâm quyền lực của VN!!! Chính bọn chống phá này là ngòi nổ và nguy cơ xé nát và xô đẩy VN vào nội chiến như Ukraine và Syria ngày nay - do Mỹ chủ mưu và lén lút xúi giục!!!
Quốc dân ta cần cảnh giác tột độ về nguy cơ này!!!
1- Tôi nói: Đảng cộng sản Việt Nam độc tài vì trong hơn 70 năm qua đảng giành quyền độc tôn cai trị Việt Nam và không chấp nhận đa nguyên, đa đảng.
Như vậy tôi nói xấu hay nói sự thật?
Phản bác 1. Độc đảng hay đa đảng không phải là cái tội phản quốc theo giặc chia cắt ĐẤT NƯỚC. Đó mới là TỘI - TỘI PHẢN QUỐC!
2- Tôi nói: Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam không có chính danh để lãnh đạo nhân dân Việt Nam vì nó không phải do dân bầu mà do đảng chỉ định.
Như vậy tôi nói xấu hay nói sự thật?
Phản bác 2. LÃNH ĐẠO TOÀN DÂN CHỐNG NGOẠI XÂM được toàn dân yêu nước ủng hộ tiến đến độc lập thống nhất đất nước ĐÓ LÀ CHÍNH DANH, CHÍNH NGHĨA. Theo giặc, bán nước, chia cắt dân tộc KHÔNG CÓ chính danh chính nghĩa!
3- Tôi nói: Với chế độ "đảng cử dân bắt buộc phải bầu", Quốc Hội nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà trước năm 1975 và nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam sau năm 1975 chỉ là một cơ quan bù nhìn của đảng cộng sản Việt Nam. Nó được đảng dựng ra để che mắt thế giới và lừa gạt nhân dân, ngoài ra không có thực quyền như điều 69 Hiến Pháp quy định.
Như vậy tôi nói xấu hay nói sự thật?
Phản bác 3. Đảng cử dân bầu cũng là qui trình chính trị của Mỹ!!! như vậy Mỹ cũng "che mắt thế giới và lừa gạt nhân dân" ?
CHIA RẼ ĐỂ TRANH QUYỀN NHƯ MỸ mới là phục vụ lợi ích quốc gia ?!
4- Tôi nói: Chế độ cộng sản hiện nay tại Việt Nam là không dân chủ bởi vì người dân không có quyền lựa chọn chế độ, nhà nước để thay mặt cho mình lãnh đạo và quản lý xã hội. Tất cả đều do đảng cộng sản tự biên tự diễn.
Như vậy tôi nói xấu hay nói sự thật?
Phản bác 4. Người dân Mỹ có quyền thay đổi chế độ hay không ? công dân Mỹ thử đòi thay đổi chế độ xem sao ? dân chủ là phục vụ và hài hòa lợi ích quốc dân - không phải là phục vụ lợi ích nhóm hay lợi ích giai cấp như đang xảy ra bên Mỹ.
Không phải cứ chia rẽ tranh quyền như Mỹ là có biểu hiện dân chủ!
5- Tôi nói: Xã Hội Chủ Nghĩa là hoang tưởng, không ai biết nó như thế nào, xây dựng bao giờ mới xong! Đảng cộng sản dùng nó như một cái cớ để duy trì vĩnh viễn sự cai trị của mình, bởi vì chỉ có đảng mới biết xây dựng nó như thế nào còn nhân loại trên thế giới thì "bó tay chấm com".
Như vậy tôi nói xấu hay nói sự thật?
Phản bác 5. Xã hội chủ nghĩa là lý tưởng cao đẹp, - trên thực tế, ngay ở phương tây và ngay trong nước Mỹ - các chính sách XHCN vẫn sốngngay trong sào huyệt của TBCN và làm cho TBCN có bộ mặt nhân đạo hơn . việc xây dựng một xã hội cao đẹp là công trình liên tục của nhân loại
- không thể trao quyền cho riêng TBCN bóc lột, gian tham, vụ lợi .
6- Tôi nói: Việt Nam dưới sự cai trị của đảng cộng sản VIệt Nam không có tự do tư tưởng. Mọi tư tưởng khác với học thuyết Karl Max, Lenin đều bị quy chụp vào tội phản cách mạng, chống đảng, chống nhà nước.
Như vậy tôi nói xấu hay nói sự thật?
Phản bác 6. Tự do tư tưởng - trong đó có việc áp dụng TBCN kinh tế thị trường - - và áp dụng các ngành giáo dục tiên tiến của nhân loại - đang là thực tại không thể chối cãi tại Việt Nam. Tự do phê bình, rút tỉa kinh nghiệm, rút ưu & khuyết điểm đang là thực tại thông tin tại VN từ Quốc Hội cho đến nhân dân mọi tầng lớp . VN không chấp nhận, và quyết nghiêm trị tự do nói láo, nói sai sự thật để gây chia rẽ, hoang mang dư luận, làm nản lòng dân và làm tay sai cho các âm mưu xâm lược địa chính trị của ngoại bang - bất kỳ từ đâu đến!!!
7- Tôi nói: Việt Nam dưới sự cai trị của đảng cộng sản Việt Nam không có tự do ngôn luận. Mọi phát biểu không đúng theo đường lối chính sách của đảng cộng sản đều bị quy vào tội phản động.
Như vậy tôi nói xấu hay nói sự thật?
Phản bác 7. Như trên : mọi thông tin sai lệch theo chiều huớng hận thù phá hoại, cuồng Mỹ, theo Tàu, theo giặc tôn giáo, đều bị - và đáng phải bị - nghiêm trị!!!
8- Tôi nói: Dưới nhiều hình thức mật đàm, mật nghị, hội nghị, mật ước, hiệp định, thỏa thuận cấp cao... trong 70 năm qua đảng cộng sản Việt Nam đã giao các phần lãnh thổ, lãnh hải của Việt Nam sau đây cho Trung cộng: trên 10.000 cây số vuông biển trên vịnh Bắc Bộ, Biển Đông, Hoàng Sa, một phần Trường sa và trên 1000 cây số vuông đất đai, rừng núi dọc theo biên giới Việt-Tàu trong đó có ải Nam Quan, đồi Lão Sơn, 1/2 thác Bản Giốc...
Như vậy tôi nói xấu hay nói sự thật?
Phản bác 8. Việc VN tự nguyện dâng đất, dâng đảo cho TQ, v.v. là hoàn toàn không đúng sự thật!
Hiệp ước Biên giới, Hiệp Ước Vịnh Bắc Bộ, thực tại VN cho di dân cư trú và đóng quân trên 29 vị trí Trường Sa là các thực tại mà toàn dân và cả thế giới đều có thể kiểm chứng!
9- Tôi nói: Đảng cộng sản Việt Nam và nhà nước của nó đàn áp, bỏ tù người dân yêu nước biểu tình phản đối Trung cộng xâm lăng Biển Đông của Việt Nam là hèn với giặc ác với dân.
Như vậy tôi nói xấu hay nói sự thật?
Phản bác 9. VN không bỏ tù người dân nào chống TQ - mà chỉ bóc tách những phần tử dựa vào Mỹ để chống phá, VN đưa chúng ra tòa, trưng bằng chứng, bỏ chúng vào "nhà kho", rốt cuộc tống xuất chúng sang Mỹ, đúng theo ý nguyện của chúng!
VN không bao giờ bỏ tù người dân yêu nước, biết cùng nhau đoàn kết bảo vệ đất nước chống ngoại xâm.
10- Tôi nói: Quốc nạn tham nhũng ở nước ta chính là đảng cộng sản Việt Nam và nhà nước của nó bởi vì chỉ những kẻ có chức có quyền mới có cơ hội để tham nhũng.
Như vậy tôi nói xấu hay nói sự thật?
Phản bác 10. Tham nhũng thì nước nào cũng có, - càng lâu đời thì càng tinh vi! nợ công của VN chỉ là 48% GDP, VN bắt đầu phải vay tiền để trả lãi nợ công
Trong khi đó thì Mỹ nợ công 14 ngàn tỉ USD, lên đến gần 100% GDP, và Mỹ phải vay triền miên để trả lãi nợ công!
U.S. federal debt held by the public as a percentage of Gross Domestic Product (GDP), from 1940 to 2012
https://en.wikipedia.org/wiki/National_debt_of_the_United_States
Vấn nạn cấp thiết nhất của VN là nhà nước địa phương tiêu xài hoang phí, không biết sử dụng tiền đúng chỗ, và trung ương không đủ nhân lực và luật giám sát từ tiêu xài hoang phí mà có cá nhân tham nhũng! nhưng vấn nạn lớn nhất vẫn là nợ công tăng, trong khi thu thuế giảm
Đây là lỗi hệ thống, cần phải khắc phục!
11- Tôi nói: Năm 1958 Phạm Văn Đồng theo lệnh của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam, thay mặt nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ký công hàm công nhận Biển Đông Việt Nam thuộc quyền quản lý của Trung cộng là hành động bán nước.
Như vậy tôi nói xấu hay nói sự thật?
Phản bác 11. Công hàm 1958 của TT Phạm Văn Đồng chỉ công nhận lãnh hải 12 hải lý của TQ theo đúng luật quốc tế
- VN không "giao trọn Biển Đông" cho TQ- và luôn luôn khẳng định chủ quyền biển đảo của mình,đặc biệt là sau khi tiếp quản Nam VN và chiếm đóng Trường Sa 1975 theo chiến lược bảo vệ Tổ quốc của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp!
Nói "VN trao trọn Biển Đông cho TQ" là nối giáo cho giặc, phạm tội phản quốc!!!
12- Tôi nói: Hồ Chí Minh và đảng cộng sản xua quân vào đánh miền Nam Việt Nam là đánh cho Trung Quốc và Liên Xô.
Như vậy tôi nói xấu hay nói sự thật?
Phản bác 12. VN đánh đuổi Mỹ, thống nhất đất nước là để bảo vệ Tổ quốc CHO CẢ DÂN TỘC. TQ và LX chỉ giúp VN đánh Mỹ. Giúp thôi, chứ không dám xúi giục VN, vì ngay từ đầu 1959, cả LX và TQ đều không dám chắc rằng VN có thể thắng Mỹ!
LX không lợi dụng chiến tranh VN 1965-1975. Chỉ có TQ lợi dụng chiến tranh VN để đi đêm với Mỹ 1972, và lợi dụng Mỹ sau này ...!
CHÍNH VÌ VN KHÔNG ĐÁNH CHO TQ CHÍNH VÌ VN KHÔNG BÁN NƯỚC CHO TQ
CHÍNH VÌ TQ KHÔNG ĐIỀU KHIỂN ĐƯỢC CHIẾN TRANH VN nên TQ mới đi đêm với Mỹ để mưu cầu lợi ích riêng, và phản bội chính nghĩa đánh đuổi ngoại xâm của VN!!!
13- Tôi nói: Chính sách Cải Cách Ruộng Đất của Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam tại miền Bắc Việt Nam trong các năm 1953-1956 đã giết oan trên 172.000 người Việt Nam vô tội.
Như vậy tôi nói xấu hay nói sự thật?
Phản bác 13. Mục đích của chính sách CCRD là xóa bỏ bất công xã hội tồn đọng từ thời thực dân phong kiến, san bằng hố ngăn cách giàu nghèo để thực hiện mô hình xã hội thử nghiệm mới. Do chủ trương đấu tranh giai cấp và sự đi quá đà của một số hận thù cá nhân CCRD đã gây ra một số oan sai trên diện rộng. Ông Hồ đã lên đài phát thanh, khóc xin lỗi quốc dân, Tướng Giáp đã rút tỉa và tổng kết các sai phạm, nhà nước đã sửa sai, không cho lặp lại các lỗi lầm nhân dân do đó đã yên tâm, tin tưởng và đoàn kết để đồng lòng đánh giặc cho đến chiến thắng cuối cùng. Con số bị giết oan "trên 172.000 người Việt Nam vô tội" đã được thổi phồng quá lố mà không có bằng chứng khoa học ước tính thực tế chỉ là vài ngàn dân...
14- Tôi nói: Vào Tết Mậu Thân năm 1968, trên đường thua chạy Quân Đội Nhân Dân của đảng cộng sản Việt Nam đã thủ tiêu trên 6.000 người dân vô tội ở Thừa Thiên và thành phố Huế.
Như vậy tôi nói xấu hay nói sự thật?
Phản bác 14. Thuờng dân bị chết ở Huế là do bom đạn của hai bên trong suốt một tháng không có bằng chứng là QDNDVN giết thuờng dân vô tội ngoài việc phát hiện các hố chôn tập thể để giải quyết vấn đề vệ sinh công cộng trong tình trạng chiến tranh và thành phố Huế đầy xác chết - bị vây hãm cả tháng!
Việc Mỹ và VNCH không dám cho nhà báo đến tiếp cận các hố chôn gây nghi ngờ về gian ý tuyên truyền một chiều để chạy tội "Mỹ và VNCH bắn phá bỏ bom bừa bãi" rồi sau đó đổ tội cho Việt cộng! VC sống nhờ dân, như cá trong nước, sao lại có thể giết thuờng dân vô tội ? khi giải phóng miền Nam 1975 khỏi gót giày xâm lược QDNDVN được đón tiếp như những anh hùng
- Họ có vào Nam để giết ai đâu ?!
Nếu họ giết hết thì đã không còn những kẻ còn sống để theo giặc, sang Mỹ, rồi quay đầu lại chửi bới quê hương!!! Đúng đạo lý nhất là những ai còn sống sót và được tha mạng, - dù họ đang ở nước ngoài - cần phải cúi đầu tạ ơn lòng khoan hồng nhân đạo của nhà nước và QDNDVN!!!
15- Tôi nói: Nguyên nhân 64 chiến sĩ Quân Đội Nhân Dân bị hải quân Trung cộng thảm sát ở đảo Gạc Ma năm 1988 là do lịnh "không được chống trả" của bộ trưởng bộ Quốc Phòng nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam lúc bấy giờ là Đại tướng Lê Đức Anh.
Như vậy tôi nói xấu hay nói sự thật?
Phản bác 15. Công binh VN tại Gạc Ma chỉ ra đảo làm nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc, hải quân TQ bất ngờ đánh úptrong khi hai nước không có tuyên chiến
- Đây là lỗi của TQ, sao lại đổ lỗi cho VN ?
Xin xem thêm phản bác số 20!
16- Tôi nói: Thân thế của Hồ Chí Minh người sáng lập ra đảng cộng sản Việt Nam, Chủ Tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là bất minh, người Việt hay người Tàu chưa rỏ bởi vì có tài liệu tại đảo quốc Đài Loan nói ông ta là người Hẹ tên là Hồ Tập Chương, trong lúc đó tài liệu của nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa thì nói ông ta là người Hán tên là Hồ Quang.
Như vậy tôi nói xấu hay nói sự thật?
Phản bác 16. Ông HCM là người Việt, có cha mẹ Việt sinh năm 1890 tại làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An https://en.wikipedia.org/wiki/Ho_Chi_Minh. Tình báo Pháp, Anh, Mỹ đã theo dõi và khẳng định ông là người Việt . Cả nước VN và cả thế giới đều biết ông là người Việt. Chỉ có bọn theo giặc rồi thua mới nghe lời tuyên truyền bịa đặt (của Tàu)
17- Tôi nói: Hồ Chí Minh là con người vô lương tâm và tàn nhẫn khi ra lệnh cho đàn em là Trần Quốc Hoàng giết đi người đầu ấp tay gối là bà Nông Thị Xuân để bảo vệ sự nghiệp chính trị của mình.
