Thứ Ba, 29 tháng 10, 2013

ĐBQH Đỗ Văn Đương: “Tướng hiện nay nhiều quá”


“Tôi nghĩ tướng là một người thủ lĩnh, cũng nên chỉ bố trí ở những địa bàn trọng điểm, cấp độ dân số hoặc biên chế bao nhiêu lực lượng trở lên mới được. Tướng chỉ nên dành cho người đứng đầu thôi, còn cấp phó thì thôi”.

ĐBQH Đỗ Văn Đương thể hiện quan điểm khi trao đổi với phóng viên bên lề kỳ họp Quốc hội sáng 28/10.

Một vấn đề được nhắc tới nhiều trong thời gian qua là việc quy trách nhiệm cho người đứng đầu địa bàn. Theo ông trong thời gian tới cần phải triển khai theo hướng nào để chủ trương này mang lại hiệu quả?
Tôi lấy một ví dụ trên địa bàn thủ đô, từ ngày anh Nguyễn Đức Chung lên làm Giám đốc Công an Hà Nội, tình hình an ninh trật tự ở Hà Nội đã đảm bảo hơn so với địa phương khác.

ĐBQH Đỗ Văn Đương trao đổi với phóng viên sáng 28/10.


Nhưng giám đốc cũng không thể trăm tay nghìn mắt được, mà dưới đó phải là phường, quận, lực lượng này có vai trò hết sức quan trọng. Vì thế trước tiên phải quy trách nhiệm cho những người đó khi để xảy ra tội phạm lộng hành.

Theo ông, có sự thỏa hiệp của lực lượng công an phường không, khi trên địa bàn đó không phát hiện ra tội phạm, dù nó đang tồn tại?

Cái này dư luận cũng nói có những trường hợp như thế. Rõ ràng nơi đó bán ma túy, rõ ràng nhà hàng đó có mại dâm mà tại sao không biết? Anh biết quá đi chứ. Tôi cho rằng những trường hợp đó có thể quy trách nhiệm được.

Nếu anh không biết anh cũng thiếu trách nhiệm, chứ chưa nói chuyện bao che. Anh quản lý địa bàn nhưng lại để nạn cờ bạc, mại dâm, ma túy diễn biến phức tạp như vậy thì rõ ràng anh thiếu trách nhiệm, hoặc năng lực kém, có thể thay ngay những trường hợp đó.

Nhưng trên thực tế hiếm có cán bộ công an phường nào bị xử lý?

Thì bây giờ phải nêu ra, phải có quy định nếu xảy ra tệ nạn, tình hình an ninh trên địa bàn phức tạp thì phải thay luôn người phụ trách. Nếu cố ý bao che, vụ lợi cá nhân thì phải xử lý một vài anh để răn đe.

Cũng có nhiều ý kiến cho rằng, trong ngành công an thời gian qua đã phong tướng lĩnh rất nhiều, thậm chí các địa phương bây giờ hầu như ngành công an đều là tướng lĩnh đứng đầu, hay có những tổng cục đến 4 trung tướng, 6 – 7 thiếu tướng… Với tình hình phức tạp như hiện nay, đánh giá gì về số lượng tướng lĩnh được phong nhiều như vậy trong bối cảnh tình hình an ninh trật tự hiện nay?

Đây là một câu hỏi rất khó. Ở Việt Nam riêng lực lượng vũ trang được gắn với cấp hàm. Bên cạnh chức vụ giám đốc, tổng cục trưởng, ngay tổng cục phó, hay phó giám đốc công an các địa phương cũng được phong tướng. Hàm tướng hiện nay nhiều quá.

Tôi nghĩ tướng là một người thủ lĩnh, cũng nên chỉ bố trí ở những địa bàn trọng điểm, cấp độ dân số hoặc biên chế bao nhiêu lực lượng trở lên mới được. Tướng chỉ nên dành cho người đứng đầu thôi, còn cấp phó thì thôi.

Nhưng giờ đã chót phong rồi, tới đây theo tôi khi sửa Luật thì phải hạn chế lại. Còn những người đã phong rồi thì thôi không hồi tố nữa, vì vài năm tới số này về hưu rồi sẽ bớt số lượng tướng lĩnh đi...

Xin cảm ơn ông!

Thành Nam

Thương cái nhẹ dạ đàn bà




Nàng đẹp lắm, có mà đi thi ít cũng hoa hậu cấp quận chứ chẳng chơi. Thế nhưng nàng lại quá nhẹ dạ. Nhan sắc là vũ khí, nhưng nhan sắc đôi khi cũng là chỗ yếu của đàn bà.





Nàng đẹp, nên nhiều người tấn công ngay từ thời còn rất trẻ. Cái người tấn công nàng đầu tiên chẳng đáng bén gót cho nàng thế mà nàng đã đổ gục ngay lập tức.

