Tác giả Johan Peter Hebbert (1760-1828) là tiểu thuyết gia nước Đức.Truyện ngắn Cuộc đoàn viên bất ngờ này đã được B.L. Franz Kafka, nhà tiểu thuyết Áo ca ngợi là “Truyện ngắn hay nhất trên thế giới”. Rất nhiều nhà văn nổi tiếng đều ca tụng truyện ngắn này là “Hạt ngọc hiếm thấy trên thế giới”. Bản dịch sang tiếng Trung của dịch giả Uất Thông, đã đươc đăng trên tạp chí “Thanh niên tham khảo”, số ra ngày 25-2-2011, là bản Trung văn đầu tiên của tác phẩm này xuất hiện ở Trung Quốc... Chúng tôi chuyển ngữ sang tiếng Việt từ bản Trung văn trên để bạn đọc tham khảo.

Sau 50 năm, một bộ thi thể đàn ông như đang ngủ, đã được khai quật nguyên vẹn lên từ một hầm lò, nhưng không có người đón nhận anh ta, bởi vì tất cả thân bằng cố hữu đều đã quá cố. Chỉ có một bà lão già, bỗng quỳ mọp xuống trước quan tài…
50 năm trước, tại Fallon (Thuỵ Điển), một thợ mỏ trẻ hôn vợ chưa cưới trẻ trung xinh đẹp của anh ta, nói: “Trong Lễ hội tôn giáo Saint Lucia, linh mục sẽ chúc mừng hạnh phúc cho tình yêu của chúng mình, chúng mình sẽ trở thành vợ chồng, bắt đầu xây dựng gia đình hạnh phúc của chúng mình.”
“Mong muốn tình yêu hoà mục sẽ vĩnh viễn ở bên chúng mình!” Vị hôn thê đáng yêu của chàng tươi cười nói ngọt lịm như mật ong: “Anh là tất cả của em, không có anh, em sẽ không sống nổi.”
Ngày hôm sau, chàng trai trẻ mặc lên người bộ đồng phục màu đen của thợ mỏ (mỗi người thợ mỏ đều phải chuẩn bị sẵn tươm tất tang phục của mình). Khi đi qua nhà của vợ chưa cưới, chàng trai lại gõ nhè nhẹ vào cửa sổ của nàng như mọi lần trước, chào nàng chúc nàng buổi sáng ngủ ngon. Nhưng đến chiều tối, nàng lại không nghe thấy lời chúc buối tối ngủ ngon của chàng, bởi vì ngày hôm ấy chàng không từ hầm lò lên và trở về nhà. Buổi sáng hôm ấy, nàng đã cẩn trọng thêu rua viền đỏ lên chiếc khăn choàng màu đen, đấy là công việc chuẩn bị của nàng cho bộ quần áo mà chàng sẽ mặc trong lễ cưới. Thấy chàng hôm ấy không trở về nhà, nàng bèn cất giữ chiếc khăn choàng ấy lại.
Cũng chính vào ngày hôm ấy, thành phố Lisbon ở Tây Ban Nha xẩy ra động đất, cả thành phố bị động đất thiêu huỷ. Từ đó về sau, cuộc chiến tranh dài đến 7 năm mới kết thúc, hoàng đế Francis đệ nhất băng hà, Giáo hội Gia Tô bị giải tán, Ba Lan bị chia cắt, hoàng hậu Maria Theresa cũng qua đời, Shitelinze bị xử quyết, nước Mỹ độc lập, liên quân Pháp và Tây Ban Nha đánh chiếm Gibaraltar thất bại. Người Thổ Nhĩ Kỳ tống giam tướng Stan vào hang động Witte Rani, hoàng đế Gustav cũng quy tiên. Quốc vương Thuỵ Điển Joseph đánh chiếm Phần Lan, Cách mạng Pháp nổi lên, chiến tranh liên miên bắt đầu, hoàng đế Leopald đệ nhị bị chôn sống. Napoleon đánh bại nước Phổ, người Anh oanh tạc Copenhagen. Nhưng nông phu vẫn cầy cấy ngoài ruộng như thường, chủ các phường xay xát vẫn xay xát ngô như thường, những người thợ rèn vẫn quai búa rèn rũa công cụ, những người thợ mỏ vẫn đào xúc khai thác dưới hầm lò như thường.
