" Cả cuộc đời ba không có gì để lại cho các con ngoài số vốn kiến thức mà ba mẹ tảo tần nuôi các con ăn học.Mong các con trở thành những người hữu ích cho xã hội" ( trích từ TT "Vững Niềm Tin")
Thứ Sáu, 8 tháng 5, 2015
Thơ Bình Nguyên Trang
Nhà thơ Bình Nguyên Trang
Mùa hạ
Xanh mãi lên một đường chân trời
Nỗi buồn màu rơm rạ
Phượng yêu mùa bầm đỏ
Vút lên cao một tiếng mõ chùa
Mùa hạ mang ta về những hoài niệm vu vơ
Yêu đến tàn cánh hoa
Rừng rực nắng
Cơ thể xanh vào trời
Cơ thể tan vào đất
Anh và em lan tiếng gọi vào nhau
Cố nhân ơi đã gãy một cây cầu
Đã lạc đường vì sao đêm cầu tự
Đã cổ xưa một lời yêu vừa tới
Đã ngọt ngào một nỗi đắng cay
Đã vơi đi một con nước đầy
Đã khác dòng sông
Đã bao người đến tắm
Đã lở bồi con tim
Đã chậm nhanh nhịp đập
Đã xanh xao trong ngờm ngợp nắng hè
Đã tủi lòng em một phút tái tê…
Cây cứ lá và mùa cứ tới
Mùa cứ đi mùa cứ thói quen
Gió cứ thổi về nhớ nhớ quên quên
Cứ hư ảo trời xanh
Cứ cồn cào nắng đỏ
Cứ năm tháng và chuyến đò cũng lỡ
Mà chúng mình cứ sóng
Cứ lần tìm bóng nhau...
Và phía ấy
Và phía ấy sông trôi về biền biệt
Mưa mù sa hoa dại nở âm thầm
Ai tắt sáng xui chiều dâng bóng tối
Cho nhớ thương phủ ngập tâm hồn
Rằng đã vắng, anh giờ không đến nữa
Rằng đã tháng năm, bài hát đã mùa hè
Rằng gió lạnh đã nghiêng bờ vai lạnh
Tóc như rèm buông kín một chờ mong
Em chờ gì phía cuối dòng sông
Cỏ vẫn xanh như ngày anh đến
Trái tim hát dưới vòng tay ghì xiết
Rạng rỡ tháng hai trên gương mặt xuân thì
Em biết thế, đời là cuộc đi
Tình cũng vậy như sông đầy sông cạn
Và nước mắt phải đâu vì em khóc
Mưa đầu mùa trong đáy mắt em rơi
Dẫu biệt ly em vẫn biết ơn đời
Cho ta sống những tháng ngày khác lạ
Cho ta bay những chân trời tha thiết quá
Để vuột mất nào cũng trong nghĩa hồi sinh…
một ngày
Một ngày khoác túi lên vai
thấy cần đi
thấy nhớ ai
đắng lòng
Nỗi niềm
treo giữa thinh không
mùa thu đứng ở bên sông
thật hiền
Tôi
như là một người điên
phải đi cho tới
những miền rất xa
Cô đơn
ngay giữa ngôi nhà
cô đơn
ngay giữa ngàn hoa chúc mừng
Cần đi
tìm một người dưng
giữa mùa thu
mắt nửa chừng
mắt ơi
Cần đi
để nói một lời
đừng nuôi cô độc
một đời
trong nhau…
Em đã đợi
Vẫn để dành nụ hôn
thời thiếu nữ
cho một ngày anh đến cùng em
Anh
người của ngàn năm trước
người của ngàn năm sau
người của hôm nay
khi ta bắt đầu
Khi ta nhìn nhau
có tình yêu làm chứng
Em lại xỏ chân
vào đôi hài thiếu nữ
tuổi 20 chầm chậm quay về
những khổ nạn trên đời
mất dấu
lồng lộng chân trời
nhấp nháy ký tự Yêu
Tóc em bỗng là mây
xanh ngàn trùng sắc lá
mắt em bỗng là hồ
sâu thẳm đáy thời gian
tay em bỗng là hoa
dâng một mùa ân ái
và môi em
bỗng
nở đóa Thiên Đường
Em đã đợi
Dẫu mùa đi mùa tới
mặc tháng năm
trầm tích cuối con đường
Em đã đợi
bởi tin ngày anh đến
nụ hôn thời thiếu nữ
trao anh....
cửa sổ
Cửa sổ để em nhìn vào khoảng trống
để mở ra trời nắng
để khép lại trời mưa
và trong những ngày sương mù
em chờ anh gõ cửa
Dẫu rằng em không còn anh nữa
hề chi mà buồn với lẽ ở - đi
hề chi mà đau
hề chi mà xa xót
Căn phòng em những ngày mộng mị
là những ngày trống vắng niềm tin
ô cửa sổ vẫn sơn màu xanh
vẫn vì anh mà xanh
Và trong cơn mưa lá rũ không đành
em ngồi hát lời cây từ cửa sổ
ngay cả lúc nỗi đợi chờ tan vỡ
em nghiêng đời em qua mỗi chấn song
Trên trời cao còn có một dòng sông
còn thao thiết yêu một vì sao lạc
em dẫu không còn anh
dẫu là anh đã khác
dẫu tình yêu mặn nồng rồi phai nhạt
rồi hư ảo như trời
Rồi cứ thế căn phòng vừa khép cửa
người mở lòng ra mà bước tới không cùng….
Hãy tập mỉm cười trong tâm
Bắt đầu bằng đôi mắt
Đôi mắt có liên quan tới hệ thần kinh chủ động (hay thực vật), chia thành hai hệ: hệ giao cảm và hệ đối giao cảm. Hệ giao cảm điều hành những bản năng nguyên thuỷ; hệ đối giao cảm giúp con người được tĩnh tại, tạo ra những tình cảm yêu thương ...
Cả hai hệ này đều nối liền với mỗi tuyến của cơ thể. Qua trung gian của những hệ thần kinh, hệ giao cảm và đối giao cảm lệnh gia tăng hoặc kìm hãm hoạt động của chúng. Chính vì có sự liên quan giữa mắt và hệ thần kinh mà cơ thể có được toàn bộ những cảm xúc và cảm ứng tức thời. Khi thư giãn đôi mắt bằng nụ cười trong tâm, bạn giải phóng tâm trí ra khỏi gánh nặng của những căng thẳng thể chất. Trong trường hợp này, bạn đủ khả năng và tập trung sử dụng toàn bộ sinh lực sáng tạo của bạn vào công việc mà bạn đang quan tâm; đạt đến sự hài hoà với môi trường quanh bạn. Theo quan điểm của Đạo gia, mối quan hệ giữa sự thư giãn của đôi mắt và khả năng tập trung tư tưởng là điều rất quan trọng.
Một khi bạn cảm thấy trong đôi mắt mình đã rạng rỡ nụ cười, thì hãy dồn cái sinh lực này vào phủ tạng, và rót đầy các phủ tạng bằng một tình cảm thân thương.
Dưới đây là bảng chỉ dẫn những giai đoạn khác nhau trong việc thực hành nụ cười trong tâm :
1.Tuyến trước thân: Mắt, mặt, cổ, hệ tuần hoàn máu, phổi, tuỵ, lách, gan, thận, tuyến thượng thận.
2.Tuyến giữa thân: Miệng, thực quản, dạ dày, ruột non, ruột già, trực tràng. Hãy nuốt nước bọt trong giai đoạn này.
3.Tuyến sau thân: Các đốt sống (từng đốt một).
Tuyến trước thân
Hãy ghi nhớ rằng nụ cười đầy sinh lực mà bạn đang dồn xuống phủ tạng cũng sẽ giúp bạn khai mở sự tuần hoàn sinh lực gọi là Tiểu Chu Thiên. Bạn phải thực hành điều này một cách nhẹ nhàng, thoải mái; hãy để nụ cười đổ xuống từ đôi mắt như một cơn mưa êm đềm, qua các phủ tạng, cho đến bộ phận sinh dục. Sau một thời gian thực hành, sự chu chuyển này sẽ diễn ra một cách tự động (là cơ thể đã hình thành và thiết lập một thói quen mới) và giúp cho các phủ tạng hoạt động một cách tốt đẹp .
Hàm
Hãy để nụ cười lan toả trên khuôn mặt, rồi sau đó hướng nó vào bên trong các hàm của bạn. Các hàm là nơi chất chứa nhiều căng thẳng nhất của cơ thể. Khi sinh lực của nụ cười trong tâm đã được lan toả, bạn có cảm giác toàn thân thư thái, buông lỏng và những căng thẳng đã rời khỏi bạn. Sự thư giãn này có thể đi kèm với cảm giác rần rần ở da và ngay cả lùng bùng ở tai. Nếu xảy ra điều này thì bạn chớ lo sợ.
Lưỡi và vòm miệng
Như chúng ta đã biết, lưỡi là điểm mà Đốc Mạch (Dương) tiếp xúc với Nhâm mạch (Âm). Hãy đặt lưỡi ở hàm trên, ngay phía sau các răng cửa. Khi lưỡi đã ở đúng vị thế, nó chạm màng hầu đóng ở đáy miệng, nhưng với những ai mới bước vào con đường luyện công, thì họ nên đặt lưỡi ở vị thế thứ nhất. (Đặt lưỡi sau các răng cửa - vị thế Phong) Một khi khí đã lan toả trong lưỡi, bạn sẽ thấy có cảm giác nóng rần rần và nếm trải những vị mà với bạn là hoàn toàn mới mẻ.
Gáy và họng
Gáy cũng là một nơi chất chứa những căng thẳng bởi vô số dây thần kinh và mạch máu có liên hệ chủ yếu đến tâm trạng, sự tươi vui, sảng khoái, đều đi ngang qua đây. Gáy giữ vai trò liên kết não bộ với thân thể. Một cái gáy kết chặt bởi lo âu và căng thẳng sẽ làm rối mù những thông điệp của não bộ và tạo ra những mắt mấu trong cơ thể. Bạn cần phải thư giãn gáy, nếu không bạn không thể thực hiện vòng tuần hoàn sinh lực gọi là Tiểu Chu Thiên. Để bắt đầu, bạn hãy gồng cứng các cơ gáy, rồi để chúng mềm mại thư giãn. Hãy thả lỏng cằm và để cho sức nặng của đầu bạn trĩu xuống trên ngực. Các Đạo gia đã khám phá ra phương pháp này trong khi nhìn tư thế của các chú rùa. Hãy thư giãn các cơ gáy trong khi mường tượng rằng đầu bạn có thể thẳng đứng mà không cần sự chống đỡ của chúng. Hãy lan toả nụ cười vào gáy và họng. Trong khi thực hiện điều này, hãy cảm nhận sự căng thẳng đang dần dần được giải toả.
Những phủ tạng chủ yếu
Tim
Tim giữ máu và khí cho toàn bộ các động mạch và tĩnh mạch. Với Nội Đan thì tim cũng như Thận, là các cơ quan chủ yếu để chuyển vị Khí. Nói cách khác ,tim có khả năng làm gia tăng năng lượng Khí và chuyển biến Khí thành một năng lượng Âm. Khi lan toả nụ cười trong tim và đong đầy nó bằng tình yêu thương thì sự tuần hoàn máu cũng gia tăng đồng thời với sự gia tăng trao đổi năng lượng Âm và Dương ở bên trong sự tuần hoàn này. Hãy cảm nhận năng lượng tình yêu xuất phát từ nụ cười của bạn đang lan toả trong hệ tuần hoàn.
Việc thực hành nụ cười trong tâm với mục tiêu làm gia tăng sự tuần hoàn Khí giúp cho tim làm việc bớt mệt nhọc hơn. Nụ cười qua đôi mắt và não bộ kích thích sự tuần hoàn sinh lực, và như thế máu có thể lưu thông một cách tự do và đầy đủ, cùng lúc với trái tim được thư giãn. Việc thực hành phương pháp nụ cười trong tâm, kết hợp với một chế độ dinh dưỡng lành mạnh và những buổi thể dục đều đặn sẽ làm giảm những nguy cơ về tai biến tim mạch.
Hãy cảm nhận sự thư giãn lan toả trên khuôn mặt, gáy và đang tiến dần về tim của bạn. Bạn sẽ nhận thấy sự tươi mát êm ả ngự trị trong tim đồng thời với sự thư giãn của toàn thân. Với phương pháp này, những người cộc cằn nóng nảy, vốn thường cảm thấy đau nhức và căng thẳng trong tim hoặc vùng tim, sẽ có thể xua đi cảm giác đó. Vậy, bạn hãy để cho nụ cười toả rạng ở vùng tim. Hãy đong đầy tình yêu vào tim và để cho trái tim bạn trở thành vật "yêu quí"..
Phổi
Từ tim hãy lan toả tình yêu thương của bạn sang hai lá phổi. Hãy cảm nhận sự thư giãn của chúng và hít thở một cách thoải mái. Khi bạn hít vào rồi thở ra, hãy cảm nhận sự linh hoạt của phổi. Khi bạn thư giãn hai lá phổi và để cho sinh lực ùa vào, hãy cảm nhận về tính ẩm ướt và xốp của phổi .
Bụng
Tiếp đó, hãy để nụ cười trong trong tâm lan toả sang gan, phía bên phải, ngay dưới lồng ngực của bạn. Nếu bạn có một lá gan "chai lỳ ", nếu bạn gặp phải khó khăn trong việc tìm cảm giác, thì hãy kiên trì tập luyện để giúp cho gan của bạn mềm mại trở lại. Bằng nụ cười, bạn hãy mang lại sự sống cho lá gan; bằng yêu thương bạn hãy phục hồi những chức năng của gan bạn.
Hãy gửi đến hai quả thận của bạn, ngay dưới lồng ngực ở hai bên cột sống, các tuyến thượng thận đóng ở trên hai thận. Hãy mỉm cười với hai quả thận của bạn. Cũng tương tự như với trái tim, phương pháp này làm gia tăng sự tuần hoàn Khí trong toàn bộ cơ thể.
Hãy để nụ cười lan toả trong toàn bộ vùng trung tâm của bụng, trong lá lách và trong tuỵ của bạn. Sau đó "dẫn" nụ cười về rốn, và để nó ngưng đọng ở điểm này của cơ thể .
Nụ cười trong tâm giúp bạn thư giãn và mang lại hạnh phúc cho bạn, như thể những chất do các phủ tạng của bạn tiết ra đã trở thành một thứ thuốc tiên. Nếu bạn sống trong lo âu sợ hãi ,căng thẳng hoặc giận dữ, thì phủ tạng của bạn sẽ tiết ra những độc tố. Việc thực hành nụ cười trong tâm giúp cho hoạt động của phủ tạng trở nên nhẹ nhàng hơn. Mỗi ngày, phủ tạng của chúng ta phải đảm đương một công việc nặng nhọc; lọc và duy trì sự tuần hoàn của máu, chuyển biến thức ăn thành năng lượng, thải bỏ các độc tố, chế ngự những cảm xúc và căng thẳng. Nụ cười trong tâm giúp cho công việc được nhẹ nhàng thoải mái hơn.
Tuyến giữa thân
Cũng vậy, để bắt đầu, bạn hãy trải đầy nụ cười trong đôi mắt bạn. Sau đó hãy dẫn nụ cười vào miệng. Quậy lưỡi theo chiều hướng hầu tích tụ nước bọt. Một khi miệng đã đầy nước bọt, hãy đưa đầu lưỡi lên chạm vào vòm miệng khi các cơ cổ căng cứng, hãy nhanh chóng nuốt nước bọt. Nụ cười trong tâm cần phải theo nước bọt xuống thực quản và cùng nước bọt lan toả trong bộ máy tiêu hoá, rồi dừng lại ở rốn. Nước bọt là một chất bôi trơn tuyệt vời có chứa sinh năng mà từ trung tâm đóng tại rốn, sẽ lan toả khắp cơ thể. Với sự trợ lực của nụ cười trong tâm hãy dẫn năng lượng thần kinh vào trong dạ dày của bạn; chất lượng thức ăn mà bạn đã hấp thụ sẽ được gia tăng và sự tiêu hoá của bạn sẽ dễ dàng hơn. Hãy để nguồn năng lượng của nụ cười trong tâm giúp bạn thư giãn ruột non, ruột già và trực tràng của bạn .
Tuyến sau thân
Vẫn khởi đầu bằng nụ cười trong mắt, rồi dẫn nụ cười xuống lưỡi. Trước khi gửi nụ cười vào cột sống, hãy giữ cho lưng thẳng và hai vai hơi nghiêng về phía trước. Đưa nụ cười vào từng đốt sống, lần lượt từ đốt sống này sang đốt sống khác, đến tận xương cụt.
Sau một lúc, bạn cảm thấy nóng ran trong các đốt sống và một sự thư thái lan toả khắp người bạn. Sự thư giãn vùng xương cụt, vùng thắt lưng và xương mu tạo ra sinh lực và sinh lực này sẽ dâng lên cột sống mà không gặp phải một trở ngại nào.
Ở vùng rốn, hãy kết thúc bài tập nụ cười trong tâm bằng cách tích tụ năng lượng vào rốn. Sau một thời gian luyện tập, bạn có thể thực hiện toàn bộ bài này trong vài phút. Tuy vậy trong những buổi đầu luyện tập, bạn có thể phải mất một khoảng thời gian trước khi thực sự cảm nhận được nụ cười. Khi kết thúc bài tập, tốt hơn là bạn không nên để năng lượng đọng lại trong trung tâm bên trên (đầu hoặc tim). Vùng rốn,nơi có thể dễ dàng đón nhận một sự gia tăng nhiệt lượng, là nơi thích hợp nhất để tích tụ năng lượng. Hầu hết, những phản ứng phụ gây khó chịu đều xuất phát từ một sự tích tụ thái quá ở đầu.
Để tích tụ năng lượng ở vùng rốn, bạn hãy tập trung ý tưởng vào vùng này và mường tượng rằng năng lượng đang xoáy quanh rốn theo hình xoắn ốc, cách làn da khoảng 6 cm. Phái nam phải xoáy vòng năng lượng theo chiều kim đồng hồ và phái nữ thì theo chiều ngược lại. Sau khi đã thực hiện 24 vòng xoắn ốc, hãy đảo ngược chiều hay nói cách khác hãy chuyển năng lượng theo chiều ngược lại .
Áp dụng phương pháp nụ cười trong tâm vào đời sống hàng ngày .
Mặc dù mục tiêu chủ yếu của nụ cười trong tâm là giúp bạn thư giãn trước khi thực hành tập luyện nhưng Phương pháp nụ cười trong tâm tự nó là cả một sức mạnh. Khi áp dụng phương pháp này vào đời sống hàng ngày, bạn sẽ gặt hái được những kết quả tốt đẹp. Nếu thực hành thường xuyên, nó sẽ giúp thay đổi đời sống của bạn một cách tích cực.
Trong thực tế, có người luôn bất mãn với chính mình, sở dĩ như thế là vì anh ta luôn cảm thấy không đủ tài sức để đương đầu với tình huống trong đời. Sau một thời gian thực hành phương pháp nụ cười trong tâm, anh ta nhận thấy rằng mình đã có ít đức tính, ưu điểm và chúng đã bị che khuất bởi thái độ tự chê bai, hạ thấp của chính mình.
Nếu làm chủ được phương pháp nụ cười trong tâm thì bạn cũng như con rùa, bơi lặn trong đại dương của sự bất khả tri mà không hề sợ hãi. Bạn sẽ mang lại cho các thành phần của cơ thể một sự thư giãn và như thế bạn sẽ tự tin để đương đầu với bất cứ tình huống nào trong đời. Nụ cười của bạn sẽ đẩy lùi mọi tiêu cực và bạn sẽ cảm thấy yêu đời trong mọi hoàn cảnh.
Tóm tắt
Nụ cười trong tâm giúp bạn dẫn đưa tình yêu thương vào bên trong cơ thể, nơi rất cần đến điều đó. Bạn hãy xem cơ thể mình như một cộng đồng mà thường khi bạn vô tình không quan tâm đến hoặc đối xử tệ với những thành viên đang kiên trì tận tuỵ làm việc. Hãy học hỏi cách thức nhằm ứng xử với các cơ quan của cơ thể bạn bằng sự trìu mến và tôn trọng như thể chúng là những đứa con của bạn.
Đừng có ruồng rẫy bất cứ một cơ quan nào của cơ thể bạn. Chẳng bao lâu bạn sẽ hiểu được thế nào là yêu thương, thế nào là năng lực tình yêu từ chính nơi bản thân mình. Nếu bạn đủ kiên trì, thì đời bạn sẽ tươi vui, sẽ rạng rỡ. Những "cư dân" trong số thành phần của cơ thể bạn (phủ tạng, xương, máu, não) sẽ phục hồi và đổi mới con người bạn. Với một con người như vậy, những quan hệ của bạn với người khác và với công việc sẽ thay đổi một cách tích cực; chúng sẽ diễn ra trong an bình và yêu thương. Nói tóm lại, bạn hãy mỉm cười với chính mình, dẫu bạn đang ở nơi đâu và gặp phải bất cứ điều gì trên đường đời của bạn.
Bạn hãy học cách yêu thương từ chính nơi bản thân mình ..
nguyen diep
Số phận
Minh Trí
Có thể hiểu Số là là tổng số lượng thời gian một người có mặt trên cuộc đời này, còn Phận là phẩm chất của những ngày sống đó. Hiểu như vậy thì thấy con người nói chung khó thể quyết định nổi Số, nhưng lại có thể làm thay đổi được Phận. Nói một cách biện chứng, số và phận có mối quan hệ mật thiết với nhau; song, trên những phạm vi và cấp độ nhất định, chúng vẫn giữ được tính độc lập tương đối. Vượt lên trên hết, số luôn mang giá trị của những ước định, ẩn số, biển số. Vì khó có thể xác định được số của mình, chừng nào tới số thì người ta nghĩ đó là “tại trời” và hiểu số là “tài sản trời ban”. Sống chết do số, yểu mạng hay trường thọ cũng tại số. Tuy nhiên, quan hệ giữa số và phận không phải lúc nào cũng lệ thuộc vào trời. Nếu sinh trong thời loạn lạc hay chọn những ngành nghề nguy hiểm, phận con người sẽ treo lơ lửng, mong manh trên đầu số. Có nghĩa là chúng ta khó thể thoái thác trách nhiệm, hành vi của mình để đặt số và phận vào hai tiến trình, mà phải coi chúng như hai thuộc tính của một con người. Chỉ có điều, số trong rất nhiều trường hợp nằm ngoài khả năng kiểm soát của hành vi. Ta chỉ có thể mong cho số mình được hưởng hết tuổi trời, như nhà thơ Tô Đông Pha đời Tống đã viết trong bài thơ nổi tiếng “Thuỷ điệu ca đầu” rằng “Đãn nguyện nhân trường cửu” (Những nguyện đời người được dài lâu).
