" Cả cuộc đời ba không có gì để lại cho các con ngoài số vốn kiến thức mà ba mẹ tảo tần nuôi các con ăn học.Mong các con trở thành những người hữu ích cho xã hội" ( trích từ TT "Vững Niềm Tin")
Thứ Tư, 26 tháng 11, 2014
Cái chết, Phật giáo và chủ nghĩa hiện sinh trong nhạc Trịnh Công Sơn
John C. Schafer
Đôi nét về tác giả
John C. Schafer là giáo sư emeritus, khoa Anh ngữ, Đại học Humboldt, Hoa Kỳ. Ông đã dạy Anh ngữ tại Việt Nam theo Chương trình Tình nguyện Quốc tế (1968-1970) và Chương trình Fullbright (1971-1973, 2001).
Trích yếu
Đã có rất nhiều lời giải thích về sự nổi tiếng của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn qua những đề tài như: ca từ đầy chất thơ, khác với dòng nhạc tiền chiến, mang chủ đề phản chiến, cả việc ông đã khám phá ra những tiếng hát nữ tài năng, và còn nhiều điều khác nữa. Nhưng chủ đề Phật giáo trong những bài hát của ông lại rất ít khi được nhắc đến, phải chăng, đây là điều những học giả Việt Nam cho là hiển nhiên. Bài viết này nói đến chủ đề Phật giáo trong nhạc Trịnh và chứng minh rằng chủ đề này góp phần vào việc giải thích hiện tượng Trịnh Công Sơn. Ngoài ra, bài viết này cũng đề cập đến chủ nghĩa hiện sinh Âu châu, là điều mà tác giả bài viết cho rằng đã thu hút Trịnh Công Sơn nhưng không có ảnh hưởng lớn đến những sáng tác của ông.
Trong thời gian chiến tranh (ở Việt Nam), tôi dạy Anh ngữ tại miền Nam Việt Nam và trở thành một người hâm mộ ca/nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Vào những năm cuối thập niên 1960 và đầu 1970, ở các thành thị miền Nam, mọi người, đặc biệt giới sinh viên, đều nghe và hát nhạc Trịnh – họ hát những bài hát như “Gia tài của mẹ”, “Tình ca người mất trí”, và “Đại bác ru đêm”. [1] Với những người trẻ mà tôi đã được biết trong cuộc chiến, các bài hát này là “thánh ca”, chúng thể hiện lòng khát khao hoà bình và tình yêu quê hương của họ.
Sau năm 1975, Trịnh Công Sơn ở lại Việt Nam, và tiếp tục sáng tác. Đã có một thời, chính quyền cộng sản e ngại ông: họ không chấp nhận thái độ phản chiến của ông, vì ông lên tiếng chống lại mọi hình thức chiến tranh kể cả chiến tranh kháng chiến của họ. Hiện nay, những bài hát phản chiến của ông vẫn không được cho hát và phổ biến tại Việt Nam. [2] Ngày 1 tháng 4 năm 2001, ông qua đời; tôi có dịp ở Việt Nam và khi được chứng kiến tình cảm và sự tiếc thương của mọi người trước sự ra đi của ông, tôi bắt đầu quan tâm đến những lý do vì sao ông lại quá nổi tiếng như vậy. Tôi nghiên cứu về những điều này trong một bài viết khác. [3] Riêng trong bài viết này, tôi chú trọng hơn về triết lý sống của Trịnh Công Sơn.
Những người biết nhạc Trịnh Công Sơn có thể sẽ khó chấp nhận cụm từ “triết lý sống.” Nhiều sáng tác của ông mang những hình ảnh siêu thực, ca từ lạ và không theo quy tắc. Có thể, chúng ta sẽ phải hỏi rằng, làm sao những sáng tác như vậy lại được coi là những lý luận triết học? Mặc dù các bài hát của ông có những đặc điểm vừa nêu trên, tôi vẫn nghĩ rằng, trước sau như một, chúng mang một triết lý khá kiên định. Trịnh Công Sơn đã từng theo học triết học tại một trường trung học của Pháp ở Sài Gòn, và ông từng nói rằng ông “vốn thích triết học và vì thế [ông] muốn đưa triết học vào ca khúc của minh, một thứ triết học nhẹ nhàng mà ai ai cũng có thể hiểu được.” [4] Trong bài viết này, tôi sẽ miêu tả cái triết lý “nhẹ nhàng” đó và sẽ chứng minh rằng triết lý này chính là triết lý Phật Giáo, và cũng phần nào liên hệ đến chủ nghĩa hiện sinh Âu châu, một triết lý đã mê hoặc Trịnh Công Sơn và giới trí thức miền Nam trong những năm cuối thập niên 1950, đầu thập niên 1960.
“Triết lý nhẹ nhàng” của Trịnh Công Sơn
Triết lý của Trịnh Công Sơn, qua những sáng tác của ông, dựa trên nhận thức rằng cuộc sống tuy có những niềm vui, nhưng cũng đầy những u buồn. Trong bài “Gọi tên bốn mùa”, ông thốt lên rằng “Tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người.” Trong bài này và một số bài khác, ông miêu tả tuổi trẻ, nhất là những năm tháng của tuổi đôi mươi, là thời gian đặc biệt buồn bã của cuộc đời. Trong bài “Nhìn những mùa thu đi”, ông hát:
Nhìn những mùa thu đi
Tay trơn buồn ôm nuối tiếc
Nghe gió lạnh về đêm
Hai mươi sầu dâng mắt biếc
Thương cho người rồi lạnh lùng riêng
Đời sống đầy u buồn vì nó tạm bợ. Tất cả - chim trời, hoa lá, niềm vui, những cuộc tình, và chính đời sống mỗi con người – chỉ là những điều tạm bợ, phù du như sương mù. Trong bài “Ở trọ”, Trịnh Công Sơn nhấn mạnh rằng, vạn vật chỉ là kẻ ở trọ nơi cõi trần:
Con chim ở đậu cành tre
Con cá ở trọ trong khe nước nguồn
Tôi nay ở trọ trần gian
Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời
Trong một số bài hát của Trịnh Công Sơn, tình yêu chính là nơi nương náu quyến rũ của con người ở cõi thế u buồn này. Nhưng vì tình yêu, cũng như vạn vật, chỉ là tạm bợ nên tình yêu không phải là nơi nương náu vững vàng cho mỗi người. Tình yêu tuyệt đẹp nhưng phù du, là chủ đề được tìm thấy trong nhiều bài hát của Trịnh Công Sơn. Ví dụ, trong bài “Đóa hoa vô thường”, ông hát về những giai đoạn của một cuộc tình – niềm vui khi tình yêu chớm nở và sau đó là một kết cuộc buồn không thể tránh khỏi:
Từ đó ta nằm đau
Ôi núi cũng như đèo
Một chút vô thường theo
Từng phút cao giờ sâu
Từ đó ta ngồi mê
Để thấy trên đường xa
Một chuyến xe tựa như
Vừa đến nơi chia lìa
Hoàng Phủ Ngọc Tường, một người bạn của Trịnh Công Sơn, cho rằng các bài tình ca của Trịnh Công Sơn là những lời khẳng định siêu hình rằng những chia lìa, tan vỡ của những cuộc tình không phải là những chướng ngại trên đường đời vốn cơ bản là vui. Theo Hoàng Phủ Ngọc Tường, những bài hát đó là “bài kinh cầu bên vực thẳm.” [5] Nhà thơ Xuân Diệu đã từng nói, “Yêu là chết ở trong lòng một ít”; đây là câu thơ mà tất cả những sinh viên đại học tôi dạy hồi chiến tranh đều biết. [6] Sự chia lìa không tránh được trong tình ca Trịnh Công Sơn là những cái chết, là sự chuẩn bị chuyến ra đi cuối cùng khỏi kiếp này của người tình và của chính mình. Chúng gợi nhắc ta về cõi tạm. Trong những bài hát của Trịnh Công Sơn, cái chết, chuyến ra đi cuối cùng, không bao giờ là điều xa xôi. Trong một số bài hát, ông nói đến cái chết của chính mình, [7] như trong bài “Bên đời hiu quạnh”:
Một lần nằm mơ tôi thấy tôi qua đời
Dù thật lệ rơi lòng không buồn mấy
Giật mình tỉnh ra ồ nắng lên rồi
Trong các bài khác, ông nói đến cái chết một cách mơ hồ hơn – như là hành trình về “nơi cuối trời.” [8] Dù bằng hình ảnh nào đi nữa, nhạc Trịnh Công Sơn luôn hướng đến sự vĩnh hằng, như trong bài hát với tựa đề “Lời thiên thu gọi”:
Về chân núi thăm nấm mồ
Giữa đường trưa có tôi bơ vơ
Chợt tôi thấy thiên thu
Là một đường không bến bờ
Và trong bài “Còn có bao ngày”, ông hát:
Đêm ta nằm nghe tiếng trăm năm
Gọi thì thầm, gọi thì thầm, gọi thì thầm
Triết lý nhẹ nhàng của Trịnh Công Sơn còn bao gồm cả vũ trụ học. Có hai thế giới: một thế giới thực, là “trần gian” hay “nhân gian”, và một thế giới phi thực, là “thiên thu”, “đất muôn đời”, “thiên đàng” hay “vườn địa đàng”. Nhưng thế giới thực luôn hoà lẫn với cái thế giới phi thực, cho nên thế giới của nhạc Trịnh Công Sơn là nơi mà Bùi Vĩnh Phúc gọi là thế giới “nhoè nhạt” hay “lai”,[9] là chốn giữa thực và siêu thực; một thế giới mà trong bài “Đời cho ta thế”, Trịnh Công Sơn đã hát rằng “Không xa trời và cũng không xa phận người”. Cái mờ ảo giữa thực và phi thực, có thể được coi là cõi mờ ảo giữa sự sống và sự chết, giữa thực thể trần gian và chốn vĩnh hằng bao trùm khắp và là sự pha trộn của những hình ảnh đối lập quan trọng nhất trong nhạc Trịnh Công Sơn.
Nhưng còn có những mờ ảo khác, thường trong cùng một dòng. Theo Cao Huy Thuần, nhạc Trịnh Công Sơn thường có một thoáng của cái này trong cái kia và ngược lại: “Một chút xuôi trong ngược. Trăm năm trong xuân thì. Chân như trong hạt lệ.” [10] Nhiều câu chữ có cấu trúc song song, một hệ thống thường được dùng để trung hoà những điều đối nghịch, lại được Trịnh Công Sơn dùng đến, không phải để phân biệt và đối lập các giá trị và phạm trù, mà ngược lại, để làm nhoè và mờ đi, một nghệ thuật Cao Huy Thuần gọi là “đối hợp.” [11] Ví dụ: “Tình không xa nhưng không thật gần”, “Không xa đời và cũng không xa mộ người”, và “Một phố hồng, một phố hư không”. [12]
Tuy cấu trúc không song song, nhưng có những câu nhạc của Trịnh Công Sơn hiển nhiên không muốn phân biệt chất lượng cũng như phạm trù: “Có chút lệ nhoà trong phút hôn nhau” và “Tình ngỡ đã phôi pha nhưng tình vẫn còn đầy”. [13]
Nhạc Trịnh Công Sơn cho ta hình ảnh một người đi xuyên suốt một thế giới nửa hư nửa thực. Người ấy mệt mỏi và buồn bã. Dù biết ơn cuộc đời này, đặc biệt là tình yêu, ông [14] vẫn không hoàn toàn thuộc về chốn nhân gian này; trong một số bài hát, ông nhắc đến mình như kẻ lưu đày. [15] Vậy con người này sẽ đi về đâu? Và ông đang ra đi, hay đang trở về? Ông ra đi từ trần gian này, hay đang trở về từ một chốn nào khác? Kẻ lữ hành đó không thể trả lời những câu hỏi này. Trong bài “Có một ngày như thế”, ông hát:
Có một ngày… có một ngày như thế
Anh đi… Anh đi đâu?… về đâu?
Và trong bài “Tiến thoái lưỡng nan” ông hát:
Tiến thoái lưỡng nan
Đi về lận đận
Ngày xưa lận đận
Không biết về đâu
Về đâu cuối ngõ?
Về đâu cuối trời?
Xa xăm tôi ngồi
Tôi tìm lại tôi
Trong nhiều bài khác, ông lại hát lên nỗi nhớ nhà:
Nhiều đêm muốn quay về ngồi yên dưới mái nhà
“Lời thiên thu gọi”
Một lần chợt nghe quê quán tôi xưa
Giọng người gọi tôi nghe tiếng rất nhu mì
“Bên đời hiu quạnh”
Nhiều khi bỗng như trẻ nhớ nhà
Từ những phố kia tôi về
“Đêm thấy ta là thác đổ”
Nhưng khi nhắc đến “nhà”, “quê nhà” và “quê quán”, vậy ông đang nhắc đến quê quán của mình, hay đang nói nơi yên nghỉ cuối cùng của mình – cái chết, sự vĩnh hằng? Về điểm này, ông có vẻ cũng không rõ – như trong bài “Tiến thoái lưỡng nan”, rằng ông đang đi về “cuối ngõ” nơi quê nhà hay về “cuối trời” của cõi vĩnh hằng. Trong bài hát “Một cõi đi về” [16] rất nổi tiếng của ông, Trịnh Công Sơn viết “Chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà”, và vì vậy người nhạc sĩ cứ mãi loanh quanh:
Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt
Rọi xuống trăm năm một cõi đi về
Những ảnh hưởng của Phật giáo
Như hầu hết các triết lý khác, “triết lý nhẹ nhàng” của nhạc Trịnh Công Sơn để lại cho chúng ta rất nhiều thắc mắc. Tuy vậy, triết lý của Trịnh Công Sơn và những sáng tác của ông, thật ra không khó hiểu như khi vừa tiếp cận, một khi chúng ta nhìn chúng từ tư tưởng Phật giáo. Hiển nhiên, biết thêm về cuộc đời của người nhạc sĩ này cũng phần nào giúp chúng ta hiểu thêm.
Trịnh Công Sơn đã trải qua thời thơ ấu gắn liền với cuộc chiến thứ nhất và trưởng thành trong thời gian xảy ra cuộc chiến thứ hai ở Đông Dương; một trải nghiệm chắc chắn đã giúp ông thấy rằng thế giới này ngập tràn những khổ đau và sự sống rất mong manh. Cha ông tham gia kháng chiến và đã bị bỏ tù ở Buôn Ma Thuột; năm 1949, khi mới lên mười, Trịnh Công Sơn đã phải sống với cha ông một năm trong Lao Thừa Phủ. Năm năm sau, cha ông qua đời trong một tai nạn xe trên đường từ Quảng Trị về nhà ở Huế. [17] Trong một cuộc trả lời phỏng vấn, Trịnh Công Sơn có lần đã nói rằng từ những năm của thời thơ ấu mãi đến tận bây giờ (1998), với ông, cái chết vẫn luôn là “ám ảnh lớn nhất” và cho rằng “biên giới giữa cái chết và cái sống hình như chỉ là một sợi tóc mong manh.” [18] Nhiều tác giả khác đã viết rất nhiều bài về thời thơ ấu và những trải nghiệm chiến tranh của ông, [19] nên ở đây, tôi sẽ chỉ tập trung nói về những ảnh hưởng của Phật giáo và chủ nghĩa hiện sinh.
