Thứ Ba, 14 tháng 7, 2015

Quách Mạt Nhược – Người đặt nền cho thơ hiện đại Trung Quốc




Quách Mạt Nhược là một hiện tượng phức tạp đối với giới nghiên cứu học thuật Trung Quốc. Cuộc đời ông có giai đoạn dài lừng lẫy huy hoàng với những hoạt động văn hoá và cách mạng tốt đẹp. Song có giai đoạn (thời kỳ cuối đời) do tư tưởng sùng bái cá nhân Mao Trạch Đông cực đoan dẫn đến nhiều hành vi bị xem thường về tư cách, bị đánh giá thấp ở một số tác phẩm.


Song lịch sử công bằng vẫn không quên những đóng góp của ông đối với văn hoá, văn học, những tác phẩm có ảnh hưởng vang động một thời của ông đối với phong trào cách mạng Trung Quốc. Ông là nhà thơ, nhà cổ văn, nhà viết kịch, nhà khảo cổ từng có những trước tác có giá trị lớn, từng được đánh giá cao không chỉ ở trong đất nước Trung Hoa.


Riêng về văn học, một đóng góp nổi bật của ông là ở lĩnh vực thơ ca. Ông được xem là người đặt nền vững chắc cho phong trào thơ mới của Trung Quốc.


Quách Mạt Nhược tên thật là Quách Khai Trinh, tên hiệu Đỉnh Đường, người huyện Lạc Sơn, tỉnh Tứ Xuyên. Năm 1913, ông 21 tuổi, sang du học Nhật Bản. Mới đầu học ngành y, sau chuyển sang hoạt động văn nghệ với mục đích góp phần “khơi gợi nhiệt tình cải cách xã hội” của nhân dân, trước hết là giới trí thức.


Trong thời gian này, ông có dịp tiếp xúc với các tác phẩm của Tagore, Goethe, Henrich Heine… và đặc biệt hâm mộ tinh thần khát khao lý tưởng của Tagore. Năm 1917, cuộc Cách mạng tháng Mười nổ ra, nhà thơ vốn giàu nhiệt tình xây dựng xã hội mới lập tức thiết tha hướng tới chế độ XHCN ở nước Nga Xô Viết.


Khi phong trào “Ngũ Tứ” bùng nổ, ông lại tiếp xúc với tập thơ “Lá cỏ”của nhà thơ dân chủ Mỹ Walt Whitman. Thế là ông càng cảm thấy bất bình trước sự gò bó của chế độ phong kiến và càng bức bối trước những đen tối của xã hội đương thời. Bao tình cảm chứa chất từ lâu được những vần thơ dân chủ của Whitman khơi gợi, đã bật lên và tuôn trào thành những lời thơ nóng bỏng, ca ngợi Cách mạng Tháng Mười, phê phán truyền thống lạc hậu cũ, đòi hỏi mãnh liệt sự giải phóng cá tính và hết lời ngợi ca một lý tưởng tươi sáng, cao đẹp. Tập thơ tiêu biểu của ông là “Nữ thần”, một tác phẩm bất hủ, đánh mốc giai đoạn phát triển mới của thơ ca Trung Quốc- thơ ca mới hiện đại.


Về vấn đề có phải tập “Nữ thần” của Quách Mạt Nhược là cột mốc của thơ mới hiện đại Trung Quốc hay không, từng có ý kiến tranh luận. Một số nhà nghiên cứu cho rằng Hồ Thích mới là người đầu tiên sáng tác tân thi. Quách Mạt Nhược chỉ là người tiếp tục.


Thật ra thì người khởi xướng việc làm thơ mới sớm nhất đúng là Hồ Thích.


Hồ Thích sinh năm 1891, hơn Quách Mạt Nhược một tuổi, tên thật là Hồng Tuynh tự Thích Chi, người huyện Tích Khê tỉnh An Huy. Năm 1910 sang du học Hoa Kỳ, học về nông học, triết học và văn học. Năm 1917 đạt học vị Tiến sĩ triết học rồi về nước làm giáo sư trường Đại học Bắc Kinh đồng thời biên tập tạp chí “Tân Thanh niên”. Năm 1920 xuất bản tập thơ “Thường thí tập” rất có ảnh hưởng đối với phong trào làm thơ bạch thoại.


Vậy là cả hai ông Hồ Thích và Quách Mạt Nhược đều bắt đầu làm thơ mới từ năm 1916, đến năm 1920, Hồ xuất bản “Thường thí tập”, năm 1921, Quách xuất bản tập “Nữ thần”. Nếu nói về thời gian thì khởi thuỷ của sự cách tân thơ phải là Hồ Thích.


Song, như tên gọi, “Thường thí tập” mới chỉ là tập thơ làm thử, thử làm thơ bằng bạch thoại.


Nếu nói đến cải cách thơ ca thì từ cuối thế kỷ 19 đã có một số trí thức như Lương Khải Siêu, Hoàng Tôn Hiến, Đàm Tự Đồng, Hà Tăng Hựu… đề xuất chủ trương đổi mới ngôn ngữ và nội dung thơ ca. Song do tình hình xã hội, chính trị và văn hoá đương thời có những nhân tố bất lợi nên chủ trương đó không thực hiện được. Qua 20 năm sau, đêm trước phong trào “Ngũ Tứ”, yêu cầu khách quan và điều kiện xã hội cho phép vấn đề lại được đặt ra.


Hồ Thích bức xúc với việc đưa ngôn ngữ bạch thoại vào thơ từ khi ông còn đang lưu học ở Mỹ. Sau đó, ông liên tiếp thử làm một số bài công bố trên tạp chí “Tân Thanh niên”, đến năm 1920 được tập hợp lại và làm thêm, thành tập xuất bản chính thức.


Tuy có khơi gợi được phong trào làm thơ bạch thoại, song “Thường thí tập” bị các nhà thơ chê bai nhiều, nhất là về phương diện nghệ thuật. Có ý kiến cho rằng đó chỉ là những “bài văn vần bằng bạch thoại”.


Điều này cũng không lạ, vì Hồ Thích rất nhiệt tình với việc cải cách thơ ca song ông chưa đặt nặng yêu cầu của thơ. Ông quan tâm chủ yếu đến chức năng của “bạch thoại” nên chủ trương thơ phải rõ ràng trong sáng. Ông nêu ra “Bát sự ” tức 8 điều quan trọng mà thơ phải tuân theo :


1/ Không dùng điển. 2/ Không dùng sáo ngữ cũ.3/ Không đối ngẫu. 4/ Không tránh tục ngữ.5/ Chú ý văn pháp đúng.6/ Không rên rỉ khi vô bệnh.7/ Không bắt chước cổ nhân.8/ Nói điều có thật.


Vậy là quan niệm của ông thiên nhiều về cải cách hình thức mặc dù về nội dung, thơ ca của ông cũng có đề cập đến những tư tưởng tiến bộ đương thời song chưa được sâu sắc. “Thường thí tập” của ông ra đời, được hoan nghênh song cũng bị phê phán nhiều. Vì qủa thực tập thơ chưa thành thục, chỉ là theo “bát sự ” mà ông đề ra.


Còn Quách Mạt Nhược tuy xuất bản “Nữ thần” sau 1 năm (1921), song ông đã thể hiện qua tập thơ này quan niệm của mình về thơ ca đích thực.


Ông lý giải rằng “Thơ là sự biểu hiện chân thực” “thi ý” và “thi cảnh” trong lòng người, là dòng chảy ra từ cuộc sống là giai điệu gẩy lên từ “tâm cầm”, là sự rung động của sự sống, là tiếng kêu vang của tâm hồn …”. Cho nên, làm thơ mới, ông đã nhận thức và mượn cái thân xác “thơ bạch thoại” để thể hiện tâm hồn tự do của mình, để nó bay lượn tới một cảnh giới mới”. Ông cho rằng thơ phải giàu tình cảm và giàu tưởng tượng. Ông đã kế thừa truyền thống thơ ca lãng mạn cổ điển của Trung Quốc và tiếp thu ảnh hưởng của thơ lãng mạn phương Tây nên rất chú trọng hai yếu tố này.


Từ những yêu cầu về thơ như vậy nên tập “Nữ thần” của ông vừa ra đời đã gây một tiếng vang lớn và được đón nhận nồng nhiệt. Nhiều nhà thơ và học giả ca ngợi “Nữ thần”. Tiêu biểu là Văn Nhất Đa, Văn rất khâm phục “Nữ thần”, viết liền 2 bài bình luận, xác nhận đây là hình tượng đẹp trong văn học sử, còn xem là mẫu mực học tập chủ yếu của mình khi viết “Hồng chúc ”. Phùng Chí công nhận sau khi đọc “Nữ thần” mới mở được tầm mắt về thơ. Lương Thực Thu trong khi bình luận thơ “Đông dạ” và “Thảo nhi” luôn dẫn câu thơ trong “Nữ thần”. Lưu Bán Nông cho rằng chiếc ghế đầu tiên trong phong trào thơ mới sẽ phải dành cho Quách Mạt Nhược. Ngay chính Hồ Thích khi đọc “Nữ thần” xong cũng phát biểu cảm phục, cho là tập thơ “tuyệt vời”.


“Nữ thần” đã thật sự trở thành cột mốc của dòng thơ hiện đại Trung Quốc, đã khơi gợi cả một không khí sôi nổi sáng tác thơ mới. Và nền thơ mới có vị trí vững vàng đồng thời phát triển nhanh chóng với một số lượng tác giả và tác phẩm dồi dào, đa dạng.


Vậy có thể nói Quách Mạt Nhược chính là người đặt nền cho thơ ca hiện đại Trung Quốc phát triển, và tập “Nữ thần” của ông là tác phẩm tiêu biểu đầu tiên.


“Nữ thần” gồm tất cả 56 bài thơ được Quách Mạt Nhược viết từ năm 1918 đến năm 1921. Từ một bầu nhiệt huyết sục sôi thiết tha với đất nước, khát khao tiến bộ, kế thừa những tinh hoa của văn học truyền thống, đặc biệt phát huy chủ nghĩa lãng mạn của Khuất Nguyên, LýBạch… trong văn hóa dân tộc, tiếp thu học tập tinh thần tự do dân chủ và phong cách lãng mạn của các nhà thơ lớn nước ngoài, ông đã sáng tạo những thi phẩm hiện đại hóa nhưng lại giàu màu sắc dân tộc.


Về nội dung, “Nữ thần” biểu hiện nổi bật tinh thần cách mạng hừng hực của giới trí thức tiến bộ Trung Quốc sau “Ngũ Tứ”. Thời kỳ này, hưởng ứng theo làn gió của cuộc Cách mạng Tháng Mười, đất nước Trung Quốc bắt đầu bước vào cuộc cách mạng dân chủ mới, Quách Mạt Nhược cũng như nhiều trí thức đương thời phấn khởi hy vọng vào Cách mạng Tháng Mười và hy vọng vào tương lai của cách mạng Trung Quốc. Điều kiện xã hội và không khí thời đại đã thúc đẩy phong trào “Tân văn hoá” phát triển. Ngọn cờ chống đạo đức cũ, văn hoá cũ được giương cao. Đạo đức mới, văn hoá mới được cổ xuý. Tinh thần cách mạng triệt để về mặt chính trị và văn hoá đó đã ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng của Quách Mạt Nhược. Tinh thần chống đối hiện thực đen tối và khát khao lý tưởng dân chủ cách mạng kết hợp với lòng yêu nước nồng nàn của ông đã hoà quyện thành những lời thơ thôi thúc mọi người cùng đứng dậy:


Ôi! Nữ thần !
Người hãy đi tìm những con người đầy xúc động như ta
Người hãy đi tìm những ai đang như ta cháy bỏng
Người hãy tới với những người trẻ tuổi đáng yêu
Khơi động tâm hồn họ !
Thắp sáng ngọn lửa trong tim óc họ !



Nhiều bài trong “Nữ thần” thể hiện một tình yêu sâu sắc, nồng nhiệt với Tổ quốc, quê hương. Trong “Than trong lò” ông tự ví mình là hòn than rực cháy trong lò và Tổ quốc là người tình trẻ tuổi:

Ôi, tình nhân trẻ tuổi của tôi…
Tôi đốt mình lên đến nỗi này,
Chính vì người tôi yêu dấu đắm say!


Có những bài ca ngợi cách mạng, ca ngợi quần chúng nhân dân, thể hiện nét lạc quan tươi sáng. Đặc bịêt tập thơ có nhiều bài ca ngợi thiên nhiên hoặc êm đềm trong trẻo, hoặc hùng vĩ bao la, hoặc u nhã thanh tịnh hoặc rực rỡ sinh động. Bài nào cũng toát lên hơi thở trong lành của cuộc sống hướng tới phía trước. Có thể nói nội dung tư tưởng của “Nữ thần” khác hẳn thơ của các nhà thơ trước đó.
Về nghệ thuật thì bài nào cũng rất tự nhiên vì Quách Mạt Nhược chủ trương không đẽo gọt. Ông tán thưởng câu nói của Đỗ Phủ : “Ngựa hay không cần tỉa bờm, xén lông”, cho nên thơ ông để ngôn từ theo nhịp điệu tự nhiên tuôn chảy, hoàn toàn phù hợp với tình cảm bộc lộ thoải mái và chân thật.

“Nữ thần” không chỉ kêu gọi thanh niên trí thức bây giờ đứng lên phản kháng cái cũ đen tối, chiến đấu vì lý tưởng mới mà còn bằng những hình tượng hùng vĩ, lớn lao, đựng nên mẫu mực cho thơ mới, tạo nên những thành tích cụ thể cho sự biến đổi thi pháp của thơ mới trong nền văn học cách mạng của Trung Quốc.

Tác phẩm tiêu biểu nhất trong tập thơ “Nữ thần” làbài trường thi “Phượng Hoàng niết bàn”.

Bài thơ này ra đời vào tháng 1 năm 1920, tập trung biểu hiện nhiệt tính CM sôi nổi của nhà thơ trong thời kỳ “Ngũ tứ”, khái quát được nội dung tư tưởng chính và đặc sắc nghệ thuật của toàn bộ tập thơ “Nữ thần”.

“Phượng hoàng niết bàn” (cõi niết bàn của chim Phượng hoàng) dùng đề tài thần thoại nói về chuyện “Đôi chim Phượng hoàng xếp gỗ thơm lại tự thiêu rồi lại tái sinh từ trên đống tro tàn”, thể hiện một tinh thần yêu nước mãnh liệt chống đế quốc, chống phong kiến, đồng thời thể hiện niềm kỳ vọng, tin tưởng vào sự hồi sinh, tái tạo của đất nước và nhân dân Trung Quốc.


Như một vở kịch thơ, tác phẩm gồm 5 chương: Tự khúc, Phượng ca rồi Hoàng ca, Phượng Hoàng đồng ca, Quần điểu ca, Phượng Hoàng canh sinh ca. Trong chương “Tự khúc” tức là phần mở đầu, nhà thơ miêu tả đôi chim Phượng Hoàng đang cất cao lời ca ai oán. Chúng ngậm những mảnh gỗ thơm bay lượn trên không trung, chúng chuẩn bị cho việc tự thiêu của mình :

Trên bầu trời giáp đêm ba mươi
Một đôi chim Phượng Hoàng bay lượn.


………………….


Cảnh chiều tối lạnh lẽo u ám và không khí bi tráng làm nổi bật lên tính chất cao cả và trang nghiêm của việc tự thiêu của đôi chim. Tiếp đó là ba chương : Chim Phượng ca, chim Hoàng ca, rồi Phượng Hoàng đồng ca. Chim Phượng (con trống) căm hận nguyền rủa cái chốn “lạnh như sắt nguội”, “đen tối như sơn” và “hôi tanh như máu”, lời lẽ quyết liệt tràn đầy tinh thần phủ định

Đến chương “Hoàng ca” là lời chim Hoàng (con mái) kể lể, vừa buồn thương vừa óan trách, phẫn hận cho 500 năm đầy “ô trọc”, “tủi nhục”đau đớn cho cuộc sống chỉ toàn là “khổ ải, phiền não, buồn tẻ, tối tăm”. Thế rồi Phượng và Hoàng đồng ca, quyết định tự thiêu “tất cả trong thân ta”, “tất cả ngoài thân ta” tất cả đều thiêu cho cháy hết.