Có nhiều người chịu sống một đời hèn mọn, bấp bênh…, cũng có những người giàu sang phú quý, vợ đẹp con khôn… từ đó làm nên những thân phận khác nhau. Trong đời người ở những giai đoạn khác nhau lại tiếp tục làm nên tính khác biệt của phận. Phận ở đây nhằm chỉ tình trạng sống, cảnh sống, phẩm chất đời sống. Nó thuộc yếu tố khả biến, khác với số ở chỗ nó có thể được quyết định bởi mong muốn chủ quan và nhờ vào nỗ lực của mỗi người trong việc định dạng bản thân. Trong khi số hàm nghĩa tổng lượng thời gian tại thế, định lượng, thì phận lại biến đổi, định tính, hướng theo chiều thay đổi của cuộc sống. Việc theo đuổi, dấn thân trên con đường xác định giá trị sống là khế cơ trong quá trình thay đổi thân phận. Sống ra sao cho càng ngày càng ra mình, đó là tiến trình tạo lập nên thân phận riêng. Giả sử một con người trót sinh ra trong gia đình nghèo khó; đến một ngày kia, người ấy hoàn toàn có thể quyết định thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn ấy để tiến thân trên con đường xác lập phận mới dưới động lực của những mục tiêu lớn. Các đô thị lớn của nước ta trong nhiều năm qua đã không ngừng thu hút nhiều cá thể tới làm ăn, lập nghiệp và không ít người trong số đó xuất phát từ mục tiêu đổi đời – một cuộc cách mạng với mơ ước thay đổi thân phận. Bởi vậy, phận là thành tố khả biến, chịu sự quyết định của chủ thể.
Xét trên phương diện tổng thể phẩm chất cuộc sống, phận bao gồm cả giá trị vật chất và tinh thần. Để thay đổi được phận, một trong những nhân tố đóng vai trò then chốt là Thực lực của mỗi con người. Thực lực có khả năng định vị, làm nên cuộc cách mạng về phẩm chất cuộc sống. Hiểu một cách đầy đủ, Thực lực gồm sáu phương diện: Công đức lực, Gia trì lực, Cảm nhiễm lực, Nỗ lực, Quan sát lực và Ứng biến lực.
Công đức lực có thể hiểu là sức mạnh của lòng từ bi, hỷ xả, những điều mà khả năng của con người có thể đem lại cho tha nhân. Một người có thực lực không thể chỉ biết chăm lo cho riêng bản thân, sống một cách tự tư, tự lợi, mà còn phải đem tài năng, phẩm hạnh ra giúp người, giúp đời. Thực lực thể hiện trên phương diện Công đức coi như một thứ trách nhiệm tự nguyện, xuất phát từ lòng yêu thương, quan tâm tới hoàn cảnh sống của người khác. Xét cho cùng, mỗi người trong chúng ta đều chỉ là một cá thể trong chỉnh thể gồm có ta cùng tha nhân. Dù rằng, vai trò cá nhân đang ngày càng được đề cao, đến mức độc tôn; nhưng cá thể không làm nên được chỉnh thể và con người không thể sống độc lập tuyệt đối trên thế gian này. Từ công đức lực liên quan đến Gia trì lực, được hiểu là sức mạnh của sự hộ trì, giúp đỡ bởi tha nhân. Bất cứ người nào, kể từ khi còn trong bụng mẹ, chưa hề biết gì cho đến lúc trưởng thành, công thành danh toại đều hàm ân không biết bao nhiêu người. Sức mạnh của những lực lượng hữu hình hay vô hình trên thế gian luôn phù trợ chúng ta trên mỗi bước đường dẫn tới thành công. Con người ta thật khó thể nói đến thành đạt khi không nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ của nhiều người. Thực lực tiếp theo cần nói đến là Nỗ lực. Muốn thành công trên con đường sự nghiệp, đạo hạnh hay học vấn… đều phải tự mình cố gắng vươn lên. Vì, học và hành không ai có thể làm thay. Nỗ lực chính là phẩm chất số một giúp con người không ngừng thăng tiến, vươn lên. Ngoài ra, còn phải kể đến Cảm nhiễm lực: năng lực tiềm ẩn trong sức mạnh lan toả, chiếm hữu tình cảm, tinh thần của người khác. Các bậc thành tựu đều có năng lực này, từ những thiền sư, hoà thượng cho đến chính trị gia, nghệ sĩ, giáo sư… Năng lực tiêm nhiễm, cảm hoá biến họ trở thành người có khả năng truyền cảm hứng, đam mê, đức tin đến người khác, từ đó cảm hoá, lay chuyển những khối lầm lì của tập quán cũng như tư tưởng… Một năng lực khác càng ngày càng thiết yếu trong xã hội đương đại đó là Năng lực ứng biến. Thế gian vô thường nhằm chỉ tình trạng thường biến của vạn vật. Vạn vật và cả con người đều nằm trong sự biến đổi không ngừng. Sống trong điều kiện đó đòi hỏi mỗi người phải có khả năng thích ứng với hoàn cảnh. Có thể mới có thể an nhiên, tự tại trước cảnh vật đổi sao dời. Và cuối cùng là Quan sát lực :khả năng quan sát. Bất cứ ai dù giác quan khiếm khuyết đến đâu đều có khả năng quan sát. Quan sát không chỉ bằng mắt, bằng các giác quan, mà còn bằng cả tâm hồn, tình cảm và lòng yêu thương. Có như thế, năng lực quan sát mới trở thành một trong những phẩm chất làm thay đổi phận của bản thân và người khác nhằm làm nên thực lực của mỗi con người.
Trong bất cứ điều kiện nào, dài lâu về số vẫn như một niềm mong ước, đặc biệt khi mà từng phút, từng giây, không biết bao nhiêu những nguy cơ tiềm ẩn trên cuộc đời. Số rốt cuộc vẫn thể hiện sức mạnh quyền uy biến thiên của mình cho con người tin rằng, loài người còn chịu sự chi phối bởi những thế lực ngoại tại. Chính vì thế, điều chúng ta cần hướng tới là nỗ lực làm thay đổi phận. Yếu tố không chỉ có ảnh hưởng trực tiếp đến số, mà còn quy định phẩm chất của số. Và điều quan trọng hơn, phận hầu như hoàn toàn phụ thuộc vào vai trò tự quyết của mỗi cá nhân.■
Có nhiều người chịu sống một đời hèn mọn, bấp bênh…, cũng có những người giàu sang phú quý, vợ đẹp con khôn… từ đó làm nên những thân phận khác nhau. Trong đời người ở những giai đoạn khác nhau lại tiếp tục làm nên tính khác biệt của phận. Phận ở đây nhằm chỉ tình trạng sống, cảnh sống, phẩm chất đời sống. Nó thuộc yếu tố khả biến, khác với số ở chỗ nó có thể được quyết định bởi mong muốn chủ quan và nhờ vào nỗ lực của mỗi người trong việc định dạng bản thân. Trong khi số hàm nghĩa tổng lượng thời gian tại thế, định lượng, thì phận lại biến đổi, định tính, hướng theo chiều thay đổi của cuộc sống. Việc theo đuổi, dấn thân trên con đường xác định giá trị sống là khế cơ trong quá trình thay đổi thân phận. Sống ra sao cho càng ngày càng ra mình, đó là tiến trình tạo lập nên thân phận riêng. Giả sử một con người trót sinh ra trong gia đình nghèo khó; đến một ngày kia, người ấy hoàn toàn có thể quyết định thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn ấy để tiến thân trên con đường xác lập phận mới dưới động lực của những mục tiêu lớn. Các đô thị lớn của nước ta trong nhiều năm qua đã không ngừng thu hút nhiều cá thể tới làm ăn, lập nghiệp và không ít người trong số đó xuất phát từ mục tiêu đổi đời – một cuộc cách mạng với mơ ước thay đổi thân phận. Bởi vậy, phận là thành tố khả biến, chịu sự quyết định của chủ thể.
Xét trên phương diện tổng thể phẩm chất cuộc sống, phận bao gồm cả giá trị vật chất và tinh thần. Để thay đổi được phận, một trong những nhân tố đóng vai trò then chốt là Thực lực của mỗi con người. Thực lực có khả năng định vị, làm nên cuộc cách mạng về phẩm chất cuộc sống. Hiểu một cách đầy đủ, Thực lực gồm sáu phương diện: Công đức lực, Gia trì lực, Cảm nhiễm lực, Nỗ lực, Quan sát lực và Ứng biến lực.
Công đức lực có thể hiểu là sức mạnh của lòng từ bi, hỷ xả, những điều mà khả năng của con người có thể đem lại cho tha nhân. Một người có thực lực không thể chỉ biết chăm lo cho riêng bản thân, sống một cách tự tư, tự lợi, mà còn phải đem tài năng, phẩm hạnh ra giúp người, giúp đời. Thực lực thể hiện trên phương diện Công đức coi như một thứ trách nhiệm tự nguyện, xuất phát từ lòng yêu thương, quan tâm tới hoàn cảnh sống của người khác. Xét cho cùng, mỗi người trong chúng ta đều chỉ là một cá thể trong chỉnh thể gồm có ta cùng tha nhân. Dù rằng, vai trò cá nhân đang ngày càng được đề cao, đến mức độc tôn; nhưng cá thể không làm nên được chỉnh thể và con người không thể sống độc lập tuyệt đối trên thế gian này. Từ công đức lực liên quan đến Gia trì lực, được hiểu là sức mạnh của sự hộ trì, giúp đỡ bởi tha nhân. Bất cứ người nào, kể từ khi còn trong bụng mẹ, chưa hề biết gì cho đến lúc trưởng thành, công thành danh toại đều hàm ân không biết bao nhiêu người. Sức mạnh của những lực lượng hữu hình hay vô hình trên thế gian luôn phù trợ chúng ta trên mỗi bước đường dẫn tới thành công. Con người ta thật khó thể nói đến thành đạt khi không nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ của nhiều người. Thực lực tiếp theo cần nói đến là Nỗ lực. Muốn thành công trên con đường sự nghiệp, đạo hạnh hay học vấn… đều phải tự mình cố gắng vươn lên. Vì, học và hành không ai có thể làm thay. Nỗ lực chính là phẩm chất số một giúp con người không ngừng thăng tiến, vươn lên. Ngoài ra, còn phải kể đến Cảm nhiễm lực: năng lực tiềm ẩn trong sức mạnh lan toả, chiếm hữu tình cảm, tinh thần của người khác. Các bậc thành tựu đều có năng lực này, từ những thiền sư, hoà thượng cho đến chính trị gia, nghệ sĩ, giáo sư… Năng lực tiêm nhiễm, cảm hoá biến họ trở thành người có khả năng truyền cảm hứng, đam mê, đức tin đến người khác, từ đó cảm hoá, lay chuyển những khối lầm lì của tập quán cũng như tư tưởng… Một năng lực khác càng ngày càng thiết yếu trong xã hội đương đại đó là Năng lực ứng biến. Thế gian vô thường nhằm chỉ tình trạng thường biến của vạn vật. Vạn vật và cả con người đều nằm trong sự biến đổi không ngừng. Sống trong điều kiện đó đòi hỏi mỗi người phải có khả năng thích ứng với hoàn cảnh. Có thể mới có thể an nhiên, tự tại trước cảnh vật đổi sao dời. Và cuối cùng là Quan sát lực :khả năng quan sát. Bất cứ ai dù giác quan khiếm khuyết đến đâu đều có khả năng quan sát. Quan sát không chỉ bằng mắt, bằng các giác quan, mà còn bằng cả tâm hồn, tình cảm và lòng yêu thương. Có như thế, năng lực quan sát mới trở thành một trong những phẩm chất làm thay đổi phận của bản thân và người khác nhằm làm nên thực lực của mỗi con người.
Trong bất cứ điều kiện nào, dài lâu về số vẫn như một niềm mong ước, đặc biệt khi mà từng phút, từng giây, không biết bao nhiêu những nguy cơ tiềm ẩn trên cuộc đời. Số rốt cuộc vẫn thể hiện sức mạnh quyền uy biến thiên của mình cho con người tin rằng, loài người còn chịu sự chi phối bởi những thế lực ngoại tại. Chính vì thế, điều chúng ta cần hướng tới là nỗ lực làm thay đổi phận. Yếu tố không chỉ có ảnh hưởng trực tiếp đến số, mà còn quy định phẩm chất của số. Và điều quan trọng hơn, phận hầu như hoàn toàn phụ thuộc vào vai trò tự quyết của mỗi cá nhân.■
THÁI CỰC LUẬN Chương 5. Tương quan giữa Thái Cực và Vô Cực, Thái Cực và Vạn Hữu
A. Thái Cực và Vô Cực
Nho gia không phân biệt Thái Cực và Vô Cực.
Chu Liêm Khê viết: Vô Cực nhi Thái Cực.
Các Đạo gia cũng cho rằng rất khó mà phân biệt Thái Cực với Vô Cực. Thái Cực có lẽ hàm ngụ ý sinh hóa, tạo thành vũ trụ, còn Vô Cực là thực thể siêu vi của vũ trụ. Xướng Đạo Chân Ngôn tượng trưng Vô Cực, Thái Cực bằng 2 hình sau đây [1]
Vô Cực Thái Cực
Thái Cực có thêm chấm ở giữa ngụ ý rằng Thái Cực là Huyền Quan sinh xuất muôn loài.
Ngày nay ta có thể nghị luận như sau:
Thái Cực và Vô Cực là 2 phương diện của một Thực thể duy nhất, Vô Cực là Thực thể ở thế tiềm ẩn chưa hiển dương; Thái Cực là Thực thể đã hiển dương bằng cách tạo thành vũ trụ. Vô Cực là Trời Ẩn, Thái Cực là Trời Hiện. Vô Cực hàm nghĩa siêu xuất quần sinh (Transcendent). Thái Cực hàm nghĩa ẩn ngụ giữa lòng Vạn Hữu (Immanent). Thái Cực đứng đầu Vạn Hữu, nên gọi được là Hữu.
Vô Cực vì siêu xuất trên mọi hình thức, nên gọi là Vô. Cho nên nói Hữu sinh ư Vô, hay Thái Cực từ Vô Cực xuất sinh cũng đúng; mà nói Thái Cực là Vô Cực cũng vẫn đúng. [2]
B. Thái Cực và Vạn Hữu
Thái Cực là Bản Thể Vạn Hữu, nên Vạn Hữu chính là sự biểu dương của Thái Cực.
Thái Cực sinh Vạn Hữu.[3] Thái Cực vừa lồng trong Vạn Hữu vừa bao trùm Vạn Hữu.[4]
Thái Cực bất biến; Vạn Hữu biến thiên
Vạn Hữu có phân tán; Thái Cực chẳng hề phân tán.
Thái Cực vô hình tướng, Vạn Hữu có hình tướng.
Thái Cực là Tiên Thiên vì chưa có hình tướng trẫm triệu [5]
Nhìn vào đồ bản:
Ta thấy Vạn Hữu từ tâm điểm dần dần sinh hóa ra. Trung tâm tượng trưng cho Thái Cực toàn bích, nên ta thấy chỉ có một vòng tròn có chấm giữa là trung tâm. Càng tiến ra các vòng ngoài, ta càng thấy phân tán, chia phôi, thù tạp.
Đại Đỗng Chân Kinh viết: Căn bản vốn từ trung tâm mà ra...
Có suy cứu, mới thấy Căn bản vũ trụ, thực là do trung điểm phát sinh. Các hiện tượng bên ngoài đều bắt nguồn tự bên trong.
Các sự ứng dụng hiển lộ bên ngoài đều do Bản Thể bên trong sinh xuất... [6]
Thiệu Khang Tiết cũng viết: Các đồ bản đều từ trung tâm mà sinh ra. Vạn hóa, vạn sự cũng sinh ra từ Tâm Điểm Thái Cực. [7] Thế tức là chủ trương: Thái Cực ở trung tâm, còn Vạn Hữu bao bọc bên ngoài.
Thiệu tử còn nói: Học về Tiên Thiên là học về tâm. Học về Hậu Thiên là học về các bóng hình, vết tích của tâm. Những tư tưởng trên hoàn toàn giống với tư tưởng Ấn Độ.
Thật vậy, các Triết gia Ấn Độ cũng cho rằng: Thượng Đế tiềm ẩn ngay trong lòng Vạn Hữu [8] Mọi sự đã được thêu dệt trên căn cơ vĩnh cửu [9] Đấng Bất Tử ẩn sau bức màn hiện tượng [10] Tâm ta là vết tích của Đại Thể; nhờ tâm, mà ta biết Đại Thể, cũng y như nhờ vết chân, mà ta kiếm ra người [11]
Như vậy Vạn Hữu chính là vết tích của Vô Cùng.
Quan niệm vạn vật sinh từ Tâm điểm cũng là quan niệm của sách Zohar. Zohar viết: Từ điểm Thái Cực huyền vi ra cho tới các tầng cấp hạ đẳng Vạn Hữu, cái gì cũng như là áo, là vỏ bao quanh tầng lớp trên... [12]
Áp dụng vào con người, ta thấy xác không phải phần quan trọng, xác chỉ là áo, là vỏ; óc não mới quan trọng. Suy thêm nữa thì óc não cũng chưa phải thực quan trọng; trung tâm não bộ mới thực là quan trọng [13] Trung tâm là Nhất, vòng ngoài cũng là Vạn. Nhất sinh Vạn. Vạn lại quay về Nhất [14], như vậy với là vẹn lẽ tuần hoàn. Lúc ấy Trung Tâm lại trở thành qui căn khiếu, phục mệnh quan.
Quan điểm này, xác định hai chiều vãng lai [15], tụ tán của vũ trụ và của con người. Chiều đi ra là chiều thuận, sinh nhân sinh vật. Chiều đi vào, là chiều nghịch sinh Thánh, sinh Thần:
CHÚ THÍCH
[1] Xem Xướng Đạo Chân Ngôn II, trang 8.
[2] Vô Cực tức thị Thái Cực 無 極 即 是 太 極.— Xướng Đạo Chân Ngôn, quyển II - trang 8.
[3] Vạn vật giai thủy ư Không. Thái Cực Không giả dã. 萬 物 皆 始 於 空. 太 極 空 者 也.— Xướng Đạo Chân Ngôn II, trang 9.
[4] Thái Cực dã đại tắc bao thiên địa, tiểu tắc nhập giới tử. 太 極 也 大 則 包 天 地, 小 則 入 芥 子.— Xướng Đạo Chân Ngôn II, trang 8a.
[5] Phù Tiên Thiên, vật tượng vị hình, bất lộ trẫm triệu. 夫 先 天, 物 象 未 形, 不 露 朕 兆 .— Xướng Đạo Chân Ngôn II, trang 3.
[6] Căn bản nguyên do Trung... Cứu kỳ căn bản thật do ư Trung. Hiện hồ ngoại giả bản hồ nội. Chiêu hồ dụng giả do hồ thể dã. 根 本 原 由 中 ... 究 其 根 本 實 由 於 中. 現 乎 外 者 本 乎 內. 昭 乎 用 者 由 乎 體 也. — Đại Đỗng Chân Kinh quyển hạ trang 11b.
[7] Đồ giai tòng trung khởi, vạn hóa vạn sự sinh ư tâm. 圖 皆 從 中 起 萬 化 萬 事 生 於 心.— Tạ Vô Lượng, Trung Quốc Triết Học Sử, Đệ tam thiên thượng, trang 15.
[8] Brahma underlying the world. -- The Thirteen Upanishads - page 15.
[9] C'est sur l'Impérissable que tout est tissé. — (B.A.V. III 8 - 3 - 10) Instant et Cause, page 117.
[10] «C'est l'Immortel voilé par le réel.»
(Brihad Aranyaka Upanishad I. 6. 1 - 3) Instant et Cause 107
... That is the Immortal veiled by the real (satya). Life (prana, breath) (a designation of the Atman)» verily, is the Immortal. Name and form are the real. By them this Life is veiled.
(Brihad Aranyaka Upanishad I. 6.3.).
[11] «One’s self (Atman), for therein, in all these become one. That same thing, namely, this self, is the trace of the All; for by it one knows this All. Just as, verily, one might, find by a foot print». — The Thirteen Up, page 25.
[12] «A partir du mystérieux Point Suprême jusqu'au plus infime degré de la création, tout sert de vêtement à quelque autre chose et cette autre chose sert de vêtement à une chose supérieure, et ainsi de suite. De sorte que le cerveau entouré d'une enveloppe sert lui même d'enveloppe à un cerveau supérieur. Le Point Suprême projetait une lumière immense d'une telle limpidité, d'une telle transparence et d'une telle subtilité qu'elle pénétra partout... Ainsi à partir du Point Suprême, tous les degrés de la création ne sont que des enveloppes les unes pour les autres; l'enveloppe du degré supérieur forme le cerveau du degré inférieur... — Extraits du livre du Zohar, Trad. Jean de Pauli Ed.
Reder Paris 1935 page 73 - Cf. M. Senard, Le Zodiaque, page 326.
Tout dans le monde est divisé en deux parties dont l'une est visible et l'autre invisible. Ce qui est visible n'est que le reflet de ce qui est invisible. — Le livre du Zohar page 125 - Cf. M. Senard, le Zodiaque, page 327
[13] Não chi quan ư nhân diệc đại hĩ. 腦 之 關 於 人 亦 大 矣. — Tính Mệnh Pháp Quyết Minh Chỉ, quyển 4 - trang 12.
[14] Trình phu tử tri vạn lý qui ư nhất lý, nhi bất tri nhất lý tán ư vạn sự... 程 夫 子 知 萬 理 歸 於 一 理, 而 不 知 一 理 散 於 萬 事.— Đào Hư Tử, Đạo Dư Lục, trang 19
[15] Vãng lai giả, dĩ nội ngoại ngôn dã, dĩ tiêu tức ngôn dã. Tự nội nhi ngoại vị chi vãng, tự ngoại nhi nội vị chi lai 往 來 者 以 內 外 言 也, 以 消 息 言 也. 自 內 而 外 謂 之 往, 自 外 而 內 謂 之 來. — Tống Nguyên Học Án, Quyển 37 - trang 5.