Nhưng vào năm 1809, sau 50 năm, trong thời gian Lễ hội tôn giáo Saint Lucia, những thợ mỏ tại một mỏ than Fallon (Thuỵ Điển) đã ra sức khai thông một đường giữa các hầm thông gió, đã từ trong đá vụn và nước acid Sun-fua-rích dưới độ sâu 275 mét tìm kiếm được một bộ thi thể chàng trai trẻ, không biết đã ngâm trong bao nhiêu năm, mà thi thể vẫn chưa thối rữa, vẫn giữ được hoàn hảo, tất cả đặc điểm nhận dạng và tuổi tác vẫn phân biệt được rất rõ ràng, giống như vừa chết trước đó một giờ hoặc đang ngủ gật sau khi làm việc quá mệt.
Song khi đưa chàng lên mặt đất, cha mẹ của chàng, thân bằng cố hữu của chàng đã đã từ trần từ lâu, không có ai đứng ra nhận chàng trai trẻ “đang ngủ” này, cũng không có người còn nhớ vụ tai nạn của chàng. Cho đến khi một bà già đã từng thệ hải minh sơn với người thợ mỏ đến, mọi người mới biết chàng là ai. Bà cụ già tóc bạc như cước, lưng còng chống gậy, tập tễnh từng bước đi đến gần thi thể đang nằm. Bà cụ bỗng nhận ra chàng là chú rể năm xưa của bà. Không hề bi thống, mà rất chi là vui mừng, bà quỳ mọp xuống trước quan tài quàn ý trung nhân mà ngày nhớ đêm mong. Mãi sau, bà mới khôi phục lại những tình cảm xúc động mãnh liệt.
“Anh là chồng chưa cưới của tôi” - Cuối cùng bà nói: “Trong suốt 50 năm qua, tôi luôn luôn lặng lẽ cầu nguyện cho anh ấy. Bây giờ, Thượng đế rủ lòng thương tôi, cho tôi được tận mắt nhìn thấy anh một lần nữa trước khi tôi chết. Một tuần lễ trước khi chúng tôi cử hành hôn lễ, anh đã xuống dưới hầm lò, từ lúc ấy không bao giờ lên nữa.”
Khi trông thấy bà già dung nhan phôi pha, không còn sức lực nữa, chính là cô dâu trẻ trung xinh đẹp năm xưa, mọi người có mặt tại chỗ đều vô cùng cảm động trước bi kịch của bà.
50 năm sau, ngọn lửa tình yêu mãnh liệt thời trẻ lại đốt cháy trong lòng bà, song chàng không nhoẻn miệng cười một cái với bà, cũng không mở to mắt nhìn bà một cái. Là người thân duy nhất của chàng trai trẻ và là người duy nhất đón nhận chàng, được sự giúp đỡ của những người thợ mỏ khác, cuối cùng bà già đã đưa thi thể của chồng chưa cưới về nhà bà. Những người thợ mỏ ngay trong đêm đã xây dựng cho chàng một ngôi mộ tai nghĩa địa nhà thờ.
Ngày hôm sau, ngôi mộ được xây xong. Những người thợ mỏ đến nhà bà lão khiêng thi thể của người chết. Khi ấy, bà mới mở quan tài, đưa chiếc khăn màu đen rua chỉ đỏ chung quanh, choàng lên thi thể, tiếp theo, bà mới mặc lễ phục ngày lễ đẹp nhất đến nghĩa trang, đây không giống lễ tang của chồng chưa cưới, nghiễm nhiên giống như hôn lễ của bà.
Đúng vào lúc những người thợ mỏ đưa quan tài xuống mộ an táng, bà nói: “Một mình anh đã nằm yên trên chiếc giường cưới lạnh lẽo ngủ thêm một ngày, một tuần lễ, hoặc lâu hơn nữa đi! Em vẫn còn mấy việc chưa làm xong, sau khi làm xong, em sẽ rất nhanh chóng đến tìm anh. Ngày hôm ấy rất nhanh sẽ đến, chịu khó đợi chờ em đi, anh thân yêu!”
“Khi từ giã trần thế, tất cả những gì trần thế đã từng cho anh sẽ không tồn tại nữa.” Bà lẩm bẩm nói một mình, rồi từ từ rời khỏi nghĩa trang, lưu luyến không muốn rời, ngoảnh đầu lại nhìn ngôi mộ mai táng ý trung nhân, mấy lần nữa.
