Thứ Năm, 12 tháng 3, 2015

NHỮNG HIỂU LẦM VỀ ĐẠO PHẬT



blank
Sư Luang Pu Nen Kham, Thái Lan 
đang ngồi trên máy bay riêng
Đạo Phật ngày càng suy đồi, tha hoá, mạt pháp”, nguyên nhân thì nhiều, nhưng đôi khi vì trong giới tu sĩ và cư sĩ không trang bị đủ kiến thức của giáo pháp như thực - tức là giáo pháp cội rễ - mà chỉ chạy theo cành, nhánh, ngọn lắm hoa và nhiều trái. Từ đấy, khó phân biệt đâu là đạo Phật chơn chánh, đâu là đạo Phật đã bị biến chất, chạy theo thị hiếu dung thường của thế gian. Đôi nơi đạo Phật còn bị trộn lẫn với tín ngưỡng duy linh và cả tín ngưỡng nhân gian nữa... Nhiều lắm, không kể xiết đâu.
Với cái nhìn “chủ quan” của một tu sĩ Theravāda, tôi xin mạo muội liệt kê ra đây những hiểu lầm tai hại và rất phổ biến của Phật giáo trong và ngoài nước để chư vị thức giả cùng thấy rõ như thực:
1- Tôn giáo: Đạo Phật có những sinh hoạt về tôn giáo nhưng đạo Phật không phải là tôn giáo, vì đạo Phật không có một vị thượng đế tối cao hoá sinh muôn loài và có quyền ban thưởng, phạt ác.
2- Tín ngưỡng: Đạo Phật có những sinh hoạt tín ngưỡng nhưng đạo Phật không phải là tín ngưỡng để mọi người đến van vái, cầu xin những ước mơ dung tục của đời thường.
3- Triết học: Đạo Phật có một hệ thống tư tưởng được rút ra từ Kinh, Luật và Abhidhamma, được gọi là “như thực, như thị thuyết” chứ không phải là một bộ môn triết học “chia” rồi “chẻ”, “phán” rồi “đoán” như của Tây phương.
4- Triết luận: Đạo Phật có tuệ giác để thấy rõ Cái Thực chứ không sử dụng lý trí phân tích, lý luận. Còn triết, còn luận là vì chưa thấy rõ Cái Thực. Đạo Phật là đạo như chơn, như thực. Kinh giáo của đức Phật luôn đi từ cái thực cụ thể để hướng dẫn mọi người tu tập, nó không có triết, có luận đâu. Ngay “thiền” mà còn “luận”(thiền luận) là đã đánh mất thiền rồi.
5- Từ thiện xã hội: Đạo Phật có những sinh hoạt từ thiện xã hội nhưng không coi từ thiện xã hội là tất cả, để hy sinh cuộc đời đầu tròn, áo vuông một cách uổng phí. Đạo Phật còn có những sinh hoạt cao cả hơn: Đó là giáo dục, văn hoá, nghệ thuật, tu tập thiền định và thiền tuệ nữa. Từ thiện xã hội thì ai cũng làm được, thậm chí người ta còn làm tốt hơn cả Phật giáo, ví dụ như Bill Gates. Còn giáo dục, văn hoá, nghệ thuật của đạo Phật là nền tảng Mỹ Học viết hoa (nội hàm các giá trị nhân văn, nhân bản) mà không một tôn giáo, môt chủ nghĩa, một học thuyết nào trên thế gian có thể so sánh được. Và đây mới là sự phụng hiến cao đẹp của đạo Phật cho thế gian. Còn nữa, nếu không có tu tập thiền định và thiền tuệ thì mọi hình thái sinh hoạt của đạo Phật, xem ra không phải là của đạo Phật đâu!
6- Cực lạc, cực hạnh phúc: Đạo Phật có nói đến hỷ, lạc trong các tầng thiền; có nói đến hạnh phúc siêu thế khi ly thoát tham sân, khổ lạc (dukkha), phiền não của thế gian - chứ không có một nơi chốn cực lạc, cực hạnh phúc được phóng đại như thế.
7- 8 vạn 4 ngàn pháp môn: Đạo Phật có nói đến 8 vạn 4 ngàn pháp uẩn (dhammakhandha) chứ không nói đến 8 van 4 ngàn pháp môn (dhammadvāra). Uẩn (khandha) ngoài nghĩa che lấp, che mờ và nghĩa chồng lên, chồng chất, còn có nghĩa là nhóm, liên kết, tập hợp ví như Giới uẩn (nhóm giới), Định uẩn (nhóm định), Tuệ uẩn (nhóm tuệ). Do từ uẩn (khandha) lại dịch lệch ra môn - cửa (dvāra), pháp môn nên ai cũng tưởng là có  8 vạn 4 ngàn pháp môn, tu theo pháp môn nào cũng được! Ai là người có thể đếm đủ 8 vạn, 4 ngàn cửa pháp này? Còn nữa, xin lưu ý, 8 vạn 4 ngàn chỉ là con số tượng trưng, có nghĩa là nhiều lắm, đếm không kể xiết theo truyền thống tôn giáo và tín ngưỡng Ấn Độ cổ thời. Ví dụ 84 ngàn lỗ chân lông, 84 ngàn vi trùng trong một bát nước, 84 ngàn phiền não, 84 ngàn cách tu...
8- Xin xăm, bói quẻ, cầu sao, giải hạn, xem ngày giờ tốt xấu: Những hình thức này không phải của đạo Phật. Trong kinh tụng Pāli có đoạn: “Sunakkhataṃ sumaṅgalaṃ supabhātaṃ suhuṭṭhitaṃ, sukhno ca suyiṭṭaṃ brahmacārisu. Padakkhinaṃ kāyakammaṃ vācākammaṃ padakkhinaṃ padakkhinaṃ manokammaṃ paṇidhī te padakkhinā...”
Có nghĩa là: Giờ nào (chúng ta) thực hành thân, khẩu, ý trong sạch; giờ đó được gọi là vận mệnh tốt, là giờ tốt, là khắc tốt, là canh tốt... Ngày đó gọi là có nghiệp thân phát đạt, nghiệp khẩu phát đạt, nghiệp ý phát đạt. Và nguyện vọng theo đó được gọi là nguyện vọng phát đạt. Người tạo nghiệp thân, nghiệp khẩu, nghiệp ý phát đạt như thế rồi sẽ được những lợi ích phát đạt (chữ phát đạt có thể có thêm nghĩa nhiêu ích).
9- Định mệnh: Đạo Phật có nói đến nghiệp, đến nhân quả nghiệp báo chứ không hề nói đến định mệnh. Theo đó, gây nhân xấu ác thì gặt quả đau khổ, gây nhân lành tốt thì gặt quả an vui - chứ không phải “cái tơ cái tóc cũng do trời định” như định mệnh thuyết của Khổng Nho hoặc định mệnh 4 giai cấp của Bà-la-môn giáo.
10- Siêu độ, siêu thoát: Không có bài kinh nào, không có uy lực của bất kỳ ông sư, ông thầy nào có thể tụng kinh siêu độ, siêu thoát cho hương linh, vong linh, chân linh cả. Thời Phật tại thế, nếu có đến nơi người mất, chư tăng chỉ đọc những bài kệ vô thường, khổ và vô ngã để thức tỉnh người sống; và hiện nay các nước Phật giáo Theravāda còn duy trì.  Có thể có hai trường hợp:
- Nếu vừa chết lâm sàng thì thần thức người chết vẫn còn. Vậy có thể đọc kinh, mở băng kinh, chuông mõ, hương trầm... để “thần thức người chết” hướng về điều lành... để thần thức tự tạo “cận tử nghiệp” tốt cho mình.
- Nếu thần thức đã lìa khỏi thân rồi – thì họ đã tái sanh vào cõi khác rồi, ngay tức khắc. Khi ấy thì gia đình làm phước để chư tăng tụng kinh hồi hướng phước ấy cho người đã mất.
Cả hai trường hợp trên đều không hề mang ý nghĩa siêu độ, siêu thoát mà chỉ có ý nghĩa gia hộ, gia niệm, gia lực mà thôi. Tu dựa vào tha lực cũng tương tự như vậy, nhưng cuối cùng cũng phải tự lực: “Tự mình thắp đuốc mà đi, tự mình là hòn đảo của chính mình”.
Chư thiên chỉ có khả năng hoan hỷ phước và báo truyền thông tin ấy cho người quá vãng mà thôi. Họ không có uy lực ban phước lành cho ai cả.
11- Huyền bí, bí mật: Giáo pháp của đức Phật không có cái gì được gọi là huyền bí, bí mật cả. Đức Phật luôn tuyên bố là “Như Lai thuyết pháp với bàn tay mở ra”; có nghĩa là ngài không có pháp nào bí mật để giấu kín cả!
12- Tâm linh: Ngày nay, người ta tràn lan lễ hội, tràn lan mọi loại điện thờ với những hình thức mê tín, dị đoan, sa đoạ văn hoá... mà ở đâu cũng rêu rao các giá trị tâm linh. Đạo Phật không hề có các kiểu tâm linh như vậy. Thuật ngữ tâm linh này được du nhập từ Trung Quốc. Và rất tiếc, tôi không hề tìm ra nguồn Phật học Pāli hay Sanskrit có từ nào tương thích với chữ “linh” này cả!
13- Niết-bàn: Nhiều người tưởng lầm Niết-bàn là ở một cõi nào đó, một nơi chốn nào đó; thậm chí là ở một thế giới ở ngoài thế gian này. Người nào tìm kiếm Niết-bàn kiểu ấy, thuật ngữ thiền tông có cụm từ “lông rùa, sừng thỏ” như ngài Huệ Năng đã nói rõ: “Phật pháp tại thế gian. Bất lý thế gian giác. Ly thế mịch bồ-đề. Cáp như tầm thố giác”. Thố giác là sừng thỏ. Và giác ngộ cũng vậy, chính ở trong khổ đau, phiền não mới giác ngộ bài học được.
14- Bỏ khổ, tìm lạc: Tu Phật không phải là bỏ khổ, tìm lạc. Xin lưu ý cho: Khổ và Lạc chính là căn bản của phiền não!
15- Tu để được cái gì! Có nhiều người nghĩ rằng, tu là để được cái gì đó. Xin thưa, được cái gì là sở đắc. Ai sở đắc? Chính là bản ngã sở đắc. Đạo Phật là vô ngã. Hãy xin đọc lại Bát-nhã tâm kinh.
16- Tu là sửa: Nếu tu là sửa thì mình đã từ “cái ta này” biến thành “cái ta khác”. Nếu tu là không sửa thì cứ để nguyên trạng tham sân si như vậy hay sao? Xin thưa, sửa hay không sửa đều trật. Đạo Phật quan trọng ở Cái Thấy! Có Cái Thấy mới nói đến giác ngộ và giải thoát. Không có Cái Thấy này thì tu kiểu gì cũng trệch hướng hoặc rơi vào phước báu nhân thiên.
17- Vía: Đạo Phật không có vía nào cả. Vía, hồn, phách là quan niệm của nhân gian. Ví dụ, ba hồn bảy vía. Ví dụ, nam thất, nữ cửu – nam bảy vía, nữ chín vía. Nếu là nam thất, nữ cửu thì nó trùng với nam 7 khiếu, nữ 9 khiếu. Vía là phần hồn. Không có cái hồn, cái linh hồn tự tồn tại nếu không có chỗ nương gá. Vía không độc lập được. Như danh - phần tâm, sắc - phần thân – luôn nương tựa vào nhau. Chỉ có năng lực thiền định mới tạm thời tách lìa danh ra khỏi sắc, như Cõi trời Vô tưởng của tứ thiền. Tuy nhiên, cõi trời Vô tưởng hữu tình này không phải là không có danh tâm mà chúng ở dạng tiềm miên.  Còn các Cõi trời Vô sắc thì sắc không phải là không có, chúng cũng ở dạng tiềm miên. Thật đáng phàn nàn, Phật và Bồ-tát đều có “vía” cả! Và cũng thật là “đau khổ” khi trong lễ an vị Phật, người ta còn hô “Thần nhập tượng” nữa chứ!
18- Bồ-tát: Bồ-tát là âm của chữ Bodhisatta: Chúng sanh có trí tuệ. Vậy, chúng ta tạm thời bỏ quên “khái niệm Bồ-tát” quen thuộc trong kinh điển mà trở về với nghĩa gốc là “chúng sanh có trí tuệ”. Và như vậy, sẽ có hạng chúng sanh có trí tuệ với nguyện lực Thanh Văn; chúng sanh có trí tuệ với nguyện lực Độc Giác; chúng sanh có trí tuệ với nguyện lực Chánh Đẳng Giác. Ngoài 3 loại chúng sanh có trí tuệ trên – không có loại chúng sanh có trí tuệ nào khác.
19- Phật: Phật là âm của chữ Buddha, nghĩa là người Giác ngộ. Vậy chúng ta nên tạm thời bỏ quên “khái niệm Phật” từ lâu đã mọc rễ trong tâm thức mà trở về nghĩa gốc là bậc Giác ngộ. Vậy, có người Giác ngộ do nghe pháp từ bậc Chánh Đẳng Giác, được gọi là Thanh Văn Giác. Có người Giác ngộ do tự mình tu tập vào thời không có đức Chánh Đẳng Giác, được gọi là Độc Giác. Có vị Giác ngộ do trọn vẹn 30 ba-la-mật, trọn vẹn minh và hạnh nên gọi là Chánh Đẳng Giác.
Không có vị Giác ngộ (Phật) nào ngoài 3 loại Giác ngộ trên.
20- Thể nhập: Tu là không thể nhập vào cái gì cả. Thể nhập là bỏ cái ngã này để nhập vào cái ngã khác. Cãi ngã khác ấy có thể là dòng sông, có thể là ngọn núi, có thể là một cội cây, có thể là một thần linh, thượng đế. Cái cụm từ “thể nhập pháp giới” rất dễ bị hiểu lầm. Khi đi, chánh niệm, tỉnh giác trọn vẹn với cái đi; khi nói, chánh niệm, tỉnh giác trọn vẹn với cái nói; khi ăn, chánh niệm, tỉnh giác trọn vẹn với cái ăn – thì đấy mới đúng nghĩa “thể nhập pháp giới”, ngay giây khắc ấy, mọi tham sân, phiền não không có chỗ để phan duyên, sanh khởi.

