Thứ Bảy, 1 tháng 8, 2015

NED "Đạo Tác Chính Nghĩa Dân Chủ" bị Chặt tại Nga





Chính phủ Nga vừa qua quyết định xếp các tổ chức mệnh danh "Phi chính phủ" NGO (non-government organisation) có nguồn tài trợ từ nước ngoài là "Nhân Sự Ngoại Bang" . Đặc biệt đóng cửa và ngưng mọi hoạt động của tổ chức ngoại vi tình báo CIA của nhà nước Mỹ "tài nguyên quốc gia cho dân chủ" (NED) núp dưới danh NGO tại quốc gia này. Quyết định của nhà nước Nga đã khiến guồng máy thông tin tuyên truyền chính qui của Âu Mỹ rầm rộ tố cáo Nga (Putin) là hành động của "độc tài sợ hãi dân chủ".

Quyết định này được đúc kết qua sự kiện NED đả lèo lái những đòi hỏi chính đang của dân cư vùng Yerevan thuộc nước Armenia “Electric Yerevan"

Như trang Nhân Chủ , trong quá khứ, đã có một số bài tường thuật về gốc tích cũng như chủ trương của tồ chức ngoại vị tình báo CIA với cái tên cực kỳ "rực sáng" Tài Nguyên Quốc Gia cho Dân Chủ" này (National Endowment for Democracy) viết tắt là NED .

Tổ chức NED là "tác giả trộm cắp" của các cuộc cách mạng mầu trong mục tiêu lật đổ các chế độ, bất kể là dân chủ gián tiếp hay độc tài, miễn là đối kháng Âu Mỹ, để thành lập một chế độ thân Mỹ không nhất thiết là "dân chủ" mà phần nhiều là quân phiệt phát xít như Ai Cập hoặc ngay Ukraine hiện tại. Điển hình gần nhất là Goergia với tên "tổng thống dân chủ" tội phạmMikheil Saakashvili bỏ chạy qua Mỹ và công tác đã lại khu vực thành vị thống đốc quan chức của chế dộ Ukraine đương thời.

NED được thành lập thời Reagan đồng bộ với sự ra đời của Al Quaed trong cuộc chiến phi qui ước với Soviet từ sau vụ chiếm Afganistan. NED chính thức hình thành do sự đồng thuận của quyền lực chính trị Mỹ và chính thức hóa bằng một đạo luật quốc hội (Act of Congress).Do đó nó hoạt động chặt chẽ dưới ô dù tài chính và pháp lý của quốc hội, hành pháp Mỹ với những kỹ thuật tuyên truyền tổ chức và tình báo của CIA.

Nhờ có cấu trúc phía sau chặt chẽ và rộng lớn như vậy, nên NED nghiên cúu chi tiết tính hình địa phương và thường lợi dụng những đấu tranh đòi hỏi chính đáng của quần chúng bản xứ bàn đầu để lấy "chính danh" và cái người tung tiền "hướng dẫn" các đấu tranh chính đáng này thành cuộc lật đổ để dựng một nhà nước tay sai cho quyền chính Âu Mỹ.

Nhưng không phải lúc nào NED cũng thành công. NED từng thất bại tại Iran (Green Revolution) và vừa thất bại tại Armania (FAIL: US-backed 'Electric' Color Revolution in Armenia).

Như chúng ta đều biết Âu Mỹ đang ủng hộ tên quân phiệt độc tài Mubarak, thì cuộc cách mạng tại Ai Cập nổ ra khiến Âu Mỹ lúng túng. Dù thành công, nhưng vì nhóm Huynh Đệ Hồi Giáo của tổng thống dân cử Morsi không chịu Mỹ hóa guồng máy, và Âu Mỹ đã bật đèn cho bọn sát nhân quân đội tiến hành đảo chính tái lập quân phiệt độc tài với sự tiếp tay của tổ chức "tài Nguyên cho Dân Chủ" tại Ai Cập và bọn quân phiệt này được sự ủng hộ bền chặt của "nhà nước dân chủ tự do" Mỹ từ đó cho đến nay!!! (US Bankrolled Anti-Morsi Activists).

Sử gia hiện đại Mỹ, William Blum đã viết khá chi tiết về tổ chức nằm vùng NED này. Sự ra đời và mục tiêu của nó v.v như một loại Trojan Horse trong quyển sách nhận định về bản chất bạo ngược gian manh giào hoạt của tập đoàn định chế nhà nước đế quốc Mỹ: nhan đề "Nhà nước gian hoại- Một hướng dẫn về Siêu Cường Duy Nhất của Thế Giới" Rogue State - A guide to the World's Only Superpower. Trong đó không chỉ dùng NED như một bầy chó săn tình báo nằm vùng, mà dùng bọn tình báo, quân sự thành lập, hoặc trợ lực huấn luyện và cấu kết với khủng bố cho mục tiêu quyền lực khống trị của nó. * (mạnh mẽ đề ngụ quí độc giả cần nên đọc qua quyền sách ngắn này để hiểu phần nào về cấu trúc định chế quyền chính Mỹ- nhấn vào liên kết tải PDF về)

Đóng cửa tổ chức gián điệp nằm vùng "đạo tác chính nghĩa" này là chính đáng chẳng oan ức gì!

Nhưng phải nói lên cái oan thật sự của những người dân đấu tranh đòi hỏi và đối kháng lại các chế độ là hoàn toàn chính đáng. Bất cứ khi nào người dân đã nổi lên chống Nhà nước chính phủ đều chính đáng.

Nhưng vì yếu kém không hiều biết rõ ràng về bản chất của NED, của các NGOs và thiếu chiến lược trong tổ chức để bị bọn NED tung tiền lạm dụng và "đạo tác chính nghĩa" của họ- đưa đến thất bại thật sự toàn bộ cho họ, dù bọn NED có thành công hay không. Hiện trạng của Ukraine, của Ai Cập là điển hình. Người dân trước và sau "cách mạng" thành công và không thành công...đều mệt mỏi phí phạm tâm lực tài vật và ...mất hết.

Nói một cách khác, chính sự gian manh lạm dụng lý tưởng của tổ chức NED đã giúp cho các định chế nhà nước và các tên chính phủ gian manh có lý cớ đàn áp và vô hiệu hóa những nỗ lực đấu tranh hoàn toàn chính đáng của dân chúng các nơi.

Nhân Chủ
==
TB:
Các con giòi ngụy ngục, nhất là thành phần tàn dư của Ngụy VNCH và các nhóm "đặu phọng đỏ" trong nước vẫn thèm thuồng cái quan hệ NED trong nhiều năm qua. Nhưng vì quá ngục không hiểu rằng NED không chống cộng, cũng không chống độc tài hay quân phiệt gì hềt, NED chỉ giúp chống lại các chế độ không và chưa thần phục Mỹ mà thôi. Đám này tối dạ không thấy rằng ở Arab Seoud, Bahrain NED có hó hé gi? Viet Cộng đang thậun cờ xuôi gió với Mỹ chặt chẽ thì NED là những kẻ tình báo nằm vùng bảo vệ cho các chế độ đó thôi. Cứ nhìn những sự kiện Thái Lan, Miến Điện, Nam Dương, Mã Lai đã qua mà học bài học căn bản quyền chính này.

Singapore giải thích lý do từ chối người Việt Nam





Cục quản lý xuất nhập cảnh và cửa khẩu Singapore (ICA) cho rằng những người bi chối vào Singapore vì không đáp ứng được các tiêu chuẩn nhập cảnh.



Báo Singapore The Straits Times đưa tin ICA không tiết lộ cụ thể bao nhiêu phụ nữ Việt Nam đã bị từ chối nhập cảnh, nhưng khẳng định họ vẫn chào đón công dân mọi quốc tịch vào Singapore.

“Mỗi du khách vào Singapore không được chấp nhận nghiễm nhiên, và mỗi trường hợp phải được xem xét cụ thể”, ICA tuyên bố.

Một người phát ngôn ICA cũng khẳng định các du khách có thể buộc phải trả lời một số câu hỏi và trải qua việc kiểm tra nếu nhà chức trách Singapore thấy cần thiết rồi mới cho phép nhập cảnh.

“Các nhân viên ICA ở các cửa khẩu của Singapore sẽ kiểm tra và xác định có cho phép các du khách nhập cảnh khi họ tới hay không”, ICA nói.

Trước đó truyền thông cho biết nhiều phụ nữ người Việt bị từ chối vào Singapore vì họ đã sử dụng các hộ chiếu khác nhau trong những lần nhập cảnh khác nhau. Thông tin cũng cho biết một số phụ nữ không thể giải thích tại sao họ muốn vào Singapore.

Năm ngoái, hơn 420.000 người Việt Nam đã vào Singapore, theo Tổng cục du lịch Singapore, tăng gần 1/3 so với năm 2010.

TT

VÀI DÒNG VỀ “DÂN CHỦ GIÁO”





Vì sao phong trào dân chủ Việt Nam không tạo ra được ảnh hưởng chính trị tử tế nào? Đơn giản thôi: nó là một giáo phái đang lên, chứ không phải là một phong trào chính trị.