VŨ PHONG TẠO
giới thiệu và dịch



![Hình ảnh: GIÁ NHƯ ANH CHẲNG TRỞ VỀ
[Nhân đọc "NGÀY ANH TRỞ VỀ" của Nồng Nàn Phố]
Một ngày trời Hà nội ẩm ương, nắng không nắng, mưa không mưa, lạnh nóng hếch hai viền, tôi nằm ì dương mắt vào desktop, lướt hững hờ những tin tức đẫn đờ trôi. Rồi, như một bức tường sừng sững chắn đứng vòm mắt, một bức tường tua tủa gai, tua tủa xơ, tua tủa những điều gan ruột, găm trầy trật lên khoé mắt kẻ rất ít khi đọc thơ văn mậu dịch, của những người tên tuổi vang bóng hơn tác phẩm của họ. Bức tường chắn ngang tầm mắt, chặn đứng mọi nghĩ suy mông lung khác đang lởn vởn trong đầu tôi, đó chính là một bài thơ với cái tựa đề vô cùng giản dị của Nồng Nàn Phố: “Ngày anh trở về”. Một bài thơ chứa thông tin và sự thật nhiều hơn ngàn vạn dòng lịch sử đã từng ghi. Một bài thơ khía vào ruột gan người đọc những vết lằn bom đạn, rắc vào sống mũi người đọc có lương tri hàng vạn tấn sa tế cay xè vì cảm động. Một bài thơ. Một-bài-thơ.
Anh trở về với một chiếc nạng gỗ trên tay
Gặp con trâu mất một hàm cúi gằm mặt ko nói
Những bước chân khuyết làm loét đường sỏi
Làm loét cả chiếc nón quai nhung
Anh trở về với một nửa cặp mắt trừng
Dây thần kinh méo xệch méo xụa
Bàn tay sáu ngón ngắt một bông lúa
Bông lúa thương anh... cong vuốt lòng đồng
Anh trở về với đầy ắp bi đông
Toàn đất là đất
Anh bảo đó là đồng đội, là bạn anh, là được mất
Có đôi lúc khát lòng, anh lại ngửa cổ, dốc và đau
Mọi câu từ tác giả sử dụng đều giản dị đến trong ngần. Giản dị như những người lính chân chính. Không hề diêm dúa, không hề lên gân, không hề kỹ xảo hay luyến láy phô diễn sự rối rắm. Nhưng những câu thơ cứ mọc ra chan chứa hình ảnh, chan chứa nỗi niềm. Mỗi vần thơ mang tải một sự thật. Mỗi câu thơ hằn chứa một câu chuyện. Mỗi điệp ngữ là cả một sự xát muối vào tim người đọc. 
Người lính trở về sau cuộc tranh, mang trên mình những vết thương bom đạn. Cây nạng gỗ khua xuống đường sỏi như những con dấu của tội ác chiến tranh đóng lên văn bản cuộc đời. Vết chân tròn làm rách cả trái tim người thương ẩn dụ sau hình ảnh chiếc nón quai nhung, đến con vật gần gũi nhất của nhà nông là con trâu cũng u hoài như chẳng nói. Hình ảnh tàn tật, giằng xé tan nát cõi lòng người đọc, có lẽ là hình ảnh “bàn tay sáu ngón ngắt một bông lúa | Bông lúa thương anh… cong vút lòng đồng”. Hiếm có hiếm có hình ảnh nào đẹp mà đau đến vậy. 
Người lính trở về mang theo những chiếc bi đông không còn dùng đựng nước để uống, thay vào đó là những nắm đất của đồng đội còn sót lại sau một chiến tranh. Ngỡ như mình là người hạnh phúc vì sống nhiều hơn đồng đội. Nhưng hay đâu, “Có những lúc khát lòng, anh lại ngửa cổ, dốc và đau”…
Anh trở về lật lại kí ức nát nhàu
Mẹ chết sau ngày anh đi lính
Cha bị bắt, đứa em gái cũng ngã bệnh
Hàng xóm chặt ngọn cúc tần đắp mả cho người hàng xóm khác ... rồi đi!
Những ký ức dội về trong trái tim người lính nơi cố thổ. Mẹ chết, cha bị bắt, em gái cũng ngã bệnh… Những hàng xóm chết không còn xác, phải chặt cành cúc tần làm giả xương phong mộ cho nhau… Những ký ức điêu tàn, những ký ức thê lương, những ký ức chẳng thà đừng trôi về làm gì nữa...