Vấn Đề của Chính Chúng Ta: Hãy Sử Dụng Bộ Óc của Mình
Hàng ngàn năm qua, mọi quyết định về cuộc sống, mọi "kiến thức" qui ước của các ngành khoa học v.v hầu như đều bị phán chỉ từ nhóm thiểu số nắm quyền lực gọi là nhà nước chính phủ... Và kết quả là bọn chúng luôn bị minh chứng SAI...
Và HỆ QUẢ của những sai lầm gian trá này là những cuộc CHIẾN TRANH, NẠN ĐÓI, BỆNH TẬT KÉO DÀI ... trong khi nhiều trường hợp, giải pháp nằm sẵn trước mặt nhưng người dân KHÔNG ĐƯỢC QUYỀN ỨNG DỤNG.
Loài người TỪNG ĐƯỢC BỌN QUYỀN CHÍNH và khoa bảng DẠY RẰNG phải có Vua, có Chúa, có Qúi Tộc ...để chăm lo bảo vệ hạnh phúc cho xã hội... Con người vui vẻ tự nguyện làm nô lệ ... cho đến khi có người KHAI PHÁ NÃO TRẠNG của nhân loại và MỞ RA cho nhân loại một hướng mới... Và những kẻ khai phá này bị quần chúng lên án là ... hoang tưởng, không thực tế, không thức thời, sống và suy nghĩ điên rồ "cõi trên" v.v
Loài người từng được BỌN QUYỀN CHÍNH và khoa bảng hệ thống giáo dục dạy rằng:
- Quả đất vuông phẳng, MẶT TRỜI QUAY CHUGN QUANH QUẢ ĐẮT
- THỨ DÂN và QUÍ TỘC không thể BÌNH ĐẳNG
- Có một GIỐNG NÒI TÔN QUÍ, thuần chủng
- Và rằng có một "BẢN SẮC VĂN HÓA CỰC KỲ LINH THIÊNG và BẤT BIẾN"
- Chủng tộc không thể hài hòa - không thể giao kết hôn nhân dị chủng
-Đàn bà KHÔNG THỂ NGANG BẰNG ĐÀN ÔNG
- Trẻ không thể KHÔN HƠN già
- Đồng tính là tội phạm, không thể hạnh phúc đóng góp cho xã hội
Tất cả đã được những thiểu số CAN TRƯỜNG TIÊN PHONG, CÓ TƯ DUY KHOA HỌC thách đố và minh chứng TẤT CẢ những TÍN ĐIỀU đó là SAI! Và cực kỳ nguy hại!
Chúng ta từng được BỌN QUYỀN CHÍNH khoa bảng dạy rằng THIÊN CHÚA TOÀN NĂNG, KINH THÁNH được CHÚA viết ra và chính xác khoa học 100%! Và cũng nhờ vào thiểu số can đảm vạch ra cái tập sách MAN RỢ phi khoa học ấy LÀ DO MỘT BỌN ĐẦU CƠ CHÍNH TRỊ HƯ CẤU TẠO THÀNH (tham khảo Shlomo Sand -việc hư cấu dân tộc do thái giáo- Nhân chủ đã giới thiệu)- Và hiện nay, càng ngày giới thanh niên sinh viên, giới văn nghệ sĩ không chỉ không tin vào nó mà còn lột trần những băng hoại man rợ gian trá của Thánh Kinh!
Chúng ta từng được BỌN QUYỀN CHÍNH giáo dục khoa bảng dạy rằng CẦN SA có hại- Thước Lá Rượu có hại... Nhưng THUỐC LÁ và RƯỢU đuọc BÁN và QUẢNG CÁO như những nhu cầu của GIẦU SANG, QUÍ PHÁI. HƯỞNG THỤ... Còn CẦN SA vẫn là độc hại.... cho đến khi cũng chỉ có một số người dùng óc suy xét chứng nghiệm của họ thách thức và minh chứng ngược lại.... Hôm nay đây CẦN SA đang được "giải tội" và bình thường hóa, vì thât sự nó có khả năng giúp ích cho sức khỏe đời sống của nhân loại trong HÀNG NGÀN NĂM QUA!!!
BỌN QUYỀN CHÍNH KHOA BẢNG CHÍNH QUI cũng từng cảnh cáo chúng ta về nạn NHÂN MÃN, THIẾU LƯƠNG THỰC, về một qua bom nhân chủng v.v để tiến hành THỰC PHẨM DI TÍNH và ĐỘC QUYỀN CAI QUẢN NGUỒN LƯƠNG THỰC.... cũng chỉ có một thiểu số dùng cái đầu chất vấn của họ để đối kháng và từng bị lên án là "khuynh tả, mị dân, tử tế hão"...Cho đến hôm nay!!!
Hôm nay, khi bằng chứng không thể còn chối cãi là DÂN SỐ ĐỊA CẦU dù tổng quát, vẫn đang tăng, nhưng ở múc CHẬM DẦN cho đến vài thập niên và sẽ TỤT DỐC GIẢM DẦN.. Hiện nay một số quốc gia tiên tiến DÂN SỐ không còn tăng trường và GIẢM HẲN.. Đó chính là lý do CHÍNH SÁCH DI DÂN HÀNG LOẠT ĐƯỢC "KHOA HỌC và CHÍNH TRỊ HÓA" tại những quớc gia này vì tính "nhậy cảm" của nó! Chiến tranh liên tục được dấy động tại các xã hội lạc hậu là một GIẢI PHÁP GIÀM DÂN SỐ "CHÚNG NÓ" khi "dân số CHÚNG TA" không còn tăng trưởng nữa!!!
Bọn quyền chính liên tục tung "những kết quả nghiên cúu" để hăm dọa quần chúng dù chúng chua bao giờ ĐÚNG, tiếp tục SAI, nhưng quần chúng vô trách nhiệm, ích kỷ, hèn hạ, thủ lợi.. vẫn tiếp tục tin vào chúng và tiếp tực lên án mỉa mai những người sáng suốt hiểu biết rõ những âm muu tàn độc của Nhà nước và lên tiếng cảnh báo cho họ.
Những "nạn dịch cúm gà" "cúm heo", Ebola v.v đâu hết rồi???
Al Qeda, Taliban là mối ĐE DỌA CỦA NHÂN LOẠI.., và giờ đây mối đe dọa của nhân loại là ISIL.. và là Nga, là Putin... và người ta vẫn TIN .. Dù hơn 50 năm qua, Âu Mỹ là kẻ dùng bom đạn giết người, tấn công chiếm đóng các quớc gia khác. tạo đảo chính biến động tại các quốc gia khác.. và nắm toàn quyền thao túng hệ thống TÀI CHÍNH và SẢN XUẤT của địa cầu!
Và hôm nay, nơi các xã hội có cái gọi là nền DÂN CHỦ XÃ HỘI GIÀN TIẾP là nơi:
- DÂN QUYỀN BỊ XÂM PHẠM còn tinh vi chặt chẽ hơn các xã hội độc tài cộng sản với những mạng lưới an ninh tình báo cao cấp bậc nhất địa cầu!!!
- Nơi nền BÁO CHÍ trở thành tay sai LOA ĐÀI cho nhà nước- quyền ngôn luận báo chí bị tước bỏ!
- Nơi cảnh sát an ninh có quyền lực không chỉ là -không giới hạn- mà còn trắng trợn bắn giết thường dân vô tội vạ.
- Nơi mà cả một hệ thống chính trị được xếp đặt mua bán bằng tiền của giới tập đoàn đại bản
- Nơi mà các "lãnh đạo DÂN CỬ nhà nước" sẵn sàng vi phạm bất cứ nguyên lý nào để bảo vệ quyền lực hiện hũu! (Mỹ, Đức, Pháp, Anh, Úc v.v)
Tất cả đang diễn ra trước mắt chúng ta. Thông tin hình ành đầy trên các trang mạng do chính các công dân sáng suốt, các nhà báo nhân cách độc lập (như ông Paul Craig Roberts, Chris Hedge, Udo Ulfkotte v.v)
Những điều quần chúng, sinh viên đại học từng được rao giảng về tính ưu việt của HIẾN PHÁP. của nền tự do báo chí v.v đang vỡ ra từng mảnh nhỏ trước mất chúng ta..
Và cũng hàng ngàn năm qua, từ những cá nhân đơn lẻ được biết đến như Lão Tử, Trang, Chu, Mặc cho đến cận đại và hôm nay ... đang cảnh báo chúng ta với bắng chứng tội ác và tội phạm của bản chất băng hoại của quyền chính nhà nước chính phủ ..
Bọn Nhà nước và đám khoa bảng báo chí giáo dục chính qui- chúng luôn bị minh chứng SAI... Thế nhưng tại sao quần chúng vẫn tin vào chúng?
Aristophanes, nhà biên kịch cổ đại Hy Lạp từng than thờ "Điều khó khăn nhất luôn là giải thich cho quần chúng những điều hiển nhiên".
Tại sao vậy?
Câu trả lời đúng nhất vẫn là từ chính mỗi cá nhân chúng ta.
Chúng ta là quần chúng chứ không ai khác. Chỉ có chính quí vị mới tự thuyết phục được quí vị nếu BIẾT DÙNG BỘ ÓC của mình. Và đây cũng chính là TRÁCH NHIỆM LÀM NGƯỜI của mỗi cá nhân chúng ta.
Nhân Chủ
6-5-2015
NHỮNG TƯ LIỆU CẦN THAM KHẢO
TỘI ÁC NHÀ NƯỚC CHÍNH PHỦ
Statistics Of Vietnamese Democide
Statistics Of Japanese Democide
statistics of pre-20th century genocide and mass murder
What About Atrocities That Have Been Done in the Name of ...
Total for the 20th Century - Necrometrics
Twentieth Century Atlas - Death Tolls - Necrometrics
Iraq - MarkHumphrys.com
Reevaluated democide totals for 20th C. and China
=
"NHÂN MÃN":
Scholarly articles for international aging population
[PDF]World Population Ageing 2013 (Report) - the United Nations
World Population Ageing - the United Nations
WHO | Ageing and life-course
Population ageing - Wikipedia, the free encyclopedia
[PDF]A Global Perspective Why Population Aging Matters
[PDF]Global Population Ageing: Peril or Promise? - weforum.org - World ...
Global ageing statistics | Ageing data | HelpAge International
Ageing data | Resources | HelpAge International
Ageing | UNFPA - United Nations Population Fund
Population by Age and Sex, Australia, States and Territories
CẦN SA:
Medical cannabis - Wikipedia, the free encyclopedia
Health Benefits of Medical Marijuana - Business Insider
Medical Marijuana - What's It Good For? | IFLScience
Home - Good Intentions Medical Marijuana Services
Men's Health | The Truth About Medical Marijuana
Is Marijuana Good Medicine or Dangerous? - LiveScience
Good News for Medical Marijuana - NYTimes.com
Medical Marijuana ProCon.org
Is Marijuana Good Medicine? - WSJ
Marijuana is just good medicine | afr.com
TỘI ÁC và TÔN GIÁO
8 Atrocities Committed in the Name of Religion - Listverse
Religion, War and Atrocity | Michael Brenner - Huffington Post
Unholy Alliance: Religion and Atrocity in Our Time: Marc H ...
Atrocities, culture and religion - The Economist
Top Ten Atrocities Committed In the Name of Religion ...
Holy Horror--Atrocities in the Name of God
The Root Causes of Religious Atrocities - Rejection of ...
Christian Atrocities | Victims of Christianity | Catholic Church ...
Và HỆ QUẢ của những sai lầm gian trá này là những cuộc CHIẾN TRANH, NẠN ĐÓI, BỆNH TẬT KÉO DÀI ... trong khi nhiều trường hợp, giải pháp nằm sẵn trước mặt nhưng người dân KHÔNG ĐƯỢC QUYỀN ỨNG DỤNG.
Loài người TỪNG ĐƯỢC BỌN QUYỀN CHÍNH và khoa bảng DẠY RẰNG phải có Vua, có Chúa, có Qúi Tộc ...để chăm lo bảo vệ hạnh phúc cho xã hội... Con người vui vẻ tự nguyện làm nô lệ ... cho đến khi có người KHAI PHÁ NÃO TRẠNG của nhân loại và MỞ RA cho nhân loại một hướng mới... Và những kẻ khai phá này bị quần chúng lên án là ... hoang tưởng, không thực tế, không thức thời, sống và suy nghĩ điên rồ "cõi trên" v.v
Loài người từng được BỌN QUYỀN CHÍNH và khoa bảng hệ thống giáo dục dạy rằng:
- Quả đất vuông phẳng, MẶT TRỜI QUAY CHUGN QUANH QUẢ ĐẮT
- THỨ DÂN và QUÍ TỘC không thể BÌNH ĐẳNG
- Có một GIỐNG NÒI TÔN QUÍ, thuần chủng
- Và rằng có một "BẢN SẮC VĂN HÓA CỰC KỲ LINH THIÊNG và BẤT BIẾN"
- Chủng tộc không thể hài hòa - không thể giao kết hôn nhân dị chủng
-Đàn bà KHÔNG THỂ NGANG BẰNG ĐÀN ÔNG
- Trẻ không thể KHÔN HƠN già
- Đồng tính là tội phạm, không thể hạnh phúc đóng góp cho xã hội
Tất cả đã được những thiểu số CAN TRƯỜNG TIÊN PHONG, CÓ TƯ DUY KHOA HỌC thách đố và minh chứng TẤT CẢ những TÍN ĐIỀU đó là SAI! Và cực kỳ nguy hại!
Chúng ta từng được BỌN QUYỀN CHÍNH khoa bảng dạy rằng THIÊN CHÚA TOÀN NĂNG, KINH THÁNH được CHÚA viết ra và chính xác khoa học 100%! Và cũng nhờ vào thiểu số can đảm vạch ra cái tập sách MAN RỢ phi khoa học ấy LÀ DO MỘT BỌN ĐẦU CƠ CHÍNH TRỊ HƯ CẤU TẠO THÀNH (tham khảo Shlomo Sand -việc hư cấu dân tộc do thái giáo- Nhân chủ đã giới thiệu)- Và hiện nay, càng ngày giới thanh niên sinh viên, giới văn nghệ sĩ không chỉ không tin vào nó mà còn lột trần những băng hoại man rợ gian trá của Thánh Kinh!
Chúng ta từng được BỌN QUYỀN CHÍNH giáo dục khoa bảng dạy rằng CẦN SA có hại- Thước Lá Rượu có hại... Nhưng THUỐC LÁ và RƯỢU đuọc BÁN và QUẢNG CÁO như những nhu cầu của GIẦU SANG, QUÍ PHÁI. HƯỞNG THỤ... Còn CẦN SA vẫn là độc hại.... cho đến khi cũng chỉ có một số người dùng óc suy xét chứng nghiệm của họ thách thức và minh chứng ngược lại.... Hôm nay đây CẦN SA đang được "giải tội" và bình thường hóa, vì thât sự nó có khả năng giúp ích cho sức khỏe đời sống của nhân loại trong HÀNG NGÀN NĂM QUA!!!
BỌN QUYỀN CHÍNH KHOA BẢNG CHÍNH QUI cũng từng cảnh cáo chúng ta về nạn NHÂN MÃN, THIẾU LƯƠNG THỰC, về một qua bom nhân chủng v.v để tiến hành THỰC PHẨM DI TÍNH và ĐỘC QUYỀN CAI QUẢN NGUỒN LƯƠNG THỰC.... cũng chỉ có một thiểu số dùng cái đầu chất vấn của họ để đối kháng và từng bị lên án là "khuynh tả, mị dân, tử tế hão"...Cho đến hôm nay!!!
Hôm nay, khi bằng chứng không thể còn chối cãi là DÂN SỐ ĐỊA CẦU dù tổng quát, vẫn đang tăng, nhưng ở múc CHẬM DẦN cho đến vài thập niên và sẽ TỤT DỐC GIẢM DẦN.. Hiện nay một số quốc gia tiên tiến DÂN SỐ không còn tăng trường và GIẢM HẲN.. Đó chính là lý do CHÍNH SÁCH DI DÂN HÀNG LOẠT ĐƯỢC "KHOA HỌC và CHÍNH TRỊ HÓA" tại những quớc gia này vì tính "nhậy cảm" của nó! Chiến tranh liên tục được dấy động tại các xã hội lạc hậu là một GIẢI PHÁP GIÀM DÂN SỐ "CHÚNG NÓ" khi "dân số CHÚNG TA" không còn tăng trưởng nữa!!!
Bọn quyền chính liên tục tung "những kết quả nghiên cúu" để hăm dọa quần chúng dù chúng chua bao giờ ĐÚNG, tiếp tục SAI, nhưng quần chúng vô trách nhiệm, ích kỷ, hèn hạ, thủ lợi.. vẫn tiếp tục tin vào chúng và tiếp tực lên án mỉa mai những người sáng suốt hiểu biết rõ những âm muu tàn độc của Nhà nước và lên tiếng cảnh báo cho họ.
Những "nạn dịch cúm gà" "cúm heo", Ebola v.v đâu hết rồi???
Al Qeda, Taliban là mối ĐE DỌA CỦA NHÂN LOẠI.., và giờ đây mối đe dọa của nhân loại là ISIL.. và là Nga, là Putin... và người ta vẫn TIN .. Dù hơn 50 năm qua, Âu Mỹ là kẻ dùng bom đạn giết người, tấn công chiếm đóng các quớc gia khác. tạo đảo chính biến động tại các quốc gia khác.. và nắm toàn quyền thao túng hệ thống TÀI CHÍNH và SẢN XUẤT của địa cầu!
Và hôm nay, nơi các xã hội có cái gọi là nền DÂN CHỦ XÃ HỘI GIÀN TIẾP là nơi:
- DÂN QUYỀN BỊ XÂM PHẠM còn tinh vi chặt chẽ hơn các xã hội độc tài cộng sản với những mạng lưới an ninh tình báo cao cấp bậc nhất địa cầu!!!
- Nơi nền BÁO CHÍ trở thành tay sai LOA ĐÀI cho nhà nước- quyền ngôn luận báo chí bị tước bỏ!
- Nơi cảnh sát an ninh có quyền lực không chỉ là -không giới hạn- mà còn trắng trợn bắn giết thường dân vô tội vạ.
- Nơi mà cả một hệ thống chính trị được xếp đặt mua bán bằng tiền của giới tập đoàn đại bản
- Nơi mà các "lãnh đạo DÂN CỬ nhà nước" sẵn sàng vi phạm bất cứ nguyên lý nào để bảo vệ quyền lực hiện hũu! (Mỹ, Đức, Pháp, Anh, Úc v.v)
Tất cả đang diễn ra trước mắt chúng ta. Thông tin hình ành đầy trên các trang mạng do chính các công dân sáng suốt, các nhà báo nhân cách độc lập (như ông Paul Craig Roberts, Chris Hedge, Udo Ulfkotte v.v)
Những điều quần chúng, sinh viên đại học từng được rao giảng về tính ưu việt của HIẾN PHÁP. của nền tự do báo chí v.v đang vỡ ra từng mảnh nhỏ trước mất chúng ta..
Và cũng hàng ngàn năm qua, từ những cá nhân đơn lẻ được biết đến như Lão Tử, Trang, Chu, Mặc cho đến cận đại và hôm nay ... đang cảnh báo chúng ta với bắng chứng tội ác và tội phạm của bản chất băng hoại của quyền chính nhà nước chính phủ ..
Bọn Nhà nước và đám khoa bảng báo chí giáo dục chính qui- chúng luôn bị minh chứng SAI... Thế nhưng tại sao quần chúng vẫn tin vào chúng?
Aristophanes, nhà biên kịch cổ đại Hy Lạp từng than thờ "Điều khó khăn nhất luôn là giải thich cho quần chúng những điều hiển nhiên".
Tại sao vậy?
Câu trả lời đúng nhất vẫn là từ chính mỗi cá nhân chúng ta.
Chúng ta là quần chúng chứ không ai khác. Chỉ có chính quí vị mới tự thuyết phục được quí vị nếu BIẾT DÙNG BỘ ÓC của mình. Và đây cũng chính là TRÁCH NHIỆM LÀM NGƯỜI của mỗi cá nhân chúng ta.
Nhân Chủ
6-5-2015
NHỮNG TƯ LIỆU CẦN THAM KHẢO
TỘI ÁC NHÀ NƯỚC CHÍNH PHỦ
Statistics Of Vietnamese Democide
Statistics Of Japanese Democide
statistics of pre-20th century genocide and mass murder
What About Atrocities That Have Been Done in the Name of ...
Total for the 20th Century - Necrometrics
Twentieth Century Atlas - Death Tolls - Necrometrics
Iraq - MarkHumphrys.com
Reevaluated democide totals for 20th C. and China
=
"NHÂN MÃN":
Scholarly articles for international aging population
[PDF]World Population Ageing 2013 (Report) - the United Nations
World Population Ageing - the United Nations
WHO | Ageing and life-course
Population ageing - Wikipedia, the free encyclopedia
[PDF]A Global Perspective Why Population Aging Matters
[PDF]Global Population Ageing: Peril or Promise? - weforum.org - World ...
Global ageing statistics | Ageing data | HelpAge International
Ageing data | Resources | HelpAge International
Ageing | UNFPA - United Nations Population Fund
Population by Age and Sex, Australia, States and Territories
CẦN SA:
Medical cannabis - Wikipedia, the free encyclopedia
Health Benefits of Medical Marijuana - Business Insider
Medical Marijuana - What's It Good For? | IFLScience
Home - Good Intentions Medical Marijuana Services
Men's Health | The Truth About Medical Marijuana
Is Marijuana Good Medicine or Dangerous? - LiveScience
Good News for Medical Marijuana - NYTimes.com
Medical Marijuana ProCon.org
Is Marijuana Good Medicine? - WSJ
Marijuana is just good medicine | afr.com
TỘI ÁC và TÔN GIÁO
8 Atrocities Committed in the Name of Religion - Listverse
Religion, War and Atrocity | Michael Brenner - Huffington Post
Unholy Alliance: Religion and Atrocity in Our Time: Marc H ...
Atrocities, culture and religion - The Economist
Top Ten Atrocities Committed In the Name of Religion ...
Holy Horror--Atrocities in the Name of God
The Root Causes of Religious Atrocities - Rejection of ...
Christian Atrocities | Victims of Christianity | Catholic Church ...