Rõ ràng là sự đau đớn nguyền rủa, oán trách của đôi chim Phượng Hoàng đối với vũ trụ, với lịch sử và với chính bản thân mình đã phản ánh tinh thần thương nước mãnh liệt của nhà thơ, phản ánh yêu cầu giải phóng cá tính và thay đổi hiện thực được phong trào “Ngũ tứ” thức tỉnh và kêu gọi.

Sau khi ra sức vạch trần sự đen tối thối nát cuộc đời cũ tượng trưng cho xã hội Trung Quốc nửa thực dân nửa phong kiến đầy những giết chóc, lao tù, mồ mả, địa ngục, đau khổ và tối tăm, bẩn thỉu và tủi nhục nhà thơ đã tỏ thái độ phủ định về căn bản, không những muốn triệt để xóa bỏ mọi cái xấu của xã hội cũ mà còn muốn triệt để xóa bỏ mọi gò bó tư tưởng và mọi hành vi lạc hậu mà bản thân luôn mang sẵn trong xã hội cũ.

Đôi chim cùng hót rồi múa một cách hiên ngang và quyết liệt, sau đó tự thiêu.

Chương thứ 4 là tiếng hót của quần điểu, tức các loài chim khác : chim cú, chim diều hâu, chim vẹt, chim công, chim bồ câu … Đây là những kẻ tầm thường thậm chí nhiều kẻ xấu. Sau khi Phượng và Hoàng tự thiêu, chúng đắc ý hót lên :


Ha ha! Phượng hoàng! Phượng hoàng!
Uổng công các ngươi là linh trưởng của muôn chim
Các ngươi chết rồi ư? Chết rồi ư ?
Từ nay ta sẽ là bá vương nơi không giới.



Chúng tranh nhau làm bá vương, làm chúa tể, làm mưa làm gió trong bầu trời, song chúng ngỡ ngàng, vì Phượng Hoàng đã sống lại, Phượng và Hoàng đã tái tạo một kiếp sống mới từ trên đống tro tàn vừa tắt của ngọn lửa tự thiêu :


Sau khi tiếng gà gáy báo tin
Nước triều dâng tràn
Nước triều dâng tràn
Ánh sáng chết đã tái sinh!
Vũ trụ chết đã tái sinh!
Phượng Hoàng chết đã tái sinh!



Đôi chim Phượng Hoàng sống lại cùng hoà ca:

Chúng ta sống lại rồi!
Chúng ta sống lại rồi!


……….


Chương 5 :


Kết thúc bằng bài ca chứa chan sung sướng của đôi chim Phượng Hoàng.
Bài ca “Phượng hoàng sống lại ” là cao trào của toàn tập thơ “Nữ thần”, cũng là kết tinh của lý tưởng nhà thơ.
Ông cho rằng hình tượng Phượng Hoàng sống lại có sức mạnh thần kỳ, có thể khiến tất cả đều sống lại theo. Phượng Hoàng sống lại có sức mạnh như lửa cháy, có thể đốt cháy hết thảy, khiến tất cả đều có được hơi ấm của lửa. Phượng Hoàng sống lại rất tươi mới, trong sáng, đẹp đẽ, thơm tho, trường cửu và hài hòa, nó sẽ khiến muôn vật rồi cũng có được những tốt đẹp như vậy.

“Phượng hoàng niết bàn” ca ngợi “sự chết đi để rồi sống lại”. Nhà thơ cho rằng phải làm cho cái cũ chết hết, phải phủ định triệt để cái cũ mới có thể thay đổi được bộ mặt của đất nước, mới có thể thúc đẩy sự đổi mới của Tổ Quốc. Do đó, “Phượng hoàng niết bàn” không những có khí phách mạnh mẽ đẩy cái cũ đi đón cái mới lại mà còn có tinh thần tự đổi mới. Ông viết bài này do sức mạnh của phong trào Ngũ tứ. Ông nói : “nước Trung Quốc sau Ngũ tứ trong con mắt tôi khác nào như một cô gái xinh đẹp có chí khí tiến thủ, khác nào như người yêu của tôi vậy. Bài “Phượng hoàng niết bàn” của tôi là tượng trưng cho sự tái sinh của Trung Quốc”.

Với tất cả sự xúc cảm mãnh liệt, ông đã viết rất nhanh. Ông nói : “Lời thơ cứ tự nó trào lên chứ không phải là tôi làm thơ nữa. Cả bài “Phượng hoàng niết bàn ” tôi chỉ viết khoảng 30 phút, khi viết toàn thân run lên như bị trúng gió, răng đánh lập cập, tim đập dồn dập, nửa cuối viết lúc sắp ngủ, trùm chăn lên người mà viết”. Câu nói này cho thấy rõ cảm hứng và tài năng nghệ thuật của tác giả khi sáng tác.
“Phượng hoàng niết bàn” đã tập trung thể hiện rõ nét đặc trưng tư tưởng của tập thơ “Nữ thần” và còn xác lập địa vị của “Nữ thần” về mặt hình thức nghệ thuật, địa vị cao nhất của “nữ thần” trong nền thơ mới Trung Quốc. Nhà thơ đã vận dụng thành công thủ pháp tượng trưng, lấy đôi chim Phượng Hoàng cao qúi đẹp đẽ làm thể tượng trưng, đem lại cho truyện thần thoại truyền thuyết một sức sống mới. Sự tưởng tượng kỳ ảo, ngôn ngữ khoa trương, hơi thở thông thoáng sinh động, tiết tấu dồn dập nhộn nhịp khiến toàn bài thơ chứa chan tinh thần tự tin lạc quan.
Về thể thơ, để diễn đạt những tình cảm dâng trào trong lòng mình, nhà thơ đã hoà quyện nhuần nhuyễn những tinh túy của thể thơ tự do phương Tây với thể thơ cách luật cổ điển của Trung Quốc, tức là có những hàng dài ngắn xen nhau, đoạn dùng 4 chữ, đoạn dùng 6 chữ, rồi hơn 10 chữ, tự do, không gò bó vận luật, có chỗ đối, có chỗ hồi hoàn trở đi trở lại, thoắt giọng cảm thán, thoắt lại giọng hùng hồn, khiến nội dung và hình thức có được sự đa dạng đồng thời sự nhất trí cao.
Chính tình cảm và tài năng của Quách Mạt Nhược đã tạo dựng nên tập thơ “Nữ thần” và sau đó nhiều tập thơ khác nữa với một phong cách thơ rất mới mẻ và một tinh thần lãng mạn CM rất sôi nổi.
Tập thơ “Nữ thần” đã phản ánh sự khao khát tìm tòi con đường CM mới mẻ của những người Trung Quốc, những trí thức Trung Quốc tiên tiến đương thời. Tập thơ đã cố gắng phá vỡ sự gò bó của thể thơ cũ mà dùng thể thơ tự do để diễn đạt được phong phú và sinh động những tư tưởng tình cảm sôi động và sâu sắc. Sự ra đời của nó dù về nội dung tư tưởng hay hình thức biểu hiện cũng đều đánh dấu một bước ngoặt mới của sự phát triển thơ ca Trung Quốc : Thơ mới, thơ ca cách mạng của Trung Quốc đã có một chỗ đứng vững chắc và mở đầu cho một hướng phát triển hết sức sôi nổi và tốt đẹp.

Và Quách Mạt Nhược chính là người đã viết tác phẩm thơ mới hoàn hảo đầu tiên, ông chính là người đặt nền cho phong trào thơ mới hiện đại Trung Quốc.


Phạm Thị Hảo




PHƯỢNG HOÀNG NIẾT BÀN





Tự khúc:



Trên bầu trời giáp đêm ba mươi
Một đôi chim Phượng Hoàng bay lượn
Chúng ca lên lời ca ai oán
Chúng công dần từng mảnh gỗ thơm
Chất thành dàn tự thiêu trên đỉnh núi chon von

Bên phải núi, cây ngô đồng khô xác
Bên trái kia, suối nước ngọt cạn khô
Đằng trước núi là biển rộng mênh mông bát ngát
Mặt phía sau là đồng bằng phẳng lặng âm u
Trên cao kia là bầu trời băng giá, gió lạnh vi vu

Sắc trời chiều ảm đạm
Gỗ thơm đã chất cao
Chim Phượng bay đã mỏi
Chim Hoàng bay đã mệt
Giờ chết của chúng sắp đến rồi

Phượng mổ nhành gỗ thơm
Từng đốm lửa bay tung
Hoàng quạt cánh cho lửa
Từng cuộn khói thơm lừng

Phượng lại mổ
Hoàng lại quạt
Khói thơm lan khắp núi
Lửa đỏ rực đầy non

Màu đêm đã thẫm
Hương gỗ đã nồng
Phượng mổ chừng đã mệt
Hoàng quạt cánh đã rã
Giờ chết đã đến nơi

Ôi ! Ôi !
Đôi Phượng Hoàng buồn thương
Phượng đứng lên, múa hiên ngang
Hoàng cất lên, ca bi tráng
Phượng lại múa
Hoàng lại hót
Đám chim đủ loại chim le chim lác
Từ phương nào bay tới xem đám tang


Phượng ca :


Chít chiu ! Chít chiu !
Chít chiu ! Chít chiu !
Trời đất mênh mang, lạnh như sắt nguội
Mênh mang trời đất, đen đặc tựa sơn
Đất trời mênh mang, hôi tanh nhường máu

Vũ trụ ! Ôi vũ trụ !
Mi ở đó, vì sao ?
Mi tới từ nơi nào ?
Mi đang ngồi đâu vậy ?
Mi, một trái không cầu lớn hữu hạn?
Mi, khối bao la không có chỗ tận cùng?
Nếu là trái không cầu hữu hạn.
Thì không gian bao bọc mi từ đâu?
Xung quanh mi còn những gì tồn tại?
Nếu mi là khối lớn lao vô hạn
Thì không gian mi bao phủ là đâu?
Sự sống, bên trong mi lại có, vì sao?
Rút cuộc lại, mi là sự giao lưu sự sống?
Hay mi chỉ là thứ máy móc vô hồn!


Ngẩng lên ta hỏi Trời
Trời tận trên cao mà chút gì cũng chẳng hay chẳng biết
Cúi xuống ta hỏi Đất
Đất đã chết rồi, chút hơi thở mỏng manh cũng chẳng còn chi
Ta vươn ra hỏi biển
Biển chỉ gào lên những tiếng ầm ì
Ôi!Ôi! Sinh ra ở nơi ô uế tối tăm
Thì đến kiếm báu kim cương cũng thành rỉ sét


Vũ trụ ! Ơi vũ trụ!
Ta muốn hết lời cạn sức nguyền rủa mi !
Những bãi giết người máu mủ hôi tanh kia!
Những chốn lao tù chứa chất đầy đau khổ !
Những nấm mồ vang tiếng qủy réo hờn
Những địa ngục ma chập chờn ghê rợn !
Cớ vì sao mi cứ mãi còn tồn tại?

Chúng ta bay sang phía tây
Phía tây cũng là nơi giết chóc
Chúng ta bay sang phía đông
Phía đông cũng vẫn những lao tù
Chúng ta bay sang phía nam
Phía nam cũng toàn là mồ mả
Chúng ta bay sang phía bắc
Phía bắc cũng địa ngục tối tăm
Sống ở nơi thế giới thế này
Ta chỉ đành như biển khơi gào khóc





Hoàng ca





Chi chúc! Chi chúc! Chi chúc
Chi chúc! Chi chúc! Chi chúc
Năm trăm năm nay, nước mắt nhiều như thác đổ
Năm trăm năm nay, nước mắt nhễ nhại đầm đìa
Nước mắt chảy mãi không ngừng!
Ô trọc rửa hoài chẳng hết!
Tình đời chẳng cạn chẳng vơi!
Tủi nhục làm sao cho sạch !
Kiếp sống của ta mong manh trôi nổi
Rồi sẽ tới đâu mới được yên lành?


Ôi!Ôi! kiếp sống mong manh trôi nổi
Như con thuyền đơn độc giữa biển khơi
Bên trái mờ mịt
Bên phải mịt mờ
Trước mặt chẳng thấy ánh đèn
Phía sau bến bờ chẳng có
Cánh buồm đã rách
Cột buồm đã gẫy
Bơi chèo đã trôi
Bánh lái đã vỡ
Kẻ lái thuyền nhọc lả chỉ đành trong lòng thuyền thở than rên rỉ
Sóng biển vẫn hung dữ trào dâng


Ôi!Ôi!
Kiếp sống phù sinh mỏng mảnh của ta
Khác nào giấc ngủ mệt mê trong đêm đen mù mịt
Phía trước, mê mệt ngủ
Phía sau cũng ngủ im lìm
Cái tới như gió thoảng
Cái đi như khói bay
Tới tựa gió
Đi tựa khói
Ngủ đằng trước
Ngủ đằng sau
Ta chỉ khác nào làn khói bay gió thoảng trong triền miên giấc ngủ


Ôi!Ôi!
Làm sao lại thế?
Vì sao lại vậy?
Chuýt!Chuýt!Chuýt!
Chỉ thấy buồn đau, phiền não, tẻ nhạt, yếu hèn
Những thây ma luẩn quẩn quanh ta
Những xác chết ngổn ngang khắp chốn

Ôi!Ôi!
Tuổi trẻ tươi rói của chúng ta đâu rồi?
Tuổi trẻ đẹp đẽ của chúng ta đâu rồi?
Tuổi trẻ sáng láng của chúng ta đâu rồi?
Đã hết! Đã hết! đã hết!
Tất cả đều đã hết!
Tất cả rồi sẽ hết!
Chúng ta cũng sẽ đi khỏi
Chúng mi cũng sẽ đi khỏi
Ôi, buồn đau! phiền não! tẻ nhạt! yếu hèn!





Phượng hoàng đồng ca





Ôi chao! Ôi chao!
Lửa cháy đùng đùng
Hương thơm ngào ngạt
Đã đến lúc rồi!
Đến rồi! Giờ chết!
Tất thảy ngoài thân ta
Tất thảy trong thân ta
Tất thảy của tất thảy
Cùng chết! Nào cùng chết!





Quần điểu ca




Chim cú mèo :


Ha ha! Phượng Hoàng! Phượng Hoàng!
Uổng cho các ngươi là linh trưởng của loài chim
Các ngươi chết rồi ư? Chết rồi ư?
Từ nay ta sẽ là bá vương chốn bầu trời, nơi không giới


Chim công :


Ha ha! Phượng Hoàng! Phượng Hoàng!
Uổng công các ngươi là linh trưởng của muôn chim
Các ngươi chết rồi ư? Chết rồi ư?
Từ nay ta sẽ là chúa tể nơi hoa rừng


Chim diều hâu :


Ha ha! Phượng Hoàng! Phượng Hoàng!
Uổng cho các ngươi là linh trưởng của loài chim
Các ngươi chết rồi ư? Chết rồi ư?
À, hương thịt chuột đâu mà thơm thế nhỉ?


Chim bồ câu :


Ha ha! Phượng Hoàng! Phượng Hoàng!
Uổng cho các ngươi là linh trưởng của loài chim
Các ngươi chết rồi ư? Chết rồi ư?
Rồi hãy xem bọn chim lành ta từ nay sẽ thanh bình


Chim vẹt :


Ha ha! Phượng Hoàng! Phượng Hoàng!
Uổng cho các ngươi là linh trưởng của loài chim
Các ngươi chết rồi ư? Chết rồi ư?
Từ nay hãy nghe chúng ta hùng biện


Chim hạc trắng :


Ha ha! Phượng Hoàng! Phượng Hoàng!
Uổng cho các ngươi là linh trưởng của loài chim
Các ngươi chết rồi ư? Chết rồi ư?
Từ nay hãy ngắm nhìn loài chân cao ta múa lượn





Phượng Hoàng tái sinh ca


Gà gáy (báo tin):

Nước triều dâng cao
Nước triều dâng cao
Ánh sáng chết đã tái sinh!
Vũ trụ chết đã tái sinh!
Phượng Hoàng chết đã tái sinh!



Phượng Hoàng hòa ca :





Chúng ta sống lại rồi!
Chúng ta sống lại rồi!
Một của hết thảy, sống lại rồi
Hết thảy của một, sống lại rồi
Chúng ta tức là họ. Họ tức là chúng ta
Trong ta có bạn, trong bạn cũng có ta

Ta chính là bạn
Bạn chính là ta
Lửa là chim Hoàng
Chim Phượng là lửa
Bay lượn! Lượn bay!
Vui sướng! Hát ca!