Hãy nhìn những đặc điểm sau:

1. Phong trào không hướng đến cái gì khác, ngoài giấc mơ về một thiên đường.

Các tổ chức và cá nhân trong phong trào không có bất cứ chương trình thiết thực nào để thay đổi xã hội, cũng không có bất cứ kế hoạch cụ thể nào để giải quyết những vấn đề của đất nước. Họ chẳng biết làm gì khác, ngoài lải nhải về thiên đường dân chủ chủ nghĩa toàn mỹ toàn thiện – một viễn cảnh mà họ hoàn toàn không đủ nhân cách, bản lĩnh và trình độ để thiết lập trên mặt đất, dù chỉ là dân chủ trong nội bộ phong trào với nhau. Chính họ cũng phải thừa nhận rằng họ không xây dựng dân chủ, mà chỉ biết “đòi dân chủ”. Thế là ngày này qua tháng khác, những tín đồ sùng đạo của “Dân Chủ Giáo” chỉ biết ngửa mặt lên mạng, hô các khẩu hiệu đấu tranh ra rả như tụng chú hoặc cầu kinh, lòng hằng tin rằng nếu mình cầu nguyện đủ ầm ĩ, thần chú sẽ phát huy công hiệu, và thiên đường dân chủ sẽ hiện ra như một phép màu.

2. Các con chiên trong phong trào không đọc bất cứ thứ gì, ngoài vài quyển kinh thánh.

Khi bạn tham gia phong trào dân chủ Việt Nam, không khó để được các tín hữu trong phong trào nhìn nhận như một con chiên có học. Bạn chỉ cần học thuộc vài quyển kinh thánh, như Cẩm Nang Nhân Quyền, Từ Độc Tài Đến Dân Chủ, Con Đường Việt Nam. Các khóa tập huấn trên mạng, hoặc thậm chí ở nước ngoài của phong trào cũng từa tựa các lớp học giáo lý, vì gần như chẳng đưa ra bất cứ kiến thức chính trị nào khác ngoài phạm vi những kinh thánh này. Nếu bạn trò chuyện với các tín đồ về một vấn đề chính trị ngoài phạm vi bàn đến của những cuốn sách trên, nhiều khả năng mặt họ sẽ nghệt ra như ngỗng ỉa. Đặc biệt, nếu bạn phê bình những sách trên, họ sẽ giãy nảy lên, như thể bạn đang xúc phạm đến sự thiêng liêng của kinh thánh.

3. Nhân quyền được thờ phụng như một đức tin.

Mọi nhà dân chủ đều treo trên đầu lưỡi hai chữ nhân quyền. Tuy vậy, hầu hết các nhà dân chủ chẳng thèm hiểu nhân quyền từ đâu ra, hữu dụng ở chỗ nào, áp dụng trong thực tiễn như thế nào, hay đâu là giới hạn và mâu thuẫn phát sinh từ nó. Đa số chấp nhận một cách máy móc rằng nhân quyền là thứ loài người sinh ra đã có, hay nói cách khác, là được Thượng đế ban cho. Thành ra họ vừa tôn sùng hai chữ nhân quyền, vừa dốt nát về bản chất của nhân quyền, chẳng khác gì đám con chiên vừa tôn sùng ảnh Chúa, vừa chẳng biết gì về Chúa. Nếu có ai đó nói thật rằng nhân quyền chỉ bắt nguồn từ những thương vụ chính trị mà đám chính trị gia ký kết với nhau qua thời gian, và đôi khi đã bị lợi dụng làm một phương thức mềm để lừa mị và kiểm soát dân chúng, thì họ sẽ giãy nảy lên như thể vừa nghe một lời phạm thượng.

4. Phong trào dân chủ đầy ắp các thánh địa, thánh lễ và thánh nhân.

Có những sinh hoạt mà mọi nhà dân chủ đều phải tham dự, những địa điểm mà mọi nhà dân chủ phải hành hương đến, những nhân vật mà mọi nhà dân chủ phải tôn thờ.

Thánh lễ của họ là nghi thức căng biểu ngữ và hô khẩu hiệu mọi lúc mọi nơi, từ chỗ biểu tình, cho đến quán bia, hoặc thậm chí sân bóng đá.

Thánh địa của họ là những đại sứ quán phương Tây.

Khi hành hương được đến thánh địa, các tín đồ Dân Chủ giáo sẽ được đón tiếp bởi những vị đặc phái viên nhân quyền và tham tán chính trị, với nụ cười tỏa ánh hào quang rạng rỡ như thể các tổng lãnh thiên thần. Những nhà dân chủ có đủ đức tin và chịu đủ khổ nạn ở Việt Nam sẽ được họ dang rộng đôi cánh tay, đón lên thiên đường dân chủ Mỹ.

Phong trào dân chủ lại còn có nhiều đấng cứu thế – như nhà cách mạng Đoan Trang, những đấng ngôn sứ – như thầy đồng Lê Thăng Long, và các bậc tiên tri – như thầy bói Trần Huỳnh Duy Thức.

Và đặc biệt, mọi nhà dân chủ đều đặt trọn niềm tin vào tâm bồ tát bao la quyền năng vô hạn của hải quân Mỹ, như thể con bạch tuộc lắm vòi này là phật bà nghìn mắt nghìn tay, lúc nào cũng mở tròn mắt dõi theo các nước nhược tiểu như nước mình, để luôn sẵn sàng nhảy vào cứu khổ cứu nạn khi xảy ra chính biến…

[Nhà Dân Chủ]

TẢN MẠN VỀ DỤC TÍNH VÀ NỮ QUYỀN




NGUYỄN VY KHANH


Người xưa như tác giả Truyện Kiều, viết về chuyện tình dục là với điển tích (Ra tuồng trên Bộc trong dâu; Vòng ngoài bảy chữ vành trong tám nghề), hay dùng nghĩa bóng (Tiếc thay! Một đóa trà mi / Con ong đã mở đường đi lối về). Dục tính không thật có với văn chương cổ điển vì những tính cách ước lệ, trí thức và hình thức. Không có sáng tạo, cá tính, do đó không cần cả tác giả, phải chăng đó là một lý do của hiện tượng vô danh của tác phẩm thời xưa?
Dục tính khác thô tục, tục tĩu, như áo mỏng dính với trần truồng, dâm thư dĩ nhiên không phải là tác phẩm văn chương. Henry Miller mà tác phẩm từng bị cấm ở quê hương của ông, trong Obscenity and the Law of Reflection đã xem dâm tục (obscenity) xuất hiện trong văn chương như một kỹ thuật, không liên hệ gì đến dâm thư (pornography). Dục tính như một giá trị chỉ nhắm đánh thức, khêu dậy, dẫn nhập, đem ý nghĩa đến cho thực tại cuộc sống . Đối với Việt Nam, dục tính chỉ thực sự xuất hiện trong văn học ở thế kỷ XX, bước đầu bởi nam giới và dục tính luôn chỉ có ý nghĩa trong một văn hóa, trong một xã hội. Dâm tính trở thành yếu tố tiểu thuyết, gia vị hấp dẫn cho tác phẩm. Thời Nhất Linh, dâm tính chỉ chớm thoáng qua, như trong truyện ngắn Tháng Ngày Qua, nhân vật Giao trọ học nhà bạn, đã dám ... để ý đến vợ bạn, "bốn mắt gặp nhau (...) cặp môi nàng mấp máy, dưới tấm áo mỏng, ngực nàng phập phồng, hai con mắt nhìn đăm đăm vào chàng có vẻ lẳng lơ, nồng nàn như đắm tình..." (1).