Như vậy tôi nói xấu hay nói sự thật?
Phản bác 17. Chuyện này hoàn toàn bịa đặt và không có chứng cớ.
Ông HCM là người độc thân tự nguyện suốt đời ông không muốn lập gia đình riêng vì nghĩa vụ sống cho đại cuộc đuổi giặc tuy nhiên con người ai cũng có cuộc sống riêng tư : những lúc cô đơn lẻ bóng ai tự nguyện đến với ông Hồ để an ủi và chia sẻ thì đó là nhân quyền cá nhân . ông Hồ không cưỡng dâm ai, không cướp vợ của ai không lừa dối ai, không phụ bạc ai - nói chung là ông không gian dâm, cũng không phạm lỗi đạo đức làm người và không vi phạm luật pháp xã hội!
Vì lẽ đó người dân VN vẫn đặt di ảnh ông HCM lên bàn thờ để thờ ngay trong nhà mình!!!
Cô Nông Thị Xuân bị chết vì tai nạn xe cộ : từ đó người ta phao tin đồn rằng cô bị Bộ Trưởng Công An Trần Quốc Hoàn giết vì tên này có gian ý định cưỡng dâm cô và bị cô cự tuyệt ...
Không có bằng chứng nào liên quan đến ông HCM hay ông TQH
Chuyện tương tự ở Mỹ: cô đào Marilyn Monroe chán đời, uống thuốc tự tử sau đó rộ tin đồn cô là người tình của hai anh em John F. và Robert Kennedy và cô đã bị họ dàn cảnh giết chết để bảo vệ sự nghiệp chính trị của họ!
Chứng cứ đâu ? Tin được không ?
18- Tôi nói: Lê Duẫn nhắm mắt hy sinh cả chục triệu đồng bào của mình trên hai miền Nam Bắc Việt Nam để làm vừa lòng hai nước Liên xô và Trung cộng là độc ác và ngu xuẩn.
Như vậy tôi nói xấu hay nói sự thật?
Phản bác 18. Sau hai ông HCM và VNG, ông Lê Duẩn cũng xứng đáng là anh hùng dân tộc vì những lý lẽ sau đây:
Sau khi ông Hồ mất năm 1969 TQ tăng sức ép, đòi VN phải bỏ Liên Xô để lệ thuộc hoàn toàn vào viện trợ từ TQ! trong hoàn cảnh bi thảm của cuộc chiến cứu nước ông Duẩn đã bị căng thẳng do sức ép từ hai phía.
Đây là trường hợp "trên đe dưới búa" : một, là phải đứng vững để chống lại xâm lược Mỹ hai, là phải ngăn chặn ý đồ TQ đổ quân vào thôn tính VN! là đại diện cho Bộ Chính Trị ông Duẩn đã không cho phép chủ lực quân TQ vào VN mà chỉ cho phép công binh TQ vào giúp sửa cầu đường mà thôi vì VN còn phải dựa vào LX thì mới có khí tài và tên lửa để đánh bại ÁC TÂM CỦA MỸ MUỐN GIẾT DÂN TA HÀNG LOẠT BẰNG CÁCH TRẢI BOM THẢM LÊN THỦ ĐÔ HÀ NỘI!!!
*** đây chỉ là một trong nhiều tội ác chiến tranh của Mỹ!!!
Sau khi ông Hồ mất thì công lớn về mặt chính trị là của ông Duẩn: thay mặt và chiếu theo di chúc của ông Hồ, ông đã lãnh đạo công cuộc đánh đuổi ngoại xâm đến toàn thắng đồng thời bẻ gãy âm mưu thôn tính VN của TQ!!!
TRONG VAI TRÒ VÀ TƯ THẾ CHÍNH TRỊ THỜI ĐÓ, KHÔNG AI CÓ THỂ LÀM KHÁC HƠN HAY TỐT HƠN ÔNG LÊ DUẨN!!! ông Duẩn là anh hùng chính trị, ông Giáp là anh hùng quân sự . Hai người đó là cột trụ giữ vững vận mạng dân tộc ta trong gian đoạn bi hùng nhất của lịch sử dân tộc, 1969-1979!!! Không có chuyện ông Duẩn phục tùng TQ hay LX - đó chỉ là tuyên truyền vu khống!
Vì bị ông Duẩn bẻ gãy âm mưu thôn tính VN, TQ mới đi đêm với Mỹ 1972 và đâm sau lưng dân tộc ta bằng cách hứa với Mỹ thế này, "các ông muốn đưa bao nhiêu lính vào VN cũng được, miễn là các ông đừng đụng vào nước TQ chúng tôi!" trước khi TQ xâm lược VN 1979 đây đã là bài học đầu tiên cho VN : nếu không chịu phục tùng TQ thì bị chúng đâm ngay sau lưng và bỏ mặc cho Mỹ vùi dập VN tơi tả bằng bom đạn và thuốc độc (!) Ông Duẩn đã sáng suốt nhìn thấu và bẻ gãy âm mưu của TQ : nếu không có ông hành động quyết liệt thì VN đã bị TQ tràn vào thôn tính từ thập kỷ 1970!!!
19- Tôi nói: Phạm Văn Đồng phản quốc khi cầm bút ký vào công hàm 1958 giao Biển Đông của Việt Nam cho Trung cộng.
Như vậy tôi nói xấu hay nói sự thật?
Phản bác 19. Công hàm 1958 gửi từ VN sang TQ không phải là hiệp ước chính thức giữa hai quốc gia, cũng không được Quốc Hội hai bên nghị luận và phê chuẩn : thế thì TT Phạm Văn Đồng lấy quyền gì và BẰNG CÁCH NÀO để giao trọn Biển Đông cho TQ ?! TQ có dám mang công hàm đó ra Tòa án Quốc Tế để kiện VN không? TQ có dám mang công hàm đó ra LHQ để đòi chiếm trọn Biển Đông không? luật pháp quốc tế nào cho phép TQ làm như vậy ?
20- Tôi nói: Lê Đức Anh là thủ phạm gây ra cái chết của 64 chiến sĩ QĐNDVN tại đảo Gạc Ma.
Như vậy tôi nói xấu hay nói sự thật?
Phản bác 20. Trước khi có trận Gạc Ma và Len Đao thì đó là hai bãi đá bỏ hoang tại Trường Sa công binh của HQNDVN được lệnh trang bị nhẹ, ra chiếm giữ hai bãi ấy để làm công sự phòng thủ bất ngờ, trong tình trạng VN và TQ không tuyên chiến HQTQ đã dùng tàu chiến và binh lực lớn để đánh úp công binh VN và giành giật 2 bãi đá trên (xem http://soha.vn/quan-su/)! Tuy bị đánh bất ngờ công binh HQNDVN đã chống trả mãnh liệt vàchiếm giữ được Len Đao (xem http://soha.vn/quan-su/)trong khi Gạc Ma bị mất vì lực lượng ta quá yếu ...
Không hề có chuyện công binh VN bị cấm đánh trả! nếu không đánh trả thì không thể có chuyện giữ được Len Đao!!! Trong sự tranh giành này tỉ số là 1-1, VN hòa TQ, và không hề thua kém! Tướng Lê Đức Anh là một vị tướng tài về cả quân sự lẫn chính trị : ông là nhà thiết kế chiến dịch chớp nhoáng chiếm Campuchia, đánh tan quân Khmer Rouge, bình định an dân cho nước bạn, sau đó tái phân bố lực lượng QDNDVN để cho phép giải ngũ một số lính về làm kinh tế trong khi vẫn giữ vững các điểm chiến lược hiểm yếu nhờ đó giữ yên bờ cõi và cứu vãn tình hình kinh tế toàn quốc!
Ông LDA cũng là một chính khách khôn ngoan ra sáng kiến phá thế cấm vận của Mỹ, tiến đến quan hệ bang giao! Ông xứng đáng giữ chức Chủ Tịch Nước VN!
Lê Đức Anh là vị tướng độc nhãn của VN thao lược toàn tài cả về quân sự lẫn chính trị! nếu đem so công trạng và tài trí thì ông không hề thua kém tướng độc nhãn Moshe Dayan của Israel - nếu không muốn nói là ông giỏi hơn M.D. về tài thao lược chính trị!!!
21- Tôi nói: Đỗ Mười tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam không đủ khả năng và trình độ để lãnh đạo nhân dân Việt Nam bởi vì nghề nghiệp chính của ông ta là hoạn heo và thiến chó.
Như vậy tôi nói xấu hay nói sự thật?
Phản bác 21. Hoàn cảnh thay đổi, con người tiến hóa : ông Đỗ Mười dù từ hoàn cảnh nào thuở hàn vi mà biết học hỏi và cống hiến cho dân tộc để lên đến cấp lãnh đạo cao nhất thì đó cũng là một kỳ công mà hiếm ai làm được!
Ừ, thì cứ cho là lời đồn xác thực đi : lúc trẻ làm nghề thiến heo thiến chó, lớn lên đi làm cách mạng để " thiến dái " quân thù - tại sao không ???
Đó mới đích thực là anh hùng!!!
22- Tôi nói: Trường Chinh Đặng Xuân Khu đem cha mẹ mình ra đấu tố để lập công với đảng là nghịch tử, tội này trời không dung đất không tha.
Như vậy tôi nói xấu hay nói sự thật?
Phản bác 22. Không có sử liệu xác minh sự kiện này
23- Tôi nói: Võ Nguyên Giáp cúi đầu chấp nhận sĩ nhục để bảo vệ hư danh và mạng sống của mình là hèn tướng.
Như vậy tôi nói xấu hay nói sự thật?
Phản bác 23. Tất cả các tướng tá và binh lính của QDNDVN đều lập công đuổi giặc, thống nhất đất nước! họ đều là đàn em của Tướng Giáp họ đều gọi ông là "anh cả"! như vậy không hề có chuyện Tướng Giáp bị cô lập và các đàn em của ông bị xử tệ! Chính Tướng Giáp lúc ấy vẫn là Tư Lệnh Quân Ủy Trung Ương, Tổng Chỉ Huy Tối Cao Chiến Dịch HCM 1975, đã ra lệnh cho các "đàn em" của ông rằng "thần tốc, thần tốc, thần tốc hơn nữa...!"
Ngoài thiên tài quân sự Tướng Giáp còn có trí tuệ rộng lớn do đó ông mới được nhà nước giao thêm trọng trách phát triển khoa học và nghiên cứu kế hoạch dân số quốc gia chính TT Phạm Văn Đồng đã đích thân yêu cầu Tướng Giáp nghiên cứu kế hoạch dân số quốc gia vì tin tưởng ở trí tuệ khoa học của Võ Đại Tướng.
Bọn chống phá chỉ tìm cách bôi nhọ Tướng Giáp vì chính chúng nhu nhược hèn mọn đến độ không dám vinh danh và tự hào về vị anh hùng vĩ đại của dân tộc mà toàn dân VN và cả thế giới phải nghiêng mình kính phục!
24- Tôi nói: Nguyễn Văn Linh qua Thành Đô/Trung Quốc để rước giặc vào nhà, rước voi về dày mả tổ.
Như vậy tôi nói xấu hay nói sự thật?
Phản bác 24. Hội nghị Thành Đô chỉ là điểm hẹn để làm tan băng giữa quan hệ VN-TQ ; nó không kết thúc bằng một thỏa ước chính thức, nó không có tình ràng buộc mà chỉ là thăm dò gợi ý... sau hiện tượng rã hoại của LX và CS Đông Âu
VN và TQ đều cần nhau trong tư thế địa chính trị chiến lược!
Từ sự tan băng quan hệ sau hội nghị Thành Đô VN chúng ta đạt các thành quả.
Hiệp Ước Biên Giới và Hiệp Ước Vịnh Bắc Bộ, VN rút quân khỏi Campuchia sau 10 năm bình định để trút gánh nặng kinh tế ... đồng thời tạo tiền đề cho VN phá thế cấm vận và cô lập, hầu chuẩn bị tham gia ASEAN, hội nhập toàn cầu, thiết lập bang giao toàn diện hoặc chiến lược với mọi cường quốc thế giới ...
*** hội nghị Thành Đô là bước ngoặt chiến lược địa chính trị, tạo rất nhiều lợi thế và cơ hội cho VN vươn lên sau này!!! - sao lại gọi đó là "rước voi về dày mả tổ" ? Rước voi nào, mà rước về đâu...?! 29 điểm đóng quâncủa VN trên Biển Đông và thế trận chính trị quân sự ngoại giao của VN ngăn cản ý đồ bành trướng của TQ - là câu trả lời rõ nhất!!!
25- Tôi nói: Với kết quả của hiệp ước biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc được ký kết năm 1999 và hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ Việt Nam - Trung Quốc được ký năm 2000 thì Lê Khả Phiêu chính là kẻ mãi quốc cầu vinh, phản bội Tổ Quốc và Nhân Dân Việt Nam.
Như vậy tôi nói xấu hay nói sự thật?
Phản bác 25. Hai Hiệp Ước trên bộ và tại vịnh Bắc Bộ là hệ quả bình thuờng hóa ngoại giao với TQ, lập điều kiện an ninh ổn định cho nhân dân ta, phát huy nội lực kinh tế, hiện đại hóa quân đội, xây dựng thế trận toàn diện về quân sự chính trị ngoại giao liên hoàn với các nước bạn kể cả siêu cường nhằm mục đích bảo vệ hòa bình ổn định không những cho VN mà cho cả khu vực Đông Á - sao lại gọi thành quả đó là "phản bội tổ quốc và nhân dân VN" ?
Thế nào là "phản bội tổ quốc và nhân dân VN" ?
- Ai theo giặc ngoại để chia cắt đất nước và tàn sát dân mình đó mới đúng là "phản bội tổ quốc và nhân dân VN"!!!
26- Tôi nói: Với phương châm "4 tốt 16 chữ vàng" đảng Cộng Sản Việt Nam dưới thời Nông Đức Mạnh và Nguyễn Phú Trọng chỉ là một chi bộ của đảng cộng sản Tàu và nước Việt Nam không khác gì một khu tự trị của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa.
Như vậy tôi nói xấu hay nói sự thật?
Phản bác 26. Phương châm "4 tốt 16 chữ vàng" chỉ là mục tiêu để giao hảo giữa VN và TQ. Mục tiêu đó đạt được hay không là do nỗ lực chân thành cả từ hai phía!
Đã là mục tiêu thì không có tính bắt buộc bên này hay bên kia và cũng không có tính đảm bảo cho bên nào! Bên nào dù có bất chánh gian tà như TQ thì cũng không lừa gạt được ai!!!
- Sao lại gọi VN là "một chi bộ của đảng cộng sản Tàu và nước Việt Nam không khác gì một khu tự trị của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa." ??? Chứng cứ đâu ???
