Chủ Nhật, 19 tháng 1, 2014

Dưới vòm trời là những mái nhà



Jalau Anưk



... Phố không nuốt chửng em đâu
bởi phố trú dưới vòm trời – rộng lắm!
mà ở đâu dưới bầu trời cũng có những mái nhà cho cả em, anh và mọi người.


Cứ đi đi! – Phía trước là con đường
bởi chẳng thể bới tìm mãi những tàn tích năm xưa
để vỗ ngực tự hào
ngủ vùi sâu quá khứ
liệt vòng sinh nở
chai khối ưu tư

Cứ đi đi!
bởi chẳng thể ngoảnh nhìn mãi một thời
em chưa phôi thai
anh chưa nở kiếp làm người trần thế
đừng tưởng chỉ có em đau là thật
mà cọng cỏ ven đường cũng úa héo khóc mưa khan

Ngọn tháp là của ngày xưa
ngôn ngữ đẹp là của Ariya ngày xưa
điệu múa kì ảo, say đắm lòng người là của ngày xưa
bản đồng dao hay mà em hát cùng anh thuở thiếu thời
là của ngày xưa
của ngày xưa tất...
bây giờ lai căng
lập dị
khác thường
áo vá em mặc hôm nay
lời nói em thốt ra cùng anh hôm nay
dáng đi của em hôm nay
tâm tưởng em hôm nay
ngôi nhà em ở hôm nay
còn gì là chúng – của ngày xưa
sao em không xót?
Đừng quên nghe em!

Đừng lần về mãi những hồi ức năm xưa
để luôn tưởng đôi vai mình dài rộng
em còn gánh nổi không em?
treo bhaw trên xà nhà những ciet sách
em còn đội vững nữa không em?
một buk nước nhẹ tênh
từ dòng mương quê trải dài miền đất khát
thử hát lên đi em – Thei mai...!
thử têm cho Rija Praung vài kapu hala!
thử đứng trước patuw hayơp!
thử viết vài dòng akhar thrah
thử nói harat Chăm
em sẽ thấy mình cỡ bằng hạt cát
giữa mênh mông sa mạc
chông chênh / nép mình sợ gió

Đi đi em – Mặc cho những câu chuyện ngày xưa đêm trăng bà kể
vẫn đè lên hơi thở dốc anh
bủa vào trăn trở em
ùa về ác mộng em
dù có ẩm mốc, hoang sơ
tháp vẫn đứng rưng rưng
em và anh vẫn sống giữa loài người – gần lắm
rồi sẽ ấm cơn mưa giông
nước sẽ tuôn về miền đất khát
còn bầu trời vẫn sáng
đêm vẫn thức gác
tháp ngủ giấc không tròn

Cánh đồng hạn triền miên
bầu vú mẹ cạn khô
mặc bầy dê ốm gầy trên triền dốc
em thơ húp vội nước cơm
rồi nín khóc chờ
... hoang vắng trôi đi

Quạnh hiu những mái nhà
trần truồng những tấm thân gầy
em và anh
mừng nước mát đầu mùa
đục ngầu rơi từ máng xối lâu năm
lũ ếch khô thân rũ người khát nước
lao vào nước / hát mừng nước
ểnh òn ... ểnh ả ...
chưa hết sướng đã qua xiên
nằm gọn trên đóm lửa hồng
củi khô không thiếu
xì xèo nước xát lên than
... rát buốt
em và anh
mừng vui buổi tiệc
mừng mưa đầu mùa
Có nhớ không em?

Nắng choáng mặt người
mưa mù đồng vụ
nắng làm nứt đất
mưa ngập thối cây
lũ lúa vừa cháy hôm qua
chưa kịp lột da
chưa kịp xanh đầu ngọn
mưa đánh gục mất rồi
khuỵu gối / gãy thân / nằm bẹp vô vọng
khóc thương người trồng

Lũ kéo ầm ầm
thân trần cha run / áo tả tơi mẹ rách
ném mình vào gió / phóng bừa vào mưa
bởi có em và anh
há hốc mồm đòi sống

Thương thay loài xương rồng luôn thuỷ chung mòn mỏi đứng nhìn/ chứng giám/ khô queo thân/ treo trước cổng nhà/ đuổi hết những hồn ma
cho bác, cho dì, cho thím, cho cô, cho mẹ, cho em...
sinh nở
làm đời tục luỵ
để có người còn nhớ đến hôm qua
Đừng quên nghe em!

*

Cứ đi đi! – Phía trước là con đường
đừng mãi vỗ tay thán phục những chú dế ngây ngô
bị nắm râu quay tròn
choáng ngợp không nhìn thấy kẻ thân
giương càng / gồng mình / lao vào nhau / đá nhau / cắn nhau / xé nát thân nhau
rồi ngã gục
làm mồi cho loài kiến
... suốt mùa đông / quên tiếng gáy

Đừng giả vờ khóc thương con thằn lằn xấu số
mà ngày xưa anh và em đánh chết trên tường vách đất
để chơi trò ma chay / hoả táng / vờ khóc nỉ non
rồi cười ngặt nghẽo
u u mê mê / kì bí lạ thường – ong khin

Đi đi em!
phía trước – Sau bụi chuối gầy còm là ánh đèn
sau ngõ ngách lầy lội là thẳng tắp lối đi
sau lụp xụp mái hiên / mục ruỗng bờ rào
là xanh đồi cỏ / là mượt lúa non / là bát ngát trăng thanh / là rì rào sóng thở / là rạo rực lời hẹn hò ta nguyện sống bên nhau

Đi đi em!
phía bên kia nông hoèn hoẽn sông quê là ùn ùn sóng bể
sau hoang hoải đêm dài là rực phố đông vui
phố cũng thích Xaranai
phố cũng say đắm lòng tháp cổ
phố cũng rộn ràng với Ginơng
phố cũng trải lòng với điệu múa Apsara
phố cũng hiểu Ariya
phố cũng sụt sùi nghe dalikal bà kể

Đi đi em! Đi đi! – Mang hình em vào phố
toả hơi em vào phố
chìa cả sần sùi bàn tay em vào phố
và lớn lên cùng phố
phố sẽ trải ngực mình / mở đôi vai mình
để lúc mệt nhoài em gối ngủ giấc trinh nguyên


phố không nuốt chửng em đâu
bởi phố trú dưới vòm trời – rộng lắm!
mà ở đâu dưới vòm trời cũng có những mái nhà cho cả em, anh và mọi người.


_________
Chú thích:
ariya: thơ, trường ca; ciet: giỏ đựng sách Chăm; Thei mai: một bài dân ca Chăm; ong khin: cấm kị; patuw hayơp: bia đá; Rija praung: một lễ của Chăm;akhar thrah: chữ Chăm truyền thống; dalikal: truyện cổ; kapu hala: miếng trầu têm.

Thứ Hai, 6 tháng 1, 2014

Chiến tranh chưa bao giờ qua đi

Anh Long về đám giỗ ba tôi quả là điều bất ngờ. Thấm thoát đã hơn 20 năm chúng tôi không gặp nhau và cũng không liên lạc. Anh là bạn học thời trung học của anh Quí- anh kế tôi và lớn hơn tôi đến 5 tuổi. Ngày nhỏ, tôi vẫn thích anh và anh Danh tụ lại ở nhà tôi chơi đàn thổi sáo. Rồi anh và anh Danh đi lính, sang chiến trường Cam-Pu-Chia. Hai anh cùng ở chung một đại đội thuộc trung đoàn Gia định. Kết thúc chiến tranh, chỉ có anh trở về. Anh Danh thì vĩnh viễn nằm lại trên đất bạn. Anh tôi, sau khi được tin anh Danh hy sinh thì anh bẻ sáo, vài tháng sau, dù đang học đại học nhưng anh lại tình nguyện nhập ngũ. Cũng may, anh đã không ra chiến trường, anh được đưa về trung đoàn hậu cần mà phần lớn lính trung đoàn là sinh viên tình nguyện. Từ đó, anh không bao giờ thổi sáo nữa. Anh long kể,  trong chiến dịch " tốc chiến, tốc thắng" trung đoàn của anh từ KongPhongCham đánh thẳng vào Phnôm-Phênh và chỉ trong 7 ngày đêm đã vào thủ đô Cam-Pu-Chia với  157 người còn nguyên lành. Anh Danh ngã xuống trong đêm tiến quân ngày thứ tư.Anh trúng đạn ở đùi.Đại đội cứ thế mà xông lên những người lính ngã xuống nằm lại chờ cứu thương. Vết thương của anh Danh không nặng nhưng anh chết vì mất máu quá nhiều. Khi nghe tin anh Danh mất, anh vẫn không thể nào tin được. Rồi cũng chính anh bị thương và khi xuất ngủ anh vẫn mang trong đầu một miểng đạn B40 không lấy ra được cho đến bây giờ.