Vũ Trụ Hành Trình Truy Cứu Không Thời Gian
Đây là công trình làm việc của hàng bao thế hệ các nhà nghiên cứu, những người đã làm việc bằng NĂM QUY LUẬT (5) ĐƠN GIẢN nằm lòng:
1-Chất vấn thẩm quyền- không có ý kiến nào là ĐÚNG THẬT chỉ vì người nào đó tuyên bố như thế, bất cứ ai.
2- Hãy NGHĨ vì từ NƠI CHÍNH MÌNH, CHẤT VẤN CHÍNH MÌNH
3- Đừng bao giò tin bất cứ điều gì chỉ vì mình MONG MUỐN NHƯ THẾ. Chỉ có Tin điều gì đó, sẽ chẳng làm điều đó trở thành thật. Phải thử thách những ý tưởng với bằng chứng từ việc QUAN SÁT và THỬ NGHIỆM. Nếu những ý tưởng đó không đạt được thử thách đúng đắn, tức là NÓ SAI! Bỏ nó đi!
4- Bám sát lấy bằng chứng, bất cứ nó hướng đến đâu. Nếu bạn không có bằng chứng, tồn nghi đừng kết luận.
5- Và có lẽ qui luật quan trọng nhất hơn tất cả... Hãy nên nhớ, bạn có thể SAI LẦM. Ngay cả những nhà khoa học giỏi nhất đã từng SAI một vài thứ. NewTon, Eistein, và tất cả các nhà khoa học vĩ đại khác trong lịch sử đều vi phạm sai lầm. Dĩ nhiên họ đã có SAI. Họ cũng là người thôi. Khoa học chính là con đường giữ cho chúng ta khỏi lừa dối chính mình và lừa dối lẫn nhau.
Khoa học gia có vi phạm tội lỗi không? Dĩ nhiên là có- chúng ta đã từng sái dụng khoa học cũng như đã sái dụng tất cả những dụng cụ chúng ta có. Và Đây chính là lý do chúng ta không thể để khoa học độc quyền trong tay một nhóm thiểu số quyền lực.
Khoa học càng mở rộng đến mọi người chúng ta, thì cơ hội sái dụng khoa học càng giảm thiểu. Những giá trị này làm suy yếu những hấp dẫn của tính cực đoan ngu dốt (tôn giáo, quyền chính)
It was the work of generations of searchers who took five simple rules to heart.
1- Question authority. No idea is true just because someone says so, including me.
2- Think for yourself. Question yourself. Don't believe anything just because you want to. Believing something doesn't make it so.
3- Test ideas by the evidence gained from observation and experiment. If a favorite idea fails a well-designed test, it's wrong! Get over it.
4- Follow the evidence, wherever it leads. If you have no evidence, reserve judgment.
5- And perhaps the most important rule of all... Remember, you could be wrong. Even the best scientists have been wrong about some things. Newton, Einstein, and every other great scientist in history, they all made mistakes. Of course they did--they were human. Science is a way to keep from fooling ourselves...and each other.
Have scientists known sin? Of course. We have misused science, just as we have every other tool at our disposal, and that's why we can't afford to leave it in the hands of a powerful few. The more science belongs to all of us, the less likely it is to be misused. These values undermine the appeals of fanaticism and ignorance
Tâm sự của một nữ sĩ phải rút khỏi Văn đoàn Độc Lập
Nhà văn Dạ Ngân ưu tư: “Năm ba người với những lý do khác nhau rút lui khỏi Ban vận động thành lập Văn Đoàn. Có người tuyên bố và có người chọn cách nhẹ nhàng, im lặng. Mình tuân thủ triết lý không tuyên bố. Nhiều câu hỏi, dĩ nhiên. Chỉ chia sẻ với những ai thân tình, rằng có vào thì ắt có ra, rằng đơn giản như đang giỡn thói thường của cái xứ tao tác này, rằng trong nhà hai người thì nên chỉ có một người đạp sóng, và rằng… điều này thật sâu xa, rằng có khi chỉ vì nước mắt của đứa con: Đời tư mẹ làm con khổ, đừng làm tương lai con chật vật mẹ ơi! Mỗi ngày, nuốt nước mắt vào trong và cân nhắc, lựa chọn. Cả đời rồi cứ phải cân nhắc và lựa chọn. Nhưng không người mẹ nào cầm lòng được khi con mình khóc dù đứa con ấy không còn trẻ nữa…”
MẤY LỜI TÂM SỰ
DẠ NGÂN
Năm 1987, trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Chỉ thấy mừng duy nhất một điều: nhà văn tỉnh lẻ, từ giờ mấy ông Tuyên giáo tỉnh muốn ăn hiếp hay chụp mũ dù sao cũng có hội đoàn và đồng nghiệp bênh.
Năm 1989 lần đầu đi dự Đại hội Nhà văn Việt Nam. Một may mắn trọn vẹn. Mười ngày “rung chuyển thế giới” theo cách nói của ông Trần Trọng Tân khi ấy. Mười ngày làm nên lịch sử. “Phe vui tươi” cảm thấy sức nặng của nhà văn với bản lề thời đại, “phái hầm hầm” thì lui vào phòng ngự để tìm cách phản công. Mười ngày hai bên cấp tiến và xu phụ vật nhau sôi động như nghị viện. Và rồi, chính số nhà văn “vui là chính” đã làm lệch cán cân. Đại hội kết thúc trong “vui là chính” như mong muốn của những ai bỏ tiền ra cho nó.
Hậu Đại hội IV ám như có ma. Những ai tham luận gay gắt, những ai vỗ tay và đứng lên ngồi xuống tán thưởng với Tâm thư của nhà văn Trần Độ gửi đại hội đều bị làm phiền. Dư luận rót từ thủ đô xuống tận địa phương, Dương Thu Hương là con đàn bà thế nọ thế kia, Trần Độ là tay chân của Trần Xuân Bách. Bỗng tới tai gia tộc: Dạ Ngân là nhân vật phò đa nguyên! Thế là trong một bữa cơm đích thân một vị tướng Quân khu 9 đặc cách nhà văn nữ trẻ, ông không nói chính trị, chỉ đến khi tiễn nhà văn ra cổng, ông mới thân tình: “Ê cháu, đời sống có gì khó khăn nói mấy chú giúp chớ đừng có đa nguyên nghen!”.
Đại hội lần thứ V vào 1993 (tháng mấy không nhớ nữa), mờ nhạt như lãnh đạo mong muốn. Cũng là năm từ giã tỉnh lẻ để ra với thủ đô ngàn năm. Tốt nghiệp Trường Viết văn Nguyễn Du, năm 1998 được Tổng thư ký Nguyễn Khoa Điềm nhận về Hội Nhà văn, trong lúc chưa được ấn vào đâu thì nhà văn Anh Đức đánh tiếng với nhà thơ Hữu Thỉnh: “Có cô đó ngồi ở văn phòng tôi không ra họp đâu đấy!”. Bị thù chắc vì lỡ thân với Nguyễn Quang Sáng và không chịu làm thân với Anh Đức chăng? Thật là rùng rợn bởi những người từng được cho là “tinh hoa” của văn đàn!
Cái ơn việc làm của Tổng thư ký Nguyễn Khoa Điềm lấn cấn mãi trong lòng khi chính nhà thơ này lúc làm Trưởng Ban Văn hóa Tư tưởng Trung ương đã đối xử với Chuyện kể năm 2000 của nhà văn Bùi Ngọc Tấn ra sao ai cũng biết. Một con người khác bên trong mình bắt đầu hình thành, có lẽ từ đó. Im lặng, chọn cách im lặng vì cái này và cái kia cứ xoắn vào nhau như dây xích, không tháo ra được.
Đại hội VI cuối xuân năm 2000 đã phải nhóm họp những tiểu đại hội để gạch tên nhau. Khi ấy đã về làm ở báo Văn Nghệ, dưới trướng của sếp Hữu Thỉnh. Đám cưới con trai diễn ra cũng trong dịp ấy. Cầm lá đơn xin vắng, sếp Thỉnh hỏi ngay: “Đám cưới con quan trọng hay Đại hội Nhà văn quan trọng?”. Có thể nào buột ra một câu hỏi ấy cho một người mẹ luôn phải cách xa con mình gần 2000 cây số? Dĩ nhiên lần ấy ban tổ chức tiểu đại hội không đưa đơn báo vắng, coi như đương sự tự ý vắng mặt và có lẽ, cũng để cho danh sách được bầu gọn đi để các nhà văn gạch tên nhau cho nhanh.
Vì làm ở báo Văn Nghệ nên cưới cho con xong, ra đúng vào lúc đại hội khai mạc, được sếp cử đi viết bài. Bạn bè miền Tây, bạn bè Sài Gòn, bạn bè khắp nơi thấy đeo biển “phục vụ” chứ không được đeo biển đại biểu không khỏi ái ngại: Bà này tư cách có vấn đề gì mà không được bầu đi dự đại hội vậy ta? Con người im lặng lại nhắc, nói gì, không nên nói gì cả, đồng nghiệp mà nhìn vào biển đại biểu chính thức hay không là chính thức để đánh giá nhau thì mình lên tiếng làm gì.
Tháng 8 năm ấy, cái năm 2000 nóng rẫy ấy, nhà văn Trần Độ qua đời. Sếp Thỉnh nhăn nhó bảo Khổ quá khổ quá, cứ phải xin ý kiến cấp trên mãi về việc cáo phó ông Độ trên báo Văn Nghệ. Một người như nhà văn Trần Độ mà không có được “một bao diêm” cáo phó trên tờ báo của Hội Nhà văn Việt Nam ư? Thật không tin vào mắt mình, quả đúng như thế, không có dòng nào về cái chết của một người như Tướng Trần Độ cả.
Lòng hội viên xa dần. Có người xa sớm hơn. Và có những người chập chờn với ân tình và lên tiếng. Im lặng là hèn nhưng im lặng cũng là thượng sách. Đại hội VII năm 2005, Hồ Anh Thái và Phan Thị Vàng Anh là hai gương mặt để các hội viên không “vui là chính” kỳ vọng. Nhưng đâu chừng hơn nửa nhiệm kỳ thì hai vị ấy “cáo quan”, cũng coi im lặng là thượng sách.
Từ Đại hội 2010 đã không còn xem Hội là Hội nghề nghiệp nữa. Mặc hết. Ai là “thùng phiếu di động”, mặc! Nhiều hội viên “nghĩ vậy mà không phải vậy” cũng chọn im lặng là thượng sách, ở cái xó Việt Nam này phương châm ấy có nghĩa là tồn tại và cũng là sống sót. Đại hội không “vui là chính” sao được khi cấp trên đã nặn ra được một con người ở đâu và với ai cũng “tuyệt vời, tuyệt vời”. Thật tuyệt vời khi hội chính trị nghề nghiệp của nhà văn được dẫn dắt bằng một mánh khóe bình dân như vậy.
Cũng đã không bao giờ hồi đáp với những công văn từ Hội kiểu tự kê khai để xét giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng Nhà nước. Lần trước 2010 và lần mới đây. Ai điện thoại xin phiếu thì lập tức phải nghe: Đồng nghiệp ơi, đừng bao giờ xin phiếu nhà này, nhá! Không gì có thể làm ấm lên quan hệ của mình và cái Hội nhiều ân oán với những nhà văn và những tác phẩm khi có sóng gió. Có còn là Hội nghề nghiệp không hay đã hoàn toàn biến thành Hội Vui Là Chính rồi?
Nợ dân và nợ nước. Các nhà văn nghiêm khắc với chính mình muốn một Hội ái hữu thực sự, là nơi đỡ đầu cho văn chương đích thực và cũng là nơi chốn đi về của những nhà văn trong nước và hải ngoại. Đúng là độc lập và ái hữu, những người làm việc không công và những đồng nhỏ đóng góp từ tiền túi của chính mình. Vui một cách sâu sắc và cảm thấy sự sang trọng trong lẽ sống và lẽ viết của hội đoàn mà ai là thành viên đều mơ một ngày sẽ được Nhà nước cho phép ra đời.
Nhưng sóng to và gió cả ngày một lớn. Năm ba người với những lý do khác nhau rút lui khỏi Ban vận động thành lập Văn Đoàn. Có người tuyên bố và có người chọn cách nhẹ nhàng, im lặng. Mình tuân thủ triết lý không tuyên bố. Nhiều câu hỏi, dĩ nhiên. Chỉ chia sẻ với những ai thân tình, rằng có vào thì ắt có ra, rằng đơn giản như đang giỡn thói thường của cái xứ tao tác này, rằng trong nhà hai người thì nên chỉ có một người đạp sóng, và rằng… điều này thật sâu xa, rằng có khi chỉ vì nước mắt của đứa con: Đời tư mẹ làm con khổ, đừng làm tương lai con chật vật mẹ ơi!
Tương lai của những đứa con thế hệ sau 1975 đó ư? Chao ơi, đang nghĩ và sẽ còn nghĩ mãi. Nhà văn lầm lũi bước và ngày mỗi ngạc nhiên sao đờm bãi nhiều hơn, rác rưởi tanh tưởi hơn và con người khủng bố nhau bằng dao, bằng xăng, bằng búa, bằng dây thừng nhiều hơn, mỗi ngày? Hội viên Hội Nhà văn có thể chỉ là một chiếc áo, cởi ra khó gì nhưng cả cuộc đời ta, tim óc ta là một quá khứ nặng như đá tảng.
Chắc gì cái chết đã giải thoát được gánh nặng này. Mỗi ngày, nuốt nước mắt vào trong và cân nhắc, lựa chọn. Cả đời rồi cứ phải cân nhắc và lựa chọn. Nhưng không người mẹ nào cầm lòng được khi con mình khóc dù đứa con ấy không còn trẻ nữa.
Chúng ta đã làm gì chính ta và con cái ta và đất nước này?
MẤY LỜI TÂM SỰ
DẠ NGÂN
Năm 1987, trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Chỉ thấy mừng duy nhất một điều: nhà văn tỉnh lẻ, từ giờ mấy ông Tuyên giáo tỉnh muốn ăn hiếp hay chụp mũ dù sao cũng có hội đoàn và đồng nghiệp bênh.
Năm 1989 lần đầu đi dự Đại hội Nhà văn Việt Nam. Một may mắn trọn vẹn. Mười ngày “rung chuyển thế giới” theo cách nói của ông Trần Trọng Tân khi ấy. Mười ngày làm nên lịch sử. “Phe vui tươi” cảm thấy sức nặng của nhà văn với bản lề thời đại, “phái hầm hầm” thì lui vào phòng ngự để tìm cách phản công. Mười ngày hai bên cấp tiến và xu phụ vật nhau sôi động như nghị viện. Và rồi, chính số nhà văn “vui là chính” đã làm lệch cán cân. Đại hội kết thúc trong “vui là chính” như mong muốn của những ai bỏ tiền ra cho nó.
Hậu Đại hội IV ám như có ma. Những ai tham luận gay gắt, những ai vỗ tay và đứng lên ngồi xuống tán thưởng với Tâm thư của nhà văn Trần Độ gửi đại hội đều bị làm phiền. Dư luận rót từ thủ đô xuống tận địa phương, Dương Thu Hương là con đàn bà thế nọ thế kia, Trần Độ là tay chân của Trần Xuân Bách. Bỗng tới tai gia tộc: Dạ Ngân là nhân vật phò đa nguyên! Thế là trong một bữa cơm đích thân một vị tướng Quân khu 9 đặc cách nhà văn nữ trẻ, ông không nói chính trị, chỉ đến khi tiễn nhà văn ra cổng, ông mới thân tình: “Ê cháu, đời sống có gì khó khăn nói mấy chú giúp chớ đừng có đa nguyên nghen!”.
Đại hội lần thứ V vào 1993 (tháng mấy không nhớ nữa), mờ nhạt như lãnh đạo mong muốn. Cũng là năm từ giã tỉnh lẻ để ra với thủ đô ngàn năm. Tốt nghiệp Trường Viết văn Nguyễn Du, năm 1998 được Tổng thư ký Nguyễn Khoa Điềm nhận về Hội Nhà văn, trong lúc chưa được ấn vào đâu thì nhà văn Anh Đức đánh tiếng với nhà thơ Hữu Thỉnh: “Có cô đó ngồi ở văn phòng tôi không ra họp đâu đấy!”. Bị thù chắc vì lỡ thân với Nguyễn Quang Sáng và không chịu làm thân với Anh Đức chăng? Thật là rùng rợn bởi những người từng được cho là “tinh hoa” của văn đàn!
Cái ơn việc làm của Tổng thư ký Nguyễn Khoa Điềm lấn cấn mãi trong lòng khi chính nhà thơ này lúc làm Trưởng Ban Văn hóa Tư tưởng Trung ương đã đối xử với Chuyện kể năm 2000 của nhà văn Bùi Ngọc Tấn ra sao ai cũng biết. Một con người khác bên trong mình bắt đầu hình thành, có lẽ từ đó. Im lặng, chọn cách im lặng vì cái này và cái kia cứ xoắn vào nhau như dây xích, không tháo ra được.
Đại hội VI cuối xuân năm 2000 đã phải nhóm họp những tiểu đại hội để gạch tên nhau. Khi ấy đã về làm ở báo Văn Nghệ, dưới trướng của sếp Hữu Thỉnh. Đám cưới con trai diễn ra cũng trong dịp ấy. Cầm lá đơn xin vắng, sếp Thỉnh hỏi ngay: “Đám cưới con quan trọng hay Đại hội Nhà văn quan trọng?”. Có thể nào buột ra một câu hỏi ấy cho một người mẹ luôn phải cách xa con mình gần 2000 cây số? Dĩ nhiên lần ấy ban tổ chức tiểu đại hội không đưa đơn báo vắng, coi như đương sự tự ý vắng mặt và có lẽ, cũng để cho danh sách được bầu gọn đi để các nhà văn gạch tên nhau cho nhanh.
Vì làm ở báo Văn Nghệ nên cưới cho con xong, ra đúng vào lúc đại hội khai mạc, được sếp cử đi viết bài. Bạn bè miền Tây, bạn bè Sài Gòn, bạn bè khắp nơi thấy đeo biển “phục vụ” chứ không được đeo biển đại biểu không khỏi ái ngại: Bà này tư cách có vấn đề gì mà không được bầu đi dự đại hội vậy ta? Con người im lặng lại nhắc, nói gì, không nên nói gì cả, đồng nghiệp mà nhìn vào biển đại biểu chính thức hay không là chính thức để đánh giá nhau thì mình lên tiếng làm gì.
Tháng 8 năm ấy, cái năm 2000 nóng rẫy ấy, nhà văn Trần Độ qua đời. Sếp Thỉnh nhăn nhó bảo Khổ quá khổ quá, cứ phải xin ý kiến cấp trên mãi về việc cáo phó ông Độ trên báo Văn Nghệ. Một người như nhà văn Trần Độ mà không có được “một bao diêm” cáo phó trên tờ báo của Hội Nhà văn Việt Nam ư? Thật không tin vào mắt mình, quả đúng như thế, không có dòng nào về cái chết của một người như Tướng Trần Độ cả.
Lòng hội viên xa dần. Có người xa sớm hơn. Và có những người chập chờn với ân tình và lên tiếng. Im lặng là hèn nhưng im lặng cũng là thượng sách. Đại hội VII năm 2005, Hồ Anh Thái và Phan Thị Vàng Anh là hai gương mặt để các hội viên không “vui là chính” kỳ vọng. Nhưng đâu chừng hơn nửa nhiệm kỳ thì hai vị ấy “cáo quan”, cũng coi im lặng là thượng sách.
Từ Đại hội 2010 đã không còn xem Hội là Hội nghề nghiệp nữa. Mặc hết. Ai là “thùng phiếu di động”, mặc! Nhiều hội viên “nghĩ vậy mà không phải vậy” cũng chọn im lặng là thượng sách, ở cái xó Việt Nam này phương châm ấy có nghĩa là tồn tại và cũng là sống sót. Đại hội không “vui là chính” sao được khi cấp trên đã nặn ra được một con người ở đâu và với ai cũng “tuyệt vời, tuyệt vời”. Thật tuyệt vời khi hội chính trị nghề nghiệp của nhà văn được dẫn dắt bằng một mánh khóe bình dân như vậy.
Cũng đã không bao giờ hồi đáp với những công văn từ Hội kiểu tự kê khai để xét giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng Nhà nước. Lần trước 2010 và lần mới đây. Ai điện thoại xin phiếu thì lập tức phải nghe: Đồng nghiệp ơi, đừng bao giờ xin phiếu nhà này, nhá! Không gì có thể làm ấm lên quan hệ của mình và cái Hội nhiều ân oán với những nhà văn và những tác phẩm khi có sóng gió. Có còn là Hội nghề nghiệp không hay đã hoàn toàn biến thành Hội Vui Là Chính rồi?
Nợ dân và nợ nước. Các nhà văn nghiêm khắc với chính mình muốn một Hội ái hữu thực sự, là nơi đỡ đầu cho văn chương đích thực và cũng là nơi chốn đi về của những nhà văn trong nước và hải ngoại. Đúng là độc lập và ái hữu, những người làm việc không công và những đồng nhỏ đóng góp từ tiền túi của chính mình. Vui một cách sâu sắc và cảm thấy sự sang trọng trong lẽ sống và lẽ viết của hội đoàn mà ai là thành viên đều mơ một ngày sẽ được Nhà nước cho phép ra đời.
Nhưng sóng to và gió cả ngày một lớn. Năm ba người với những lý do khác nhau rút lui khỏi Ban vận động thành lập Văn Đoàn. Có người tuyên bố và có người chọn cách nhẹ nhàng, im lặng. Mình tuân thủ triết lý không tuyên bố. Nhiều câu hỏi, dĩ nhiên. Chỉ chia sẻ với những ai thân tình, rằng có vào thì ắt có ra, rằng đơn giản như đang giỡn thói thường của cái xứ tao tác này, rằng trong nhà hai người thì nên chỉ có một người đạp sóng, và rằng… điều này thật sâu xa, rằng có khi chỉ vì nước mắt của đứa con: Đời tư mẹ làm con khổ, đừng làm tương lai con chật vật mẹ ơi!
Tương lai của những đứa con thế hệ sau 1975 đó ư? Chao ơi, đang nghĩ và sẽ còn nghĩ mãi. Nhà văn lầm lũi bước và ngày mỗi ngạc nhiên sao đờm bãi nhiều hơn, rác rưởi tanh tưởi hơn và con người khủng bố nhau bằng dao, bằng xăng, bằng búa, bằng dây thừng nhiều hơn, mỗi ngày? Hội viên Hội Nhà văn có thể chỉ là một chiếc áo, cởi ra khó gì nhưng cả cuộc đời ta, tim óc ta là một quá khứ nặng như đá tảng.