Ngoạ Tùng Am, Sơ Xuân 2015
Minh Đức Triều Tâm Ảnh 

Thứ Tư, 11 tháng 3, 2015

Giang hồ


Tàu đi qua phố, tàu qua phố
Phố lạ mà quen, ta giang hồ
Chẳng lẽ suốt ngày bên bếp vợ
Chẻ củi, trèo thang với ... giặt đồ

Giang hồ đâu bận lo tiền túi
Ngày ta đi chỉ có tay không
Vợ con chẳng kịp chào xin lỗi
Mây trắng trời xa trắng cả lòng

Giang hồ ta ghé nhờ cơm bạn
Đũa lệch mâm suông cũng gọi tình
Gối trang sách cũ nằm nghĩ bụng
Cười xưa Dương Lễ với Lưu Bình

Giang hồ có buổi ta ngồi quán
Quán vắng mà ta chẳng chịu về
Cô chủ giả đò nghiêng ghế trống
Đếm thấy thừa ra một gốc si

Giang hồ mấy bận say như chết
Rượu sáng chưa lưa đã rượu chiều
Chí cốt cầm ra chai rượu cốt
Ừ. Thôi. Trời đất cứ liêu xiêu

Giang hồ ta chẳng hay áo rách
Sá gì chải lược với soi gương
Sáng nay mới hiểu mình tóc bạc
Chợt tiếng trẻ thưa ở bên đường

Giang hồ ba bữa buồn một bữa
Thấy núi thành sông biển hóa rừng
Chân sẵn dép giày, trời sẵn gió
Ngựa về. Ta đứng. Bụi mù tung...

Giang hồ tay nãi cầm chưa chắc
Hình như ta khóc. Mới hôm qua
Giang hồ ta chỉ giang hồ vặt
Nghe tiếng cơm sôi cũng nhớ nhà

Phạm Hữu Quang

Tìm về cội nguồn hạnh phúc đích thực của cuộc sống

Tìm về cội nguồn hạnh phúc đích thực của cuộc sống


Tên sách: Bàn về hạnh phúc
Tác giả: Matthieu Ricard

- Ở Mỹ, nếu sức mua tăng 16% trong 30 năm qua thì tỷ lệ người tự cho là hạnh phúc giảm từ 36% xuống còn 29%; còn ở Nhật Bản, trong năm 2006, đã có hơn 30.000 người tự tử, và con số này tăng lên hàng năm, ước tính khoảng 7% mỗi năm. Ở những quốc gia này, con người phải chịu áp lực công việc, thất nghiệp, thất bại trong thị trường chứng khoán…
- Theo nghiên cứu xã hội học, 75% dân số ở các quốc gia phát triển và yên bình nhất thế giới như Thụy Sỹ, Thụy Điển, Na Uy, Phần Lan… tự nhận mình có cuộc sống hạnh phúc. Họ có đầy đủ tiền bạc, đầy đủ điều kiện vật chất, xã hội ổn định, phúc lợi xã hội tốt… đảm bảo cho cuộc sống “hạnh phúc”, nhưng khi mất đi những vật chất đó, thì họ lại không còn cảm giác hạnh phúc ấy nữa.
Những người dân Tây Tạng, Nepal, Ấn Độ… rất nghèo đói nhưng lại luôn lạc quan, yêu đời, vẫn luôn ngập tràn hạnh phúc…
Có gì khác nhau bên trong những con người ấy?
Trong cuốn sách Bàn về hạnh phúc, một cuốn sách chứa đựng lòng nhân hậu bao la và trí tuệ sáng suốt tuyệt vời, tác giả Mathieu Ricard sẽ giải đáp cho chúng ta những băn khoăn trên hành trình đi tìm hạnh phúc. Làm thế nào để đạt được hạnh phúc đích thực bền vững bất chấp ngoại cảnh?
Theo tác giả “người có nội tâm bình yên không bị đau khổ vì thất bại, cũng không bốc đồng lúc thành công. Người đó biết sống trọn vẹn những kinh nghiệm trên với nội tâm sâu xa và trải rộng, ý thức rằng những kinh nghiệm đó sẽ trôi qua và chẳng có lý do gì để bám chấp vào đó. Người đó không thể “choáng” khi mọi sự biến chuyển theo chiều hướng xấu đi và khi phải đương đầu với khó khăn. Người đó không bị rơi vào trạng thái trầm uất bởi hạnh phúc của anh ta được đặt trên những cơ sở vững chắc.”
Hạnh phúc không tự nhiên đến, đó không phải là một ân sủng mà một số phận sung sướng có thể ban phát chochungs ta hoặc một nỗi bất hạnh có thể tước đi của chúng ta, nó chỉ phụ thuộc vào chính chúng ta mà thôi. Người ta không trở nên hạnh phúc trong một đêm mà phải trả giá bằng sự lao động cần mẫn, ngày này qua ngày khác. Hạnh phúc phải được xây dựng, điều đó đòi hỏi khổ công và thời gian. Để trở nên hạnh phúc, người ta cần phải biết cách thay đổi chính bản thân mình.
Luca và Francesco Cavalli
Để có trạng thái bình yên nội tâm, phải biết diệt khổ, hiểu được những nguyên nhân khiến mình khổ, hiểu được những cảm xúc khởi lên trong tâm trí mình, mở rộng lòng nhân từ, nhìn mọi vật xung quanh với tấm lòng khoan dung, từ bi, không bám chấp…
Trí tuệ là một điều kiện quan trọng để có hạnh phúc, không có trí tuệ, không có tri thức, con người dễ bị lầm đường lạc lối, rơi vào tăm tối u mê. Tri thức không phải là việc làm chủ hàng đống thông tin và kiến thức, mà là hiểu biết chân thực về bản chất của vạn vật.
Như vậy, chỉ khi được an lạc trong nội tâm và có trí tuệ có hiểu biết, con người mới tìm được hạnh phúc đích thực.
Với quan điểm của một tu sĩ Phật giáo, một nhà khoa học, Mathieu Ricard cũng sẽ lý giải tại sao quan điểm của những tôn giáo như Thiên Chúa giáo, Thora Do Thái, đạo Hồi, hay những triết gia, những nhà khoa học, nhà tư tưởng hàng đầu thế giới như Platon, Descartes, Kant, Freud, Schopenhauer, André Comte-Sponville… trong việc tìm hiểu bản chất con người và hành trình tìm kiếm hạnh phúc trong cuộc sống lại đi vào bế tắc. Thôi tìm hạnh phúc bằng mọi giá ở bên ngoài mình, học cách nhìn vào bên trong nhưng tự ngắm mình ít hơn một chút, làm quen với một cáh tiếp cân thế giới vừa sâu sắc, vừa vị tha hơn... với một tâm hồn phong phú bởi các nền văn hóa ảnh hưởng, với những trải nghiệm cuộc đời của một nhà hành, những cuộc gặp gỡ với những nhà minh triết lớn, với sự hiểu biết kinh sách linh thiêng cũng như nỗi thống khổ của con người, Matthieu Ricard – một tu sĩ Phật giáo được nhiều người biết đến nhất và nổi tiếng nhất về đạo Phật tại Pháp sẽ chia sẻ với chúng ta những suy ngẫm về con đường tìm kiếm chân hạnh phúc và những phương pháp để đạt được nó.