Chúng ta tươi mới, chúng ta sáng trong
Chúng ta xinh đẹp, chúng ta thơm lừng
Một của hết thảy, thơm tho
Hết thảy của một, thơm tho
Thơm tho là bạn, thơm tho là ta
Thơm tho là nó, thơm tho là lửa
Lửa chính là bạn
Lửa chính là ta
Lửa chính là nó
Lửa chính là lửa
Ôi! Bay lượn! Lượn bay!
Sung sướng hát ca!
Chúng ta nhiệt thành, chúng ta yêu thương
Chúng ta hoan hỉ, chúng ta hài hòa


……………


Ôi! Bay lượn! Lượn bay!
Sung sướng hát ca!
Chúng ta sinh động, chúng ta tự do
Chúng ta hùng hồn, chúng ta trường cửu


……….


Ôi! Bay lượn! Lượn bay !
Sung sướng hát ca!
Chúng ta sướng vui, lượn bay, ca hát
Chúng ta ca hát, sung sướng, lượn bay
Một của hết thảy, luôn luôn vui ca
Hết thảy của một luôn luôn vui hát
Bạn đang vui hát ư? Ta đang vui hát ư?
Nó đang vui hát ư? Lửa đang vui hát ư?
Cái vui hát đang vui hát!
Cái vui hát đang vui hát!
Chỉ có vui hát!
Chỉ có vui ca!
Sung sướng hát ca!
Vui hát! Vui ca!





(Phạm Thị Hảo dịch)

* Chú thích : Mấy chỗ chấm chấm là những câu lặp lại giống hệt như đoạn trên

Thứ Hai, 13 tháng 7, 2015

Bàn về đoạn văn " ở nhà trọ" trong Chương 4- Cuộn Len của thượng đế ( Ngày Tận Thế huyền bí)

PĐTT :  Theo đề nghị của một bạn đọc nữ, tôi xin được lạm bàn về một đoạn văn trong chương4 : Cuộn len của thượng đế. Chúng ta nên xem lại đoạn văn này :


*
Đêm mưa đó xảy ra vào mùa hè năm 2010, nếu như không phải ở một tỉnh lỵ mà là ở thủ đô thì ắt hẳn nó đã phải làm xôn xao tất cả các tờ báo. Thành phố nhỏ bỗng chốc ngập mênh mông như đại dương, mà nó lại như thế đúng vào lúc tôi vừa rời trung tâm Ocean Language sau buổi học tối.
Người ta đều nói đó là điều chưa từng xảy ra nơi đây, tất cả những người đi đường đều vội vã nháo nhào, chiếc xe bốn chín phân khối dễ chết máy của tôi cũng nháo nhào tìm một ngả đường để chạy thoát về khu tập thể của bệnh viện y học cổ truyền Vĩnh Phúc. Không còn ngả đường nào như thế, tôi chỉ còn một lựa chọn là chạy về trục đường chính đông người để đảm bảo rằng mình không bị nước lũ cuốn đi. Chiếc xe ốm yếu của tôi không cần phải mặc cảm, bởi vì tất cả các xe phân khối lớn đều đã chết máy trong dòng nước. Điều tất yếu xảy ra như trong mọi kịch bản tương tự, tôi đứng ngoài hiên một hiệu sửa xe kiên nhẫn chờ đến lượt mình.
Kịch bản thắt nút ở chỗ: người sửa xe tuyên bố rằng ông ta không còn đủ sức gắng gượng nổi và bắt buộc phải đi ngủ, những xe chưa sửa sẽ được ông ta dắt vào nhà chờ đến sáng mai giải quyết. Tôi không thể tự “cởi nút” bằng cách đi bộ về phòng mình chỉ cách đó hơn một cây số, vì nếu làm thế, nước sẽ cuốn phăng tôi đi nhanh như cuốn một khúc củi mục, nếu xe tôi đã sửa cũng chẳng đủ khả năng ra đường. Nhiều người đã được phen hú hồn hú vía trước khi chạy thoát đến vị trí này. Mưa chưa dừng và nước chưa có dấu hiệu xuống. Một trận lũ vô tiền khoáng hậu khiến những người bản xứ sửng sốt.
Sắp một giờ sáng, cả chủ và khách đều mệt phờ, người sửa xe làm những việc như ông ta đã nói. Xe của tôi đã có chỗ, còn chủ nhân của nó thì không. Tôi vẫn đứng ngoài hiên, cùng những người khách chưa đi hết, chưa kịp nghĩ ra cách gì ngoài việc đứng yên.
- Bọn em đi kiếm nhà trọ đây. Chị đi cùng bọn em nhé!
Một cậu thanh niên lên tiếng nói với tôi. Có lẽ cậu ta đã quan sát tôi từ lúc nãy. Họ có ba người, và xe đã sửa xong, một chiếc.
Hôm ấy tôi mặc chiếc áo thun màu trời, khi ướt nó thành màu của biển. Cái màu trời biển ấy không cứu được vẻ thảm hại của tôi, vẻ đáng thương của một chú mèo mới được vớt lên từ dưới nước.
Cậu thanh niên nhìn có vẻ hiền, nhiều người trông hiền như thế, nhưng không có gì đặc biệt ngoài giọng nói nghe cũng êm tai. Cậu ta cao lớn hơn hai người bạn.
Tình huống này có vẻ rắc rối, và tôi kiếm cớ từ chối:
- Nhà trọ thì tốn tiền đấy, mà mình thì không mang theo đủ tiền.
Tôi nói dối. Trong ví tôi có thừa tiền, thừa đủ cho riêng tôi. Nhà trọ là một giải pháp hay, nhưng một mình tôi thì ngại. Muốn kiếm nhà trọ thì ít nhất cũng phải vượt sang bên kia đường, nhưng đường thì đang là dòng sông. Đợi thêm vẫn là giải pháp có vẻ ổn hơn.
- Em có đủ tiền, chị đừng ngại. Từ đây đến kia chỉ khoảng trăm mét, xe này có thể qua được. Lúc nãy bọn em qua chỗ nước ngập ngang người nó mới chết thôi.
Ông chủ hiệu sửa xe tiếp lời khích lệ:
- Cô cứ đi với bọn nó đi! Thằng này là người tử tế, nó là thằng em tôi, tôi đảm bảo đấy.
Tôi đã biết họ quen nhau qua những lời họ trò chuyện từ trước đó. Có lẽ người chủ hiệu cũng không muốn nhận lấy phần khó xử về mình. “Người tử tế” được xem như một lời đảm bảo trong trường hợp này.
Tôi mệt rồi, và không còn ở tuổi mười bẩy. Đứng đây tới sáng với gió lạnh và mưa tạt cũng không đảm bảo an toàn cho sức khỏe của tôi. Đi với họ chắc là an toàn hơn.
Xe của họ đúng là rất khỏe, chở bốn người, tôi ngồi trên xe mà nước vẫn ngập quá gối. Chúng tôi sang được vỉa hè phía bên kia ngã tư.
*
Cậu thanh niên cư xử với hai người kia như với những kẻ đàn em, còn họ thì không ngần ngại sờ vào má tôi như cách người ta thử phản ứng với một con mèo mới được mua về đang bị xích. Có vẻ như đó là cách mà họ vẫn làm với các cô gái điếm. Cậu thanh niên đàn anh tỏ vẻ bất bình và bảo hai người kia ra khỏi phòng đi tìm nhà trọ khác, rồi đưa điện thoại của mình cho họ trước khi họ đi. Cậu ta ở lại cùng tôi trong một phòng. Tôi thở dài khi thấy mình không có tư cách để đòi hỏi một sự rộng lượng hơn thế.
Trong phòng trọ, nước cũng ngập đến gần đầu gối, may mà cái giường cũng khá cao, và nước có vẻ sẽ không tiếp tục dâng thêm. Tôi nhìn bảng giá trên tường và biết sáng mai cậu thanh niên sẽ phải trả một trăm nghìn.
Tôi quẳng đôi dép và chiếc túi xách lên chiếc ghế ở đầu giường rồi chui vào màn, nằm vật ra. Trong lúc đó, cậu thanh niên chui vào toa lét mà tôi chẳng hiểu cậu ta làm được gì với cái toa lét ngập nước ấy. Lúc chui ra, cậu ta đã trần trụi tồng ngồng như A-đam.
Mấy năm trước đó, tôi từng xem cuốn sách của một người Nhật Bản, cuốn sách gây sốt ấy có tiêu đề “Giống đàn ông”, tác giả là nam giới. Ngay sau đó tôi đã nhanh nhẹn tặng cuốn sách cho cô con gái của bà chủ nhà trọ, để cô nàng sớm từ bỏ những hình dung lãng mạn về cánh đàn ông. Trong tác phẩm ấy, một người đàn ông đã quyết định bỏ qua mọi kiểu cách hoa mỹ của ngôn từ để công khai kể những khó khăn về tính dục mà những người nam phải vượt qua, với mong muốn những người nữ thôi ảo tưởng và đừng đòi hỏi đàn ông phải làm thánh.
Cậu thanh niên lên giường, nằm xuống cạnh tôi và nhẹ nhàng bảo: “Chị cởi quần áo ướt ra đi cho khỏi lạnh, để em ủ ấm cho chị!” Rồi cậu ta kiên nhẫn đợi chứ không hành động sấn sổ. Như thế đủ để là “người tử tế”, như người chủ hiệu sửa xe đã nói.
Tôi vẫn nằm nguyên bất động và suy nghĩ. Tôi không hiểu mục đích của Thượng Đế khi Ngài đưa tôi vào tình huống này. Bên tai tôi vẳng lên giọng nói mà tôi nghe được trong băng đĩa của ông Lương Minh Đáng, người thầy của ngành học Mankind – Enlightenment – Love: “Anh chị em là người lái xe của Thượng Đế, nếu anh chị em lái đi đúng đường thì Thượng Đế đi đúng đường, nếu anh chị em lái đi sai đường thì Thượng Đế đi sai đường”. Không thể phủ nhận điều ấy, đó là trách nhiệm cá nhân mà tôi không thể từ chối. Nhưng tôi biết mặt khác của thực tế tâm linh siêu hình: Thượng Đế luôn lái tôi đi theo ý của Ngài chứ làm sao tôi có thể chỉ đường cho Ngài! Vả lại, cái đầu óc tầm thường của tôi không biết được thế nào là sai là đúng, nếu biết thì tôi đã chả cầu đến Thượng Đế làm gì. Vì con người không bỏ được ý nghĩ và các kiểu tính toán, nên Thượng Đế cứ để cho con người tự do suy nghĩ và tính toán, Ngài biết rõ từng người một và luôn làm sao để họ nghĩ gì thì nghĩ tính gì thì tính, nhưng rồi cuối cùng họ sẽ vẫn làm theo ý Ngài. Sự khác biệt duy nhất nằm ở con người: Nếu ý Thượng Đế mà trùng với ý họ thì họ sẽ vui mừng, nếu ý Ngài không trúng ý họ thì họ sẽ kêu than và cho rằng họ bị đày ải. Như tôi vào lúc này, tôi chưa nhận ra ý của Ngài. Tôi không than rằng tôi bị đày ải, mặc dù tôi không hề có ý muốn rằng cậu thanh niên kia nhận giúp tôi để rồi đối xử với tôi như với một cô gái điếm rẻ tiền.
Tôi không thể sai về chuyện kiếm chỗ khô ráo để trú mưa. Cậu thanh niên cũng không sai khi vừa giúp người khác vừa chiếm được phần tiện lợi cho mình. Nếu chúng tôi không sai thì kẻ sai chính là Thượng Đế, vì Ngài không công bằng.
Phần lớn những người phụ nữ không hào hứng gì với tình dục khi họ đang mệt, nhất là với đối tượng mà họ chưa kịp cảm thấy an tâm, và phản ứng của họ thường khá tiêu cực. Tôi chưa quá mệt, và nếu cảm thấy bất an thì tôi đã không đi cùng người thanh niên này. Theo nguyên tắc cá nhân của tôi, tôi sẽ để cho cậu ta “ủ ấm”, để tỏ ra biết điều và lịch sự, đồng thời tự ngăn chặn lòng kiêu ngạo của mình. Với tôi, hành động này chưa đủ để được tính là một lần vượt qua thử thách. Đó là một bài tập dễ.
Cậu thanh niên thì có cách hành động rất phù hợp để chứng minh sự trung thực của tác giả cuốn sách “Giống đàn ông”, cũng phù hợp với hiểu biết của những người từng trải cả hai giới về đàn ông nói chung. Rời bỏ ý định “ủ ấm” cho một người đàn bà đang nằm cạnh cậu ta trên giường là một bài tập khó. Cách những người đàn ông sa ngã sao mà dễ dàng, sao mà êm ái! Thậm chí nhiều người đàn ông không chấp nhận rằng đó là một sự sa ngã, họ tin đó là cách tỏa “hào quang của giống đực”, cách mà đàn ông thay Thượng Đế ban phát hạnh phúc cho đàn bà nơi trần thế, và không ít những người đàn bà ủng hộ quan điểm của họ. Họ không nhận ra được những ranh giới. Trong tình huống này, với cậu thanh niên còn ít hơn tôi ba tuổi này, nhận ra được ranh giới là một bài tập rất khó.
Bằng việc cùng lúc, trong cùng hoàn cảnh, giao cho tôi, một kẻ từng được đào luyện khắt khe trong trường học của Ngài, một bài tập dễ, và giao cho gã đàn ông khờ khạo kia một bài tập rất khó, làm sao có thể chứng minh được sự công bằng của Đấng Tối Thượng? Khi người ta gặp tôi trong một hoàn cảnh khác thường thì ắt là để có được một bài học đặc biệt về tâm linh. Thế mà giờ đây, chúng tôi đang có một câu chuyện lãng nhách. Một sự phí phạm mà tôi không dễ chấp nhận.
Phán xét Thượng Đế không phải là việc dễ chịu. Tôi hỏi cậu thanh niên:
- Hỏi thật nhé, cậu có thể nằm im không làm gì cho đến sáng mai không?
- Không, em không thể, chị ạ! – Cậu ta đáp ngay.
- Thế thì thật không may cho cậu! – Ý nghĩ trong đầu tôi buột ra miệng thành lời.
Một lát im lặng. Rồi cậu thanh niên hỏi như vừa sực nhớ ra điều gì đó:
- Chị nói như thế nghĩa là sao hả chị?
- Nói gì? Nghĩa gì?
Giọng tôi không được kiên nhẫn lắm. Tôi vẫn chưa hết khó chịu.
- Tại sao chị lại nói là không may cho em? - Giọng cậu ta bối rối.
Tôi im lặng. Biết nói gì với cậu ta kia chứ! Làm sao bắt cậu ta hiểu được!
- Chị làm em sợ - Giọng cậu ta bắt đầu run – Chị em mình gặp nhau ngoài đường, dù có hỏi nhau tên tuổi địa chỉ như thế nhưng em nào biết được chị là ai và lời chị thật đến đâu. Em chỉ là một công nhân quèn thôi, mà em còn có vợ và con nhỏ, bố em thì mới mất cách đây bốn tháng, bị cây đè chết. Em sợ lắm chị ạ!
Câu chuyện có thể đã thành nực cười, nhưng tôi không cười nổi. Tôi lạnh lùng hỏi:
- Sợ thì làm sao? Cậu cứ nằm im mà ngủ là được chứ gì! Tôi đảm bảo cậu vẫn còn sống cho đến sáng mai.
- Nhưng em không thể, em không đủ sức – Cậu ta hoảng hốt ngồi dậy – Em phải rời khỏi đây ngay thôi.
- Ừ, thế thì kiếm phòng khác mà ngủ, làm gì mà phải rầm rĩ lên! – Tôi cảm thấy đã có thể thở phào.
- Không không! Em phải rời hẳn khỏi chỗ này, phải đi khỏi đây, phải về nhà – Giọng cậu ta bất chợt chùng hẳn xuống – Quay đầu lại là bờ.
“Quay đầu lại là bờ”. Câu này tôi nghe quen quen, hình như là những người theo đạo Phật nói.
- “Quay đầu lại là bờ”. Cậu đi chùa nghe được câu ấy à? – Tôi tò mò hỏi.
- Không, em đi nhà thờ. Cha xứ giảng cho nghe câu ấy.
Lại thế nữa! Mấy cái câu hay ho ấy người ta vẫn nói tái nói hoài. Dù có biết bờ ở đâu, nào dễ gì còn đủ sức mà quay lại!
- Thôi nằm xuống ngủ đi! Mưa gió thế này thì đi đâu? Đừng có điên! – Tôi càu nhàu.
- Này chị! – Cậu ta bỗng nhìn tôi với ánh mắt hy vọng – Liệu có phải vì chị sợ em mà nói dối ra như thế không?
Ôi ôi! Gã đần độn này thật nực cười! Tôi đâu có nói gì mà dối với chả thật! Toàn là cậu ta tự tưởng tượng. Một kẻ đang sợ hãi có thể trở thành nhà văn?
- Này! – Tôi nói hơi gằn xuống – Cậu nhìn lại cái mặt tôi xem liệu tôi có giống như một kẻ cần phải sợ cậu hay không!
Thật ra thì cái mặt tôi không ghê gớm gì, nhưng trong những tình huống nhất định, tôi rất thành thạo trong việc uy hiếp tinh thần kẻ khác.
Cậu ta mặc lại quần áo, không chần chừ thêm nữa. Mượn máy của tôi, cậu ta gọi điện thoại cho hai gã đàn em, nhưng họ đã tắt máy, không cách gì liên lạc được.
Cậu ta rút tiền trong ví ra, chỉ có đúng một tờ một trăm nghìn. Cậu ta ra ngoài tìm chủ nhà trọ trao đổi và quay lại với hai tờ năm mươi nghìn, chia cho tôi một tờ.
- Chị cầm lấy để mai trả tiền phòng trọ, em phải giữ lại một nửa để bắt xe ôm.
Xe ôm? Tôi biết chẳng có ma nào chạy xe ôm vào lúc này. Đã nửa đêm về sáng và nước thì còn nguyên chưa rút.
- Cậu cứ cầm cả đi, tôi tự xoay sở được – Tôi không cầm tiền cậu ta đưa.
- Chị phải nhận cho em yên tâm!
Cậu ta không đưa tờ tiền cho tôi nữa mà nhét nó vào chiếc túi của tôi ở trên ghế, rồi vội vã bỏ ra ngoài.
*
Trong phòng trọ, tôi trằn trọc mãi cho đến sáng. Tôi đã dám phán xét Thượng Đế kia đấy, nhưng rút cục vẫn là Ngài biết tôi chứ tôi chẳng hiểu gì lắm về quyền năng của Ngài.
Khi tôi mệt quá thiếp đi thì nước vẫn chưa rút, vì thế tôi rất ngạc nhiên khi tỉnh giấc: Nước biến đi hết sau một thời gian rất ngắn, và nắng đang lên.
Hai người bạn của cậu thanh niên gọi đến số máy của tôi. Họ không hề biết là bạn họ không còn ở cùng tôi nữa. Cậu ấy đã đi đâu, đã xoay sở ra sao cho qua đêm nhỉ? Tôi không đoán được. Tôi chỉ biết rằng với cậu ấy thì dù sao như thế vẫn an toàn hơn.
*
Lạm bàn :