Nhiều năm không gặp, nhưng anh Long cũng không khác mấy nên tôi nhận ra anh ngay. Duy chỉ mái tóc của anh thì đã bạc trắng.Vẫn cặp kính cận to đùng. Không rõ ngày trước khám nghĩa vụ quân sự như thế nào mà người cận thị đến 4 độ như anh lại trúng tuyển.Lúc tôi về Sài Gòn anh tôi đã đi lính.Tôi ở một mình,thỉnh thoảng anh Long lại qua chơi. Có tối, nhậu xong anh ngủ lại.

Khác





Hoàng Ngọc Thư






I.



Tôi có thị giác của loài chó.

Tôi cất giữ những mảng đen xám đậm nhạt trong các ngăn cùng màu đàng sau đôi mắt, nhưng chúng không theo một thứ tự nào. Những mảng mặt, góc vườn, mảnh trời. Những ve vuốt của bàn tay, dấu in bước chân, ánh mắt ấm ngời. Những sợi mưa giăng nghiêng mành trời đôi lúc làm hoen ố hoặc nhấn chìm vạn vật vào một vũng sền sệt màu lông chuột khiến tôi vội vã lục tìm các mảng xám nhạt nhất trong các ngăn ký ức để tự trấn an.

Tôi chờ đợi quả cầu chói lọi — vật thể duy nhất có màu xám sáng gần như trắng — nhô lên đàng sau dải đảo thẫm màu trên mặt biển khi không gian đen đặc quánh thả tôi về những tầng xám đậm nhạt lơ lửng: nơi tôi mải tìm nhưng không bao giờ thấy dấu vết nào của hàng nghìn bận tôi đã để lại, trên đường tôi dò dẫm tìm lối thoát khỏi vòng giam cầm của các mảng xám. Rồi như mọi lần, khi tôi sắp đến được một khoảng nhạt màu nhất cũng là lúc tôi vẫy chào và tiếc nuối nhìn theo quả cầu lấp lánh chìm dần xuống mặt biển.

Tôi đẫm đen.

*

Tôi có vị giác của loài cá.

Giữa muôn nghìn vị khác, tôi phân biệt được hàng trăm độ mặn. Tôi xác định được mức đục, lượng muối và độ đặc: từ những giọt loãng và nhạt như người ta để rơi trên các màn kịch trong và ngoài sân khấu, cho đến những dòng đặc thẫm và nồng vị gỉ sét tràn ra từ vết cắt. Tôi tìm bình yên dưới đáy nước, chui rúc trong các lớp bùn ngập ngụa mùi vật thể rữa nát hầu ru ngủ vị giác chong chong của mình: cứ mỗi chênh lệch ở độ mặn là nó ném tôi vào một cõi hỗn tạp mới, nơi ký ức dung nạp mọi ấn tượng hình tượng cảm quan ngu muội đau đớn ghê sợ chán ngán hy vọng có cùng độ mặn.

Tôi gặm nhấm mình để giảm bớt các trạm vị giác trên người.

Tôi còn chỉ lại bộ xương và hai phần ba thân thể.

*

Tôi có thính giác của loài dơi.

Tôi nghe tiếng thổn thức giữa đô thị náo nhiệt xe cộ đi lại tấp nập. Tôi nghe lời van xin giữa tiếng bom đạn. Tôi nghe tiếng kinh cầu trong làn gió thổi qua sa mạc. Tôi uống lấy tiếng hát của người thuỷ thủ hoà lẫn trong con sóng dội vào bờ từ khơi xa.

Tôi nghe nhịp tim của người chơi đàn guitar giữa bản flamenco cuồng nhiệt. Tôi nghe hơi thở của người hoạ sĩ làm rung động đôi mi cô gái trẻ trong tranh. Tôi nghe tiếng chữ tranh cãi nhau giữa trang sách mở ngỏ.

Tôi tự chẩn mạch nhưng chỉ nghe tiếng nhựa cây rì rào trong cành lá.

*

Tôi có khứu giác của loài bị đoạ.

Tôi ngửi thấy mùi căm thù đắng ngạt như vết hằn bánh xe nghiến cháy mặt đường. Tôi choáng váng buồn nôn trước mùi kinh tởm từ ánh nhìn của kẻ giàu sang quét ngang tay chân lở lói của người hủi. Mùi sợ hãi tanh tưởi toả ra từ người bị nạn thường bám dai dẳng trên da trên tóc trên màng phổi tôi sau nhiều ngày. Mùi giận dữ hầm hập ngột ngạt như nhà cây xanh đóng kín ngập ngụa thuốc trừ sâu. Mùi ghen tỵ vảng vất như thức ăn ôi khiến những người xung quanh ăn mất ngon.

Mùi thèm khát của người yêu khiến tay chân tôi vụng về luống cuống. Mùi hạnh phúc như quả ngọt thơm tràn trên môi. Tự do thơm mùi biển trong làn gió sớm thường khiến tôi rũ bỏ áo quần để được lặn ngụp thoả thuê như đứa trẻ.

Tôi chưa có đủ khả năng diễn đạt hoặc tìm ra ví dụ tương đồng cho mùi thường quyến rũ tôi ngay cả trong giấc ngủ. Đó là mùi của khám phá (và của những người thám hiểm) có lần tôi tình cờ mang về sau khi ngẫu hứng trèo vào trong tranh.

Tôi đếm những cuộc săn lùng thì giờ để tôi dùng đi tìm mùi hương mới.

*

Tôi mang xúc giác của loài thân mềm.

Tôi cảm nhận được các chấn động trong không gian hay dưới nước từ xa và giấu mình trong tấm vỏ cứng. Thỉnh thoảng tôi hé mở khi cần đi tìm thức ăn hoặc tin chắc rằng bốn bề đều im ắng. Tôi trao đổi thông tin bằng mắt và hiểu rằng những thông điệp của mình thỉnh thoảng bị hiểu nhầm hoặc thất lạc. Tôi tập dùng các cơ mắt với hy vọng chúng sẽ giúp tôi ra dấu cho kẻ đối diện hiệu quả hơn vì tôi không có mặt; nhưng tôi suýt bị nuốt sống mấy lần nên đành phải dùng lại lối thông tin của loài câm.

Thỉnh thoảng tôi ứa ra những giọt mặn với nồng độ muối cao.



II.



Một hôm tôi hé mở.

Vực xoáy rứt tôi ra khỏi vỏ bọc rồi cuốn tôi quay cuồng trong những tầng đen mù mịt.

Vòng xoáy chậm dần rồi ngừng lại.

Tôi rơi trong chân không qua những tầng xám nhạt dần.

Tôi rơi nhanh hơn.

Ánh sáng chói lọi từ dưới chiếu lên buộc tôi hé mắt nhìn.

Thân thể tôi chằng chịt những đường rạn đen hoắm.

Mắt tôi nổ ra.

Trắng nuốt tôi.



III.



Tôi ngồi trên bậc thềm. Nắng sớm trong veo rọi nghiêng qua kẽ lá như những sợi tơ óng mượt.

Tôi khép mắt: xung quanh tôi tràn ngập màu sắc khiến tôi choáng ngợp.

Một loạt hình ảnh, âm thanh chợt kéo đến trong tâm thức. Tôi cố tập trung theo dõi nhưng các khung ảnh loang vào nhau nhoè nhoẹt; âm thanh méo mó, đứt quãng như thể tôi đang xem lại một cuốn phim trắng đen cũ đã bị hỏng nhiều chỗ.

Tôi mở mắt, nhìn xuống, và thấy nghẹt thở: tôi lành lặn nguyên vẹn trong hình thể một đứa trẻ.

Tôi muốn cười.

Khá nhiều mảng tôi đã mất. Đó là cách tốt nhất để ghép các mảnh vỡ và mớ vụn còn lại.

*

Trong tay trái tôi là một chiếc lọ nhỏ. Tôi từ từ mở các ngón rồi nâng chiếc lọ thuỷ tinh nằm ngang trong lòng bàn tay lên gần tầm mắt. Bên trong lọ là một hỗn hợp các chất lỏng màu xám đậm nhạt với tỷ trọng khác nhau. Tôi nghiêng tay: lớp cặn đen, xám tro và một ít hạt màu nhạt như cát chao đảo rồi trượt theo thành lọ dồn về một phía.

Tôi chỉ cần uống hết lọ này là được trả về nếp sống cũ: vị giác tôi sẽ được phục hồi để phân biệt vài trăm độ mặn và vô số mực đắng. Tôi sẽ không nhầm lẫn giữa mùi nồng nực của tham lam và hương nồng nàn của đam mê. Vạn vật quanh tôi lần nữa sẽ thu mình về giữa muôn trùng những tầng trắng xám đen qua thị giác của loài chó. Mắt tôi sẽ cố giãi bày thứ ngôn ngữ sâu lắng của loài câm.

Để che đậy những mảnh vỡ và rạn nứt không chữa được, tôi lại vùi mình dưới đáy bùn sâu hầu được ngủ yên qua số thế kỷ còn lại và những biến động không thể tránh khỏi.