Sau khi ông qua đời, trong rất nhiều những bài viết về Trịnh Công Sơn, người ta thường nhắc qua về ảnh hưởng của Phật giáo trong các sáng tác của ông. [20] Những người say mê Trịnh Công Sơn thường không đi sâu vào những ảnh hưởng này, theo tôi, là vì trong một nền văn hoá vốn đã quá thấm nhuần tư tưởng Phật giáo như ở Việt Nam, những người viết về Trịnh Công Sơn tự thấy không cần thiết phải đi sâu vào chủ đề này thêm nữa. Tuy vậy, trong những lần trả lời phỏng vấn, chính Trịnh Công Sơn thỉnh thoảng đã nhắc đến những ảnh hưởng của Huế, quê hương ông, và của Phật giáo. “Huế và đạo Phật ảnh hưởng sâu đậm trên tình cảm thời thơ ấu của tôi”, ông đã nói với một người phỏng vấn ông như vậy. [21] Huế và Phật giáo gắn kết với tâm hồn của Trịnh Công Sơn cũng như nhiều người Việt Nam khác. Huế là đất của Phật giáo với rất nhiều chùa chiền. Tháng 5 năm 1963, khi những đại diện của vị Tổng thống theo đạo Công giáo Ngô Đình Diệm cấm Phật tử treo cờ mừng lễ Phật đản lần thứ 2527, nhiều người đã tập trung biểu tình hoà bình gần Đài phát thanh Huế. Một sĩ quan cảnh sát đã ra lệnh cho bắn vào đám đông biểu tình, giết chết một phụ nữ và tám trẻ em. Sự kiện này đã làm tăng những cuộc biểu tình của Phật tử và phần nào là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của chính quyền Ngô Đình Diệm. Huế cũng được biết đến với nhiều khu lăng tẩm vua chúa nằm ở những vùng yên lắng ở ngoại ô thành phố. Khi được hỏi về những ảnh hưởng của Huế, Trịnh Công Sơn đã nhắc đến những lăng tẩm – những cơn mưa dầm, và con đường mang tên “Âm hồn” ở Huế! Trịnh Công Sơn nói, “Tất cả những bài hát của tôi đều viết về Huế”; điều này cho thấy quê quán phần nào là nguyên nhân của nỗi buồn và ám ảnh về cái chết mà mọi người tìm thấy trong những bài hát của ông. [22]
Trong bài viết năm 2001 trên tờ Nguyệt san Giác Ngộ, Trịnh Công Sơn đã nói trực tiếp về những ảnh hưởng của Phật giáo đến cuộc đời và những sáng tác của ông:
Tôi là một Phật tử ở trong một gia đình có tôn giáo chính là Phật giáo. Từ những ngày còn trẻ, tôi đã học kinh và thuộc kinh Phật. Thuở bé tôi hay đến chùa vì thích sự yên tĩnh. Có những năm tháng nằm bệnh, đêm nào mẹ tôi cũng nhờ một thầy đến nhà tụng kinh cầu an và tôi thường đi vào giấc ngủ êm đềm giữa những câu kinh đó. Có thể vì một tuổi trẻ đã có cơ duyên đi qua những cổng nhà Phật nên trong vô thức, bên cạnh những di sản văn hoá Đông Tây góp nhặt được, còn có lời kinh kệ vô tình nằm ở đấy. [23]
Nhưng bằng chứng về những ảnh hưởng của Phật Giáo xuất hiện rõ nhất trong các bài hát của ông. Chân lý trước tiên của Phật giáo là “Đời là bể khổ.” [24] Một chân lý khác là tính tạm bợ của cõi nhân gian, đã được diễn đạt rõ ràng và thi vị trong Kim cương kinh (Kim cương bát nhã ba la mật kinh), một trong những bộ kinh quan trọng nhất của Phật giáo:
Tất cả các pháp hữu vi
Như cơn mộng, như ảo ảnh, như bọt nước, như bóng
Như sương mai, như ánh chớp
Nên nhìn nhận chúng như thế. [25]
Cả hai chân lý này – rằng đời sống là khổ đau và không có điều gì là vĩnh cửu – là hai điều chúng ta sẽ thấy được lặp đi lặp lại nhiều lần trong nhạc Trịnh Công Sơn. Hai điều này liên quan chặt chẽ với nhau: con người khổ đau vì không có điều gì vĩnh cửu. Peter Harvey cho rằng Phật giáo “chẳng những không khước từ hạnh phúc tồn tại ở cõi trần mà còn cung cấp nhiều cách để đạt thêm hạnh phúc nữa, nhưng cũng nhấn mạnh rằng, tất cả mọi hình thái của hạnh phúc đều không vĩnh cửu (trừ cõi niết bàn). Sớm muộn gì, những niềm hạnh phúc này rồi sẽ tuột khỏi tay của mỗi con người, và để lại những dư vị của mất mát và khao khát.” [26] Những “dư vị của mất mát và khao khát” đó rất rõ trong nhạc Trịnh Công Sơn, là bằng chứng cho thấy ông đã trăn trở để chấp nhận một chân lý khác rằng con đường để chấm dứt khổ đau là hãy bớt đi những si mê với cõi đời này. Điều này, Trịnh Công Sơn biết ông sẽ khó làm được, vì ông đã hát trong bài “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui” rằng “Đã yêu cuộc đời này bằng trái tim của tôi”. Điều này không có nghĩa rằng Trịnh Công Sơn cảm thấy mâu thuẫn giữa niềm tin vào Phật giáo và tình yêu của ông với cuộc đời. Ông đã từng nói, “Với tôi, Phật giáo là một triết học làm cho ta yêu đời hơn chứ không phải làm cho ta lãng quên cuộc sống”. [27] Nhưng Phật giáo cũng dạy về sự quan trọng của việc không quyến luyến, không bám víu vào những vui thú của cuộc đời. Trong một số bài hát, chúng ta thấy Trịnh Công Sơn đã trăn trở nhưng chưa thôi quyến luyến cuộc đời; trong những bài ông viết sau này – ví dụ như bài “Như một lời chia tay” [28] , ông sáng tác năm 1991, và bài “Tôi ơi đừng tuyệt vọng”, sáng tác năm 1992 – ông dường như đã sẵn sàng hơn để từ bỏ cõi này.
Cuộc sống là khổ đau. Mọi cái chỉ là tạm thời. Những quan niệm Phật giáo này đã thâm nhập vào sáng tác của Trịnh Công Sơn. Một quan niệm Phật giáo nữa, mà Trịnh Công Sơn không coi quan trọng bằng hai quan niệm trên, là thuyết luân hồi, rằng muôn vật sẽ được tái sinh làm kiếp khác, tuỳ theo nghiệp của họ ở cõi này. Trong những bài hát của mình, Trịnh Công Sơn như muốn nhắc đến một câu rất phổ thông trong Phật giáo: “Hiện tại là chiếc bóng của quá khứ, tương lai là chiếc bóng của hiện tại.” [29] Cao Huy Thuần nói rằng “Trịnh Công Sơn như vừa đứng ở hiện tại vừa linh cảm cùng trong một lúc quá khứ và tương lai. Anh như thấy tiền kiếp réo tên và cái chết vẫy gọi.” [30]
Trong bài “Cát bụi”, ông tự hỏi:
Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
Để một mai tôi về làm cát bụi?
Trong những bài hát khác, những ám chỉ về sự tái sinh phần nào đó gián tiếp hơn:
Những ngày ngồi rủ tóc âm u
Nghe tiền thân về chào tiếng lạ
“Cỏ xót xa đưa”
Ta thấy em trong tiền kiếp với cọng buồn cỏ khô
Ta thấy em đang ngồi khóc khi rừng chiều đổ mưa
“Rừng xưa đã khép”
Có những ai xa đời quay về lại
Về lại nơi cuối trời
Làm mây trôi
“Phôi Pha”
Quan niệm của Phật giáo về kiếp luân hồi giúp giải thích tại sao Trịnh Công Sơn thường không bao giờ nói đến sự ra đi mà lại không nhắc đến sự quay trở về, và ông luôn xoá nhoà sự khác biệt giữa hai hành động này, như trong bài “Phôi pha” ở trên. [31] Nếu cái chết là kết tủa của tái sinh, thì khi một người ra đi, cũng là lúc người đó đang trở về. Nhìn sự sống và cái chết từ khía cạnh này cũng giống như khi ta nhìn nước trong một dòng sông, và tự hỏi liệu ta nên nói nó đang trôi đi hay đang đến, một điều mà Trịnh Công Sơn đã nắm bắt được trong bài “Gần như niềm tuyệt vọng”:
Những ngàn xưa trôi đến bây giờ
Sông ra đi hay mới bước về
Khi nói về cái chết, Trịnh Công Sơn thường hay xoá nhoà giữa đi và về, vì trong Phật giáo, cuộc hành trình từ cái sống đến cái chết ví như dòng nước; nó là một quá trình luân chuyển nhẹ nhàng, khác với triết học Tây phương, nơi, như René Muller nói, “từ sống đến chết là một sự gián đoạn cay độc.” Và ông nói thêm rằng, điều này cũng đúng với ngay cả “những tín đồ Thiên Chúa vốn có niềm tin vào đời sau và sự sống muôn đời.” [32] Phật giáo dạy ta về cái chết với một thái độ khác. Các Phật tử tin rằng “không có một cá thể, một linh hồn hay một cái tôi vĩnh cửu nào ngoài quá trình biến chuyển không ngừng của tinh thần và vật chất, cái tạo nên sự tồn tại của chúng ta.” [33] Tuy vậy, theo lời dạy của Phật, một chút gì đó trong một sinh vật khi chết đi sẽ được tồn tại trong sinh vật đó sau khi tái sinh. Harvey giải thích như sau:
Mỗi con người trước tái sinh không giống và cũng không khác con người sau tái sinh. “Con người đó sẽ không giữ hoàn toàn bản tính cũ và cũng không khác hoàn toàn bản tính cũ.” [34] Không có một thực thể nào đi từ kiếp này đến kiếp khác mà không thay đổi, nhưng cái chết của một thực thể này dẫn đến cái sống của một thực thể khác, giống như thắp một ngọn nến này đến một ngọn nến khác.[35] … Người “kiếp trước” và người “kiếp sau” kết nối với nhau bởi dòng xoáy của ý thức và luật nhân quả, nên đặc tính của một kiếp này bắt nguồn từ những đặc tính của “kiếp khác”. [36]
Nếu con người trong vòng sinh-tử-tái sinh giữ được một số khía cạnh của tiền kiếp khi tái sinh, thì quá trình này có cả sự ra đi và sự trở về - “một cõi đi về”, như Trịnh Công Sơn đã đặt cho tựa đề một bài hát rất nổi tiếng của ông.
Trong bài “Ngẫu nhiên”, Trịnh Công Sơn cho rằng không thể phân tách giữa ra đi và trở về; ở đây, chúng ta có lẽ cũng thấy quan niệm của Phật giáo là con người không thể biết được vòng tái sinh bắt đầu từ đâu và bao giờ sẽ kết thúc:
Không có đâu em này, không có cái chết đầu tiên
Và có đâu bao giờ, đâu có cái chết sau cùng
Bởi vì không có sự khởi đầu hay kết thúc rõ ràng của vòng tái sinh, nên cũng rất khó phân biệt giữa ra đi và trở về. Vua Trần Nhân Tông (1279-1293), một Phật tử, đã viết bài thơ trong di chúc:
Hết thảy pháp không sinh
Hết thảy pháp không diệt
Nếu hay hiểu như vậy
Chư Phật thường trước mặt
Đến đi sao có đây [37]
Một giá trị Phật giáo sau cùng trong những sáng tác của Trịnh Công Sơn là những ca từ khó hiểu và phi lôgic. Hiển nhiên, bài hát không phải là lý luận của lý trí, mà là tiếng thổn thức của tấm lòng. Bằng việc không giải thích những ý nghĩa đơn giản, Trịnh Công Sơn để cho người nghe tự diễn đạt theo ý của riêng họ, và từ đó đồng hành với ông trong việc tạo ra ý nghĩa. Sự thiếu mạch lạc có chủ ý cũng phản ánh một xu hướng hiện đại chủ nghĩa bằng cách xa lạ hoá ngôn từ để làm nghệ thuật mới và tươi mát. Nhưng sự cố ý tối nghĩa của Trịnh Công Sơn, theo tôi, cũng là một cách truyền tải quan niệm Phật giáo rằng con người không thể tìm tới sự tịnh an của tâm hồn bằng lý lẽ, và sự giác ngộ nằm ngoài biên giới của ngôn ngữ và logic, như nhà sư Ấn Độ Bồ Ðề Ðạt Ma đã truyền vào Trung Hoa ở thế kỷ thứ sáu:
Giáo ngoại biệt truyền
Bất lập văn tự
Trực chỉ chơn tâm,
Kiến tánh thành Phật
(Truyền riêng ngoài giáo
Chẳng lập văn tự
Chỉ thẳng tâm người
Thấy tánh thành Phật). [38]
Mục đích vượt khỏi giới hạn của ngôn ngữ có thể là lời giải thích tại sao Trịnh Công Sơn đã hoà trộn những phản đề như ra đi và trở về, gần và xa, lạnh nhạt và nồng nàn – như việc Trịnh Công Sơn luôn khẳng định rằng luôn có một thoáng của cái này trong cái kia và ngược lại. Giống như các Thiền sư, Trịnh Công Sơn có thể phủ nhận tuyết màu trắng và quạ màu đen chỉ để nói lên rằng, để được giác ngộ, con người phải “thoát khỏi những phản đề của ‘có’ và ‘không’” và tìm cách để hài hoà những đối nghịch. [39] Theo lời Phật dạy, để giác ngộ, con người phải biết cưỡng lại xu hướng thỏa mãn với những nhị nguyên đơn giản. Trí năng của con người luôn muốn chống lại, phân biệt và phân loại, nhưng chúng ta phải vượt qua được xu hướng này để đạt đến “tánh không.” Để giúp con người đạt đến trạng thái này, các thiền sư dùng phương pháp “minh hoạ bằng phép phủ định,” một phương pháp được tìm thấy trong rất nhiều bộ kinh, luận và công án của đạo Phật. [40] Sư Long Thọ, một trong những luận sư vĩ đại nhất của Phật giáo Đại Thừa Ma-ha-diễn-na (có nghĩa là “cỗ xe lớn”, là một trong hai trường phái lớn nhất của đạo Phật - ND), nói đến trạng thái này trong cuốn Trung luận của ông, một kinh văn rất quan trọng của Ma-ha-diễn-na, bắt đầu như sau:
Không sinh cũng không diệt
Không thường cũng không đoạn
Không nhất cũng không dị
Không lai cũng không khứ
Chang Chen-chi giải thích rằng đa số những công án Thiền đều dựa theo phương pháp “minh hoạ bằng phép phủ định.” [41] Điển hình là một ví dụ nổi tiếng của công án về việc lắng nghe âm thanh khi vỗ bằng một bàn tay – một âm thanh không hẳn là âm thanh nhưng cũng không (hoàn toàn) không là âm thanh. Những bài hát của Trịnh Công Sơn phần nào có hơi hướng như một công án vì chúng cho thấy sự ảnh hưởng của “minh hoạ bằng phép phủ định” này hay phương pháp “không-không.” Trong rất nhiều bài hát, chúng ta thấy phương pháp này được sử dụng trong một hay hai câu hát; tuy nhiên, trong bài “Đời cho ta thế” và “Bay đi thầm lặng”, hơn một nửa những câu hát phá vỡ những cấu trúc đối lập dễ dãi. Cả ba đoạn trong bài “Đời cho ta thế” đều bắt đầu và kết thúc với những câu hát “minh hoạ qua phép phủ định”. Đây là những câu hát trong đoạn thứ hai:
Không xa người và cũng không xa mặt trời…
Không xa tình đầy và cũng không xa lạc loài…
Không xa tình và cũng không xa thù hận
Không xa nồng nàn và cũng không xa lạnh lùng
Bản tiếng Việt © 2007 talawas
[1]Xem phần phụ lục 1 để biết thêm về danh sách và ngày xuất bản của tất cả các bài hát được trích dẫn trong bài viết này. Để tìm những lời bài hát và thông tin khác về những bài hát của Trịnh Công Sơn (ngày xuất bản, tên tập nhạc và những chi tiết khác), xem trang web: trang web của Trịnh Công Sơn-forum.org, http://TCS-home.org/songs; Kho sưu tập tư liệu về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, dưới mục “Kho sưu tập” tại http://www.hoiquanhoingo.com.vn và trang web của VNEnterprise.com, http://www.vnenterprise.com. Để biết thêm về các bản nhạc cũng như lời bài hát, xem Trịnh Công Sơn: Tuyển tập những bài ca không năm tháng (TPHCM: Âm nhạc, 1998).