Anh trở về co nhúm đám lông mi
Vắt giọt nước mắt cuối cùng để khóc cho ngày trở về... ngày anh biết tên mình ko nằm trong danh sách liệt sỹ
Ngày người yêu anh thủ thỉ
Vào tai chồng rằng : anh ấy đã trở về với vô số vết thương
Người lính trở về quắt lòng thấy mình không tên trong danh sách của những người được “Tổ quốc ghi công” [Tổ quốc luôn sẵn giấy để ghi tên cho những người nằm dưới mộ]. Nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau nào. Đồng đội ngày ra đi hồ hỡi tay bắt mặt mừng, đồng đội ngày trở về nhìn nhau qua danh sách… Người ấy năm xưa giờ đã có chồng, đêm ôm chồng thủ thi bên tai về người lính trở về với vô số vết thương… Câu thơ chíu lòng độc giả. Nhà thơ như nhà phân tâm học, xỏ dây thừng vào mũi người đọc dắt đi hết nỗi đau này qua niềm đau khác…
Anh trở về dúi mảnh thân khuyết ngược khuyết xuôi nhìn lũ cá nhảy dưới mương
Chắc lẽ chúng chưa quen cuộc đời ko tiếng súng
Con gà mái đến tuổi dậy thì rặn toét mông mà ko rớt trứng
Mà rớt toàn nỗi buồn cục tác cục ta
Có lẽ, trong cả bài thơ, đây là khổ thơ nên thơ nhất. Nghẹn một nỗi nghẹn rất thơ, nấc một niềm nấc rất thơ, nhói một sự nhói rất thơ. Đến bầy cá dưới mương cũng như đã quen tiếng bom tiếng đạn, nay im ắng bình hoà, chúng cũng ngơ ngác tựa như người lính ghim mắt xuống mương kia. Con gà mái chắc có lẽ quen cảnh vừa đẻ trứng vừa chạy bom chạy đạn, nay thinh im rặn mãi chỉ rặn được nỗi buồn trong cục ta cục tác. Khổ thơ đẹp đến lay lắt, đẹp đến cắt cứa.
Anh trở về... với những kí ức bị vò nát nhàu trong hai chữ "hai ta"
Chiếc nhẫn cưới mẹ dành anh ko kịp đeo cho chị
Tay anh dư một ngón... ngón co quắp, ngón cụt, ngón "lẹo" nên chỉ
Đủ sức đeo giùm chị chiếc nhẫn cầu hôn
Anh trở về với nỗi tủi hờn
Của một người ko được nằm trong danh sách liệt sỹ
Của một người chết cha, chết mẹ, chết em, chết hàng xóm, chết luôn người tri kỉ
Của người... chỉ còn sống mỗi ngón tay thừa, ngón tay lẹo mà thôi
Đọc những câu thơ này, tôi nhớ cha thắt quặn. Cha tôi cũng là một người lính đặc công trở về với những mảnh đạn pháo găm vĩnh viễn nơi thành sọ, với 2/3 bánh chè chân trái gửi nơi dòng kinh Xẻo Rán. Ngón tay mọc nhẫn kinh thề bị đạn CKC bắn xuyên qua báng súng AK lấy gọn… Mấy câu thơ nhức nhói đến bồn chồn. Ngón tay thừa ra do bị lẹo. Những nỗi đau và nỗi buồn đâu đó mọc ra thêm…
Anh trở về rụt cổ im ngồi
Gạt nước mắt vào ống điếu
Hít một hơi thật dài vạch lên sân những điều đời, đất nước, hậu thế còn thiếu
Những điều... anh chẳng đòi lại bao giờ 
Những điều chưa chắc còn lại trong thơ.
Nỗi buồn chiến tranh có trong hang triệu người dân nước Việt. Khép lại đau thương ai chả muốn làm. Nhưng còn đó những sự thật cắt cứa gan lòng, còn đó những “im ngồi” không thưa thốt. Thốt ai nghe?! Thưa ai biết?! Thì đành “Hít một hơi thật dài vạch lên sân những điều đời, đất nước, hậu thế còn thiếu | Những điều... anh chẳng đòi lại bao giờ | Những điều chưa chắc còn lại trong thơ”...
Chu Giang Phong Arts, 28.3.2014](https://fbcdn-sphotos-e-a.akamaihd.net/hphotos-ak-frc3/t1.0-9/1619085_649001015136570_1060496856_n.jpg)


Với đồng lương như thế, thu nhập như thế giàu sao được. Vậy mà chúng ta lại nhìn một quan chức không giàu có như một cha nào đó từ trên trời rơi xuống?
 