Đau từ những đường rạn sâu và các mảnh đã mất khiến tôi ngỡ ngàng.

Tôi nuốt.

*

Trong tay phải tôi là một chùm bóng bay rực rỡ sắc cầu vồng. Tôi nheo mắt nhìn lên: bầu trời xanh ngát trên cao bị che khuất gần hết bởi chùm bong bóng lớn gấp ba lần thân thể tôi.

Tôi nhìn xuống đôi chân mình: cổ chân phải tôi mang một đai sắt được xích chặt vào trụ đá dưới chân thềm.

Thảo nào tôi đã không bay lên với chùm bóng khổng lồ.

Tôi sợ chiều cao.

Tôi ngại gió.

Tôi bị choáng bởi màu sắc rực rỡ.

Bầu trời rộng quá, biết chỗ nào cho tôi ẩn náu?



IV.



Tôi hít sâu. Gió sớm mang theo hương biển lướt qua những tàn cây. Mùi tự do lùa qua tóc, mơn man trên mặt, thấm vào da làm lành các vết thương, và cuốn đi dư âm của những niềm đau.

Tôi nguyên vẹn và hoàn hảo như một đứa bé mới chào đời.

Tôi nhìn xuống đôi chân trần trên bậc đá — đôi chân của tôi ngày còn bé.

Tôi từ từ đứng lên. Chùm bong bóng kéo tay tôi, nhấc tôi lên khỏi mặt đất.

Tôi nhón mũi chân trái, mắt vẫn không rời đai sắt quanh cổ chân phải.

Tôi vừa tìm thấy cái chốt nhỏ ngay trên xương mắt cá phía trong của cổ chân phải.

Tôi hít sâu. Rồi ghìm hơi thở. Mũi chân trái rà tới rồi ấn nhẹ lên nút.

Tách.

Đai sắt mở ra. Chùm bong bóng trên cổ tay phải kéo tôi vút lên.

Tôi mở tay trái. Chiếc lọ rơi nhanh rồi mất hút khỏi tầm mắt.

Một mảng đen xám đậm nhạt nhờ nhờ mấy vệt trắng loang ra, nuốt dần các màu khác.

Tôi đưa tay trái che mắt, nhìn lên: mặt trời rực rỡ chiếu qua những chiếc bong bóng trong veo hắt lên tôi sắc cầu vồng.

Bầu trời xanh ngát và tôi tan vào nhau.



V.



Nhiều thế kỷ sau, các bộ lạc trên vùng núi xa còn truyền nhau huyền thoại về một cơn mưa nhiều màu đã mang đến đứa trẻ chỉ biết mỉm cười và trò chuyện bằng mắt.


Sydney 12/2013



Kẻ trộm



Vũ Trọng Quang



Lúc ba giờ đêm
thời khắc của nhà thơ
và kẻ trộm.
Rimbaud

Tôi sáng tạo tôi
một kẻ trộm mới
một hoàn cảnh tối đen khác

Lén vào nhà em thức khuya sáng mờ mệt mỏi
tĩnh vật đoá hoa cắm chai rượu
hồi hộp trộm với lấy
hồi hộp buồng phổi thèm khói

Chờ đợi em buông rèm sáng tắt ngái ngủ
trả lại đoá rác bên rượu ngã
mùi hương trộn mùi thuốc
bay mất theo đêm

Tôi sáng tạo tôi
tôi giao phối tôi
tôi dắt tay tôi
tôi chạy trốn tôi
một thủ phạm trong sáng



TẢN MẠN VỀ NGƯỜI SÀI GÒN







Nguyễn Thị Hậu

Trong những lúc “trà dư tửu hậu” hay “ngồi đồng” ở quán cà phê vỉa hè Sài Gòn, chúng tôi nói đủ chuyện : từ chuyện lịch sử tới tin tức xã hội, từ văn hóa tới kinh tế… Nói gì thì cuối cùng vẫn quay về chuyện CON NGƯỜI - cái gốc của mọi chuyện. Bởi vì xã hội nào tạo nên con người ấy, con người nào phản ánh xã hội ấy.
Những người bạn của tôi, và cả tôi nữa, hầu hết đã sống ở Sài Gòn trên dưới 40 năm, từ nhiều vùng miền nhiều tỉnh thành, do những hoàn cảnh khác nhau mà đến/ vào/ về Sài Gòn sinh sống. Có thể coi chúng tôi là “người nhập cư” vì cha mẹ không sinh sống ở Sài Gòn và chúng tôi không sinh ra tại đây, nhưng cũng có thể coilà “người Sài Gòn” bởi vì chúng tôi đã trưởng thành, lập gia đình, làm việc cho đến lúc nghỉ hưu, thậm chí có lẽ “nhắm mắt xuôi tay” cũng ở đây. Nhưng thế hệ con cái chúng tôi được sinh ra và lớn lên tại Sài Gòn, mặc dù quê quán ghi trên Chứng minh nhân dân ở đâu thì chúng vẫn tự nhận là “người Sài Gòn chánh hiệu”. Tất nhiên, nếu coi hộ khẩu là điều kiện tiên quyết thì chúng tôi phải được coi là người Sài Gòn “xịn”.
Ở Sài Gòn khái niệm “người nhập cư” thường được sử dụng trong cơ quan công quyền để phân biệt người có hộ khẩu và người không/ chưa có hộ khẩu ở Sài Gòn, nhằm mục đích “quản lý hành chánh”. Giới nghiên cứu hay gắn khái niệm này với loại hình “kinh tế phi chính thức” trong việc nghiên cứu hoạt động kinh tế của đô thị Sài Gòn – thành phố Hồ Chí Minh. Còn trong đời sống hàng ngày hầu như người Sài Gòn ít sử dụng cách nói “người nhập cư” hay “dân nhà quê”, “dân tỉnh” mặc dù ở miền Tây Nam bộ hay gọi người Sài Gòn là “người thành phố”, đi Sài Gòn là “lên thành phố”. Vậy thì tôi, vừa với tư cách là “người nhập cư” vừa là “người Sài Gòn” có thể biết gì, hiểu gì về Người Sài Gòn? Có thể bắt đầu từ vài nhận biết có phần rời rạc sau đây chăng?
Đầu tiên, “người Sài Gòn” là sự hòa nhập về văn hóa (tính cách, lối sống, ngôn ngữ, tín ngưỡng, ẩm thực, trang phục…) của người Việt, người Hoa và những tộc người “bản địa”. Người ta cứ quen nói rằng “Sài Gòn 300 năm” nhưng đó chỉ là nói về thời kỳ thiết lập nền hành chính của Chúa Nguyễn từ 1698 mà quên mất/ chưa biết Sài Gòn còn có quá khứ hơn 3000 năm của văn minh Đồng Nai – Cửu Long. Văn minh ấy do những tộc người khác “Việt” dựng nên. Rồi từ thế kỷ XVI – XVII, người Việt, người Hoa đã dấn bước vào vùng đất này, từ đó Sài Gòn, Nam bộ có thêm lớp chủ nhân mới. Cùng với người Khmer, người Mạ, người Chăm… sự hòa nhập truyền thống, văn hóa của tất cả những chủ nhân đã tạo nên Sài Gòn và người Sài Gòn mới mẻ, năng động và chân tình.
Khi nói đến người Việt người ta hay nói đến truyền thống lịch sử lâu đời và hào hùng, bốn ngàn năm văn hiến, văn minh sông Hồng, con rồng cháu tiên, những triều đại nổi tiếng chiến thắng ngoại xâm... Còn khi nói đến người Việt (ở) Nam bộ thì đầu tiên là kể về điều kiện tự nhiên thuận lợi của đồng bằng sông Cửu Long: vùng đất được thiên nhiên ưu đãi, đất rộng người thưa, ít bị thiên tai như bão lụt hạn hán… Sau mới nói về nguồn gốc “lưu dân” và 300 năm hình thành. Nghiên cứu gia phả nhiều dòng họ, gia đình ở Nam bộ phần lớn được ghi nhận “thời ông cố ông sơ” từ miền Trung đi ghe theo biển vô Nam, đầu tiên định cư trên những giồng đất vùng cửa sông… rồi từ đó ngược các nhánh Cửu Long vào sâu vùng ngập trũng, khai phá đồng bằng và khai thác tự nhiên. Công cuộc khai phá này chẳng hề dễ dàng thuận lợi chút nào! Do đó tính thực tiễn được đặt lên hàng đầu: tất cả hướng đến thực tế, không lý thuyết suông, không giáo điều, lấy hiệu quả lao động làm mục đích chính. Không hay than vãn, người Nam bộ bình thản “làm chơi ăn thiệt”. Đây chỉ là một cách nói đơn giản hóa, “coi vậy mà hổng phải vậy”, coi khó khăn đã qua như một việc chơi chơi, còn kết quả thực sự mới là quan trọng, là đã “có ăn”.
Người Sài Gòn/ Nam bộ di chuyển càng xa cái “gốc” đồng bằng sông Hồng thì sợi dây truyền thống càng dãn ra. Những tính chất của không gian “nông thôn làng xã” khép kín biến đổi theo thời gian, bị/ được đứt gãy do phải thích ứng với không gian địa – xã hội khác. Thay vào đó là sự tự lập và tính linh hoạt ứng phó với hoàn cảnh điều kiện mới và từ đó tạo ra truyền thống mới, dám thay đổi cho phù hợp hoàn cảnh, thích nghi nhanh, chịu đổi mới “làm đại nghen? Ừa, làm đại đi” là phong cách làm ăn Sài Gòn/ Nam bộ. Làm đi, có sai cũng không sao, làm lại/ sửa sai mấy hồi! Quan trọng là không mặc cảm sợ sai và sửa sai nhanh.
Ở Sài Gòn/ Nam bộ “dư luận xã hội” không nặng nề khe khắt với những điều khác lạ, cái mới. Là bởi người Việt trên bước đường lưu chuyển vào đây đã trải nghiệm qua những vùng đất toàn những điều mới lạ. Cùng với sự nhạt đi của tính chất phong kiến gia trưởng, việc tiếp xúc sớm với các giá trị dân chủ, bình đẳng của văn minh phương Tây làm cho người Sài Gòn khá cởi mở và trong các mối quan hệ xã hội và trong gia đình. Tính chất dân chủ trong xã hội phát triển nhanh, biểu hiện ở chỗ cá nhân ít lệ thuộc, phụ thuộc vào cộng đồng và vì thế vai trò và trách nhiệm cá nhân cao “dám làm dám chịu”.
“Làm chơi ăn thiệt”, “làm đại”, “dám làm dám chịu”… sự liên kết gắn bó, hòa trộn ba đặc điểm trên tạo nên người Sài Gòn/ Nam bộ. “3 trong 1” từ ứng xử đến làm ăn, trong sinh hoạt… không tách rời một đặc điểm nào, hình thành tính cách và làm nên hiệu quả của “công chuyện làm ăn” của người Sài Gòn.
Nói về Nam bộ thì không có hay ít có sự phân biệt văn hóa và người Nam bộ nói chung với văn hóa và người Sài Gòn nói riêng (có chăng có thể phân biệt chút ít giữa Đông và Tây Nam bộ). Nếu không quá khắt khe có thể coi người/văn hóa Sài Gòn là đại diện cho người/ văn hóa Nam bộ, từ giọng nói, ngôn ngữ, ẩm thực, tính cách, làm ăn… Có lẽ vì vậy mà ở Sài Gòn khi cần thì hỏi nhau “quê đâu” mà không hề có ý phân biệt người “nhà quê” hay “thành phố”. Giai đoạn đương đại, quá trình dân cư của Sài Gòn cũng khác với nhiều đô thị khác: Thời kỳ chiến tranh Sài Gòn là nơi mà nhiều người từ các tỉnh miền Trung đổ vào, từ miền Tây Nam bộ lên, nhất là khi chiến sự ác liệt. Sau năm 1975 Sài Gòn cũng là nơi có tình trạng thay thế dân cư lớn nhất và kéo dài cho đến nay: Người (thị dân) Sài Gòn ra đi bằng nhiều con đường, lúc ồ ạt khi chẳng mấy ồn ào; Người các tỉnh lại liên tục đổ vào Sài Gòn tới nay chưa hề giảm bớt. Còn Hà Nội trong chiến tranh dân cư rời bỏ thành phố đi về (tản cư, sơ tán) nông thôn, sau chiến tranh mới trở lại thành phố. Tuy nhiên Hà Nội và Sài Gòn cũng có một số điểm giống nhau: 1/ Sau khi chiến tranh chấm dứt khá nhiều người Hà Nội “gốc” và Sài Gòn “xịn” đã rời thành phố đi nơi khác sinh sống, tạo ra khoảng trống trong cơ cấu dân cư là tầng lớp thị dân lâu đời; 2/ Chính quyền thiết lập sau chiến tranh (Hà Nội 1954 và Sài Gòn 1975) đều do (hầu hết) những người (kháng chiến) ở nông thôn, rừng núi trở về lãnh đạo, tổ chức chính quyền chưa kịp thích nghi với những đô thị lớn nhất nước và 3/ hiện nay hai thành phố này có số lượng người nhập cư nhiều nhất. Những đặc điểm này để lại cho Hà Nội và Sài Gòn nhiều khó khăn trong việc xây dựng đô thị văn minh hiện đại.
Nhưng, ai đã vô Sài Gòn làm ăn sinh sống, chắc chắn trở thành “người Sài Gòn”, bởi Sài Gòn phóng khoáng và rộng rãi mang lại cơ hội cho mọi người, bởi Sài Gòn không tự coi mình là đặc biệt khi đang sống bằng nguồn lực của chính mình và của những người đến từ mọi miền, đồng thời Sài Gòn cũng luôn chia sẻ, đóng góp những gì mình có cho cả nước.
Là kẻ hậu sinh trong việc nghiên cứu về văn hóa Sài Gòn/ Nam bộ; lại chưa được coi là “người Sài Gòn chánh hiệu”, vậy mà dám “tản mạn” về Sài Gòn và người Sài Gòn, âu cũng do cái tính “làm đại” của người Sài Gòn/ Nam bộ đã nhiễm vào người. Kính mong các bậc trưởng thượng về “Sài Gòn học, Nam bộ học” lượng thứ.
Sài Gòn 23/11/2012