Không gian, thời gian, bối cảnh, nhân vật và sự kiện đã hiện lên khá rõ ràng qua lời kể của nhân vật tôi.
Ta có thể tóm tắt như sau : " một đêm mưa bão dữ dội, một người phụ nữ lỡ đường, xe chết máy không thể sửa được, gặp một thanh niên ở ngay tiệm sửa xe. chàng thanh niên gợi ý tìm một nhà trọ để trú qua đêm và người phụ nữ đồng ý. Khi vào phòng trò, chàng thanh niên có  ý định muốn " làm tình" với người phụ nữ  và bị từ chối. Khi chàng trai nhận ra " Thông điệp " của người phụ nữ thì tỏ ra  là người " tử tế" và vội vã bỏ đi vì sợ ở lại sẽ không kiềm chế được " dục vọng" của mình. Thông điệp của tác giả  khá rõ  " Đàn ông luôn bị bản năng chi phối" ! .Trước sự " cám dỗ" đàn ông luôn là kẻ hèn nhát không dám " đương đầu" và chỉ biết bỏ chạy với "sự tử tế" của kẻ đạo đức giả. 
"Cái đạo đức giả của chàng thanh niên này cũng na ná như cái gả "thùng rỗng thiên tai nghĩ ra" Nhà Gom Lá bàng. (Câu này do tôi nghĩ ra ...hi hi)".

Mặc dù Mèo Ainu đã kể câu chuyện thật 100% của chính mình nhưng xem ra tác giả là kẻ ' nói láo dở ẹc" hay đúng hơn là kẻ " không cách biết nói láo" . Có một chút sự thật trong đó là " cái sự bỏ chạy của gã đàn ông trước sự thử thách". Cái gã " đạo đức giả" ( xem ra đây mới là vốn sống của tác giả có trong đoạn văn này).

. Một số  "tình tiết" không hợp lý và thiếu thuyết phục người đọc.

- Cơn mưa xãy ra khi tác giả vừa rời khỏi lớp học đêm-thời gian tối đa là vào khoảng 11 giờ đêm( thông thường lớp học cuối là 10 giờ). Khoảng cách của nơi tác giả sửa xe về phòng trọ của mình chỉ khoảng 1 cây số thế thì từ lớp học về nhà trọ là bao nhiêu?
"Tôi không thể tự “cởi nút” bằng cách đi bộ về phòng mình chỉ cách đó hơn một cây số, vì nếu làm thế, nước sẽ cuốn phăng tôi đi nhanh như cuốn một khúc củi mục, nếu xe tôi đã sửa cũng chẳng đủ khả năng ra đường Một cơn mưa có thể làm dâng nước  " ngập máy xe" phải mất bao nhiêu thời gian? 
Tác giả viết : "tôi chỉ còn một lựa chọn là chạy về trục đường chính đông người để đảm bảo rằng mình không bị nước lũ cuốn đi. Chiếc xe ốm yếu của tôi không cần phải mặc cảm, bởi vì tất cả các xe phân khối lớn đều đã chết máy trong dòng nước."

Với xe 50 phân khối, chạy chậm thì với vận tốc 30km/h thì chỉ 5 phút là đi được 2,5 km? Với 5 phút một cơn mưa lớn thế nào cũng không đủ biến đường phố thành " dòng sông" trừ phi là một cơn " lũ".  Thời gian 5 phút có đủ  cho tác giả về nhà không! ( dù có bị ướt như chuột lột"( tôi nghĩ với lời kể của tác giả thì nhà trọ của tác giả cách trường tác giả cũng không hơn 2 km). 

- Tác giả vào tiệm sửa xe cho đến 1 giờ đêm, thời gian 3 tiếng này một người thợ có thể sửa được cả chục chiếc xe " chết máy vì vô nước"! Một tiệm sửa xe trên đường chỉ với một người thợ như tác giả viết thì không gian cũng không đủ rộng để cho người và hàng chục xe . ( Điều tất yếu xảy ra như trong mọi kịch bản tương tự, tôi đứng ngoài hiên một hiệu sửa xe kiên nhẫn chờ đến lượt mình.)
Nếu lượng nước ngập " ngang người " ( Lúc nãy bọn em qua chỗ nước ngập ngang người nó mới chết thôi) thì hẳn "hiên" tác giả đang đứng cao " cả mét".( tôi ngồi trên xe mà nước vẫn ngập quá gối. Chúng tôi sang được vỉa hè phía bên kia ngã tư.)
- (Trong phòng trọ, nước cũng ngập đến gần đầu gối, may mà cái giường cũng khá cao). Thế thì cái bồn cầu cũng đã bị ngập và các bạn thử hình dung xem " có thằng đàn ông nào ngu đến mức đưa một người phụ nữ mới quen vào một phòng trọ "dơ dáy" để " dụ dỗ mây mưa" chăng? ( Có lẽ cậu ta đã quan sát tôi từ lúc nãy...Lúc chui ra, cậu ta đã trần trụi tồng ngồng như A-đam.“Chị cởi quần áo ướt ra đi cho khỏi lạnh, để em ủ ấm cho chị!”. Người phụ nữ hiểu rõ ý định của chàng trai nên khi nhắc lại 2 từ ủ ấm tác giả đều đặt nó vào ngoặc kép( tôi sẽ để cho cậu ta “ủ ấm” ...Rời bỏ ý định “ủ ấm” cho một người đàn bà đang nằm cạnh cậu ta trên giường là một bài tập khó...)
- đoạn đối thoại giữa hai người là đang " ở ngoài nhà tắm" thế mà (Cậu ta mặc lại quần áo, không chần chừ thêm nữa) trong khi trước đó thì Trong lúc đó, cậu thanh niên chui vào toa lét mà tôi chẳng hiểu cậu ta làm được gì với cái toa lét ngập nước ấy. Lúc chui ra, cậu ta đã trần trụi tồng ngồng như A-đam.)

Những điều trên cho thấy sự "tưởng tượng dở ẹc" của tác giả. Thật đáng thương cho một người " không biết cách nói láo" lại muốn " nói láo". Người ta thường nói là " Nhà văn nói láo, nhà báo nói thêm". Ainu xem ra không biết cách nói láo rồi, nhất là với " bút pháp tự sự ngôi thứ nhất này".  Từng là " nhà báo" nên tôi có nói thêm một chút cũng  hỏng sao?
"Cái đạo đức giả của chàng thanh niên này cũng na ná như cái gả "thùng rỗng thiên tai nghĩ ra" Nhà Gom Lá bàng. (Câu này do tôi nghĩ ra ...hi hi)".

( Còn tiếp)

Ps/ do bận nên chưa viết tiếp được . Các bạn xem đỡ nhiêu vậy!

Tôi xin được tiếp tục về những tình tiết không hợp lý :

- "...Muốn kiếm nhà trọ thì ít nhất cũng phải vượt sang bên kia đường, nhưng đường thì đang là dòng sông"...tôi ngồi trên xe mà nước vẫn ngập quá gối. Chúng tôi sang được vỉa hè phía bên kia ngã tư." .
Không biết con đường của tác giả rộng bao nhiêu? 50m hay 100m? Ở  một trung tâm tỉnh lỵ theo tôi nghĩ đại lộ đi nữa cũng chỉ  50m. Mấy thằng "đàn em"chỉ cần lội " ùm" một cái là qua " bên kia " đường và chàng trai chỉ chở mình " bà chị" thì còn "dễ chấp nhận"!  Một xe honda chở 4 mà người ngồi trên xe nước ngập quá "đầu gối" nước ngập " bô xe" chạy nổi thì đúng là " siêu xe".

- (...bảo hai người kia ra khỏi phòng đi tìm nhà trọ khác, rồi đưa điện thoại của mình cho họ trước khi họ đi...) . Sự " tình cờ" đến hi hữu là " nhà trọ chỉ còn trống có một phòng".Không hẳn vậy bởi : "Ừ, thế thì kiếm phòng khác mà ngủ, làm gì mà phải rầm rĩ lên! – Tôi cảm thấy đã có thể thở phào." Phải chăng tác giả không hề biết nhà trọ không còn phòng? Người phụ nữ này quả thật là " hàng hiếm" nên dễ dành chấp nhận ngủ cùng phòng với một người đàn ông xa lạ. Thú thật, ở cái xứ sở Việt nam này, nếu đêm đó gã đàn ông" hiếp dâm" nàng thì cũng khó mà " biện minh"!


-( Tôi không thể tự “cởi nút” bằng cách đi bộ về phòng mình chỉ cách đó hơn một cây số, vì nếu làm thế, nước sẽ cuốn phăng tôi đi nhanh như cuốn một khúc củi mục, nếu xe tôi đã sửa cũng chẳng đủ khả năng ra đường... Cô cứ đi với bọn nó đi! Thằng này là người tử tế, nó là thằng em tôi, tôi đảm bảo đấy. ..Cho dù tác giả đã cố tạo ra những tình tiết như ..." đã 1 giờ đêm...xe hư...đường ngập nước... gã đàn ông có vẽ "tử tế" với lời đảm bảo của ông thợ sửa xe...nhưng chẳng có người phụ nữa nào " dễ dàng" vào ngủ " một phòng" với người đàn ông xa lạ như vậy. 

-
Có rất nhiều sự chọn lựa : nhờ  ông thợ sửa xe chỉ giúp " nhà trọ" và nhờ " chàng trai" đưa đến. Chọn thuê một phòng riêng cho mình. Từ chối chuyện " chàng trai ở cùng phòng"...trừ khi bản thân muốn đặt mình vào " thử thách" một cách ' chủ động" . Ngược lại là sự "thụ động" hoàn toàn vào hoàn cảnh (
 Nhà trọ là một giải pháp hay, nhưng một mình tôi thì ngại... Đợi thêm vẫn là giải pháp có vẻ ổn hơn...)  Chỉ đến khi " thằng Adam" xuất hiện thì ý nghĩ " thượng đế thử thách" mới xuất hiện và dẫn đường cho "nàng". ( Mà đây cũng là thông điệp chính của tác giả). Thật khó là thuyết phục!
-"Thượng Đế luôn lái tôi đi theo ý của Ngài chứ làm sao tôi có thể chỉ đường cho Ngài...Phần lớn những người phụ nữ không hào hứng gì với tình dục khi họ đang mệt, nhất là với đối tượng mà họ chưa kịp cảm thấy an tâm, và phản ứng của họ thường khá tiêu cực. Tôi chưa quá mệt, và nếu cảm thấy bất an thì tôi đã không đi cùng người thanh niên này. Theo nguyên tắc cá nhân của tôi, tôi sẽ để cho cậu ta “ủ ấm”.
 Đến đây thì tác giả " hoàn toàn" chủ động và "từ chối" ham muốn " tình dục" của bản thân và của " chàng trai".
- Toàn bộ phần đối thoại với trong nhà trọ cho thấy tác giả vốn chẳng phải là người từng trãi vì : Chủ đích của gã đàn ông vốn đã có sẳn từ trước khi vào nhà trọ (Có lẽ cậu ta đã quan sát tôi từ lúc nãy...), có động thái thăm dò phản ứng của người phụ nữ (...Cậu thanh niên cư xử với hai người kia như với những kẻ đàn em, còn họ thì không ngần ngại sờ vào má tôi như cách người ta thử phản ứng với một con mèo mới được mua về đang bị xích). Chàng trai của tác giả ở đây vốn " là đại ca"  hẳn là dân từng trãi ( có vợ, có con), qua cả sự thăm dò lại " sến " đến mức :(Chị cởi quần áo ướt ra đi cho khỏi lạnh, để em ủ ấm cho chị!...Này chị! – Cậu ta bỗng nhìn tôi với ánh mắt hy vọng –- Chị làm em sợ... Liệu có phải vì chị sợ em mà nói dối ra như thế không?..Quay đầu lại là bờ...)Vốn dĩ là ngôn ngữ và hành vi của một gã " trí thức đạo đức giả".

Tóm lại: Đây là câu chuyện tưởng tượng  của một người "không biết cách nói dối" và " hiểu biết về đàn ông rất ít" được viết ra với bút pháp " Tự sự". Vì thế mà theo tôi là "dỡ ẹc"( Tôi không chê cái thông điệp của tác giả đưa ra cũng như lối hành văn " nhuần nhuyễn" của tác giả).
 Ta hãy tự mở rộng ra nữa : Nếu chàng trai tiếp tục ở lại thì liệu nàng có chống đỡ được không? Và nếu " chàng trai" này thực sự là " một đại ca".... Cũng may là chuyện "tưởng tượng"!