Matthieu Ricard là nhà sinh học, nghiên cứu về tế bào di truyền nhiều năm tại Institut Pasteur, học trò của Francois Jacob. Matthieu Ricard đã đi theo đạo Phật và trở thành một trong những nhà sư rất được kính trọng. Ông là phiên dịch viên tiếng Pháp của Đức Dalai Lama, nhà nhiếp ảnh, dịch giả và tác giả của nhiều cuốn sách nổi tiếng như: Nhà sư và triết gia (Cùng với Jean-Francois Revel, Nil, 1997); Những nhà sư vũ công của Tây Tạng (Albin Michel, 1999); Himalaya Phật giáo (La Martinière, 2002); Tư tưởng Tây Tạng(Le Seuil, 1996); Cái vô hạn trong lòng bàn tay (Cùng với Trịnh Xuân Thuận, Nil, 2000).
Tác phẩm Cái vô hạn trong lòng bàn tay là cuộc đối thoại giữa Matthieu Ricard với giáo sư Trịnh Xuân Thuận, người Việt Nam đầu tiên được trao giải thưởng cao quý Kalinga của UNESCO về Phổ biến khoa học năm 2009, đó là “cuộc đối thoại” giữa Phật giáo và khoa học. Ðúng như điều Einstein cảm nhận, Phật giáo là một tôn giáo có thể đối thoại với khoa học, cả hai không những không đối kháng mà còn bổ khuyết cho nhau trong việc tìm hiểu khoa học hiện đại và đời sống tinh thần của từng cá nhân cũng như trong nỗ lực chế ngự thiên nhiên và kềm chế bản ngã để tìm đường thoát khổ.
Hiện Mathieu Ricard đang ở tại tu viện Shéchèn (Nê-pan), cống hiến cuộc đời cho việc bảo tồn nền văn hóa Tây Tạng và cho những dự án nhân đạo ở Tây Tạng.