Tâm Tình Một Phụ Nữ Việt Kiều
Hoàng Hữu Phước, MIB
Tôi có nhận được một số email từ một nữ Việt Kiều ở Nhật, và vẫn liên lạc email với Bà, người mà tôi rất kính trọng do Bà không ngừng nhận xét những cái hay cái tốt cái đẹp của Nhật để cung cấp tư liệu cho tôi cũng như sẻ chia ý kiến về những gì Việt Nam có thể thực hiện được một cách có lợi cụ thể nhất trong tương quan phòng tránh các mối hại nhãn tiền từ Trung Quốc. Lòng tốt, tình yêu nước, và nỗi hoài cố quốc ngời rạng trong mỗi bức email Bà gởi đến tôi trong nhiều năm qua.
Trong số rất nhiều những email chuyển đến tôi từ Việt Kiều ở các nước khác, có lần lúc chưa xuất hiện thế giới blog tôi nhận được một email có kèm một bức thư thống thiết (bằng tiếng Việt có kèm bản dịch tiếng Anh) do một bà mẹ Việt Kiều viết gởi đứa con gái thân thương mà những giòng chữ vi tính mực đen vô tri vẫn khiến tôi cảm nhận được cứ như nhuộm đỏ màu máu mắt. Do nhận được bức thư qua một đệ tam nhân từ Mỹ, tôi giữ bí mật danh tánh gia đình bà mẹ ấy cũng như không chụp hình bức thư của bà để lưu trong tàng thư cá nhân. Tôi do đó thay vì đăng lại nguyên văn kèm tên thật với ảnh chụp như thói quan của tôi từ trước đến nay theo phong cách nói có sách, mách có chứng, xin vì tôn trọng việc riêng tư tế nhị mang tính cá nhân chỉ nêu đại khái dưới đây để nghiền ngẫm tình hình “người mình” nó “buồn như thế đấy”, từ đó có những sẻ chia và thông cảm.
Nguyên đứa con gái mà bức thư miêu tả đã trưởng thành, rất xinh đẹp, là hoa khôi đại học, ngoan hiền nhưng nổi loạn, thóa mạ gốc gác, từ bỏ mẹ cha, dọn đi ở riêng ngay khi vừa mới đủ tuổi luật định. Người mẹ khổ đau viết bức thư nếu in ra sau khi định dạng lại font chữ Times New Roman cỡ 12, khổ giấy A4, canh lề trái 2cm và phải 1.5cm, canh lề trên 1.5cm và lề dưới cũng 1.5cm, khoảng cách đơn cho các dòng và khoảng cách sang hàng, thì đủ cho 11 tờ A4 in một mặt, chưa kể phần tiếng Anh đẫm lệ cũng dài tương tự, có lẽ để bảo đảm đứa con thân yêu nếu từ chối luôn khả năng đọc tiếng Việt của mình vẫn có thể biết lòng mẹ bao la. Trong thư, chị kể về thời gian tuyệt diệu khi còn ở Việt Nam, về bao cảnh đẹp tuyệt trần ở thị trấn quê hương miền Nam của chị cũng như tại nhiều vùng miền khác nhau của tổ quốc, về biến cố 30/4/1975 đã thay đổi dòng chảy lịch sử Việt Nam, về hai chuyến vượt biên bất thành khiến chị phải trải qua những tháng ngày trong trại tạm giam, về chuyến đi định mạng từ số vàng cuối cùng của gia tộc đưa chị đến Philippines phải chứng kiến hải tặc chận cướp tài sản và bắt đem đi năm phụ nữ – mà chị nhờ say sóng mặt mày xám ngoét ụa mửa chua loét tanh hôi nên được vẹn toàn, trong khi một cô gái khác cùng ghe đã thành công thoát khỏi những cánh tay đen đúa lực lưỡng trần trụi nhễ nhại mồ hôi của hải tặc để thân trinh bạch vùi sâu đáy biển, về những ngày dài đăng đẳng trong trại kẽm gai nếm mật nằm gai nơi đất khách quê người, về chuyến bay đến đất nước tư bản thiên đường, về lúc lập gia đình với một anh cũng diện vượt biên, rồi sinh ra đứa con đầu lòng ngay trên thiên đường ấy, về những tháng năm ngập tràn hạnh phúc bên đứa con xinh đẹp hơn cả búp-bê, về những ngày vui lái xe đưa con đến trường và cùng chồng tham dự lễ tốt nghiệp tiểu học rồi trung học của con, về hàng trăm ngàn những khoảnh khắc khác vui sướng đến tuyệt toàn bên con mà chỉ có những người mẹ tuyệt vời mới có thể nhớ hết đến từng chi tiết và viết ra với lời văn xúc động lòng người đến dường ấy. Nhưng những dòng chữ sau đó lại gây cơn sốc choáng cho người đọc, khiến ai cũng kinh ngạc đến sững sờ khi đứa con gái trở thành một thiếu nữ với bao chuyện động trời – tuy không có hai việc là thác loạn tình dục và sử dụng ma túy – miệt thị mẹ cha. Bức thư kết thúc với lời nỉ non ai oán và năn nỉ con thơ hãy quay về với mẹ và cha. Bức thư kết thúc với lời nhắn nhủ các cháu gốc Việt hãy đừng phủ nhận mình, phủ nhận mẹ cha, và hãy đọc thư này để may ra hiểu lòng các bậc cha mẹ và những gì các bậc cha mẹ đã trải qua để đến được thiên đường ấy.
Bức thư viết quá dài. Bức thư được quá nhiều người đọc. Và bức thư đã thiếu một phần quan trọng: lời lý giải vì sao và vì sao. Tôi đã viết email cho người gởi tôi bức thư ấy, xin người ấy nếu có thể được hãy chuyển email của tôi cho người phụ nữ ấy cũng như các Việt Kiều thân hữu khác của người ấy. Và đây là nội dung lý giải cùng lời khuyên của tôi :
Chính các bậc cha mẹ Việt Kiều đã tạo ra những cảnh oái oăm. Họ đã hoặc tham gia tích cực vào các phong trào chống Cộng, hoặc ủng hộ từ xa các phong trào ấy, hoặc tuyệt đối đứng ngoài các hoạt động bát nháo chống Cộng, hoặc vô tư forward (chuyển đi) chuyền tay nhau các email chứa đầy duy chỉ những câu chuyện và hình ảnh nhơ bẩn về Việt Nam. Những hành động hay hành vi này không mảy may tác dụng gì đến chế độ Cộng sản Việt Nam, song lại phá tan nát đời sống tinh thần của không ít giới trẻ hải ngoại, vì rằng:
– bôi nhọ chế độ Cộng sản, căm thù đất nước Việt Nam Cộng sản, là xóa đi trong lòng trẻ hai từ “tổ quốc”, khiến chúng hoặc căm thù “tổ quốc” của cha mẹ, hoặc dần bị mất gốc mà lẽ ra không một thứ văn hóa ngoại lai nào có thể đồng hóa được, hoặc cả hai ;
– tuyệt đối đứng ngoài các hoạt động bát nháo chống Cộng đồng nghĩa với phó mặc con cái mình thiếu dẫn dắt nghiêm túc từ cha mẹ, tiến đến chịu ảnh hưởng của các nội dung chống Cộng đầy dẫy trên báo lá cải và internet, rồi dần bị mất gốc mà lẽ ra không một thứ văn hóa ngoại lai nào có thể đồng hóa được, hoặc cả hai;
– chuyền tay nhau các email chứa đầy duy chỉ những câu chuyện tiêu cực – hoặc có thật hoặc không có thật – về Việt Nam, và duy chỉ những hình ảnh nhơ bẩn về Việt Nam như hình các bãi rác, giao thông mất trật tự, bán thịt heo gà bịnh ôi thiu, v.v , không phá hoại gì được sự phát triển kỹ nghệ du lịch ở Việt Nam nhưng đã hình thành nơi đầu óc trẻ sự ghê tởm về cái gọi là Con Cháu Lạc Hồng, Con Rồng Cháu Tiên của nòi giống Việt Nam, tiến đến sợ hãi bạn bè nhạo báng gốc tích Việt Nam của mình, ghê tởm chính mình đang mang dòng máu Việt Nam dơ bẩn, rồi khinh bỉ cha mẹ vì có nguồn gốc Việt Nam, và hậu quả là sự nỗi loạn chối bỏ tất cả những gì liên quan đến Việt Nam.
Lời khuyên của tôi với cộng đồng Việt Kiều là hãy khôn ngoan, chấm dứt tất cả các lời công kích Việt Nam, không tiếp tục đả phá chế độ cộng sản ở Việt Nam, và hãy có những hành động cụ thể tích cực đóng góp tiền của về xây dựng Việt Nam.
Không gì khôn ngoan bằng xây dựng nơi con trẻ ý thức xây dựng đối với quê hương nguồn cội vì chính lòng tự hào về cội nguồn mới làm con người vượt đến những tầm cao mới nơi quê hương mới mà mình mang quốc tịch chính thức, khi mà mặc cảm cội nguồn sẽ hủy phá nhân cách lẫn tương lai. Chính vì bản thân xuất thân từ cội nguồn tổ quốc kim cương trước đây, người ấy mới tự tin tuyệt đối bản thân sẽ càng sáng giá nơi tổ quốc bảo ngọc mới.
Không gì khôn ngoan bằng việc chấm dứt sự đả phá chế độ cộng sản vì rằng trí hóa nhân loại đã tiến nhanh, xa, và cao hơn rất nhiều, khiến giới trẻ có học thức ở các cường quốc tư bản hiểu ý nghĩa triết học của các loại chủ nghĩa – mà hệ thống triết học Marxist là cả một hệ tư tưởng quá lớn của nhân loại đến độ trước đó và mãi sau này vẫn không hoặc chưa có hệ tư tưởng nào sánh được – và ý nghĩa đúng đắn nhất của tự do tức không ngăn cản bất kỳ ai theo chủ nghĩa cộng sản; nghĩa là cha mẹ càng chống cộng không trên một cơ sở triết lý triết học qua nghiên cứu bài bản và có học vị hẵn hoi thì chỉ càng làm con trẻ khinh thường cha mẹ, xem cha mẹ thiếu đầu óc cởi mở, xâm phạm tự do, dễ làm bạn học của các con ngạc nhiên trước sự cực đoan vô lý và vô văn hóa của các bậc cha mẹ ấy.
Không gì khôn ngoan bằng việc chấm dứt sự đả phá chế độ cộng sản vì rằng trí hóa nhân loại đã tiến nhanh, xa, và cao hơn rất nhiều, khiến giới trẻ có điều kiện thẩm tra thông tin và biết được rằng Việt Nam cộng sản đang phát triển vững mạnh, từ đó khinh miệt mẹ cha đã và đang nói dối, sống theo dối trá, và hung hăng chống cộng chỉ với vũ khí duy nhất là dối trá.
Không gì khôn ngoan bằng việc không nhắc gì về chiến tranh Việt Nam, không tuyển chọn những câu chuyện bôi nhọ Việt Nam và những hình ảnh dơ bẩn về Việt Nam để chuyền tay nhau, vì rằng con cái sẽ đặt câu hỏi rằng tại sao một đất nướctồi tệ và kinh tởm như thế lại chiến thắng Mỹ đại siêu cường đại văn minh, xóa sổ Việt Nam Cộng Hòa đại anh hùng đại anh dũng, rồi đâm ra khinh thường cha mẹ cùng tất cả những ai đã bỏ chạy khỏi Việt Nam vì không gì nhục bằng thua trận tan nát trước những người tồi tệ và kinh tởm. Chấm dứt bôi nhọ Việt Nam không cần buộc phải vì yêu Việt Nam mà chỉ vì để chính mình không còn bị con trẻ rẻ khinh.
Cuối cùng – song không kém phần quan trọng – là hãy có những hành động cụ thể tích cực đóng góp tiền của về xây dựng Việt Nam, vì rằng không gì tốt bằng thể hiện cho con cái thấy thế nào là lòng ái quốc, tự hào dân tộc, vinh dự cội nguồn phát tích. Chứng kiến cha mẹ yêu nước của cha mẹ, tự hào về đất nước của cha mẹ, con cái mới biết yêu nước của nó, tự hào về đất nước của nó mà với lòng yêu nước và tự hào về đất nước nó, nó mới may ra có cơ may trở thành công dân gương mẫu và cả cơ may trở thành một Barack Obama da vàng của mai sau.
Chỉ có những hành động khôn ngoan của những người đàn ông gốc Việt ở hải ngoại mới không làm hư hỏng tinh thần Việt cao thượng nơi con cái của họ, thứ tinh thần tuyệt diệu chỉ có thể được hun đúc từ lòng yêu nước đoan chính của bản thân chứ không bao giờ bằng những lời thóa mạ, bôi nhọ, công kích đất nước, nhất là khi những thóa mạ, bôi nhọ, và công kích ấy lại toàn là những lời dối trá, hằn học, bất lương, vô hạnh; chỉ bằng cách đàng hoàng như thế và nhờ có vậy, những người vợ gốc Việt của họ mới không phải viết nên những bức thư xót xa như thế với đôi dòng máu mắt.
Người phụ nữ Việt Nam, dù ở bất kỳ nơi nào trên thế giới, luôn xứng đáng nhận được những điều tốt đẹp từ chồng và con của họ, vì chỉ có họ trên chiếc tinh cầu hoang dã cỗi cằn đang dãy chết này mới thực sự sống vì đàn con.
Hoàng Hữu Phước, Thạc-sĩ Kinh-doanh Quốc-tế
Ghi chú: Bài viết trên đã đăng lúc mới xuất hiện thế giới blog, và ngay lập tức đã có một kẻ ẩn danh đã viết comment phê phán rằng bài viết trên không sâu sắc, như thể ngồi yên trên băng đá cạnh bờ sông nhịp nhịp chân khi thấy có người chìa cành cây xuống nước cứu ai đó vội điềm nhiên phê phán rằng cành cây sao mà mỏng mảnh vậy, chứ không có khả năng ra tay chìa cành cây khác to chắc hơn để cứu người nạn nữ, tức viết gì đó, khuyên gì đó “sâu sắc” hơn dành cho người nạn nữ ấy. Chắc chắn trăm phần trăm kẻ đã phê phán ấy đích thị thuộc dúm người chống Cộng.
Và bàn tay đang che lấp… bầu trời
Ngày 4 tháng 7 năm 2005. Tàu vũ trụ Deep Impact của Mỹ dùng đại bác tấn công sao chổi Tempel-1, cách Trái đất 134 triệu ki lô mét, nơi chứa đựng những thông tin về quá khứ cách đây 4,6 tỉ năm. Cả nước Mỹ vui mừng.
Ngày 25 tháng 8 năm 2005. Năm mươi hai ngày sau vụ tấn công đó, nước Mỹ hứng chịu một thảm họa thiên nhiên lớn nhất trong lịch sử. Cơn bão Katrina tấn công bang Floriđa, xóa sổ thành phố New Orleans, làm thiệt mạng hơn một nghìn người… Cả nước Mỹ bàng hoàng.
Khoa học của người Mỹ cực kì hiện đại. Đại bác của người Mĩ cực kì tối tân. Nhưng người Mỹ vẫn lớ ngớ và bó tay trước một hiện tượng thiên nhiên cực kì “cổ điển“, diễn ra đã hàng tỉ năm nay.