[2]Tuy nhiên, nhà cầm quyền đã gặp khó khăn trong việc thẩm định xem những bài hát nào trong những sáng tác trước năm 1975 của Trịnh Công Sơn là phản chiến. Năm 2003, khi phỏng vấn Lê Nam, giám đốc phòng băng đĩa của phòng Nghệ thuật Trình diễn Thành phố Hồ Chí Minh, thuộc Bộ Văn hoá Thông tin, ông ta cho rằng vấn đề nằm ở những bài hát trong tập nhạc Ca khúc da vàng (1966/1967) vì những sáng tác này “nội dung phản chiến được nêu lên rất chung chung, không phân biệt chiến tranh phi nghĩa và chính nghĩa.” Xem bài “Cái gì đã thuộc về nguyên tắc thì không có ngoại lệ” của Thu Hà, báo Tuổi trẻ, ngày 18 tháng 4, 2003, http://www.tuoitre.com.vn. Quả vậy, bài hát nào của Trịnh Công Sơn được và không được phép trình diễn tại Việt Nam vẫn là một điều mập mờ. Nhà cầm quyền thường lẫn lộn giữa những ca khúc của ông, bài hát được sáng tác trước năm 1975, và trong số đó, bài nào nằm trong tập Ca khúc da vàng. Một điều không rõ ràng nữa là tất cả hay chỉ một số những bài hát trong tập nhạc này bị cấm. Theo Cao Minh Hiền và Dạ Ly, “Đối với dòng Ca khúc da vàng của Trịnh Công Sơn cho đến bây giờ vẫn rất ‘mập mờ’ trong viêc cho hay không cho các ca sĩ hát.” Xem “Chuyện ca khúc… duyệt và không duyệt!”, Thanh Niên Online, 7 tháng 5, 2004, http://www2.thanhnien.com.vn
[3]Xem “The Trịnh Công Sơn Phenomenon”, John Schafer. Journal of Asian Studies, số sắp ra.
[4]Trịnh Công Sơn, “Để bắt đầu một hồi ức”, Âm nhạc, tháng 1 1997; in lại trong cuốn Trịnh Công Sơn: Một người thơ ca một cõi đi về (Hà Nội: Âm Nhạc, 2001), trang 201-202, do Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha, và Đoàn Tử Huyến biên tập.
[5]Trịnh Công Sơn và cây đàn lya của hoàng tử bé (HCMC: Trẻ, 2004), 84.
[6]Câu thơ này từ bài thơ “Yêu” của Xuân Diệu, lần đầu tiên xuất bản trong tập Thơ Thơ năm 1938. Xem Tuyển tập Xuân Diệu: Thơ (Hà Nội: Văn Học, 1986), trang 72.
[7]Ngoài bài “Bên đời hiu quạnh”, những bài hát khác mà Trịnh Công Sơn nói đến cái chết của chính ông gồm có bài “Ngẫu nhiên” và “Phúc âm buồn”.
[8]Ví dụ, xem: “Cỏ xót xa đưa”, “Như một lời chia tay”, “Ở trọ”, “Phôi pha”, và “Về nơi cuối trời”.
[9]Xem Trịnh Công Sơn: Ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật của Bùi Vĩnh Phúc (Gardena, CA: Văn Mới, 2005), trang 131. Những người khác cũng đồng ý. Cao Huy Thuần cho rằng “Với Trịnh Công Sơn, cõi khác và cõi này không tách rời nhau rõ rệt.” Cao Huy Thuần nói điều này trong phần giới thiệu những bài hát của Trịnh Công Sơn tại “Đêm hoài niệm Trịnh Công Sơn”, Paris, 26 tháng 5, 2001.
[10]Cao Huy Thuần, “Buồn bã với những môi hôn”, trong Trịnh Công Sơn cát bụi lộng lẫy, Trần Thuỳ Mai, Dương Phước Thu, và Ngô Minh (Huế: Thuận Hoá, 2001), trang 102.
[11]Ibid.
[12]Từ bài “Như một lời chia tay”, “Đời cho ta thế”, và “Có nghe đời nghiêng”, theo thứ tự như trên.
[13]Từ bài “Bay đi thầm lặng” và “Tình nhớ”, theo thứ tự như trên.
[14]Tôi dùng đại từ giống đực vì tôi tin những bài hát của Trịnh Công Sơn là những thông điệp cá nhân của ông. Tuy nhiên, những buồn bã của thân phận ông và thân phận của kiếp người rất gần gũi với nhau: chúng luôn bổ túc cho nhau.
[15]Ví dụ, xem “Dã tràng ca”, “Phúc âm buồn”, “Tình xót xa vừa” và “Vết lăn trầm”.
[16]Lời của bài hát này nằm ở phần phụ lục B.
[17]Xem Trịnh Công Sơn: Một nhạc sĩ thiên tài của Bửu Ý (TPHCM: Trẻ, 2003), 16-17.
[18]Cuộc phỏng vấn này, với Văn Cầm Hải, xảy ra năm 1998. Nó được in lại dưới tựa “Kiếp sau tôi vẫn là người nghệ sĩ” trong cuốn Trịnh Công Sơn: Một người thi ca của Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha và Đoàn Tử Huyến, trang 207-208.
[19]Xem Trịnh Công Sơn: Một nhạc sĩ thiên tài của Bửu Ý, Trịnh Công Sơn và cây đàn lya của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Có một thời như thế của Nguyễn Đắc Xuân (TPHCM: Văn Học, 2003); Về một quãng đời Trịnh Công Sơn của Nguyễn Thanh Ty. Tôi cũng nói đến những năm tháng chiến tranh và những bài hát phản chiến của Sơn trong bài “The Trịnh Công Sơn Phenomenon,” Journal of Asian Studies (sắp ra).
[20]Những bài viết này xuất hiện trong nhiều tập sưu tầm. Ví dụ, xem Cát bụi lộng lẫy của Trần Thuỳ Mai, Dương Phước Thu, và Ngô Minh; Trịnh Công Sơn: Một người thơ ca của Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha và Đoàn Tử Huyến.
[21]Buổi phỏng vấn [không rõ ngày tháng] này được in lại với tựa đề “Chữ tài chữ mệnh cũng là bể dâu” trong cuốn Trịnh Công Sơn: Một người thơ ca của Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha và Đoàn Tử Huyến, trang 221.
[22]Bài “Kiếp sau tôi vẫn là người nghệ sĩ” của Văn Cầm Hải trong cuốn Trịnh Công Sơn: Một người thơ ca do Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha và Đoàn Tử Huyến biên tập.
[23]Trịnh Công Sơn, Nguyệt San Giác Ngộ, tháng 4, 2001. Được in lại với tựa đề “Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: “Phải biết sống trong mỗi sát na của hiện tại”, trong cuốn Trịnh Công Sơn: Rơi lệ ru người do Lê Minh Quốc biên tập (Hà Nội: Phụ Nữ, 2004), trang 202-204.
[24]Từ này trong cổ ngữ Ấn Độ là duhkha, Thích Thiên Ân dịch là “khổ đau, đau đớn, buồn rầu, bất mãn; những trạng thái của Luân hồi.” (Luân hồi là “bể của sinh và tử; là bánh xe của sự tồn tại; thế giới luân chuyển hiện hữu.”) Xem Zen Philosophy của Thích Thiên Ân (Emeryville, CA: Dharma Publishing, 1975), 175, 177.
[25]Thích Thiên Ân dịch, Zen Philosophy, 137.
[26]Peter Harvey, An Introduction to Buddhism (Cambridge: Cambridge University Press, 1990), 48.
[27]Trịnh Công Sơn, “Phải biết sống hết mình,” trong cuốn Trịnh Công Sơn: Rơi lệ ru người(xem chú thích số 24), Lê Minh Quốc biên tập, trang 203.
[28]Lời bài hát này nằm ở phần phụ lục C.
[29]Xem Thích Thiên Ân, Zen Philosophy, 54.
[30]Cao Huy Thuần, (Xem chú thích 9).
[31]Trịnh Công Sơn nói về sự ra đi và trở về trong nhiều bài hát, trong đó có bài “Biển nhớ”, “Có nghe đời nghiêng”, “Cỏ xót xa đưa”, “Lặng lẽ nơi này”, “Lời thiên thu gọi”, “Rừng xưa đã khép”, và “Một cõi đi về”.
[32]Xem René Muller, Beyond Marginality: Constructing a Self in the Twilight of Western Culture (Westport, CT: Praeger, 1998), 121.
[33]Xem Thích Thiên Ân, Zen Philosophy, 84.
[34]Harvey trích dẫn từ Di Lan Đà Vấn Đạo, một đoạn đối thoại giữa Di Lan Đà, một vị vua Hy Lạp cai trị đế quốc Ấn – Hy Lạp vào những năm cuối thế kỷ thứ hai trước Công nguyên, và một vị sư tên Na Tiên. Di Lan Đà Vấn Đạo là một quyển quan trọng của tín lý Phật giáo, đặc biệt là nhánh Theravada (Tiểu thừa). Để biết thêm về giáo lý Phật liên quan đến vấn đề tái sinh, xem thêm Thích Thiên Ân, “The Matter of Soul in Buddhism,” trong cuốn Zen Philosophy, 165-170. Giải thích về tái sinh, Thích Thiên Ân cũng nói đến Di Lan Đà Vấn Đạo và hình ảnh ngọn đèn.
[35]Harvey, Introduction to Buddhism, 58.
[36]Harvey trích dẫn Di Lan Đà Vấn Đạo, phần 71, như là nguồn gốc của hình ảnh này (58).
[37]Thích Thiên Ân dịch, Zen Philosophy, 108.
[38]Xem Thích Thiên Ân, Zen Philosophy, 17.
[39]Daisetz Teitaro Suzuki, An Introduction to Zen Buddhism (New York: Grove Press, 1964), 52, 69.
[40]Xem Chang Chen-chi, The Practice of Zen (New York: Harper and Brothers, 1959), 128. Thích Thiên Ân cũng nói đến phương pháp này, mà ông gọi là “phương pháp không-không” trong Buddhism and Zen in Vietnam (Rutland, VT:Charles Tuttle, 1975), 34, 219n6; 257–258n6.
[41]Xem Chang Chen-chi, The Practice of Zen, 128.
Nguồn: Journal of Vietnamese Studies (Tạp chí Việt Học), số 1, tập 2, mùa đông 2007, published by The University of California Press
Nói Về “Lối Thoát Cho VN” Với Ts Mai Thanh Truyết
Trần Khách Quan
Phải chăng là để có cơ hội tham gia vào việc bán chủ quyền quốc gia Việt Nam thêm một lần nữa cho thế lực mạnh nhất trong liên minh? Để rồi xương máu và môi trường của dân tộc và đất nước Việt lại bị khai thác một lần nữa cho quyền lợi của các thế lực ngoại bang hùng mạnh trong liên minh?! (TKQ)
Trước tiên, xin minh định lại cách dùng từ ngữ TC với ông Tiến Sĩ. Nếu gọi China là Trung Cộng thì tỏ ra không hiểu biết gì về Cộng Sản bởi vì nó đã từ bỏ Chủ Thuyết Cộng Sản từ lâu, ít nhất cũng đã trên 30 năm rồi, kể từ khi “mèo trắng cũng như mèo đen, miễn là bắt được chuột”. Để hiểu rõ hơn, xin ông Tiến Sĩ hãy nhìn sang và so sánh sự khác hẳn nhau giữa China hiện nay với Cộng Sản Bắc Triều Tiên, Cộng Sản Cuba hay China Cộng Sản trước kia về chính sách tự do kinh doanh. Hơn nữa, ông Tiến Sĩ đang dương lên ngọn cờ chống Cộng, nhưng nếu cứ gọi nó là Trung Cộng thì hóa ra ông Tiến Sĩ không những không chống Cộng mà lại còn ca ngợi Chủ Nghĩa Cộng Sản, bởi vì ông Tiến Sĩ đã ngụ ý rằng nhờ có Chủ Nghĩa Cộng Sản mà “Trung Cộng” đã phát triển một cách thần tốc vượt hẳn các nền dân chủ lâu năm như của Ấn Độ, Nam Dương, Philippine, v.v…
Bởi vậy, chống Cộng thì phải biết Cộng Sản là gì, không biết thì chống Cộng là chống cái gì ?!!! Có phải không, ông Tiến Sĩ?
Chống Cộng thì phải hiểu biết Cộng cũng giống như khi điều khiển một phản ứng hóa học để thu lấy các sản phẩm : A + B → C + D, ông Tiến Sĩ không thể không tìm hiểu những điều kiện khối lượng tác chất, nhiệt độ, áp suất, năng lượng,… cùa phản ứng
Chu tầm chu: Chu Tất Tiến và TS Mai Thanh Truyết - tại hội trường Việt Báo 2010
Ông TS Mai Thanh Truyết đã phê phán rất nhiều, lý luận rất dài, nhiều khi đúng, nhiều khi không đúng về “Lối Thoát cho Việt Nam” nhưng cốt ý chỉ để nói rằnggiải pháp cho Việt Nam là những điều kiện như sau :
1). Việt Nam cần một thể chế dân chủ.
2). Việt Nam cần một liên minh quân sự với nhiều quốc gia khác để chống lại sức mạnh quân sự của TC(Trung Cộng).
3). Để có thể thực hiện được những ý đồ trên, giải pháp cần thêm điều kiệnphải loại bỏ chế độ Cộng Sản Việt Nam.
Riêng cái khoản loại bỏ cái gọi là chế độ Cộng Sản ở Việt Nam hiện nay thì ông Tiến Sĩ đã trình bày rằng chỉ là mơ ước và không biết cách nào (trong khi đó, chính quyền Cộng Sản Việt Nam phản ứng lại rằng: dân chúng Việt Nam hiện nay đang được khuyến khích làm ăn một cách tự do để làm giàu cho bản thân và cho đất nước cũng giống y như mọi quốc gia gọi là dân chủ khác, thì sao đây?). Thôi thì cứ GIẢ TỈ như là Chính Quyền Cộng Sản Việt Nam hiện nay nhượng quyền lãnh đạo đất nước cho ông Tiến Sĩ Mai và các đảng phái chống Cộng khác, vậy hãy coi thử xem ông Tiến Sĩ Mai Thanh Truyết giải quyết ra sao các vấn đề đã đặt ra.
. Việt Nam có cần một thể chế dân chủ không ?
Rất đồng ý với ông Tiến Sĩ Mai về sự cần thiết phải có một thể chế dân chủ cho Việt Nam. Tuy nhiên, cần thiết hơn là phải nhận diện được thế nào là dân chủ thì mới có thể nhắm hướng vươn tới và nắm bắt được dân chủ,
Dân chủ như Philippine, như Haiti, …nhưng tại sao vẫn cứ triền miên đói nghèo thì đâu có hùng mạnh để chống Trung Cộng, phải không ông Tiến Sĩ ? Đó là lý do tại sao phải nhận diện cho đúng thứ dân chủ cần thiết ngõ hầu có thể biết đường tậu được nó hòng đưa đất nước đến chỗ hùng mạnh như ông TS đã mong muốn và khẳng định.
Nhưng tiếc thay, coi qua "giò cẳng” lý luận của ông Tiến Sĩ đã trình bày, xem chừng như Tiến Sĩ Mai của chúng ta lại trông như không hiểu biết gì về cái thứ dân chủ cần thiết đó nó phải như thế nào và làm sao để tạo dựng được nó!
Giả tỉ ngay bây giờ Cộng Sản Việt Nam nhường quyền cho, thế thì trên cơ sở của tình trạng vật chất và tinh thần của đất nước hiện nay, chắc là ông Tiến Sĩ và cả cái đảng gì đó của ông cũng chẳng thể nào đưa ra được mô hình cái thứ dân chủ cần thiết đó. Mô hình thôi còn không nghĩ ra chứ chưa nói đến tạo dựng cho nó hoạt động tốt.