Các tác giả thời này kể chuyện tình yêu, nhưng ít người đi vào chi tiết làm tình hay tả chân thân thể người nam hay nữ. Vũ Trọng Phụng, Trọng Lang,... từng bị kết án là khiêu dâm, thực ra họ chỉ có ý trình bày bộ mặt khác, trái, của xã hội, nêu lên những tệ hại, có ý giáo dục, hướng thượng. Phùng Nguyễn trong Bia Ôm (2) tả "đôi vú nhỏ mềm nhũn và âm hộ nhầu nát" hình như cũng không có mục đích viết dâm thư! Trước 1975, Lê Xuyên đã bị tố viết văn khiêu dâm, trong thực tế tiểu thuyết của ông chỉ tả cảnh tả tình những hẹn hò, những ăn chơi trắc tréo dài dòng nhưng không mấy tả chi tiết cảnh làm tình; kẻ lên án chỉ chứng tỏ đạo đức giả hoặc chưa từng đọc qua.
Tạp chí Sáng-Tạo vào thập niên 1960 ở miền Nam, đã đăng nhiều truyện đầy dục tính của các tác giả về sau không đi tiếp nghiệp văn, như Duy Thanh (Khép Cửa, Thằng Khởi, Chiếc Lá,...), Thạch Chương (Tinh Cầu,..). Giải phóng tình dục “hôm nay” là một trong những chủ trương văn nghệ của nhóm. Thạch Chương tức nhạc sĩ Cung Tiến sau này lúc bấy giờ viết truyện ngắn "hiện sinh" và là lý thuyết gia cho khai phá này, trong bài "Giới thiệu một nhận thức siêu thực về nghệ thuật" đã viết :"... Chúng tôi muốn quay lại vũ trụ hoang sơ dục tình nguyên vẹn mà tâm hồn mỗi kẻ còn trinh như sữa. Nhưng là cái tinh khiết đáng sợ của con bò rừng. Nghệ thuật hôm nay là sự biểu lộ một "furie du total", một tiếng gọi quay trở về rừng sâu thẳm mà ở đó còn vẳng lên những tiếng cười điên mê, những tiếng la cuồng dại vọng về từ trăm thế kỷ của bản năng thuần túy. (...). Nghệ thuật hôm nay còn được biểu tỏ mãnh liệt trong tình yêu ngọt ngào của xác thịt, hay "tình điên". Dục tình, như có người đã nói trên mặt báo này, là động lực độc nhất của thế giới. Đọc .. phần lớn những tác phẩm của D.H. Lawrence, ai mà không cảm thấy vật dục mình xao xuyến, một thứ xao xuyến rất nghệ thuật, rất siêu thực, rất trắng, rất tinh khôi...". Lý do ông đưa ra vì sống trong một thời đại "sống trong cái thế trên đe dưới búa, một bên là tự do tuyệt đối cá nhân, một bên là áp bức chính đáng..." (3).
Trong truyện Thằng Khởi, Duy Thanh để cho nhân vật xưng Tôi, một cô gái 16 tuổi, muốn ngủ và rồi ra tay "hiếp dâm" một thằng gánh nước người Chàm: "Tôi đã để ý đến nó năm tôi 16 tuổi. Cái vẻ đẹp man rợ ngu xuẩn ấy mang cho tôi nhiều ý nghĩ dâm dục. Tôi chắc rằng thằng Khởi chưa hề ngủ với ai bao giờ (...) Thằng Khởi vẫn ngủ trong lều. Đôi môi dầy của thằng Khởi mấp máy và vị nước bọt của nó sền sệt nhạt nhẽo. Tôi lay nó dậy. Thằng Khởi chồm lên chắc định la làng nhưng tôi bít miệng nó lại. Mắt nó mở to có vẻ ngạc nhiên lắm, nhưng cũng ngồi im. Rồi đưa tay quờ vào người tôi. Hơi thở của nó và của tôi hừng hực trong đêm tối..." (Sáng Tạo, 21). Cũng Duy Thanh trong truyện Chiếc Lá để nhân vật là cô gái 18 tuổi "thích thay đổi, từ vấn đề ái tình, sinh lý, không khí, đồ ăn,..." và không thích cái gì quen hoặc vô nếp cả. Khi còn là cô bé 15 tuổi, cô ta đã ngủ với anh rể vừa để trả thù chị mình vừa tìm cảm giác: "Tôi muốn đo cái độ dục của hắn khi hắn ngủ với chị ấy thế nào. Cũng lạ, cái cảm xúc ấy lúc đề phòng trước thì thấy tầm thường hết sức. Tôi thấy cái hình thù sát cạnh mình đến vô nghĩa..." (4).
Nhưng người tả cảnh thật sự dục tính đầu tiên có thể là Lê Hoằng Mưu, chủ bút Lục Tỉnh Tân-văn, tác giả Hà Hương Phong Nguyệt (1915), Oán Hồng Quần (tức Phùng Kim Huê Ngoại Sử, 1920), nhất là với Người Bán Ngọc (1930-31), dù văn còn ảnh hưởng biền ngẫu và câu chuyện xảy ra ở Trung Hoa nhưng nhân vật và khung cảnh rất Việt Nam. Một câu chuyện tình cổ điển gần 400 trang, nhưng suy nghĩ, ngôn ngữ và hành cử của nhân vật cũng như cách diễn tả tiểu thuyết có tính thật của đời sống lúc bấy giờ. Người bán ngọc đây là Tô Thương Hậu giả phụ nữ bán ngọc để gần gũi và trờ thành tình nhân của Hồ phu nhân"trững mỡ" trong hai năm chồng đi buôn xa, trước là đồng tình luyến ái, sau trai gái thật khi Thương Hậu không cầm lòng được đã để lộ cái "oan gia".
"Vén mùng rồi vừa gạt chưn để lên giường, xẩy thấy một tòa thiên nhiên, lịch sự như tiên giáng thế, làm cho người bán ngọc mảng mê nhan sắc trố mắt đứng nhìn, quên bổn phận mình, mưu sự tệ tình, bất cẩn, ... Thấy Hồ phu nhân mê mẩn giấc nồng sổ đầu, nằm bỏ tóc, xấp xả khó gìn cho đặng. Bèn sẽ lén lấy mền đắp bụng cho Hồ phu nhân; rồi lại muốn đưa tay rờ rẫm vuốt ve cho thỏa. Không dè, mới thò tay vừa tới bụng sợ phập phồng nó làm cho tấc dạ bồi hồi, tay rung lập cập. Người bán ngọc không dám rờ! Lật đật thục tay vào rồi xây mặt ngó quanh quẩn bên mình, ... Vuốt qua vuốt lại, rờ xuống rờ lên đôi ba phen mà Hồ phu nhân mê mẩn không hay, người bán ngọc thấy vậy mới dễ ngươi, ái tình lại dồi long tà dục... muốn kề má hôn cho phỉ dạ. Có một điều là rờ rẫm vuốt ve thì không sao, chớ hễ muốn kề má xuống hun, thì lại hườn cựu lệ, trống ngực đánh rầm rầm, chân tay run lẩy bẩy... đổ mồ hôi ướt đẫm như người bị cảm mạo phong sương... dục thúc quá dằn long không tiện, ngườI bán ngọc bèn gượng đưa tay ra rờ cái ngọc cốt phi phàm ... Rờ tới đâu chết điếng tới đó,..." (5).
*
Văn chương dục tính có khuynh hướng đi với nữ quyền. Hồ Xuân Hương - giả dụ có một Hồ Xuân Hương thật, tác giả những bài thơ Nôm tục lưỡng nghĩa, bà đã phải gò bó trong lối thơ hai nghĩa thời bấy giờ, đê nói lên những dồn nén và những đòi hỏi nữ quyền, "chém cha cái kiếp lấy chồng chung". Ở Việt Nam, cho đến giữa thập niên 1960, tác phẩm của các nhà văn nữ đã là những đóng góp làm đẹp cho đời, cho thế giới văn chương dù với tính cách bên lề, ngoại lệ. Thật vậy, đối với văn học chữ quốc ngữ thì năm 1927, bà Tương Phố với Giọt Lệ Thu đã thật sự khởi đánh dấu sự có mặt của nữ giới trên văn đàn chữ nghĩa. Thụy An với Một Linh Hồn (1942), Bốn Mớ Tóc (1950, ký Lưu Thị Yến) nhìn ra cuộc đời, Anh Thơ với Răng Đen (1943) rồi Nguyễn Thị Vinh với Thương Yêu (1953) đã bắt đầu nói đến thân phận người đàn bà trong đời sống đại gia đình, trong khuôn khổ phong hóa - họ không sống cho cá nhân mình. Thụy An, Nguyễn Thị Vinh nói đến số phận những thế hệ phụ nữ đã phải sống trong đứt đoạn, nghịch lý khó khăn giữa giáo dục thời thiếu nữ và thực tế ở đời khi trở thành phụ nữ ! Linh Bảo với Những Đêm Mưa, Tàu Ngựa Cũ xuất bản cùng năm 1961, đã nhẹ nhàng khởi nêu vai trò người phụ nữ. Đến Nhã Ca, người nữ tình yêu đã lãng mạn và mạnh mẽ nhưng chiến tranh và trách nhiệm đã khiến đôi lứa và gia đình quan trọng hơn cá nhân. Nói như Virginia Woolf, họ vẫn quanh quẩn trong "những hành lang tối ám của lịch sử". Người đàn bà sinh ra sống cho gia đình, lo cho cha mẹ, cho em, rồi khi rời gia đình thì rơi vào gia đình khác, lo cho chồng, cho con rồi cho cháu, ăn ở có đức, rồi chết ... theo đúng lễ nghi, phong tục! Người phụ nữ cho đến giai đoạn này chỉ đi tìm hạnh phúc!
Phải đến Túy Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy-Vũ và Trùng Dương, văn chương mới trở thành phương tiện cho nữ quyền và quyền sống. Thật vậy, từ cuối thập niên 1960, người viết nữ đã mạnh bạo đi xa hơn, tự tin hơn và những vấn đề phụ nữ được chính thức trương lên chữ nghĩa. Cái Tôi, nhân vật chính, nội dung, tình cảm, tình yêu, tình dục, ... không còn là của riêng những nhà văn thơ phái nam. Hơn là những "hình ảnh người nữ" trong tác phẩm viết bởi nhà văn nữ hay nam, từ Khái Hưng, Nhất Linh,.. đến Hồ Trường An, Nguyễn Thị Phong-Dinh,v.v.
Lê Thị Thấm Vân, một nhà văn hải ngoại đã phát biểu rằng:"Trong quá khứ, văn chương tình dục đa phần viết bởi ngòi bút đàn ông. Văn thơ kể, nói, chỉ, "dạy", diễn tả, ... những cảm xúc, "cách thức" rung động, thèm muốn, bày tỏ (thay cho) người đàn bà" (6). Văn chương dục tính hay có dâm tính lại do người nữ viết hình như hấp dẫn hơn vì cũng hình như có tính tự thuật nhiều hơn. Vì từ nay, người nữ làm chủ con người, tư duy, tình cảm và cuộc đời của họ trong văn chương. Làm người nữ, với văn chương! Simone de Beauvoir trong Le Deuxième Sexe (1949) đã phát động cái ý thức nữ quyền đó khi hô hào "On ne nait pas femme, on le devient". Trong văn chương, trong ngôn ngữ vì là cái có thực, có sự sống. Như vậy, viết trở thành hành động tự xác định của người phụ nữ, trở thành phát ngôn viên chính thức của con người phụ nữ, tiếng nói chính thức và từ tình dục.