Thế giới thực của Tạo hóa ví như một bàn tiệc quá rộng. Trong khi khả năng (nhận thức) của con người lại như một đôi đũa quá ngắn. Rốt cuộc, con người chỉ quanh quẩn “xơi“ được mấy “món“ gần gần xung quanh mình mà không hề biết trên bàn tiệc ấy chứa bao nhiêu món, là những món gì… Thậm chí còn cho rằng chung quy chỉ có… chừng ấy món mà thôi. Y hệt câu chuyện thầy bói xem voi, một kiệt tác triết học của người xưa, đơn giản mà đúng cho đến tận bây giờ, khi con người đã đập vỡ được hạt nhân nguyên tử, đã tấn công cả sao chổi…
Người phương Tây từ lâu đã nhận ra sự hạn chế, “tí hon“ của “đôi đũa“ ấy, bèn tìm cách nối dài chúng ra. Thế là những phương tiện, thiết bị ngày càng hiện đại, tối tân… ra đời, giúp con người ngày càng “xơi“ được những món ở xa hơn (ví như vụ bắn đại bác kia chẳng hạn). Song cái bàn tiệc ấy lại rộng vô hạn, trong khi “đôi đũa“ dù có được nối dài ra bao nhiêu thì cũng chỉ là hữu hạn. Cái hữu hạn dẫu lớn đến đâu, thì so với cái vô hạn, cũng chỉ là một thứ “vô cùng bé“ mà thôi. Rốt cuộc, các nhà khoa học dù có thông thái đến cỡ Anhxtanh, thì cũng vẫn là những vị… “thầy bói“ xem voi. Bàn tiệc kia mãi mãi là điều bí ẩn đối với con người.
Người phương Đông đương nhiên cũng nhận ra sự hạn chế của “đôi đũa“ ấy. Không những thế, còn biết được rằng dù có cố tìm cách nối dài chúng ra cũng vô ích mà thôi. Vậy chỉ còn cách… vứt quách chúng đi. Thậm chí còn không thèm “bò“ trên cái bàn tiệc rộng vô hạn ấy như một con rùa nữa, mà tìm một vị trí khác, bay lên cao như một con chim chẳng hạn (gọi là thoát ra khỏi ngũ hành). Rốt cuộc đã nhìn rõ được cả bàn tiệc. Bấy giờ thì tha hồ mà “xơi“. Đạo Phật, mà cụ thể là Thiền, chính là đã sử dụng phương pháp ấy để “xơi“ trọn vẹn cả bàn tiệc của Tạo hóa , không bỏ sót bất cứ “món“ nào. Khi đó, trước cái thế giới thực kia, con người không còn là những “thầy bói“ nữa. “Voi“ đã hiện nguyên hình. Thiền là một triết lý đơn giản mà ghê gớm. Ai chứng ngộ được thì có thể nhìn thấu cả quá khứ, vị lai… Người tầm thường đừng có hòng đạt tới. Bởi chỉ cần “sai lệch nửa đường tơ“ là lập tức “đất trời liền ngăn cách…“. (“Tín Tâm Minh“ -Tam Tổ Tăng Xán). Huống chi người ta vốn “sai lệch“ gấp hàng tỉ lần, không phải tính bằng “đường tơ“, mà tính bằng… đường cái. Có phải vì thế mà chính Anhxtanh, về cuối đời cũng đã nhận ra điều gì đó tương tự khi ông nói đại ý: nếu phải theo một tôn giáo để hiểu được thực chất của thế giới này, ông sẽ theo… đạo Phật.“Xơi“ được cả cái vô hạn.
Thế là đạo Phật từ khi ra đời, đã chứng tỏ trong mỗi con người đều có sẵn một khả năng, một “đôi đũa“ dài vô hạn. Chỉ có điều không biết sử dụng đến mà thôi. Có “đôi đũa“ vô hạn trong tay nhưng không biết lối mà dùng, lại cứ tin vào cái “đôi đũa“ hữu hạn kia. Tin đến nỗi không gì lay chuyển nổi, đến lú lẫn cả hồn vía mà suốt bao nhiêu kiếp vẫn không hề hay biết. Phật gọi trạng thái đó là “chấp“. Kiến thức càng cao thì “chấp“ càng nặng. Thậm chí khối người đã “chấp“ tới trình độ… vô phương cứu chữa. Thế là cái hữu hạn đã che lấp cái vô hạn. Cõi “mê“ từ đó mà sinh ra. Thiện, ác từ đó mà phân biệt. Tranh giành, khủng bố, đểu cáng, bất nhân… cũng từ đó mà có đất hoành hành. Trong trường hợp này thì đúng là bàn tay đã che mất… Bầu trời.
Với trình độ khoa học như hiện nay, con người thậm chí còn có khả năng nhảy vào điều khiển, “múa may“ trong cả “cõi“ vô hình (ví dụ internet chẳng hạn). Đến mức có thể “lạc quan“ mà tiên đoán rằng cứ cái đà này thì chẳng bao lâu nữa, giả sử các vị thần linh ngày trước có quay trở lại, thì người ta cũng chẳng lấy gì làm… ngạc nhiên. Những tiện nghi, choáng ngợp ấy mà khoa học (xuất phát từ phương Tây) mang lại đã và đang dần dần chinh phục toàn nhân loại, làm lu mờ cả cái tư duy triết học vốn rất ghê gớm kia của người phương Đông. Kết quả là con người càng ngày càng có quá nhiều lý do để “chấp“, để tin vào cái “đôi đũa“ hữu hạn của mình, càng có quá nhiều cơ sở để khẳng định rằng mình rất chi là… sáng suốt(?). Không giỏi được bằng… ông Trời thì ít nhất cũng giỏi hơn… tất cả mọi người(?). Không “đẹp“ được như… Tiên thì ít ra cũng “đẹp“. .. nhất thiên hạ(?), vân vân và… vân vân… Khoa học quả đã làm thay đổi tính nết con người theo hướng ngày càng tự mãn và… bảo thủ (chấp) hơn.
“Chấp“ là một bản chất bẩm sinh của mọi sinh vật có lý trí. Nó có nguồn gốc từ các giác quan (“đôi đũa“ hữu hạn). Đó là một trò đùa của Tạo hóa khi muốn che giấu sự thật đối với con người. Đến lượt con người lại lừa dối nhau bằng cái gọi là… kiến thức. Bởi kiến thức chính là do giác quan sinh ra. Kiến thức (thực chất là kiến thức ảo) dù có ghê đến mấy, thì cũng chỉ là một phần của “con voi“ mà thôi. Không bao giờ là toàn bộ “con voi“ cả. Lừa dối bằng cách chỉ đưa ra một phần sự thật, hoặc trưng ra một “sự thật“ hoàn toàn khác, khác xa thì gọi là bịp. Bịp cao tới một trình độ nào đó sẽ biến thành… tự bịp mình. Quy trình này diễn ra một cách tự phát, kiến thức đã hoàn tất “công cuộc“ đánh lừa được toàn bộ bản năng. Đến lúc ấy, cộng với lòng tham lam trần tục sẵn có, con người sẽ bước vào một trạng thái không thèm phục ai, hay còn gọi là “kỉ nguyên“. .. cá mè một lứa. Một thế giới không ai phục ai là một thế giới mà Thánh nhân đã từng cảnh báo trước: “Nhân bất phục nhân chi đại loạn“ (con người không biết phục nhau nữa thì… đại loạn).
Thời Trung cổ có một vị bạo chúa, mỗi khi ra triều đều hỏi quần thần:
-Các ngươi xem, cả thiên hạ có ai bằng ta không?
Quần thần không cần suy nghĩ. Cứ việc nhất tề cúi đầu thưa:
-Muôn tâu! Không có ai cả.
Bạo chúa hỏi tiếp:
-Còn những ai không tin điều đó?
Đám quần thần tranh nhau trả lời:
-Dạ! Muôn tâu! Có lũ trọc đầu. Lũ ấy chỉ tin vào Đức Phật của chúng…
Bạo chúa lập tức ra lệnh:
-Vậy thì hãy đem mía mà róc trên những cái đầu trọc ấy.
Mía đã róc. Ai bảo dám không tin. Bạo chúa không những hiện hình, lại có thể ban cho tước vị, bổng lộc… Thế thì đối với đám quần thần kia, bạo chúa hơn tất cả là điều không có gì phải bàn cãi. Lòng ham muốn đã làm cho họ mờ mịt lương tri, tan tành đạo lý… Thế là thi nhau bóp nặn, dùng quyền lực, nhân danh pháp luật để ăn cướp từ của cải đến mồ mả, từ xương máu đến linh hồn, từ kiếp này, cho đến tận những kiếp sau… Lại gân cổ bịp dân bằng những lý sự rất mực khôi hài. Chẳng hạn bạo chúa kia là nhất ở trên đời, thậm chí hơn cả Thượng đế, hoặc chỉ có bạo chúa mới là kẻ đem đến… tự do… vân vân. Ai không tin thì dùng sức mạnh, bắt ép phải tin. Họ muốn bảo vệ, duy trì bạo chúa, không phải vì lòng trung thành, càng không phải vì lòng kính phục. Mà đơn giản là bạo chúa còn thì bổng lộc còn, bạo chúa mất thì bổng lộc cũng mất theo…
Thói đời, tước vị và bổng lộc chẳng khác gì những khúc xương được tung vào giữa bầy sói. Thế thì không có chuyện thanh bình, sự tranh giành tất sẽ diễn ra. Những con sói muôn đời có coi nhau ra gì. Đến lượt đám quần thần lại hỏi những kẻ lâu la, bề dưới của mình:
-Các ngươi xem, cả thiên hạ có ai bằng ta không?
Lũ lâu la cũng không cần suy nghĩ. Cứ việc cúi đầu thưa:
-Thưa! Không có ai.
Ngay cả những người được mệnh danh là “kẻ sĩ“, cũng không thoát khỏi cái quy trình tự bịp mình ấy. Cộng với vòng danh lợi đang ngùn ngụt ngoài đời, kẻ sĩ lúc nào cũng tự hỏi: “có ai bằng mình không?“. . Rồi lại tự trả lời: “không có ai cả“. ..
Kẻ sĩ mà cũng như thế thì kết quả là nền văn hiến bắt đầu bị tàn phá, đạo lý thiên hạ bắt đầu bước những bước giật lùi. Lũ kẻ cướp thả sức vươn mình, đám dân lành tha hồ rụt cổ… Đến đây thì cái nước Trung cổ của bạo chúa ấy thực là đã đạt tới trạng thái “không ai phục ai“. Nghĩa là đã bước vào kỉ nguyên “cá mè một lứa“. Đại loạn là điều tất sẽ diễn ra. Không chỉ loạn ở ngoài đời, mà loạn cả trong văn chương, triết học… Một trật tự mới cần được thiết lập…
Đã có bao nhiêu “bài học“ như thế trong lịch sử. Nhưng càng về sau, con người hình như càng không muốn “học“ những bài học ấy. Lại cứ nhắm mắt tạo nên những “bài học“ mới, giống… y như cũ (!) để mà… đâm đầu vào. Điềm này ứng vào cái câu có người đã từng nói: “lịch sử ư? Đó là một vòng luẩn quẩn…“. Chẳng trách mà thi hào J.W. Gớt (1) đã phải nghiến răng mô tả cái bản chất “năng động“ ấy của con người trong kiệt tác “Phao-xtơ“ (2) của mình, khi để cho con quỷ Mephisto “định nghĩa“ về loài người, chẳng qua chỉ là:
“Loài cào cào có bộ chân dài
Nó muốn luôn bay nhảy chán chê rồi
Lại rúc vào đám cỏ hôi mà ca bài ca cổ lỗ
Mà nào có chịu nằm yên dưới cỏ
Đằng này lại cứ nhè nơi phân bẩn để đâm vào…“.
Phạm Lưu Vũ
Với trình độ khoa học như hiện nay, con người thậm chí còn có khả năng nhảy vào điều khiển, “múa may“ trong cả “cõi“ vô hình (ví dụ internet chẳng hạn). Đến mức có thể “lạc quan“ mà tiên đoán rằng cứ cái đà này thì chẳng bao lâu nữa, giả sử các vị thần linh ngày trước có quay trở lại, thì người ta cũng chẳng lấy gì làm… ngạc nhiên. Những tiện nghi, choáng ngợp ấy mà khoa học (xuất phát từ phương Tây) mang lại đã và đang dần dần chinh phục toàn nhân loại, làm lu mờ cả cái tư duy triết học vốn rất ghê gớm kia của người phương Đông. Kết quả là con người càng ngày càng có quá nhiều lý do để “chấp“, để tin vào cái “đôi đũa“ hữu hạn của mình, càng có quá nhiều cơ sở để khẳng định rằng mình rất chi là… sáng suốt(?). Không giỏi được bằng… ông Trời thì ít nhất cũng giỏi hơn… tất cả mọi người(?). Không “đẹp“ được như… Tiên thì ít ra cũng “đẹp“. .. nhất thiên hạ(?), vân vân và… vân vân… Khoa học quả đã làm thay đổi tính nết con người theo hướng ngày càng tự mãn và… bảo thủ (chấp) hơn.
“Chấp“ là một bản chất bẩm sinh của mọi sinh vật có lý trí. Nó có nguồn gốc từ các giác quan (“đôi đũa“ hữu hạn). Đó là một trò đùa của Tạo hóa khi muốn che giấu sự thật đối với con người. Đến lượt con người lại lừa dối nhau bằng cái gọi là… kiến thức. Bởi kiến thức chính là do giác quan sinh ra. Kiến thức (thực chất là kiến thức ảo) dù có ghê đến mấy, thì cũng chỉ là một phần của “con voi“ mà thôi. Không bao giờ là toàn bộ “con voi“ cả. Lừa dối bằng cách chỉ đưa ra một phần sự thật, hoặc trưng ra một “sự thật“ hoàn toàn khác, khác xa thì gọi là bịp. Bịp cao tới một trình độ nào đó sẽ biến thành… tự bịp mình. Quy trình này diễn ra một cách tự phát, kiến thức đã hoàn tất “công cuộc“ đánh lừa được toàn bộ bản năng. Đến lúc ấy, cộng với lòng tham lam trần tục sẵn có, con người sẽ bước vào một trạng thái không thèm phục ai, hay còn gọi là “kỉ nguyên“. .. cá mè một lứa. Một thế giới không ai phục ai là một thế giới mà Thánh nhân đã từng cảnh báo trước: “Nhân bất phục nhân chi đại loạn“ (con người không biết phục nhau nữa thì… đại loạn).
Thời Trung cổ có một vị bạo chúa, mỗi khi ra triều đều hỏi quần thần:
-Các ngươi xem, cả thiên hạ có ai bằng ta không?
Quần thần không cần suy nghĩ. Cứ việc nhất tề cúi đầu thưa:
-Muôn tâu! Không có ai cả.
Bạo chúa hỏi tiếp:
-Còn những ai không tin điều đó?
Đám quần thần tranh nhau trả lời:
-Dạ! Muôn tâu! Có lũ trọc đầu. Lũ ấy chỉ tin vào Đức Phật của chúng…
Bạo chúa lập tức ra lệnh:
-Vậy thì hãy đem mía mà róc trên những cái đầu trọc ấy.