14 điều răn của nhà Phật

Xã hội phát triển đến mức nào đi nữa thì những giá trị truyền thống phương Đông, tức là cội nguồn văn hóa của mỗi dân tộc Châu Á vẫn cần phải được bảo tồn và trân trọng. Tuy là vốn cổ, nhưng nếu xét về nhân sinh quan đối với con người hiện đại thì dường như không cổ chút nào hay nói đúng hơn là câu chữ cũ, còn ý nghĩa thực tế vẫn hoàn toàn mới mẻ.
Đây chính là điều đáng bàn luận và suy ngẫm, vì như sách "Minh tâm bảo giám" nhận xét: "Người xưa tuy hình dáng như thú, nhưng lòng như có đại thánh ở trong. Người nay tuy hình dáng người nhưng lòng lại thú, biết đâu mà lường. Có lòng không có tướng, tướng sẽ tự lòng mà sinh ra. Có tướng mà không có lòng, tướng sẽ theo lòng mà mất đi”. Phải chăng, vì lẽ ấy mà vô số điều khuyên răn của các bậc tiền bối vô cùng hữu ích cho cách đối nhân xử thế của những người chịu ảnh hưởng giáo dục của Nho giáo, Phật giáo. Tựu trung lại, đó chính là những tâm bệnh như sau:
1
Không có kẻ thù nào to lớn và nguy hiểm bằng chính bản thân ta. Tà ý xấu xa vốn là kẻ thù tiềm ẩn lớn nhất của đời người mà tự ta khó vượt qua nổi. Thật là nghịch lý khi bao khó khăn, thử thách, gian nan do khách quan mà nhờ tinh thần, ý chí quyết tâm ta đều vượt qua. Nhưng, khi trong tâm có bệnh thì lại chịu thua, như dao sắc không gọt được chuôi vậy. Đúng như nhận định trong thế giới có bốn điều tự hủy hoại là: Cây nhiều hoa, quả nặng quá, sẽ gãy cành, rắn độc mang nọc độc nhưng lại bị giết để lấy nọc, kẻ làm việc nước không hiền tài, thì sẽ hại dân hại nước, kẻ làm điều bất thiện sẽ bị quả báo, cho nên sách Kinh dạy rằng: "Sự độc ác do tâm sinh ra, sẽ quay lại tự hại bản thân mình, cũng như sắt tạo ra chất gỉ rồi chất han gỉ ấy sẽ tiêu hủy dần thân hình của sắt". Suy nghĩ xa hơn và kỹ hơn về giáo lý ấy thì càng rõ, nếu ta không vượt qua được chính bản năng của mình thì lương tâm và trí tuệ, lương tâm và trí tuệ của ta cũng sẽ bị xói mòn mục ruỗng, chẳng mấy chốc mà thành phế nhân. Ngạn ngữ vẫn cho rằng: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”, nội dung bên trong hoặc phần tinh thần không nhìn thấy được ấy mới quyết định bản chất của một chính nhân thực thụ, bởi đơn giản là: "Con người biểu lộ tính ưu việt của mình ở bên trong, chỉ có con vật mới lộ ra bên ngoài thôi".
2
Những thất bại lớn nhất của con người đều do tính tự cao tự đại sinh ra.Sách Cảnh hành lục cho rằng: "Sự tự mãn (tự cho mình đầy đủ) làm cho mình hư. Sự kiêu căng (tự cho mình giỏi) làm mình trở thành ngu. Chuyện kể rằng: Có đứa con nhà giàu không coi ai ra gì, thích đứng trên cây tè xuống đầu người đi đường, ai cũng ngại nhà ấy mạnh tiền của chẳng dám nói gì. Một hôm có đoàn quan binh đi qua dưới gốc cây, tay kia tè ngay vào viên quan văn đi đầu, viên quan này gật gù khen giỏi, rồi đi tiếp. Lúc sau viên quan võ đi qua, tay kia vẫn tiếp tục tái diễn trò ấy, nhưng không ngờ viên quan võ nóng tính bèn rút kiếm ra chém phăng đầu đứa xấu chơi. Người đời thường cười tên ngu dốt và thán phục mưu sâu của viên quan văn, nhưng cái chết thì vẫn dành cho kẻ cao ngạo. Chẳng thế những nước nông nghiệp vùng Đông Nam Á thường dùng biểu tượng cây lúa để đề cao tính khiêm nhường: khi cây mọc càng cao, càng trổ bông trĩu hạt chín vàng thì cây càng cúi thấp để tránh gió đồng ập đến. Lã Khôn thì rút ra bài học: "Khí kiêng nhất là hung hăng, Tâm kiêng nhất là hẹp hòi, Tài kiêng nhất là tự cao", nếu không hiểu được những điều này thì sống trên đời chẳng mấy chốc sẽ thất bại.
3
Ngu dốt lớn nhất của con người là sự dối trá. Kinh Phật cũng liệt kê điều này vào trong 7 tội lỗi lớn nhất mà người muốn đắc đạo không được mắc phải. Tục ngữ cũng nhận định rằng: Đường đi hay tối, nói dối hay cùng. Trên phương diện y học thì nói dối hại tim, suy yếu phổi vì luôn ở tâm trạng đối phó bất ổn. Xét về khía cạnh tâm sinh lý, thì nói dối bao giờ cũng tạo ra những phản ứng trái ngược trong cùng một chủ thể, khiến con người luôn bí bức vì không thể sáng tạo mãi ra những điều không có thật. Đành rằng, cuộc đời là một sân khấu lớn, nhưng không phải tất cả những nhân vật biểu diễn trong vở kịch đều là nghệ sĩ vĩ đại, thế nên mới nói đổi vai diễn thì dễ còn nhập vai chính hoặc phụ đạt yêu cầu là cả một khoảng cách. Sở dĩ phải phân tích điều này vì lắm kẻ vẫn huênh hoang và tự hào về khả năng diễn vở trắng - đen mà không biết đang tự mua dây trói mình. Châm ngôn Trung Quốc nói: Nếu có lương tâm trong sáng cả đời bạn sẽ không phải sợ tiếng gõ cửa lúc nửa đêm. Còn Trình Di lại đúc kết rằng: Lấy lòng chân thật cảm động người ta, thì người ta cũng lấy chân thật mà đãi lại, Lấy cách trí thuật cài đạp người ta, thì người ta cũng lấy trí thuật mà xử lại. Nếu cứ lẩn quẩn mãi như thế, cuộc đời liệu có yên ổn và an nhàn không?
Dối trá với cuộc đời thì chẳng hay ho gì, bởi gieo hạt nào thì gặt quả nấy. Sách Minh tâm dạy rằng: Độ lượng to lớn bao nhiêu thì phúc trạch càng to lớn bấy nhiêu, Mưu sâu độc bao nhiêu thì tai vạ cũng sâu độc bấy nhiêu. Nhưng khi đã tự lừa dối cả bản thân mình, thì quá tội lỗi. Nhẹ nhất là tự huyễn hoặc khả năng, bản chất của cá nhân để yên lòng tồn tại. Nặng hơn tự cho mình là thiên tài, luôn cao giọng răn dạy cuộc đời. Nghiêm trọng nhất là tự cho mình cái quyền quyết định, hay phán xử tất cả mọi sự việc, mức độ này thường dẫn đến hành động oai hùng thái quá gây tổn hại đến tinh thần và tính mạng người khác. Thường thì người ta hay tự an ủi bằng những lý do không đúng sự thật về những điều xấu mình đã gây ra, cốt để yên tâm tạm thời còn phần lớn thời gian luôn cảm thấy bất an, nơm nớp. Nên Kinh thư mới nhắc: Làm điều thành thật thì bụng yên ổn và mỗi ngày một hay. Làm điều gian dối thì bụng băn khoăn và mỗi ngày một dở. Không tự lừa dối mình và mọi người cũng có nghĩa là phải chứng minh sự thật bằng mọi giá. Chuyện cổ kể rằng, có người thợ đào được hòn đá bên trong có ngọc đem dâng vua, vua không tin, kết tội nói dối nên chặt chân trái. Vua sau lên ngôi, người này cũng đem ngọc đến dâng và vua cũng bảo gian dối, chặt nết chân phải. Đời vua sau nữa lên ngôi, người thợ đến chân núi khóc suốt 3 ngày đêm đến chảy cả máu mắt. Vua đến hỏi thì người thợ nói, khóc vì ngọc mà nhầm là đá - thật mà cho là dối! Vua bèn sai đập hòn đá ra, thì quả có hòn ngọc bên trong.
4
Nỗi bi ai lớn nhất của con người chính là lòng đố kị. Tính ganh ghét và đố kị như mốt ngọn lứa nhỏ leo lét trong tâm mỗi người. Với những ai điều chỉnh được bản thân hướng thiện thì sẽ chế ngự được ngọn lửa ấy và hóa nó thành khát vọng tốt đẹp ham muốn vươn lên, với những kẻ bản năng tầm thường thì ngọn lửa này sẽ thỏa sức cháy, thiêu rụi hết những gì gọi là nhân đức - giáo dục - văn hóa biến người ta thành một con thú hoang lồng lộn cắn xé giành giật miếng mồi và kết cục lại bị chính ngọn lửa tham này đốt cháy thành tro bụi. Đúng là: Lòng tham thì hại mình, Sướng miệng thì tổn thân! Bệnh ghen tị luôn khiến nội tâm con người bức xúc, hậm hực khó mà khuyên giải được nếu như không được thỏa mãn một tý chút gọi là. Thế mới biết, sự đời đâu phải chỉ con gà tức nhau tiếng gáy, mà con ngựa ghen nhau tiếng hí, con chó ganh nhau tiếng sủa, con chim đua nhau tiếng hót, còn con người thường ghen tị mà hãm hại lẫn nhau. Có lẽ nên tra lại Minh tâm bảo giám để ghi nhớ thêm một câu: Miếng ăn sướng miệng, sẽ sinh ra bệnh tật, việc làm thỏa chí, sẽ đưa tới tai vạ. tranh hơn chạy tắt hay thành ác, nói lỡ lời đâm ra tiếng đồn đại. Cho nên, để bệnh rồi uống thuốc sao bằng tự ngừa trước bệnh tật?
5
Sai lầm lớn nhất của con người là tự đánh mất mình. Ta chỉ là một cá thể nhỏ, một hạt cát trong vũ trụ bao la và trên hành tinh có 7 tỷ cá nhân khác nhưng điểm khác biệt duy nhất khiến ta làm chủ được cuộc sống riêng không phải là cái tên khai sinh mà chính là sự khẳng định khác biệt với những người khác trong cá tính nhân cách, năng lực và tư duy phát triển vươn lên đa dạng. Ai cũng muốn tự khẳng định mình và càng muốn những người khác công nhận mình trong một hoặc nhiều lĩnh vực trong cuộc sống theo phương châm hiện đại: giỏi một - biết nhiều. Nhưng cũng nhiều người đã không tự chứng minh được mình mà còn đánh mất luôn cả bản thân vì những tác động khách quan bất ngờ và chủ quan không may mắn! Thường thì khách quan bị cột vào việc mất phẩm chất hoặc danh dự như vì nghèo quá hóa liều. Nhưng Lã Khôn cho rằng: Nghèo không xấu, nghèo mà không có chí mới là xấu, hèn không đáng ghét, hèn mà không có tài mới đáng ghét, già không nên than thở, già mà sống thừa mới đáng than thở, chết không nên bi ai, chết mà vô bổ mới đáng bi ai. Nhưng tội lỗi quả là sinh ra chỗ giàu sang vì sức mạnh của đồng tiền rất đáng kinh ngạc. Cho dù chưa phải là Tiên, Phật hay chân lý, nhưng đồng tiền cũng, làm hắc nhân tâm, xét từ cổ chí kim thì: Người ngồi trên đống cát ai cũng có thể là quân tử hiền nhân, nhưng ngồi trên đống vàng thật khó thay, đã có ai là hiền nhân quân tử đâu?
6
7
Cuộc đời nhiều nỗi thương cảm xót xa nhưng có lẽ con người đáng thương nhất là tự ti. Đây là cách suy nghĩ, biểu hiện, hành động không đúng với bản chất và khả năng của mình. Biểu hiện tích cực của tự ti là thu nhỏ lại không va chạm, không bon chen, ngại đưa ý kiến, sợ phản đối trong mọi hoàn cảnh. Biểu hiện tiêu cực thì tệ hơn là luôn khúm núm, xun xoe, bợ đỡ, xu nịnh, tâng bốc ai đó để lấy chỗ dựa bởi mặc cảm: phải có bờ rào thì dây leo mới có chỗ dựa! Chuyện xưa kể. Có một tay nhà giàu nứt đố đổ vách được nhiều người trong làng tâng bốc, nịnh hót nhưng anh nông dân nghèo rớt mồng tơi bên cạnh nhà lại dửng dưng, không cần biết. Tay nhà giàu gặng hỏi, anh nông dân trả lời: ông giàu kệ ông, tôi nghèo kệ tôi cớ gì phải xu nịnh? Tay nhà giàu hào phóng: Nếu tôi cho anh 1/2 tài sản thì anh có nịnh tôi không? Anh nông dân vẫn đáp: Nếu thế hai bên ngang hàng nhau, cần gì nịnh ai? Tay nhà giàu tức khí: Nếu cho anh tất cả tài sản thì anh có nịnh tôi không? Anh nông dân thản nhiên: Lúc ấy ông phải xu nịnh tôi mới đúng! Thực tế bây giờ cũng chứng minh rằng: tiền bạc và địa vị tác động ghê gớm đến suy nghĩ tự ti, nếu ai không đủ cứng rắn để giải thoát khỏi nỗi ám ảnh này thật vô cùng đáng thương. Đường đời vốn không bao giờ bằng phẳng, chuyện vấp ngã hoặc trượt chân rất bình thường. Triết lý cho rằng: mỗi lần ngã là một lần bớt dại. Điển tích thơ, ca ngợi tài ứng khẩu của bà chúa thơ nôm Hồ Xuân Hương khi ngã cơ học vần giải thích kiểu triết học: Giơ tay với thử trời cao thấp - Xoạc cẳng đo xem đất ngắn dài? Trong cuộc sống không đơn giản như thế có những cú ngã vô hình tác động và ảnh hưởng sâu sắc đến tinh thần và làm suy sụp ý chí quyết tâm gượng dậy. Có thể nói từ vị trí ngã cho đến lúc đứng dậy được phải trải qua động tác trung gian là quỳ gối - khom lưng đây cũng chính là thời điểm quan trọng nhất nếu không đủ bản lĩnh để vươn lên thì không những chẳng đáng khâm phục mà còn vĩnh viễn tình nguyện gia nhập đội ngũ những kẻ không tiên hóa được chỉ đi bằng đầu gối. Bởi thế, Chu Hy mới dặn rằng: Đời suy, đạo vi, lòng ham muốn loài người đầy rẫy, không phải người cương nghị thì đứng vững sao được?