10 kiến thức căn bản về hiệp định TPP


Ezlaw 5 A+ A-


Mỹ, Nhật Bản, Việt Nam và 9 quốc gia khác đang hy vọng sẽ hoàn thành ký kết TPP trong năm 2015. Theo Ezlaw, TPP sẽ là một sự kiện lớn nhất xảy ra với Việt Nam trong 20 năm nay (kể từ thời điểm Việt Nam và Mỹ bình thường quan hệ hóa vào năm 1995). Bạn có biết TPP là gì ? TPP là một hiệp định mang tính bước ngoặt, sẽ làm thay đổi cuộc chơi trong nền thương mại Việt Nam và Quốc tế. Bạn vẫn muốn biết rõ hơn về TPP ? Sau đây là những điều căn bản nhất mà bạn cần biết về hiệp định này





TPP, viết tắt của từ Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement (Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương), là một hiệp định, thỏa thuận thương mại tự do giữa 12 quốc gia với mục đích hội nhập nền kinh tế khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. 12 thành viên của TPP bao gồm: Úc, Brunei, Chile, Malaysia, Mexico, New Zealand, Canada, Peru, Singapore, Vietnam, Mỹ và Nhật Bản


*Hàn Quốc, Colombia, Costa Rica, Indonesia, Đài Loan, Thái Lan, và nhiều nước khác đang có ý định tham gia vào TPP
*TPP bắt đầu từ một thỏa thuận giữa Singapore, Chile, New Zealand và Brunei vào năm 2009, trước khi Hòa Kỳ quyết định tham gia và dẫn đầu





Mục tiêu chính của TPP là xóa bỏ các loại thuế và rào cản cho hàng hóa, dịch vụ xuất nhập khẩu giữa các nước thành viên





Ngoài ra, TPP sẽ còn thống nhất nhiều luật lệ, quy tắc chung giữa các nước này, như: sở hữu trí tuệ, chất lượng thực phẩm, hay an toàn lao động…





Các quốc gia thành viên hiện tại của TPP chiếm 40% GDP của cả thế giới và 26% lượng giao dịch hàng hóa toàn cầu.





Mỹ muốn TPP sẽ là điểm chốt mới của họ tại Châu Á sau nhiều năm Mỹ đã lún quá sâu vào khu vực Trung Đông. Ngoài ra, nhiều học giả còn cho rằng Mỹ muốn sử dụng TPP để tạo ra một nền kinh tế hợp nhất trong khu vực có thể đối trọng lại với sự phát triển quá nhanh của Trung Quốc. Trung Quốc đã có lúc thể hiện ý định muốn tham gia TPP, nhưng nhiều điều khoản hiện tại của TPP dường như được thiết kế để cố tình không cho Trung Quốc có cơ hội tham gia vào thỏa thuận này.






WTO hiện có tới 161 thành viên, vì vậy một trong những nhược điểm của mô hình này là sự khó khăn và dài lâu để tiến đến một thỏa thuận chung liên quan đến bất kỳ vấn đề gì.


Hơn thế nữa, TPP sẽ đặt ra được các luật lệ quốc tế mà vượt qua phạm vi WTO như: chính sách đầu tư, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, kiểm soát các công ty nhà nước, chất lượng sản phẩm và lao động….





Hầu hết các thỏa thuận quốc tế là về xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ, ví dụ như: Ta có thể nhập khẩu số lượng X hàng hóa với giá Y khi các mặt hàng này đã đủ tiêu chuẩn về chất lượng hoặc lao động. TPP khác vậy. Chính bản thân TPP sẽ tạo ra các điều luật quốc tế có khả năng điểu chỉnh chính sách và hướng đi của luật pháp trong từng quốc gia thành viên. Nói một cách khác, các điều luật của các quốc gia thành viên sẽ phải tuân theo định hướng của TPP.


Nhiều điều luật trong TPP còn có ảnh hưởng thay đổi chế độ pháp lý của các quốc gia. Ví dụ như điều luật khuyến khích các thành viên của TPP mở một cơ quan chính phủ, có cơ chế và cách thức hoạt động giống tại Mỹ, thực hiện phân tích ưu-nhược điểm trước khi ban hành các điều luật mới trong nước.





Thỏa thuận TPP bao gồm 29 chương, trong đó chỉ có 5 chương là trực tiếp liên quan đến vấn đề trao đổi hàng hóa, dịch vụ, các chương còn lại đề cập nhiều vấn đề liên quan đến các chuẩn mực, tiêu chuẩn khác nhau về môi trường, chất lượng lao động, luật lệ tài chính, thực phẩm và thuốc men…


*Chú ý rằng TPP sẽ bắt loại bỏ nhiều lợi ích của các công ty nhà nước (là một phần lớn của nền kinh tế Việt Nam), để tạo cơ hội cạnh tranh cho các công ty tư nhân.





Với hiệp định TPP, các công ty, tập đoàn nước ngoài và quốc tế sẽ có khả năng mang chính phủ của các quốc gia thành viên ra tòa án đặc biệt của TPP khi các quốc gia này đặt ra các luật lệ, chính sách đi ngược lại với chỉ tiêu của TPP. Tòa án đặc biệt này có toàn quyền bắt chính phủ đền bù không những cho các thiệt hại đã xảy ra, mà còn những mất mát về cơ hội trong tương lai của các tập đoàn, công ty quốc tế.





Các thành viên tham gia TPP đều đã phải ký một thỏa thuận giữ bí mật về tiến trình thương lượng chi tiết các điều luật của TPP. Các nước này chỉ được tiết lộ những thông tin trên đến các cơ quan chính phủ, tổ chức, và cá nhân có liên quan trực tiếp đến tư vấn chính sách giao dịch.


*Hiện tại, một số chương của TPP có thể tìm thấy tại wikileaks - kênh chuyên đăng các thông tin tuyệt mật.


Theo Ezlaw, mọi người dân Việt Nam, đặc biệt nhất là các nhà trí thức, luật sư, doanh nghiệp, khởi nghiệp... cần phải biết rõ và nhiều hơn về TPP - sự kiện lớn sắp xảy ra với Việt Nam và thế giới. Hãy đón xem các bài phân tích sâu hơn về TPP tại Ezlaw Blog.

Nguyên Thứ trưởng Đỗ Quý Doãn: “Cơ quan chủ quản báo chí làm việc rất.. à ơi”



Tác giả: Bình Minh
.


“Cơ quan chủ quản lâu nay làm việc rất à ơi, nghe thì rất hoành tráng nhưng cuối cùng không chịu trách nhiệm gì, chỉ giống như kiểu “đười ươi giữ ống”, ông Đỗ Quý Doãn, nguyên Thứ trưởng Bộ TT&TT nói.

Vai trò, trách nhiệm của các cơ quan chủ quản của các cơ quan báo chí lại một lần nữa được bàn thảo tại Hội nghị tham vấn chuyên gia về dự án Luật Báo chí vừa diễn ra ở Hà Nội.

Ông Đỗ Quý Doãn, nguyên Thứ trưởng Bộ TT&TT thẳng thắn nhận định: “Cơ quan chủ quản lâu nay rất à ơi, nghe thì rất hoành tráng nhưng cuối cùng không chịu trách nhiệm gì, chỉ giống như kiểu “đười ươi giữ ống”. Khi có sai phạm thì các nhà báo, phóng viên phải chịu trách nhiệm chính, còn tổng biên tập, cơ quan chủ quản chỉ chịu trách nhiệm liên đới khi bị xử phạt”.



“Phải trở lại Sắc lệnh 282 năm 1956, trong đó quy định rõ: trong mọi trường hợp vi phạm, chủ nhiệm (tức là chủ quản), chủ bút phải chịu trách nhiệm chính, còn người viết liên đới chịu trách nhiệm. Chúng ta cần tiếp thu và đưa tinh thần này vào dự thảo Luật Báo chí mới”, ông Đỗ Quý Doãn đề xuất.

Ông Đỗ Quý Doãn, nguyên Thứ trưởng Bộ TT&TT phát biểu tại Hội nghị tham vấn chuyên gia về dự án Luật Báo chí sáng 10/7 ở Hà Nội. Ảnh: B.M


Cũng theo ông Đỗ Quý Doãn, cơ quan chủ quản phải cử ra người chịu trách nhiệm cụ thể nếu xảy ra các vấn đề cần xử lý. Có thể là thủ trưởng cơ quan chủ quản hoặc người được cơ quan chủ quản ủy quyền. Nếu chỉ để chịu trách nhiệm chung chung thì cuối cùng không ai chịu trách nhiệm. Chẳng hạn, cơ quan chủ quản có 5 lãnh đạo, khi có vấn đề sai phạm, lẽ nào xử cả 5 lãnh đạo này(?).

Đồng quan điểm nêu trên, GS. Trần Thị Tâm Đan, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa Giáo dục Thanh niên Thiếu niên nhi đồng phân tích: “Hiện nay, Nhà nước không kiểm duyệt báo chí nên trách nhiệm kiểm tra, đảm bảo sự đúng đắn của nội dung thông tin trên báo chí đương nhiên là trách nhiệm của cơ quan chủ quản cơ quan báo chí. Dự thảo Luật Báo chí đã quy định rằng tổng biên tập, phó tổng biên tập, nhà báo phải chịu trách nhiệm về nội dung thông tin. Tuy nhiên, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan báo chí, cơ quan chủ quản vẫn chưa được quy định cụ thể trong dự thảo.

Phần lớn tồn tại trong hoạt động báo chí thời gian qua không phải từ những bất cập trong luật mà nguyên nhân là những bất cập trong công tác quản lý của cả cơ quan chủ quản và cơ quan báo chí chứ không chỉ của cơ quan quản lý Nhà nước về báo chí. Cần nghiên cứu kỹ hơn về quy định trách nhiệm của người đứng đầu và cơ quan chủ quản về nội dung thông tin trên báo chí”.

“Có người nói rằng người đứng đầu, cơ quan chủ quản rất nhiều việc, khó có thể chịu trách nhiệm về tất cả những nội dung thông tin đăng trên báo chí. Tuy nhiên, lý lẽ này không thuyết phục.

Các cơ quan chủ quản chỉ xin ra tờ báo, sau đó khoán cho tổng biên tập, cái đó là không đúng. Sở dĩ phải sinh ra cơ quan chủ quản là để thay mặt Nhà nước kiểm tra, kiểm soát nội dung. Trên thực tế, các cơ quan chủ quản rất ít phát huy tác dụng trong việc này.

Đề nghị cơ quan chủ quản nào muốn sinh ra tờ báo thì phải tìm cho được người có chuyên môn nghiệp vụ để quản lý, chỉ đạo. Tốt nhất là phải chọn nhà lãnh đạo có năng lực trình độ về báo chí, am hiểu lợi ích của báo chí để chỉ đạo tổ chức bộ máy cho tốt. Người lãnh đạo chỉ chỉ đạo, lãnh đạo mà không chịu trách nhiệm gì khi có vấn đề bất cập xảy ra thì không nên”, GS. Trần Thị Tâm Đan khuyến nghị thêm.

———-

http://infonet.vn/nguyen-thu-truong-do-quy-doan-co-quan-chu-quan-bao-chi-lam-viec-rat-a-oi-post168662.info

Chủ Nhật, 12 tháng 7, 2015

Sự nghi ngờ cần thiết







Có lẽ nền giáo dục Thiên Chúa giáo và Do Thái giáo của người phương Tây đã khiến nhiều người có khuynh hướng xem sự nghi ngờ là một gì điều đáng xấu hổ, đến mức coi nó như kẻ thù. Người ta cảm thấy rằng nếu họ nghi ngờ, điều đó có nghĩa là họ đang phủ nhận giáo lý, trong khi lẽ ra họ nên có một niềm tin không thắc mắc. Hiện nay, trong một số tôn giáo, niềm tin không truy vấn- tin một cách mù quáng- vẫn được coi là phẩm chất cần có của người tín đồ. Thế nhưng giáo pháp Phật đà không đòi hỏi điều đó. Khi nhắc tới giáo pháp, Đức Phật chỉ nói, “hãy đến để mà thấy” hoặc”hãy đến để khám phá sự thật” ; Ngài không hề nói “hãy đến để mà tin”. Một tâm thức rộng mở và biết đặt nghi vấn hoàn toàn không bị coi là trở ngại đối với những người tin tưởng vào Phật pháp. Tuy nhiên, một tâm thức cho rằng: “Điều này không nằm trong cái khung nhận thức của tôi, vì thế tôi không tin” thì lại là một tâm thức khép kín, và chính một thái độ như thế mới là điều bất lợi lớn cho những ai có khát vọng theo đuổi bất kỳ một con đường tâm linh nào. Ngược lại, một tâm hồn rộng mở, luôn đặt câu hỏi và không chấp nhận sự việc chỉ vì điều đó đã được nói ra, thì lại không gặp chút khó khăn nào.


Một bản kinh nổi tiếng có nói về một nhóm dân làng đến thăm Đức Phật. Họ thưa với Ngài, “Nhiều bậc thầy đã đi qua đây. Mỗi vị đều có một học thuyết riêng. Mỗi vị đều tuyên bố rằng triết lý và sự tu tập của vị ấy là chân lý, nhưng tất cả những vị ấy đều chống đối nhau. Nay chúng con thật sự hoang mang. Chúng con nên làm thế nào”. Phải chăng câu chuyện đó nghe rất hiện đại? Nhưng đó đã là chuyện của hai mươi lăm thế kỷ trước. Cũng cùng những vấn đề. Đức Phật đã trả lời, “Qúy vị có quyền hoang mang. Đó là một tình thế gây hoang mang. Đừng nên tin vào bất kỳ điều gì chỉ vì điều đó đã được chuyển giao theo truyền thống, hoặc vì các bậc thầy của quý vị nói như thế, hoặc vì các bậc tôn trưởng của quý vị đã dạy như vậy cho quý vị, hoặc vì đã được viết ra trong những kinh văn nổi tiếng. Khi nào quý vị tự thấy biết và tự trải nghiệm điều đó là đúng, là chân thật, bấy giờ quý vị có thể chấp nhận nó”.


Lúc ấy, lời khuyên đó quả là một phát biểu mang tính chất cách mạng, vì hiển nhiên Đức Phật cũng nói như thế đối với chính giáo pháp của Ngài. Xuyên xuốt bao thời đại, người ta biết rằng giáo pháp của Đức Phật có ở đó để được khám phá và được trải nghiệm bởi từng cá nhân. Cho nên người ta không cần phải ngại ngần khi có sự nghi ngờ. Thật vậy, Stephen Batchelor, một tác giả viết nhiều tác phẩm về Phật giáo, đã cho xuất bản một quyển sách có tựa đề là Niềm tin cho sự nghi ngờ ( The Faith to Doubt). Chúng ta đặt câu hỏi là đúng. Nhưng chúng ta cần đặt nghi vấn với một trái tim rộng mở và một tâm thức rộng mở, chứ đừng có quan điểm cho rằng điều gì phù hợp với những ý niệm mà ta đã nhận biết trước mới là đúng, còn bất kỳ điều gì trái ngược với những ý niệm ấy thì đương nhiên là sai. Thái độ sau thì giống trường hợp ‘ cái giường của Procustes’. Ta có một cái khuôn định sẵn thích hợp, và bát kỳ điều gì ta tình cờ gặp phải điều hoặc bị kéo dài ra hoặc bị cắt ngắn đi cho phù hợp với cái khuôn ấy. Điều đó chỉ làm méo mó mọi vật và cản trở việc học tập.


Nếu tình cờ chúng ta gặp phải những điều nào đó mà chúng ta cảm thấy khó chấp nhận được ngay cả khi chúng ta đã điều tra tìm hiểu một cách thật cẩn thận, điều đó cũng không có nghĩa là toàn bộ một giáo pháp chứa đựng những điều đó cần được vứt bỏ. Ngay cả giờ đây, sau bao nhiêu năm học hỏi, tôi vẫn thấy trong giáo lý của người Tây Tạng có những điều mà tôi chưa hoàn toàn dám chắc. Tôi thường tìm đến vị Lạt- ma của mình và tham vấn ngài về những điều như thế, và ngài thường nó, “Điều đó cũng tốt. Hiển nhiên, cô chưa thực sự có một mối liên kết với học thuyết đặc biệt ấy. Điều đó chẳng phải là vấn đề. Chỉ cần gạt nó qua một bên. Đừng nói, “Ồ không, điều đó không đúng”. Mà hãy nói “Tại lúc này, tâm thức tôi chưa lắm bắt được điều đó”. Về sau, có thể cô đánh giá đúng điều đó, mà cũng có thể cô sẽ không nắm bắt được nó. Điều đó không quan trọng”.