Bởi vậy, cái nền dân chủ để đưa đất nước đến chỗ hùng mạnh của ông Tiến Sĩ cũng chỉ là nói cho có nói, chỉ là mơ mộng hão, hoàn toàn không biết hình thù của nó để có thể phát triển và giữ được độc lập chủ quyền!
Mơ mộng hão thì ai cũng mơ được, chỉ tiếc là không xài được.
. Việt Nam có cần một liên minh quân sự như ông Tiến Sĩ Mai Thanh Truyết đã lý luận không ?
Nôm na cho dễ hiểu: liên minh là chung sức nhau để phấn đấu cho một mục đích cùng có lợi cho mọi thành viên của liên minh. Không thấy có lợi, đâu có ai cần đến liên minh.
Nhưng, sự đời cho thấy làm gì có một sự liên minh mà quyền lợi sẽ được phân chia đồng đều, thậm chí kẻ yếu còn bị lợi dụng để khai thác và phục vụ cho quyền lợi của kẻ mạnh thao túng liên minh. Nhưng, sự đời cũng trớ trêu cho thấy, các dân tộc nhược tiểu lại rất ngây thơ tin cậy vào liên minh, đó là một yếu điểm hằng có của những dân tộc nhược tiểu cho nên nó rất dễ bị dụ dỗ và bị khai thác bởi những thế lực hùng mạnh rao giảng về liên minh.
Trong thực tế đã qua, không ngờ Tiến Sĩ Mai lại không nhớ rằng, quốc gia Việt Nam Cộng Hòa yêu quí của ông cũng đã từng liên minh với Mỹ, Úc, Thái Lan, Đại Hàn,… trong chiêu bài chống lại sự bành trướng của Cộng Sản về phương Nam ! Nhưng, kết cục của sự liên minh đó là cái nước Việt Nam Cộng Hòa yêu quí của ông đã bị thao túng và định đoạt bởi quốc gia mạnh nhất là Mỹ để cuối cùng bị bán đứng cho Cộng Sản (thay vì chống) sau khi họ đã khai thác đủ xương máu và môi trường sống của dân tộc và đất nước của ông. Thật là ngạc nhiên khi một nhà khoa học như ông Tiến Sĩ Mai lại không hề suy nghiệm đến cái kinh nghiệm thương đau đó khi liên minh!
Bây giờ, lại tiếp tục kêu gọi phải liên minh với các thế lực hùng mạnh khác, ông Tiến Sĩ họ Mai hi vọng gì? – Phải chăng là để có cơ hội tham gia vào việc bán chủ quyền quốc gia Việt Nam thêm một lần nữa cho thế lực mạnh nhất trong liên minh? Để rồi xương máu và môi trường của dân tộc và đất nước Việt lại bị khai thác một lần nữa cho quyền lợi của các thế lực ngoại bang hùng mạnh trong liên minh?!
Như vậy, cái lối thoát của ông Tiến Sĩ chỉ có nghĩa là bế tắc !
Nếu đứng dưới góc độ là Đệ Nhứt Phó Chủ Tịch của Đại Việt Quốc Dân Đảng, ông Tiến Sĩ Mai Thanh Truyết có thể cứ dóc phét lừa mị dân như những chính khứa của các đảng phái khác thì cũng có thể chấp nhận được vì đó là tính cách và là công việc phải làm của chính khứa bọn họ. Nhưng, dưới góc độ của một Thầy Giáo và một Khoa Học Gia Tiến Sĩ Hóa Học Đại Học Besancon Pháp thì cứ dóc phét lừa mị dân như thế thật là khó có thể chấp nhận được, bởi vì đó là đã đánh mất lương tâm và danh dự của một vị Thầy và một Nhà Khoa Học có học vị cao nhất trong mọi học vị.(*)
Khách Quan.
* Những người có bằng cấp của VN thường chỉ dùng bằng cấp để làm quan, một dạng thức của những công bộc .Vì mang đặc tính thói quen của công bộc cho nên nhận thức chính trị của các nhà khoa bảng Việt Nam cũng chẳng khác gì thường dân. Tiến Sĩ cũng không là ngoại lệ.(Dựa theo ý của “chuyên gia dân chủ đa nguyên” Nguyễn Gia Kiểng)
Thứ Ba, 25 tháng 11, 2014
Đám đông, sự khác biệt và chính ta
Chúng ta sống, chúng ta tuân thủ những luật lệ chung. Vì những lợi ích mà người khác mang lại, chúng ta biến thành những kẻ chạy theo số đông và nịnh nọt họ, làm vừa lòng họ dù rằng có thể những gì ta nói, những việc ta làm không hề đúng với những gì ta nghĩ. Ta cảm thấy một sự ray rứt dâng lên trong chính tâm hồn ta, ta muốn mình khác đi, muốn làm những điều đúng với bản thân mình. Nhưng than ôi! Chúng ta cũng cần những mối lợi để phục vụ cho lợi ích cá nhân của ta. Đó chính là mâu thuẫn lớn nhất trong cuộc sống con người, sự đối lập của những lợi ích.
Con người không thể hạnh phúc nếu sự mâu thuẩn đó tồn tại. Sự giằng xé của lương tâm, sự đối diện của đúng – sai, đẹp – xấu sẽ bào mòn sức sống ta. Chính vì thế tâm trí ta sẽ làm một sự điều chỉnh nào đó để lấy lại sự cân bằng. Một trong những cách mà nhiều người thường dùng, đó là lý tưởng hóa những gì họ chọn lựa, đặt cho chúng một giá trị vượt qua giá trị thực của chúng. Đó là tự mình lừa mình, hợp lý hóa để thấy lòng thanh thản, để thấy mình hạnh phúc dù rằng hạnh phúc đó là sự giả tạo. Thường thì người ta sẽ chọn những gì có đông người lựa chọn. Đó là tâm lý của từng cá thể có trong đám đông.
Tuy nhiên có những người vẫn không cảm thấy yên ổn với tâm hồn khi họ tự lừa dối chính mình. Càng chạy theo đám đông thì càng tôn thêm sự đau khổ đó, nó giống như xát muối vào vết thương. Trong đám đông, họ phải đối mặt trực diện với những sự phi lý và đáng khinh. Chính vì vậy tâm lý họ bắt đầu biến đổi, họ thù ghét đám đông, họ muốn lấy lại bản thân mình bằng cái gọi là Sự Khác Biệt. Họ tách mình ra khỏi đó, tạo ra một đối lập với những gì đám đông làm và nghĩ. Để giảm đi sự đau đớn khi phải sống cô độc, họ đã làm cái việc mà nhóm người trước đã làm, đó là lý tưởng hóa Sự Khác Biệt, tôn vinh Sự Khác Biệt như một thứ gì đó vô cùng cao quý. Nhưng sự thật có phải là thế hay không?
Ngày nay có rất nhiều người chạy theo cái gọi là Sự Khác Biệt, khi mọi người đi A thì họ đi B, khi ai phê phán họ thì họ gọi người đó là có tâm lý Bầy Đàn. Càng phê phán thì họ càng ác cảm, càng cố chấp bảo vệ con đường họ đang đi, họ tự hào vì họ đã sống một cách trung thực với bản thân mình. Có phải thế không? Câu này tôi đã hỏi đến 2 lần cơ đấy, bạn có biết tại sao? Vì tôi e là sự thật không đúng như họ nghĩ. Họ cho rằng họ tách biệt với đám đông nhưng họ sai rồi, họ vẫn đang gắn liền với điều mà họ căm ghét, bằng chính sự đối lập với nó. Sống đúng với bản thân mình không bao giờ gắn liền với điều gì ở ngoài bản thân ta. Họ chỉ đi từ sự mơ hồ này đến sự mơ hồ khác.
Sự Khác Biệt mà ngày nay người ta chạy theo giống như một bộ áo hơn là bản chất. Nó tạo cho họ một sự nổi bật giữa đám đông, và thật lạ khi người ta muốn tách biệt và chối bỏ đám đông nhưng lại phụ thuộc vào đánh giá của chính cái đám đông đó. Khi đám đông không còn quan tâm đến Sự Khác Biệt của họ thì cái Sự Khác Biệt đó cũng mất đi ý nghĩa trong họ và rồi nó cũng chết yểu mà thôi. Ai sẽ đi cố gắng mặc bộ áo sặc sỡ khi không có người nhìn ngắm? Những chuyển biến sẽ diễn ra trong vô thức chứ bản thân những người đó không hề biết.
Sống đúng với chính ta nghĩa là không phụ thuộc vào những tác nhân bên ngoài, ta làm và nghĩ theo những điều ta cho là đúng. Đám đông có thể sai không có nghĩa là luôn luôn sai, không có nghĩa là luôn luôn sai với những gì ta nghĩ và với con người thật của ta. Khi những gì đám đông nghĩ đúng với những gì ta nghĩ thì việc chọn lựa Sự Khác Biệt chính là một hành động phủ nhận chính ta. Ta là ta khi ta không mang thành kiến với bất cứ điều gì đến từ bên ngoài, đám đông làm đúng ta theo, đám đông làm sai ta bỏ. Sự Khác Biệt chỉ là một mặt trong những gì ta làm, nó không hề và chưa bao giờ đại diện cho việc sống đúng với chính mình cả.
Con người ngày nay thường nhìn thấy vẻ ngoài hơn là hiểu rõ bản chất những gì mà họ đang đi theo. Vì nhìn vẻ ngoài nên họ hoặc tôn vinh hoặc khinh bỉ những sự chọn lựa của từng con người. Anh là đúng khi anh chọn A và sai khi chọn B. Còn nếu anh khi thì chọn A lúc thì chọn B thì anh là ba phải, là không có lập trường. Họ không nhìn thấy sự nhất quáng trong cái C mà người đó lựa chọn, vì cái C luôn ẩn phía sau rất khó nhìn thấy. Có khi cái C sẽ thay đổi theo cách suy nghĩ của bản thân người đó khi họ hiểu ra một điều gì sâu sắc hơn. A và B của đám đông thường là những hằng số, còn C của người sống cho chính họ thì thường là biến số. Vì khi họ thật sự nhận ra chính họ thì họ cũng nhận ra giới hạn của mình mà cải thiện nó.
Sống theo bản thân, kiên quyết đi theo lý tưởng của mình là một hành động khá nguy hiểm. Nguy hiểm đó tạo ra khi họ có sự khác biệt với đám đông hay hay khác biệt với những ai lý tưởng Sự Khác Biệt, mà cả 2 nhóm người đó đều có ảnh hưởng rất lớn trong xã hội này. Sống theo sự thật cũng chính là bắt những kẻ sống trong sự giả dối phải đối diện với những gì mà họ sợ hãi và chạy trốn. Sự sợ hãi đến từ vô thức hơn là họ tự nhận biết, vô thức cảm thấy sự nguy hiểm khi phải trở lại cái mâu thuẫn ban đầu nên nó khiến người đó căm ghét cái người sống thật đó. Họ sẽ quy chụp những gì là xấu xa lên người đó và tiêu diệt anh ta. Đó là bản chất con người!
Vậy sau khi đọc bài này xong thì bạn nghĩ gì về chính bạn? Bạn có thử ngồi xuống để nghĩ về những gì bạn từng nói về cái gọi là Tâm Lý Bầy Đàn hay Sự Khác Biệt không? Và tương lai bạn sẽ đối diện với chúng ra sao? Nhưng tôi cũng nhắc một điều, đừng vì đọc xong bài này rồi nghi ngờ tất cả những gì bạn đã làm, bài chỉ mang tính tham khảo chứ không phủ nhận tất cả những gì bạn từng đi qua. Dù bạn từng đứng trong đám đông hay sống trong sự khác biệt thì rất có thể lúc ấy bạn đang sống đúng với chính bạn. Bài này chỉ muốn đi sâu hơn một chút về những gì đang diễn ra trong cuộc sống mà thôi.
Mắt Đời
Cách mạng sắc màu và các quy luật biến đổi của xã hội
Cuộc cách mạng sắc màu, một thuật ngữ chỉ định những phong trào chính trị trong một số quốc gia thông qua các cuộc biểu tình hoà bình rầm rộ của người dân và các phong trào của thanh niên, được thực hiện một kịch bản sơ bộ và đi kèm với chuyên nghiệp-chiến dịch, kết thúc thường hợp nhất với một sự thay đổi chế độ chính trị ở các nước cộng hòa Liên Xô cũ mà không có sự tham gia của quân đội, không có bạo lực. Một số cuộc cách mạng sắc màu trên thế giới có tính bạo lực và được sự hỗ trợ của quân đội… hay phong trào kháng chiến lấy các cuộc cách mạng làm cơ sở.
Trong chiến lược toàn cầu, từng bước thực hiện dân chủ hoá thế giới là mục tiêu nhất quán, không thay đổi. Để thực hiện mục tiêu đó có rất nhiều biện pháp, chiến lược khác nhau nhằm thích ứng với tình hình cụ thể ở từng nơi, từng lúc. Trong đó, tạo dựng nên các cuộc cách mạng sắc màu còn được gọi là “doanh nghiệp cuộc cách mạng” là một trong những biện pháp chiến lược quan trọng dựng lên các chính quyền dân chủ.
Sau khi thay đổi của hệ thống xã hội 1989-1990, các cuộc cách mạng sắc màu là giai đoạn thứ hai của sự định hướng lại kế hoạch địa chính trị của các nước vệ tinh của Liên Xô trước đây. Các cuộc cách mạng sắc màu đánh giá cao vai trò của các tổ chức Phi Chính phủ (NGO), các quỹ hỗ trợ phát triển, hậu thuẫn cũng như sự phối hợp của các phương pháp tiếp thị mới nhất và phương tiện truyền thông. Các tổ chức NGO là các tổ chức không phải là một bộ phận của chính phủ và không do nhà nước thành lập. Các tổ chức NGO là các tổ chức không vì mục đích lợi nhuận, tuy nhiên, hiểu rộng ra thì các tổ chức NGO cũng có thể gồm các tập đoàn hoạt động vì mục đích lợi nhuận. Các thành viên của tổ chức cách mạng sắc màu, đa phần đều là những người trẻ tuổi và những người nói tiếng Anh thành thạo, thân Mỹ và những người đã học tập và làm việc ở phương Tây.
Có thể nhận thấy, trong sự định hướng lại kế hoạch thay đổi chế độ chính trị ở các nước vệ tinh của Liên Xô trong kế hoạch làm thay đổi căn bản cục diện chính trị hệ thống các nước XHCN với Liên Xô làm trụ cột trước đây tại khu vực Đông Bắc Á, nhiều khả năng sẽ được nhắc tới theo mô hình và quá trình hành động tương tự, hoặc tập trung dân chủ có liên quan đến chủ nghĩa cá nhân, ngoài ra các hình thức chính thể, các thể chế chính trị, các chế độ chính trị khác cũng được đề cập đến. Hoặc dân chủ từ trên xuống tuy nhiên các tổ chức được nhận xét như một tổ chức Liên minh Dân chủ Tự do còn có thể thân Hàn Quốc, thân Nhật hay thân Nga cũng như các nước khác trong và ngoài khu vực và được thế giới công khai ủng hộ.
Mặc dù có nhiều trường phái triết học và nhiều sắc thái khác nhau nhưng những triết lý được cho rằng thuộc về hai phạm trù chính, đối ngược với nhau: Chủ nghĩa duy tâm và Chủ nghĩa duy vật. Mệnh đề cơ bản của hai phạm trù này liên quan tới bản chất của thực tế, và sự khác biệt căn bản là đối với chủ nghĩa duy tâm thì ý thức là cơ bản, ý thức quyết định vật chất còn đối với chủ nghĩa duy vật thì vật chất là cơ bản.