8
Không được tuyệt vọng tức là phải luôn luôn có hy vọng để sống và sống vì hy vọng. Khi ta có hy vọng vào mốt con người, sự việc, hoàn cảnh nào đó cũng đồng nghĩa với việc ta đặt trọn mềm tin vào đấy để có động lực sống, do đó sự phấn đấu vươn lên sẽ mạnh mẽ và đạt hiệu quả thiết thực. Tình cảm bị tuyệt vọng sẽ tạo nên trạng thái tâm lý dở khùng, hoang mang, không biết sắp xếp mọi mặt của cuộc sống ra sao. Nếu sự nghiệp bị tuyệt vọng sẽ gây ra sự phẫn uất, chây ì với bản thân, còn nếu tuyệt vọng với cả hai điều này thì dẫn đến kết cục bi thảm: một kẻ trắng tay thường tự kết thúc cuộc sống của mình rất nhanh. Vậy muốn giữ được hy vọng, không sa vào tuyệt vọng thì mỗi con người phải có ý chí, nghị lực như Vương Dương Minh nhận định: Người không có ý chí như thuyền không lái, như ngựa không cương, trối giạt lông bông, không ra thế nào cả.
9
Các cụ xưa cũng nhấn mạnh rằng: Tài sản lớn nhất của con người là sức khỏe. Người bình thường không ai nghĩ đến sức khỏe của mình, chỉ khi nào bị tác động của bệnh tật hoặc tuổi già mới giật mình nghĩ lại, chủ yếu là cảm giác nuối tiếc. Bão Phác Tử nói: Ai cũng muốn sống lâu mà không biết cách dưỡng sinh. Ai cũng biết ăn uống quá độ thì ốm đau mà không biết giữ miệng. Ai cũng biết tình dục quá độ thì khô héo mà không biết phòng thân? Mạnh Tử thì cho rằng: Dường sinh không gì hay bằng ít lòng ham muốn, say mê. Tư Mã Thiên cũng nhận xét: Tinh thần dùng quá thời kiệt, hình thể làm quá thời mệt. Đúng là khi đã ốm đau bệnh tật rồi thì có tặng, biếu ham muốn cũng không còn cảm hứng đón nhận nữa. Tuân Sinh Tiên lại có ý sâu xa: Muốn cho thân không có bệnh, trước hết phải để tâm không có bệnh. Nên ít sắc dục để nuôi tinh, ít ngôn ngữ để nuôi khí, ít tư lự đế nuôi thần. Còn danh y Tuệ Tĩnh luôn nhắn nhủ: Bế tinh, dưỡng khí, tồn thần, Thanh tâm, quả dục, thủ chân, luyện hình (ý là: giữ tinh, dưỡng khí, bảo tồn thần, giữ cho lòng thanh thản, hạn chế dục vọng, giữ chân khí, luyện tập thân thể).
Trong cuộc sống còn nhiều mối liên quan, tác động đến nhau về cả vật chất và tinh thần, những món nợ tiền còn có thể trả được nhưng nợ tình thì khó khăn hơn nhiều, cho nên món nợ lớn nhất cuộc đời con người là tình cảm.Kinh Lễ đặt câu hỏi: Thế nào là tình cảm con người? Mừng, giận, thương, sợ, yêu, ghét muốn. Bảy loại tình cảm đó chẳng cần học ai cũng biết. Thế nhưng, bảy sắc tình đó chẳng phải mang đến đã cho con người ta mọi điều tốt đẹp, như sách Khuyết giới toàn thư nhận định: Bể tình dục lấp mãi không đầy thành sầu khổ phá mãi không tan, vì vậy món nợ tình cảm ở đây cần hiểu là món nợ của thương yêu, quý mến, gia ân. Nếu có điều kiện, thời gian, hoàn cảnh cũng có thể trang trải tượng trưng để lưu lại chữ tình, nhưng cũng có nhiều tình thế khó xử không thể cân, đong, đo đếm được, đành để kiếp sau. Một tích cổ kể câu chuyện vua muốn thử tài trí tân Trạng Nguyên nên đưa ra tình huống khó xử: Trên một con thuyền bị đắm có ba người là đức vua, thày dạy và cha đẻ đều gặp nguy hiểm đến tính mạng, vậy sẽ cứu ai trước? Nếu chủ định cứu một trong ba người thì Trạng Nguyên sẽ mắc một trong ba tội lớn: bất trung, bất hiếu hoặc bất nghĩa. Nhưng Trạng trả lời nhanh và dứt khoát là, cứ nhảy xuống sông, quờ được ai trước thì cứu trước. Tuy cách ứng phó ngẫu nhiên rất thông minh nhưng giả thiết có chuyện này thật thì món nợ dưới sông với hai người còn lại biết bao giờ trả xong? Chắc cũng khó khăn, trắc ẩn như chuyện của Trương Chi và Mỹ Châu: Nợ tình chưa trả cho ai? Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan!
Thế giới có thể đại đồng về mặt lý thuyết, nhưng thực tế trên đời người không tránh khỏi va chạm, xích mích gây ân oán to nhỏ trên dưới, xa gần nhằng nhịt như dây leo không thể giũ bỏ triệt để được, vì thế tha thứ là báu vật của mọi quan hệ và lòng khoan dung là quà tặng đáng giá nhất trên đời. Đức Thích Ca dạy: Oán trả oán, oán ấy chồng chất, lấy ân trả oán, oán ấy tiêu tan Sách Luận ngữ cũng viết: Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân. Phương pháp luận của Lão Tử cụ thể hơn: Với kẻ lành, lấy lành mà ở, với kẻ chẳng lành, vẫn lấy lành mà ở. Với kẻ thành tín, lấy thành tín mà đãi, với kẻ không thành tín vẫn lấy thành tín mà đãi. Nghĩ kỹ thêm mới thấy, hai chữ khoan dung thốt ra nhẹ nhàng biết bao nhiêu mà thực hành lại nặng nề bấy nhiêu, bởi nếu lòng dạ hẹp hòi không chứa nổi hai chữ ấy. Cách tốt nhất là chủ động: không nên lấy cái hay của mình mà trách cái không hay của người. Không nên lấy cái sở trường của mình mà trách cái sở đoản của người. Khi trách người, thì đừng nên khoe mình. Tuy vậy, sách Minh Tâm Bảo Giám viết: ở đời chẳng việc gì khó Không xong việc là do lòng mình không chú trọng. Thà kết ơn làm nghĩa với nhiều người, chớ nên gây oán với một người. Nên nhịn những việc khó nhịn, tha thứ những người không sáng suốt. Lòng khoan dung không những cởi mọi ân oán tạo nên cách sống cao thượng, mà còn chính là nguồn phúc để lại cho đời sau vì: Chứa vàng để lại cho con cháu chưa chắc đã giữ được, chứa sách để lại cho con cháu chưa chắc đã học được, cách để lại lâu dài cho con cháu không gì bằng chứa âm đức ở trong chỗ minh minh!
Khổng Tử là một bậc thầy của giáo dục. Ngài cho rằng: có được học vấn không phải là việc một sớm một chiểu, cần phải có nhiều năm thu lượm, tích lũy. Giành được học vấn như đắp hòn núi cao, từng sọt đất mà đắp ngày lại ngày bền bỉ mới thành núi, cho nên thành bại của học vấn trước hết là tự mình chế ngự được bản thân, phải biết cách tránh mọi diều cám đỗ trên đời vì nếu người đọc sách còn mơ tưởng an nhàn thì không thể coi là người học chân chính. Và nếu không hoặc có học không đúng đắn thì dẫn đến kém hiểu biết, đó chính là khiếm khuyết lớn nhất của con người, không gì bổ sung, thay thế được. Đại dương kiến thức thật mênh mông, vốn hiểu biết như giọt nước dưới ánh nắng mặt trời, long lanh đấy nhưng rồi sẽ bay hơi nhanh chóng, vì thế phải tranh thủ và tiếp nhận tích cực vốn tri thức, hiểu biết của cuộc sống, không nên phân biệt, cân nhắc cao thấp.
Khổng Tử dạy: Ba người cùng đi tất có một người làm thầy ta được. Khổng phu tử cũng viết: kẻ ngốc than phiền là mọi người không hiểu hắn. Kẻ thông thái than phiền là mình không hiểu mọi người. Như vậy có nghĩa chỉ cần lắng nghe cũng có thể thu nạp được kiến thức rồi và nguồn kiến thức như vậy vô cùng quan trọng như Vương Dương Minh nói: Kiến thức là sự bắt nguồn của hành động. hành động là thành tựu của kiến thức. Sự học của thánh nhân chỉ có công phu là kiến thức và hành động không tách rời nhau. Vậy nên Trần My Công cho rằng: Người ta sống trong một ngày, có được nghe một câu phải, trông thấy một điều phải, làm một việc phải, ngày ấy mới không uổng. Danh ngôn phương Đông cho rằng: Hoàng kim cũng có giá của nó, nhưng kiến thức học được thì vô giá và nếu như ruộng của bạn không được cày bừa thì kho vựa của bạn sẽ trống rỗng, nếu sách của bạn không được đọc thì con cháu bạn sẽ dốt nát. Như thế đủ thấy kiến thức còn hữu dụng đến bao đời.
Cuộc đời cũng còn có nhiều niềm vui và nỗi buồn, nhưng niềm vui lớn nhất của con người chính là làm phúc. Chúng ta nên chia sẻ cảnh ngộ, lòng thương cảm để giúp đỡ tinh thần hoặc vật chất cho mọi người. Làm được điều thiện cũng là một cách tích đức để lại cho con cháu, như Tử Thần ông nói: Bình sinh làm điều lành thì trời ban thêm phúc cho mình, ví bằng ngây dại mà làm điều dữ thì phải mắc tai họa. Còn ý tưởng của Thái Thượng Công là: Điều họa phúc vốn không có cửa ngõ, chỉ có ta mời nó đến thôi. Sự đền đáp việc lành dữ cũng như bóng với hình. chỉ tùy theo lòng người. Chuyện làm phúc cũng còn lấy kết quả, có thể người làm phúc không vui vẻ gì mà phải làm, cũng có khi người được làm phúc không thỏa mãn mà vẫn phải nhận, ấy là do phụ thuộc vào thái độ và cách thức thể hiện nữa. Làm phúc vì chân tâm thì cả hai bên cùng thoải mái, nhẹ lòng, hạnh phúc còn nhón tay vì điều kiện hay mưu tính thì không hề có thiện ý, tất cả những điều này phần lớn do tâm tính, hoàn cảnh sống và địa vị xã hội tạo ra. Vì thế Đông Nhạc Thánh Đế viết rằng: Phàm người có quyền thế, không nên cậy vào quyền thế của mình, người có phúc đức may mắn không nên tận hưởng hết cái phúc ấy, cũng như thấy kẻ nghèo hèn chớ có khinh miệt người ta quá mức. Một ngày mình làm điều thiện, phúc tuy chưa đến nhưng cái họa đã tự bỏ đi xa, một ngày làm điều ác, cái họa dẫu chưa đến nhưng cái phúc đã tự bỏ đi xa mình rồi. Người ở dời sau mà làm điều lành thì giống như cỏ trong vườn xuân, tuy không thấy lớn nhưng ngày một dày thêm, người làm điều ác giống như viên đá mài dao, không thấy hao mòn nhưng ngày càng khuyết dần.
Nỗi đau đớn và dằn vặt trên đường đời cũng rất nhiều và đa dạng do những nguyên nhân khác nhau, nhưng có lẽ đau khổ lớn nhất là sự trống rỗng. Đó là một trạng thái vô cảm, không còn cảm nhận về buồn vui sướng khổ yêu ghét hay dở. Đời sống tinh thần lúc ấy không còn gì là ham muốn nữa, thật sự giống một hòn đá lăn. đám mây trôi chứ chưa so sánh bằng thực vật động vật vì cây cỏ muông thú còn có cảm xúc riêng của mình. Người rơi vào trạng thái này thường bị hụt hẫng, thất vọng hoặc tan vỡ một dự tính quan trọng hay chịu một mất mát không gì bù đắp được. Cần phải hiểu rằng mưu tính sự việc là do con người, nhưng việc thành bại là do may rủi. Người muốn như vậy, mà trời lại không cho là như thế, do đó, đành phải chấp nhận cái đã có hay vốn có, thế mới là người hiểu cái đạo sống giữa cuộc đời: lý trí phải mạnh mẽ - hành động phải linh hoạt, như Gia Cát Khổng Minh nói cách trừ bỏ sự trống rỗng này: Nên giữ chí thật cao xa, mến chuộng bậc hiền tài, dứt hẳn tình dục, phá tan sự ngưng trệ, khiến cho lòng mong muốn có chỗ tồn tại rõ ràng, có chỗ cảm động mà sinh ra thương mến. Giận lắm thì cũng nên duỗi, bỏ qua sự nhỏ nhặt. Rộng thăm dò học hỏi, trừ bỏ tính nghi ngờ bủn xỉn. Sao lại để tổn hại về sắc đẹp? Sao lại lo buồn về việc không thành? Nếu chí không mạnh mẽ, ý không ngoan cường khảng khái sẽ bị chìm đắm vào chỗ phàm tục, suốt đời bị trói buộc vào cõi vô hình.
Kẻ cùng ấy thường bị người trị. Biết được những điều khuyên răn của cổ nhân để ứng xử trên đời và sống tốt về lý thuyết thì dễ, nhưng sử dụng những lời khuyên này thế nào cho hữu ích chỉ phụ thuộc vào bản thân mỗi người như sách Minh Tâm Bảo Giám dạy: Ngàn vàng tốt chưa phải là quý. Được lời nói hay của một người còn quý hơn ngàn vàng, vì ngàn vàng dễ được lời hay khó tìm. Tìm ở người không bằng tìm ở mình, hay chịu nghe người không bằng hay suy xét. Biết việc ít thì phiền não cũng ít. Biết người nhiều thì chuyện phải trái cũng nhiều. Và như thế mới cần bàn đến những lời răn của cổ nhân...