Chắc gì cái chết đã giải thoát được gánh nặng này. Mỗi ngày, nuốt nước mắt vào trong và cân nhắc, lựa chọn. Cả đời rồi cứ phải cân nhắc và lựa chọn. Nhưng không người mẹ nào cầm lòng được khi con mình khóc dù đứa con ấy không còn trẻ nữa.
Chúng ta đã làm gì chính ta và con cái ta và đất nước này?
Thứ Ba, 5 tháng 5, 2015
Tại sao Phật giáo ảnh hưởng ở phương Tây?
Tây phương biết Phật giáo từ hồi đầu thế kỷ 19. Nhưng hồi đó chỉ mới một số ít học giả và triết gia khám phá ra sức thu hút của một tư tưởng đến từ phương Đông mà người ta không biết nên gọi là tôn giáo hay triết lý. Âm thầm, “im lặng, Phật giáo lan ra xã hội, phát triển khắp nơi ở châu Âu” (1) từ giữa thế kỷ 19 cùng với sự phát triển của trào lưu tiến hóa mà ngày nay ta gọi là hiện đại.
Âm thầm, im lặng như thế cho đến đầu những năm 60 của thế kỳ 20 thì Phật giáo bỗng được tiếp nhận rộn ràng trong giới trẻ khi giới này phất lên một phong trào văn hóa phản kháng (contre-culture) chống lại văn hóa tôn sùng kỹ thuật, vật chất và tiền bạc.
Giới trẻ khao khát một đời sống tâm linh mới giúp họ giải quyết những vấn đề tâm lý, hiện sinh, và họ nghĩ đã tìm được nơi Phật giáo. Đó là lúc mà nhiều trí thức trẻ tìm đến Tây Tạng như tìm đến miền đất hứa. Nhanh chóng, trong vòng hai mươi năm, tu viện và thiền viện mọc lên hàng trăm ngôi trên khắp Âu Mỹ.
Giới trẻ - học thức và trung lưu - gặp một thứ hạnh phúc mới mà họ thực chứng được bằng kinh nghiệm tu học bản thân trong các thiền đường. Đến những năm 90 thì báo chí, truyền thông rộ lên cả một cao trào tin tức, bình luận, phóng sự, hình ảnh đầy cảm tình với Phật giáo.
Hollywood nồng nhiệt đưa lên màn ảnh phim truyện về cuộc đời của đức Phật, về ngài Đạt Lai Lạt Ma, về Tây Tạng, nhiều ngôi sao màn bạc, nghệ sĩ, ca sĩ danh tiếng trở thành phật tử, khiến dư luận, quần chúng, càng có cảm tình hơn. Bây giờ thì Phật giáo đã mọc rễ, đã phát triển trong xã hội, trong đời sống văn hóa ở Âu Mỹ. Phật giáo là môn học được ưa chuộng trong các trường đại học Mỹ danh tiếng, thu hút sinh viên ngày càng đông.
. Âu Mỹ đang mở lòng tiếp nhận một tư tưởng, một tôn giáo mà họ cho là rất trẻ và rất hiện đại. Hiện đại: tại sao Phật giáo bành trướng được ảnh hưởng trên Âu Mỹ?
1/Thế nào là hiện đại? Hiện đại là gì?
Từ ngữ này đã trở thành quá phổ thông, đã bị pha loãng ra trong ngôn ngữ thường ngày, ở ta cũng như ở Âu Mỹ, cho nên phải trở về lại với lịch sử để tìm bản chất của nó. Thông thường, ta dùng từ hiện đại để nói cái gì là mới, ngầm ý tán thưởng: mới là hơn cũ, nay là hơn xưa. Thì cũng đúng thôi! Nhưng có người sẽ nói trái lại: chắc gì mới đã hơn cũ, chắc gì nay đã hơn xưa!
Ở thời nào cũng vậy, và ở xã hội nào cũng vậy, hai khuynh hướng cứ đối chọi nhau: một muốn đi tới, một muốn kéo lui, một cách tân, một hoài cổ, bên nào cũng muốn biện minh khuynh hướng của mình, và nếu biện minh có hệ thống thì trở thành ý thức hệ, trở thành chủ nghĩa, “chủ nghĩa hiện đại” chống lại “chủ nghĩa truyền thống”. Để tránh cả hai cực đoan, cực đoan của phe mới cũng như cực đoan của phe cũ, ta lần theo chiều lịch sử phân tích đâu là những yếu tố tạo thành cái mà ta gọi là hiện đại.
Yếu tố quan trọng nhất là tự chủ, là con người tự chủ, con người tự mình làm chủ mình. Làm chủ là thế nào? Kant đã cắt nghĩa bằng một câu bất hủ khi được hỏi: “Khai Sáng là gì?” Ông trả lời: “Là con người bước ra khỏi tình trạng vị thành niên”.
Trước khi tư tưởng Khai Sáng bừng nở, con người hãy còn thơ ấu, phải vịn vào tay người lớn mà đi, bây giờ đi được một mình. Chữ Pháp, chữ Anh làm rõ hơn nghĩa đó. Autonomie có gốc Hy Lạp là autos (tự mình) và nomos (luật) : con người tự mình cai trị mình theo luật tự mình làm lấy, chứ không phải luật do người khác làm ra và bắt mình phải theo. Và luật do mình làm ra dựa trên cái gì? Dựa trên lý trí, lý tính mà đã là người thì ai cũng có. “Hãy có can đảm sử dụng lý tính của chính mình!”: đó là châm ngôn của Khai Sáng và cũng là châm ngôn của con người hiện đại. Đừng dựa nữa vào bất cứ cái gì ở ngoài con người, nhất là ở trên cao. Hãy đứng dậy, đừng vịn nữa vào Thượng Đế!
Từ yếu tố quan trọng nhất đó, từ tự chủ, cả một loạt các yếu tố khác sáng rõ ra, bắt đầu là sự giải phóng của lý tính phê phán, bởi vì phê phán là chức năng của lý tính. Không có gì được thoát ra khỏi phê phán, không có đối tượng nào được xem là Tuyệt Đối, là húy kỵ, kể cả Thượng Đế, kể cả Nhà Thờ. Kant hô to: “Hãy dám tư tưởng!” Không có lĩnh vực nào là lĩnh vực riêng của bất cứ quyền uy nào: tất cả đều phải bước qua “tòa án của lý tính”.
Trước tòa án đó, bị cáo mà tư tưởng hiện đại nhắm đến trước tiên là lòng tin tôn giáo. Phải giải phóng lý tính ra khỏi lòng tin. Phải giải phóng Galilée ra khỏi lòng tin nô lệ, tin rằng mặt trời xoay chung quanh trái đất. Với lý tính, khoa học sẽ phát triển, và khoa học có khả năng vén những tấm màn bí mật của vũ trụ mà lòng tin cố cản. Khoa học, tư tưởng khoa học, đó là ánh sáng dẫn đường cho tính hiện đại, giúp con người tự mình biến đổi thế giới, làm thành thế giới của con người, đập tan mọi xiềng xích của mê muội. Khoa học sẽ phát triển không ngừng, do đó tiến bộ cũng đi tới không ngừng, tiến bộ giống như mũi tên bắn ra, chỉ bay thẳng phía trước, không ngoằn ngoèo, vòng vo.
Với tự chủ của con người trưởng thành, với lý tính được giải phóng ra khỏi lòng tin, với khoa học vén màn bí mật, các bạn thấy lịch sử của tư tưởng Âu châu cứ dần dần đi vào chiều hướng củng cố địa vị của con người, bắt đầu từ thời Phục Hưng (thế kỷ XIV-XVI). Chiều hướng đó, khuynh hướng đó, cao trào đó, tên của nó là nhân bản chủ nghĩa (humanisme). Không thể hiểu được tư tưởng Âu châu nếu không thấy cái hướng đi đó của chủ nghĩa nhân bản, và cũng không thể hiểu được hiện đại là gì nếu trước hết không hiểu sự giằng co, có khi âm thầm, có khi dữ dội, giữa Thiên chúa giáo và nhân bản chủ nghĩa (2). Cố gắng, cố gắng không ngừng để phát triển, phát triển không ngừng tất cả những khả năng của con người để đừng làm mất đi bất cứ cái gì làm con người lớn lên, làm con người vinh thăng. Lớn lên bằng cách nào trong lịch sử Âu châu? Bằng cách làm bớt đi, làm nhỏ dần Thượng Đế. Cho đến thế kỷ 19 thì Nietzsche loan báo: “Thượng Đế chết rồi! Chúng ta đã giết!”
Sự thực là Thượng Dế vẫn còn đấy thôi, nhưng thay hình đổi dạng, không còn là Thượng Đế nhân dạng nữa. Mà cũng chẳng còn thống trị nữa trong tư tưởng, trong đời sống xã hội, trong luật pháp, trong chính trị, trong sinh hoạt thường ngày của người Âu châu. Thế kỷ 20 không còn đặt vấn đề giết Thượng Đế nữa, bởi vì người ta sống ngoài vòng cương tỏa của Thượng Đế, chẳng cần biết Thượng Đế là ai, có hay không, và chính thái độ dửng dưng đó làm các người bênh vực Thượng Đế bực mình còn hơn là thái độ chống đối Thượng Đế. Xã hội ngày nay ở châu Âu đi vào tình trạng mà các nhà xã hội học gọi là thế tục hóa. Thế tục hóa: đó cũng là một trong những yếu tố đặc trưng của hiện đại. Trên quá trình hiện đại hóa đó thì Tây phương gặp đạo Phật.
II. Đạo Phật hiện đại như thế nào trước mắt Tây phương?
Con người Tây phương khám phá ra rằng cách đặt vấn đề của đạo Phật đáp ứng nhu cầu của thời đại mới. Tây phương đang chối từ Thượng Đế thì đạo Phật giải thích không có Thượng Đế. Tây phương phải nhờ Darwin để cắt nghĩa rằng vũ trụ không phải do một Đấng nào sáng tạo ra cả trong bảy ngày thì đạo Phật đã nói cách đây hơn 2500 năm rằng thời gian là vô thủy vô chung, vũ trụ là vô cùng vô tận. Tây phương ngay ngáy lo sợ về ngày phán xét cuối cùng của Thượng Đế thì Phật giáo nói: không có ai phán xét ta cả, chỉ có con người phán xét con người thôi. Tây phương trăn trở về những vấn đề siêu hình thì Phật giao kể chuyện mũi tên: khi anh bị mũi tên độc bắn vào thân thì anh phải rút nó ra ngay hay anh ca vọng cổ hỏi mũi tên do ai bắn, lý lịch thế nào, hộ khẩu ở đâu. Rút mũi tên ra: đó là nhu cầu giải phóng con người ở Tây phương và họ thấy nơi Phật giáo một đáp số hợp với lý tính, đặt nặng trên kinh nghiệm, trên thực hành, và kiểm chứng được bằng kết quả bản thân, ở ngay đời này, chứ không phải đợi đến khi lên thiên đường, xuống địa ngục.
Hợp với lý tính: người Tây phương ngưỡng mộ nét đặc biệt đó của Phật giáo, làm Phật giáo khác với các tôn giáo khác. Phật giáo từ chối lòng tin nếu không đặt cơ sở trên trí tuệ. Bởi vậy, trong Phật giáo không có tín điều. Tây phương ngưỡng mộ kinh Kâlâma khi Phật dạy: Đừng vội tin một điều gì dù điều đó được ghi trong kinh điển hay sách vở. Hãy quan sát, suy tư, thể nghiệm, thực chứng rồi mới tin. Tinh thần đó xuyên suốt kinh kệ Phật giáo. Người trí thức Tây phương thấy tinh thần đó hợp với khoa học, hợp với đầu óc phê phán. “Phật giáo là tôn giáo duy nhất thích ứng với khoa học hiện đại”, Einstein đã phát biểu như vậy.
Tại sao Phật giáo hợp với khoa học? Tại vì Phật giáo không nói điều gì mà không có kiểm chứng. Phật giáo nói: sự vật là vô thường. Hãy nhìn chung quanh với mắt của mình, kinh nghiệm của mình: có cái gì là thường còn đâu? Cái thường còn duy nhất là khoảnh khắc này đây. Vậy thì tìm thiên đường ở đâu nếu không phải nơi chính cái khoảnh khắc này? Hạnh phúc nằm ngay nơi mỗi khoảnh khắc: đó là bài học hiện đại quý giá nhất mà Phật giáo đem đến cho người Tây phương. Và hãy nhìn thêm nữa: mọi sự mọi vật đều tương quan lẫn nhau mà có và tương quan lẫn nhau mà diệt. Màu hồng nơi đóa hoa kia có phải tự nó mà có không? Đâu phải! Nếu không có mặt trời thì nó đâu có hồng thắm như vậy? Nhưng mặt trời có phải là tác giả duy nhất của màu hồng kia không? Không! Vì nếu không có mưa thì làm sao hoa sống? Nhưng mưa có cũng là do mây, mây có cũng là do hơi nước. Cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia cũng không. Đó là luật vô ngã của Phật giáo và cũng là luật tương quan tương sinh. Ai đọc sách của nhà vũ trụ vật lý học Trịnh Xuân Thuận đều biết: những luật đó có nhiều điểm hội tụ với khoa học vũ trụ vật lý. Áp dụng được luật đó vào đời sống bản thân, đời sống gia đình, đời sống xã hội, cam đoan không cần tìm thiên đường ở đâu xa. Đó là chưa kể đến luật nhân quả mà ai cũng có thể dễ kiểm chứng. Từ đó, người Tây phương đi đến một cái nhìn hiện đại hơn nữa vào bản chất của cuộc đời để hiểu chữ “khổ” trong Phật giáo. Họ chất vấn Thượng Đế: Nếu Thượng Đế là toàn năng thì sinh ra làm chi thiên tai, động đất, triều cường, dịch này dịch nọ giết hại phút chốc hàng trăm ngàn người như vậy? Nếu Ngài là nhân từ thì sao con người khổ thế, con người khổ thế thì Ngài ở đâu? Phải chăng, người Tây phương hỏi, khổ nằm ngay trong bản chất của cuộc đời như muối nằm trong biển, mà sinh lão bệnh tử chỉ là những khía cạnh dễ thấy nhất? Từ đó, Tây phương hiểu chữ “niết bàn” của Phật giáo đúng hơn hồi thế kỷ 19: niết bàn là hết khổ, mà hết khổ là tự mình. Bản thân tôi, mỗi khi tôi nghe ai cầu cho người chết được siêu thoát, tôi không khỏi cười thầm, bởi vì “siêu” là vượt lên, “thoát” là giải thoát, vượt lên trên tham sân si thì giải thoát, vậy thì nên cầu cho cả người sống được siêu thoát. Tôi không dám đùa đâu, người Tây phương hiểu điều đó hơn ta, bởi vì họ hiểu tư tưởng nhân bản của chính họ: nhân bản nghĩa là con người vượt lên trên con người, con người có đủ khả năng để vượt lên trên chính mình.
Nhưng vượt lên như thế nào, cụ thể bằng cách nào? Đây là cái mới mà Phật giáo đem đến cho Tây phương và đem đến trong tinh thần khoa học.
Trong lịch sử, Tây phương đã vượt quá ta hằng mấy thế kỷ nhờ khám phá thế giới bên ngoài. Nhưng đến một lúc họ bỗng giật mình thấy rằng khám phá thế giới bên ngoài không đủ để đem lại hạnh phúc như họ tưởng bởi vì con người còn có đời sống ở bên trong.
Ngài Đạt Lai Lạt Ma nhắc họ: “Những vấn đề của chúng ta, dù đến từ bên ngoài, như chiến tranh, như bạo lực, như tội ác, hay đến từ bên trong dưới hình thức khổ đau về tâm lý hay tình cảm, đều sẽ không tìm ra giải pháp chừng nào chúng ta còn không hiểu chiều sâu nội tâm của ta” (3). Đó là lúc mà ngài và các vị sư đắc đạo của Tây Tạng đến Âu Mỹ, mang theo một ánh sáng khoa học mới rọi soi vào nội tâm của con người, để làm một cuộc cách mạng thứ hai mà người Tây phương gọi là “cách mạng ở bên trong”, bổ túc cho “cách mạng ở bên ngoài” mà Tây phương đã từng làm, từng biết với khoa học. Chìa khóa của hạnh phúc không nằm ở đâu khác hơn là trong nội tâm mỗi cá nhân. Mà muốn nhìn thấy cái chìa khóa đó thì phải rọi soi vào bên trong bằng những kỹ thuật thiền định mà các nhà sư Tây Tạng đã thực chứng do chính kinh nghiệm của họ. Trong lĩnh vực này, đừng hòng các lang băm đến làm ăn bịp bợm: khoa học Âu Mỹ đã đặt nền móng vững chắc cho cuộc thám hiểm vào não bộ của con người. Các nhà sư Tậy Tạng đã đem chính bản thân để các máy móc tối tân trong các đại học danh tiếng nhất của Mỹ đo lường ảnh hưởng của thiền định trên não bộ. Họ không phải chỉ đem lời nói, họ đem thực hành, họ đem kỹ thuật, phương pháp cụ thể để các nhà khoa học quan sát, phán xét tính hiệu nghiệm của thiền định, góp phần lớn vào sự phát triển của ngành sinh học thần kinh.
Bây giờ, tiếp tục vấn đề nhân bản và khoa học, có phải sức quyến rũ của Phật giáo chỉ nằm ở tính khoa học của Phật giáo mà thôi hay không? . Đạo đức học ở Tây phương là những răn cấm, những mệnh lệnh. Người Tây phương hiện đại có cảm tưởng như có ngón tay chỉ vào trán và ra lệnh: mày không được thế này, mày không được thế kia, mày làm là phạm tội. Phạm tội với ai? Tại sao như thế là phạm tội? Tại sao tội đó phải nhờ một người khác giải tội với Trên Cao? Đạo đức đó, con người hiện đại chối bỏ vì họ cảm thấy như vậy là hãy còn vị thành niên. Đạo đức của Phật giáo trái hẳn, bắt nguồn từ con người. Không ai ra lệnh, không ai răn cấm. Phật giáo nói: tham thì khổ, sân thì khổ, si thì khổ. Từ thì vui, bi thì vui, hỷ thì vui, xả thì vui. Từ bi hỷ xả, cứ thực hành sẽ thấy vui. Tham sân si, cứ mắc vào sẽ thấy khổ. Đừng giết hại, đừng nói dối, đừng trộm cắp, đừng tà dâm, đừng say rượu. Đạo đức của Phật giáo là thực nghiệm, nhắm mục đích làm cho con người tốt hơn đã đành, nhưng cốt nhất là làm nội tâm thanh thản, bởi vì thanh thản chính là hạnh phúc.
Hơn thế nữa, đạo đức Phật giáo còn thức tỉnh con người hiện đại ở Tây phương ở chỗ nới rộng lòng từ bi và ý thức liên đới ra khắp chung quanh, không những giữa người với người, mà còn giữa người với thú vật, với thiên nhiên. Dưới ảnh hưởng của tôn giáo cổ truyền của họ, Tây phương đã cổ vũ, huy động từ thế kỷ 17 mọi cố gắng để chinh phục, cai trị thiên nhiên. Chiến công đó, nhân loại cám ơn. Xẻ sông, lấp núi: cái gì con người cũng làm được, thiên nhiên đã bị nhân hóa. Nhưng thiên nhiên cũng đã bị khai thác, bóc lột đến kiệt quệ, rừng trọc đầu, mưa hóa chất, nước nhiễm độc, chúng ta biết rõ hơn ai hết. Và rốt cục, con người ăn trong miếng ăn những chất độc do chính con người thải ra. Đạo đức đối với thiên nhiên trở thành trách nhiệm của chính con người. Các tôn giáo khác nói: không được giết người. Phật giao nói: tôi nguyện không sát sinh, nghĩa là không giết sự sống, và sự sống đó, thú vật đều có, cây cối thiên nhiên đều có, vũ trụ, khí quyển, trái đất đều có, tất cả đều liên đới với con người, phải yêu thương nhau như một thì mới sống còn với nhau.
Bởi vì hiện đại không phải cái gì cũng hay. Hiện đại cũng có lắm tiêu cực. Hiện đại cũng đang gặp khủng hoảng. Bởi vậy, sau khi tán thưởng hiện đại và giải thích Phật giáo hiện đại như thế nào, tôi bắt qua điểm thứ ba, trình bày những khủng hoảng của hiện đại.
III. Khủng hoảng của hiện đại.
Khủng hoảng quan trọng nhất của hiện đại là khái niệm về Tiến Bộ. Hồi thế kỷ 19, với sự phát triển thần kỳ của khoa học, ai cũng lạc quan về tương lai. Cha đẻ của môn xã hội học, Auguste Comte, xây dựng cả một hệ thống lý thuyết cắt nghĩa rằng lịch sử của nhân loại là lịch sử của tiến bộ, tiến bộ của đầu óc con người từ giai đoạn thần linh qua giai đoạn siêu hình để cuối cùng đến giai đoạn khoa học. Đó là một sự tiến bộ không ngừng và giai đoạn sau tốt đẹp cho con người hơn giai đoạn trước về phúc lợi, vật chất cũng như tinh thần. Lạc quan đó, Tây phương đã thấy đổ vỡ phũ phàng với chiến tranh thế giới thứ hai. Một nước văn minh như nước Đức trở thành một nước dã man, phi nhân, trong học thuyết cũng như trong hành động. Nước Đức quốc xã đưa ra hình ảnh ghê rợn của một phá sản tinh thần, khi phá sản đó xảy ra trong chính niềm tin vào “tiến bộ đạo đức” mà người ta chờ đợi ở hiện đại. Rồi bom nguyên tử, rồi Hiroshima, rồi chiến tranh lạnh, rồi leo thang vũ khí tận diệt nhân loại, đâu là Tiến Bộ, đâu là đạo đức của khoa học? “Khoa học mà không có lương tâm là đổ nát của linh hồn”, câu nói ấy trở thành thời sự trước mắt. Khoa học là mục đích nhưng lương tâm phải là người bạn đồng hành. Nói là nói thế, nhưng trên thực tế người bạn đồng hành của khoa học lại là chiến tranh, buôn bán vũ khí, chiến tranh làm phát triển khoa học, khoa học phục vụ chiến tranh.