Từ thuở tạo thiên lập địa, nếu theo truyền thuyết sáng thế từ Adam Eva thì Eva đã phạm tội ở vườn địa đàng, Adam dại gái nên bị cám dỗ; thân phận phụ nữ gãy đổ ở gốc cây táo từ đó. Đến lúc xảy ra phong trào đòi nữ quyền, người ta bắt đầu thấy phụ nữ lộ diện trên mọi sân khấu và đến cuối thế kỷ XX thì sân khấu gần như nhường hết cho các bà. Từ thập niên 1960, họ "lấn" thêm chuyện cái giường và thân xác. Họ gạt bỏ vòng cương tỏa tình dục nam quyền để làm lại thế giới với hình ảnh và dục vọng phái tính của họ. Marguerite Duras đã cho nhân vật nữ chủ động trong tình yêu: "Il a arraché la robe, il la jette, il a arraché le petit slip de coton blanc et il la porte ainsi nue jusqu’au lit. Et alors il se tourne de l’autre côté du lit et il pleure. Et elle, lente, patiente, elle le ramène vers elle et elle commence à le déshabiller" (7). Không xa nơi cô đầm Sadec, thập niên 1960 đã có một thế hệ nhà văn nữ như Trùng Dương đã tỏ tinh thần độc lập, dứt khoát tự giải thoát khỏi những ràng buộc của chế độ phụ hệ, cả trong động tác làm tình: "Một lúc nàng nới lỏng tay ra , thôi hôn tôi, mắt say đắm. Tôi nghe tiếng nàng nói qua hơi thở : Em lên anh nhé? Tôi khẽ gật đầu. Diệu xô tôi nằm xuống giường và lên người tôi. Diệu thường mở màn bằng cách đó. Hình như nàng tìm thấy cái thú nằm trên người tôi, một cái thú khá man dại và cũng chóng tàn"(8). Thử so với Loan của Đoạn Tuyệt chỉ muốn được đọc sách tiếp rồi ngủ sau đã phải đưa đến án mạng!
Hoặc các nhà văn nữ lên tiếng chống lại những thân phận tùng thuộc, nhận chịu, chờ đợi. Họ vạch mặt những qưyền lực đàn áp của định chế chính trị, của xã hội, của đồng lõa phái nam. Cái Tôi trước cái "anh, mày" tức người đối diện, trước cái Ta, cái chúng ta! Cái Moi của Simone de Beauvoir là cái Tôi xồ xề, sung túc ! Từ đó tình yêu có thêm nhiều hình dung từ, ngoài những tình yêu lý tưởng, cao thượng, đau khổ, ... lỗi thời, nay thêm tình yêu bản năng, tình dục, tự do, đổi chác, khoái lạc, cả tình yêu phút chốc, bồng bột, hiểm nghèo, ... Về điểm này, người viết nữ thời nay như muốn trở lại thời bán khai, tự nhiên, giải phóng tình dục khỏi những quy ước của hôn nhân, phong hóa. Đi xa hơn, không chỉ đòi bình quyền, còn tự chứng minh tự xác tín cái cá biệt "nữ", khác biệt về tình dục, về xúc cảm thân xác, về kinh nghiệm và cả ngôn ngữ. Họ làm chủ cơ thể, cảm xúc và tư duy. Trùng Dương trong Mưa Không Ướt Đất chẳng hạn cho nhân vật lý luận triết lý, truyện có tính cách lý luận hơn là sống nếu muốn gọi đó là hiện sinh. Xưa kia nhà văn nam viết, phân tích tâm lý mọi người thì nay các nhà văn nữ muốn phân tâm đàn ông và tự phân tâm! Một loại "văn hóa" mới, năng động và cách tân phái tính. Họ không ngừng ở thể loại nhật ký, thi ca, tiểu thuyết , mà đi xa hơn, làm chủ cơ quan văn nghệ, lên tiếng phỏng vấn, thuyết trình, ... Nhưng chính với văn chương, với tiểu thuyết và thi ca như phương tiện, mà người nữ lên tiếng, phát biểu, làm chứng.
Lệ Hằng thời trẻ xảnh xoẹ đi tìm hạnh phúc, hạnh phúc là ái ân, da chạm da, nói như Phượng Uyên trong Thung Lũng Tình Yêu chỉ muốn "thiên đường chính là vòng tay, là mùi hương đàn ông, là hơi thở của chàng. Tôi không tìm nữa một cảnh bồng lai, vì đôi môi người yêu, giọng nói người yêu, và đôi mắt chàng, là giòng sông tình ái, là rừng say sưa là suối bất tử đời đời tắm mát tình yêu " (9). Sẽ đòi hỏi hơn với Sóc Nâu là chuyện tình yêu khả thể với một người bạn nam Dũng, kiểu " Em thèm được làm một người đàn bà. Dưới tay anh, dưới thân thể anh, và dưới tình yêu của anh nữa... Dũng ơi ... Hãy trở thành một người đàn ông với em đi" (10).
Với Túy Hồng trước 1975, nhân vật nữ luôn đầy sức sống vùng vẫy trong một xã hội tù túng, ngộp thở. Họ luôn muốn phá đổ những lễ nghi, cung cách, những nếp sống phụ hệ, gia phong theo họ đã lỗi thời. Dục tính, mà một số nhà văn nam phê bình bà trước 1975, đã bị gán ghép, đồng hóa với thái độ và lối sống tự do, theo bản năng giấu dưới những mỹ từ tình yêu, tình bạn. Hãy còn bóng bẩy, rụt rè hiện thực, cùng lắm qua lời nói, ý nghĩ như nhân vật nữ trong Vết Thương Dậy Thì(1967): "Hãy ngậm em giữa hai môi dầy trác táng, uống em đi, nuốt em đi ừng ực. Chỉ vẽ cho em cách chế cà phê và cách chui vào lòng anh để thao thức cồn cào tỉnh người bỏ ngủ vì đã liếm em trên đầu môi chót lưỡi, đã ngậm, đã nuốt ực em vào anh rồi"(11). Người nữ đi thẳng, nói trắng : "nếu yêu em thì đừng đi quanh nữa (...). Anh hãy cho em đi con đường ngắn nhất, con đường độc đạo của tình yêu" nói như bạn cô giáo Cam Thảo, nhân vật Thở Dài, trong khi cô thì viết thư thúc người yêu cưới mình!
Trần Thị Ng.H. qua Lạc Đạn - viết năm 1973, và một số truyện ngắn đăng báo trước 1975 cũng đã, qua văn chương, tự xác nhận, ra tay để phá đổ huyền thoại phụ nữ như là đối tượng, xây dựng lại tương quan với người khác giống, đảm nhận tự do, một cách lạnh lùng, dứt khoát, dù vẫn cho thấy một loại bất mãn, dồn nén! Nơi thái độ, như hối hận sau liên hệ đồng tính với Thắm, sau khi đã "ôm nhau như đôi tình thân. Thắm rà đôi môi nhỏ trong cổ tôi, đôi vú non căng nở phập phồng, hốt hoảng. Tôi kinh hãi xúc động dầm dề. Tôi muốn la lớn trong cơn khoái cảm mộng mị và kì cục...". Như sau khi chấp nhận trò chơi "đau xé nổ tung đầm đìa. .. đỏ lòm oan uổng" với "người đàn ông lạ mặt", rồi phải "dỗ dành chỗ mềm yếu nhất, dỗ ngọt, săn sóc" đã xác tín - trong ý tưởng, với người mẹ âu lo rằng "con trinh bạch không tội lỗi, con nguyên vẹn của má" (12). Tình yêu, tình người ở đây, không là những bất ngờ! Trong các truyện ngắn khác ở tập này và tập Tập Truyện Ngắn Trần Thi Ng.H. (1999), bà còn nói đến những mặt trái, tội ác, cái chết tự xử, cái chết người khác, những cái chết dàn cảnh!
Cách mạng tình dục tiếp tục với văn học hải ngoại : Đỗ Kh., Khánh Trường, Trần Vũ, Trân Sa, Lê Thị Thấm Vân, Nguyễn Thị Hoàng Bắc,... Bài này chúng tôi nhìn qua phía các nhà văn nữ, họ lên tiếng về những âu lo, tâm tình mà lâu nay nhất là ở Việt Nam ít thấy. Những âu lo của Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan thanh cao quá, trừu tượng quá, Hồ Xuân Hương nếu là tác giả thật những bài thơ về tính giống và tác động phòng the, cũng vẫn ở ẩn dụ, bóng gió, không trực tiếp, trốn trong cách thế nho nhã! Nhà văn nữ Việt Nam ở hải ngoại nói thẳng những lo âu thực tế, sờ được, cảm được, không cần nhiều ngõ quanh, đi vòng. Sinh lý hết được xem như cấm đoán, lại được xem như đòi hỏi chính đáng, tình dục trở thành nhu cầu tự nhiên, phải có, không thiên kiến và mặc cảm phạm tội, cả có khi ngây thơ trong tìm kiếm. Tự nhiên và chấp nhận trò chơi trăm phần trăm, với tấm thân sẵn đó, như đó!
Nói chung, phụ nữ chống văn minh, văn hóa dựa trên quyền hành đàn ông, phụ quyền, chống Tây phương kỹ nghệ định nghĩa đàn ông ở khả năng sáng tạo và chế biến sự vật. Phụ nữ chống văn chương như một nền chế, họ thích mặt trận "ngôn ngữ" hơn, thích phổ dương liên hệ trực tiếp với chữ viết cũng như với thân xác. Phụ nữ Mỹ châu đòi quyền lợi, họ dấn thân, xuống đường, lập nghiệp đoàn,... ít cho người đọc thấy dây dưa tình cảm. Ngôn ngữ không quan trọng, cái quan trọng là chống đàn áp, đô hộ của đàn ông . Trong khi đó ở Pháp và Âu châu, ngôn ngữ được đặt lại vị trí, thẩm mỹ học, một loại phản văn hóa đặt nền trên sự đè nén. Người viết nữ xây lại nội dung, cấu trúc lại những ngõ thoát, lối ra của ngôn ngữ. Sướng khoái thể chất đi với sướng khoái lời nói, chữ dùng. Thêm vào, những khuynh hướng mới về tiểu thuyết như hậu thuộc địa (postcolonial) là một loại diễn văn muốn thay thế những quan điểm đã được thiết lập trước về lệ thuộc và vâng lời bằng quan điểm hoàn toàn ngược lại, đề cao tự lập cá nhân và tự chủ. Xây dựng lại nội dung bằng đường thoát ngôn ngữ. Lạc thú thân xác đi liền với lạc thú ngôn ngữ, đến sau lạc thú ngôn ngữ. Người nam đi vào văn để tìm hoặc nếu đã thấy, trình bày lý thuyết, triết lý hay một "nghiệp", người nữ thì đến để thực hiện cái tôi, xác định cái tôi, cá nhân. Và họ đi vào tình dục. Sex được dịch là hữu-tính (tự điển Thanh Nghị), làm như không sex là số không to tướng! Đưa đến những cuộc sống ...ngoại lệ: đàn bà không sanh con, đồng tính luyến ái, lãnh cảm (Jane Austen, chị em Emily và Charlotte Bronte, Simone de Beauvoir, George Eliot, ...). Sống đời thế tục, tận hưởng phút giây, lãng mạn tình yêu đến tự do tình dục!
Người nữ sống đời hải ngoại hội nhập, choáng ngợp giữa những lạ-lẫm (exotic), đầy ắp và choáng ngợp trước tự do ở xứ người, tự do tuyệt đối và cá nhân chủ nghĩa, từ vật chất, thân xác, tình cảm,.. Có thể họ muốn giả vờ, trưởng giả , nhưng lại không giữ lề, thích tự do ngoại tình,.. Có người đi đến thái độ hài hước đen, ngầm nữ quyền. Người nữ những thập niên cuối thế kỷ XX choáng ngợp tự do, tình dục, đi xa hơn cô giáo Hoàng. Cái giường hết còn là ám ảnh chính như với Nguyễn Thị Thuỵ Vũ, Túy Hồng (từng viết "cái giường là đồ vật tội lỗi nhất trong những đồ vật" trong Vết Thương Dậy Thì),... Sau chiến tranh, nhân vật Túy Hòng sống trong chia cách và đời sống mới, trở nên yếu ớt, căng thẳng, vô định trước tương lai, lại tăng dâm tính, tình dục trở nên cách hành xử hoặc tác động xác thân lên trên tình cảm. Đây là một hiện tượng từng chứng minh với những biến động lớn như vụ không tặc Tháp Đôi ở New York ngày 11-9-01. Để xóa căng thẳng và tái xác nhận đời đáng sống, cái sống đáng trân trọng, một tâm trạng sống sót, cho nên buông thả tình dục, với cả người mới quen. Cứ Tay Che Thời Tiết "có thể chờ chồng nhưng tôi không thể thủ tiết được" cho nên cứ "xoạc mông xoãi đùi đu bay lẫn lộn trong bát ngát tự do rì chặt chữ tình làm cứu cánh" (tr. 73), cuối cùng mới thấy chỉ là ảo tưởng, lãng mạn. Ảo mộng vun trồng vẫn hóa ra mộng ảo, con người không dễ thay đổi lớn !