CHÓ THIẾN



 phot_phet 



Tôi iêu chó lắm, tự bé. Mẹ tôi như hiểu lòng nên bắt đâu về một con nhưng tôi sợ nó một mình đơn côi nên nài mẹ mua thêm con nữa cho có đôi có cặp. Bà bảo người không có ăn, cơm đâu nuôi chó. Tôi năn nỉ và hứa sẽ khéo chăm, ăn ké cám bã của đám lợn gà. Cùng lắm tôi bê đi từng nhà mà xin cứt trẻ. Mẹ tôi đành.

Có một con đốm và một con vàng. Không biết mẹ tôi khéo chọn hay ăn may mà một đực một cái, cả hai lại đốm lưỡi, huyền đề. Bố tôi bảo khôn lắm đấy, chịu khó mà chăm. Tôi vâng dạ rồi đi dọn cho cả hai cái ổ bằng mê rách có lót rơm, đặt ở góc hè mé hiên.

Hai con chó lũn cũn, ngắn tũn, trông iêu cực. Tôi không biết đặt tên gì mà gọi theo màu lông. Chúng là con Đốm, con Vàng. Hẵng bé nên đi đứng đôi khi cứ loạng quạng như thằng say diệu, lại càng iêu.

Tôi chăm chúng ác liệt. Ngày hai bữa canh nước cơm sôi, lại còn bấu trộm vảy nồi cá kho cho thêm mặn mà. Nhiều hôm chắt cả nước đường của cậu út ốm nhưng tu chưa hết. Bởi đúng như mẹ tôi nói, người còn chưa đủ cơm thì chó làm gì có phần. Bữa nào đáy nồi gang cũng kêu đinh tai nhức óc bởi tiếng cạo thìa của mấy anh em. Tôi thương chúng lắm nên khi dọn cơm thường xới trộm một bát nhỏ bỏ gầm chạn rồi lúc dọn mâm lén lút trút canh thừa mắm cặn cho ăn. Nhờ thế mà cũng nhớn nhanh lắm.

Đến khi chúng thay lông và có da có thịt thì việc ăn uống mỗi ngày một tợn trong khi bát cơm nhỏ lại vơi đi. Bụng chúng hóp lại theo những hơi thở khó nhọc. Tôi thấy chúng lân la chuồng lợn liếm cám thừa rồi cong đít ỉa ra thứ bã chát xít rơm rớm máu. Nhiều bận còn lon ton ra cái xí hai ngăn nơi gốc nhãn mé vườn nhưng dường như cũng không sơ múi được gì khi người ta đuổi để giành phần phân kia cho cá. Tôi trông mà động lòng lắm nhưng chẳng biết làm gì. Tôi không dám hỏi mẹ làm sao để lo cái ăn cho chó vì đã hứa là khéo chăm rồi, nhưng cái tôi sợ nhất là bà nghe than vãn mà bán mất đi, thậm chí thịt. Rồi tôi nghe được chuyện bà tôi kể về ngày xa xưa mà qua cách bà nói thì cũng chỉ mới dăm ba năm thôi. Là cái chuyện đói quá phải nấu cháo cám với lá khoai lang mà húp cho đỡ xót ruột. Cám lợn được cho vào cái rây nhỏ, không có thì cho vào cái giần sàng tấm, đưa khéo tay là thứ bột mịn kia sẽ lọt xuống. Nước được đun sôi rồi cho cám mịn vào quấy đều. Rau lang thái nhỏ đổ vào nhanh tay. Thế là thành món cháo cám. Thích húp thì cho nhiều nước, thích ăn đặc kiểu bánh đúc thì giảm nước đi. Mẹ kiếp, quá cái phận hẩm chị vợ anh cu Chàng của ông văn sĩ Kim Lân.