Khi chúng ta gặp phải một ý niệm mà chúng ta thấy khó chấp nhận, đặc biệt, nếu đó là một điều có tính cách thiết yếu đối với giáo lý, thì điều đầu tiên mà chúng ta nên làm là hãy tìm hiểu kỹ vấn đề ấy với một tâm thức không định kiến. Ta nên đọc bất kỳ điều gì có thể đọc liên quan đến vấn đề đó, không chỉ từ quan điểm của giáo pháp nhà Phật, mà nếu có nhiều cách khác nhau để tiếp cận vấn đề ấy, chúng ta cũng cần phải đọc cả những tài liệu ấy nữa. Chúng ta cần phải tự hỏi vấn đề đó nối kết như thế với những phần khác của giáo lý. Chúng ta phải đưa được khả năng nhận thức của chúng ta vào đó. Cùng lúc, chúng ta nên nhận biết rằng khả năng nhận thức của chúng ta vẫn chỉ là nhận thức thế tục. Chúng ta vẫn chưa có được một tâm thức rộng khắp. Chúng ta chỉ có một cái nhìn rất hạn hẹp. Cho nên dứt khoát là vẫn có vô số những điều mà nhận thức thế tục thông thường của chúng ta chẳng thể nào nếm trải một cách trực tiếp. Mà điều đó không có nghĩa những điều ta không đủ sức nhận thức là những gì không hiện hữu.


Lại nữa, điều quan trọng là giữ được một tâm thức rộng mở. Nếu người khác có những kinh nghiệm sâu sắc hơn và tâm thức kháng đạt hơn cho biết họ có kinh nghiệm về một điều gì đó, ít nhất, ta nên có khả năng nói,” Có thể điều đó đúng là như vậy’.Ta không nên lấy cái tâm hạn hẹp và vô minh của ta làm tiêu chuẩn. Mà chúng ta phải nhớ rằng tâm thức hạn hẹp và vô minh của ta hoàn toàn có thể được chuyển hóa.


Đó là tất cả những gì con đường hướng đến. Tâm thức của chúng ta ngày càng trở nên rộng mở hơn và khoáng đạt hơn khi chúng ta tiến bộ. Chúng ta bắt đầu nhìn thấy mọi sự vật một cách rõ ràng hơn, và kết quả là mọi sự mọi vật bắt đầu vào khuôn một cách chậm chạp. Chúng ta cần phải kiên nhẫn. Chúng ta không nên trông đợi có thể hiểu được những giải thích sâu sắc của một tâm thức minh triết trong lần đầu tiên chúng ta tình cờ được gặp. Tôi tin chắc rằng chúng ta đều biết đến một số tác phẩm nào đó nói về sự minh triết mà chúng ta có thể đọc đi đọc lại nhiều lần năm này qua năm khác; và mỗi lần đọc lại, ta vẫn có cảm tưởng như ta mới đọc chúng lần đầu. Đó là vì tâm thức chúng ta đang mở rộng, chúng ta bắt đầu khám phá những tầng bậc ngày càng sâu hơn của ý nghĩa mà chúng ta không thể thấy được trong lần đọc trước đó. Con đường tâm linh chân thật thì cũng hệt như vậy. Nó có những tầng bậc của ý nghĩa, và chúng ta chỉ có thể hiểu những khái niệm của các tầng bậc tiếp cận được bởi trình độ tâm thức hiện tại của ta.


Tôi nghĩ rằng mỗi người đều có những điểm vướng mắc khác nhau. Tôi biết có những điều mà một số người thấy là hết sức khó nắm bắt nhưng lại quá sức giản dị đối với tôi. Tôi đã tin rất nhiều điều trong giáo pháp trước khi tôi đến với Phật pháp. Ngược lại, có những điều hết sức khó khăn đối với tôi, thì những người khác lại thấy quá dễ để hiểu và chấp nhận. Tất cả chúng ta đều đến từ những nền giáo dục khác nhau, và như thế, mỗi người chúng ta đều có những vấn đề riêng của mình. Nhưng điều quan trọng là nhận biết những vấn đề đó không phải là chuyện lớn lao. Đó chẳng là vấn đề gì cả. Việc nghi ngờ và truy vấn của chúng ta thúc đẩy chúng ta đi tới và giữ cho chúng ta luôn cảnh giác về mặt tri thức.


Đã có những lúc mà toàn thể đời sống tâm linh của tôi được đặt dưới một dấu hỏi to lớn. Nhưng thay vì bỏ qua những câu hỏi ấy, tôi đã đưa từng vấn đề một ra để truy vấn và khảo sát cặn kẽ. Khi tôi đã vượt qua được, tôi nhận ra rằng đơn giản đó không phải là vấn đề. Chúng ta có thể hoàn toàn hạnh phúc với một dấu hỏi. Cuối cùng, nó chẳng là vấn đề gì cả, miễn là chúng ta đừng củng cố nó hoặc đặt toàn thể cuộc sống của ta vào cái cảm giác bị đe dọa bởi nó. Chúng ta cần phát triển sự tự tin vào những phẩm chất nội tại đó có thể mang lại hoa trái. Tất cả chúng ta đều có Phật tính. Chúng ta có tất cả những phẩm chất cần thiết cho việc đi theo con đường đạo. Nếu chúng ta không tin điều đó, sẽ rất khó để chúng ta dấn thân vì chúng ta không có nền tảng để từ đó đi tới. Điều đó hết sức giản dị. Phật pháp không dựa trên giáo điều.


Thế nhưng tại sao việc tin rằng chúng ta có Phật tính lại khó khăn như vậy đối với chúng ta? Căn bản là vì trạng thái tâm thức của chúng ta, vì chúng ta thiếu kiến thức về việc ta là ai và vai trò của chúng ta là gì trong cuộc sống này. Vì chúng ta không biết chúng ta là ai, chúng ta cảm thấy xa cách với những người khác. Đó chính là cái cảm giác về ‘ ngã’, cảm giác ấy tạo nên cho tất cả chúng ta những sợ hãi, giận dữ, bám víu, ghen tức,và bất an. Nhưng Đức Phật bảo rằng sự việc không bị buộc phải như vậy. Bản chất vốn có của chúng ta là thanh tịnh. Tất cả những gì chúng ta phải làm là phát hiện lại rằng ta thực sự là ai, và rằng đạo có mục đích gì. Điều đó rất đơn giản. Điều đó không dựa trên tín ngưỡng, mà thực ra dựa trên những kinh nghiệm, và kinh nghiệm dẫn tới nhận thức. Vấn đề không phải là học những gì các vị Lạt-ma giảng, hoặc những gì mà truyền thống có nói đến, rồi tin rằng điều đó sẽ cứu rỗi chúng ta. Con đường đạo không hề cứu rỗi chúng ta. Tất nhiên, chúng ta cần phải biết Đức Phật đã nói những gì. Chúng ta cần biết các bậc thầy ngày xưa đã nói những gì, vì các ngài đã đi trước ta và đã để lại cho chúng ta những tấm bản đồ để chúng ta có thể lần theo. Điều đó cũng hơi giống như là đọc một tập du ký. Chúng ta có thể đọc một tập du ký và có cảm tưởng là chúng ta đã có mặt ở nơi mà tập du ký nói đến,, nhưng thật sự, chúng ta chưa bao giờ ở đó. Những điều đó chỉ là kinh nghiệm du hành của một ai khác. Vì khi ta đi tới đó, ta sẽ có những kinh nghiệm riêng của ta. Theo con đường đạo là để có những trải nghiệm về con đường ấy cho chính mình. Trải nghiệm ấy không dựa trên những gì mà người khác mô tả. Nó không dựa trên một niềm tin mù quáng. Tất nhiên, chúng ta cần một mức độ tin nào đó để mua một chiếc vé và bắt đầu cuộc hành trình của chính mình. Chúng ta tin xứ sở đó hiện hữu và đó là một nơi đáng mến . Nhưng vượt qua chuyện đó, điều quan trọng là lên đường. Và vì ta đi, ta có thể tự nhủ: “Vâng đấy đúng là con đường mà những người đi trước đã mô tả. Đúng thế. Con đường trông giống như vậy”.


Chú thích của người dịch:

1.Theo nội dung kinh Kalama, chương Ba Pháp, Tăng Chi Bộ.
2.Theo thần thoại Hy lạp, Prosecutes có một chiếc giường sắt, dành cho khách đến ngủ qua đêm. Người nào thấp quá, ngắn hơn chiếc giường, ông ta kéo cho họ dài ra; người nào cao quá, dài hơn chiếc giường, ông ta cắt bớt chân của họ, cho vừa khít với chiếc giường. ’Chiếc giường của Prosecutes’ được người phương Tây dùng để chỉ một tiêu chuẩn tùy tiện độc đoán đòi hỏi sự tuân phục tuyệt đối.


Về tác giả: Ani Tenzin Palmo là người phụ nữ phương Tây đầu tiên đã xuất gia để trở thành một vị Ni theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng và trở nên nổi tiếng vì đã trải qua suốt 12 năm ẩn tu trong một hang động trên núi Himalaya, một nơi có cao độ khoảng 4.000m so với mực nước biển.Bà là người Anh, sinh tại Luân Đôn, là nhân vật được nhắc tới trong cuốn sách Cave in the Snow của Vicki MaKenzie, đã được dịch ra tiếng Việt dưới tựa đề Trong động Tuyết Sơn (dịch giả Thích nữ Minh Tâm) hay Ẩn tu nơi núi Tuyết ( dịch giả Trịnh Đức Vinh).


Ni sư Tenzin Palmo - Khánh Uyên dịch
Nguồn: Reflections on a Mountain Lakem Snow Lion Pubications

THUYẾT DUY NGHIỆM





ANTHONY M. QUITON, BARON QUITON




Trong triết học, thái độ cho rằng những niềm tin phải được chấp nhận và làm theo miễn là chúng được khẳng định trước hết bằng kinh nghiệm thực tế. Định nghĩa rộng này phù hợp với việc ta dẫn xuất tên gọi này (“thuyết duy nghiệm”) từ chữ Hy Lạp là empeiria, nghĩa là “sự kinh nghiệm”. Tuy nhiên, cụ thể hơn, thuyết duy nghiệm gồm một cặp học thuyết triết học tuy có quan hệ gần gũi nhưng vẫn khác nhau: học thuyết này gắn với những khái niệm, còn học thuyết kia gắn với những mệnh đề.

Học thuyết đầu, một lý thuyết về nghĩa, cho rằng các từ ngữ (từ “bản thể” chẳng hạn) có thể được hiểu hay những khái niệm cần có cho bất cứ tư tưởng có tính nối khớp nào chỉ có được nếu chúng được những người sử dụng nối kết với những sự vật mà họ đã kinh nghiệm hay có thể kinh nghiệm (ví dụ: những miếng gỗ, các khí đốt trong động cơ xăng). Học thuyết sau, một lý thuyết triết học về nhận thức, xem niềm tin, hay ít ra một số vấn đề chủ yếu của niềm tin (ví dụ, tin rằng Jane là người tốt), là phụ thuộc một cách căn bản và tất yếu vào kinh nghiệm cho sự biện minh (Jane được xem là đang thực hiện những hành vi của lòng tốt)

Tuy nhiên, cả hai học thuyết này đều hàm ý lẫn nhau một cách chặt chẽ. Một số nhà duy nghiệm đã thừa nhận rằng có những mệnh đề tiên nghiệm nhưng lại phủ nhận rằng không có những khái niệm tiên nghiệm. Tuy nhiên, sự tách rời ngược nhau ấy giữa hai hình thức của thuyết duy nghiệm không có một giải thích nào cho rõ ràng, bởi lẽ khó có một triết gia nào phủ nhận hoàn toàn những mệnh đề tiên nghiệm và chắc chắn không ai cùng lúc chấp nhận những khái niệm tiên nghiệm.

Nhấn mạnh đến kinh nghiệm, vì thế thuyết duy nghiệm đã đối lập với những yêu sách về uy quyền, trực quan, sự mường tượng phỏng đoán, và sự lập luận trừu tượng mang tính lý thuyết, hay mang tính hệ thống, như là những nguồn suối của niềm tin đáng tin cậy. Phản đề cơ bản nhất của nó là đối lập với cái sau (tức với thuyết duy lý, cũng được gọi là thuyết duy trí hay thuyết tiên nghiệm ). Một lý thuyết duy lý về nghĩa khẳng định rằng có những khái niệm không được rút ra từ hay đối ứng với những đặc điểm của thế giới mà ta có thể kinh nghiệm được như: “nguyên nhân”, “tính đồng nhất”, hay “vòng tròn hoàn hảo” và rằng những khái niệm này là tiên nghiệm (chữ Latinh: “từ cái trước”) theo nghĩa truyền thống là một phần của năng lực tự nhiên hay năng lực bẩm sinh của tâm thức – được đối lập là hậu nghiệm (chữ Latinh: “từ cái sau”), hay được đặt cơ sở trong sự kinh nghiệm về các sự kiện. Mặc khác, lý thuyết duy lý về nhận thức cho rằng có những niềm tin là tiên nghiệm (tức là để biện minh chúng, ta chỉ cậy vào mỗi tư tưởng mà thôi), ví dụ như niềm tin rằng mọi thứ phải có lý do đầy đủ hay niềm tin rằng một quá trình không thể tự nó có được mà phải xuất hiện trong thực thể nào đó. Những niềm tin như thế hoặc có thể nảy sinh hoặc từ trực quan trí tuệ, tức sự lĩnh hội trực tiếp về chân lý tự-hiển minh, hoặc từ sự lập luận thuần túy theo lối diễn dịch.

1. Những nghĩa khác nhau của thuyết duy nghiệm
1.1. Những nghĩa rộng

Cả trong các thái độ hàng ngày lẫn trong các lý thuyết triết học, những kinh nghiệm được đề cập đến về nguyên tắc là những kinh nghiệm nảy sinh từ sự kích thích của các cơ quan cảm giác, đặc biệt là thị giác và xúc giác. Nhưng phần nhiều các triết gia duy nghiệm đều khăng khăng cho rằng cảm giác không phải là nguồn cung cấp duy nhất của kinh nghiệm, trong khi thừa nhận sự ý thức về những trạng thái tinh thần trong sự nội quan hay trong sự phản tư là kinh nghiệm, ví dụ như những cảm nhận về cơn đau hay nỗi sợ, thường được mô tả một cách ẩn dụ là hiện ra trong “giác quan bên trong”. Một vấn đề còn bất đồng ý kiến là những loại kinh nghiệm vẫn còn tăng tiến nữa, như: kinh nghiệm luân lý, kinh nghiệm thẩm mỹ, hay kinh nghiệm tôn giáo, phải được thừa nhận là thường nghiệm không.

Hai điểm nhìn khác có liên quan nhưng không cùng một với thuyết duy nghiệm là thuyết dụng hành của nhà tâm lý học kiêm triết gia người Mỹ, William James - một phương diện của nó là thuyết duy nghiệm triệt để - và thuyết thực chứng lôgíc, cũng được gọi là thuyết duy nghiệm lôgíc. Cho dù những triết học này đều duy nghiệm cả, nhưng mỗi thuyết lại có một trọng điểm riêng, và trọng điểm này chứng thực cách giải quyết của từng thuyết như là một sự vận động biệt lập. Thuyết dụng hành nhấn mạnh sự bao hàm những ý niệm trong kinh nghiệm và trong hành động thực tiễn, trong khi thuyết duy nghiệm lôgíc liên quan đến kinh nghiệm khoa học hơn.

Khi mô tả một thái độ hàng ngày, chữ “thuyết duy nghiệm” đôi khi chuyển tải một hàm ý không tán thành về sự ngu dốt hay sự dửng dưng với lý thuyết có liên quan. Do đó, để gọi một bác sĩ, nhà duy nghiệm gọi ông ấy là lang băm – một cách gọi có thể dùng để chỉ những người thuộc phái điều trị đối lập với lối điều trị theo phương pháp và trong một vài quan điểm siêu hình học nào đó, các lý thuyết của Galen, một bác sĩ xuất chúng người Hy Lạp, thế kỷ 2 trước công nguyên, những lý thuyết ngự trị nền y khoa cho đến thế kỷ 17. Các nhà duy nghiệm y học đối lập với Galen ưa dựa vào những điều trị hiệu ứng lâm sàng được quan sát, mà không thẩm tra những cơ chế đã được lý thuyết trị liệu tìm ra. Nhưng “thuyết duy nghiệm”, bị tách khỏi hiệp hội y khoa này, cũng có thể được sử dụng, thuận lợi hơn, để mô tả sự cương quyết bác bỏ việc bị ảnh hưởng bởi bất cứ điều gì ngoại trừ những sự kiện mà nhà tư tưởng đã quan sát thấy từ chính bản thân mình, một sự đối kháng thẳng thừng lại những tư kiến được tiếp nhận hoặc những chuỗi lập luận trừu tượng không dựa trên cơ sở chắc chắn.