Nhân vật Mưa của Lệ Hằng trong Bên Kia Là Núi (1998) một khi ra được ốc vỏ văn hóa cũ (cô giáo, vai chị), đã lồng lộn thụ hưởng đời sống tình dục hơn cả người tình Phi châu Saba của Hãn. "... Cô bỗng khùng lên, cánh đồng khô khát của cô ghì lấy Hãn. Chưa một lần nào, Hãn thấy cô tả xông hữu đột truy bức thân thể Hãn dữ dằn hơn. Gầm gừ mê mỏi, hào hển đứt hơi. Cuồng lên vì lạc thú, cô làm Hãn kích ngất vì những rung cảm khốc liệt của cô... "(13).
Như vậy, nay chính thân xác là đối tượng, là đề tài chính! Với Trân Sa và một vài nhà văn nữ, tôn giáo ngưng lại ở chỗ tình dục; tình dục không những tháo gỡ cấm đoán mà còn vô hiệu hóa cấm đoán. Tình yêu khác tình dục, cái sau cũng làm ... tình nhưng hết mình, chính xác, một chuyện. Làm tình phức tạp hơn, đòi hỏi con tim, lời nói, cử chỉ, cả văn hóa. Làm tình, trò chơi thân xác, tựu trung là một khoảng trống cần thiết, một chiến thuật đầy đủ, cũng là cách thức sống, một cách biểu tỏ, một phương tiện hiện hữu thể chất, máy móc - là những thứ nếu thiếu, thì cái còn lại chỉ là phó sản, hiện tượng phụ. Làm tình cũng là một cách học hỏi bằng tự xóa. Tình dục trước khi là hiện tượng xã hội, văn hóa, đã là thân xác.
Khi tay anh xoa xoa xà phòng vào “nơi ấy”,
nắng bên ngoài rực sáng thêm một chút nữa.
“Nơi ấy” giờ thì mềm xìu, bé tí, bình thường như vành tai, chóp mũi, khuỷu tay, đầu gối, gót chân… như bất cứ phần nào trên thân thể anh.
Trước đấy một giờ. Nó cương cứng, nóng hổi, hùng hổ
trong miệng em, giữa rãnh ngực em, trên mông em. Nó cố đâm thấu-xuyên-sâu-qua bao lớp da thịt để vào trong em. (Là nó, chẳng thuộc về ai).
(Lê Thị Thấm Vân, Căn Phòng 2.2 Âm Thanh Sóng) (14).
"... Suốt một buổi chiều / Yêu dọc từ dưới lên - và xuống / Từng lằn chỉ - khớp - từng phân li thịt da / Nhập một / ấm áp - rịn - ướt / Suốt một buổi chiều / Không ngớt / Nghiêng - xoay - cong - mềm mại / Cọ - trườn - lướt / Sau - trước / Những điệu thuần nữ / Có khi là một / Hai - ba - hoặc cả năm / Yêu khắp cùng lòng kia ưỡn ngã xuống như sóng / Và lượn úp lên - uốn chụp xuống / Đan khít mười / Không rời / Không một kẻ hở / Tuần tự - tất cả / Ngoài và trong - không một bỏ trống / Gò và trũng / Suốt một buổi chiều / Hai bàn tay lần đầu yêu nhau / Suốt buổi chiều / Trong căn phòng..." (Trân Sa, Động Tác Yêu) (15).
Thế giới ẩm ướt, trò tình dục không được một số nhà văn nữ Lệ Hằng, Trần Thị NgH, Trân Sa, ... coi là cấm đoán hay lớp áo mỏng che. Broadway ở New York còn đưa lên sân khấu vở Độc thoại của cái l. (Vagina Monologues) của Eve Ensler trong ngày được gọi là V-day, địa đàng trở nên ẩm ướt mà đối với một số nhà văn nữ, cái ẩm ướt cũng là căn cước của họ. Với họ, tình dục là tự nhiên và những hành cử tình dục cũng như bộ phận sinh dục bị bêu xấu hay không nói đến chắc là để làm dơ, làm xấu, làm mờ phai chính hành cử đó, đối tượng đó. Nên họ làm ngược lại!
Dương Như Nguyện đưa vào đời sống hội nhập Mùi Hương Quế (2000), một mùi thơm của tiềm thức và một thân xác của-lạ để đối phó với thực tại vật chất của xứ người. Một cái nhìn xuyên suốt tâm thức văn hóa gốc khi sống đời hội nhập và thành công ở xứ người. Nhân vật Trâm Kha chẳng hạn hội nhập nhanh: "Trong giai đoạn đầu, tôi tình nguyện ngủ với hắn" (tr. 138), chạy theo tình dục như lâm trận tranh đấu cho nữ quyền, và trên ngay phần đất cơ thể chính mình. Tâm thức về cái thân phận nữ phái, qua những nhân vật thân thích gia đình của bà. Qua nhiều thế hệ: bà ngoại, Tĩnh Tâm, ... Cũng là mùi thơm của oan khiên, tiếc nuối. Trong một truyện ngắn, Như Mưa, Nắng...?, Nguyễn Thị Hoàng Bắc kể một chuyện tình đồng tính giữa hai người phụ nữ như một chớm nở pha lẫn nghi ngờ:
"Tôi không lesbian, nhưng yêu (...)
Tôi run động ngẩn ngườị Ai là tôi, khi tôi/ai thích chuyện này, khi tôi/ai mê cái khác? Tôi/ai biết quá đại khái về ai/tôỉ Như mưa nằng tầm phàỏ" (16).
Rồi những khám phá như S. Hite về điểm cực khoái của thân xác phụ nữ năm 1976, người nữ hết phải chờ, hết cần được cho; muốn là tìm cho được, hối thức, vồ vập... Người nữ vô tình đánh mất tình cảm đã đành mà mất luôn "ngây thơ tình dục", gia vị thiết yếu cho đam mê, tình yêu, gây quyến rủ. Người viết nữ giới từ ý muốn làm chủ văn chương về phái nữ, đã đi đến chổ làm chủ ảo mộng cho người nữ bởi người nữ. Naomi Worlf, một người tranh đấu nữ quyền Hoa Kỳ nổi tiếng, sau những đòi hỏi triệt để đã quay 180 độ, trở về tự nhiên, chủ trương "nữ quyền làm mẹ" (motherhood feminism) trong mấy cuốn như Fire with Fire, Misconceptions đòi hỏi quyền làm việc đồng thời làm mẹ. Vì hai hình ảnh chính của văn chương nữ phải là người mẹ và người nữ, nên thành đề tài, lý do và thể loại xử dụng và ngay cả việc tận dụng ngôn ngữ.
Trên đà đấu tranh bình quyền, thuốc ngừa thai, của thập niên 1960, người phụ nữ đã bớt hoặc không còn làm mẹ. Thuốc ngừa thai khiến người phụ nữ không phải mặc cảm tội lỗi ! Ngay có con đã có cách cấy giống khỏi cần yếu tố dương, nghĩa là xa hơn thái độ của nhân vật của Trần Thị Ng.H. trong truyện Sinh Nhật (17) định nghĩa một người mẹ/người nữ mới, một mình nuôi con, không cứ phải qua định chế hôn nhân. Và rồi bộ phận có tuyệt vời đến mấy cũng chỉ là một ... cơ quan, cái thiếu vẫn là liên hệ, luật âm dương kinh dịch từng nói đến! Cách mạng tình dục đã là hậu quả của cách mạng nữ quyền, nhưng đã đảo lộn mục đích-đối tượng. Thập niên 1960 họ đòi trả thân xác cho họ nhưng khi thân xác trở thành chính cái Tôi thì thân xác lại chiếm nhiều chỗ quá. Nhục dục từ chỗ bị dồn nén, trở thành khuôn mẫu, khoái lạc, là cấm kỵ trở thành totem (tổ vật), không sanh đẻ, trục trặc nhục dục (libido), cái giống trở nên buồn thiu sau khi tả tơi máy móc hóa, tầm thường hóa (chương trình truyền hình Sex and the City ở Mỹ). Thân xác không tình yêu, từ đối tượng trở nên chủ thể của nhục dục!
Chống đề cao giống mạnh, nam quyền macho, phong trào nữ nêu khẩu hiệu "đàn bà là tương lai nhân loại, thế kỷ XXI là thế kỷ đàn bà". Mỗi giống tính không thể rút vào vỏ cô đơn tình dục, trí thức và luân lý, cuộc sống còn gì thú vị và tương lai! Nay có thể nói người nữ còn lại bốn ám ảnh chính: tình dục, sợ hãi, bạo lực và khinh rẽ. Nữ quyền đòi hỏi đến một lúc nào đó sẽ rơi vào chán nản, tình dục cũng thành buồn thiu. Saba, nhân vật trong Bên Kia Là Núi của Lệ Hằng, sống buông thả và bạo động tình dục như để chứng minh nữ quyền, cuối cùng đâm ra sợ cả tự do tình dục. Chưa kể đến hiện tượng tiểu thuyết dành cho độc giả phụ nữ, có khuynh hướng xem như những tranh đấu nữ quyền đã qua, nay đưa ra những hoàn cảnh nhân vật nữ bị tiếng sét ái tình hoặc tô điểm một hình ảnh "hoàng tử của lòng em", mà nếu gặp, người vai nữ dám bỏ hết tương lai sự nghiệp để đi theo - như trước kia, nhưng khác là nay do nhà văn nữ viết ra! Và cứ thế, những trào lưu tiếp nối, hết nữ-lưu luận sẽ thuyết lý gì khác?
Không đóng vai luân lý, đạo đức nhưng đối với văn chương dục tính, thiển nghĩ tính văn chương sẽ không ở lâu với những quẩn quanh tình dục không lối thoát. Không bắt buộc phải hướng thượng, nhưng nếu nhân vật, hành động và nội dung của văn chương cứ bị tình dục, thân xác giam hãm tù đày, định nghĩa về văn chương hình như đã bị hãm hiếp một cách tội nghiệp vậy! Đây là chỗ khép lại của nhiều thập niên thử nghiệm kể từ khi nhóm Sáng-Tạo đề nghị buông thả và khai phá tình dục trong văn chương. Cuối cùng, cũng cần nói thêm là dục tính trong văn chương phải chăng một phần do ở người đọc - một thứ "cây sậy biết suy nghĩ"; người đọc trở thành đồng lõa với loại văn chương dục tính ?./.
- - - - - - - - -
Chú-thích:
1. Nhất Linh & Khái Hưng. Anh Phải Sống (Sài Gòn : Đời Nay, 1961?), tr. 19.
2. Phùng Nguyễn. Tháp Ký Ức (Westminster CA: Văn, 1998), tr. 97.
3. Sáng Tạo b.m., 5, 11-1960, tr. 97-102.
4. Sáng-Tạo b.m., 1, 7-1960, tr. 26-32.
5. Sài Gòn : Đức Lưu Phương, 1931. Trích theo bản chụp lại.
6. Văn học CA, 124, 8-1996.
7. L’Amant. Paris : Minuit, 1984.
8. "Miền Chân Trời". Văn (SG), 31, 1965, tr. 76.
9. Sài Gòn : Gió, 1973, tr. 276-277.
10. Lệ Hằng. Sóc Nâu, XT tb, tr. 242.
11. Sài Gòn : Kim Anh, 1967, tr. 87.
12. Trần Thị Ng.H. Lạc Đạn Và Mười Truyện Ngắn (Toronto: Thời Mới, 2000), Tr. 67, 43 và 47.
13. San Francisco CA: Mõ Làng, 1998, tr. 183.
14. Tạp chí Thơ CA, số mùa đông 1999.
15. Nhánh Nhỏ (www.nhanhnho.org), 27, 1-2001.
16. Nguyễn Thị Hoàng Bắc. "Như Mưa, Nắng...?". Việt, 6, 2000, tr. 181&182.
17. Một truyện Trần Thị Ng.H. khác, viết năm 1998, in trong Lạc Đạn... Sđd.
NGUYỄN VY KHANH