Mía đã róc. Ai bảo dám không tin. Bạo chúa không những hiện hình, lại có thể ban cho tước vị, bổng lộc… Thế thì đối với đám quần thần kia, bạo chúa hơn tất cả là điều không có gì phải bàn cãi. Lòng ham muốn đã làm cho họ mờ mịt lương tri, tan tành đạo lý… Thế là thi nhau bóp nặn, dùng quyền lực, nhân danh pháp luật để ăn cướp từ của cải đến mồ mả, từ xương máu đến linh hồn, từ kiếp này, cho đến tận những kiếp sau… Lại gân cổ bịp dân bằng những lý sự rất mực khôi hài. Chẳng hạn bạo chúa kia là nhất ở trên đời, thậm chí hơn cả Thượng đế, hoặc chỉ có bạo chúa mới là kẻ đem đến… tự do… vân vân. Ai không tin thì dùng sức mạnh, bắt ép phải tin. Họ muốn bảo vệ, duy trì bạo chúa, không phải vì lòng trung thành, càng không phải vì lòng kính phục. Mà đơn giản là bạo chúa còn thì bổng lộc còn, bạo chúa mất thì bổng lộc cũng mất theo…
Thói đời, tước vị và bổng lộc chẳng khác gì những khúc xương được tung vào giữa bầy sói. Thế thì không có chuyện thanh bình, sự tranh giành tất sẽ diễn ra. Những con sói muôn đời có coi nhau ra gì. Đến lượt đám quần thần lại hỏi những kẻ lâu la, bề dưới của mình:
-Các ngươi xem, cả thiên hạ có ai bằng ta không?
Lũ lâu la cũng không cần suy nghĩ. Cứ việc cúi đầu thưa:
-Thưa! Không có ai.
Ngay cả những người được mệnh danh là “kẻ sĩ“, cũng không thoát khỏi cái quy trình tự bịp mình ấy. Cộng với vòng danh lợi đang ngùn ngụt ngoài đời, kẻ sĩ lúc nào cũng tự hỏi: “có ai bằng mình không?“. . Rồi lại tự trả lời: “không có ai cả“. ..
Kẻ sĩ mà cũng như thế thì kết quả là nền văn hiến bắt đầu bị tàn phá, đạo lý thiên hạ bắt đầu bước những bước giật lùi. Lũ kẻ cướp thả sức vươn mình, đám dân lành tha hồ rụt cổ… Đến đây thì cái nước Trung cổ của bạo chúa ấy thực là đã đạt tới trạng thái “không ai phục ai“. Nghĩa là đã bước vào kỉ nguyên “cá mè một lứa“. Đại loạn là điều tất sẽ diễn ra. Không chỉ loạn ở ngoài đời, mà loạn cả trong văn chương, triết học… Một trật tự mới cần được thiết lập…
Đã có bao nhiêu “bài học“ như thế trong lịch sử. Nhưng càng về sau, con người hình như càng không muốn “học“ những bài học ấy. Lại cứ nhắm mắt tạo nên những “bài học“ mới, giống… y như cũ (!) để mà… đâm đầu vào. Điềm này ứng vào cái câu có người đã từng nói: “lịch sử ư? Đó là một vòng luẩn quẩn…“. Chẳng trách mà thi hào J.W. Gớt (1) đã phải nghiến răng mô tả cái bản chất “năng động“ ấy của con người trong kiệt tác “Phao-xtơ“ (2) của mình, khi để cho con quỷ Mephisto “định nghĩa“ về loài người, chẳng qua chỉ là:
“Loài cào cào có bộ chân dài
Nó muốn luôn bay nhảy chán chê rồi
Lại rúc vào đám cỏ hôi mà ca bài ca cổ lỗ
Mà nào có chịu nằm yên dưới cỏ
Đằng này lại cứ nhè nơi phân bẩn để đâm vào…“.
Phạm Lưu Vũ
Thứ Sáu, 18 tháng 12, 2015
Phương Tây tạo ra khủng bố ở Trung Đông như thế nào?
Các cuộc tấn công khủng bố nhằm vào dân thường vô tội, dù là vụ làm rơi một máy bay Nga trên bán đảo Sinai khiến 224 hành khách thiệt mạng, vụ thảm sát kinh hoàng tại Paris đã cướp đi 129 sinh mạng vô tội, hay vụ đánh bom đẫm máu ở Ankara làm chết 102 nhà hoạt động vì hòa bình, đều là những tội ác chống lại loài người. Thủ phạm của những vụ tấn công trên – Nhà nước Hồi Giáo (ISIS) – phải bị ngăn chặn. Làm được điều này đòi hỏi phải hiểu rõ nguồn gốc của mạng lưới những tín đồ Hồi Giáo tàn nhẫn này.
Có một sự thật đau lòng rằng, phương Tây, đặc biệt là Hoa Kỳ, phải chịu trách nhiệm khi đã tạo điều kiện để ISIS phát triển. Chỉ có thay đổi chính sách đối ngoại của Châu Âu và Hoa Kỳ đối với Trung Đông mới có thể làm giảm nguy cơ gia tăng khủng bố.
Các vụ tấn công gần đây có thể được xem như “khủng bố đáp trả”: hệ quả đáng buồn từ những hành động quân sự bí mật và công khai của Châu Âu và Hoa Kỳ tại Trung Đông, Bắc Phi, vùng Sừng Châu Phi, và Trung Á nhằm lật đổ các chính quyền và thiết lập những chế độ theo ý muốn của mình. Động thái này không chỉ gây ra sự xáo trộn và đau khổ trong những khu vực được nhắm tới, mà còn khiến người dân Mỹ, Châu Âu, Nga, và Trung Đông phải hứng chịu nguy cơ khủng bố.
Lịch sử thật sự của Osama bin Laden, Al Qaeda, hay sự hình thành của ISIS tại Iraq và Syria chưa từng thực sự được công bố. Khởi nguồn vào năm 1979, Cơ quan Tình báo Trung ương (CIA) đã tuyển quân, tập huấn và trang bị cho những thanh niên trẻ người Hồi Giáo dòng Sunni để chống lại Liên Xô tại Afghanistan. Rất nhiều người Hồi Giáo (kể cả ở Châu Âu) đã được CIA tuyển dụng để lập nên nhóm Mujahideen,[1] lực lượng chiến đấu đa quốc gia người Hồi giáo dòng Sunni, nhằm hất cẳng những người Liên Xô ngoại đạo ra khỏi Afghanistan.
Bin Laden, đến từ một gia đình Saudi giàu có, được chiêu mộ để cầm đầu và đồng tài trợ cho hoạt động này. Đây là cách hoạt động điển hình của CIA: dựa vào khoản kinh phí nhất thời có được từ một gia đình Saudi giàu có và các khoản lợi nhuận thu được từ việc buôn lậu và buôn bán ma túy.
Bằng việc tuyên truyền tầm nhìn cốt lõi của thánh chiến (jihad) là để bảo vệ các vùng đất của người Hồi Giáo (Dar al-Islam) khỏi những kẻ ngoại đạo, CIA đã tạo ra một lực lượng chiến đấu dày dạn với hàng nghìn thanh niên trẻ rời gia đình để đầu quân cho cuộc chiến. Chính lực lượng chiến đấu sơ khai này và hệ tư tưởng thúc đẩy nó đã tạo ra nền tảng cho các cuộc nổi dậy của các chiến binh thánh chiến người Sunni, bao gồm cả ISIS. Mặc dù mục tiêu ban đầu của nhóm chiến binh này là Liên Xô, song giờ đây những “kẻ ngoại đạo” đó lại bao gồm cả Hoa Kỳ, Châu Âu (đặc biệt là Pháp và Anh), và Nga.
Vào cuối những năm 1980, khi Liên Xô rút quân khỏi Afghanistan, một vài phần tử thuộc nhóm Mujahideen đã hình thành nên Al Qaeda (tiếng Ả-rập nghĩa là “căn cứ”), tên gọi để chỉ những cơ sở vật chất quân sự và địa điểm tập luyện tại Afghanistan mà CIA và Bin Laden đã xây dựng cho nhóm Mujahideen. Sau sự kiện Liên Xô rút quân, cụm từ Al Qaeda đã chuyển nghĩa từ căn cứ quân sự đặc nhiệm thành căn cứ tổ chức các hoạt động thánh chiến.
Hành động đáp trả chống lại Hoa Kỳ bắt đầu vào năm 1990, gắn với cuộc Chiến tranh Vùng Vịnh lần thứ nhất, khi Hoa Kỳ lập ra và mở rộng các căn cứ quân sự của mình trên vùng Dar al-Islam, đặc biệt là Ả-rập Xê-út, quê hương và là thánh địa của Hồi Giáo. Sự hiện diện ngày một mở rộng này của quân đội Mỹ đi ngược lại chính tư tưởng thánh chiến nòng cốt mà CIA đã rất vất vả để gây dựng nên.
Cuộc xâm lược Iraq vô cớ của Hoa Kỳ vào năm 2003 đã tạo ra những kẻ tham chiến tàn ác. Cuộc chiến không chỉ được châm ngòi từ lời nói dối của CIA, mà nó còn hướng tới mục đích thiết lập nên một chế độ do người Hồi giáo Shia lãnh đạo và phục tùng Hoa Kỳ, đối đầu với các chiến binh Sunni và nhiều người Iraq theo dòng Sunni khác vốn đang sẵn sàng cầm vũ khí. Gần đây hơn, Mỹ, Pháp và Anh đã lật đổ Muammar el-Qaddafi tại Libya, đồng thời Mỹ cũng bắt tay với các tướng lĩnh Ai Cập – những người đã lật đổ chính phủ của Đảng Huynh đệ Hồi Giáo được người dân bầu lên. Tại Syria, sau khi tổng thống Bashar al-Assad dùng bạo lực đàn áp các cuộc biểu tình hòa bình của công chúng năm 2011, thì Mỹ, Ả-rập Xê-út, Thổ Nhĩ Kỳ và các đồng minh trong khu vực lại cổ xúy cho phong trào nổi dậy quân sự, đẩy đất nước này vào vòng xoáy của bạo lực và hỗn loạn.
Những hành động trên liên tiếp thất bại thảm hại trong việc cho ra đời một chính quyền có tính chính danh, hay thậm chí chỉ là sự ổn định cơ bản. Ngược lại, bằng cách lật đổ các chính phủ ổn định lâu đời, dù mang tính độc tài, ở Iraq, Libya, và Syria, và bằng cách làm bất ổn Sudan và các nước Châu Phi khác vốn được cho là thù địch đối với Phương Tây, họ đã tạo ra nhiều sự hỗn loạn, gây ra cảnh đổ máu và nội chiến. Chính sự loạn lạc này đã tiếp tay cho ISIS thâu tóm và giữ vững lãnh thổ tại Syria, Iraq và nhiều nơi tại Bắc Phi.
Có ba bước cần thực hiện để đánh bại ISIS và những kẻ khủng bố bạo lực khác. Đầu tiên, tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama cần hủy bỏ những hành động quân sự bí mật của CIA. Việc sử dụng CIA với vai trò như một đội quân gây nhiễu bí mật từ lâu đã là một thất bại thảm hại, và tất cả đều bị che giấu dưới lớp mặt nạ bí mật của cơ quan này. Chấm dứt sự hỗn loạn mà CIA gây ra sẽ là bước tiến lớn giúp khép lại tình trạng bất ổn, bạo lực, và lòng thù hận đối với Phương Tây vốn đã châm ngòi cho chủ nghĩa khủng bố ngày nay.
Thứ hai, Mỹ, Nga, và các thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nên chấm dứt ngay mâu thuẫn nội bộ và thiết lập một khuôn khổ cho hòa bình tại Syria. Họ có lợi ích chung trong việc đối đầu với ISIS vì tất cả đều là nạn nhân của khủng bố. Thêm vào đó, hành động quân sự chống lại ISIS chỉ có thể thành công nếu có sự hợp thức hóa và ủng hộ của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc.
Khuôn khổ của Liên Hợp Quốc nên bao gồm việc chấm dứt ngay lập tức cuộc nổi dậy chống lại Assad mà Mỹ, Ả-rập Xê-út và Thổ Nhĩ Kỳ đã theo đuổi lâu nay; ngừng bắn tại Syria; triển khai lực lượng quân sự do Liên Hợp Quốc ủy nhiệm nhằm đối phó với ISIS; và một quá trình quá độ chính trị tại Syria được tạo ra không phải bởi Hoa Kỳ mà bởi sự đồng thuận của Liên Hợp Quốc nhằm hỗ trợ quá trình tái cấu trúc chính trị phi bạo lực.
Cuối cùng, giải pháp lâu dài cho sự bình ổn khu vực nằm ở sự phát triển bền vững. Toàn bộ vùng đất Trung Đông không chỉ bị bao trùm bởi chiến tranh, mà còn bởi các thất bại ngày một lớn về phát triển kinh tế: tình trạng thiếu nước ngọt ngày một gay gắt, sa mạc hóa, thất nghiệp cao trong giới trẻ, hệ thống giáo dục nghèo nàn, và nhiều khó khăn khác.
Thêm các cuộc chiến tranh – nhất là những cuộc chiến mà Phương Tây cầm đầu hay có sự hậu thuẫn của CIA – sẽ không giải quyết được gì. Trái lại, tăng cường đầu tư vào giáo dục, y tế, năng lượng tái tạo, nông nghiệp và cơ sở hạ tầng, được hỗ trợ tài chính từ cả trong khu vực và toàn cầu, là chìa khóa thực sự để xây dựng một tương lai vững bền cho Trung Đông và cả thế giới.
Jeffrey D. Sachs là Giáo sư về Phát triển Bền vững, Chính sách và Quản lý Y tế, và là Giám đốc Viện Địa Cầu tại Đại học Columbia. Ông cũng đồng thời là Cố vấn đặc biệt của Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc về Các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ. Ông là tác giả các cuốn sách The End of Poverty, Common Wealth, và gần đây nhất là The Age of Sustainable Development.
Copyright: Project Syndicate 2015 – Ending Blowback Terrorism
Nguồn: Jeffrey D.Sachs, “Ending Blowback Terrorism”, Project Syndicate, 19/11/2015.
Biên dịch: Lê Hạnh Nguyên | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
—————
[1] Những đơn vị quân sự kiểu du kích của các chiến binh Hồi giáo trong cuộc chiến của Liên Xô tại Afghanistan (ND).
– See more at: http://nghiencuuquocte.net/2015/12/09/phuong-tay-khung-bo-trung-dong/#more-12604
Việt Nam chuẩn bị đương đầu Trung Quốc
Quân đội Việt Nam đang tăng cường vũ trang để chuẩn bị nếu xảy ra xung đột với Trung Quốc sau một thập niên dài trên đường hiện đại hóa. Đây là đợt trang bị quân sự lớn nhất của Hà Nội kể từ đỉnh điểm cuộc chiến tranh Việt Nam. Ông Carl Thayer nói nếu xung đột xảy ra, Hà Nội có thể nhắm vào các tàu container thương mại và tàu chở dầu có gắn cờ Trung Quốc trên Biển Đông. Mục tiêu không phải là đánh thắng lực lượng hùng mạnh của Trung Quốc mà là “gây ra những tổn thất thực sự và bất an tinh thần, khiến tỷ giá lãi suất của bảo hiểm Lloyd tăng phi mã và khiến các nhà đầu tư nước ngoài hoảng loạn”
Quân đội Việt Nam đang tăng cường vũ trang để phòng ngừa xung đột
Mục tiêu của Đảng Cộng sản Việt Nam là đánh đuổi người hàng xóm khổng lồ khi căng thẳng lên cao vì xung đột ngoài Biển Đông. Nếu mục tiêu này không đạt được, thì Việt Nam vẫn có thể tự vệ trên mọi mặt trậnkhác, các quan chức cao cấp và giới thạo tin nói với Reuters.