1.2. Những nghĩa hẹp

Với tư là là một phong trào được định nghĩa một cách hẹp hơn, thuyết duy nghiệm phản ánh những sự phân biệt cơ bản nào đó và diễn ra ở những trình độ khác nhau.

1.2.1. Những phân biệt cơ bản

Nếu việc làm xóa nhòa sự phân biệt giữa những khái niệm và những mệnh đề đã làm lẫn lộn những cuộc thảo luận về thuyết duy nghiệm, thì sự ảnh hưởng khác ít ra cũng gây tranh cãi không kém đó là cái, được thể hiện trong hệ thuật ngữ truyền thống của các cuộc tranh luận, đối lập thuyết duy nghiệm với cái bẩm sinh, chứ không phải với tiên nghiệm. Vì những vấn đề lôgíc học dễ bị lẫn lộn với những vấn đề tâm lý học, nên không dễ dàng gì ta gỡ vấn đề về nguồn gốc nhân quả của những khái niệm và những niềm tin của con người ra khỏi vấn đề về ý nghĩa của chúng và sự biện minh chúng.

Một khái niệm, ví dụ như “số năm”, được cho là có tính chất thiên bẩm nếu việc con người sở hữu nó là độc lập về nguyên nhân với kinh nghiệm của mình – ví dụ độc lập với việc ta lập ra năm nhóm đối tượng. Mặt khác một khái niệm, “Phải là” chẳng hạn, là tiên nghiệm nếu những điều kiện lôgíc của sự vận dụng nó (hay của những từ ngữ diễn tả nó) không bao gồm bất cứ sự quy chiếu nào đến những hoàn cảnh có thể kinh nghiệm được (do đó “Phải là” không thể được định nghĩa bằng những sự kiện đơn thuần). Cũng giống như thế, một niềm tin là thiên bẩm nếu sự thừa nhận nó là độc lập về mặt nguyên nhân với kinh nghiệm của người mang niềm tin; và nó là tiên nghiệm nếu sự biện minh cho nó là độc lập về mặt lôgíc với kinh nghiệm. Những mệnh đề có thể là thiên bẩm nếu không phải tiên nghiệm, ví dụ niềm tin thường nghiệm của trẻ em rằng hai bầu vú mẹ sẽ nuôi dưỡng nó.

Sắc màu nào đó được thêm vào sự lẫn lộn giữa tiên nghiệm và thiên bẩm bởi sự kiện là hầu hết những khái niệm thường nghiệm thực sự được sở đắc nhờ kỹ thuật định nghĩa biểu diện, trong đó một khái niệm (ví dụ khái niệm “dài”) được chuyển tải bằng cách đưa ra những trường hợp làm ví dụ cho nó (một số cây bút chì dài nào đó) vào kinh nghiệm của người học. Nhưng không dựa vào thể cách sở đắc của chúng mà những khái niệm là thường nghiệm; chính phương cách mà chúng được áp dụng, một khi chúng được sở hữu, xác định cho chúng tính chất như thế. Dù con người được sinh ra với năng lực sử dụng theo bản năng chữ “màu xanh” mà không bao giờ phải học cách sử dụng chữ đó như thế nào, chữ “màu xanh” ấy vẫn là khái niệm thường nghiệm nếu lý do cho việc sử dụng nó luôn là kinh nghiệm của giác quan của con người về một đối tượng màu xanh. Hơn nữa, việc con người sau khi sinh ra đã học cách sử dụng chữ “nguyên nhân” không chứng tỏ rằng chữ này diễn tả một khái niệm thường nghiệm nếu việc áp dụng nó cho cái gì đó luôn hàm ý đến cảm thức mà kinh nghiệm về loại sự vật ấy hình dung nhiều hơn là áp dụng nó vào tâm thức.

Một thuộc tính khác đồng nhất về mặt giả định nhưng trên thực tế là ít nhiều không có liên quan nhau của những khái niệm và những niềm tin là thuộc tính của tính phổ quát của việc sở hữu và thừa nhận nó – những khái niệm tiên nghiệm hay thiên bẩm ấy phải là sở hữu chung cho tất cả mọi người và những niềm tin như thế phải được mọi người chấp nhận. Trên thực tế, có thể có cơ sở nào đó cho việc rút tính phổ quát ra từ tính thiên bẩm, vì nhiều đặc trưng thiên bẩm như chứng sợ tiếng ồn có vẻ là chung toàn thể loài.

Hai loại khái niệm chính được cho là tiên nghiệm và vì thế là không thường nghiệm. Thứ nhất, có những khái niệm hình thức nào đó của lôgíc học và của toán học phản ánh cấu trúc cơ sở của diễn ngôn: “không”, “và”, “hoặc”, “nếu”, “mọi”, “một số”, “tồn tại”, “đơn vị”, “số”, “phần tử tiếp theo”, “vô hạn”. Thứ hai, có những khái niệm phạm trù như: “bản thể”, “nguyên nhân”, “tinh thần” và “Thượng đế”, nên được gọi là sau “những phạm trù của tư duy” như đã được Kant và Aristoteles liệt kê thành danh mục, là những phạm trù mà tâm thức áp đặt cho những dữ kiện được mang lại của kinh nghiệm.

Rất nhiều những kiểu mệnh đề khác nhau cũng được cho là tiên nghiệm. Đôi người ắt sẽ cho rằng trạng thái này không phải là những sự hiển nhiên của định nghĩa hay những hay sự lặp thừa rõ rệt như “mọi đầu trọc đều hói” hay “một hoa hồng là một hoa hồng”. Cũng có những chân lý của lôgíc học, toán học, và của siêu hình học – dù là chân lý siêu nghiệm như: “sự tồn tại của Thượng đế”, vật-tự-thân (nằm sau những hiện tượng), hay những chân lý nội tại và vì thế có thể tri giác được trong thực tại như: những nguyên tắc (được tiền giả định bởi nhiều khoa học tự nhiên) về sự bảo toàn, quan hệ nhân quả và lý do đầy đủ. Một số người cho rằng những nguyên tắc nền tảng của đạo đức học, hay quy luật nhân quả của tự nhiên là tiên nghiệm. Tuy nhiên thuyết duy nghiệm một mực cho rằng một số trong những nguyên tắc đó mới là tiên nghiệm

1.2.2. Các cấp độ của thuyết duy nghiệm
Thuyết duy nghiệm, dù đề cập về ý nghĩa hay nhận thức, cũng có thể được tổ chức với nhiều cấp độ cường độ khác nhau. Trên cơ sở đó, ta có thể phân biệt thuyết duy nghiệm tuyệt đối, thuyết duy nghiệm bản thể (chất liệu), và thuyết duy nghiệm bộ phận.

Những nhà duy nghiệm tuyệt đối cho rằng không có những khái niệm tiên nghiệm, hoặc là mô thức hoặc là nhất quyết và không có những mệnh đề tiên nghiệm. Thuyết duy nghiệm tuyệt đối về nhận thức thì ít phổ biến hơn thuyết duy nghiệm tuyệt đối về những khái niệm, và hầu như triết gia nào cũng đều thừa nhận rằng ít ra những phép lặp thừa rõ rệt và sự hiển nhiên của định nghĩa là tiên nghiệm; nhưng nhiều người nói ắt sẽ nói thêm rằng chúng biểu hiện tình trạng xuống cấp.

Một hình thức thuyết duy nghiệm ôn hòa hơn là của những nhà duy nghiệm bản thể, là những người không bị thuyết phục bởi những nỗ lực được tạo ra để lý giải những khái niệm hình thức theo kinh nghiệm, và vì thế họ thừa nhận rằng những khái niệm hình thức là tiên nghiệm, nhưng lại phủ nhận những khái niệm nhất quyết như “bản thể", "nguyên nhân", và "Thượng đế" là tiên nghiệm. Theo quan niệm này, những khái niệm hình thức ắt sẽ không còn là những khái niệm ngữ nghĩa, gắn liền với mối quan hệ giữa các từ ngữ và các sự vật; thay vào đó, chúng sẽ chỉ là những khái niệm mô tả đơn thuần hay những khái niệm thuần túy là cú pháp, gắn liền với những quan hệ giữa các ý niệm. Trên cơ sở này “Thượng Đế”, chẳng hạn, không phải là một thực thể bên cạnh những thực thể khác mà là công cụ sắp xếp những niềm tin dựa vào sự kiện của con người về thế giới; vì vậy khái niệm “Thượng Đế” sẽ giữ vai trò cấu trúc chứ không phải vai trò thông tin.

Một quan điểm song hành với nó về nhận thức cho rằng chân lý của những mệnh đề toán học và những mệnh đề lôgíc được xác định, như chân lý của những điều hiển nhiên có thể định nghĩa rõ, bởi các mối quan hệ giữa các nghĩa với nhau vốn được thiết lập trước kinh nghiệm. Chân lý thường được các nhà đạo đức học tán thành, ví dụ như ai đó thực sự bị bắt buộc phải cứu một người khỏi chết đuối với điều kiện anh ta có thể làm được điều đó là vấn đề về nghĩa chứ không phải là về những sự kiện về thế giới. Theo quan điểm này, mọi mệnh đề, trái với ví dụ nói trên, ở bất kì phương cách nào thuộc thông tin căn bản về thế giới, thì đều là thường nghiệm.

Ngay cả khi nếu có những mệnh đề tiên nghiệm, thực chất chúng là những mệnh đề hình thái hay vị từ hay khái niệm, và chân lí tất yếu của chúng chỉ đơn thuần rút ra từ những nghĩa mà con người đã gán cho các từ ngữ mình dùng. Một nhận thức tiên nghiệm là hữu ích vì nó làm sáng tỏ những hàm ý ẩn giấu của những khẳng định mang tính sự kiện và bản thể.

Nhưng những mệnh đề tiên nghiệm bản thân chúng không diễn tả nhận thức mới mẻ về thế giới một cách chân thực; chúng thật sự là những mệnh đề rỗng, “đúng cho mọi thế giới có thể”. Vì thế “tất cả những người độc thân là những người chưa lập gia đình” chỉ đơn thuần đưa ra sự thừa nhận minh nhiên về sự cam kết để mô tả là người chưa lập gia đình cho bất cứ ai được cho là độc thân; nhưng nó chẳng thêm bất cứ điều gì mới.

Thuyết duy nghiệm bản thể về nhận thức, nền tảng cho phần lớn triết học phân tích đương đại, xem mọi mệnh đề tiên nghiệm như là những lặp thừa ít nhiều bị che dấu, hay nói theo Kant, như thuộc về phân tích. Vì thế, nếu “nghĩa vụ” của một người được định nghĩa như là điều anh ta luôn nên làm, thì phát biểu: “một người luôn nên thực hiện nghĩa vụ của mình” sẽ trở thành “một người luôn nên làm những gì mà anh ta luôn nên làm”. Theo đó, lập luận diễn dịch được xem như là một phương cách đưa trạng thái lặp thừa vốn bị che dấu này ra ánh sáng. Sự giải thoát hầu như luôn được đòi hỏi như vậy có nghĩa là một nhận thức tiên nghiệm là không hề thông thường.

Đối với nhà duy nghiệm bản thể, những chân lý hiển nhiên và những mệnh đề của lôgíc học và toán học tát cạn hết lĩnh vực của cái tiên nghiệm. Khoa học, mặt khác - từ những giả định nền tảng về cấu trúc của vũ trụ tới những yếu tố chứng cứ đơn lẻ được dùng để củng cố những lý thuyết của nó - thì được xem như hoàn toàn mang tính thường nghiệm. Những mệnh đề của đạo đức học và của siêu hình học, là những mệnh đề bàn về bản tính của “Tồn tại” xét như là tồn tại (chẳng hạn, “chỉ cái gì không phụ thuộc vào sự biến đổi là hiện thực”), hoặc là sự lặp thừa được nguy trang hoặc là những phát biểu thường nghiệm hay chỉ là những mệnh đề giả; tức là, những sự kết hợp các từ ngữ mà, bất chấp tính chất đáng kính của ngữ pháp của chúng, cũng không thể được xem như là những khẳng định đúng hay những những khẳng định sai.

Loại thuyết duy nghiệm ít triệt để được phân biệt ở đây, xếp ở mức độ thứ ba, có thể được gọi là thuyết duy nghiệm bộ phận. Nhiều triết gia cho rằng những khái niệm khác ngoài cái hình thức ra đều là tiên nghiệm và rằng về cơ bản là có những mệnh đề mang thông tin về thế giới lại không phải là thường nghiệm. Những mệnh đề của siêu hình học siêu nghiệm, hay những mệnh đề siêu hình học của Kant, và những mệnh đề của thần học, những nguyên tắc khoa học phổ biến về sự bảo tồn và tính nhân quả, những nguyên tắc cơ bản của luân lý, và những luật nhân quả của tự nhiên, tất cả đều được cho vừa là tổng hợp vừa là tiên nghiệm - bản thể và tuy thế có thể xác lập được chỉ bằng lập luận mà không cần đến kinh nghiệm. Tuy nhiên trong tất cả những phiên bản của quan niệm này vẫn còn rất nhiều khái niệm và mệnh đề thường nghiệm trực diện: những mệnh đề đơn nhất (hay còn gọi là “những mệnh đề Russell”) thông thường về sự kiện và những khái niệm nổi bật trong chúng được cho là thất bại trong lĩnh vực thường nghiệm.

CÙ NGỌC PHƯƠNG dịch
Nguồn: "Empiricism." Encyclopædia Britannica. 2009. Encyclopædia Britannica Online. 26 Jul. 2009

Thế giới như tôi thấy



Tiểu luận này được Einstein viết tại Berlin năm 1930 khi ông 51 tuổi. Năm 1931, nó được dịch ra tiếng Anh và in trong tập thứ 13 của bộ sách Living Philosophiers, NXB New York, Mỹ...




Lạ thường biết bao loài hữu tử chúng ta! Mỗi chúng ta đã ghé thăm nơi đây trong một kiếp ngắn ngủi; cho một mục đích ta không hay biết, dù đôi khi ta nghĩ là ta cảm nhận được nó. Nhưng khi nhìn từ cuộc sống đời thường, mà không đi sâu hơn, lẽ tồn tại của chúng ta nằm ở những người anh em – trước hết là những người mà ta đặt niềm vui của mình vào nụ cười và hạnh phúc của kẻ đó, kế đến là những người không quen nhưng vận mệnh của họ đã nối với ta bằng mối dây đồng cảm. Hàng trăm lần mỗi ngày tôi tự nhắc mình rằng cuộc sống bên trong và bên ngoài của tôi đều nhờ vào công sức lao động của những người khác, dù họ còn sống hay đã chết, và tôi phải tận hiến chính mình để trao đi đúng mức tôi đã nhận và đang nhận. Tôi có nhu cầu sống giản tiện và có những lúc thấy dằn vặt bởi cảm giác mình đang chiếm giữ một lượng dư thừa công sức lao động của những người anh em. Với tôi, sự khác biệt đẳng cấp là bất công và luôn phải dựa trên cường quyền. Đồng thời tôi cũng cho rằng một lối sống giản dị là tốt cho tất cả mọi người, cả về vật chất lẫn tinh thần.


Tôi không tin vào tự do của con người theo nghĩa triết học. Mọi người hành xử không chỉ dưới sức ép ngoại lực mà còn phải thuận theo những nhu cầu nội tại. Câu nói của Schopenhauer, “một người có thể làm như anh ta muốn, nhưng không thể cứ muốn “muốn” là được” (a man can do as he will, but not will as he will) đã luôn là nguồn cảm hứng của tôi từ thời trẻ, nó cũng là sự an ủi vô hạn và dòng suối bất tận của lòng kiên nhẫn, để từ đó đối mặt với những thử thách của cuộc đời, của tôi, và của những người khác. Cảm xúc này đã nhân từ xoa dịu đi ý thức trách nhiệm, vốn rất dễ khiến ta tê liệt; nó giúp ta không quá khắt khe với chính mình và người khác; nó đưa ta đến một góc nhìn cuộc sống mà tại đó, trên tất cả, sự hài hước có vị trí xứng đáng của nó.