Đâu là thực chất của vấn đề trong cuộc đấu tranh tư tưởng của những người Marxistes, vấn đề được đặt ra là vì sao chủ nghĩa Marx lại bị người ta chống đối một cách quyết liệt như vậy? Phải chăng vì chủ nghĩa Marx đã mang lại những tai họa cho loài người? Nguyên nhân là những quan điểm về xã hội về thực chất là những quan điểm duy tâm do những đặc điểm bản chất của xã hội. Xã hội là một hệ thống có cấu trúc, cá nhân, gia đình và các tổ chức xã hội. Các quy luật xã hội đều tồn tại một cách khách quan và liên quan chặt chẽ với nhau. Hệ thống văn hóa bao gồm những giá trị tinh thần, tinh thần xã hội quy định sự phát triển của hệ thống xã hội, cơ cấu xã hội. Xã hội thường được tổ chức theo nghĩa gốc của xã hội: “Sự tồn tại” bao gồm nhiều tổ chức xã hội khác nhau như xã hội Hàn Quốc trong đó có tổ chức xã hội của những người Marxistes được hạn chế trong khái niệm về xã hội do bản chất tổ chức xã hội của những người Marxistes là mâu thuẫn.
Những quan điểm về xã hội là những biểu hiện của quan niệm duy tâm tuỳ theo các quy luật khách quan hay cho đó là tư duy trực giác mang nhiều tính cảm xúc và tư duy phản ánh thiên về lý trí của mỗi người dựa trên hệ thống tư tưởng và hệ thống cơ cấu xã hội tương ứng cũng được, tóm lại là bắt buộc phải viện đến chủ nghĩa duy tâm, đây cũng là nguyên nhân liên quan đến các quy luật biến đổi của xã hội để dẫn đến sự phát triển của các hệ thống tư tưởng và hệ thống cơ cấu xã hội.
Khuyết Danh
Trịnh Công Sơn với cao nguyên bụi đỏ sương mù
Nguyễn Đắc Xuân
Lần đầu tiên những người yêu thích âm nhạc Việt Nam chúng ta đón mùa Xuân về mà không có nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Đây là một sự hụt hẫng mà có người bảo rằng "phải tập làm quen trong nhiều mùa xuân nữa mới quen được". Nhưng đối với tôi - một người bạn chưa bao giờ ở với Sơn ngày nào nên tôi vẫn cảm thấy Sơn đang sống ở đâu đó. Tôi không gặp Sơn như lúc tôi đến nhà 47C Phạm Ngọc Thạch mà Sơn ngủ chưa dậy. Tôi đành quay xe và tự hẹn với mình lần sau vào Thành phố Hồ Chí Minh sẽ lại đến.
Cho đến nay, Trịnh Công Sơn vẫn chưa - như gia đình tôi hay dùng- exit (thoát) khỏi đời sống của tôi. Bởi vì, tôi là một người luôn luôn thích khám phá bí ẩn nhưng có nhiều giai đoạn trong cuộc đời của bạn tôi, tôi chưa công bố. Tôi vẫn còn nợ giai đoạn Trịnh Công Sơn dạy học và bắt đầu làm nhạc phản chiến ở Blao-Lâm Đồng. Đây là một giai đoạn quan trọng trong cuộc đời Sơn nhưng Sơn rất ít viết, ít đề cập đến và tất nhiên bạn be ẵ-những người yêu thích âm nhạc Sơn, cũng ít biết. Để chuẩn bị cho việc"trả nợ nầy", tôi đã làm một cuộc hành hương trở lại vùng cao nguyên bụi đỏ sương mù Blao để làm sống dậy những điều mà Trịnh Công Sơn đã chôn chặt nơi đây.
Người cung cấp những thông tin đầu tiên về những năm tháng Trịnh Công Sơn dạy học và sáng tác ở Blao cho tôi là chị Lê Thị Ngọc Trinh - bạn học Sư phạm khóa I (1962-1964) với Sơn ở Qui Nhơn và đồng nghiệp của Sơn ở Blao. Người dẫn đường là thầy giáo Lê Quang Kết ở Blao. Những người hiểu rõ những năm tháng Trịnh Công Sơn ờ Blao là cụ Lê Cao Lợi - nguyên trưởng ty Tiểu học, lãnh đạo của thầy giáo Trịnh Công Sơn lúc ấy và cụ Phạm Trung Thành, nhân viên cũ của Ty Tiểu học (từ năm 1964) - người chơi đàn violon, hay trao đổi về âm nhạc với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ở Blao. Tư liệu bổ sung do hai ông bạn họa sĩ Đinh Cường và Trịnh Cung giúp.
Trịnh Công Sơn - trưởng giáo trường sơ học Bảo An
Như chúng ta đã biết, Trịnh Công Sơn học khóa I thường xuyên trường Sư phạm Qui Nhơn (1962-1964). Năm 1964 mãn khóa được bổ lên Blao cùng một số bạn cùng quê, cùng khóa, trong đó có Lê Thị Ngọc Trinh - người trong ban đồng ca của trường Sư phạm Qui Nhơn đã từng lĩnh xướng trường ca Dã Tràng của Sơn. Lê Thị Ngọc Trinh được bổ về trường Nữ Bảo Lộc ở ngay trung tâm Thị xã, Trịnh Công Sơn bổ đi xa hơn một chút là trường sơ học Bảo An cách Tỉnh đường và Ty Tiểu học Lâm Đồng gần một cây số.
Trường Bảo An có ba lớp 1,2,3, sĩ số mỗi lớp chừng vài mươi em, đa số học sinh là người dân tộc ít người, chỉ có dăm ba em là người Kinh. Cơ sở của trường có hai phòng đứng cho vơ trên một bãi đất trơ trụi, mái lợp tranh, vách nứa; học sinh mặt mày lem luốt, mũi dãi lò thò, áo quần rách rưới, nhuộm bụi đỏ trông rất thê thảm. Bảo An thuộc loại trường sơ cấp, không có chức Hiệu trưởng. Người phụ trách trường có cái tên cổ cổ là trưởng giáo giống như ông Ngô Đình Khả lúc mới được bổ nhiệm làm trưởng giáo trường Quốc Học hồi cuối thế kỷ XIX vậy (1896).
Trịnh Công Sơn được "đào tạo chính qui" nên làm trưởng giáo và đứng dạy lớp ba vào buổi sáng, ông giáo Tạ Văn Thống sắp về hưu dạy hai lớp 1 và 2 vào buổi chiều. Hằng ngày ông trưởng giáo họ Trịnh đi về dạy học phải cuốc bộ trên con đường dốc mà vào mùa nắng thì bụi đó mịt mù, vào mùa mưa bùn lầy nhoe nhoét rất khó bước. Tuy đi về hơi vất vả một chút nhưng chuyện soạn bài và đứng lớp rất thoải mái. Học trò miền núi dễ bảo. Vào mùa hái chè các em ở nhà giúp cha mẹ, đến lớp chỉ có mươi mười lăm em. Phòng học không có cửa, nhiều hôm mây mù bay tràn vào lớp làm cho thầy giáo và học trò cũng lảng đảng theo mây. Nhiều ý nhạc khởi dậy trong lòng ông trưởng giáo Trịnh:
"Bụi về với mây. Người còn đó gieo hạt lúa trên ruộng đất nầy" (Phúc Âm Buồn, 1965).
"Qua khoảng trời trống trơn của lớp học Sơn đã vẽ nhiều ký họa đẹp và sinh động những người dân tộc trên nương rẫy, dưới bóng suối mát". (Đinh Cường kể).
Dạy học ở vùng thượng du thế ấy. Không vui. Nhưng dù sao với chỉ số lương (indique) 320 cộng thêm phụ cấp đắc đỏ vùng cao, mỗi tháng Trịnh Công Sơn cũng lĩnh được 5.200$. So với vật giá lúc ấy: Cà-phê loại ngon 1$/ly, phở 3$/tô, cơm 600$/ tháng, vàng 2.000$/ lượng. . . lương như thế là cao, có của ăn, của để.
Nhà trọ của Trịnh Công Sơn tại Blao là một ngôi nhà kiểu biệt thự mới xây trên khu đất khoáng đạt ở gần Ty Công chính Lâm Đồng. Chủ ngôi nhà là cô Phi - trưởng phòng kế toán Ty Công chính. Trịnh Công Sơn thuê nhà cùng với ba đồng nghiệp họ Nguyễn là Thanh Ty (Nha Trang), Hảo Tâm và Văn Ba (Sư phạm Sài Gòn). Mỗi người phải trả tiền nhà 300$/tháng. Bà chủ nhà có dáng người mảnh dẻ, hơn ba mươi tuổi, cùng với đứa con gái ở chung trong nhà. Nhờ thế các thầy giáo trẻ sống xa nhà đỡ bớt khô khan.
Những khi lễ lược, Blao có tổ chức văn nghệ, Trịnh Công Sơn được mời sinh hoạt với các đồng nghiệp. Ngoài Trịnh Công Sơn, những cây văn nghệ lúc đó mà đến nay dân Blao còn nhớ là Hoàng Thị Ni Na, Lê Thị Ngọc Trinh, Đỗ Thị Nghiễm. Lúc ấy dân địa phương Blao ít có người chơi nhạc. Mỗi khi muốn nói chuyện âm nhạc Trịnh Công Sơn hay đến 24 đường Tiên Dung gặp ông Nguyễn Trung Thành làm việc ở Ty Tiểu học. Ông Thành được đào tạo đễ chơi đàn violon trong ban nhạc lễ của nhà thờ Bảo Lộc. Ông không thích nhạc của Sơn nhưng ông phải công nhận với Sơn rằng :" Ca từ (parole) của Trịnh Công Sơn rất tuyệt vời. Sau nầy anh có được người đời biết tiếng chính là nhờ cái phần ca từ". Đến nay thì ông Thành xin nói lại với tôi :" Ca khúc của Trịnh Công Sơn, ca từ hay mà nhạc cũng rất hay !".
Sinh hoạt văn nghệ thường xuyên của Trịnh Công Sơn lúc nầy là hát cho học sinh nghe và dạy cho học sinh hát. Từ hồi còn học Sư phạm, Trịnh Công Sơn đã sáng tác nhiều bài hát cho thiếu nhi. Lúc lên dạy học ở Blao, anh lại sáng tác thêm nhiều bài nữa. Ngày nay nhiều người còn thuộc bài Ông Tiên Vui. Cô giáo Lê Thị Ngọc Trinh vừa kể chuyện cũ ở Blao vừa hát cho tôi nghe:
Ông Tiên vui ông có cái râu dài Đêm ông thường ngủ yên trên đỉnh mây Ông tiên vui ông thường hay nhắc đến Chốn Thiên đình chẳng còn tháng ngày trôi Ông tiên vui ông có cái căn nhà Trên ngọn đồi hằng đêm ông ghé qua Hôm em lên ông chợt đi đâu vắng Lúc em về em buồn đến ngẩn ngơ.
Từ "Tuổi đá buồn" đến "Ca khúc da vàng."
Buổi chiều nghỉ dạy, sau giấc ngủ trưa, Trịnh Công Sơn sửa lại chiếc áo ka-ki vàng, bỏ vô quần tẹc-gan nghiêm chỉnh rồi xỏ chân vào đôi giày Batar rảo bước ra quán Cà-phê bi-Da Ngọc Trang. Anh chơi ở đó cho đến tối. Cũng có hôm, anh cùng với vài người bạn dạo quanh hồ Bảo Lộc hoặc đi dọc theo quốc lộ Sài Gòn Đà Lạt chạy qua Thị xã nói chuyện phiếm. Nhiều hôm thiếu bạn, anh dạo phố một mình với nỗi buồn da diết mà anh đã thể hiện trong bài "Chiều Một Mình Qua Phố" hồi còn học ở Sư phạm Qui Nhơn (1963).
Lúc đầu thanh niên Blao nhìn mái tóc thưa mềm, chạy dài xuống gảy và hàng râu mép hung hung nâu của Sơn, họ lấy làm lạ. Về sau có dịp đến gần và biết Trịnh Công Sơn vừa là thầy giáo vừa là nhạc sĩ hiền hậu hồn nhiên họ đâm ra cảm mến và rất hân hạnh được gần anh. Những chiều không thấy anh dạo phố hay khom mình trên bàn bi-da Ngọc Trang họ cảm thấy vằng vẻ và có ý chờ trông.
Vào dịp nghỉ lễ hay nghỉ cuối tuần, Sơn hay lên xe đò về Sài Gòn chơi với Đinh Cường hoặc Trịnh Cung, chiều Chủ nhật trở lại Blao để sáng thứ hai lên lớp. Anh về Sài Gòn còn có mục đích xuất bản tập nhạc đầu tay của anh. Nhiều lần Trịnh Công Sơn không lên kịp vào đầu tuần, ông giáo Thống đã giúp dạy hộ cho anh. Sự vắng mặt không xin phép của một giáo viên là phạm kỷ luật, may mắn sao ông Lê Cao Lợi - trưởng ty Tiểu học, là người biết mến mộ nghệ sĩ nên dù Trịnh Công Sơn vắng mặt nhiều lần (có lần đến ba tuần) ông vẫn không khiển trách.
Từ sau ngày Nguyễn Văn Ba - người bạn đồng nghiệp và cùng thuê chung nhà, chết vì trúng mìn trên đường Blao-Sài Gòn, Trịnh Công Sơn phải tiêu phí những ngày nghỉ ở Blao. Một mình "nằm trong căn gác đìu hiu", nghe gió lướt thước kéo qua rừng lau dưới những cơn mưa không dứt, Sơn nghĩ về đời mình, nghĩ về cái chết của Nguyễn Văn Ba, nghĩ về tiếng chuông nhà thờ Bảo Lộc ở phía bên kia đường sáng sáng chiều chiều dội vào sự cô đơn của anh. Và, chính trong những ngày bó gối ở nhà ấy, anh phát hiện có một người đẹp hằng ngày đi Nhà thờ bằng con đường qua trước cửa phòng anh. Trịnh Công Sơn hơi ân hận. Lâu nay anh bù khú với bọn bạn trai nên không để ý đến người hàng xóm gái ấy. Người có tên là Ngà. Ngà không sắc sảo, không quý phái như các cô gái Huế đã "hờp hồn" anh như Ph. Th., Bích Diễm, nhưng với cái dáng mảnh mai, tóc thề chấm vai, khuôn mặt thánh thiện như mặt Đức Mẹ Đồng Trinh của cô cũng đã làm cho Trịnh Công Sơn mất ngủ. Sự phát hiện trong cõi cô đơn ở Blao có Ngà như một cái nhấn làm bật dậy những dồn nén cô đơn mang tính tâm linh trong Sơn lâu nay. Anh viết bài Tuổi đá buồn.
"Trời còn làm mưa mưa rơi mênh mang. Từng ngón tay buồn em mang em mang, đi vào giáo đường, ngày chủ nhật buồn còn ai còn ai. Đóa hoa hồng cài trên tóc mây, ôi đường phố dài, lời ru miệt mài ngàn năm ngàn năm, ru em nồng nàn, ru em nồng nàn"
Bản in lần đầu Ca khúc Trịnh Công Sơn (Nxb An Tiêm, SG 1967), bài Tuổi Đá Buồn được soạn với nhịp 4/4, đoạn mở đầu với 30 nhịp rưỡi mới có một dấu lặng, phần ca từ suốt 55 từ không hề có một cái chấm phẩy nào. Hình ảnh cô Ngà mang ngày chủ nhật buồn (Sombre dimanche) đến nhà thờ, con đường quốc lộ Sài Gòn - Đà Lạt dài hun hút đi qua Thị xã. . . . nối tiếp nhau. Đoạn nhạc dài lê thế ấy diễn tả những cơn mưa không dứt của Bõ lao trong tâm hồn Sơn. Sự cô đơn của Trịnh Công Sơn không phải của người trần thế, của con người với con người, của xác thịt với xác thịt mà chính là của thân phận làm người. Sự cô đơn hư vô nhuốm một chút siêu hình:
" Trời còn làm mưa rơi mưa rơi, từng phiến băng dài trên hai tay xuôi. Tuổi buồn em mang đi trong hư vô ngày qua hững hờ".