Chiến lược của Việt Nam đã vượt xa kế hoạch phòng ngự. Các đơn vị chủ chốt đã được đặt vào vị trí “sẵn sàng chiến đấu cao” – một tín hiệu cho thấy sẵn sàng cho việc bị tấn công bất ngờ. Cả Sư đoàn 308 tinh nhuệ trấn giữ vùng núi phía Bắc cũng được đặt vào tình trạng này.
Việt Nam và Trung Quốc từng có cuộc chiến tranh biên giới đẫm máu năm 1979. Điểm bùng phát bây giờ có thể là Biển Đông, nơi cả hai nước đều tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
“Chúng tôi không muốn có xung đột với Trung Quốc và chúng tôi phải đặt niềm tin vào chính sách ngoại giao của mình.” - Một quan chức cao cấp của chính phủ Việt Nam đề nghị giấu tên cho Reuters biết. “Nhưng chúng tôi biết mình cần phải sẵn sàng cho điều tồi tệ nhất.”
Đáng chú ý hơn cả, Hà Nội đang xây dựng lực lượng phòng vệ hải quân rất lớn từ chỗ gần như không có gì, bằng việc mua sáu tàu ngầm lớp Kilo cao cấp từ Nga.
Trong vài tháng gần rồi, chiếc tàu ngầm đầu tiên đã bắt đầu tuần tra trên Biển Đông, các quan chức quân sự Việt Nam và nước ngoài cho biết, và đây là xác nhận đầu tiên về sự hiện diện của tàu ngầm Việt Nam trong vùng biển chiến lược.
Sư đoàn 308
Về mặt quân sự, có thể thấy phần nào không khí căng thẳng tại trụ sở Sư đoàn 308 phía tây bắc Hà Nội. Đây là đơn vị quân đội tinh nhuệ nhất của Việt Nam, nơi các tướng lãnh quân sự cao cấp liên tục nhắc đến việc “sẵn sàng chiến đấu cao”.
Sư đoàn 308 là lực lượng tinh nhuệ nhất của quân đội Việt Nam
Cụm từ này được ghi trên bảng lớn bên dưới ảnh tên lửa và chân dung người sáng lập cách mạng Việt Nam, ông Hồ Chí Minh, cùng ảnh anh hùng quân đội huyền thoại, Tướng Võ Nguyên Giáp.
Nằm ở giữa vùng núi non hiểm trở phía bắc Việt Nam và những cánh đồng lúa cổ xưa của đồng bằng Sông Hồng, Sư đoàn 308 là đơn vị quân đội lâu đời nhất của Việt Nam và vẫn đang trấn giữ hiệu quả khu vực phía Bắc tiếp giáp Hà Nội.
Một quan chức cao cấp, Đại tá Lê Văn Hải [Chủ nhiệm Chính trị Sư đoàn 308], nói ông không thể bình luận về Trung Quốc, cho thấy sự nhạy cảm của chủ đề này về mặt chính thống. Nhưng Việt Nam sẵn sàng đẩy lùi bất cứ lực lượng nước ngoài nào, ông nói với Reuters trong cuộc viếng thăm hiếm hoi của một phóng viên nước ngoài.
Ông Lê Văn Hải phát biểu: “Sẵn sàng chiến đấu là ưu tiên hàng đầu của sư đoàn, của Bộ Quốc phòng và của quốc gia. Chúng tôi có thể xử lý bất kỳ tình huống bất ngờ hoặc không mong đợi nào... Chúng tôi luôn sẵn sàng.”
“Sẵn sàng chiến đấu cao”, cùng với các đề cập về “tình hình mới”, đang được nhắc đến nhiều hơn trong các diễn văn của quan chức cao cấp khi đến thăm các căn cứ quân sự và trên nhiều ấn phẩm của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Giới chức ngoại giao nói cụm từ này cũng thường được nhắc đến trong các cuộc gặp với các phái đoàn quân sự nước ngoài.
Giáo sư Carl Thayer, từ Học viện Quốc phòng Úc tại Canberra, người đã nghiên cứu quân sự Việt Nam từ cuối thập niên 1960, cho biết: “Khi Việt Nam nhắc đến “tình hình mới” thì là họ đang sử dụng một cụm từ được mã hóa đề cập đến khả năng đối đầu hoặc xung đột quân sự ngày càng cao với Trung Quốc, đặc biệt là trên Biển Đông”.
Việt Nam đã mua sáu tàu ngầm lớp Kilo của Nga
Trong khi chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, các tướng lĩnh một thời tách biệt với thế giới của Hà Nội nay đang vươn ra tìm đối tác chiến lược đa dạng. Nga và Ấn Độ là nguồn cung cấp vũ khí hiện đại, huấn luyện và hợp tác tình báo. Hà Nội xây dựng quan hệ chặt chẽ với Mỹ và các đồng minh như Nhật, Úc, Philippines, cũng như Châu Âu và Israel.
Kết quả của việc vươn ra bên ngoài là các đợt mua bán vũ khí, các chuyến tàu đến thăm và hoạt động chia sẻ thông tin tình báo, tuy nhiên có giới hạn. Hà Nội không tham gia liên minh quân sự với các nước vì trung thành với chính sách ngoại giao độc lập.
Các nguồn tin nói với Reuters Việt Nam đang muốn mua thêm máy bay ném bom Nga và đang đàm phán với các nhà sản xuất vũ khí Châu Âu, Mỹ để mua thêm máy bay chiến đấu, máy bay tuần tra biển, và trinh thám không người lái. Việt Nam mới đây cũng nâng cấp và mở rộng lực lượng phòng không, trang bị thêm radar giám sát cảnh báo sớm, và các hệ thống tên lửa đất đối không từ Nga.
Viện nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm (SIPRI) ước tính rằng chi tiêu quân sự của Việt Nam đã tăng vọt và bỏ xa những hàng xóm Đông Nam Á khác trong thập niên vừa rồi.
Ông Tim Huxley, một chuyên gia an ninh khu vực tại Viện nghiên cứu Chiến lược Quốc tế ở Singapore, nhận xét: “Họ không làm việc này chỉ để diễu binh... họ đang thực sự xây dựng sức mạnh quân đội”.
Điểm bùng phát giàn khoan
Mặc dù các đảng cộng sản đang lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc chia sẻ sự tương đồng về chính trị, hai quốc gia này đã từng có lịch sử xung đột vũ trang và một thời gian dài mất lòng tin vào nhau.
Khi giàn khoan Hải Dương 981 được Trung Quốc đưa vào vùng biển tranh chấp, căng thẳng đã bùng phát
Một nghiên cứu mới tiết lộ cuộc chiến tranh Việt – Trung năm 1979 thực ra khốc liệt hơn người ta từng biết rất nhiều, kéo dài dai dẳng mãi đến giữa thập kỷ 1980. Cả hai bên đã đụng độ trên biển năm 1988, khi Trung Quốc lần đầu tiên chiếm đảo của Việt Nam ở Trường Sa. Sự kiện này vẫn là vết thương rỉ máu trong lòng Hà Nội.
Trung Quốc đã chiếm hoàn toàn một quần đảo khác trên Biển Đông, quần đảo Hoàng Sa, sau một cuộc đối đầu với hải quân Việt Nam Cộng Hòa vào năm 1974. Hà Nội vẫn phản đối hành động này của Trung Quốc.
Gần đây hơn, khi Trung Quốc đưa một giàn khoan dầu vào vùng biển tranh chấp trong 10 tuần khoảng giữa năm ngoái, bạo động chống Trung Quốc đã xảy ra ở nhiều nơi tại Việt Nam.
Giàn khoan được đưa đến khu vực cách thềm lục địa Việt Nam 80 hải lý. Sự việc này đã thay đổi thế trận, các quan chức Việt Nam nói riêng với Reuters, củng cố thêm nghi ngờ về Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình trong giới lãnh đạo quân đội và chính trị Hà Nội.
Việt Nam điều hàng chục tàu dân sự ra đối đầu với 70 tàu chiến và tàu tuần dương Trung Quốc để bảo vệ giàn khoan vào khoảng giữa năm 2014.
Một sỹ quan hải quân Mỹ đã về hưu nói: “Đó là lời nhắc nhở cho tất cả chúng ta Biển Đông có thể trở nên nguy hiểm đến mức nào.”
Quan hệ quốc phòng Việt-Trung
Hai bên đối đầu trên Biển Đông năm 2014
Đội tàu ngầm mới của Việt Nam bắt đầu hoạt động trên Biển Đông
Việt Nam gia tăng chi phí quân sự hơn hẳn các nước láng giềng
Hà Nội có thể nhắm vào tàu chở dầu và tàu hàng Trung Quốc
Về phần mình, các chiến lược gia quân sự Trung Quốc nhiều lần bực tức trước các nhà giàn mà Hà Nội tăng cường trong vùng biển Trường Sa sau khi mất Hoàng Sa năm 1974. Trung Quốc đang xây dựng ba đường băng trên các đảo nhân tạo ở Trường Sa, trong đó có khu vực chiếm từ Việt Nam năm 1988.
Bộ Quốc phòng Trung Quốc gửi đến Reuters một thông cáo cho biết quân đội hai nước có quan hệ thân thiện, gần gũi và Trung Quốc sẵn sàng cùng với Việt Nam xây dựng hòa bình trong khu vực.
Thông cáo cho biết: “Cả hai bên đã trao đổi thẳng thắn về vấn đề Nam Hải [Biển Đông]... cả hai bên nên tìm kiếm một giải pháp cơ bản, bền vững mà cả hai bên đều có thể chấp nhận”.
Trong lịch sử, Trung Quốc từng khẳng định chủ quyền trên hầu hết khu vực Biển Đông, trên một bản đồ có đường chín đoạn, chồng lấn vào các khu vực đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei. Đài Loan cũng tuyên bố chủ quyền trong khu vực.
Khoảng 5 nghìn tỷ USD hàng hóa qua lại trong vùng biển này mỗi năm, trong đó có phần lớn lượng dầu nhập khẩu của Trung Quốc, Nhật và Hàn Quốc.
“Bất an tinh thần”
Việc Trung Quốc chú trọng bảo vệ căn cứ tàu ngầm trên đảo Hải Nam – một căn cứ dự định cho hạm đội tàu ngầm nguyên tử của nước này – có thể là một điểm bùng phát xung đột khác. Trung Quốc trang bị máy bay chiến đấu và rất nhiều tàu chiến hiện đại nhất đậu xung quanh khu vực đảo Hải Nam. Hạm đội Nam Hải đóng gần bờ biển phía Bắc của Việt Nam, gần khu vực nước sâu quan trọng để đi vào Biển Đông và các vùng biển phía dưới.
Khả năng của quân đội Việt Nam vẫn là một dấu hỏi với nhiều chuyên gia quân sự
Các tướng quân đội Việt Nam thừa nhận với khách nước ngoài là họ biết giới hạn của mình. Hai thập niên ngân sách quốc phòng tăng hai chữ số đã giúp Trung Quốc có một lực lượng hải quân, không quân và quân đội mạnh mẽ và hùng mạnh hơn nhiều.
Các phái viên quân sự nước ngoài nói họ vẫn chưa nắm được khả năng thực sự cũng như khả năng sử dụng vũ khí mới phức tạp của quân đội Việt Nam. Họ gần như không được ra ngoài các phòng họp ở Hà Nội.
Các chiến lược gia quân sự Việt Nam nói đang tạo ra “Khả năng phòng thủ chủ động tối ưu” – khiến chi phí của bất cứ động thái nào của Trung Quốc chống lại Việt Nam sẽ tăng vọt, cho dù có xảy ra đối đầu trên biển hay tấn công trên bộ dọc theo đường biên giới 1.400km giữa hai nước.
Việt Nam thường nhắc đến cụm từ “Sẵn sàng chiến đấu cao độ” trong thời gian gần đây
Ông Carl Thayer nói nếu xung đột xảy ra, Hà Nội có thể nhắm vào các tàu container thương mại và tàu chở dầu có gắn cờ Trung Quốc trên Biển Đông. Ông nói thông tin này được các chiến lược gia Việt Nam cho biết.
Mục tiêu không phải là đánh thắng lực lượng hùng mạnh của Trung Quốc mà là “gây ra những tổn thất thực sự và bất an tinh thần, khiến tỷ giá lãi suất của bảo hiểm Lloyd tăng phi mã và khiến các nhà đầu tư nước ngoài hoảng loạn” – Ông Carl Thayer trình bày trong một thuyết trình tại hội nghị ở Singapore tháng trước.
Bộ Ngoại Giao Việt Nam không bình luận gì về bài báo này.
Greg Torode
Reuters, viết từ Việt Nam
Obama thua Họ Tập?
Đó là cái nhìn từ nhiều chuyên gia Hoa Kỳ: Tổng thống Barack Obama phản ứng quá chậm, và trật chìa, nên đã cho Trung Quốc nắm ưu thế ở Biển đông. Kể cả thương mại. Trong một bài viết hôm 9-12-2015 trên tờ The Hill, hai chuyên gia Curtis Ellis và Peter Navarro cho rằng Obama làm cho Mỹ mất ưu thế Biển Đông. Than ôi, trong khi Obama chậm chân, làm Biển Đông kẹt trăm bề, Tàu và Nga lại quậy đủ thứ. Thế là mệt.
Khi Obama thuyết phục dân Mỹ về Hiệp định Thương mại Tự do Xuân Thái Bình Dương TPP, Obama nói rằng nếu Mỹ không viết ra quy luật kinh tế thế giới, Trung quôc sẽ giành làm chuyện đó. Nhưng rồi, TPP không kềm chế gì Trung Quốc cả, và thực sự lại giúp TQ “viết ra luật chơi.”
Các chuyên gia nói rằng TPP sẽ là chính sách mở cửa, để TQ lôi kéo các láng giềng thân hơn vào quỹ đaọ, lập liên minh làm suy yếu ảnh hưởng Mỹ ở Thái Bình Dương, và củng cố sức mạnh TQ về quân sự, kinh tế và ngoaị giao.
TQ đã đầu tư nhiều tỷ đôla vào Việt Nam để sẽ từ VN xuất cảng hàng sang Mỹ, và dùng lợi tức này củng cố sức mạnh trong khu vực, cả sức mạnh mềm lẫn cứng.
Tạp chí Forbes viết rằng đầu tư TQ gây bất mãn dân điạ phương tới nổi hàng trăm ngàn công nhân đình công và biểu tình năm 2011.
TQ không chỉ xuất cảng sang Mỹ hàng làm từ VN, mà còn từ TQ. TQ sẽ xây cơ xưởng ráp xe tại VN, với phụ tùng xe sản xuất từ TQ, và xuất cảng từ VN sang Mỹ theo hiệp định ưu đãi TPP.
Hai tác giả nhận định như trên là: Curtis Ellis là giám đốc điều hành hội bất vụ lợi American Jobs Alliance, và Peter Navarro là giáo sư môn kinh doanh ở University of California-Irvine và là tác giả một số tác phẩm về kinh doanh ở TQ.