Bay đi cánh chim biển



Bay đi cánh chim biển hiền lành
Chẳng còn giấc mơ nào để giữ đôi chân em
Chẳng còn tiếng nói nào để trách cứ em
Khi mặt trời đậu trên đôi cánh vỗ

Theo tiếng hát của người thủy thủ
Lượn trên sóng vỗ về ghềnh đá chim bay qua
Lang thang cánh gió chiều buồn trắng men san hô
Đất trời rộng sao em không bến đỗ

Giấc mơ của tôi là cánh chim hải âu
Bay ra khỏi tầm tay và tiếng sóng

Em đã muốn muốn ra đi nhiều lần
Trời lên tiếng kêu gọi và gió reo tên em
Trùng dương vỗ sóng về để đón bước em
Quay mặt lại nhìn nhau một lần cuối

Bay đi cánh chim biển hiền lành
Chẳng còn giấc mơ nào để giữ đôi chân em
Chẳng còn tiếng nói nào để trách cứ em
Khi mặt trời đậu trên đôi cánh vỗ

Giấc mơ của tôi và cánh chim hải âu
Bay ra khỏi tầm tay và tiếng sóng.

Mai Đây, Xứ Việt!



"Thượng Đế hỡi! tôi cúi đầu trả lại..."
Những hình hài đau khổ mấy lâu nay
Hai nghìn năm nhân loại muốn nói gì
Xin chớ để hận thù xưa sống dậy

Vườn Eden quả cây nào, ai hái
Lỡ một lần sao vướng mãi hôm nay?
Đất nước tôi mang lắm nỗi đọa đày
Can chi đến tuổi thơ trên xứ Việt?

Rừng Trường Sơn, biên thùy đau da diết
Với nghìn năm phương Bắc đánh liên miên!
Bằng trăm năm người Pháp? cũng ưu phiền!
Bao lâu nữa bình an lên xứ mẹ?

Tôi không muốn như ma Hời kể lể
Đèo Cù Mông cô Chiêm nữ xuôi về
Nghe Đồ Bàn, thành quách dưới sương mê
Đêm lặng gió, Chiêm vương không còn nữa.

Nếu là thế, Việt Nam không lần lữa !
Hết chiến tranh, xin giữ nét yên bình
Chào hận thù, chào tất cả u minh
Khi nó đã lăn dài hơn thế kỷ.

Bao nhiêu hử, bomb mìn từ Châu Mỹ
Và Âu Châu sang tận nửa tinh cầu
Trung Cộng từng hữu nghị luôn câu
Nay nó cũng chẳng cần tư cách ấy!

Nó gừm hằng nhiều năm, sang để "dạy"
Rằng Việt Nam đâu há dễ xem thường
Khổ một điều dân tôi mãi vấn vương
Thù hận cũ cứ đeo hoài, sẽ khổ.

Giặc ngoài biết, đấy là điều xấu hổ
Nhưng dân tôi, nuôi hận mãi muôn đời?
Hận thù nhà, hận cả núi sông ơi?!
Nghe khổ sở, nghèo nàn là khoái bụng?





Nếu chẳng thế sao kêu gào đa chủng
Chớ bang giao, ngưng du lịch nơi này (VN)
Có người thì mạ lị Việt Nam tôi
Thế giới bĩu, "quái thai" lên xứ mẹ?!

Từ mấy độ anh xa nhà có lẽ
Quên quê hương, quên hết cả đôi miền
Quên bầu trời khi trưởng dưỡng khôn lên
Bơ sữa thấm nên chẳng cần đất Việt?

Làm hì hục phải chăng ơi tha thiết
Kiếm cơm ăn nhà ở xứ quê người
Những sang giàu xô loé mắt đôi mươi
Nhưng suýt mãn kiếp người sao nỡ phụ?

Việt Cộng kìa, Mác, Lê đem bỏ tủ
Những "chiến công" đã phỉ chí lâu rồi
Pháp đầu hàng, Mỹ rút, Việt Nam ôi
Chừ ném hết, chỉ chừa, đây: giống Việt.

Ừ, còn nữa, Vatican nay có biết
Đất nước tôi đã nếm đủ, dư thừa
Những hình hài bi lụy thuở năm xưa
Khi Pháp đến, vì do ai vậy hả?





Nếu mai đây, khi bang giao nghiệt ngã
Nhớ cho rằng sĩ, thức, khác năm xưa
Không khom lưng, không tôi mọi đã vừa -
Kể từ lúc thứ 3 thiên niên kỷ!

Chẳng được thế, chả còn gì xứng hỷ (hợp với niềm vui)
Là văn minh, bình đẳng, với nhân quyền
Rằng lương tri, con cháu giống Rồng Tiên
Đâu nỡ để thói sơ hoang ngoái lại?



Trần Quang Diệu

Thứ Ba, 10 tháng 3, 2015

Tình Yêu Phải Chăng Có Thể Cân Đo Bằng Sự Chết? Hay Bằng Sự Sợ hãi?



N g u    Y ê n


Tình Yêu Phải Chăng Có Thể Cân Đo Bằng Sự Chết? Hay Bằng Sự Sợ hãi?

- Nếu có lúc nào, em nói, sẽ không còn yêu anh nữa, xin em nói hôm nay, khi anh còn đủ sức chịu đựng.
Chàng vừa dứt lời, nàng chồm lên quấn quít. Lột trần khoái lạc trên thân chàng. Run rẩy cành trụi lá. Hừng hực nắng chiều đông.
Rồi nàng ôm lấy đầu chàng, hoan lạc, khởi sự cắn.
Chàng im lặng, hoan lạc, mất dần. Chẳng bao lâu, chỉ còn chiếc cổ, gọn gàng. Thân xác run lên vì mất đầu. Máu vẫn còn nóng hổi.
Đó là chuyện tình, Yêu tận cùng sự chết của loài bọ ngựa.
Anh muốn được yêu em như vậy.
Anh xin giữ chiếc đầu nhưng thế bằng linh hồn. Em hãy ăn đi.
Em biết không, linh hồn là rào cản tình yêu. Nó vì đời sau nên chẳng dám làm gì đời nay. Nó vì lời hứa suông từ Trời im lặng mà không dám yêu nhau hết lòng. Từ nay, anh không còn linh hồn để sợ hãi.
Địa ngục hay thiên đàng, anh không thể đến.
Em đến nơi nào, xin mang anh theo.