Khái niệm “tiến bộ” cũng được cảnh báo cả khi khoa học làm đúng nhiệm vụ của khoa học là tìm tòi, nghiên cứu, phát minh, vén màn bí mật của vũ trụ và đời sống. Không có gì quý hóa cho con người hơn là những phát minh càng ngày càng nhiều trong y khoa. Khám phá về tế bào gốc chẳng hạn là một trong những phúc lợi lớn mà nhân loại chờ đợi. Nhưng lương tâm có cho phép ta tạo ra đồng loạt vô số những người y chang giống nhau trong tương lai? Chẳng lẽ khoa học cũng bắt chước Tôn Hành Giả nhổ một sợi lông, thổi một cái, để biến ra thành cả trăm con khỉ giống hệt nhau, chẳng biết con nào là khỉ gốc họ Tôn? Hiện đại đang gặp phải vấn đề của “đạo đức sinh học”, mà đạo đức sinh học không thể không liên quan đến cái nhìn của tôn giáo.
Cuối cùng, khái niệm “tiến bộ” còn được đặt lại khi tiến bộ vật chất đưa đến xã hội tiêu thụ trong đó con người bị tha hóa, nghĩa là mất địa vị chủ. Đây là mê lộ trong đó con người Âu Mỹ nhởn nhơ sa vào. Muốn phồn thịnh kinh tế, phải sản xuất. Muốn sản xuất, phải có tiêu thụ. Muốn có tiêu thụ, phải kích thích nhu cầu, không có nhu cầu cũng phải kích lên cho có. Nhu cầu này được thỏa mãn, phải kích lên nhu cầu khác, nhu cầu phải luôn luôn mới để đáp ứng sản xuất phải mới luôn luôn. Hiện đại đòi hỏi những con người có lý tính. Đâu còn là lý tính nữa trước cuộc chạy đua không ngừng đuổi theo nhu cầu giả tạo, đuổi theo tiêu thụ phù du? Con người trở thành nô lệ của quảng cáo, và quảng cáo, tuyên truyền, có đủ mánh lới để tước bỏ phê phán ra khỏi đầu óc người nghe. Câu thơ của Nguyễn Công Trứ: “Tri túc tiện túc, đãi túc hà thời túc”. Biết đủ thì đủ, tìm đủ thì biết đến bao giờ mới thấy đủ! Ấy là câu thơ dí cái chìa khóa vào tay ta để mở cửa thoát ra khỏi mê lộ tiêu thụ. Nhưng cái tài của quảng cáo là mê hoặc, đưa con người tiêu thụ vào siêu thị mà làm người ta tưởng vào chốn đào nguyên!
Tha hóa: con người hiện đại thoát ra khỏi tha hóa đối với Trên Cao thì lại rơi vào tha hóa ở dưới đất. Tha hóa trước sản phẩm, hàng hóa. Tha hóa trước thị trường. Bởi vì cái gì bây giờ cũng trở thành thị trường, cái gì cũng bị thị trường khai thác, kể cả lĩnh vực tâm linh. Phật giáo cũng bị thôi, và bị chính vì sự thành công của mình. Lấy một ví dụ thôi: cái nhãn hiệu “Nirvana” trên một sản phẩm sắc đẹp của quý bà. Thoa kem ấy vào, lập tức thấy cực lạc! Cực lạc bỗng trở thành nạn nhân của tha hóa.
Ở thời nào cũng vậy, và ở xã hội nào cũng vậy, hai khuynh hướng cứ đối chọi nhau: một muốn đi tới, một muốn kéo lui, một cách tân, một hoài cổ, bên nào cũng muốn biện minh khuynh hướng của mình, và nếu biện minh có hệ thống thì trở thành ý thức hệ, trở thành chủ nghĩa, “chủ nghĩa hiện đại” chống lại “chủ nghĩa truyền thống”. Để tránh cả hai cực đoan, cực đoan của phe mới cũng như cực đoan của phe cũ, ta lần theo chiều lịch sử phân tích đâu là những yếu tố tạo thành cái mà ta gọi là hiện đại.
Yếu tố quan trọng nhất là tự chủ, là con người tự chủ, con người tự mình làm chủ mình. Làm chủ là thế nào? Kant đã cắt nghĩa bằng một câu bất hủ khi được hỏi: “Khai Sáng là gì?” Ông trả lời: “Là con người bước ra khỏi tình trạng vị thành niên”.
Trước khi tư tưởng Khai Sáng bừng nở, con người hãy còn thơ ấu, phải vịn vào tay người lớn mà đi, bây giờ đi được một mình. Chữ Pháp, chữ Anh làm rõ hơn nghĩa đó. Autonomie có gốc Hy Lạp là autos (tự mình) và nomos (luật) : con người tự mình cai trị mình theo luật tự mình làm lấy, chứ không phải luật do người khác làm ra và bắt mình phải theo. Và luật do mình làm ra dựa trên cái gì? Dựa trên lý trí, lý tính mà đã là người thì ai cũng có. “Hãy có can đảm sử dụng lý tính của chính mình!”: đó là châm ngôn của Khai Sáng và cũng là châm ngôn của con người hiện đại. Đừng dựa nữa vào bất cứ cái gì ở ngoài con người, nhất là ở trên cao. Hãy đứng dậy, đừng vịn nữa vào Thượng Đế!
Từ yếu tố quan trọng nhất đó, từ tự chủ, cả một loạt các yếu tố khác sáng rõ ra, bắt đầu là sự giải phóng của lý tính phê phán, bởi vì phê phán là chức năng của lý tính. Không có gì được thoát ra khỏi phê phán, không có đối tượng nào được xem là Tuyệt Đối, là húy kỵ, kể cả Thượng Đế, kể cả Nhà Thờ. Kant hô to: “Hãy dám tư tưởng!” Không có lĩnh vực nào là lĩnh vực riêng của bất cứ quyền uy nào: tất cả đều phải bước qua “tòa án của lý tính”.
Trước tòa án đó, bị cáo mà tư tưởng hiện đại nhắm đến trước tiên là lòng tin tôn giáo. Phải giải phóng lý tính ra khỏi lòng tin. Phải giải phóng Galilée ra khỏi lòng tin nô lệ, tin rằng mặt trời xoay chung quanh trái đất. Với lý tính, khoa học sẽ phát triển, và khoa học có khả năng vén những tấm màn bí mật của vũ trụ mà lòng tin cố cản. Khoa học, tư tưởng khoa học, đó là ánh sáng dẫn đường cho tính hiện đại, giúp con người tự mình biến đổi thế giới, làm thành thế giới của con người, đập tan mọi xiềng xích của mê muội. Khoa học sẽ phát triển không ngừng, do đó tiến bộ cũng đi tới không ngừng, tiến bộ giống như mũi tên bắn ra, chỉ bay thẳng phía trước, không ngoằn ngoèo, vòng vo.
Với tự chủ của con người trưởng thành, với lý tính được giải phóng ra khỏi lòng tin, với khoa học vén màn bí mật, các bạn thấy lịch sử của tư tưởng Âu châu cứ dần dần đi vào chiều hướng củng cố địa vị của con người, bắt đầu từ thời Phục Hưng (thế kỷ XIV-XVI). Chiều hướng đó, khuynh hướng đó, cao trào đó, tên của nó là nhân bản chủ nghĩa (humanisme). Không thể hiểu được tư tưởng Âu châu nếu không thấy cái hướng đi đó của chủ nghĩa nhân bản, và cũng không thể hiểu được hiện đại là gì nếu trước hết không hiểu sự giằng co, có khi âm thầm, có khi dữ dội, giữa Thiên chúa giáo và nhân bản chủ nghĩa (2). Cố gắng, cố gắng không ngừng để phát triển, phát triển không ngừng tất cả những khả năng của con người để đừng làm mất đi bất cứ cái gì làm con người lớn lên, làm con người vinh thăng. Lớn lên bằng cách nào trong lịch sử Âu châu? Bằng cách làm bớt đi, làm nhỏ dần Thượng Đế. Cho đến thế kỷ 19 thì Nietzsche loan báo: “Thượng Đế chết rồi! Chúng ta đã giết!”
Sự thực là Thượng Dế vẫn còn đấy thôi, nhưng thay hình đổi dạng, không còn là Thượng Đế nhân dạng nữa. Mà cũng chẳng còn thống trị nữa trong tư tưởng, trong đời sống xã hội, trong luật pháp, trong chính trị, trong sinh hoạt thường ngày của người Âu châu. Thế kỷ 20 không còn đặt vấn đề giết Thượng Đế nữa, bởi vì người ta sống ngoài vòng cương tỏa của Thượng Đế, chẳng cần biết Thượng Đế là ai, có hay không, và chính thái độ dửng dưng đó làm các người bênh vực Thượng Đế bực mình còn hơn là thái độ chống đối Thượng Đế. Xã hội ngày nay ở châu Âu đi vào tình trạng mà các nhà xã hội học gọi là thế tục hóa. Thế tục hóa: đó cũng là một trong những yếu tố đặc trưng của hiện đại. Trên quá trình hiện đại hóa đó thì Tây phương gặp đạo Phật.
II. Đạo Phật hiện đại như thế nào trước mắt Tây phương?
Con người Tây phương khám phá ra rằng cách đặt vấn đề của đạo Phật đáp ứng nhu cầu của thời đại mới. Tây phương đang chối từ Thượng Đế thì đạo Phật giải thích không có Thượng Đế. Tây phương phải nhờ Darwin để cắt nghĩa rằng vũ trụ không phải do một Đấng nào sáng tạo ra cả trong bảy ngày thì đạo Phật đã nói cách đây hơn 2500 năm rằng thời gian là vô thủy vô chung, vũ trụ là vô cùng vô tận. Tây phương ngay ngáy lo sợ về ngày phán xét cuối cùng của Thượng Đế thì Phật giáo nói: không có ai phán xét ta cả, chỉ có con người phán xét con người thôi. Tây phương trăn trở về những vấn đề siêu hình thì Phật giao kể chuyện mũi tên: khi anh bị mũi tên độc bắn vào thân thì anh phải rút nó ra ngay hay anh ca vọng cổ hỏi mũi tên do ai bắn, lý lịch thế nào, hộ khẩu ở đâu. Rút mũi tên ra: đó là nhu cầu giải phóng con người ở Tây phương và họ thấy nơi Phật giáo một đáp số hợp với lý tính, đặt nặng trên kinh nghiệm, trên thực hành, và kiểm chứng được bằng kết quả bản thân, ở ngay đời này, chứ không phải đợi đến khi lên thiên đường, xuống địa ngục.
Hợp với lý tính: người Tây phương ngưỡng mộ nét đặc biệt đó của Phật giáo, làm Phật giáo khác với các tôn giáo khác. Phật giáo từ chối lòng tin nếu không đặt cơ sở trên trí tuệ. Bởi vậy, trong Phật giáo không có tín điều. Tây phương ngưỡng mộ kinh Kâlâma khi Phật dạy: Đừng vội tin một điều gì dù điều đó được ghi trong kinh điển hay sách vở. Hãy quan sát, suy tư, thể nghiệm, thực chứng rồi mới tin. Tinh thần đó xuyên suốt kinh kệ Phật giáo. Người trí thức Tây phương thấy tinh thần đó hợp với khoa học, hợp với đầu óc phê phán. “Phật giáo là tôn giáo duy nhất thích ứng với khoa học hiện đại”, Einstein đã phát biểu như vậy.
Tại sao Phật giáo hợp với khoa học? Tại vì Phật giáo không nói điều gì mà không có kiểm chứng. Phật giáo nói: sự vật là vô thường. Hãy nhìn chung quanh với mắt của mình, kinh nghiệm của mình: có cái gì là thường còn đâu? Cái thường còn duy nhất là khoảnh khắc này đây. Vậy thì tìm thiên đường ở đâu nếu không phải nơi chính cái khoảnh khắc này? Hạnh phúc nằm ngay nơi mỗi khoảnh khắc: đó là bài học hiện đại quý giá nhất mà Phật giáo đem đến cho người Tây phương. Và hãy nhìn thêm nữa: mọi sự mọi vật đều tương quan lẫn nhau mà có và tương quan lẫn nhau mà diệt. Màu hồng nơi đóa hoa kia có phải tự nó mà có không? Đâu phải! Nếu không có mặt trời thì nó đâu có hồng thắm như vậy? Nhưng mặt trời có phải là tác giả duy nhất của màu hồng kia không? Không! Vì nếu không có mưa thì làm sao hoa sống? Nhưng mưa có cũng là do mây, mây có cũng là do hơi nước. Cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia cũng không. Đó là luật vô ngã của Phật giáo và cũng là luật tương quan tương sinh. Ai đọc sách của nhà vũ trụ vật lý học Trịnh Xuân Thuận đều biết: những luật đó có nhiều điểm hội tụ với khoa học vũ trụ vật lý. Áp dụng được luật đó vào đời sống bản thân, đời sống gia đình, đời sống xã hội, cam đoan không cần tìm thiên đường ở đâu xa. Đó là chưa kể đến luật nhân quả mà ai cũng có thể dễ kiểm chứng. Từ đó, người Tây phương đi đến một cái nhìn hiện đại hơn nữa vào bản chất của cuộc đời để hiểu chữ “khổ” trong Phật giáo. Họ chất vấn Thượng Đế: Nếu Thượng Đế là toàn năng thì sinh ra làm chi thiên tai, động đất, triều cường, dịch này dịch nọ giết hại phút chốc hàng trăm ngàn người như vậy? Nếu Ngài là nhân từ thì sao con người khổ thế, con người khổ thế thì Ngài ở đâu? Phải chăng, người Tây phương hỏi, khổ nằm ngay trong bản chất của cuộc đời như muối nằm trong biển, mà sinh lão bệnh tử chỉ là những khía cạnh dễ thấy nhất? Từ đó, Tây phương hiểu chữ “niết bàn” của Phật giáo đúng hơn hồi thế kỷ 19: niết bàn là hết khổ, mà hết khổ là tự mình. Bản thân tôi, mỗi khi tôi nghe ai cầu cho người chết được siêu thoát, tôi không khỏi cười thầm, bởi vì “siêu” là vượt lên, “thoát” là giải thoát, vượt lên trên tham sân si thì giải thoát, vậy thì nên cầu cho cả người sống được siêu thoát. Tôi không dám đùa đâu, người Tây phương hiểu điều đó hơn ta, bởi vì họ hiểu tư tưởng nhân bản của chính họ: nhân bản nghĩa là con người vượt lên trên con người, con người có đủ khả năng để vượt lên trên chính mình.
Nhưng vượt lên như thế nào, cụ thể bằng cách nào? Đây là cái mới mà Phật giáo đem đến cho Tây phương và đem đến trong tinh thần khoa học.
Trong lịch sử, Tây phương đã vượt quá ta hằng mấy thế kỷ nhờ khám phá thế giới bên ngoài. Nhưng đến một lúc họ bỗng giật mình thấy rằng khám phá thế giới bên ngoài không đủ để đem lại hạnh phúc như họ tưởng bởi vì con người còn có đời sống ở bên trong.
Ngài Đạt Lai Lạt Ma nhắc họ: “Những vấn đề của chúng ta, dù đến từ bên ngoài, như chiến tranh, như bạo lực, như tội ác, hay đến từ bên trong dưới hình thức khổ đau về tâm lý hay tình cảm, đều sẽ không tìm ra giải pháp chừng nào chúng ta còn không hiểu chiều sâu nội tâm của ta” (3). Đó là lúc mà ngài và các vị sư đắc đạo của Tây Tạng đến Âu Mỹ, mang theo một ánh sáng khoa học mới rọi soi vào nội tâm của con người, để làm một cuộc cách mạng thứ hai mà người Tây phương gọi là “cách mạng ở bên trong”, bổ túc cho “cách mạng ở bên ngoài” mà Tây phương đã từng làm, từng biết với khoa học. Chìa khóa của hạnh phúc không nằm ở đâu khác hơn là trong nội tâm mỗi cá nhân. Mà muốn nhìn thấy cái chìa khóa đó thì phải rọi soi vào bên trong bằng những kỹ thuật thiền định mà các nhà sư Tây Tạng đã thực chứng do chính kinh nghiệm của họ. Trong lĩnh vực này, đừng hòng các lang băm đến làm ăn bịp bợm: khoa học Âu Mỹ đã đặt nền móng vững chắc cho cuộc thám hiểm vào não bộ của con người. Các nhà sư Tậy Tạng đã đem chính bản thân để các máy móc tối tân trong các đại học danh tiếng nhất của Mỹ đo lường ảnh hưởng của thiền định trên não bộ. Họ không phải chỉ đem lời nói, họ đem thực hành, họ đem kỹ thuật, phương pháp cụ thể để các nhà khoa học quan sát, phán xét tính hiệu nghiệm của thiền định, góp phần lớn vào sự phát triển của ngành sinh học thần kinh.
Bây giờ, tiếp tục vấn đề nhân bản và khoa học, có phải sức quyến rũ của Phật giáo chỉ nằm ở tính khoa học của Phật giáo mà thôi hay không? . Đạo đức học ở Tây phương là những răn cấm, những mệnh lệnh. Người Tây phương hiện đại có cảm tưởng như có ngón tay chỉ vào trán và ra lệnh: mày không được thế này, mày không được thế kia, mày làm là phạm tội. Phạm tội với ai? Tại sao như thế là phạm tội? Tại sao tội đó phải nhờ một người khác giải tội với Trên Cao? Đạo đức đó, con người hiện đại chối bỏ vì họ cảm thấy như vậy là hãy còn vị thành niên. Đạo đức của Phật giáo trái hẳn, bắt nguồn từ con người. Không ai ra lệnh, không ai răn cấm. Phật giáo nói: tham thì khổ, sân thì khổ, si thì khổ. Từ thì vui, bi thì vui, hỷ thì vui, xả thì vui. Từ bi hỷ xả, cứ thực hành sẽ thấy vui. Tham sân si, cứ mắc vào sẽ thấy khổ. Đừng giết hại, đừng nói dối, đừng trộm cắp, đừng tà dâm, đừng say rượu. Đạo đức của Phật giáo là thực nghiệm, nhắm mục đích làm cho con người tốt hơn đã đành, nhưng cốt nhất là làm nội tâm thanh thản, bởi vì thanh thản chính là hạnh phúc.
Hơn thế nữa, đạo đức Phật giáo còn thức tỉnh con người hiện đại ở Tây phương ở chỗ nới rộng lòng từ bi và ý thức liên đới ra khắp chung quanh, không những giữa người với người, mà còn giữa người với thú vật, với thiên nhiên. Dưới ảnh hưởng của tôn giáo cổ truyền của họ, Tây phương đã cổ vũ, huy động từ thế kỷ 17 mọi cố gắng để chinh phục, cai trị thiên nhiên. Chiến công đó, nhân loại cám ơn. Xẻ sông, lấp núi: cái gì con người cũng làm được, thiên nhiên đã bị nhân hóa. Nhưng thiên nhiên cũng đã bị khai thác, bóc lột đến kiệt quệ, rừng trọc đầu, mưa hóa chất, nước nhiễm độc, chúng ta biết rõ hơn ai hết. Và rốt cục, con người ăn trong miếng ăn những chất độc do chính con người thải ra. Đạo đức đối với thiên nhiên trở thành trách nhiệm của chính con người. Các tôn giáo khác nói: không được giết người. Phật giao nói: tôi nguyện không sát sinh, nghĩa là không giết sự sống, và sự sống đó, thú vật đều có, cây cối thiên nhiên đều có, vũ trụ, khí quyển, trái đất đều có, tất cả đều liên đới với con người, phải yêu thương nhau như một thì mới sống còn với nhau.
Bởi vì hiện đại không phải cái gì cũng hay. Hiện đại cũng có lắm tiêu cực. Hiện đại cũng đang gặp khủng hoảng. Bởi vậy, sau khi tán thưởng hiện đại và giải thích Phật giáo hiện đại như thế nào, tôi bắt qua điểm thứ ba, trình bày những khủng hoảng của hiện đại.
III. Khủng hoảng của hiện đại.
Khủng hoảng quan trọng nhất của hiện đại là khái niệm về Tiến Bộ. Hồi thế kỷ 19, với sự phát triển thần kỳ của khoa học, ai cũng lạc quan về tương lai. Cha đẻ của môn xã hội học, Auguste Comte, xây dựng cả một hệ thống lý thuyết cắt nghĩa rằng lịch sử của nhân loại là lịch sử của tiến bộ, tiến bộ của đầu óc con người từ giai đoạn thần linh qua giai đoạn siêu hình để cuối cùng đến giai đoạn khoa học. Đó là một sự tiến bộ không ngừng và giai đoạn sau tốt đẹp cho con người hơn giai đoạn trước về phúc lợi, vật chất cũng như tinh thần. Lạc quan đó, Tây phương đã thấy đổ vỡ phũ phàng với chiến tranh thế giới thứ hai. Một nước văn minh như nước Đức trở thành một nước dã man, phi nhân, trong học thuyết cũng như trong hành động. Nước Đức quốc xã đưa ra hình ảnh ghê rợn của một phá sản tinh thần, khi phá sản đó xảy ra trong chính niềm tin vào “tiến bộ đạo đức” mà người ta chờ đợi ở hiện đại. Rồi bom nguyên tử, rồi Hiroshima, rồi chiến tranh lạnh, rồi leo thang vũ khí tận diệt nhân loại, đâu là Tiến Bộ, đâu là đạo đức của khoa học? “Khoa học mà không có lương tâm là đổ nát của linh hồn”, câu nói ấy trở thành thời sự trước mắt. Khoa học là mục đích nhưng lương tâm phải là người bạn đồng hành. Nói là nói thế, nhưng trên thực tế người bạn đồng hành của khoa học lại là chiến tranh, buôn bán vũ khí, chiến tranh làm phát triển khoa học, khoa học phục vụ chiến tranh.
Khái niệm “tiến bộ” cũng được cảnh báo cả khi khoa học làm đúng nhiệm vụ của khoa học là tìm tòi, nghiên cứu, phát minh, vén màn bí mật của vũ trụ và đời sống. Không có gì quý hóa cho con người hơn là những phát minh càng ngày càng nhiều trong y khoa. Khám phá về tế bào gốc chẳng hạn là một trong những phúc lợi lớn mà nhân loại chờ đợi. Nhưng lương tâm có cho phép ta tạo ra đồng loạt vô số những người y chang giống nhau trong tương lai? Chẳng lẽ khoa học cũng bắt chước Tôn Hành Giả nhổ một sợi lông, thổi một cái, để biến ra thành cả trăm con khỉ giống hệt nhau, chẳng biết con nào là khỉ gốc họ Tôn? Hiện đại đang gặp phải vấn đề của “đạo đức sinh học”, mà đạo đức sinh học không thể không liên quan đến cái nhìn của tôn giáo.