Than ôi, Obama muốn cho ai chết chìm ở Biển Đông đây?
Trong khi đó, bản tin VOA ghi nhận rằng Nga có lập trường mơ hồ về Biển Đông.
Bản tin VOA viết:
“Không như Hoa Kỳ, điện Kremlin không bày tỏ quan điểm dứt khoát và rõ rệt về vụ tranh chấp Biển Đông, bất chấp chính sách xoay trục sang hướng Đông của Moscow,theo quan điểm của ông Ian Storey, một nhà nghiên cứu các vấn đề Đông Nam Á ở Singapore.
Trong một bài viết tải lên trang mạng của tạp chí Eurasia, nhà nghiên cứu này cho rằng có hai lý do về hướng tiếp cận không thu hút nhiều sự chú ý của điện Kremlin, đó là Nga không phải là một bên có quyền lợi gắn liền với Biển Đông, và lý do thứ nhì là bởi vì Moscow không muốn làm mích lòng hai đối tác chủ yếu của mình tại Đông Á và Đông Nam Á, là Trung Quốc và Việt Nam, hai nước đều tuyên bố chủ quyền tại Biển Đông.
Lập trường chính thức của Nga về cuộc tranh chấp Biển Đông cũng tương tự như lập trường của nhiều quốc gia khác. Đó là Moscow không nghiêng về bên nào, mà cổ vũ cho việc giải quyết vụ tranh chấp một cách hoà bình, và kêu gọi các bên tuân thủ Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển – UNCLOS. Moscow cũng hậu thuẫn việc thi hành Tuyên bố về cách Ứng xử trên Biển đã đạt được giữa ASEAN và Trung Quốc vào năm 2002.
Giáo sư Ian Storey lưu ý rằng cũng như Trung Quốc không công khai ủng hộ Nga về vấn đề Ukraine, khi bỏ phiếu trắng tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc vào tháng Ba năm 2014, Moscow cũng không công khai ủng hộ Bắc Kinh về vấn đề Biển Đông vì lo ngại sẽ làm tổn thương quan hệ Việt-Nga, mặc dù Ngoại Trưởng Nga Sergei Lavrov từng đồng ý với quan điểm của Trung Quốc rằng vấn đề này nên được giải quyết giữa các bên tranh chấp với nhau, không có sự can thiệp từ bên ngoài - ám chỉ Hoa Kỳ.
Không như Washington, Moscow không đặt nghi vấn về tính chính đáng của đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc trên hầu hết Biển Đông theo cái gọi là 'đường 9 đoạn' bao trùm 80% diện tích Biển Đông....”(ngưng trích)
Hóa ra, Hà Nội cũng không mong hỗ trợ gì từ Nga.
Mặt khác, bản tin RFI cho biết máy bay Sukhoi của Nga tăng cường hiện diện quân sự của Trung Quốc ở Biển Đông...
Bản tin RFI viết:
“Sau các cuộc thương thuyết kéo dài nhiều năm, Nga cuối cùng đã chấp nhận bán cho Trung Quốc chiến đấu cơ tối tân Su-35 và như vậy sẽ giúp cho Bắc Kinh tăng cường sự hiện diện quân sự tại Biển Đông.
Tuy phía Trung Quốc chưa chính thức xác nhận, nhưng theo thông tấn xã Itar-Tass của Nga, Matxcơva đã hoàn tất việc thương thuyết về hợp đồng bán 24 chiếc Su-35 cho Bắc Kinh trong vòng 3 năm kể từ năm 2016. Hợp đồng trị giá 2 tỷ đôla này cũng bao gồm việc chuyển giao công nghệ mà Trung Quốc đang rất cần để phát triển thế hệ vũ khí mới...
... Mua chiến đấu cơ Su-35 của Nga sẽ có lợi cho Bắc Kinh ở ba điểm. Thứ nhất, với loại phi cơ này, tầm hoạt động của không quân Trung Quốc trên Biển Đông sẽ được mở rộng rất nhiều. Su-35 có thể cất cánh từ các phi đạo ngắn, cho nên có thể được triển khai trên các đảo nhân tạo mà Bắc Kinh đang xây dựng.
Thứ hai, Su-35 hoàn toàn có đủ khả năng đối đầu với chiến đấu cơ tàng hình F-35 của Mỹ, dự trù được triển khai ở Biển Đông. Đặc biệt hệ thống radar trên Su-35 có thể phát hiện các chiến đấu cơ phản lực trong phạm vi 400 km và phát hiện các máy bay tàng hình như F-35 trong phạm vi 90 km. Chưa kể là Su-35 có thể mang theo tới 14 vũ khí, bao gồm cả các tên lửa tầm xa.
Thứ ba, với hợp đồng mua Su-35, Trung Quốc sẽ tiếp nhận được những công nghệ cao cấp về radar và động cơ của loại máy bay này, để sử dụng cho việc chế tạo các chiến đấu cơ nội địa mới, cũng như cải tiến loạt phi cơ J-, nhất là hai chiến đấu cơ J-11 và J-16, hai loại phi cơ được chế tạo dựa theo chiếc Su-27, mà Trung Quốc đã mua của Nga từ năm 1996.
Như vậy có thể nói là Su-35 có thể sẽ giúp không quân Trung Quốc chiếm ưu thế ở vùng Châu Á-Thái Bình Dương nói chung.”(ngưng trích)
Than ôi, trong khi Obama chậm chân, làm Biển Đông kẹt trăm bề, Tàu và Nga lại quậy đủ thứ. Thế là mệt.
Trần Khải
(Việt Báo)
lời dạy nguyên thủy của thích ca và nguyên lý cơ bản của phật pháp
Nguyễn Nhân Trí
Đại Ý:
– Không ai thật sự rõ biết những lời dạy nguyên thủy của Thích Ca Mâu Ni là gì.
– Mỗi tông phái trong Phật Giáo có những hệ thống giáo lý và kinh điển khác nhau, và có khi đối nghịch nhau.
– Tuy vậy có một số quan niệm cơ bản hầu như đều rất giống nhau trong mọi tông phái. Các quan niệm cơ bản nầy nói chung đều tụ quanh nguyên lý diệt khổ của Thích Ca. Các quan niệm nổi bật nhất là “vô ngã”, “vô thường” và nguyên lý “Tứ Diệu Đế”.
– Tôi cho rằng nói chung chỉ có các quan điểm cơ bản vừa nêu trên là lời dạy nguyên thủy thật sự của Thích Ca,và do đó là cốt tủy của Phật pháp.
Lời Dạy Nguyên Thủy của Thích Ca
Không ai biết những lời dạy nguyên thủy thật sự lúc còn sinh tiền của Thích Ca là gì. Đó là vì khoảng 500 năm sau khi ông qua đời thì các đệ tử mới bắt đầu ghi chép lại các lời ông dạy thành những tập kinh đầu tiên.
Trong Phật Giáo có hai giáo phái chính đó là Tiểu thừa (còn gọi là Nguyên Thủy hay Nam Tông) và Đại thừa (còn gọi là Bắc Tông). Trong phạm vi của mỗi giáo phái chính trên, có hàng trăm tông phái chi nhánh khác nhau. Mỗi tông phái có những hình thức và nội dung tín ngưỡng hoàn toàn khác hẳn với các tông phái khác.
Tông phái nào cũng cho rằng chỉ có kinh sách của mình mới là “chánh tín”, tức là lời Phật dạy thật sự. Tông phái nào cũng cho rằng những khác biệt trong các kinh sách khác là mê tín, ngoại đạo. Chỉ nội hiện tượng nầy thôi cũng đủ để chứng minh lời nhận định ở trên của tôi rằng không ai ngày nay biết rõ Thích Ca đã thật sự dạy gì khi còn sinh tiền.
Nếu dựa vào những dữ kiện trong lịch sử thì chúng ta có thể suy ra những điều sau đây:
– Những tư tưởng về sự sống và chết của Thích Ca rất mới lạ đối với quan điểm thời bấy giờ do đó có nhiều người không hiểu rõ ông muốn nói gì.
– Đa số người ta vẫn còn chịu ảnh hưởng nặng nề của Ấn Độ Giáo kể cả những quan niệm "đầu thai" và "luân hồi" của đạo nầy.
– Do đó qua 500 năm truyền khẩu thì các tăng sư đã vô tình làm ô nhiễm lời Thích Ca dạy bởi định kiến riêng của mỗi người, bởi ảnh hưởng của các tôn giáo khác, bởi phong tục tín ngưỡng dân gian, bởi áp lực chính trị trong tôn giáo.
Tuy vậy, có một số quan niệm trong Phật Giáo có vẻ như giống nhau trong đại đa số các tông giáo. Tôi gọi chúng là các nguyên lý cơ bản của Phật pháp.
Đứng đầu là những quan niệm diễn tả trong Tứ Diệu Đế. Tất cả kinh sách của tất cả tông phái đều công nhận và dạy về Tứ Diệu Ðế như một tiền đề cơ bản đầu tiên của Phật pháp. Tứ Diệu Đế, trong đó có 37 Phẩm Trợ Đạo, và các nguyên lý như Bát Chính Đạo, Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Định, v.v. được truyền dạy bởi hầu hết mọi tông phái Phật Giáo với nội dung giống nhau.
Những quan niệm liên quan trực tiếp với Tứ Diệu Đế như “vô ngã”, “vô thường”, “duyên khởi”, “giác ngộ” cũng vậy. Tuy nhiên, vài quan niệm nầy được nhiều tông phái diễn giảng dưới những màu sắc huyền bí; thí dụ như nhiều kinh sách cho là khi “giác ngộ” thì sẽ “nhìn thấy được quá khứ, tương lai và muôn vạn thế giới khác”.
Theo nhận xét của tôi, vì chỉ có những nguyên lý cơ bản của Phật Giáo đề cập ở trên là giống nhau trong kinh sách của hầu hết mọi tông phái nên rất có thể chỉ các nguyên lý cơ bản nầy là những gì Thích Ca đã dạy lúc sinh tiền.
Trong khi đó, hầu hết các quan niệm khác được mỗi tông phái hiểu và giảng dạy theo nhiều một cách khác nhau và nhiều khi trái ngược hẳn nhau. Vì vậy rất đáng nghi ngờ rằng các triết lý hay quan niệm nầy, cũng như những phương cách tu và hành đạo dựa trên chúng, đã được chế biến sau nầy bởi các tăng sư. Thí dụ như tất cả những gì liên quan đến trì chú, khoán bùa, bắt ấn, v.v. Tương tự cho những quan niệm như “Tây Phương Cực Lạc”, “đầu thai”, “luân hồi”, v.v.
Có 2 lý do để có thể kết luận một cách thích đáng rằng các ý niệm "Tây Phương Cực Lạc", "đầu thai" và "luân hồi" không phải là lời dạy nguyên thủy của Thích Ca:
1. Trong Tứ Diệu Đế và các quan niệm liên quan trực tiếp với Tứ Diệu Đế hoàn toàn không có gì nói về “Tây Phương Cực Lạc”, “đầu thai”, “luân hồi”.
2. Lúc sinh tiền Thích Ca không bao giờ giảng dạy hay trả lời các câu hỏi về các vấn đề nầy.
Cũng cần nói thêm là theo tôi thì sự kiện kinh sách hiện hành có thật sự là lời của Thích Ca hay chăng cũng không quan trọng lắm. Đối với tôi, sự chính xác và trung thực của lời Thích Ca dạy chỉ có giá trị lịch sử và tôn giáo chớ không nhất thiết là có giá trị triết lý.
Đối với tôi thì sự kiện Thích Ca đã có thật sự dạy một điều gì đó hay chăng không là việc chính yếu. Việc chính yếu, theo tôi, là biết dựa vào kiến thức và trí phán xét của mình để xem điều đó có thích ứng và thích hợp với nhân sinh quan và vũ trụ quan của mình không. Nếu thích ứng và thích hợp thì sử dụng, nếu không thì loại bỏ qua một bên. Việc một lời dạy có thật sự là từ chính miệng Phật Thích Ca hay không chỉ là thứ yếu.
Nói cách khác, ngay cả nếu Thích Ca còn sống và phát biểu một điều gì đó thì tôi vẫn sẽ suy xét và chiêm nghiệm kỹ càng. Nếu một triết lý (dù là của chính Thích Ca) mà không thích hợp với nhân sinh quan của tôi thì tôi cũng không đồng ý và không xử dụng. Và điều nầy theo tôi thì đi sát với chủ trương của Thích Ca là "áp dụng triết lý vào đời sống thực hành thay vì gắn bó với kinh sách một cách từ chương và mê muội".
Tôi cho rằng khi tìm học về Phật pháp người ta không nên bám víu khư khư vào kinh sách. "Khư khư" có nghĩa là cho rằng bất cứ cái gì viết trong bất cứ kinh sách nào cũng có giá trị tuyệt đối; là cho rằng những gì không có trong kinh sách là không đáng kể đến.
Nhiều Phật tử cho rằng nếu một bài kinh thật sự là lời dạy của Phật Thích Ca thì chắc chắn nó phải có giá trị hơn. Điều đó có thể đúng, nhưng chỉ một phần nhỏ. Sự thật là không ai có thể xác định chính xác nếu một lời dạy nào đó trong quyển kinh nào đó có thật sự 100% từ Thích Ca hay không. Thế thì tại sao phải chú trọng quá đáng vào việc đó? Một lời dạy nếu có giá trị đối với một người thì bất cứ nó đến từ ai cũng vẫn sẽ có giá trị. Và tương tự cho trường hợp ngược lại.
Nhiều người có khuynh hướng tin sợ những tên tuổi, tước vị to lớn cao trọng. Điều đó thấy rõ trong việc nhiều người đi sao chép các bài thuyết pháp của các vị tăng sư nổi tiếng hay có tước vị nghe đáng nễ trọng về ngâm nga hay trưng bày như những báu vật mà không cần suy ngẫm xem giá trị thật sự của nó là gì.
Theo tôi thì khi đọc kinh sách cũng như khi đọc bất cứ tài liệu nào khác, chúng ta cần dùng trí phân tích cùng kiến thức thực tế mà phán đoán một cách nghiêm khắc xem cái gì có giá trị, cái nào không. Nên nhớ rằng kinh sách chỉ là những sự hiểu biết và diễn giảng của con người mà thôi. Kinh sách không có giá trị thiêng liêng hay huyền bí gì cả. Đọc với tư cách một giám khảo chớ đừng đọc với tư tưởng của một học trò từ chương.
Nhiều Phật tử cho rằng có những cuốn kinh có giá trị nhiều hơn các cuốn kinh khác. Thật ra thì không nên cho rằng kinh sách càng xưa cũ là càng có giá trị nguyên thủy và do đó càng đáng được quý trọng. Kinh sách xưa cũ có thể có giá trị lịch sử của chúng nhưng nội dung và tư tưởng chưa chắc đã mang giá trị thực dụng nữa.