Tôi làm y lời bà kể. Đun xong cũng chấm mút thử vị. Thơm tho lắm nhưng chỉ là cám mới thôi, chứ cám cũ thì hôi một mùi khó tả. Nhưng hai con chó thì hân hoan khủng khiếp, đến bữa là xoắn tít đuôi, khác hẳn cái lối vửa cụp vửa xòe thiểu não khi lân la chuồng lợn hay nhà xí.



Chúng nhớn trông thấy. Thay vì lũn cũn nom đĩnh ngộ hẳn ra. Thay vì ngắn tũn nom cũng ra dáng thanh niên oai vệ. Thay vì liêu xiêu thì giờ đường hoàng lắm lắm. Sủa giọng ồm ồm nhưng dứt khoát thay vì lách nhách mầm non. Chúng đã trưởng thành. Biết ngửi bướm đoi buồi dái nhau rồi hò hét phi nước đại mà quấn quýt. Con Đốm cái còn biết rớt ít giọt máu đào. Con Vàng đực chim thò ra đỏ rực. Sự trưởng thành và bản năng khiến chúng hung tợn hơn. Bằng chứng là tôi quát chẳng còn ăn nhời. Đến bữa lại còn cắn nhau dù bình thường thời quấn quýt. Ác nhất là cứ cào cổng đòi ra với đám chó ngõ, chó làng. Mẹ tôi sợ ra chúng cắn nhau nên dặn đóng tiệt, nhưng tôi biết bà sợ bị trộm chó câu đi, hoặc ít ra mới nhớn ham hố ái ân mà đi xa lạc lối.

Nhưng rồi chúng ngày càng mất nết. Người lạ cũng sủa, người quen cũng cào. Đêm vắng sủa ma vọng hư không đến là sốt ruột. Ai đã từng nghe chó cắn ma thì mới thấy thê thảm và khó chịu đến nhường nào. Mẹ tôi bảo nhẽ phải bán đi hoặc thịt nhưng bố tôi can, trộm cắp đang nhiều, thiến đi để trông nhà rồi tính tiếp. Tôi không hiểu lắm về việc thiến hoạn nhưng thấy không bán hay thịt thời vui lắm. Tôi hùa theo việc thiến hoạn. Miễn chúng còn ở với tôi.

Một ngày mẹ tôi gọi chú Tuyết bán tinh lợn giống kiêm thợ hoạn đến nhà. Chú hành nghề thú y, trừ voi Châu Phi và cá heo Địa Trung Hải chú chưa từng động chạm, chứ còn như ở An-nam, chưa giống gì là chú chưa từng ra tay. Từ hoạn lợn, thiến me cho đến le ve gà trống, chú thạo tất. Nghe đâu nghề này của chú gia truyền, bằng chứng là ông cố nội được các vua nhà Nguyễn điều từ Thanh vào Huế mà đi thiến cho người để làm hoạn quan hay thái giám.

Mẹ tôi dặn thiến con Vàng trước. Nhẽ bà là phụ nữ nên ưu tiên cho giống đực chăng? Nhưng tôi biết là bà làm phép thí dụ, xem chú thiến có lành lặn hay không. Con Vàng đực này khôn, tôi dụ mãi bằng cơm trắng mới buộc được chân chéo cánh khuỷu, mồm thít lạt giang năm bảy vòng. Chú tròng cổ vào cái lỗ tròn của cái gông chó, bắt tôi ấn chặt tay vào đầu nó. Mẹ tôi xăng xái lấy cái chảo nhôm đầy nhọ nồi và cái bình vôi bà nội vưỡn thường ăn giầu để ra một phía. Chú móc trong túi vải ra cái dao thiến, vát hình tam giác nhọn đuỗn mài một mặt sáng choang, vuốt hai đường sấp ngửa vào cái gấu quần mà tôi hiểu là tiệt trùng rồi lại ngậm lên mồm, mặt nhăn nhó mò tìm đôi cẩu hoàn của con Vàng đang teo đi vì sợ. Chú nặn nó lồi lên như cách các cô nàng dậy thì bóp mụn cá, ra lệnh tôi giữ chặt vào. Tôi chưa kịp nghiến răng thì chú đã đưa một đường lem lẻm vào hòn dái con Vàng, rồi nặn phòi ra một viên hình bầu dục trăng trắng. Chú xuýt xoa, bé mà ré to ngang đại cố. Trong khi mẹ tôi đang xâu chỉ thì chú lại xử lý nốt quả bên kia, trình tự thủ tục như hòn khai mạc. Xong chú khâu lại theo lối người ta khâu bì gai hay vén gấu áo, chấm tay bệt vôi đều vào đường chỉ rồi lại bện nhọ nồi lên trên. Tôi hiểu là chú đang sát trùng cho vết mổ. Cả quy trình kéo dài đâu 5 phút. Con Vàng được thả ra, cúp đuôi che dái khuyết, vửa chạy vửa rên rùi chẳng biết rúc xó xỉnh nào.



Tự đận bị thiến con Vàng đâm ra ngoan ngoãn theo lối ngớ ngẩn, hiền lành theo kiểu thi sĩ ngủ mơ. Nói chung rất vô hồn nhạt nhẽo, trừ cái vẻ cố tỏ ra lừ đừ của giống đực. Tôi không hiểu các ông hoạn quan hay thái giám khi xưa bị thiến đi tâm tính có thế không chứ tôi thấy con Vàng hơn cái là sủa to ra hẳn, âm bát (bass) trầm hùng. Khác hẳn với cái giọng the thé ánh kim nhiều tép của bọn áo mão hai chân. Nhẽ bao nhiêu tinh lực thay vì dồn xuống bi giờ xì ra đằng mồm hết cả? Khác cái giống người, hỏng bi là xì ra thanh la não bạt. Phát gớm!

Mẹ tôi thấy chó ngoan ra thì thích lắm. Bà rắp tâm diệt dục nốt con Đốm cái còn lại. Chú Tuyết bán tinh lợn giống kiêm thợ hoạn lại được gọi. Mà trần đời đéo ai như cái nhà chú này, làm lúc đôi việc tréo ngoe bỏ mẹ, là vửa đi nhân giống lại kiêm việc triệt sản. Vẫn như bận trước, tôi bẫy con Đốm bằng bát cơm trắng. Đến đây thì lý giải một tí là tại sao phải nguyên bát cơm, chứ thực ra vài hạt cũng đủ, thậm chí chỉ cần êu êu vuốt ve trìu mến là có thể trói được. Là vì khi thiến xong chúng đau nên bỏ ăn. Mà bỏ ăn thì yếu. Mà yếu thì hay bị nhiễm trùng vì cơ thể mất đi sức đề kháng. Nên phải cho ăn no, tử tế thì phải thêm khúc xương hay cái đầu cá. Rất tiếc là xa xỉ quá và con người phải chầu chực đến tháng mới có phần.

Khác với con Vàng, con Đốm bị rích một đường nhỏ nơi ổ bụng cạnh đùi sau. Tùy tài thợ hoạn mà to hay bé. Như chú Tuyết thì chỉ một lỗ nhỏ đút vừa ngón trỏ. Chú tì ba ngón còn lại lún bụng con Đốm, kết hợp với ngón cái véo lườn, hết bóp lại nặn thì phòi ra miếng đo đỏ to bằng hạt gấc mà chú bảo là hoa chó. Nó giống với cái hoa lợn khi chú thiến bầy heo cái đầu năm. Tôi hiểu đây có thể là buồng trứng hoặc là một cơ quan nào đó kích thích sự động cỡn hoặc lên cơn.

Con Đốm cũng ngoan hẳn, y cái lối tôi tả con Vàng trên kia. Tôi không chắc lắm có bằng cháu của bác gì hay không? Hoặc hơn? Đéo biết!

Các anh đừng tưởng chó thiến thì khôn ra, trừ cái vẻ như tôi đã nói là cố tỏ ra... giống chó. Được cái béo tốt hơn dù có kém đi khẩu phần. Ngoan nhưng ngu thì chả tích sự mẹ gì và tôi cũng chẳng mấy hứng thú chăm nom. Đúng đận vào năm học mới mẹ tôi bán đi cả hai lấy tiền mua cho mấy anh em áo quần sách vở. Mẹ tôi lừa tôi đi vắng thì mới kêu người đến bắt. Việc mắt không thấy nên tim không đau nhưng tôi trống trải mất mấy ngày dài. Mọi nhẽ chỉ nguôi ngoai khi tôi có áo hoa sách mới, thêm đùm kẹo mấu xinh xinh. Chuyện mà hết ở đây thì nhạt hơn cả nước lồn phò hiu trí. Tôi kể nốt một tý vỹ thanh về chú Tuyết bán tinh lợn giống kiêm nghề thợ hoạn, người có cái hân hạnh thiến con Đốm, con Vàng.