Sự cô đơn "hư vô" của thân phận làm người nên bao giờ còn "làm kiếp con người" thì còn cô đơn. Vì thế những ý tưởng ấy cứ ẩn hiện không ngừng trong cảm xúc của Sơn.
. . ." Trời còn làm mưa mưa rơi thênh thang.
Từng gót chân trần em quên em quên.
Ôi miền giáo đường ngày chủ nhật buồn còn ai còn ai"
(Ca khúc Trịnh Công Sơn, Nxb An Tiêm, SG 1967)
Nếu không có những ngày chủ nhật buồn ở Blao có lẽ Trịnh Công Sơn không có những ca khúc buồn đến thế. "Người nằm co"trong Phúc Âm Buồn chính là hình ảnh Trịnh Công Sơn trong những ngày ấy.
" Người nằm co như loài thú khi mùa đông về
Người nằm yên không kêu than buốt xương da mình"
Muốn tránh xa mọi người, một người nằm yên nhưng không thể nằm yên được.
"Từng tiếng người nhiều tiếng người gọi hoài giữa đêm"
Trịnh Công Sơn viết bài Phúc Âm Buồn vào năm 1965 - Đấy là năm quân Mỹ đổ bộ ồ ạt lên bến phá Toà Khâm Huế, nhiều bạn bè của anh xuống đường đấu tranh chống chiến tranh, chống lại việc dùng tuổi trẻ như một thứ củi đốt cho chiến tranh của Mỹ. Cũng có một số bạn của Trịnh Công Sơn bị động viên, bị bắt đi quân trường (nhà thơ Ngô Kha), hay đang trốn lính.
Ngày 20.7.1965, Uỷ ban Thanh niên Sinh viên của Nguyễn Cao Kỳ mời sinh viên miền Nam về Sài Gòn hội thảo "chuẩn bị giải phóng miền Bắc". Trong hội thảo nầy bà Ngô Bá Thành, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân đã công khai chống chiến tranh, kêu gọi hòa bình. Ở Huế Thái Luân cho ra đời tập thơ phản chiến Vùng Tủi Nhục lên án chiến tranh do Mỹ đạo diễn được sinh viên học sinh chuyền tay nhau đọc. Tận bên Mỹ Bob Dylan, Joan Baez ôm đàn du ca hát phản chiến. . . . Qua thư từ, Trịnh Công Sơn hiểu rõ hết tính hình chiến tranh và đấu tranh kêu gọi hòa bình ấy. Những người bị mời dự hội thảo của Nguyễn Cao Kỳ chống chiến tranh vì tinh thần dân tộc. Trịnh Công Sơn là một người hiền hòa nhân hậu, rất sợ chuyện chém giết. Năm 1963, lúc còn theo học Sư phạm ở Qui Nhơn, đọc Mythe de Sisyphe của Albert Camus (1942) Trịnh Công Sơn đã thấy sự hiện hữu của con người là phi lý (absurde) giống như anh chàng Sisyphe bị khổ sai bằng việc hằng ngày phải lăn một tảng đá lên núi rồi thả tay cho đá lăn xuống núi không tạo ra một tác dụng nào cả :
"Người chợt nhớ mình như đá .
Đá lăn vết lăn buồn". (Vết Lăn Trầm, 1963)
Đến năm 1965, chiến tranh làm bi thảm hơn sự phi lý của thân phận con người. Đúng như tình hình anh đã thấy trước đó một năm:
"Ôi chinh chiến đã mang đi bạn bè
ngựa hồng đã mỏi vó chết trên đồi quê hương"
(Xin Mặt Trời Ngủ Yên, 1964)
Với một ý thức dân tộc chung chung, Trịnh Công Sơn không còn thụ động được nữa, anh phải dấn thân. Suốt cả mùa hè năm 1965, Trịnh Công Sơn nằm lại Bõ lao, đóng cửa soạn những ca khúc chống chiến tranh, kêu gọi hòa bình như các bài "Gia Tài Của Mẹ, Ca Dao Mẹ, Người hát Bài Quê Hương, Du Mục, Lại gần Với Nhau, Người Già Em bé, Người Con Gái Việt Nam Da Vàng . . ."
Lúc ấy hai chữ "hòa bình" bị cấm kỵ. Nói hòa bình là "Cộng sản". Cho nên những ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn soạn xong phải giữ kín và chỉ hát trong giới bạn bè thân thiết thôi. Những bạn bè thân thiết đó ở Đơn Dương, Sài Gòn, Huế, và đặc biệt là Đa Lạt. Bạn bè nghe nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn rất thích, tác giả cất lên tiếng nói bất lực trước cuộc chiến tranh và thể hiện khát vọng hòa bình hộ cho nhiều người thế hệ anh. Nhưng cũng có nhiều người không thích. Những ca khúc phản chiến"nguy hiểm" đến như thế thì có ca sĩ nào dám hát ? May sao, trong những chuyến lên về Đà Lạt, Trịnh Công Sơn đã gặp được một cô "bé quê" trong một phòng trà và cô bé đã lột xác hóa thân thành ca sĩ Khánh Ly hát nhạc phản chiến bắt đầu từ Quán Văn Đại học Văn khoa Sài Gòn (1965-1966). Nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn gắn liền với giọng ca Khánh Ly. Gặp gỡ Khánh Ly là một bước ngoặt mang tính định mệnh của Trịnh Công Sơn. Không có những tháng năm dạy ở Blao để tiện đường lên về Đa Lạt thì làm sao Sơn có thể gặp được Khánh Ly ?
Đến năm 1967, không chỉ có bạn bè anh mới bị "chinh chiến mang đi", mà các đồng nghiệp của anh ở Blao và chính anh bị gọi nhập ngũ . Trịnh Công Sơn không chấp nhận cuộc chiến tranh của Mỹ nên anh trốn lính. Trốn lính từ Blao. Trốn lính và chấp nhận cuộc sống bất hợp pháp, điều đó có nghĩa là anh phải giả từ cuộc đời làm thầy giáo ngắn ngủi của anh. Trịnh Công Sơn không tự ý bỏ nghề thầy mà vì chính quyền miền Nam lúc ấy đã buộc anh phải nghỉ dạy học để đi lính. Anh trốn lính để có thể đi đến cùng sự nghiệp đấu tranh cho hòa bình, cho quyền tự quyết dân tộc.
Trịnh Công Sơn ăn lương dạy học tại Blao chỉ có ba năm (1964 đến 1967). Thời gian ấy ngắn so với cuộc đời sáu mươi ba tuổi của anh (1939-2001). Nhưng không ai có thể viết tiểu sử nhạc sĩ Trịnh Công Sơn một cách trung thực khi chưa rõ giai đoạn "bụi đỏ sương mù" của anh ở Blao. Bởi vì chính trong giai đoạn nầy anh đi làm thầy giáo rồi buột phải thôi dạy, anh cho xuất bản những tập nhạc đầu tiên của anh, anh soạn loạt bài phản chiến mang tên Ca Khúc Da Vàng, anh gặp gỡ ca sĩ Khánh Ly và khẳng định sự nghiệp làm nhạc sĩ cho đến cuối đời anh.
Chân Thiện Nhẫn là tiêu chuẩn duy nhất để nhận định người tốt xấu
Trong Phật giáo người ta luôn tìm hiểu xem Phật Pháp là gì. Cũng có người [nhìn] nhận rằng Pháp giảng trong Phật giáo chính là toàn bộ Phật Pháp; thực ra không phải. Pháp mà Thích Ca Mâu Ni giảng, cách đây 2 nghìn 5 trăm năm dành cho những người thường ở tầng cực thấp, mới thoát thai từ xã hội nguyên thuỷ; [là] Pháp giảng cho những người có tư tưởng đơn giản như thế. Thời mạt Pháp mà Ông nói đến, chính là hôm nay; con người hiện tại mà dùng Pháp ấy để tu luyện thì đã không thể được nữa. Vào thời mạt Pháp, hoà thượng trong chùa tự độ còn rất khó, huống là độ nhân. Pháp mà Thích Ca Mâu Ni thời đó truyền là nhắm thẳng vào tình huống bấy giờ mà truyền; ngoài ra Ông cũng không hề giảng hết ra những gì bản thân Ông tại tầng của mình biết về Phật Pháp; muốn bảo trì bất biến vĩnh cửu [Pháp ấy], cũng không thể được.
Xã hội đang phát triển; tư tưởng của nhân loại càng ngày càng phức tạp; khiến con người không dễ dàng theo cách đó mà tu được nữa. Pháp trong Phật giáo không thể khái quát toàn bộ Phật Pháp, nó chỉ là bộ phận rất nhỏ của Phật Pháp. Còn có rất nhiều Pháp lớn của Phật gia đang lưu truyền tại dân gian, đơn truyền qua các thời đại. Các tầng khác nhau có các Pháp khác nhau, các không gian khác nhau có các Pháp khác nhau; đó chính là Phật Pháp thể hiện khác nhau tại từng không gian, tại từng tầng khác nhau. Thích Ca Mâu Ni cũng giảng rằng tu Phật có 8 vạn 4 nghìn pháp môn; nhưng trong Phật giáo chỉ có Thiền tông, Tịnh Độ, Thiên Thai, Hoa Nghiêm, Mật tông, v.v khoảng hơn chục pháp môn, không thể bao quát hết Phật Pháp được. Bản thân Thích Ca Mâu Ni không hề truyền ra hết Pháp của mình, [Ông] chỉ nhắm thẳng vào năng lực tiếp thụ của người thời đó mà truyền một bộ phận mà thôi.
Vậy Phật Pháp là gì? Đặc tính căn bản nhất trong vũ trụ này là Chân Thiện Nhẫn, Nó chính là thể hiện tối cao của Phật Pháp, Nó chính là Phật Pháp tối căn bản. Phật Pháp tại các tầng khác nhau có các hình thức thể hiện khác nhau, tại các tầng khác nhau có các tác dụng chỉ đạo khác nhau; tầng càng thấp [thì] biểu hiện càng phức tạp. Vi lạp không khí, đá, gỗ, đất, sắt thép, [thân] thể người, hết thảy vật chất đều có tồn tại trong nó cái chủng đặc tính Chân Thiện Nhẫn ấy; thời xưa giảng rằng ngũ hành cấu thành nên vạn sự vạn vật trong vũ trụ; [ngũ hành kia] cũng có tồn tại chủng đặc tính Chân Thiện Nhẫn ấy. Người tu luyện đến được tầng nào thì chỉ có thể nhận thức được thể hiện cụ thể của Phật Pháp tại tầng ấy; đó chính là quả vị và tầng tu luyện [của người ấy]. Nói chung, Pháp rất lớn. Đến điểm cực cao mà giảng, thì rất đơn giản; bởi vì Pháp kia giống như hình dáng của kim tự tháp. Đến nơi tầng cực cao thì ba chữ có thể dùng để khái quát, đó chính là Chân Thiện Nhẫn; thể hiện tại các tầng cực kỳ phức tạp. Lấy con người làm ví dụ, Đạo gia xem [thân] thể người như một tiểu vũ trụ; con người có thân thể vật chất; nhưng chỉ cái thân thể vật chất ấy không thể đủ cấu thành một con người hoàn chỉnh được; còn phải có tính khí, tính cách, đặc tính, và nguyên thần mới có thể cấu thành một con người hoàn chỉnh, độc lập, và mang theo cá tính tự ngã. Vũ trụ này của chúng ta cũng như thế; có hệ Ngân Hà, có các thiên hà khác, cũng như các sinh mệnh và nước, vạn sự vạn vật trong vũ trụ này; [tất cả những thứ ấy] chúng đều có phương diện tồn tại vật chất; đồng thời chúng cũng có tồn tại đặc tính Chân Thiện Nhẫn. Dẫu là vi lạp vật chất nào thì cũng bao hàm chủng đặc tính ấy, trong vi lạp cực nhỏ cũng bao hàm chủng đặc tính ấy.
Chủng đặc tính Chân Thiện Nhẫn là tiêu chuẩn để nhận định tốt và xấu trong vũ trụ. Thế nào là tốt, thế nào là xấu? Chính là dùng Nó {Chân Thiện Nhẫn} mà xác định. ‘Đức’ mà chúng ta nói đến trong quá khứ cũng tương tự như thế. Tất nhiên chuẩn mực đạo đức của xã hội nhân loại hiện nay đã biến đổi rất nhiều, tiêu chuẩn đạo đức đã méo mó hẳn rồi. Hiện nay [nếu] có người noi gương Lôi Phong, thì có thể bị coi là mắc bệnh tâm thần. Nhưng nếu vào hồi thập kỷ 50, 60, thì ai dám nói người ấy bị bệnh tâm thần? Chuẩn mực đạo đức của nhân loại đang trượt trên dốc lớn, đạo đức thế gian trượt xuống hàng ngày; chỉ chạy theo lợi, chỉ vì chút đỉnh lợi ích cá nhân mà làm tổn hại người khác; người tranh kẻ đoạt, chẳng từ một thủ đoạn nào. Mọi người thử nghĩ xem, có được phép tiếp tục như thế này không? Có người làm điều xấu, chư vị nói rằng anh ta đã làm điều xấu, anh ta cũng không tin; anh ta thật sự không tin rằng mình đã làm điều xấu; có một số người dùng chuẩn mực đạo đức đang trượt dốc kia mà tự đo lường bản thân mình, cho rằng mình tốt hơn người khác, vì tiêu chuẩn để đánh giá đã thay đổi rồi. Dẫu tiêu chuẩn đạo đức của nhân loại có thay đổi thế nào đi nữa, đặc tính của vũ trụ không hề thay đổi; Nó chính là tiêu chuẩn duy nhất để xác định người tốt xấu. Là người tu luyện, phải chiểu theo tiêu chuẩn này của vũ trụ mà yêu cầu chính mình, không thể chiểu theo tiêu chuẩn của người thường mà đặt yêu cầu cho mình được. Nếu chư vị muốn phản bổn quy chân, chư vị muốn tu luyện lên trên, thì chư vị cần chiểu theo tiêu chuẩn ấy mà làm. Là một cá nhân, nếu thuận với đặc tính Chân Thiện Nhẫn này của vũ trụ, thì mới là một người tốt; còn người hành xử trái biệt với đặc tính này, thì đúng là một người xấu. Trong đơn vị [công tác], hoặc ngoài xã hội, có người có thể nói chư vị xấu, [nhưng] chư vị không nhất định đúng là xấu; có người nói chư vị tốt, chư vị lại cũng không nhất định đúng là tốt. Là người tu luyện, [nếu] đồng hoá với đặc tính này, [thì] chư vị chính là người đắc Đạo; [Pháp] lý đơn giản như vậy.
Đạo gia tu luyện Chân Thiện Nhẫn, trọng điểm tu Chân; vậy nên Đạo gia giảng tu chân dưỡng tính, nói lời chân, làm điều chân, làm chân nhân, phản bổn quy chân, cuối cùng tu thành Chân Nhân. Nhưng cũng có Nhẫn, cũng có Thiện; [còn] trọng điểm rơi vào tu Chân. Trọng điểm của Phật gia rơi vào tu Thiện của Chân Thiện Nhẫn. Vì tu Thiện có thể tu xuất tâm đại từ bi; một khi xuất hiện tâm từ bi, thì [thấy] chúng sinh rất khổ, do vậy phát sinh nguyện vọng muốn phổ độ chúng sinh. Nhưng cũng có Chân, cũng có Nhẫn; trọng điểm rơi vào tu Thiện.