Nói Sao Cho Đủ Tình Anh

Tình anh cho em, không thể viết bằng lời, nếu không viết bằng máu, phải viết bằng chữ vô hình.
Có lẽ, chỉ người chết mới hiểu điều anh nói.
Tình anh cho em, thao thức như sao trời, không bao giờ lặn mất, dù trưa nắng, dù đêm giống tố hoặc mây mù, vẫn lấp lánh trên cao.
Tình anh cho em, nhiều đến nổi anh không biết lấy từ đâu ra, ngoài trừ hố thi ca sâu thẳm.
Anh muốn được cột chặt vào em, suốt đêm ngày, suốt tháng năm, cho đến lúc chôn chung.
Anh muốn đóng vào em như đóng đinh. Muốn cắm vào em như cắm sào giữa dòng đời sôi động, giữ con đò bình thản đậu ước mơ. Muốn dính vào em như thạch cao dính vào nhau khi thành tượng.
Mùa hè anh sẽ nằm lên em che lấy nắng mưa.  Mùa đông anh sẽ nằm dưới em cho ấm áp. Anh sẽ ăn thực phẩm từ miệng em, sẽ uống nước từ lưỡi em, và sẽ thở theo đôi vú phập phồng.
Như một người thợ chí tình nhồi bánh dẻo hoặc người mù mò ngọc trai trên cồn cát mịn màng, đêm đêm, anh xoa bóp khắp người em để tìm xem bí mật ở đâu, chưa tìm thấy đã đưa em vào giấc ngủ.
Nói như vậy vẫn chưa đủ tình anh cho em
vốn không thể viết bằng lời
không chắc viết được bằng máu
chỉ có thể viết bởi người chết bằng chữ vô hình.

Ngu Yên

Con Quỷ Vô Thường





Đào Văn Bình


Trong thế giới này, trong vũ trụ này hoặc trong muôn ngàn vạn ức thế giới, có một con quỷ – không biết dung mạo của nó ra sao, nó bao nhiêu tuổi, nhưng quyền năng của nó thật ghê gớm. Đó là Con Quỷ Vô Thường:

- Nó làm cho muôn vật không đứng yên một chỗ mà phải biến đối.

- Nó làm cho vạn pháp phải hoại diệt. Thánh thần, dù thần linh tối cao, tối thượng, mầu nhiệm nó cũng không tha.

- Nó làm cho mái tóc xanh của con người phải bạc đi.

- Nó làm cho thân hình đẹp đẽ tráng kiện, hấp dẫn kia phải lọm khọm, đôi môi xinh xắn phải héo tàn. Giọng nói, giọng hát trong trẻo phải thều thào. Làn da mịn màng phải khô như gốc củi.

- Nó làm cho đóa hoa sớm nở tối tàn.

- Nó làm cho lâu đài tráng lệ kia lần hồi hoang phế, mục nát. Biển cả hóa cồn dâu.

- Nó làm cho yêu trở thành ghét. Ghét trở thành yêu. Đen trở thành trắng. Đúng trở thành sai. Bạn trở thành thù. Thù trở thành bạn…không có gì vĩnh cửu cả.

- Nó làm cho giàu sang bỗng trở nên tay trắng. Quyền thế bỗng trở thành tội phạm. Thánh thiện, linh thiênng bỗng trở thành kẻ thương luân bại lý, khiến cuộc đời này giống như một bãi hý trường.

- Nó làm cho đời ta giống như một giấc mộng. Có đó rồi mất đó.

- Cả cái giải Thiên Hà với hàng tỉ, tỉ ngôi sao kia nó cũng làm cho chuyển động không ngừng, mở rộng rồi co vào, rồi nổ tung (Big Bang), rồi văng đi vạn nẻo rồi lại co vào rồi lại nổ tung…giống như một trò vui chơi bất tận.

- Nó làm cho những tụ hội kiêu sa, yến tiệc linh đình, hội họp “thượng đỉnh” phút chốc tan biến đâu mất rồi chỉ còn lại những khắc khoải, lo âu, toan tính và mệt nhọc, đôi khi lại chia rẽ nhau.

- Làm sao chúng ta có thể lấy lại được những gì trong cuộc sống của ngày hôm qua? Chúng ta có thể lưu lại phần nào đó qua những tấm hình, trong băng nhựa, trong các đĩa ép (CD) nhưng rồi Con Quỷ Vô Thường cũng sẽ làm cho những tấm hình trở nên hoen ố, các đĩa ép rồi cũng sẽ vỡ vụn. Chúng ta cũng có thể lưu những thứ đó vào trong máy điện tử nhưng rồi Con Quỷ Vô Thường lại gửi Virus tới lấy đi tất cả. Thật là quái ác!

- Làm sao chúng ta có thể tìm lại những cảm xúc ngọt ngào, những lời nói du dương, những phút giây hạnh phúc của ngày hôm qua? Chúng ta có thể vận dụng trí nhớ nhưng rồi với tuổi đời chồng chất, Con Quỷ Vô Thường cũng sẽ làm cho trí nhớ của chúng ta mòn mỏi. Rồi nó lại “thân tặng” chúng ta căn bệnh Parkinson làm chúng ta mất luôn hoặc trở nên lú lẫn.

Ôi Con Quỷ Vô Thường, nó thật ác độc! Nó là kẻ thù hạnh phúc của con người. Nó làm cho chúng ta đau khổ nhưng hầu như trong chúng ta ít người biết đến nó.

Bạn ơi!

Chúng ta đã coi thường “quyền năng” của Con Quỷ Vô Thường khi chúng ta cho rằng, nghĩ rằng, tin rằng cuộc đời này vĩnh cửu, thế giới này vĩnh cửu, niềm tin này bất diệt, tử tưởng này bất biến, giá trị này muôn đời bền vững, sức mạnh này muôn năm trường trị, tình yêu này bất tử…




Bạn ơi!

Bạn sẽ vô cùng đau khổ khi bạn chống lại Con Quỷ Vô Thường. Bởi nó là một quyền năng vượt lên trên tất cả mọi quyền năng khác. Chúng ta có thể nói rằng không một quyền năng nào có thể chống lại Quyền Năng Vô Thường.

Vậy thì hãy đi với nó. Hãy vui chơi và thuận thảo với nó. Hãy là chính nó. Khi đó chúng ta sẽ mạnh mẽ bảo Con Quỷ Vô Thường rằng:

- Ông ơi, xin ông đi chỗ khác kiếm ăn đi. Tôi có chấp trước gì đâu mà ông đòi hủy diệt? Tôi có lưu giữ gì đâu mà ông đòi lấy đi? Tôi đã biết thế giới này là huyễn hóa thì chuyện ông làm có gì lạ đâu? Cả cái thân tôi đây do “Tứ Đại giả hợp mà thành” (*) tôi biết từ lâu rồi. Nó có mất đi thì cũng là chuyện quá thường. Xin ông đừng hù dọa tôi. Cả cái đồng tiền mà tôi đang cầm trong tay đây cũng chỉ là “tín dụng” – tin mà dùng. Khi niềm tin mất thì nó sẽ trở thành giấy lộn, quăng ngoài đường không ai thèm nhặt. Vậy thì Có – Không, Được – Mất cũng vậy thôi. Luật vô thường tôi nắm trong tay đây này.

Nghe bạn nói như thế, Con Quỷ Vô Thường sẽ trở nên bất lực và kính cẩn chào bạn.

Bạn ơi!

- Tâm hồn bạn sẽ thanh thoát, nhẹ nhàng khi bạn hiểu được lẽ vô thường.

- Bạn sẽ quên được những nhọc nhằn, cay đắng hoặc bất lực của cuộc đời khi bạn hiểu được rằng đời này vốn ảo ảnh, vô thường.

- Bạn sẽ không còn nuối tiếc bất cứ một cái gì khi bạn hiểu rằng thật sự ra trên cõi đời này không có gì đích thực là của bạn. Cho dù nó đích thực là của bạn đi nữa rồi thì nó cũng sẽ vô thường. Có đó rồi mất đó.

- Bạn sẽ ung dung, tự tại trước bao đổi thay, hưng – phế, còn – mất, được – thua, đúng – sai đang diễn ra trước mắt.

- Bạn cho rằng cái này Đúng, cái này là Chân Lý ư? Bạn có biết không? Cái hiểu biết của chúng vốn vô thường nhưng rồi chúng ta lại dùng cái hiểu biết vô thường đó để nhận xét về một cái vô thường khác – như như Đức Phật dạy rằng “vì con mắt bệnh cho nên thấy hoa đốm ở hư không, thấy mặt trăng thứ hai” (*) nó cũng giống như “một người cho rằng cảnh vật trong giấc chiêm bao là thật.” (*). Vì vọng chấp vào đó cho nên Con Quỷ Vô Thường mới làm khổ chúng ta. Vậy thì suy nghĩ cho cùng – cái “quyền năng” của Con Quỷ Vô Thường do chính cái tâm vọng chấp của chúng sinh tạo ra. Nói khác đi chính Vô Minh đã tạo ra Con Quỷ Vô Thường.

- Chư Phật, chư vị Bồ Tát vượt lên lẽ vô thường vì các ngài thường quán chiếu lẽ vô thường, không chấp trước vào đâu, không nương tựa vào đâu cho nên các ngài hằng trụ, không biến đối.

- Hằng trụ, không biến đổi tức không Sinh không Diệt. Không Sinh không Diệt tức không phiền não.

Không phiền não tức hạnh phúc, tức Niết Bàn.

Bạn ơi! Vượt lên trên lẽ Vô Thường chính là Chân Như, Bồ Đề, là Phật vậy.

Thứ Hai, 9 tháng 3, 2015

Tam Đoạn Luận - Khi Nào Đúng và Khi Nào Sai?