Vào đúng khi cao trào triệt sản người lên cao, chú Tuyết từ nghề phối giống lợn kiêm thợ hoạn bỗng chốc ngoi lên làm trạm xá trưởng. To lắm chứ đùa à?. Nghe đâu để ngoi lên được chức này, chú là người tiên phong thắt ống dẫn tinh đầu tiên toàn tỉnh, hình lên cả báo Nhân Dân. Chú là niềm tự hào của tỉnh nhà, lá cờ đầu của cái vinh dự về sự mẫu mực tiền phong. Khỏi phải nói về cái hân hạnh của làng xã, đến nỗi đội thiếu niên được huy động ngày nào cũng trống dong cờ mở cổ động ầm ầm tên chú. Tôi không nhớ rõ nguyên văn nhưng đại khái là: toàn xã noi gương đồng chí Tuyết thắt ống dẫn tinh. Dẫn tinh - Dẫn tinh - Dẫn tinh. Thình - thình - thình ( trống đệm).



Mẹ kiếp, hô thế nên thảo nào cả làng cả tổng đẻ ngày một dày, cấm có ngăn được. Chú Tuyết làm trạm xá trưởng đâu được vài năm mà để dân đẻ hăng hái quá, không hiểu bị cắt chức hay xấu hổ thoái bộ. Nhưng có một điều chắc chắn, chức cắt hôm trước thì hôm sau chú đã đi viện tỉnh tháo ống dẫn tinh. Không hẳn là chú muốn sinh thêm con bởi theo chú nói để tránh việc xuất ngược ra đằng mồm. Chắc là vui vẻ thôi, chứ lại chả có nhẽ hehe...?!

Tôi vẫn nuôi và yêu quý chó cho tới tận giờ. Mẹ tôi sau bận đó cũng không thiến hoạn thêm một con nào nữa. Có điều chả hay được bán hoặc được ăn thịt bởi không bị câu mất thời cũng động dục mà lạc lối quay về. Có vài con khôn ngoan và tốt số sống cùng với gia đình tôi, ít thì 8 năm, nhiều thì cũng bằng tuổi cô nàng trăng tròn 16, rồi tự già mà chết. Nhà tôi không ăn mà đem chôn tử tế dù có nhiều bần nông ngỏ ý rình mò.

Hôm rồi lên trang trại thằng Bôm Bốp thấy bầy chó xinh quá nên xin một con đực về nuôi. Bỏ đó đi Sài Gòn công việc gần tuần giời, dặn con vợ già chăm nom cẩn thận. Tối hôm kia về, khi đương đứng ngoài tụt xịp chui nhà vệ sinh giải quyết nỗi buồn kiêm cả khâu oai thì nó chẳng hiểu nhớ chủ giỡn chơi hay mừng vui thái quá mà đu lên vồ ngay đôi cà nơi bộ hạ.

Mẹ con chó! Mai tao thiến!

Chủ Nhật, 5 tháng 1, 2014

ĐẠO VĂN HAY CẮT DÁN TRONG MÊ SẢNG ?





Chân Phương



Đọc mấy trang thơ cuối tuần này (25-5-2012) trên Tiền Vệ, tôi phát hiện một số điều quái lạ và buồn cười trong bài thơ Trở Giấc của Trần Hữu Dũng - hình như tác giả đã cắt dán và vay mượn “tự nhiên” các câu chữ và tứ thơ chủ yếu từ hai bài Le Grand Jeu và One-Way Traffic Blues của tôi (trước đó post trênlitviet và sáng tạo.org, rồi đăng lại vào đầu tháng 5 -2012 trên website amvc ).



Tôi sẽ dùng phương pháp so sánh văn bản trình bày song song các câu hoặc đoạn thơ, và nhường phần kết luận cho độc giả. (Đối với các câu chữ khả nghi:in nghiêng là mượn tứ, in đậm là sao chép từ ngữ).





Le Grand Jeu- Chân Phương                 Trở giấc -Trần Hữu Dũng

mỗi ngày                                                                      Ngày ngày
tôi tiếp tục cắt dán                                       Cắt vụn những giấc mơ
tưởng tượng thành ngôn từ          Thành vô số cánh bướm bay lả tả       
mượn cát sóng cỏ cây đá mây
bày trò chơi ký hiệu                     Thong thả đọc câu thần chú
thong thả sưu tập                          Trấn an chính mình
mật mã cùng thần chú                   Cố thoát khỏi hẻm vực tối tăm

cánh chim khai mạc rạng đông là dụ ngữ

treo bài thơ tỏ tình
trong nghĩa trang các giấc mơ

làm hacker
đột nhập các địa chỉ email                       Lẻn trèo vào facebook
hò hẹn với đám đàn bà mang mặt nạ      Làm tình với người yêu ảo

nhẫn nại biên soạn
                    Gấp rút soạn cuốn tự điển cho bọn cá cược chính trị
đại từ điển bách khoa cho loài mộng du …

đứng trước mấy nhà bảo tàng
bán đại hạ giá những bản đồ quá vãng
                                                 Ngồi vỉa hè kể chuyện tiếu lâm đen
để làm gì?                          Đấu hót với những thần tượng mục nát
                                    Thong thả bơi trong biển sương mù dối trá
bọn cháy túi huyền thoại
lũ thua bạc triết học

hỏi tôi
để làm gì?

để chống trả phép thuật của Maya                               Đêm đêm
                                    Tôi học cách chống trả sự vây hãm, rẻ tiền
biết ngụy trang
tro bụi và không khí

chẳng hạn dưới dạng phim bộ tivi
đầy quỉ thần bằng cao su  
                                    Núp dưới dạng bộ phim nhiều tập trên tivi
đấu đá trước thiên đàng giấy bồi
                                      Giữa đám gái vú mông phẫu thuật õng ẹo
hoặc mớ vú mông phẫu thuật 
                 Trái cây Tàu ướp hóa chất và thuốc bổ làm từ thai nhi
giữa trái cây đồ nhựa hay mấy chùm hoa giấy
                                        Em hiện ra như nhánh hoa lys tinh khiết




Bài thơ của Trần Hữu Dũng chưa hết, dù sao độc giả nào chịu khó theo dõi sự đối chiếu đến đây đã có thể nhận thấy nhiều trùng lặp không tình cờ hoặc sắp xếp trước sau chẳng vô ý chút nào! Nhưng đến hai đoạn cuối thì tôi bật ngửa cười to khi bắt được quả tang một sự đạo văn ngô nghê và trắng trợn!



Mách có chứng! Trên LitViet ngày 12-5-2012, tôi giới thiệu và dịch vài bài của Rade Drainac, nhà thơ gốc Serbia. Ở đoạn cuối của hai bài thơ Cảnh Trí vàLá có mấy câu như sau:



Bằng hơi rặn cuối người đàn bà nơi bệnh viện
Hạ sinh mặt trời… ( Cảnh Trí)



Nhỏ như con bướm, một phi cơ vừa được phát minh
Tín hiệu này tốt đấy. Bravo! … ( Lá )


Đoạn áp chót trong bài Trở Giấc nói trên là mớ câu chữ dưới đây:

Tự nhủ uống say mèm để quên đi
Ám ảnh thù hận, nhát dao đâm lén
Tưởng tượng kỳ quặc
Về người đàn bà ở bệnh viện Từ Dũ
Rặn một hơi dài - Hạ sinh mặt trời
Tín hiệu tốt cho một khởi đầu mới!

Rồi đến phần cuối, Trần Hữu Dũng đã tặng cho bài thơ của mình phát súng ân huệ như sau:

Trở giấc
Vòng quay
Bánh xe ẩn dụ từ ngữ
Lăn hoài Lăn hoài…



vì đây là tứ thơ và mấy câu xuất thần của tôi khi dứt điểm bài thơ One-way traffic blues. Mời các độc giả - bồi thẩm đoàn đọc lại bài này;



ONE-WAY TRAFFIC BLUES

gần một giờ sáng
mưa giông lập xuân
gần hai giờ sáng
xa lộ ướt trơn

gần ba giờ sáng
phóng về Boston

gần bốn giờ sáng
em tôi cô đơn

gần năm giờ sáng
kiếp buồn di dân

gần sáu giờ sáng
Hoa Kỳ trở giấc

gần bảy giờ sáng
ca mới bắt đầu



* * *

highway expressway
váng vất tay lái

runway freeway
chóng mặt vòng quay

this way ?
that way ?

bánh xe ẩn dụ
lăn hoài lăn hoài


* *



Trần Hữu Dũng là một ngòi bút có nhiều sáng tác , thường xuất hiện trên Tiền Vệ, Văn Chương Việt,…và hình như ông cũng là hội viện Hội Nhà Văn VN. Nếu bài thơ Trở Giấc có ghi chú minh bạch xuất xứ của các câu và tứ “có nghi vấn” thì có thể coi như

Trần Hữu Dũng đã “họa vận” mấy bài của Chân Phương.