Từ góc nhìn khách quan, việc truy nguyên ý nghĩa hay mục tiêu tồn tại của ai đó cụ thể hay của sự sáng tạo nói chung khá vô nghĩa đối với tôi. Thế nhưng mỗi người đều có những lý tưởng riêng để định hướng những nỗ lực và phán xét của mình. Và như thế, tôi chưa bao giờ tìm kiếm sự thỏa mãn và êm ấm như là điểm đến cuối cùng – một nền tảng luân lý mà tôi cho rằng hợp với một đàn lợn hơn. Những lý tưởng đã thắp sáng lối đi của tôi, và ngày qua ngày trao cho tôi can đảm để đối mặt với cuộc sống một cách hân hoan, chính là Chân, Thiện, Mỹ. Nếu không có cảm thức về sự đồng điệu với những người cùng chí hướng, không có sự đau đáu về cái khách quan, cái mãi mãi cao vời trong nghệ thuật và khoa học, cuộc sống với tôi sẽ trở nên trống rỗng. Với tôi, những mục đích tầm thường mà người đời theo đuổi – của cải, sự thành đạt, sự xa hoa – luôn là những điều đáng khinh bỉ.


Ý thức nhiệt thành của tôi dành cho lẽ công bằng và trách nhiệm xã hội luôn đối nghịch một cách cố hữu với việc tôi không có nhu cầu kết nối trực tiếp với các cá nhân hay cộng đồng người. Với trọn trái tim, tôi đích thực là một kẻ sống thu mình, kẻ chưa bao giờ thuộc về đất nước, mái nhà, bạn bè, hay thậm chí gia đình tôi. Trong sự ràng buộc với những mối quan hệ này, tôi chưa bao giờ đánh mất cảm giác cố hữu về sự tách biệt và nhu cầu cần được cô độc – cảm giác này tăng dần theo tuổi tác. Ta có thể ý thức một cách sâu sắc, mà không hề hối tiếc, về những giới hạn trong tương giao và đồng cảm với người khác. Có thể một người như thế sẽ đánh mất phần nào sự hồn nhiên vô tư, nhưng bù lại, anh ta luôn độc lập trước các quan điểm, thói quen, và sự phán xét của người khác, và không để mình bị chao đảo trên cái nền không lấy gì làm vững chắc đó.


Lí tưởng chính trị của tôi là lý tưởng dân chủ. Hãy để mỗi người được tôn trọng như một cá nhân và không ai được thần tượng hóa. Số phận quả là trớ trêu khi chính tôi lại là đối tượng nhận được quá nhiều sự ngưỡng mộ và trọng thị từ những người anh em, dù tôi chẳng làm gì xứng đáng hay làm chi nên tội. Điều này có lẽ bắt nguồn từ sự khát khao bất thành của nhiều người trong việc thấu hiểu vài ba ý tưởng mà tôi, những ý tưởng mà tôi đã tìm được bằng chút sức mọn của mình qua nỗ lực không ngừng nghỉ. Thực ra tôi cũng biết rằng, để đạt được một mục đích tập thể nào đó, nhất thiết phải có ai đó đứng ra nghĩ, tổ chức và chịu trách nhiệm chung. Nhưng sự lãnh đạo không thể là bắt buộc, người ta phải có quyền chọn cho mình người cầm lái. Một hệ thống chuyên quyền bằng áp bức, theo tôi, sẽ sớm thoái hóa. Vì bạo lực luôn hấp dẫn những kẻ thấp kém về đạo đức, và tôi tin vào một quy luật bất biến rằng những gã bạo chúa thiên tài rồi sẽ được nối ngôi bởi những tên vô lại. Đó là lí do vì sao tôi quyết liệt chống lại những hệ thống như ta đang thấy ở Ý hay Nga hiện nay. Cái làm cho hình thức dân chủ hiện hành của Châu Âu mất tín nhiệm không nằm ở bản thân lý tưởng dân chủ, mà ở sự thiếu ổn định của bộ phận lãnh đạo cao cấp và tính phi nhân của hệ thống bầu cử. Về mặt này tôi cho rằng Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đã tìm ra lối đi đúng đắn: họ có một tổng thống có trách nhiệm, được bầu cho một thời gian đủ dài và có đủ quyền lực đủ để thực sự đảm nhận được trọng trách. Mặt khác, điều tôi đánh giá cao trong hệ thống chính trị của chúng ta là phúc lợi rộng rãi dành cho các cá nhân trong trường hợp đau ốm hay khó khăn. Giá trị thật sự trong hoạt động sống của loài người với tôi chẳng phải ở các nhà nước hay quốc gia, mà nằm ở các cá thể sáng tạo, hữu tri, là các nhân cách; chỉ cá nhân mới có thể tạo ra những giá trị chân quý và cao cả, trong khi bầy đàn tự nó vẫn mãi tù đọng trong tư duy và trì độn trong cảm xúc.





Nhân đây tôi muốn đề cập đến quái thai kinh tởm nhất của bản tính bầy đàn: hệ thống quân sự. Chỉ cần kẻ nào cảm thấy thích thú khi đứng vào đoàn duyệt binh theo tiếng quân nhạc là đủ để tôi coi khinh hắn rồi. Anh ta được trời phú nhầm cho bộ não lớn, bởi với anh ta, chỉ cần cột xương sống thôi là đã quá đủ. Bệnh dịch này của nền văn minh cần bị loại trừ càng sớm càng tốt. Chủ nghĩa anh hùng phục tùng mệnh lệnh, bạo lực mù quáng, và những tấn trò hề vô nghĩa lý nhân danh lòng ái quốc: tôi kinh tởm chúng làm sao! Chiến tranh với tôi là một thứ xấu xa đáng khinh bỉ: tôi thà bị băm vằm ra muôn mảnh còn hơn dự phần vào tấn trò khốn nạn đó. Dù sao tôi vẫn luôn nghĩ tốt về nhân loại, và tôi tin rằng, lẽ ra bóng ma này đã có thể biến đi từ lâu nếu lý trí lành mạnh của dân chúng không bị những tham vọng về kinh tế và chính trị, thông qua trường học và báo chí, làm cho bại hoại. Điều đẹp đẽ nhất mà chúng ta có thể trải nghiệm được là cái bí ẩn. Đó là cảm thức nền tảng trong cái nôi của nghệ thuật và khoa học chân chính. Kẻ nào không biết đến nó, không còn khả năng tự vấn hay kinh ngạc, kẻ đó có thể coi như đã chết, chết như một cây nến tàn. Trải nghiệm cái bí ẩn – dù có pha trộn cảm giác sợ hãi – đã sinh ra tôn giáo. Biết về sự hiện hữu của cái mà ta không thể nhìn thấu, của những biểu hiện của lý trí sâu thẳm nhất và cái đẹp rực rỡ nhất, tức về những cái chỉ có thể đến với tâm trí chúng ta trong những hình thức sơ khai nhất; chính cái biếtvà cái cảm này làm nên tính tín ngưỡng đích thực; theo nghĩa đó và chỉ theo nghĩa đó, tôi thuộc về những người có tín ngưỡng sâu xa. Còn một thượng đế theo nghĩa là kẻ ban phát phần thưởng và trừng phạt những tạo vật do chính mình tạo ra, kẻ gần như có một ý chí như người trần thế chúng ta, thì tôi không thể nào hình dung ra được. Tôi không muốn và cũng không thể tưởng tượng ra những cá nhân sống lâu hơn cái chết thể xác; mặc cho những tâm hồn yếu đuối, vì sợ hãi hay vị kỉ lố bịch, tìm đến những suy nghĩ như vậy. Với tôi, sự huyền nhiệm trong tính vĩnh cửu của sự sống, cùng với sự thức nhận và tiên cảm về cấu tạo kỳ diệu của tạo vật cũng như nỗ lực nhẫn nại để nắm bắt lấy một phần dù rất nhỏ bé của cái lý tính tỏa rạng trong cõi tạo hóa này, đã là đủ rồi.


Albert Einstein
Nguồn: Bản dịch từ Zagvillage.org

Mặt nạ da người?



Chắc ai trong chúng ta cũng từng nghe: "họa hổ họa bì nan họa cốt, tri nhân tri diện bất tri tâm". Câu nói trên không chỉ đúng với tất cả chúng ta, mà đúng trong mọi hoàn cảnh. Có một thực tế phũ phàng mà tôi muốn chia sẻ cùng bạn rằng: không một ai có thể hiểu được chính mình, kể cả vợ con, bố mẹ, anh chị em, bạn bè, người thân, ngay cả chính mình.





Mỗi chúng ta đều bị chi phối bởi một hoàn cảnh nhất định, một không gian nhất định. Mỗi hoàn cảnh, mỗi mối quan hệ đó lại buộc ta phải trưng ra một khuôn mặt khác, một hình hài khác, một bản chất khác... và vì thế, chẳng ai có thể vượt được những giới hạn của thời gian và không gian, để thống nhất những khuôn mặt đa hình vạn trạng đó thành một thể thống nhất được cả.

Ngay kể cả chính bạn cũng thế, cũng sẽ không biết thật con người mình là ai. Hãy quán chiếu tâm thức của mình xem, nó có khác gì Tôn Ngộ Không thần thánh đâu. Mỗi khoảnh khắc, mỗi sát na trôi qua là một tâm trạng được phơi bày, và tùy theo tâm trạng ấy mà trưng ra một bộ mặt khác nhau.

Những người yêu nhau đủ lâu, họ cứ nghĩ rằng, họ hiểu về nhau kỹ lắm. Nhưng họ không biết rằng, cái mà họ gọi là hiểu đó, thật ra chỉ là sự tưởng tượng. Hiểu gì? Hiểu con người trong quá khứ hay con người của hiện tại? Hiểu con người bên trong hay con người lý tưởng của tương lai? Có quá nhiều cảm xúc biến hình trong tình yêu, nên mọi đòi hỏi về hiểu nhau đều là tự vẽ tự cười và tự sướng.


Nhìn vào thực tế cuộc sống, không ai chỉ khư khư giữ cho mình một vị trí nhất định cả. Trong gia đình, bạn chỉ là đứa con khờ khạo trong mắt ba mẹ. Trong xã hội, bạn có thể lại là ông này bà kia dưới mắt nhân viên thuộc cấp. Trong mắt người yêu, có khi bạn chỉ là một người bạn ngang vai phải lứa... Mỗi vị trí bắt buộc bạn phải cư xử cho phù hợp. Đâu là khuôn mặt thật đằng sau những vị trí đó? Một câu hỏi quá khó cho việc tìm kiếm chính mình thông qua định danh của xã hội hay trong mắt người khác.

Bạn có quá bi quan trước thực tế phũ phàng như thế không? Có thể có, có thể không... Câu trả lời sẽ không phải là bất khả nếu ta vượt lên những lời khen tiếng chê của thế gian, vượt lên trên những ràng buộc của hoàn cảnh lịch sử khách quan. Làm sao để vượt qua nó??

Khi ta ở một mình, không tiếp xúc với ai... đó có phải là lúc khuôn mặt thật của chính mình được thể hiện không? Tôi không nghĩ như vậy. Đó cũng có thể chỉ đơn giản là khuôn mặt của tự kỷ, khi ta đang bị một cảm xúc nặng nề nào đó đeo bám.

Khi ta tiếp xúc với người khác, và cái gì ta hay thể hiện nhiều nhất có thể là khuôn mặt thật của chính mình không? Tôi cũng không nghĩ như vậy. Đó có thể chỉ là một thói quen được lập đi lập lại, đến mức bạn nghĩ đó là bản chất. Có rất nhiều thứ thói quen xấu như chửi thề chẳng hạn, và nhiều khi vì câu nói chửi thề đến mức thành cửa miệng của họ, mà đôi khi ta nghĩ oan cho họ là người không văn hóa, tệ hơn nữa là người xấu. Nhưng nhiều khi rơi vào những tình huống thập tử nhất sinh, tôi lại thấy họ còn tốt gấp vạn lần những kẻ chau chuốt ngôn từ đến mức trở thành xã giao. Sự lầm tưởng giữa thói quen và bản chất tương đối phổ biến trong cách nhìn người khác của mỗi chúng ta.

Thật ra, theo cách nhìn của tôi, việc tìm kiếm khuôn mặt thật của mình, là cả một chặng đường rất dài hơi. Nó không những phải trải qua những vị trí xã hội nhất định, mà còn phải trải qua những cảm xúc nhất định. Khi bạn leo lên đến tột đỉnh danh vọng, bạn cư xử thế nào? Khi bạn bị dư luận dẫm đạp xuống tận bùn sâu, bạn cư xử thế nào? Khi bạn hoan hỷ, bạn nhìn đời thế nào? Khi bạn bi quan, bạn phản ứng với người khác ra sao?...Khuôn mặt thật của bạn chính là sự tổng hòa của những đối nghịch như vậy. Nên nhớ, tổng hòa chứ không phải là phép cộng đơn thuần, nghĩa là bạn phải bỏ đi những vụn vặt của phản ứng cảm tính.

Tôi cho rằng, trong quan hệ với người khác, đừng có quá tự tin là mình đã biết hết về họ. Sự tự tin thái quá như vậy thường khiến bạn bị những đòn hồi mã thương ghê gớm. Tin tưởng người khác là tốt, nhưng bảo rằng biết họ là lầm tưởng ghê gớm. Cùng lắm ta chỉ có thể biết được vài khuôn mặt nào đó họ đã từng thể hiện, trong những hoàn cảnh nhất định mà thôi.

Tôi cũng cho rằng, trong quan hệ tình yêu, đừng có cố mà hiểu hết về người mà mình yêu. Biết rằng có hiểu mới có thương, nhưng có khi hiểu hết rồi thì lại hết thương nổi. Mỗi ngày hiểu một chút về họ, để tình thương trong ta lớn dần. Tôi sợ những câu nói như: "anh hiểu em mà..; em hiểu anh mà..." Những câu nói như vậy chẳng khác nào là dấu chấm hết cho mọi đối thoại và chia sẻ. Hiểu rồi thì còn cần gì phải nói nữa. Ấy vậy mà vẫn cứ làm đau nhau đấy thôi.

Bạn đừng nghĩ rằng, chỉ có những người đóng kịch mới đeo mặt nạ. Sân khấu mà bạn xem trên màn hình chỉ là một sân khấu rất nhỏ thôi, cuộc đời này mới đích thực là sân khấu lớn, mà mỗi chúng ta, dù muốn hay không muốn, cũng đều là những kịch sỹ đấy thôi.

Nói như vậy nhưng đừng có trách những người mà ta tiếp xúc là giả dối. Có những kẻ đóng giả thật, và cũng có những kẻ bắt buộc phải giả. Kẻ đóng giả thật là kẻ không sống thật với lòng mình, không đóng đúng vai của mình cần đóng trong điều kiện và hoàn cảnh nhất định. Kẻ bắt buộc phải giả là kẻ vẫn sống thật với lòng mình, nhưng do hoàn cảnh và điều kiện cụ thể, họ buộc phải làm như vậy. Chẳng hạn như tôi khi nói chuyện với riêng bạn, tôi không hề dối trá với chính mình, một người bạn tâm tình chia sẻ rất thật. Nhưng đứng trước một hội trường lớn, mà người đối thoại với tôi là cả trăm người, thì tác phong và ngôn từ của tôi không thể giống như với bạn được, mặc dù việc sử dụng ngôn từ giữa hội trường đó cũng rất là thật, xuất phát tận đáy lòng.



Hiểu rằng ta không thể biết hết được kẻ ta đang đối thoại, là để tập nhìn bằng đôi mắt khiêm tốn và cảm thông, là để học cách nuôi dưỡng và tăng trưởng tình thương lớn dần sau mỗi lần tiếp xúc và gặp gỡ.

Hiểu rằng ta không thể biết hết được chính ta, là để tập vơi đi những cố chấp vào thói quen hay nguyên tắc do chính mình đặt định ra. Tự tâm niệm rằng, mỗi khoảnh khắc sống thật với  cảm xúc  và nhận thức của mình, trong từng hoàn cảnh khác nhau, là mỗi ngày ta đi dần đến biết được khuôn mặt thật của chính ta.

Ai cũng đeo mặt nạ cả, nó làm bằng da người nguyên chất và chính hiệu đấy
Nhưng không có mấy người dám dần dần lột bỏ lớp da vô thường đó để nhìn vào khuôn mặt chân thường đâu.

Đa số vẫn còn sống bám vào trăm thứ son phấn trát lên nó để che đi những lỗ chân lông đang ngày càng to dần theo thời gian.

Vì thế, can đảm mà nhìn thẳng vào sự thật đi
Mỉm cười mà sống nhé!



 Trí Không