Lý Thái




Trong các bài đối thoại, người ta thường vấp phải những lỗi lầm rất quan trọng và căn bản trong phương pháp lý luận, đưa đên những lý đoán sai lầm mà người đọc thường không để ý. Một trong những hình thức suy luận dễ nhận dạng nhất, là phép tam đoạn luận. Xin cống hiến các bạn một bài phân tích đơn giản, hy vọng có thể giúp người đọc đánh giá một luận cứ, từ mỗi phần tử của mệnh đề đâu tiên, cho đến cấu trúc của mệnh đề tiếp theo trong phép suy luận này.

Tam đoạn luận là một cấu trúc lập luận bao gồm 2 mệnh đề (đại tiền đề và tiểu tiền đề), và một kết luận là kết quả của 2 tiền đề. Đó là một hình thức lý luận trong đó kết luận được rút ra (dù hợp lý hay không) từ hai mệnh đề giả định, mà mỗi mệnh đề đó đều chia sẻ một cụm từ trong kết luận.

Đương nhiên, điều kiện căn bản trước tiên là mỗi tiền đề phải đúng một cách riêng rẻ. Còn kết luận có thể đúng hay sai tùy theo bản chất có tính cách toán học sẽ trình bày sau.

Nếu kết luận của lập luận là chắc chắn, nghĩa là đi tới một kết luận trong mọi trường hợp, lập luận được xem là đúng (có hiệu lực). Ngược lại, nếu có trường hợp mà kết luận không thể đạt được, thì lập luận đó sai (không hiệu lực).



1. Người ta có thể lập vô số tam đoạn luận, nhưng chỉ có 256 loại khác biệt và chỉ có 24 loại hợp lệ, tức có hiệu lực (xem http://en.wikipedia.org/wiki/Syllogism nếu muốn biết tất cả 24 loại này). Một tam đoạn luận tiêu biểu có dạng:

- Một đại tiền đề: Tất cả B nằm trong A

- Một tiểu tiền đề: Tất cả C nằm trong B

- Kết luận: C nằm trong A

Một trong những ví dụ kinh điển về phép tam đoạn luận có hiệu lực làtam đoạn luận của Aristotle như sau:

a. Mọi người đều chết. (đại tiền đề)

b. Socrates là người. (tiểu tiền đề)

c. Do đó, Socrate cũng chết. (kết luận)

Có những tiền đề chỉ là một sự so sánh.

Thí dụ 1:

- Tý bé hơn Hợi,

- Sửu bé hơn Tý

- Vậy Sửu cũng bé hơn Hợi

Thí dụ 2:

- Thầy X khó hơn thầy Y

- Cô Z khó hơn thầy X

- Vậy Cô Z cũng khó hơn thầy Y



2. Trường hợp phép tam đoạn luận không hiệu lực, kết quả sai.

- Có nhiều trường hợp, cả hai mệnh đề đều đúng, nhưng kết luận rút ra từ hai mệnh đề thì sai. Thí dụ trường hợp sau đây được diễn tả trong hình bên.


a. Mọi loài chim đều có chân (đại tiền đề)

b. Loài người cũng có chân (tiểu tiền đề)

Hai mệnh đề trên đều đúng, nhưng không thể gom lại một kết luận như trong câu thứ ba:

c. Vậy có phải: loài người đều là loài chim không? Dĩ nhiên là không. Đây là một kết hợp không đúng.

- Cũng có trường hợp không thể lập tam đoạn luận, vì hai tiền đề không có những chi tiết liên quan với nhau.

3. Cách nhận diện Tam Đoạn Luận đúng.

Thật ra, cũng không khó để nhận ra lập luận đúng hay sai nếu chịu khó phân tích câu tiền đề để thiết lập một quan hệ của các phần tử trong đó. Mỗi phần tử có thể được biểu hiện bằng một tập hợp. Mỗi tiền đề sẽ được biểu diễn bằng một tập hợp lớn (tập hợp chứa) và tập hợp nhỏ hay tập hợp con.

Thí dụ dễ hiểu hơn, như một Chương sách là một tập hợp con nằm trong một tập hợp lớn hơn, Quyển sách, bao hàm tập hợp con là Chương; và tập hợp Chương là tập hợp lớn hơn trang chẳng hạn, bao hàm tập hợp trang. Quan hệ như thế được gọi là quan hệ bao hàm.



Trong một đại tiền đề, nếu mọi phần tử của B đều nằm trong C, nghĩa là: ● B là tập hợp con của C (hay B được chứa trong C) ● A là tập hợp con của B (B chứa A). Kết luận: C chứa luôn A, hay A nằm trong C.

Trong thí dụ của Aristole ở trên:

- Mọi người đều chết. (B= mọi người; C=chết) Vì những loài khác cũng chết, nghĩa là sự "chết" bao gồm cả "mọi người".

- Ở tiền đề thứ nhì, Socrates là người. (A=Socrate, nằm trong tập hợp B="người") tức Socrate chỉ là một người trong tập hợp cả tỉ người trên trái đất.

- Vậy đương nhiên Socrate (A) cũng được chứa luôn trong tập hợp C ở trên, nghĩa là tập hợp "chết". Và do đó, câu thứ ba (Socrate cũng chết) là kết luận hợp lý.

Nhắc lại, điều kiện lý tưởng của tiểu tiền đề là mọi phần tử của A cũng là phần tử của B, nghĩa là: B chứa A. Trong khi ở đại tiền đề, mọi phần tử của B cũng là phần tử của C, nghĩa là: C chứa B., thì kết luận sẽ bảo đảm tính hiệu lực của tam đoạn luận (kết luận: A cũng nằm trong C ).



Nhưng nếu tiểu tiền đề thiết lập để tập hợp A nằm trong tập hợp C, nhưng lại không nằm trong tập hợp B, thì ta không thể kết luận gì hơn nữa. Nếu kết luận thì sẽ đi đến chỗ vô lý, hàm hồ.

Trở lại thí dụ tam đoạn luận không hiệu lực ở mục 2. bên trên, xem hai tiền đề:

a. Mọi loài chim đều có chân (B=loài chim; C=có hai chân)

b. Loài người cũng có chân (A=loài ngườii; C=có hai chân)

Vậy A và B không có liên hệ bao hàm nào cả. "loài người" và "loài chim" không có liên hệ trong lý luận ở các tiền đề, nên không thể thiết lập câu kết luận.

Và do đó, không thể thiết lập câu kết cho tam đoạn luận có hiệu lực.

3. Những trường hợp phức tạp,

Trên đây là những trường hợp các tập hợp trong tiền đề bao hàm trọn tập hợp. Có nhiều tập hợp cắt chéo lên nhau chứ không bao hàm trọn trong nhau. (xem http://en.wikipedia.org/wiki/Syllogism liệt kê 24 mô hình tam đoạn luận)

Đó là chưa kể mỗi câu tiền đề có thể đã sai ngay trong bản thân nó.

. Thí dụ trong hình vẽ bên,




Các tiền đề :

- Một số động vật không phải là con mèo.
- Tất cả những con voi là mèo.
- Không có con Kangaroo nào là loài động vật.

Kết luận?
1. Một số động vật không phải là con voi không phải là con chuột túi.

2. Một số mèo không phải Kangaroos


Những câu kêt luận rút ra từ các vùng cắt nhau do trùng khớp, hoặc loại bỏ, rất phức tạp. Nếu không nắm vững khái niệm về tập hợp, có thể đi đến kết luận sai lầm rát dễ dàng.

4. Trường hợp không thể thành lập Tam Đoạn Luận.

- Lại cũng có những tiền đề không thể thiếp lập tương quan trong Tam Đoạn Luận, vì không thể diễn tả bằng tập hợp bao hàm trong mỗi tiền đề.

Thí dụ 1, trường hợp chọn lựa:

- Giữa hai anh A và B, tôi thích anh B hơn.

- Cha mẹ tôi lại thích anh A.

- Vậy thì sao? Chỉ có thể nói rằng "cha mẹ tôi" và "tôi" có sở thích khác nhau. Không thể rút ra kết luận ai đúng, ai sai cả.

Thí dụ 2, trường hợp khác khái niệm:

- đại tiền đề: Nếu cho tôi chọn giữa hai màu "đen, trắng", tôi chọn màu trắng.

- tiểu tiền đề: Tôi mặc áo màu đen.

- Vậy thì sao? Có thể vì tôi không có sự chọn lựa khác, vì tôi tìm ở chợ không thấy bán áo màu trắng. Có thể vì màu đen thích hợp cho việc làm lam lũ của tôi. Không thể nói tôi mặc màu đen nên tôi xấu. Việc tôi thích, và việc tôi mặc là hai chuyện khác nhau. Hơn nữa, màu đen có thể xấu theo quan niệm màu sắc của tôi, nhưng tôi không thể phán đoán người xấu hay tốt khi mặc một màu nào đó.

4.a Đổi câu tiểu tiền đề, có thể dùng tam đoạn luận

Trong thí dụ 2 ở trên, câu đại tiền đề giữ nguyên, và câu tiểu tiền đề được đổi lại:

- Nếu cho tôi chọn giữa hai màu "đen, trắng", tôi chọn màu trắng.

- Nếu cho tôi chọn giữa hai màu trắng và xám, tôi sẽ chọn màu xám.

- Vậy kết luận: tôi thích màu xám nhất trong ba màu trắng đen và xám.

Mong rằng từng ấy trường hợp đơn giản nhất trong phép suy luận khả dĩ có thể giúp các bạn tìm hiểu xem trường hợp nào có thể và trường hợp nào không thể đưa đến kết luận. Hơn nữa, từ khái niệm trên bạn có thể suy ra kết luận có đúng hay không.

Nếu thấy bài viết này có gì sai sót, xin bạn đọc bổ túc bằng thư, nhờ tòa soạn: sachhiem@sachhiem.net chuyển. Rất cám ơn.

Lý Thái

___________

Tham khảo:

1. Syllogism

2. Basics on Syllogism

3. Syllogistic Reasoning