Dĩ nhiên, trò chơi văn nghệ này khả dĩ; và đôi lúc vẫn xảy ra trong lúc trà dư tửu hậu. Nhưng trong sự cố mà chúng ta đã mất thời giờ khảo sát trên đây, ẩn hiện một ý đồ khó hiểu! Đã đến lúc dừng bút, xin trao lại cho dư luận thông minh quyền phán xét .








ảo ảnh phù du

Thơ : Phù Du

ảo ảnh phù du



tôi người bám víu mộng mơ
em người ảo ảnh xa mờ chân mây
hành trình hóa kiếp ăn mày
ngổn ngang ân huệ viết cay mắt già
bàn tay mộng tưởng thăng hoa
nửa trời gấc đỏ em xa tay gầy.

1970




mai sau



mai sau có nát lời thề
rêu xanh rẽ ngọn trở về thương đau
xin em ngôn ngữ phút đầu
cho dù chung cuộc tình sâu vẫn còn.

1970




sợi tóc


sợi tóc khô về nguồn ca hoan
nắng thủy tinh kết áo em vàng
một ngõ cũ mờ chân khói tím
đón em vào màu da cỏ non.

1970



mơ hồ



ngày như chết trong vòm mắt đục
ta mơ hồ ngủ khỏi trăm năm
xem tình xưa như ngày xưa xa xăm
sống là đã chết mơ màng trong mộng
một ngọn gió rơi trên tiếng vọng
ngỡ ngàng như nghe thoáng hoang vu
người đi còn để lại mùa thu
trên sầu tắt nắng hanh đầu ngõ
trên buồn úa nửa vùng lau cỏ
trong vang vang hơi buốt vào hồn
người đi còn để lại mắt khói sương
ta còn như ngủ với hoang đường
đong trên tay chưa đầy tiếng khóc
ta còn như sáng và còn như tắt
soi bóng người với đom đóm con tim
chuỗi tháng ngày chớp nháy với im lìm
trăm năm vẫn tình xưa ấp ủ
trăm năm vẫn lối mòm ủ rũ
dù cho người một phút ngạo cười
dễ đã chết những ngày tháng lạ
ta cơ hồ ngủ khỏi đôi mươi
dễ đã chết một lời cảm tạ?

1971

Thứ Hai, 30 tháng 12, 2013

Cảm xúc đàn bà



 
 
Cô đung đưa đôi chân trần trắng xanh chạm nước biển, thích thú cái trò chơi trẻ con đá chân cho bọt sóng tung lên cao. Những hạt nước tròn xoe long lanh dưới ánh nắng đẹp như pha lê, cô mãi kiếm tìm một điều gì cho mình mà cô cũng không hiểu "nó" là cái gì? Nó như hạt nước biển đẹp lung linh rồi tan ra hoà quyện với mênh mông nước, chìm nghỉm trong vô vàn giọt nước biển. Nhìn cái bóng gầy guộc của cô hắt lên nền cát trông cô đơn lạ lùng, hốt nhiên cô thấy lo lắng cho cảm xúc của mình vô cùng. Nó hẫng hụt nó chênh vênh như ngụ cư nơi mỏm đá bên bờ sâu thăm thẳm, nó ngượng ngùng định kiến như người đàn bà của chế độ mẫu hệ, nó như một cơn khát nước dữ dội chặn ngang cuống họng.
Cô biết mình không xinh hay có thể nói là khuôn mặt cô chẳng có gì hoàn hảo với vóc dáng mảnh mai gầy guộc. Có đôi lần cô tự hỏi không biết những người đàn ông đã yêu mình vì điều gì nơi cô. Điều gì khiến họ đừng chân bên cô quấn quýt say đắm rồi lại không chịu được sự cay nghiệt nơi cô. Có lúc cô thấy mình như hoán đổi vị trí của người đàn ông, ôm một người đàn ông đang khóc và vỗ về an ủi. Ngồi im lặng nhìn thằng bạn thân đang như muốn khóc vì chia tay với người yêu cô thấy mình dở khóc dở cười. Cô không dễ khóc hay nói đúng hơn cô thấy mình không thể khóc những lúc cần khóc. Có lúc cô giận mình vì không thể lấy cái thứ vũ khí của phụ nữ làm mình mềm hơn, cô cứ giận mình thế nhưng rồi mọi thứ vẫn vậy. Có lúc cô lại bật cười vì nhớ lại có lần mình đã khóc suốt 1 ngày, khóc đến mềm môi khóc đến mê muội khóc đến mụ mị cả người khóc đến khô khốc cả cảm xúc. Nhìn những người đàn ông khóc mà cô muốn ngán ngẩm cõi lòng tự hỏi nếu cô yêu một người như thế có lẽ cũng là luật bù trừ của tạo hoá chăng?

Cô vẫn thường ước mình có một ngôi nhà của mình, nơi cô có thể thực hiện những sở thích điên rồ mà không ai ngăn cấm hay nhìn cô như một đứa bé muốn nổi loạn. Nơi mà cô có thể tự do mở cửa vào với người ngợm tóc tai quần áo ướt rũ rượi vì mưa. Nơi mà cô có thể ngủ như chết cả những ngày nghỉ mà không bị ai gọi dậy giữa chừng. Nơi mà cô có thể mở những bản nhạc đinh tai nhức óc người nghe lúc buồn, hay nằm dưới nền nhà như một người không còn sự sống lúc nửa đêm. Nơi mà cô có thể ngồi trên mái nhà ngắm trăng uống rượu mà không bị người đời coi là thần kinh, nơi cô có thể vứt bừa một bao thuốc hay tàn thuốc hút dở mà không sợ ai nhìn ngó. Nơi mà cô có thể buông thả cái thân hình đẫm nước không lau sau khi tắm xuống giường ngủ đến quên trời đất. Nơi mà không người đàn ông nào có thể chạm vào cuộc sống riêng tư của cô vì cô thấy mình không thiết tha những người đàn ông như là cứu cánh cho cuộc sống.

Đôi khi cô thấy mình thanh thản hồn nhiên như một đứa trẻ con và hời hợt như một người đàn bà vô độ. Đôi lúc cô lại thấy mình nghiêm khắc như một bà già và khắt khe từng cử chỉ lời nói. Thảng có lúc cô lại thấy mình là một người phụ nữ đau thắt lại với những ham muốn rất người. Cô không điều chỉnh được bản thân thành hình hài khuôn mẫu mà cô muốn.

Có lần cô cười toe toét và hỏi một người đàn ông đã từng rất yêu cô:

- Sao anh lại yêu em?

Người đàn ông nhìn người phụ nữ đang trong hình hài một đứa trẻ tò mò rồi trả lời:

- Anh yêu em vì em cười rất hay, vì em rất phụ nữ và cá tính nhưng anh không nắm bắt được em, bên em anh thanh thản nhưng không yên lòng về em. Em dễ bị nổi loạn.

Cô bật cười khanh khách phải chăng những người như cô được coi là quá mạnh mẽ trong cả lời nói và hành động nên làm cho các đấng mày râu ngần ngại. Sao con người cứ tự cho mình là tinh tế mà lại không hiểu cái đơn giản nhất là xé toang cái vỏ bọc bên ngoài sẽ tung toé hết những chua cay.

Nên chăng yêu một người thì phải học cách yêu họ hơn bản thân mình hay là mình cần thay đổi theo cái cách mà họ muốn? Có phải là một giọt nước trong veo thì tốt hơn là một biển nước hoà tan? Cô vẫn đang học cái cách tan ra mà chưa được, hình hài của cô vẫn cứng nhắc cái vỏ bọc chắc chắn. Cô vẫn hoài vọng về những xa xôi và không tưởng được có lúc mình lại không là mình nữa.

Cô chọn cái cách cũ rích là tìm về nơi bình yên nhất.

Chân trần đong đưa.

Bình thơ cuối đông

 Nguyễn Hồng Nhung
 ( tặng các bạn của tôi)


Một ngày cuối đông, tôi đọc bài thơ „Tình ơi ! ”  bạn bè gửi.
Và nhấc bút, viết đôi dòng cảm nghĩ.

Không chỉ là thơ:  một cuộc đời, một cuộc tình, một cơn đau, một  giấc mộng vật vờ nửa tỉnh nửa mơ giữa đêm đã qua và ngày chưa đổ hết, một hoài niệm chẳng thể mịt mờ, bởi linh hồn chưa  tha thứ, một nhức nhối tâm can tổn thương, không cho phép đôi môi nào, ve vuốt những cái hôn…

Thi sĩ ơi, người khiến tôi liên tưởng đến bao suối lệ chảy dài, len lỏi giữa những bụi gai quanh triền đá.
Đá phơi mặt ngày ngày ra nắng, chờ đợi những bàn chân phủ niềm vui trở lại, sao thi sĩ không khóc một lần cuối cùng, cho tan những hận yêu, hận sống, hận đau?

“Mùa thu mới chớm
Heo may lướt trên vai gầy
Mái tóc em ấm mềm
Bỗng vụt bay
Tuyệt vọng
Ta
Ngu ngơ
Dại khờ
Nghèo đói
Khốn khó
Chỉ có
Thơ và tình”

Có cuộc đời nào không  bắt đầu ngang trái ?