Triết lý của Thích Ca cổ động giá trị thực dụng: nếu không thích ứng với đời sống là không có giá trị. Kinh sách được ghi chép và soạn thảo bởi các tu sĩ. Nội dung và tư tưởng của kinh sách thường phản ảnh nhân sinh quan và vũ trụ quan của những tác giả của chúng. Nhân sinh quan lẫn vũ trụ quan của những tu sĩ (dù có lỗi lạc thông thái đến mấy) cũng bị giới hạn bởi kiến thức nhân loại đương thời. Và kiến thức cũng như môi trường sống của nhân loại đã thay đổi rất nhiều trong vài thế kỷ gần đây.
Theo tôi thì ngoài kinh Phật ra thì còn có nhiều nguồn tài liệu khác để tìm hiểu về Phật pháp. Có nhiều sách, nhiều luận án và công trình khảo cứu về Phật Giáo trong những thập niên gần đây cung cấp những cách nhìn khác nhau về lý thuyết và triết lý Phật Giáo. Những quan điểm nầy dĩ nhiên không thích hợp với sự hiểu biết và phương cách thực hành của tất cả Phật tử nhưng nếu không tìm hiểu về chúng mà chỉ khư khư ôm ấp các tư tưởng xưa cũ hoài thì sẽ làm cho tầm nhìn của mình mãi mãi hạn hẹp.
Nguyên lý cơ bản của Phật pháp
Xin nói rõ là trong phần nầy tôi không nói về những gì tăng ni và đại chúng tín ngưỡng cũng như thực hành trong cái gọi là Phật Giáo của họ. Ở đây tôi chỉ muốn diễn giải chi tiết hơn về những nguyên lý mà tôi cho là cơ bản của Phật pháp vừa đề cập ở trên.
Hệ thống giáo lý của Phật Giáo chủ yếu nằm trong 3 bộ kinh điển gọi là Tam tạng. Ba bộ kinh nầy gồm Kinh tạng (ghi lại lời Phật dạy), Luật tạng (ghi lại các giới luật), và Luận tạng (ghi lại các lời luận giải, bình chú về giáo pháp của các cao tăng và học giả sau này).
Mỗi tông phái trong Phật Giáo có những hệ thống giáo lý và kinh điển khác nhau. Tuy vậy có một số nguyên lý cơ bản hầu như đều rất giống nhau trong mọi tông phái.
Nói về bản thể luận thì mọi tông phái đều truyền giảng về quan niệm “vô ngã” và “vô thường”.
Vô ngã có nghĩa là “không có cái tôi”. Quan niệm nầy cho rằng cá thể và bản thân của một người, cũng như tất cả sự vật và hiện tượng trong vũ trụ đều không có thật. Thế giới (nhất là thế giới hữu hình) là do sự hợp lại bởi các yếu tố vật chất (Sắc) và tinh thần (Danh). Có là 5 yếu tố (ngũ uẩn): Sắc (vật chất), Thụ (cảm giác), Tưởng (ấn tượng), Hành (tư duy nói chung) và Thức (ý thức). Danh và Sắc chỉ tụ hội trong thời gian ngắn rồi chuyển sang trạng thái khác, vì vậy “ không có cái tôi”.
Vô thường có nghĩa là “không vĩnh cửu”. Quan niệm nầy cho rằng bản chất sự tồn tại của thế giới là một dòng biến chuyển không ngừng. Không có điểm khởi đầu, không có điểm cuối cùng và cũng không có gì vĩnh hằng. Sự biến hiện của thế giới theo chu trình: sinh, trụ, dị, diệt.
Nói về sự giải thoát, mọi tông phái đều cho rằng Phật tử cần phải nhận thức và thực hành bốn chân lý gọi là Tứ Diệu Đế. Đó là:
– Khổ Đế: Đời là bể khổ. Có 8 nỗi khổ chính: sinh, lão, bệnh, tử, ái ly biệt (yêu mà phải xa), oán tăng hội (ghét mà phải ở gần), sở cầu bất đắc (muốn mà không được), thủ ngũ uẩn (khổ vì sự tồn tại của thân xác).
– Tập Đế (hay Nhân Đế): Mọi nỗi khổ đều có nguyên nhân. “Thập Nhị Nhân Duyên” là 12 nguyên nhân của sự khổ: vô minh, hành, thức, danh sắc, lục căn, xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử.
– Diệt Đế: Những nỗi khổ trên đều có thể bị tiêu diệt.
– Đạo Đế: Phương cách để tiêu diệt khổ, hay là giải thoát, là tiêu diệt vô minh (sự tăm tối, không sáng suốt); tiêu biểu và căn bản nhất là 8 con đường (Bát Chính Đạo):
. Chính kiến : hiểu biết đúng.
. Chính tư duy: suy nghĩ đúng.
. Chính ngữ: giữ lời nói chân chính.
. Chính nghiệp : Nghiệp có hai loại là tà nghiệp và chính nghiệp. Tà nghiệp phải sửa, chính nghiệp phải giữ. Nghiệp có thân nghiệp (do hành động gây ra), khẩu nghiệp, ý nghiệp.
. Chính mệnh: tiết chế dục vọng, giữ điều răn.
. Chính tinh tiến: hăng hái truyền bá chân lý của Phật. Chính niệm: hằng nhớ Phật, niệm Phật.
. Chính định: tĩnh tâm, tập trung tư tưởng nghĩ về Tứ diệu đế, vô ngã, vô thường…
Theo Bát Chính Đạo, con người có thể diệt trừ vô minh, giải thoát và đạt nhập Niết Bàn.
Bát Chính Đạo còn gọi là Tam học: Tuệ (chính kiến, chính tư duy, chính ngữ), Giới (chính nghiệp, chính mệnh), Định (chính tinh tiến, chính niệm, chính định)
Tương tự, mọi tông giáo đều dạy về hai giới luật cơ bản quan trọng là ngũ giới và thập thiện, quy định những điều mà những người theo đạo phải tuân theo.
Ngũ giới là Giới sát (không sát sinh), Giới đạo (không trộm cắp), Giới dâm (không tà dâm), Giới vọng ngữ (không được nói điều sai trái), Giới tửu (không uống rượu).
Thập thiện là về thân thì không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm; về khẩu thì không nói dối, không nói hai chiều, không ác khẩu, không thêu dệt; và về ý thì không tham lam, không giận dữ, không tà kiến.
Về thế giới quan thì hầu hết các tông phái đều cho rằng không có một vị thần linh nào đã sáng tạo ra vũ trụ và con người.
Có hai khái niệm về thế giới quan và nhân sinh quan mà nhiều người cho là nguyên lý cơ bản của Phật Giáo, đó là “luân hồi” và “nghiệp quả”.
Phái Đại thừa (có nghĩa là “cỗ xe lớn”) cho rằng con người có thể giác ngộ bằng tự lực và bằng tha lực tức bằng sự dẫn dắt của người khác, đặc biệt là của các vị Bồ Tát. Do đó phải “tự giác giác tha, tự độ độ tha” tức mình đã giác ngộ thì phải giác ngộ người khác. Trong khi đó, phái Tiểu thừa (có nghĩa là “cỗ xe nhỏ”) cho rằng mỗi người phải lo tu thân, giác ngộ chỉ bằng tự lực; không ai có thể cứu độ hay giải thoát ai cả.
Hai khái niệm “luân hồi” và “nghiệp quả” trên thật ra xuất phát từ Ấn Độ giáo và được thu nhập vào Phật Giáo bởi phái Đại thừa. Sau nầy một số chi nhánh của phái Tiểu thừa cũng chịu ảnh hưởng và truyền dạy hai khái niệm trên. Theo Phật Giáo thì sự vật mất đi ở chỗ này là để sinh ra ở chỗ khác; phái Đại thừa và một số chi phái Tiểu thừa thì cho rằng quá trình thác sinh luân hồi đó bị chi phối bởi luật nhân quả.
Một số tông phái Tiểu thừa “nguyên thủy” tuy giảng dạy về nguyên lý “nhân quả” nhưng không nhìn nhận các khái niệm “luân hồi” và “đầu thai” vì họ cho rằng chúng không phải là lời dạy của Thích Ca Mâu Ni lúc sinh tiền.
Phái Đại thừa và một số chi phái Tiểu thừa cho rằng khi đạt đến Niết Bàn là chấm dứt sinh tử, luân hồi. Một số tông phái Tiểu thừa “nguyên thủy” cho rằng Niết Bàn chỉ là một trạng thái bình an, sáng suốt cực độ của tâm thức.
Đứng giữa hai luồng tư tưởng rất khác biệt với nhau trên là vài khái niệm kể trên mà hầu như tông phái nào cũng đồng ý và công nhận là “chính pháp”. Đó là lý do tại sao tôi cho những khái niệm nầy là nguyên lý cơ bản của Phật pháp.
Bàn về Nhân quyền và Tự do
Tôi thích những định nghĩa về tự do của John Adams và yêu thơ Tagore. Cả hai đều khơi dậy cái sức mạnh tiềm ẩn bên trong con người. Điều lạ lùng là dù ở hai vị trí rất khác nhau, một chính khách và một nhà thơ; song họ lại gặp nhau ở một điểm rất chung. Tôi có thể mượn cái quan niệm của John Adam để nói về Tagore. Cả hai đều cho rằng không có sự ưu việt nào bằng sự ưu việt của linh hồn và không có sự giàu có nào bằng sự giàu có của con tim.
Tôi nhắc đến hai nhân vật lẫy lừng trên, chỉ để được nói về hai thiếu niên vô danh và một thế hệ ưu việt về tâm linh, giàu có về tình yêu và lòng ái quốc. Nhưng trước hết, xin được trở lại với cái định nghĩa về tự do của John Adams. Ông bảo: “Tự Do là quyền lực tự quyết trong một thực thể có tư duy. Nó đưa đến suy nghĩ, lựa chọn và sức mạnh”
Từ định nghĩa đó, rõ ràng dân ta ngày nay thiếu hẳn các tố chất quan trọng và cần thiết để quyết định cho sự tự do của chính mình. Và sự tồn vong của đất nước. Điều này đi ngược lại hoàn toàn với truyền thống các thế hệ cha anh mà Nguyễn Trãi đã ghi lại trong Bình Ngô Đại Cáo: “Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập/Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”.
Ngày này có ai đọc lại câu thơ của Nguyễn Trãi mà không khỏi thấy ngậm ngùi!
Mới đây, ông Nguyễn Điểu, giám đốc Sở Tài nguyên - môi trường TP Đà Nẵng, đã lên tiếng cảnh báo về hiện tượng người Trung Quốc mượn tay người Việt dồn dập mua nhiều lô đất ở ven biển Đà Nẵng. Cũng tại đây, đã thấy xuất hiện những biển quảng cáo bằng tiếng Trung Hoa của một số nhà hàng, khách sạn dùng để lôi kéo khách hàng.
Tại sao lại có tình trạng núp bóng người Việt? Tại sao dân ta lại thờ ơ coi rẻ vận mệnh quốc gia? Nếu nguy cơ mất nước nằm ngay ở người dân, thì một chính quyền hùng mạnh nhất cũng phải sụp đổ nói gì đến lãnh đạo CSVN hiện nay.
Theo dự đoán của công ty địa ốc Knight Frank, VN là quốc gia có tốc độ tăng số lượng người siêu giàu nhanh nhất thế giới.Từ người thật giàu cho đến người nghèo khó, dường như đa số đều hướng về vật chất, hướng về những cái hời hợt bên ngoài. Dân ta có nhiều người giàu, nhưng chẳng giúp ích gì cho những phúc lợi xã hội. Dân số ta đông, nhưng coi rẻ lợi ích quốc gia. Nhiều học giả, nhiều trí thức, nhưng vắng bóng những hành động của trí tuệ. Chúng ta đánh mất nền tảng, chúng ta gãy đổ, không nối kết được chính mình với quá khứ.
Nên nhớ lịch sử VN đâu chỉ được viết nên bởi một Quang Trung, Hưng Đạo hay các hổ tướng tên tuổi lẫy lừng. Lịch sử còn được viết bởi những con người rất bình thường và vô danh.
Xin được kể câu chuyện về hai thiếu niên ở Gò Công, mà thái độ của họ đã khắc một nét thật sâu trong lòng hai viên sĩ quan cao cấp của thực dân Pháp.
Chuyện được kể lại qua lời của thiếu tướng hải quân Réveillère, người có mặt trong cuộc hành quân quy mô, nhằm truy quét phong trào kháng Pháp của Trương Công Định. Năm 1863, thực dân Pháp huy động một lực lượng lớn tái chiếm lại Gò Công. Hôm đó, họ bắt được hai thiếu niên người Việt, hai anh em ruột. Viên sĩ quan chỉ huy cuộc hành quân là thiếu tá Vergne giao hẹn với cả hai rằng họ sẽ được tha mạng nếu thực tâm dẫn đường cho quân đội Pháp truy lùng các căn cứ của nghĩa quân. Tuy nhiên, hai thiếu niên này đã lừa dẫn quân Pháp đi vòng vo trong rừng. Không có một lãnh tụ nghĩa quân nào của Trương Công Định bị sa lưới ngày hôm đó. Có lẽ chính nhờ hai thiếu niên này họ đã tìm được thời gian trốn thoát.
Chiều tối hôm đó, thiếu tá Vergne đã buộc lòng phải xử bắn cả hai, sau khi bày tỏ sự hối tiếc của ông với thiếu tướng Réveillère: “Họ là những anh hùng. Ở Hy Lạp có lẽ người ta đã tạc tượng để thờ các người ấy. Còn tôi, tôi phải xử bắn họ.”Thiếu tá Vergne đã phải đối mặt với sự lựa chọn khó khăn, nhưng ông đã làm tròn nhiệm vụ của một sĩ quan chỉ huy quân đội Pháp. Riêng hai thiếu niên người Việt, cho đến tận ngày hôm nay chúng ta vẫn không biết họ là ai. Nhưng chúng ta biết rất rõ sự lựa chọn và sức mạnh của họ là lý do cho sự tồn tại của đất nước này.
John Adams nói rằng: “Không thể bảo vệ tự do trong khi nhân dân không nhận thức được nó”. Là một người dẫn đường cho sự độc lập của nước Mỹ, ông xiển dương sức mạnh về tinh thần và ý thức của người dân.
Ngày nào chúng ta còn im lặng trước những trái ngang của luật pháp khi đề nghị mức án cho trẻ em lên đến 15 năm tù; ngày nào chúng ta còn làm ngơ trước tiếng thét oan khuất của người phụ nữ dân oan trước vành móng ngựa … ngày đó, chúng ta không cần có tự do.
Tự do đã bị bóp nghẹt bởi chính cá nhân của mỗi người, khi chúng ta không dám làm điều thiện, điều đúng với lương tâm của mình. Và nhân quyền lại là một điều rất dư thừa, vô bổ.
***
Tôi nghĩ đến câu thơ của Tagore và hai thiếu niên vô danh ở Gò Công. Bất giác, tôi muốn viết câu thơ này lên tấm bia mộ vô hình của thời gian
“Họ đã hôn cõi đời này với chân tay và đôi mắt của họ – Họ đã ôm nó vào lòng, xiết chặt nó vào lòng – Họ đã cho ý nghĩ của họ tràn ngập cả ngày và đêm của nó”
Tiếc rằng chúng ta không mang nổi thông điệp của họ đến các thế hệ tương lai. Hãy quên họ đi. Hãy coi họ như hai người anh hùng của một đất nước Hy Lạp nào đó xa xôi!
NGUYỆT QUỲNH
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)