Thơ Trần Quang Quý




Nhà thơ Trần Quang Quý quê Thanh Thủy, Phú Thọ. Hiện công tác tại Nxb. Hội Nhà văn.

Tác phẩm chính: Viết tặng em trong ngôi nhà chật(thơ, Nxb. Hội Nhà văn, 1990); Mắt thắm (thơ, Nxb. Lao động, 1993), Giấc mơ hình chiếc thớt (thơ, Nxb. Hội Nhà văn, 2003), Siêu thị mặt (thơ, Nxb. Hội Nhà văn, 2006), Cánh đồng người (thơ song ngữ Việt – Anh, Nxb. Hội Nhà văn, 2010), Bờ sông trăng sáng (truyện ngắn, Nxb. Hội Nhà văn, 2010), Màu tự do của đất(thơ, Nxb. Hội Nhà văn, 2012)

Giải thưởng: Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2004 cho tập thơ Giấc mơ hình chiếc thớt; Giải thưởng Bông lúa vàng, 2011 (viết về nông nghiệp, nông thôn, nông dân); Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012 cho tập thơ Màu tự do của đất và nhiều giải văn học khác của Văn nghệ quân đội, Văn nghệ, Người Hà Nội, Quân đội nhân dân….






Từ đất


Tôi đọc trên đất những bước đi ngắn, những bước đi dài
những khi bước thấp, những khi bước cao
bài học ban đầu
thuở còn lẫm chẫm
trang sách nhân gian đất bày vô tận

Tôi đọc trên đất những mùa hạt mẩy, những vị gừng cay
những cơn gió lép, những hạt sương gầy
những vết chân hanh, ngày mưa tướp mặt
tôi đọc trên đất những lời tiền nhân

Tôi biết hành trình có con đường thẳng, lại có khúc vòng
học những bước lùi để thêm bước tiến
học cách nhìn đêm để tỏ mặt ngày
bao nhiêu vực thẳm, cạm bẫy trên đường
cũng bao nhiêu cách đất làm mồ chôn

Một đời khát vọng
tìm gió
theo mây
mới hay mọi điều học ngay từ đất…



Đồng loại


Trong mắt rắn, dĩ nhiên rồi ta cũng loài rắn
ngôn ngữ của trườn bò
bóng tối phục binh trong bình minh nọc độc
quen lẩn khuất rập rình và tiến thân lươn lẹo
những già cỗi cũ mèm rồi có thể lột da
chỉ tính rắn không lột được cùng lốt rắn

Trong mắt bầy khuyển kia, làm sao khác ta cũng thành đồng loại
những cơn tru hoang (tiếng người hóa dại)
ngày thấp thỏm quạ kêu, đêm chập chờn cú rúc
những con mắt gài quanh bờ giậu
lách nhách cắn bóng đêm hay tự sủa phận mình
có cái chết trong bầm dập vết răng đồng loại
có bước chân côi cút lẻ bầy

Trong mắt chim ta cũng loài chim
cũng giống chim đi trên hai chân, nhưng khác chim người lại biết bò
và (nói nhỏ) thua chim không thể bay lên
suốt đời níu nhau mặt đất

Ta là ai? Câu hỏi đã xưa rồi
và điều đó chỉ riêng ta biết
ta là cả muôn loài, duy một điều khác biệt
ta vẫn phải suốt đời mang gương mặt là ta!