Cuối cùng, khái niệm “tiến bộ” còn được đặt lại khi tiến bộ vật chất đưa đến xã hội tiêu thụ trong đó con người bị tha hóa, nghĩa là mất địa vị chủ. Đây là mê lộ trong đó con người Âu Mỹ nhởn nhơ sa vào. Muốn phồn thịnh kinh tế, phải sản xuất. Muốn sản xuất, phải có tiêu thụ. Muốn có tiêu thụ, phải kích thích nhu cầu, không có nhu cầu cũng phải kích lên cho có. Nhu cầu này được thỏa mãn, phải kích lên nhu cầu khác, nhu cầu phải luôn luôn mới để đáp ứng sản xuất phải mới luôn luôn. Hiện đại đòi hỏi những con người có lý tính. Đâu còn là lý tính nữa trước cuộc chạy đua không ngừng đuổi theo nhu cầu giả tạo, đuổi theo tiêu thụ phù du? Con người trở thành nô lệ của quảng cáo, và quảng cáo, tuyên truyền, có đủ mánh lới để tước bỏ phê phán ra khỏi đầu óc người nghe. Câu thơ của Nguyễn Công Trứ: “Tri túc tiện túc, đãi túc hà thời túc”. Biết đủ thì đủ, tìm đủ thì biết đến bao giờ mới thấy đủ! Ấy là câu thơ dí cái chìa khóa vào tay ta để mở cửa thoát ra khỏi mê lộ tiêu thụ. Nhưng cái tài của quảng cáo là mê hoặc, đưa con người tiêu thụ vào siêu thị mà làm người ta tưởng vào chốn đào nguyên!
Tha hóa: con người hiện đại thoát ra khỏi tha hóa đối với Trên Cao thì lại rơi vào tha hóa ở dưới đất. Tha hóa trước sản phẩm, hàng hóa. Tha hóa trước thị trường. Bởi vì cái gì bây giờ cũng trở thành thị trường, cái gì cũng bị thị trường khai thác, kể cả lĩnh vực tâm linh. Phật giáo cũng bị thôi, và bị chính vì sự thành công của mình. Lấy một ví dụ thôi: cái nhãn hiệu “Nirvana” trên một sản phẩm sắc đẹp của quý bà. Thoa kem ấy vào, lập tức thấy cực lạc! Cực lạc bỗng trở thành nạn nhân của tha hóa.
Đúng là người Âu châu có vấn đề với Thượng Đế. Đúng là nhà thờ vắng tín đồ. Đúng là linh mục khan hiếm, phải cầu viện đến tận các linh mục Phi châu. Đúng là người Âu châu không đi tìm nữa trong tôn giáo truyền thống của họ câu giải đáp lớn cho những khắc khoải của tâm linh, mà đi tìm những phương thuốc tức thì trên hạ giới này, trên đời sống này, ở đây và bây giờ, here and now. Đúng như quy luật của thị trường, ở đâu có cầu thì ở đấy có cung. Hàng loạt tín ngưỡng lang băm, chính tà lẫn lộn, xuất hiện trên thị trường tâm linh, tranh nhau giành khách. Và khách ở đây là những người có đời sống vật chất đầy đủ, nhưng bơ vơ, cô đơn, mất tập thể, mất phương hướng, mất ý nghĩa sống. Ngày trước, con người Âu châu cũng yếu đuối trước Thượng Đế, nhưng họ có cái gì để tin, họ có cái chắc chắn. Bây giờ họ cũng yếu đuối, nhưng không có cái gì để tin nữa, họ mất chân đứng, họ mất quân bình, họ mất chiều cao lẫn chiều ngang, họ lung lay. Và vì họ lung lay, họ tưởng cần phải củng cố cái “tôi” của họ, cái “tôi” mà một chủ nghĩa cá nhân quá đà đã đề cao lên thượng đỉnh. Các bạn hiểu tại sao ngành phân tâm học phát triển như thế ở Âu Mỹ, tại sao các bác sĩ phân tâm học đông khách nhà giàu và trí thức: họ đi tìm cái “tôi” của họ! Nhưng cái “tôi” của họ trốn ở đâu? Một số người đi tìm trong cùng tận thâm sâu bí ẩn của ý thức dưới ánh đèn pin của ông Freud. Một số, nông cạn hơn, nghĩ rằng cái “tôi” của mình là cái thân này đây, phải làm cho nó mạnh, khỏe, đẹp, và nhất là trẻ mãi, để “cực lạc” mãi. Tất nhiên họ biết: cung cấp món ăn cho cái thân thì cũng phải cung cấp món ăn cho cái tâm, vì tâm không yên thì thân cũng khó khỏe. Nhưng họ ăn gì trên mâm cơm tinh thần của họ? Ăn lẫu. Nghĩa là hổ lốn. Chút tôm, chút mực, chút thịt gà. Chút Chúa chút Phật. Bác ái lộn xà ngầu với từ bi. Lấy một chút chỗ này, một chút chỗ kia, cái gì mà cá nhân mỗi người thấy hoặc tưởng thích hợp cho riêng mình thì gắp bỏ chung vào cái lẫu nước xúp tâm linh. Người Pháp gọi cách thực hành tân thời này là “bricolage” - lắp ghép thủ công.
Trong chiều hướng đó, ngồi thiền phát triển khắp nơi tại Âu Mỹ. Tất nhiên là hay. Nhưng trong cái hay đó, coi chừng cái dở. Cái dở là thị trường tâm linh đánh đúng vào tâm lý con người thời đại, quảng cáo ngồi thiền như một kỹ thuật để gìn giữ sức khỏe và chỉ như một kỹ thuật mà thôi. Như một kỹ thuật, quảng cáo biến ngồi thiền thành một thứ kem xức mặt, xức vào thì da mặt mát ra, nhìn vào gương thấy cái “tôi” của mình như gái một con trông mòn con mắt. Chắc các bạn biết thần thoại Hy Lạp về anh chàng Narcisse. Anh chàng mê mình đến độ ngất ngây soi bóng mình trên mặt nước, soi gần, thật gần, môi chạm môi, và anh chàng lộn cổ xuống ao. Con người hiện đại ở Tây phương cũng mê cái “tôi” của mình như thế, ve vuốt nó, hôn nó, tưởng nó có thật trong một dòng sông ảo. Nhà sư danh tiếng Tây Tạng Chögyam Trungpa gọi đùa khuynh hướng đó là “chủ nghĩa duy vật tâm linh” (“spiritual materialism”). Nhưng đó đích thực là một vấn đề, một thách thức đối với hiện tại và tương lai của Phật giáo tại Âu Mỹ. Bởi vì ngồi thiền không phải chỉ là một kỹ thuật, lại càng không phải để phục vụ cho cái “tôi”. Ngồi thiền, chính là để thấy cái “tôi” là không có.
IV. Phật giáo và khủng hoảng của hiện đại.
không phủ nhận phúc lợi của việc ngồi thiền, dù cho ngồi thiền chỉ để tăng cường sức khỏe. Ai đã ngồi thiền và ngồi thiền đúng kỹ thuật rồi đều nói: không phải chỉ sức khỏe được tăng cường, tâm hồn cũng được thư thái. Bản thân tôi không phải chỉ chứng nghiệm một lần mà cả ngàn lần: chỉ cần biết nén giận trong một giây thôi, đừng cho nó nổ ra, đã là khóa được cái cửa của địa ngục. Huống hồ ngồi thiền không phải chỉ trong một giây! Bởi vậy, người Tây phương biết đưa việc ngồi thiền vào nhiều lĩnh vực: bệnh viện, nhà tù, trường học, công sở, xí nghiệp… Họ làm có phương pháp, bài bản, làm việc gì cũng phải làm cho đến nơi đến chốn.
Nhưng thiền không phải chỉ là thế. Thiền là tự biết mình, và tự biết mình là để quên mình. Quên mình là để nhập làm một với tất cả những gì hiện hữu. Đó là câu định nghĩa của Đạo Nguyên mà các thiền viện ở Âu Mỹ áp dụng như kinh nhật tụng. Thế nào là tự biết mình? Tôi không muốn đưa các bạn vào lý thuyết xa xôi. Chỉ nói một hành động nhỏ nhặt, cụ thể, của một người Âu Mỹ khi lần đầu tiên bước vào thiền đường. Cử chỉ đầu tiên là cởi giày. Cởi giày, xếp ngay ngắn. Bước nhẹ vào thiền đường. nghe một mùi hương thoảng, gặp một im lặng thẳm sâu, đi trên một sàn gỗ sạch không một hạt bụi, thấy một không gian không chướng ngại mở rộng ra trước mắt. “Cởi giày”: đó là bài kinh đầu tiên của họ. Cởi vướng mắc ra, giải thoát cho hai bàn chân, hai bàn chân quý lắm, bao nhiêu nút thần kinh nằm ở trong đó, hai bàn chân quý lắm, nhờ nó mà mình đứng vững được, hai bàn chân quý lắm, hãy biết quý hai bàn chân như chưa bao giờ mình biết quý nó trước đây, hãy nghe hai bàn chân đang hạnh phúc khi gặp hơi mát của sàn gỗ, nó và cái sàn gỗ đang tan thành một, người bước vào phòng đang biến thành một với gian phòng trống, với im lặng mênh mông. Bàn chân quên nó. Người bước vào phòng quên mình, để cái “tôi” ngoài cửa, như để đôi dép.
Từ khi sinh ra, ta đã muốn chỉ huy cả thế giới, sai khiến mọi người chung quanh.
Đói, khóc ầm lên, mẹ phải đưa ngay bầu sữa. Thèm hơi ấm, mếu máo để được người bồng. Muốn cái gì phải có ngay cái nấy, không thì la hét. Ta là trung tâm của vũ trụ, tất cả mọi người đều phải chiều ta. Lớn lên, ta cũng vậy thôi, 99% của cuộc đời ta được xài phí để lái thiên hạ, bắt thiên hạ phải thỏa mãn ý muốn của ta. Thậm chí, cái mà ta gọi là “tình yêu” suy cho cùng cũng chỉ là nhu cầu cần có một quan hệ gần gũi để ta cảm thấy sung sướng. Có lẽ ở đâu cũng vậy, nhưng trong văn hóa của cá nhân chủ nghĩa Âu Mỹ, nghĩ đến ta được xem là chuyện bình thường, tất nhiên. Ai lái người khác giỏi để phục vụ mình tốt, người ấy được xem là thành công. Thiền là trái ngược lại. Không nhắm tích tụ. Không nhắm chinh phục. Càng nhiều cái “có” càng ít cái “là”, cái tinh túy, cái bản chất, cái đem lại hạnh phúc. Và tôi “là” gì, chính là ở phút này đây. Ở phút này đây, tôi còn sống, còn thở, còn nói, còn có các bạn để nghe, còn có nắng đẹp ngoài kia, gió mát đang thổi, hạnh phúc vô biên, hạnh phúc được sống với cái khoảnh khắc này, được làm một với các bạn, được làm một với tất cả, được làm một với tờ giấy trước mắt tôi. Thiền không phải là ngồi yên. Thiền là không đi ăn mày nữa, không ngửa tay xin xu hào nơi người khác, nơi bên ngoài, bởi vì thiền là biết rằng cả một kho tàng châu báu nằm ở trong ta, hãy nhìn vào để thấy, và để chiêm nghiệm rằng ta càng trống đi cái “tôi” thì kho tàng ấy càng đầy.
Các thiền viện Âu Mỹ biết nhắm đến cái mục đích ấy. Kho báu trong tôi càng đầy, khả năng nhập thành một với mọi vật chung quanh càng nhạy bén, và khi ấy, tôi khổ với cái khổ của bạn, tôi vui với cái vui của bạn, tôi không còn nữa, bạn cũng không còn nữa, chỉ còn cái khổ chung, cái vui chung. Định nghĩa của chữ “từ bi” là như vậy, và ngồi thiền chính là để mở rộng lòng từ bi. Tôi đã là một với tất cả, làm sao tôi không thương tất cả, từ thiên nhiên đến loài vật, từ người gần đến người xa?
Tôi biết: đó là lý thuyết rất cao mà không phải ai cũng đạt được hoặc hiểu được. Nhưng, tôi xin quả quyết: cứ bước dần đi mỗi bước rồi sẽ thấy: quên mình nhiều nhiều hơn một chút, nghĩ đến người khác nhiều nhiều hơn một chút, ấy là con đường đi đến hạnh phúc. Và xin các bạn hãy biết điều này: các người Âu Mỹ ngồi trong thiền đường phần đông là trí thức hoặc thuộc thành phần cao trong xã hội, đã nắm khá vững lý thuyết Phật giáo và có lòng hướng đến một cái gì cao hơn đời sống vật chất, vị kỷ. Tôi nói điều này là để nghĩ đến tương lai của Phật giáo ở Âu Mỹ. Phật giáo hạn chế ở tầng lớp trí thức hay mở rộng ra cho đại chúng?
. Chỉ xin nói rằng: bộ não của con người gồm hai phần: khả năng lô-gích, trừu tượng, phân tích, tương ứng với não bộ phía trái; khả năng nhận ra sự giống nhau giữa những cái khác nhau, trực giác, tổng hợp, tương ứng với não bộ phía phải (4). Tác giả Frédéric Lenoir cho rằng văn minh Tây phương chú trọng tác động trên vũ trụ, tương ứng với việc đặt ưu tiên trên não bộ phía phải. Phật giáo đến Tây phương đã đóng vai trò tích cực trong việc làm quân bình hai vùng trong não bộ con người Tây phương. Trong cái ý đó, câu nói nổi tiếng của nhà sử học Arnold Toynbee đã thành dễ hiểu: “Sự gặp gỡ giữa Phật giáo và Tây phương là biến cố có ý nghĩa nhất của thế kỷ 20”.
Phật giáo chính là sự quân bình và trước hết là quân bình giữa trí tuệ và lòng tin. Không có trí tuệ thì không hiểu được đức Phật. Nhưng không có lòng tin thì cánh cửa cuối cùng của trí tuệ vẫn không mở ra. Trí tuệ cũng như hoa mai. Lòng tin cũng như hơi ấm đầu tiên của mùa xuân. Chạm vào một điểm của hơi ấm đó thôi, hoa nờ bung. “Nhất điểm xuân quang xứ xứ hoa” là vậy. Chỉ một làn gió xuân thoảng qua thôi, chốn chốn hoa mai bừng nở. Thiền là cây cầu bắt qua giữa trí tuệ và lòng tin. Đó là pháp môn - cánh cửa đạo - mở ra cho các bậc thượng thủ. Nhưng không phải ai cũng là thượng thủ cả, cho nên Phật giáo nói có đến “bốn vạn tám ngàn pháp môn” thích hợp với căn cơ của mỗi người. Ai giàu trí tuệ, như giới trí thức ở Âu Mỹ, đi vào Phật giáo bằng cửa thiền. Ai giàu lòng tin… Đây chính là tương lai của Phật giáo tại Tây phương. Bởi vì Phật giáo muốn lan tỏa ở đây phải biết rằng không phải ai cũng là trí thức. Vậy thì, có một nhánh Phật giáo nào ở Âu Mỹ có khả năng lan tỏa ra đại chúng chăng? Có. Đó là Phật giáo Tây Tạng mà ngài Đạt Lai Lạt Ma là hình ảnh sống động. Phật giáo bám rễ được ở Tây phương là nhờ ngài và cả một loạt những nhà sư Tây Tạng xuất chúng qua giáo hóa tại đấy. Chỉ mỗi một việc xuất hiện của các vị đó thôi đã làm dấy động được lòng tin nơi quần chúng. Phật giáo Tây Tạng đáp ứng được những khắc khoải về tâm linh của quần chúng hơn là thiền tông đến từ các thiền sư Nhật Bản. Nhưng dù là thiền tông hay Phật giáo Tây Tạng, trí tuệ và lòng tin phải cùng bay với nhau như hai cánh của con đại bàng.
Cao Huy Thuần
---------------------
• Câu nói của Nietzsche, trích trong Frédéric Lenoir, Le bouddhisme en France (xem l ại) trang 9.
• Fernand Braudel: Grammaire des civilisations, Arthaud-Flammarion, 1987, trang 371.
• Dẫn trong Frédéric Lenoir, La rencontre du bouddhisme et de l’Occident, Albin Michel, 2001, trang 318.
• Frédéric Lenoir, như trên, trang 353.
Trong chiều hướng đó, ngồi thiền phát triển khắp nơi tại Âu Mỹ. Tất nhiên là hay. Nhưng trong cái hay đó, coi chừng cái dở. Cái dở là thị trường tâm linh đánh đúng vào tâm lý con người thời đại, quảng cáo ngồi thiền như một kỹ thuật để gìn giữ sức khỏe và chỉ như một kỹ thuật mà thôi. Như một kỹ thuật, quảng cáo biến ngồi thiền thành một thứ kem xức mặt, xức vào thì da mặt mát ra, nhìn vào gương thấy cái “tôi” của mình như gái một con trông mòn con mắt. Chắc các bạn biết thần thoại Hy Lạp về anh chàng Narcisse. Anh chàng mê mình đến độ ngất ngây soi bóng mình trên mặt nước, soi gần, thật gần, môi chạm môi, và anh chàng lộn cổ xuống ao. Con người hiện đại ở Tây phương cũng mê cái “tôi” của mình như thế, ve vuốt nó, hôn nó, tưởng nó có thật trong một dòng sông ảo. Nhà sư danh tiếng Tây Tạng Chögyam Trungpa gọi đùa khuynh hướng đó là “chủ nghĩa duy vật tâm linh” (“spiritual materialism”). Nhưng đó đích thực là một vấn đề, một thách thức đối với hiện tại và tương lai của Phật giáo tại Âu Mỹ. Bởi vì ngồi thiền không phải chỉ là một kỹ thuật, lại càng không phải để phục vụ cho cái “tôi”. Ngồi thiền, chính là để thấy cái “tôi” là không có.
IV. Phật giáo và khủng hoảng của hiện đại.
không phủ nhận phúc lợi của việc ngồi thiền, dù cho ngồi thiền chỉ để tăng cường sức khỏe. Ai đã ngồi thiền và ngồi thiền đúng kỹ thuật rồi đều nói: không phải chỉ sức khỏe được tăng cường, tâm hồn cũng được thư thái. Bản thân tôi không phải chỉ chứng nghiệm một lần mà cả ngàn lần: chỉ cần biết nén giận trong một giây thôi, đừng cho nó nổ ra, đã là khóa được cái cửa của địa ngục. Huống hồ ngồi thiền không phải chỉ trong một giây! Bởi vậy, người Tây phương biết đưa việc ngồi thiền vào nhiều lĩnh vực: bệnh viện, nhà tù, trường học, công sở, xí nghiệp… Họ làm có phương pháp, bài bản, làm việc gì cũng phải làm cho đến nơi đến chốn.
Nhưng thiền không phải chỉ là thế. Thiền là tự biết mình, và tự biết mình là để quên mình. Quên mình là để nhập làm một với tất cả những gì hiện hữu. Đó là câu định nghĩa của Đạo Nguyên mà các thiền viện ở Âu Mỹ áp dụng như kinh nhật tụng. Thế nào là tự biết mình? Tôi không muốn đưa các bạn vào lý thuyết xa xôi. Chỉ nói một hành động nhỏ nhặt, cụ thể, của một người Âu Mỹ khi lần đầu tiên bước vào thiền đường. Cử chỉ đầu tiên là cởi giày. Cởi giày, xếp ngay ngắn. Bước nhẹ vào thiền đường. nghe một mùi hương thoảng, gặp một im lặng thẳm sâu, đi trên một sàn gỗ sạch không một hạt bụi, thấy một không gian không chướng ngại mở rộng ra trước mắt. “Cởi giày”: đó là bài kinh đầu tiên của họ. Cởi vướng mắc ra, giải thoát cho hai bàn chân, hai bàn chân quý lắm, bao nhiêu nút thần kinh nằm ở trong đó, hai bàn chân quý lắm, nhờ nó mà mình đứng vững được, hai bàn chân quý lắm, hãy biết quý hai bàn chân như chưa bao giờ mình biết quý nó trước đây, hãy nghe hai bàn chân đang hạnh phúc khi gặp hơi mát của sàn gỗ, nó và cái sàn gỗ đang tan thành một, người bước vào phòng đang biến thành một với gian phòng trống, với im lặng mênh mông. Bàn chân quên nó. Người bước vào phòng quên mình, để cái “tôi” ngoài cửa, như để đôi dép.
Từ khi sinh ra, ta đã muốn chỉ huy cả thế giới, sai khiến mọi người chung quanh.
Đói, khóc ầm lên, mẹ phải đưa ngay bầu sữa. Thèm hơi ấm, mếu máo để được người bồng. Muốn cái gì phải có ngay cái nấy, không thì la hét. Ta là trung tâm của vũ trụ, tất cả mọi người đều phải chiều ta. Lớn lên, ta cũng vậy thôi, 99% của cuộc đời ta được xài phí để lái thiên hạ, bắt thiên hạ phải thỏa mãn ý muốn của ta. Thậm chí, cái mà ta gọi là “tình yêu” suy cho cùng cũng chỉ là nhu cầu cần có một quan hệ gần gũi để ta cảm thấy sung sướng. Có lẽ ở đâu cũng vậy, nhưng trong văn hóa của cá nhân chủ nghĩa Âu Mỹ, nghĩ đến ta được xem là chuyện bình thường, tất nhiên. Ai lái người khác giỏi để phục vụ mình tốt, người ấy được xem là thành công. Thiền là trái ngược lại. Không nhắm tích tụ. Không nhắm chinh phục. Càng nhiều cái “có” càng ít cái “là”, cái tinh túy, cái bản chất, cái đem lại hạnh phúc. Và tôi “là” gì, chính là ở phút này đây. Ở phút này đây, tôi còn sống, còn thở, còn nói, còn có các bạn để nghe, còn có nắng đẹp ngoài kia, gió mát đang thổi, hạnh phúc vô biên, hạnh phúc được sống với cái khoảnh khắc này, được làm một với các bạn, được làm một với tất cả, được làm một với tờ giấy trước mắt tôi. Thiền không phải là ngồi yên. Thiền là không đi ăn mày nữa, không ngửa tay xin xu hào nơi người khác, nơi bên ngoài, bởi vì thiền là biết rằng cả một kho tàng châu báu nằm ở trong ta, hãy nhìn vào để thấy, và để chiêm nghiệm rằng ta càng trống đi cái “tôi” thì kho tàng ấy càng đầy.