* Trích Pháp Luân Đại Pháp
Thiện- ác
Tác giả: Đệ tử Đại Lục
Một người lúc vừa sinh ra cất tiếng khóc chào đời, lúc lìa đời thì người thân trong tiếng khóc mà tiễn đưa. Có người còn chưa hoàn thành tâm nguyện, cũng có người buồn thảm trong tiếc nuối, đều là khi đến tay không, khi đi tay trắng. Một người đến thế giới này sống hết một đời là vì điều gì? Ta từ đâu đến, và sẽ đi về đâu? Bản tính của con người rốt cuộc là gì, là thiện hay là ác? Vân vân và vân vân, những vấn đề này, thời còn là học sinh tôi đã từng suy nghĩ; tôi nghĩ, chắc mỗi người dù nhiều hay ít cũng đã suy nghĩ đến, chỉ là vì bị lãng quên theo năm tháng thoi đưa hoặc vì miếng cơm manh áo nên không rảnh bận tâm, nhưng mỗi người đều không thể không đối mặt với những vấn đề ấy, không thể nào trốn tránh được.
Bản thân tôi rất tôn trọng những quan niệm truyền thống về giá trị làm người, đối với văn hóa phương Đông của dân tộc Trung Hoa cổ xưa và truyền thống đạo đức đều nhất mực quý trọng, như nhân lễ nghĩa trí tín, chân thành, lương thiện, nhường nhịn, v.v. Tôi cũng biết những giá trị đạo đức này tất cả mọi người đều chấp nhận và quý trọng, là căn bản để làm người. Đương nhiên, tôi cũng không nói rằng tôi đã thực hiện được tốt, thật ra là còn thiếu sót nhiều. Nhưng trong sinh hoạt hằng ngày, nhiều người hoặc vì tư tâm thúc giục, hoặc vì tư dục bành trướng, hoặc vì chịu nhiều áp lực, thời gian dần qua mà trệch hướng những nguyên tắc làm người căn bản này, nước chảy bèo trôi, bảo sao hay vậy, thậm chí còn làm những chuyện vi phạm lương tâm đạo đức.
Trong cuộc sống đầy phức tạp và mâu thuẫn này, mọi người đã ảnh hưởng lẫn nhau, tiêu chuẩn đạo đức cùng quan niệm đạo đức tựa như đã thay đổi và sai lệch, mà tiêu chuẩn đạo đức cùng quan niệm đã bị thay đổi ấy lại bắt đầu vô tình thay đổi loài người. Lúc bấy giờ, một người chứa đủ loại quan niệm, những quan niệm hình thành sau này (hậu thiên) giờ đây quay lại chi phối lời nói và hành động của con người. Một ví dụ nhỏ dưới đây có thể giúp bạn nhìn thấy rõ sự thay đổi trong tiêu chuẩn và quan niệm đạo đức của xã hội bây giờ.
Trong thập niên 50-60, nếu có một người trộm ví tiền của bạn, hơn một nửa mọi người sẽ trách móc tên trộm kia, bảo tên trộm kia thiếu đạo đức ra sao, làm bậy thế nào; nhưng thời nay nếu bạn bị trộm tiền, mọi người hầu hết sẽ trách bạn mà ít trách kẻ trộm, nói bạn không chú tâm sơ sẩy thế nào, đáng đời; dường như chuyện này ngày càng thấy nhiều hơn, chính là có phần của bạn tạo thành đó! Có lẽ bạn cảm thấy lạ, tôi cũng thấy tên trộm không đúng, sao mọi người đều nói lỗi ở tôi. Còn nữa, trên TV hay báo chí mọi người có lẽ đã từng gặp chuyện tương tự như vậy, có một vị quan chức bị phạt vì tham ô nhận hối lộ, đã nói trong lúc thẩm vấn rằng, lúc trước anh ta chỉ làm một động tác nhỏ mà thôi, còn hùng hồn tự tin nói rằng cấp trên của anh ta còn tham ô nhiều hơn, anh ta chỉ nhận hối lộ một chút thì được tính là cái gì; bạn nói tiêu chuẩn đạo đức và quan niệm của anh ta không phải đã sai lệch thậm chí bị bóp méo rồi sao. Kết quả là xu thế không thể vãn hồi, theo tư dục bành trướng, ham ít thành tham nhiều. Phải chăng tiêu chuẩn đạo đức cũng sẽ thay đổi theo quan niệm của xã hội? Thật ra nó không thay đổi, cái thay đổi là tư tưởng của con người đã sai lệch so với tiêu chuẩn đạo đức. Nhiều người trong thời buổi kinh tế thị trường ngày nay xem mọi chuyện đều xuất phát từ tiền và tư lợi, người vì tiền mà chết, chim vì thực mà vong, người không vì mình, trời tru đất diệt, những lời này đã thành lời răn mất rồi!
Tôi còn từng nghe qua một đoạn phát biểu như sau: “Một người sinh ra ở Trung Quốc, anh ta lớn lên trong hoàn cảnh sinh hoạt ở đó, sau khi trưởng thành sẽ dùng tư duy được hình thành ở nơi ấy mà nhìn nhận thế giới này, hiển nhiên quan niệm hậu thiên hẳn sẽ chứa dấu ấn của cuộc sống nơi Trung Hoa ấy. Nếu như có thể làm một thí nghiệm lại từ đầu đối với người đó, khi anh ta vừa mới sinh ra tại Trung Quốc liền đưa anh ấy đến nước Mỹ, để anh ấy lớn lên trong hoàn cảnh sinh hoạt nơi đó, như vậy sau khi trưởng thành anh ấy sẽ dùng tư duy được hình thành trên nước Mỹ mà nhìn nhận thế giới, hiển nhiên quan niệm hậu thiên hẳn sẽ chứa dấu ấn của cuộc sống trên đất Mỹ. Hai phương thức tư duy này sẽ sai khác nhau rất nhiều”. Dù đây chỉ là một loại giả thuyết, cũng không thể làm thí nghiệm tương tự như vậy, nhưng trong cuộc sống hàng ngày, chuyện tương tự như vậy hẳn mọi người chứng kiến không ít. Hai anh em sau nhiều năm thất lạc, một người lớn lên trong nước, một người sống ở nước ngoài; sau khi trưởng thành, hai người gặp nhau một chỗ, phát hiện quan niệm đối nhân xử thế khác nhau rất nhiều. Có khi tại một nơi một chuyện thậm chí còn là một hiện tượng phổ biến, nhưng có nơi thì chuyện đó không thể phát sinh, không thể xảy ra. Ở đây cũng có thể do bối cảnh quan niệm đạo đức bất đồng, cũng có phần do bất đồng của từng chế độ xã hội. Như vậy, quan niệm của một người hơn phân nửa là hậu thiên hình thành, vậy bản tính tiên thiên (ban đầu) của anh ta là gì? Trong Phật giáo có lấy một chiếc gương làm ví dụ, nói rằng chỉ khi lau bụi bẩn đi thì mới có thể thấy cái trong sáng mà mặt gương vốn có, một người cũng chỉ có thể lau đi bụi trần phong bế tâm linh mới có thể hiển lộ ra bản tính hồn nhiên lương thiện.
Thánh hiền nói rằng: con người chính là anh linh của vạn vật, sinh mệnh là quý giá, sinh mệnh thật ra là bất diệt, nên con người cần sống trong lương thiện. Làm người cần phải tích đức làm việc thiện, bởi vì thiện ác hữu báo, hết thảy đều không thoát khỏi nhân quả báo ứng, chỉ là người trong mê không ngộ, khi báo ứng đến thì một bên cảm thán mình thiếu may mắn mà oán trời trách đất, một bên lại thấy chỉ là ngẫu nhiên trùng hợp; thật ra, một người làm ác thì hại người ta và hại cả bản thân mình, bởi vì anh ta tạo nghiệp và tổn đức, nên báo ứng chỉ là chuyện sớm hay muộn.
Thiện, là thiên tính của mỗi người. Thiên tính này không giống với bản năng, cũng không giống với quan niệm. Một đứa bé ngây thơ, một người lương thiện khi gặp một người lạ hoặc là con vật gặp nạn, đứa bé hay người đó sẽ khó chịu thậm chí rơi lệ, việc này không cần phải trải qua suy nghĩ phán đoán. Lương thiện là tiêu chí của đạo đức, làm người không thể không có thiện niệm. Nhưng thiên tính lương thiện ấy lại yếu ớt, một khi liên quan đến lợi ích cá nhân thì thường sẽ bị bỏ qua một bên. Nếu một người thấy người mình ghét đang gặp nạn, anh ta có thể sẽ không cảm thấy khó chịu, trái lại có thể cảm thấy vui sướng, nói không chừng từ trong kẽ răng còn phát ra hai chữ: “Đáng đời!” Chỉ e ngay anh ta cũng cảm thấy lạ: “Thiện vì sao trong lúc vô tình lại biến thành ác rồi?” Nguyên nhân ở tại tư tâm của mỗi người. Khi một việc liên quan đến lợi ích của cá nhân, lòng người tự sẽ có khuynh hướng nghiêng về phía có lợi cho mình, “Thiện” trong tâm anh ta sẽ không còn trọng lượng. Nếu tư dục bành trướng quá mức, thiên tính lương thiện sẽ bị đánh mất hầu như không còn, bởi vậy có câu nói ‘táng tận lương tâm’, ai mà ngăn cản anh ta, anh ta liền như “cơn giận từ trong tim mà lên, ác tâm từ bên gan mà sinh”, lục thân không nhận (*), không còn thiện niệm.
Trong thời buổi khoa học phát triển ngày nay, mọi người đối với việc coi trọng đạo đức thật không bằng người xưa, từ lúc nền văn minh nhân loại được bắt đầu, Phật Thích Ca Mâu Ni, Lão Tử, Chúa Jesus đã dùng trí huệ và từ bi của bậc Giác Giả mà dạy dỗ con người hướng Thiện. Hôm nay, khi khả năng tự kiềm chế của nhân loại bị hạ thấp, nếu có ai có thể khiến hàng nghìn hàng vạn người nhanh chóng đề cao đạo đức của mình, thì người đó thật ra đang cứu người trong nước sôi lửa bỏng, người đó đang phổ độ chúng sinh.
Lịch sử thường lặp lại, năm đó Chúa Jesus truyền Pháp, Do Thái giáo đem Cơ Đốc giáo cho là tà giáo, ngay cả Chúa Jesus cũng bị môn đồ của mình bán đứng, có thể hiểu tình hình lúc đó nghiêm trọng và hung ác thế nào. Nhưng sau đó mấy ngàn năm, vẫn còn có dân tộc bị đuổi giết khắp nơi, khiến cho cửa nát nhà tan trôi dạt vô định, mãi đến nay vẫn không được an bình, điều này là ngẫu nhiên sao? Hôm nay, Pháp Luân Đại Pháp hồng truyền khắp thế gian, đây vốn là may mắn của dân tộc Trung Hoa, cũng là may mắn của toàn bộ nhân loại. Thật sự là có ích cho xã hội, có ích cho con người, trên toàn thế giới đều lưu truyền rộng rãi và ngợi ca. Cũng ở nơi khởi nguyên mà bị bịa đặt vu oan bức hại to lớn nhất, công kích kia quả thật là rợp trời dậy đất. Thế mà, phần lớn học viên Pháp Luân Đại Pháp một mặt chịu đựng nỗi đau không nói nên lời, một mặt dùng đại Thiện đại Nhẫn minh chứng sự tốt đẹp của Pháp Luân Đại Pháp, nhằm cứu rỗi người đời, khuyên mọi người sống lương tâm và chính nghĩa. Nghe nói trên toàn thế giới có hơn một trăm triệu học viên Pháp Luân Đại Pháp, hơn nữa hầu hết các học viên dẫu sống trong nhiều năm bị áp bức nghiêm trọng mà không buông bỏ tu luyện. Không phải tinh thần rỗng không, cũng không mưu cầu chính trị. Đơn giản chỉ vì Pháp Luân Đại Pháp thật sự làm thay đổi thân thể của họ, làm cho bệnh tật kinh niên biến mất, khiến nội tâm họ trở nên lương thiện, thuần chân…
Người có thiện tâm
Tác giả: Quán Minh
Người Trung Quốc có câu tục ngữ: “Người tham lam sẽ muốn ngày càng nhiều, giống như con rắn muốn nuốt lấy cả con voi”. Một cá nhân nếu không biết bằng lòng thì sẽ chỉ cảm thấy đủ khi đã có một tài sản khổng lồ. Như vậy người ấy sẽ không bao giờ hạnh phúc thật sự. Tài nguyên vật chất trên thế gian là hữu hạn, nhưng ham muốn giàu có của con người lại là vô hạn. Do vậy để thực sự hạnh phúc và vui vẻ, người ta phải biết kiềm chế dục vọng của bản thân, đồng thời bảo trì thiện niệm trong tâm.
Nhiều người ghen tỵ với các tỷ phú và ao ước trở thành tỷ phú, nhưng ít người biết rằng nếu không có thiện tâm, thì một tỷ phú cũng không thể hạnh phúc hay vui vẻ thật sự, mặc dù ông giàu hơn nhiều người khác. Một người bạn của tôi là y tá tại một bệnh viện ở Singapore. Cô ấy kể với tôi rằng một trong những người giàu nhất Indonesia đến nằm tại bệnh viện nơi cô làm hàng năm. Ông ấy giàu có như một vị vua, nhưng việc nhập viện liên tục của ông lại không liên quan gì đến tình trạng sức khỏe của ông. Ông vào viện là để trốn các bà vợ và con cái ông, những người luôn vòi tiền từ ông. Theo người đàn ông này, ông có sáu bà vợ lớn nhỏ, nhưng không ai trong số họ yêu ông, ngoại trừ người vợ thứ hai là một tín đồ Cơ Đốc giáo. Tất cả những bà vợ khác chỉ thích tiền và tài sản của ông. Ông muốn sống với người vợ thứ hai, nhưng người vợ cả lại không cho phép điều đó. Ông có tổng cộng hơn 80 người con và cháu. Khi ông nhập viện, con cháu ông đã đổ xô tới bệnh viện và xếp hàng để thăm ông. Nhưng ông thất vọng khi biết rằng tất cả họ tới chỉ là để phân chia tài sản của ông. Không ai trong số họ quan tâm tới sức khỏe của ông cả. Do đó ông thường dùng thuốc ngủ để tự an ủi mình. Ông là một người đàn ông rất cô độc, và không hạnh phúc chút nào.
Một cuộc sống vật chất sung túc mang đến cho chúng ta hạnh phúc tạm thời, nhưng một trái tim lương thiện lại mang đến cho chúng ta hạnh phúc trong cả một đời. Không ai hiểu được giá trị chân thực của cuộc sống không phải nằm ở nhận, mà nằm ở cho. Trong kiếp nhân sinh, danh lợi, tiền tài, vàng bạc, châu báu,… đều là vật ngoại thân, và chúng không thể thỏa mãn một người luôn truy cầu vào mọi lúc. Còn thiện tâm là sự giàu có trong tâm hồn. Nó giống như một tia sáng mặt trời tỏa sáng thế giới của chúng ta, cùng những người xung quanh chúng ta. Thiện tâm là lòng tốt, là tình yêu thương và là cảm xúc tốt đẹp nhất của nhân loại. Thiện tâm sẽ cho chúng ta một cuộc sống hạnh phúc nhất. Thiện tâm cũng giống như nước vậy. Nó làm tươi mát nơi khô cằn và thỏa mãn cơn khát của nội tâm. Một người thiện tâm sẽ không đối xử với mọi người như kẻ thù. Anh ta luôn biết hài lòng với bản thân mình. Anh ta sẽ không bị làm phiền hay xáo động bởi đủ loại rắc rối và mâu thuẫn trong cuộc sống. Hạnh phúc và vui vẻ thật sự nằm sẵn trong tâm anh ta.
Lão Tử, nhà tư tưởng Trung Quốc cổ đại nói như sau trong cuốn “Đạo Đức Kinh”: “Tri túc chi túc, hằng túc hĩ”. Nghĩa là biết thế nào là đủ thì sẽ vĩnh viễn không thiếu gì. Một người thiện tâm có thể không có nhiều của cải, tài sản, xe hơi hay tiền tiết kiệm, nhưng anh ta biết thế nào là đủ và vui hưởng một cuộc sống hạnh phúc.