Có những điều giản dị



Được sống thật không dễ
nói thật dễ gì hơn?

Tôi lột vỏ ngôn ngữ
cùng đồng bào từ vựng của tôi tự do ùa xuống mặt đường
những bước chân ánh sáng
có con đường mở cả chân trời
có con đường chỉ quanh quẩn chân người

Phóng túng gì bằng được giải phóng lời khỏi những mật ngữ
hứng khởi gì bằng bóc vỏ tự do
nghe trái tim cuộn chảy dòng máu nhân sinh
nghe sự thật bong ra khỏi vai diễn
nghe cội rễ tự nhổ khỏi đất cằn những ngày nhạt

Ban mai
ba thằng bạn huyên thuyên cà phê sáng
quên bình minh biển lên cởi ngực Hải Phòng




Tiếng vọng những mảnh vỡ



Dọc con đường bờ sông nắng chảy
những giọt thời gian chảy
em và tôi đi nhặt những mảnh vỡ một cách thích thú
nhặt ánh mắt tinh nghịch, những đam mê chưa chịu già

Một viên gạch cổ, một mảnh gốm trồi lên từ vết xưa
những mảnh vỡ ngủ từ ngàn năm bóng đêm lòng đất
ngủ trong chính sự cách điệu những hoa văn tài hoa
đâu mảnh vỡ tâm hồn
đâu mảnh vỡ trái tim
những mảnh vỡ quẫy lên tiềm thức

Trên vết lở sông Đà cả những khúc xương trắng, những đám vỏ ốc trắng
gió trầm tích thổi về sự thịnh trị nền văn minh nông nghiệp
than lửa của một ngày
một ngày chói sáng nhận thức
một ngày mảnh vỡ kể những câu chuyện dọc dòng sông vĩ đại này
những câu chuyện được chôn vào quá vãng
hát lên bằng giọng hát thật của mình

Em ơi, sông vẫn chảy kìa, gió ngàn xưa vẫn chảy
hay em, ngọn gió lành từ ngàn xưa gửi lại
dắt tôi đi trong kì vĩ và vẻ đẹp huyền bí những mảnh vỡ
những mảnh vỡ mọc cánh
nâng tôi lên từ chính những khía vỡ nham nhở và sắc cạnh của nó

Tôi đang học cách trò chuyện từ chiều vô thức
và cả chiều linh giác, chiều em
dọc con đường cổ đại
dòng sông mẹ sinh tôi

Cộng đồng Người Kinh ở Trung Quốc


Đối với chúng ta, rất ít người biết có một cộng đồng rất nhỏ (khoảng 22,000) người Jing (người Kinh) sống ở Tam Đảo (Quảng Tây, Trung Quốc) là một “khám phá” gây nhiều cảm xúc. Rồi lúc được biết họ đã rời xa Việt Nam 500 năm mà vẫn cố gắng duy trì bản sắc văn hóa dân tộc Việt trước sức đồng hóa rất mạnh của TQ, xem những điệu múa, đánh đàn bầu, nghe họ hát tiếng Việt làm ta xúc động…


Vào khoảng thế kỷ 16, có một số người Việt di cư lên phía bắc lập nghiệp ở vùng Trường Bình – Bạch Long. Người Kinh tại đây là một trong số 56 dân tộc được công nhận tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

Người Kinh ở Trung Quốc mặc áo dài truyền thống

  • Người Kinh ở Trung Quốc mặc áo dài truyền thống
Thời gian trôi qua, nhóm người Việt này đã bị ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa. Tuy vậy họ vẫn nói tiếng Việt. Họ sinh sống chủ yếu trên 3 đảo (Vạn Vĩ, Sơn Tâm và Vu Đầu), gọi chung là Kinh tộc Tam Đảo, thuộc thị xã Đông Hưng, khu tự trị người Choang Quảng Tây (cách cửa khẩu Móng Cái của Việt Nam chừng 25 km) nhưng tiếng Việt của họ đã pha trộn nhiều với tiếng Hoa kèm với nhiều từ cổ của tiếng Việt.
Họ được coi là cộng đồng người Kinh chủ yếu và còn mang nhiều bản sắc văn hóa Việt Nam nhất tại Trung Quốc với tư cách là một trong 56 dân tộc của đất nước này (không bao gồm cộng đồng người Việt mang quốc tịch Việt Nam hiện đang học tập và làm việc tại Trung Quốc)
Tại Quảng Tây nói riêng và Trung Quốc nói chung, tên gọi “Kinh tộc Tam Đảo”, có nghĩa là “Ba hòn đảo của người Kinh”, hiện vẫn được dùng tương đối phổ biến để chỉ cộng đồng người Kinh này cũng như để chỉ địa bàn sinh sống tập trung của họ tại ba hòn đảo nói trên (nay đã trở thành bán đảo do phù sa bồi lấp và nhờ chính quyền cùng nhân dân địa phương đã đắp đê, làm đường nối các đảo với đất liền).

Vị trí Tam Đảo mà người Kinh sinh sống
  • Vị trí Tam Đảo mà người Kinh sinh sống
Với lịch sử định cư trải qua hơn 500 năm, hầu hết cư dân người Kinh ở khu vực Tam Đảo (Vạn Vĩ, Vu Ðầu và Sơn Tâm) cũng như một vài nơi khác ở Quảng Tây (chủ yếu tập trung tại Đông Hưng) đều có chung nguồn gốc là người Đồ Sơn (Hải Phòng, Việt Nam), còn lại số ít người Kinh trong đó có nguồn gốc từ một vài địa phương ven biển của Việt Nam di cư đến. Theo điều tra dân số tại Trung Quốc vào năm 2000, dân số người Kinh riêng tại khu vực nói trên là khoảng hơn 18.000 người trong tổng số trên dưới 22.000 người dân tộc Kinh trên toàn lãnh thổ Trung Quốc, một con số được coi là rất khiêm tốn nếu so với nhiều dân tộc khác đang cùng sinh sống trên đất nước đông dân nhất thế giới này.
Người Kinh đánh trống trong một lễ hội

  • Người Kinh đánh trống trong một lễ hội
Dòng họ Tô là một dòng họ lớn và được xem là có ảnh hưởng nhất trong cộng đồng các dòng họ người dân tộc Kinh tại Quảng Tây nói riêng và Trung Quốc nói chung. Họ Tô là một trong 12 dòng họ người Kinh hay còn gọi là người Việt gốc Đồ Sơn (Hải Phòng, Việt Nam). Nhiều người trong họ Tô đã có công nghiên cứu, bảo tồn và quảng bá các giá trị đặc sắc của văn hóa truyền thống của người Kinh đồng thời cũng là cội nguồn của văn hóa Việt Nam đến nhiều nơi trên đất nước Trung Quốc rộng lớn dù cho dân số của người Kinh tại Trung Quốc là rất khiêm tốn nếu so với nhiều cộng đồng dân tộc khác của đất nước này. Trải qua hơn 500 năm định cư trên đất Trung Quốc, hiện dòng họ Tô cũng như một số dòng họ người Kinh khác không chỉ tập trung sinh sống tại khu vực Tam Đảo (Vạn Vĩ, Vu Đầu và Sơn Tâm) mà đã phân tán ra nhiều địa bàn khác quanh khu Phòng Thành Cảng của tỉnh Quảng Tây.
Người Kinh đánh trống trong một lễ hội

  • Người Kinh đánh trống trong một lễ hội

Ngôn ngữ

Người Kinh tam đảo vốn nói tiếng Kinh hay tiếng Việt và sử dụng phổ biến chữ Nôm, nhưng từ lâu họ cũng nói tiếng địa phương là tiếng Quảng Đông và sử dụng Hán tự. Tuy nhiên, về ngữ pháp, người Kinh không nói ngược như dân Hán mà vẫn nói xuôi theo lối giao tiếp của người Việt.