Thi sĩ có biết:  thượng đế  đã trao  ngay hai vũ khí lợi hại nhất của đời người cho thi sĩ:  Tình yêu và Thơ
   đó là: Em và Tâm hồn Ta,
  đó là: Nguồn Sống và Chữ…

Để vừa bước vào đời, thi sĩ đã có đủ khí chất:   trở - thành – Con- Người?


“Đến giờ ta vẫn sợ
Đêm ấy
Từ nhà em về
đem theo ánh mắt
khinh bỉ
của mẹ em
theo ta suốt đời
Và chiếc cười mai mỉa của bố em
Nụ cười em
Bên người chồng tương lai
Lấp lánh
Ta quặn thắt trong lòng
Đêm thẳm
Ta
Gã trai nghèo
Hai mươi nhăm tuổi”

Bị ném vào cái vũ trụ mênh mông, việc làm đầu tiên của con người là đi tìm hơi ấm. Chẳng có gì ngạc nhiên, khi ta cứ tưởng, ngôi nhà  người đồng loại là chốn bình yên nhất. bởi ta bé nhỏ, bơ vơ,  như nhành cỏ giữa triền miên xanh, nhất là khi, người sinh thành ra ta cũng bé nhỏ và bơ vơ như thế:

“Một người anh nghèo khó
Tìm thằng em khinh đời
Xòe bàn tay năm ngón
Chẳng ngón nào bằng nhau
Mẹ cha nghèo
Chúng ta lận đận”

Bị ném vào vũ trụ mênh mông, vị nếm đầu tiên của con người là nhận ra sự khác biệt giữa mình và người khác. Những nỗi đau sẽ từ đấy mà ra, những vết thương sẽ từ đấy hình thành, và tháng năm trôi đi, giá trả cho hữu hạn duy nhất sẽ là: vị nếm đắng cay đầu tiên của cuộc đời  biến ta thành ai- thành một Con Người như thế nào đây?

Thi sĩ  trải lòng mình chân thật.

Tôi cảm nhận nỗi buồn đầu tiên của chàng, là lúc đón nhận một cái tát:

“Tôn thờ em
Em kiễng chân, cùng ta
Mỏi gối
Chới với
Ta đã gục xuống
Hôn lên
Bức vẽ sơn dầu
Em mặc váy hoa
Dang dở
Ta đã
Ôm em
Van vỉ
... đừng đi
Hãy tin anh
Rồi anh sẽ giàu có
... sẽ giỏi nghề
sẽ...
Em cười
Lá vẫn rơi
Mùa thu”

Cái tát chưa hẳn vì Em- một nửa Anh- ban tặng, mà cái tát đau vì đời như đang xác nhận: con người ơi, anh chả là cái gì cả, giữa mênh mông huyền ảo biến hóa vũ trụ này.
Mà, của cải duy nhất chàng có trên đời lúc ấy:  một tâm hồn.

Tâm hồn chàng buổi đầu đời chưa hiểu: đó là ân huệ của thượng đế thổi vào cát bụi hình hài, phân biệt chàng với bao phù du vô tình, ngơ ngẩn.

 Phải có tâm hồn, nếu không rốt cục, chàng cũng chỉ trở thành những nỗi đau.

Tại sao chàng nhận ra:

“Thánh thiện, tinh khôi
Nửa đêm quỳnh nở
Sáng ra
Nhìn xác hoa héo rũ
Trăm lần ta cay mắt cả trăm
Sao những điều đẹp đẽ
Lại vô cớ phù du?”

Tại sao chàng biết rõ:

“Tháng năm mải miết
Một đời doanh nghiệp
Vẫn chẳng quên thơ
Vẫn không quên
Muôn vết thương
Em là vết thương lớn nhất”

Nhưng vẫn không thể vượt đời thường, vượt qua nổi những nỗi đau?

Bởi cái tát đầu đời dường như nhấn chìm phẩm giá con người chàng, với cân đong giàu -  nghèo, hèn mọn- uyên bác, với  những giá trị còn vượt cao hơn cả giá trị tâm hồn chàng làm ra: chính là Chữ- là thơ, là những niềm đau được chắp nối bằng tri thức, chì dành riêng cho con người, vì chỉ con người diễn đạt mình được bằng Chữ.

Tôi ngậm ngùi thương thi sĩ, lòng tự ái đàn ông bắt chàng làm hết thảy mọi việc trong đời, bắt mình nếm hết thảy trên đường đời, để khẳng định mình, cho dù chàng muốn, chàng thích hay không, mặc kệ:

“Tháng qua
Năm qua
Ta đã là họa sĩ
Lang thang
Rong ruổi
Phong lưu với những người tình
Ta đi khắp đó đây
Xem mồ, đặt mả
Trừ tà, sát quỷ
Nhiều kẻ nhờ, lắm người thán phục
Chán với người thì chơi với ma
Chẳng có gì là lạ
Rồi hứng chí viết truyện, làm thơ
Ta lênh đênh
Sông nước
Thôn nữ
Nghiêng đầu
Ta vùi mặt lên ngực ấm
Vú gái quê
Thơm mềm
Làm lòng ta thanh cao
Hương trinh nữ
Ngậy nồng
Thiêng liêng
Như trước đền thờ thánh Mẫu
Sông vẫn chảy
đò vẫn trôi
xa vời.”

Tôi buồn thương hơn cho chàng, khi đã nếm đủ vị trả thù cuộc đời- dù chàng cho là chính đáng,  đáng tự hào ,đáng hãnh diện  nhất với bản thân- chàng vẫn không cảm thấy hạnh phúc.

“Giờ anh như con thuyền mỏi
Đã qua tháng năm đạp sóng
Đã qua chân trời huy hoàng
Chẳng có gì đáng chấp tranh
Mặc cho lũ ranh kia ngạo mạn
Vâng! Thưa chúng mày! Chúng mày giỏi
Mặc cho đồng nghiệp hơn thua
Vâng! Thưa các người! Các người vĩ đại
Mặc cho ai giở trò láu cá thị phi
Vâng! Thưa bà! Đá bèo là nhất
Mặc cho những thằng ngu dậy khôn tỉa tót
Vâng! Thưa ông! Ông từng trải, ông uyên thâm
Dại khôn khôn dại thật vô cùng”

Chàng không thể hạnh phúc vì chàng vẫn còn một món nợ với tâm hồn mình: với tình yêu của Em- nửa kia của nỗi đau, nửa kia của dịu ngọt quá khứ- mà lòng kiêu hãnh bị xúc phạm không cho phép chàng tha thứ.

Chàng chọn giải pháp người đời phần lớn thực thi:

“Tháng nhoẻn cười
Náu kín mình
Ta cập bến lặng yên
Chờ một ngày
Nguyên, hanh, lợi, trinh
Đam mê với mình
Yêu chiều người vợ nhỏ xinh
Dịu như hương cốm
An lành
Gọi ánh nắng sưởi tim
Đang ấm dần lên
Hứa hẹn
Tất bật với đám sinh viên
Vui buồn trong cái sân khấu đời cán bộ”

Biết làm sao: chàng cũng là con người,
con người chưa đi hết những niềm đau nhân gian, để sớm muộn chàng sẽ hiểu: phù du rồi sẽ đến, cái kết cục rồi sẽ đến, chúng mình đều sẽ ra đi, trở lại hình hài cát bụi…

Sẽ một ngày, chàng hiểu:  Em, tình yêu đầu tiên tinh khiết nhất của Anh, mới là ý nghĩa để anh trải qua kiếp bọt bèo đầy đọa này.

Bởi, có nỗi đau đầu đời, có Em xuất hiện, nên mãi đến tận hôm nay, thi sĩ vẫn còn biết trằn trọc:

“Có những con đường chẳng thể đi lại lần thứ hai
Có những cái bắt tay đằm thắm để rồi xa mãi
Có những điều như ánh trăng đáy nước
Có tình yêu như cơn mưa giông”

Tôi không nghĩ đây là những câu khẳng định. Thi sĩ đang muốn khẳng định thì đúng hơn, để quên đi nỗi khát, quên đi cơn buồn, quên đi nỗi tức giận, quên đi ảo ảnh bình yên của đời thường, quên Em, quên luôn cả Anh, cùng quá khứ.

Mà không nghĩ rằng: bằng trải rộng lòng mình cho Chữ, thành Thơ, chàng đang đi đến bến bờ duy nhất làm người, ôm cả quá khứ đau buồn vào lòng tiến lên phía trước, sẽ gặp lại Tình Yêu khi đã biết quên, quên những gì hèn mọn của đời sống đã định vùi lấp tâm hồn ta.

Một khi con người có tâm hồn, lại bạn bè với Chữ: lúc đó chỉ còn lại niềm Hiến dâng.

Ta sẽ gặp lại Mình trong bình yên hiến dâng ấy.