Dịch từ:
http://www.zhengjian.org/zj/articles/2005/5/11/32299.html
http://www.pureinsight.org/node/3290
Thứ Hai, 24 tháng 11, 2014
Think different – Hay là tâm lý bầy đàn
Đầu tiên, câu hỏi của tôi là: Bạn muốn suy nghĩ bằng cái đầu của bạn, hay là cái đầu của người khác? Và nếu suy nghĩ bằng cái đầu của người khác, thì cái đầu của bạn được dùng để làm gì?
Thực ra bài viết cũng chẳng bàn đến điều gì sâu xa lắm, mà đơn giản chỉ là: nghĩ khác. Nghĩ khác thường, đi khác hướng. Người viết chưa đủ trình độ bàn đến cụm từ “Think Different” nổi tiếng gắn liền với Steve Jobs, chỉ là muốn mượn đôi từ tiếng Anh để minh họa cho điều sắp trình bày thôi.
Và đây cũng là những ý kiến cá nhân. trong bài cũng sẽ không có dẫn chứng nào từ các cuốn sách bán chạy hiện nay cả. (Mặc dù có rất nhiều: Dám Khác Biệt, Tư Duy Đột Phá, Khác Biệt Hay Là Chết….) Đọc ít thì không dám trích nhiều, sợ sai.
Trong kinh doanh
Ví dụ kinh doanh đồ công nghệ. Những người nghĩ tủn mủn chỉ chăm chú đua nhau làm thế nào để giảm giá thành, giảm chi phí sản xuất, đại loại là đua nhau những cái trước mắt để tạo khác biệt về giá cả, giành nhau thị trường. Những người nghĩ khác, như Steve Jobs, đã đem lại cả một trải nghiệm mới mẻ hoàn toàn cho khách hàng. Nó mới mẻ đến mức định nghĩa lại về sản phẩm công nghệ trước đây, gần như là định nghĩa lại nó vậy.
Ở một nơi khác, đâu như cái tấm hình trên kia. Tôi mường tượng ra câu chuyện này: người ta chen nhau đi thang máy, thì anh đi bộ. Anh nghĩ: “Sao người ta lại chen chúc nhau đi thang máy nhỉ? Thoải mái gì đâu?” Người ta chen nhau và nghĩ: “Thằng đần kia sao lại thích đi bộ nhở? Đi thang máy có phải tiện hơn không?” Họ có một ý niệm gắn chặt trong đầu rằng: Đi thang máy thì nhanh và tiện hơn đi bộ. Luôn là thế. Hơn nữa, họ còn chia sẻ với nhau về điều đó. Những người đi thang máy khác lại nghĩ: “Ừ đúng! Sao thằng kia lại đi bộ nhỉ? Ngu quá!” Thế là họ xì xào, dè bỉu anh chàng kia. Được cái xì xào gièm pha người khác như vậy cũng làm cho họ tạm quên đi cái tình cảnh khốn khổ mà họ đang tự nguyện chui đầu vào.
Trong suy nghĩ
Đại đa số người đều nghĩ theo một lối, và thiểu số còn lại nghĩ theo lối khác. Chính vì chiếm đa số, nên suy nghĩ của họ được gọi là “thông thường, phổ thông, quy chuẩn”, còn những suy nghĩ thiểu số kia, hoặc được gọi là “mới mẻ, độc đáo, khác lạ” – nếu nó không đả kích số đông, và ngược lại, sẽ là “khùng điên, dở hơi, lạc loài”. Chính vì thế mà tâm lý đám đông được hình thành. Lý giải cho điều này, tôi cho rằng, đó là vì con người có tâm lý sợ cô đơn. Và cả sợ ý kiến trái chiều nữa.
Có lẽ hầu hết mọi người đều có 2 nỗi sợ ấy, chỉ khác nhau là cách mà mỗi người đối diện với nó. Ở đây tôi tạm chia ra 2 kiểu người: người-dám-nghĩ-khác và người-không-dám-nghĩ-khác. Người-dám-nghĩ-khác thì cần người, chỉ một thôi cũng được – ỦNG HỘ mình, để họ có thêm sức mạnh và tự tin theo đuổi lý tưởng của mình. Phương pháp của họ là “nghĩ là nói những gì họ đang theo đuổi, mặc cho thành kiến hay dư luận đả kích”. Người-không-dám-nghĩ-khác thì tham lam hơn. Họ cần thật nhiều người, không hẳn gọi là ủng hộ – mà là có cùng suy nghĩ với mình, để tạo áp lực, để thành lập “sự biểu quyết lấy số đông”. Đương nhiên, ít người thì làm sao tạo ra đa số được. Và phương pháp của kiểu người này là “nói những gì nhiều người muốn nghe” (chưa cần biết nó đúng hay sai).
Biểu quyết lấy ý kiến số đông
Tôi đưa cả cái này vào trong bài viết vì nhận thấy nó có liên quan đến chủ đề. Bản thân tôi nghĩ, biểu quyết lấy ý kiến số đông chả mang lại ý nghĩa gì, ngoài việc gạt bỏ đi một LƯỢNG KHÁ LỚN CÁC Ý KIẾN TRÁI CHIỀU KHÁC NHAU KHÔNG ĐƯỢC ỦNG HỘ. Đó là trong điều kiện tất cả mọi người đều chưa biết ý kiến nào đúng, ý kiến nào sai. Mục đích và cách thức của việc làm này, hay là cả bản thân nó nữa, là vớ vẩn. Người ta có xu hướng chọn một ý kiến với cái đúng-cái sai chung (ý kiến nhiều người mà), mà bỏ qua hàng bao nhiêu các ý kiến khác (với cái đúng-cái sai khác). Đó là một sự phủ định mù quáng, hậu quả rất đáng trách của tâm lý bầy đàn.
Quả ngọt – quả đắng
Trước hết là dành cho những người-có-suy-nghĩ-khác-biệt. Quả đắng, đối với họ cũng không quá đắng. Họ nếm quen rồi, thứ đắng nhất mà họ phải nếm là sự bất đồng ý kiến của người khác. Vậy nên, khi họ sai, họ sẽ chỉ bị lãng quên. Nếu họ đúng, thì một trong số họ sẽ được vinh danh (như Steve Jobs, Galilei …), sẽ được nhớ tới, và hai trong số họ sẽ chết trong lý tưởng của mình, trong một căn phòng lạnh lẽo không người thăm hỏi. Đắng đến thế thôi.
Còn với những người-không-dám-nghĩ-khác, mọi chuyện phức tạp hơn một chút
Quả ngọt, là khi ý kiến của anh TRÙNG với ý kiến số đông (TRÙNG, chứ không phải ĐÚNG – đám đông cũng đúng, cũng sai), với tài lèo lái ngôn từ, anh sẽ được làm người đại diện, được tung hô, “được” nhận trách nhiệm dẫn dắt tư tưởng, “được” đứng mũi chịu sào. Quan điểm của anh có sai cũng chả mấy ai dám bắt lỗi anh. Vì sao? Anh sai, nghĩa là phần đông người ta cũng sai. Có mấy ai muốn chặt bỏ cái chân của mình đâu chứ? Anh góp phần làm số đông ủng hộ mình cảm thấy có giá trị hơn, vì họ có quan điểm trùng-với-người-đại-diên (một kiểu ám thị), kiểu “lý tưởng chung” “chí lớn gặp nhau”. Ý kiến của anh đúng, thì không sao, Ý kiến của anh sai, đó là lúc anh có thể được nếm quả đắng.
Quả đắng, là một ngày, anh nhận ra: “Ôi bỏ tía rồi, mình trước giờ sai mất rồi.” Anh không hiểu vì sao trước nay mình lại mù quáng đi theo một lối tư tưởng sai lầm như vậy. Nhưng tôi biết: đơn giản là vì “người ta” nghĩ thế, vì số đông nghĩ thế. Hoặc “ai trong đời chả có phút ngu dại mà lầm lẫn”. Nhưng vấn đề ở đây là bây giờ anh làm gì tiếp? Chả nhẽ giờ lại tách khỏi cộng đồng à?
Tự dưng anh lại nhớ tới chuyện Con dơi và đại chiến Chim-Thú (hay gì đấy đại loại thế). Khi bầy chim thắng loài thú, dơi tự nhận mình là loài chim vì nó bay được. Khi loài thú chiếm ưu thế, dơi lại nhận mình là thú vì nó có răng, có 4 chân, có vú. Cuối cùng cả loài chim lẫn loài thú đều cạch dơi ra. Anh không thể làm con dơi được. Đối mặt với cả một tập thể là điều đần nhất mà người ta làm – anh nghĩ thế. Nhưng theo họ thì anh sai mất rồi! Thế là anh bị kẹt trong cái mâu thuẫn cá nhân (tạm gọi là “xung đột lợi ích”), sự xung đột giữa “số đông” và “số ít”, giữa “đúng” và “sai”. Thật thảm! Anh còn biết nhận ra đúng sai, người ta chẳng cần suy nghĩ thì vui cười khi nằm trong đám đông, ai sung sướng hơn?
Những người như nhân vật ở trên vì đám đông mà còn không dám tranh luận về quan điểm của mình. Họ biết đám đông sai trái, cổ hủ, lạc hậu, ngu ngốc, bầy đàn, nhưng họ không dám tách khỏi đám đông. Chẳng hiểu sao người ta lại tham lam thế: Muốn cả đôi đường. Vừa muốn cái đúng được thực thi, lại vừa muốn không bị đám đông trù dập. Lại còn không muốn mất gì nữa! Họ muốn được thừa nhận là đúng, nhưng lại cũng không muốn rủi ro. Và nghĩ đi nghĩ lại, có lẽ nằm trong nhóm vẫn dễ sống hơn. Trong ấy, anh có quyền góp mồm chửi người khác mà không sợ bị chửi lại, vì nếu có bị chửi, cả đám sẽ nghe cùng anh (tinh thần đồng đội thật cảm động!). Khi bị lên án, cả đám sẽ nghe cùng anh, và ai cũng nghĩ: “Chắc nó chừa mình ra!”
Bạn muốn gì?
Bạn muốn được là chính mình, muốn nuôi lớn thứ bạn sinh ra trong đầu? Chẳng có chỗ nào đón chào bạn cả, ngoài nơi mà bạn sẽ bắt đầu!
Bạn muốn sự an toàn, muốn sống trong tập thể, muốn có bè cánh? Hay tiêu cực hơn, bạn muốn “một cái chết tập thể” để không ai ganh ghét tị nạnh với ai? Bạn muốn chính kiến của mình được ủng hộ (chính kiến của bạn, hay là kết quả của sự biến dạng tư tưởng để chiều lòng số đông?) mà không phải chịu búa rìu dư luận? “Đám đông” là bến đỗ của bạn!
Những người dám nghĩ khác
Những người nghĩ khác, bản thân họ đã có vài ưu điểm: có cá tính riêng biệt, dũng cảm, tự tin, dám thể hiện, dám đối đầu. Với những đức tính đó, họ đã tự biến mình thành những cá thể có giá trị. Bởi họ tạo ra điều mới lạ, điều khác biệt, quan trọng nhất, họ tạo ra các chuẩn mực giá trị mới, làm phong phú các đặc tính của cuộc sống.
Không có họ, ta không có những điểm đến mới, không có những khám phá mới, những trải nghiệm khác biệt. Chẳng bao giờ ta biết các khái niệm “khác biệt” “độc nhất” “cái tôi” “phong cách” nếu họ không xuất hiện. Thế mà công việc mà ta vẫn hay làm, đó là phủ định điều khác biệt, phủ định điều trái ngược. Biết đâu, là vì ganh tỵ? Bởi trong thâm tâm ta, đã bao lần ta ghét người khác chỉ vì họ khác biệt, vì họ nổi trội hơn, trong khi thực sự ta vẫn mong mỏi được như họ?
Kết
Vincent van Gogh, cả đời sống trong nghèo đói và cô độc, chết cũng trong cô độc và nghèo đói. Tranh của ông không bán được lúc ông còn sống. Nhưng thật may, người đời sau lại nhìn ra phong cách và cái tôi của ông.
Pablo Picasso, cũng có thời vẽ tranh mà ế ẩm, chẳng ai thèm ngó, các chủ cửa hàng tranh cũng không thèm mua. Khi tiền gần cạn, ông mới nghĩ ramột kế: dùng vài đồng cuối cùng, nhờ mấy anh sinh viên một việc, là hàng ngày, cứ lượn qua mấy cửa hàng tranh, chỉ cần hỏi: “Ở đây có bán tranh của Picasso không?” Rồi ra về với vẻ tiếc nuối. Vậy là vài hôm sau, tranh của Picasso bán đắt như tôm tươi, và người ta sau này mới biết có một ông họa sĩ Picasso trên đời.
Thiên tài, hầu hết khi chưa được công nhận là thiên tài, họ thường bị coi là thằng khùng, kẻ điên, đồ dấm dớ. Bởi “tội” dám nghĩ điều khác biệt, dám nói sự khác biệt, dám đi ngược dòng đám đông. Bởi vì dám khác đám đông, nên đám đông cố gắng đào thải họ. Thật xót xa thay cho những ai không thể chống lại nổi số đông và mang xuống mồ nỗi uất ức của mình trong quên lãng và cô độc. Nhưng cũng thật may thay, vẫn còn những người xoay chuyển được cả đám đông bằng lý tưởng của mình, để sau này người ta vẫn còn nhớ, vẫn còn nhắc tới như một vĩ nhân.
Lời sau cùng tôi muốn nói, cũng là suy nghĩ của tôi: Hãy cứ suy nghĩ khác, nói khác và làm khác. Dĩ nhiên ta vẫn còn sợ: sợ dư luận, sợ định kiến, sợ đám đông tẩy chay. Hoặc thế này: bạn vẫn có quyền lựa chọn. Chọn làm người khác biệt, và sẵn sàng đón nhận những cái tát. Có thể bạn cứng cáp hơn, hoặc không thể gượng dậy nổi. Hoặc chọn làm người-không-dám-khác-biệt. Đằng nào cũng tốt cả: Khi làm người khác biệt, bạn có quyền phá bỏ mọi giới hạn về tư duy, mọi định kiến xã hội, mọi hệ tư tưởng bạn cho là cản trở sự phát triển ý thức của bạn. Khi làm người-của-số-đông, luôn luôn có một đám cánh hẩu ở bên bạn, sẵn sàng “chia ngọt sẻ bùi” với bạn!
Phạm Thanh
Chữ Thư- sự ung dung, tự tại
Epoch Times Staff
Người ta thường hay chúc nhau có một cuộc sống an nhàn, thoải mái. Một số người tin rằng cuộc sống thoải mái là khi đáp ứng được những nhu cầu cơ bản của bản thân, trong khi nhiều người khác quan niệm sự yêu thương và những lời ca ngợi sẽ khiến họ cảm thấy thoải mái. Vậy, như thế nào là một cuộc sống bình an, thoải mái? Chúng ta cùng tìm hiểu sự an bình qua Hán tự 舒 (Thư).
Chữ (Thư) trong tiếng Trung có nghĩa là sự thanh thản, an nhiên và được ghép bởi hai ký tự (Xả) – có nghĩa là buông bỏ và (Dữ) – có nghĩa là ban tặng. Chỉ khi buông bỏ được những lợi ích bạn tìm kiếm trong cuộc sống của mình thì tâm hồn bạn mới thật sự thanh thản. Cũng vậy, khi trao tặng những điều đó cho người khác, bạn sẽ thật sự cảm nhận được những điều nhỏ bé nhưng vĩ đại trong cuộc sống.
Người Trung Quốc có một câu ngạn ngữ cổ rằng: khi bạn “lùi một bước”, cả đại dương và bầu trời sẽ trở nên rộng mở trước mắt bạn. Đó là, khi bạn buông bỏ những ham muốn vị tư cho bản thân, bạn sẽ tìm thấy điều quý giá thật sự và sự bình an trong cuộc sống.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)