Phong tục

Y phục của người Kinh đơn giản và thực tế. Phụ nữ ăn mặc theo cổ truyền với những chiếc áo ngắn, không cổ, chẽn bó vào thân mình, cài nút phía trước, mặc những tấm quần rộng nhuộm đen hay nâu. Khi ra ngoài, phụ nữ thường mặc thêm áo dài tay chật nhuộm màu sắc nhạt hơn. Họ thích đeo khuyên tai, tóc rẽ ngôi ở giữa dùng vải đen hay khăn đen bọc lấy và vấn xung quanh đầu. Dân quê còn đi chân đất. Còn đàn ông thì thường mặc áo cộc để làm việc, cổ quấn khăn, nhưng khi có hội hè thì họ mặc những áo dài chùng tới gối, hai vạt trước sau đối nhau và có giải quấn ở eo lưng.
Ngày nay, người Kinh ăn mặc giống như người Hán láng giềng, mặc dù còn một số người già còn giữ lối ăn mặc theo cổ tục và một thiểu số phụ nữ trẻ còn vấn tóc và nhuộm răng đen vì vẫn còn tục ăn trầu, còn đàn ông thì ăn mặc thực tế theo hiện đại như những dân lân cận khác.
Phong tục hôn nhân thì một vợ, một chồng, thuở trước thì thường do cha mẹ hai bên xếp đặt bao biện. Trai gái cùng họ và anh em cô cậu cấm lấy nhau.

Dân tộc Kinh tại Trung Quốc

  • Dân tộc Kinh tại Trung Quốc

Ẩm thực

Về ẩm thực, người Kinh ở Tam Đảo ăn cơm là chính, ngoài ra còn ăn khoai sắn, khoai sọ, thích ăn các loài hải sản như cá, tôm, cua. Đặc biệt, họ làm nước mắm từ cá biển để chấm và nêm thức ăn. Những món ăn ưa thích của họ là bánh đa làm bằng bột gạo có rắc vừng nướng trên than hồng mà sách Trung Quốc gọi là phong xuy hỉ (bánh phồng do gió thổi) và bún riêu, bún ốc sách Hán tự ghi là hỉ ty tức là sợi bún nấu với canh cua và ốc.


Tín ngưỡng, tôn giáo


Tôn giáo chủ yếu là Phật giáo đại thừa và Đạo giáo. Ngoài ra họ còn duy trì tục cúng thần linh và tổ tiê
n.


Người Kinh trong một lễ hội

  • Người Kinh trong một lễ hội

Sinh hoạt văn hóa

Họ ưa thích lối hát đối đáp giao duyên (antiphonal songs) nghe du dương và trữ tình, kiểu như hát Quan họ hay hát đúm quen thuộc ở miền Bắc Việt Nam bây giờ. Lối hát đúm hát đối này thường được tổ chức vào ngày Tết, ngày Hội. Nhạc cụ cổ truyền của người Kinh gồm có đàn nhị (two-stringed fiddle), sáo trúc, trống, cồng và đàn bầu (độc huyền cầm) là một nhạc khí chỉ riêng Kinh tộc có mà thôi. Họ có một kho tàng văn học dân gian truyền khẩu phong phú với ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích… Những điệu múa ưa chuộng của người Kinh là múa đèn, múa gậy sặc sỡ nhiều màu, múa rồng và múa y phục thêu thùa.

Y phục và nhạc cụ của người Kinh tại Quảng Tây

  • Y phục và nhạc cụ của người Kinh tại Quảng Tây

Đời sống kinh tế

Người Kinh tại khu vực Tam đảo hoạt động chủ yếu trong các ngành như ngư nghiệp (đánh bắt, nuôi trồng hải sản, nông nghiệp, dịch vụ du lịch. Ngoài ra, một bộ phận dân cư hoạt động trong lĩnh vực du lịch, dịch vụ.
Trong 700 loại cá đánh ở đây thì hơn 200 loại có giá trị kinh tế cao và thu hoạch nhiều. Ngọc trai, cá ngựa và sea otters sinh sản lắm ở đây và thường quí về phương diện dược liệu. Nước biển của vịnh Bắc Bộ tốt cho sự làm muối. Mùa màng chính ở đây là gạo, khoai lang, đậu phọng, khoai sọ, và kê. Những loại trái cây bán nhiệt đới như đu đủ, chuối, nhãn thì rất nhiều. Những khoáng sản dưới đất gồm sắt, monazite, titanium, magnetite và silica. Những giải rộng của rừng tràm mọc trên vùng nước lợ là một nguồn lợi phong phú về chất tannin dùng làm nguyên liệu tất yếu cho kỹ nghệ thuộc da.
Người Việt Nam cho dù ở đâu vẫn là người Việt Nam!


Nguồn :
http://lyhoclythuyet.blogspot.com/2015/07/oi-voi-chung-ta-rat-it-nguoi-biet-co.html?view=magazine

bụi của giấc mơ





Giấc mơ tôi đày đọa tôi trong những âm hưởng của sự tuyệt đối. tuyệt đối yêu tuyệt đối ghét tuyệt đối vui buồn. những sự tuyệt đối leo thang trong nấc tình cảm đau đáu nỗi niềm. là oan khiên hay là chung thân vĩnh viễn?

giấc mơ tôi xét nét tôi trong mỗi đêm vừa đến. đêm oan nghiệt những đợi chờ lúc nắng lên, lúc đêm tan dù ngày là mỏi mệt. giấc mơ đánh tráo bằng những tang thương thành hình trong cơn hoang tưởng âm u.

giấc mơ tôi bày những đốm sáng trên bàn tiệc cuộc đời. nhữ lộng tôi trong sự hợp nhất trá hình của đau khổ. đánh mất tôi sau những liên kết chứng thực bằng văn tự. buộc tôi đánh mất chính tôi trong trong sự lầm lạc mang tên gọi bao dung

giấc mơ tôi giục tôi lao đao trong trầm luân của ý nghĩa yêu thương. sự ích kỷ được khoác tấm áo liệm là từ hi sinh huyền thoại. lẫy động tôi, dụ dỗ tôi bằng ảo tưởng . giam tôi suốt đời bằng hố thẳm thâm căn

giấc mơ tôi buộc ràng tôi bằng những ăn năn. sau tất cả những vượt thoát chỉ biểu dương bằng hối lỗi, ai bỏ thân chịu khổ nạn bằng thập giá? sau rốt cũng chính là tôi le lói sáng cho mình trong lúc di quan


Phương Uy

Sử tích câu thành ngữ “Hồ trung thiên địa”



Tác giả: Michael Anderson - Sound of Hope | Dịch giả: Sơn Hà



Thế giới trong một chiếc bình (Ảnh: TalesOfWisdom)

Câu nói “Hồ trung thiên địa” (Thế giới trong một chiếc bình) là một thành ngữ Trung Quốc bắt nguồn từ câu chuyện kể về một người trông coi đạo quán Vân Đài tên là Trương Thân từ thời Đông Hán, người luôn mang theo mình một bình rượu, và gọi thế giới bên trong chiếc bình là “Hồ Thiên”. Bởi thế, người ta bèn gọi ông là “Hồ Công”.

Cách thành phố Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên khoảng ba trăm dặm, có ngọn núi gọi là Vân Đài, vốn là một mảnh đất thiêng liêng của Đạo giáo. Theo các ghi chép của Đạo giáo, Trương Đạo Lăng, người được tôn là Chính Thiên Nhất Sư, đã dẫn 370 đệ tử lên núi Vân Đài tu luyện. Không lâu sau, thấy đạo quán không có người coi sóc, ông bèn sai đệ tử của mình là Trương Thân làm công việc đó.

Dưới sự trông nom cẩn thận của Trương Thân, đạo quán ngày càng trở nên hưng thịnh. Bấy giờ có một người tên là Thi Tồn hết lòng mong mỏi muốn tu luyện đắc Đạo thành tiên. Anh ta nghe nói Trương Đạo Lăng cử một vị thần tiên tên là Hồ Công làm người coi sóc đạo quán Vân Đài, bèn lặn lội đến đó học Đạo từ Hồ Công. Tương truyền có một câu chuyện đặc biệt đằng sau cái tên của ông.

Người ta thấy Trương Thân lúc nào cũng mang theo bên mình một bình rượu. Hễ ông niệm thần chú là bên trong chiếc bình liền hiện ra một thế giới có mặt trời, mặt trăng, các vì sao, bầu trời trong xanh, trái đất, những ngọn núi, những cánh rừng, đồng cỏ, hoa thơm, đền đài, lầu các,… Kỳ bí hơn là cứ đến ban đêm, Trương Thân lại đặt chiếc bình trên mặt đất, sau khi niệm thần chú liền chui vào trong chiếc bình để tận hưởng thế giới thần tiên trong đó.


Ông gọi thế giới bên trong chiếc bình là “Hồ Thiên”. Bởi vậy, người ta mới gọi ông là “Hồ Công”. Trong mấy nghìn năm lịch sử Trung Hoa, Khổng giáo, Phật giáo và Đạo giáo đã bồi đắp nên một nền văn hoá đầy màu sắc cho đất nước Trung Quốc, cũng đã lưu truyền lại biết bao nhiêu câu chuyện tu luyện. Những người không tin vào thần thánh có thể nghĩ rằng những điều này chỉ là cổ tích thần thoại, nhưng chúng thực sự là những chuyện có thật trong lịch sử. Con người hiện đại dùng câu thành ngữ “Hồ trung thiên địa” để miêu tả tiên cảnh trong Đạo giáo, hoặc là một nơi siêu xuất khỏi thế gian phức tạp này. Nếu như chúng ta có thể thay đổi quan niệm thông thường đã cứng nhắc, thì rất có thể sẽ tìm thấy chính mình ở trong một thế giới khác, giống như là “Hồ trung thiên địa” vậy.