Các thiền viện Âu Mỹ biết nhắm đến cái mục đích ấy. Kho báu trong tôi càng đầy, khả năng nhập thành một với mọi vật chung quanh càng nhạy bén, và khi ấy, tôi khổ với cái khổ của bạn, tôi vui với cái vui của bạn, tôi không còn nữa, bạn cũng không còn nữa, chỉ còn cái khổ chung, cái vui chung. Định nghĩa của chữ “từ bi” là như vậy, và ngồi thiền chính là để mở rộng lòng từ bi. Tôi đã là một với tất cả, làm sao tôi không thương tất cả, từ thiên nhiên đến loài vật, từ người gần đến người xa?
Tôi biết: đó là lý thuyết rất cao mà không phải ai cũng đạt được hoặc hiểu được. Nhưng, tôi xin quả quyết: cứ bước dần đi mỗi bước rồi sẽ thấy: quên mình nhiều nhiều hơn một chút, nghĩ đến người khác nhiều nhiều hơn một chút, ấy là con đường đi đến hạnh phúc. Và xin các bạn hãy biết điều này: các người Âu Mỹ ngồi trong thiền đường phần đông là trí thức hoặc thuộc thành phần cao trong xã hội, đã nắm khá vững lý thuyết Phật giáo và có lòng hướng đến một cái gì cao hơn đời sống vật chất, vị kỷ. Tôi nói điều này là để nghĩ đến tương lai của Phật giáo ở Âu Mỹ. Phật giáo hạn chế ở tầng lớp trí thức hay mở rộng ra cho đại chúng?
. Chỉ xin nói rằng: bộ não của con người gồm hai phần: khả năng lô-gích, trừu tượng, phân tích, tương ứng với não bộ phía trái; khả năng nhận ra sự giống nhau giữa những cái khác nhau, trực giác, tổng hợp, tương ứng với não bộ phía phải (4). Tác giả Frédéric Lenoir cho rằng văn minh Tây phương chú trọng tác động trên vũ trụ, tương ứng với việc đặt ưu tiên trên não bộ phía phải. Phật giáo đến Tây phương đã đóng vai trò tích cực trong việc làm quân bình hai vùng trong não bộ con người Tây phương. Trong cái ý đó, câu nói nổi tiếng của nhà sử học Arnold Toynbee đã thành dễ hiểu: “Sự gặp gỡ giữa Phật giáo và Tây phương là biến cố có ý nghĩa nhất của thế kỷ 20”.
Phật giáo chính là sự quân bình và trước hết là quân bình giữa trí tuệ và lòng tin. Không có trí tuệ thì không hiểu được đức Phật. Nhưng không có lòng tin thì cánh cửa cuối cùng của trí tuệ vẫn không mở ra. Trí tuệ cũng như hoa mai. Lòng tin cũng như hơi ấm đầu tiên của mùa xuân. Chạm vào một điểm của hơi ấm đó thôi, hoa nờ bung. “Nhất điểm xuân quang xứ xứ hoa” là vậy. Chỉ một làn gió xuân thoảng qua thôi, chốn chốn hoa mai bừng nở. Thiền là cây cầu bắt qua giữa trí tuệ và lòng tin. Đó là pháp môn - cánh cửa đạo - mở ra cho các bậc thượng thủ. Nhưng không phải ai cũng là thượng thủ cả, cho nên Phật giáo nói có đến “bốn vạn tám ngàn pháp môn” thích hợp với căn cơ của mỗi người. Ai giàu trí tuệ, như giới trí thức ở Âu Mỹ, đi vào Phật giáo bằng cửa thiền. Ai giàu lòng tin… Đây chính là tương lai của Phật giáo tại Tây phương. Bởi vì Phật giáo muốn lan tỏa ở đây phải biết rằng không phải ai cũng là trí thức. Vậy thì, có một nhánh Phật giáo nào ở Âu Mỹ có khả năng lan tỏa ra đại chúng chăng? Có. Đó là Phật giáo Tây Tạng mà ngài Đạt Lai Lạt Ma là hình ảnh sống động. Phật giáo bám rễ được ở Tây phương là nhờ ngài và cả một loạt những nhà sư Tây Tạng xuất chúng qua giáo hóa tại đấy. Chỉ mỗi một việc xuất hiện của các vị đó thôi đã làm dấy động được lòng tin nơi quần chúng. Phật giáo Tây Tạng đáp ứng được những khắc khoải về tâm linh của quần chúng hơn là thiền tông đến từ các thiền sư Nhật Bản. Nhưng dù là thiền tông hay Phật giáo Tây Tạng, trí tuệ và lòng tin phải cùng bay với nhau như hai cánh của con đại bàng.
Cao Huy Thuần
---------------------
• Câu nói của Nietzsche, trích trong Frédéric Lenoir, Le bouddhisme en France (xem l ại) trang 9.
• Fernand Braudel: Grammaire des civilisations, Arthaud-Flammarion, 1987, trang 371.
• Dẫn trong Frédéric Lenoir, La rencontre du bouddhisme et de l’Occident, Albin Michel, 2001, trang 318.
• Frédéric Lenoir, như trên, trang 353.
Phân biệt chính tà
Phân biệt chính tà
Để phân biệt thiện ác, chính tà dĩ nhiên là điều không phải dễ dàng. Đối với những người khéo che giấu hay giỏi ngụy trang sự thật của bản thân thì lại càng khó phân biệt hơn. Dù vậy, nếu ta chịu khó quan sát các “tướng trạng” của họ thì cũng có thể nhận ra những dấu hiệu của chính tà. Bởi “tướng tự tâm sinh”, ngôn ngữ và hành vi của cá nhân luôn phản ánh bản chất thiện ác và chính tà của họ.
“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Nếu có người ở trong nhóm tà thì có tướng trạng gì, có nhân duyên gì?
Các Tỳ-kheo bạch Thế Tôn:
- Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo. Chúng con nghe rồi sẽ vâng làm.
Thế Tôn dạy:
- Các Thầy khéo suy nghĩ. Ta sẽ vì các Thầy phân biệt nghĩa này.
Các Tỳ-kheo đáp:
- Xin vâng, Thế Tôn!
Các Tỳ-kheo vâng lời Phật dạy. Thế Tôn dạy:
- Người ở nhóm tà sẽ do năm việc mà biết. Đã thấy năm việc thì biết người này ở nhóm tà. Thế nào là năm? Đáng cười mà không cười, lúc đáng hoan hỷ mà không hoan hỷ, đáng khởi tâm từ mà không khởi tâm từ, làm ác mà không xấu hổ, nghe lời lành mà không để ý. Nên biết người này ở nhóm tà. Nếu có chúng sinh ở nhóm tà, nên dùng năm việc mà biết.
Lại nữa, có chúng sinh ở trong nhóm chính, có tướng trạng gì, có nhân duyên gì?
Các Tỳ-kheo bạch Thế Tôn:
- Như Lai là vua các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Cúi mong Thế Tôn hãy thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo. Chúng con nghe xong sẽ vâng làm.
Thế Tôn dạy:
- Các Thầy khéo suy nghĩ! Ta sẽ vì các Thầy phân biệt nghĩa này.
Các Tỳ-kheo đáp:
- Xin vâng, Thế Tôn!
Các Tỳ-kheo vâng lời Phật dạy. Thế Tôn bảo:
- Người ở nhóm chính, sẽ do năm việc mà biết. Đã thấy năm việc thì biết người này trụ ở nhóm chính. Thế nào là năm? Đáng cười thì cười, đáng hoan hỷ thì hoan hỷ, đáng khởi tâm từ thì khởi tâm từ, đáng xấu hổ thì xấu hổ, nghe lời lành thì để ý. Nên biết người này đã ở nhóm chính, trụ ở nhóm chính. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học điều này.
Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập II, phẩm Tà tư, VNCPHVN ấn hành, 1998, tr.357)
Quảng Tánh
Nghe Phật dạy về tình yêu
.
..Trước khi bắt đầu bài thuyết pháp của mình tại Tổ Đình Trung Hậu – Vĩnh Phúc, Thiền sư Nhất Hạnh đã mời các bạn trẻ ngồi lên trên, để có thể nghe thật rõ. Ông muốn nói về tình yêu, bản chất tình yêu nhìn từ góc độ Phật giáo.
.
Miệng mỉm cười, ông đã kể một câu chuyện tình yêu, giản dị thôi nhưng hàm ý sâu sắc: Có một chàng trai ở vùng California – Mỹ, rất đẹp trai, học giỏi, tốt nghiệp một trường đại học nổi tiếng, có nhiều bạn gái xinh đẹp. Chàng trai sống với mẹ, người mẹ biết trong các cô gái ngưỡng mộ con mình, có một cô gái không xinh nhất, cô không trắng, không cao lắm nhưng được chàng trai đặc biệt chú ý. Ngạc nhiên, người mẹ hỏi con trai: Vì sao con lại thích cô gái ấy, cô ta đâu có gì nổi bật? Cô ấy hiểu con – chàng trai trả lời đơn giản.
Chàng trai học ngành công nghệ thông tin nhưng rất hay làm thơ. Mỗi lần chàng đọc thơ, cô gái nọ lắng nghe rất chăm chú và có những nhận xét sâu sắc, trong khi những cô gái xinh đẹp kia không để ý gì đến. Chàng trai đã chọn người yêu không vì vẻ đẹp bề ngoài, mà bởi sự lắng nghe và thấu hiểu.“Đạo Phật cũng dạy như vậy, có hiểu mới có thương, tình yêu phải làm bằng sự hiểu biết“, Thiền sư kết luận.
Chàng trai học ngành công nghệ thông tin nhưng rất hay làm thơ. Mỗi lần chàng đọc thơ, cô gái nọ lắng nghe rất chăm chú và có những nhận xét sâu sắc, trong khi những cô gái xinh đẹp kia không để ý gì đến. Chàng trai đã chọn người yêu không vì vẻ đẹp bề ngoài, mà bởi sự lắng nghe và thấu hiểu.“Đạo Phật cũng dạy như vậy, có hiểu mới có thương, tình yêu phải làm bằng sự hiểu biết“, Thiền sư kết luận.
Muốn thương phải hiểu Trong đạo Phật, từ bi gắn liền với trí tuệ.
Không hiểu, không thể thương yêu sâu sắc.
Không hiểu, không thể thương yêu đích thực.
Hiểu chính là nền tảng của tình thương yêu.Mỗi người có những nỗi niềm, khổ đau, bức xúc riêng. Nếu không hiểu, sẽ không thương mà giận hờn, trách móc. Không hiểu, tình thương của mình sẽ làm người khác ngột ngạt, khổ đau. Không hiểu, sẽ làm người mình thương đau khổ suốt đời.Nhân danh tình thương, người ta làm khổ nhau. Chuyện đó vẫn thường xảy ra.
Không hiểu, không thể thương yêu sâu sắc.
Không hiểu, không thể thương yêu đích thực.
Hiểu chính là nền tảng của tình thương yêu.Mỗi người có những nỗi niềm, khổ đau, bức xúc riêng. Nếu không hiểu, sẽ không thương mà giận hờn, trách móc. Không hiểu, tình thương của mình sẽ làm người khác ngột ngạt, khổ đau. Không hiểu, sẽ làm người mình thương đau khổ suốt đời.Nhân danh tình thương, người ta làm khổ nhau. Chuyện đó vẫn thường xảy ra.
Được hiểu và được thương vốn là một nhu cầu muôn đời của con người. Nhiều người thường cảm thấy không ai hiểu mình. Họ “đói” thương, “đói” hiểu. Họ thơ thẩn, lang thang trong cuộc đời tìm người hiểu mình, thương mình. Gặp được người hiểu mình, thương mình là may mắn lớn của cuộc đời. Tình yêu nảy nở, lớn lên từ đó.
Vậy nên, “có hiểu mới có thương” là nguyên tắc chọn người yêu, chọn chồng/vợ theo quan điểm Phật giáo. Dù người ta có đẹp, có giàu đến đâu nhưng không hiểu mình sẽ làm mình khổ suốt đời. Hôn nhân có thể mở ra những con đường hoa hồng, có thể mở ra cánh cửa tù ngục. Chọn vợ, chọn chồng là một sự mạo hiểm lớn. Hãy cẩn thận, nếu không muốn chọn án tù chung thân cho cuộc đời mình.
Chọn người hiểu và thương mình – hãy nhớ – đó là nguyên tắc tìm người tri kỷ trong cuộc đời.
Bốn yếu tố của tình yêu: Từ bi hỉ xả
Phật dạy về tình yêu rất sâu sắc. Tình yêu phải hội tụ đủ bốn yếu tố: từ, bi, hỉ, xả.
“Từ” là khả năng hiến tặng hạnh phúc cho người mình yêu. Yêu thương không phải là vấn đề hưởng thụ, yêu thương là hiến tặng. Tình thương mà không đem đến hạnh phúc cho người yêu không phải là tình thương đích thực. Yêu mà làm khổ nhau không phải tình yêu. Có những người yêu nhau, ngày nào cũng khổ, đó là tình yêu hệ luỵ, chỉ mang tới sự khổ đau. Yêu thương ai đó thực sự, nghĩa là làm cho người ta hạnh phúc, mỗi ngày.
“Bi” là khả năng người ta lấy cái khổ ra khỏi mình. Mình đã khổ, người ta làm cho thêm khổ, đó không thể là tình yêu đích thực. Còn gì cho nhau nếu chỉ có khổ đau tuyệt vọng. Người yêu mình phải là người biết sẻ chia, biết xoa dịu, làm vơi bớt nỗi khổ của mình trong cuộc đời.
Như vậy, “từ bi” theo Phật dạy là khả năng đem lại hạnh phúc cho nhau. Yêu thương ai là phải làm cho người ta bớt khổ. Nếu không, chỉ là đam mê, say đắm nhất thời, không phải là tình yêu thương đích thực. “Từ bi” trong tình yêu không phải tự dưng mà có. Phải học, phải “tu tập”. Cần nhiều thời gian để quan sát, lắng nghe, thấu hiểu những nỗi khổ niềm đau của người yêu, để giúp người ta vượt qua, tháo gỡ, bớt khổ đau, thêm hạnh phúc.
“Hỉ” là niềm vui, tình yêu chân thật phải làm cho cả hai đều vui. Dấu ấn của tình yêu đích thực là niềm vui. Càng yêu, càng vui, niềm vui lớn, cả gia đình cùng hạnh phúc. Cuộc nhân duyên như thế là thành công.
“Xả” là không phân biệt, kì thị trong tình yêu. Mình yêu ai, hạnh phúc của người ta là của mình, khó khăn của người ta là của mình, khổ đau của người ta là của mình. Không thể nói đây là vấn đề của em/anh, em/anh ráng chịu. Khi yêu, hai người không phải là hai thực thể riêng biệt nữa, hạnh phúc khổ đau không còn là vấn đề cá nhân. Tất cả những gì mình phải làm coi đó là vấn đề của hai người, chuyển hoá nỗi khổ đau, làm lớn thêm hạnh phúc.
Này người trẻ, bạn nghĩ về tình yêu của mình đi, có “từ bi hỉ xả không”? Bạn hãy can đảm tự hỏi mình rằng: “Người yêu ta có hiểu niềm vui nỗi khổ của ta không? Có quan tâm đến an vui hàng ngày của ta không? Người ấy có nâng đỡ ta trên con đường sự nghiệp không?…” Và tự hỏi lại mình, liệu bạn có đang thành thực với tình yêu của mình?! Liệu tình yêu của bạn đã đủ “từ bi hỉ xả”?
Tình dục và tình yêu
Phật giáo quan niệm như thế nào về tình dục trong tình yêu?
Trong truyền thống văn hoá ta, thân với tâm là “nhất như”, tức là nếu ta không tôn kính thân thể người yêu thì cũng không tôn kính được tâm hồn người ấy. Yêu nhau là giữ gìn cho nhau, kính trọng nhau. Khi sự rẻ rúng xem thường xảy ra thì tình yêu đích thực không còn.
Thân thể ta cũng như tâm hồn ta. Có những nỗi niềm sâu kín trong tâm hồn, chúng ta chỉ chia sẻ với người tri kỉ. Thân thể ta cũng vậy, có những vùng thiêng liêng và riêng tư, ta không muốn ai chạm tới, ngoài người ta yêu, ta tin, ta muốn sống trọn đời, trọn kiếp.
Trong tình yêu lớn và cao quý, bất cứ lời nói và cử chỉ nào cũng phải biểu lộ sự tương kính. Người con trai phải tôn trọng người con gái mình yêu, cả thân thể lẫn tâm hồn. Người con gái biết giữ gìn, cũng là biết làm người yêu thêm tương kính, nuôi dưỡng hạnh phúc lâu dài về sau.
Bạn muốn thương yêu theo phương pháp Phật dạy chăng? Hãy hiểu, thương và tương kính người yêu của mình, cũng chính là đem hạnh phúc đến cho người và cho mình vậy!
————-
Vậy nên, “có hiểu mới có thương” là nguyên tắc chọn người yêu, chọn chồng/vợ theo quan điểm Phật giáo. Dù người ta có đẹp, có giàu đến đâu nhưng không hiểu mình sẽ làm mình khổ suốt đời. Hôn nhân có thể mở ra những con đường hoa hồng, có thể mở ra cánh cửa tù ngục. Chọn vợ, chọn chồng là một sự mạo hiểm lớn. Hãy cẩn thận, nếu không muốn chọn án tù chung thân cho cuộc đời mình.
Chọn người hiểu và thương mình – hãy nhớ – đó là nguyên tắc tìm người tri kỷ trong cuộc đời.
Bốn yếu tố của tình yêu: Từ bi hỉ xả
Phật dạy về tình yêu rất sâu sắc. Tình yêu phải hội tụ đủ bốn yếu tố: từ, bi, hỉ, xả.
“Từ” là khả năng hiến tặng hạnh phúc cho người mình yêu. Yêu thương không phải là vấn đề hưởng thụ, yêu thương là hiến tặng. Tình thương mà không đem đến hạnh phúc cho người yêu không phải là tình thương đích thực. Yêu mà làm khổ nhau không phải tình yêu. Có những người yêu nhau, ngày nào cũng khổ, đó là tình yêu hệ luỵ, chỉ mang tới sự khổ đau. Yêu thương ai đó thực sự, nghĩa là làm cho người ta hạnh phúc, mỗi ngày.
“Bi” là khả năng người ta lấy cái khổ ra khỏi mình. Mình đã khổ, người ta làm cho thêm khổ, đó không thể là tình yêu đích thực. Còn gì cho nhau nếu chỉ có khổ đau tuyệt vọng. Người yêu mình phải là người biết sẻ chia, biết xoa dịu, làm vơi bớt nỗi khổ của mình trong cuộc đời.
Như vậy, “từ bi” theo Phật dạy là khả năng đem lại hạnh phúc cho nhau. Yêu thương ai là phải làm cho người ta bớt khổ. Nếu không, chỉ là đam mê, say đắm nhất thời, không phải là tình yêu thương đích thực. “Từ bi” trong tình yêu không phải tự dưng mà có. Phải học, phải “tu tập”. Cần nhiều thời gian để quan sát, lắng nghe, thấu hiểu những nỗi khổ niềm đau của người yêu, để giúp người ta vượt qua, tháo gỡ, bớt khổ đau, thêm hạnh phúc.
“Hỉ” là niềm vui, tình yêu chân thật phải làm cho cả hai đều vui. Dấu ấn của tình yêu đích thực là niềm vui. Càng yêu, càng vui, niềm vui lớn, cả gia đình cùng hạnh phúc. Cuộc nhân duyên như thế là thành công.
“Xả” là không phân biệt, kì thị trong tình yêu. Mình yêu ai, hạnh phúc của người ta là của mình, khó khăn của người ta là của mình, khổ đau của người ta là của mình. Không thể nói đây là vấn đề của em/anh, em/anh ráng chịu. Khi yêu, hai người không phải là hai thực thể riêng biệt nữa, hạnh phúc khổ đau không còn là vấn đề cá nhân. Tất cả những gì mình phải làm coi đó là vấn đề của hai người, chuyển hoá nỗi khổ đau, làm lớn thêm hạnh phúc.
Này người trẻ, bạn nghĩ về tình yêu của mình đi, có “từ bi hỉ xả không”? Bạn hãy can đảm tự hỏi mình rằng: “Người yêu ta có hiểu niềm vui nỗi khổ của ta không? Có quan tâm đến an vui hàng ngày của ta không? Người ấy có nâng đỡ ta trên con đường sự nghiệp không?…” Và tự hỏi lại mình, liệu bạn có đang thành thực với tình yêu của mình?! Liệu tình yêu của bạn đã đủ “từ bi hỉ xả”?
Tình dục và tình yêu
Phật giáo quan niệm như thế nào về tình dục trong tình yêu?
Trong truyền thống văn hoá ta, thân với tâm là “nhất như”, tức là nếu ta không tôn kính thân thể người yêu thì cũng không tôn kính được tâm hồn người ấy. Yêu nhau là giữ gìn cho nhau, kính trọng nhau. Khi sự rẻ rúng xem thường xảy ra thì tình yêu đích thực không còn.
Thân thể ta cũng như tâm hồn ta. Có những nỗi niềm sâu kín trong tâm hồn, chúng ta chỉ chia sẻ với người tri kỉ. Thân thể ta cũng vậy, có những vùng thiêng liêng và riêng tư, ta không muốn ai chạm tới, ngoài người ta yêu, ta tin, ta muốn sống trọn đời, trọn kiếp.
Trong tình yêu lớn và cao quý, bất cứ lời nói và cử chỉ nào cũng phải biểu lộ sự tương kính. Người con trai phải tôn trọng người con gái mình yêu, cả thân thể lẫn tâm hồn. Người con gái biết giữ gìn, cũng là biết làm người yêu thêm tương kính, nuôi dưỡng hạnh phúc lâu dài về sau.
Bạn muốn thương yêu theo phương pháp Phật dạy chăng? Hãy hiểu, thương và tương kính người yêu của mình, cũng chính là đem hạnh phúc đến cho người và cho mình vậy!
————-
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)