Thế là 19 tuổi nàng đã đi lấy chồng vì nhẹ dạ tin vào cái vóc dáng to cao lực lưỡng, vào cái điệu bộ ngang tàng khí phách của hắn và vào những lời đường mật ngọt ngào của hắn. Lấy được nàng dễ quá, nàng lại thơ ngây, mỏng manh hoài, hắn bắt đầu lượn trong khi nàng sinh một rồi hai con. Rồi cứ thế nàng vò võ nuôi con, cày cục đi làm kiếm tiền. Còn hắn tiếp tục lượn khắp mọi bông hoa nào mà hắn tình cờ gặp trên đời.

28 tuổi, nàng sa vào lưới tình của một người đàn ông đã có vợ. Không phải vì nàng lẳng lơ lăng loàn gì mà chỉ vì nàng quá buồn, quá cô đơn. Nên khi kẻ kia vừa buông lời thương xót nhan sắc đơn côi là nàng nghĩ mình đã tìm được người tri kỷ. Bắt đầu từ đó, nàng như người tay ướt, nắm vội hết cuộc tình này đến cuộc tình khác mà vẫn cứ trượt khỏi những bấu víu của mình. Vẫn chỉ là những lời ngọt ngào, những món quà sâu sắc, những bông hoa cuối ngày lễ sắp tàn làm điểm tựa cho nàng treo trái tim khao khát yêu thương của mình. Những thất hứa, vội vàng, qua quýt của họ, nàng đều tìm cách đề thanh minh, bào chữa và giữ gìn. Cái nàng nhận bao giờ cũng ít ỏi và mong manh, thế nhưng với nàng thà có còn hơn không. Nàng chắt lưỡi hoài rồi bỏ qua mọi lời khuyên nhủ, răn dạy, thậm chí mắng mỏ của bạn bè.

Chồng nàng vẫn chẳng thèm để ý đến nàng, vẫn bay lượn ngoài bầu trời tự do của mình. Nàng thì lấp vấp trong khoảng trống dại khờ và nhẹ dạ. Hết cuộc tình này đến cuộc tình khác thoảng qua như gió và tắt ngúm sau những đe dọa, réo gọi, dằn xóc. Nàng lại lơ phơ đi tìm những lời hứa khác, lấy sự dịu dàng, hiền hậu và nhan sắc của mình làm vui cho những lời than thân trách phận của những gã mà chỉ cần một cuộc điện thoại mang ký hiệu “vợ” là cun cút bỏ chạy về mặc cho nàng ngơ ngẩn bào chữa, thanh minh cho những cuộc tình.

45 tuổi, chồng nàng cuối cùng bị một người đàn ông khác bứt ra khỏi nàng gọn gàng. Nàng ký tờ đơn ly dị mà chưa kịp hiểu mình được hay mất, có hay không. Ở cái tuổi này, trở thành tình nhân chính thức của một người đàn ông rất yêu thương vợ mình nhưng cũng vô cùng yêu quý nàng, nàng lại bào chữa: “Đàn ông thế mới là đàn ông. Anh ấy làm sao bỏ vợ khi chị ấy quá yêu anh và sống nhờ vào anh”.

Bạn bè giờ không nghe nàng tâm sự, chẳng tin những lời kể lể của nàng về người đàn ông tội nghiệp đó nữa. Chỉ có nàng vẫn mang những nụ cười cuối cùng của mình để mua vui cho một kẻ tham lam mà vẫn tin là mình được yêu.

Bạn bè lên án, cười chê, trách móc nàng, rồi áy náy buông câu: “Cả đời nhẹ dạ, thật tội!”.

 Thúy Vy

Hoa Kỳ có tránh nổi sự phá sản?






© Photo: «The Voice of Russia»



Giới nghiên cứu kinh tế đang ước tính thiệt hại từ việc Mỹ đóng cửa các cơ quan chính phủ, sự kiện xíu nữa kết thúc bằng sự phá sản đầu tiên của Hoa Kỳ trong lịch sử. Nhà Trắng đã đưa ra con số 10 tỷ USD. Giới chơi chứng khoán và tài chính nhắc đến con số lớn hơn, lưu ý việc các nhà đầu tư bị tước mất khả năng truy cập nguồn vay chính phủ.

Thế nào đi nữa, điều rõ ràng là nền kinh tế Mỹ đã hứng chịu những thiệt hại không hề nhỏ. Nhưng tại sao phải làm như vậy? Đảng Cộng hòa chấp nhận mất điểm để làm gì? Chưa bao giờ uy tín của những người Cộng Hòa thấp như vậy kể từ năm 1992.

Ở Mỹ, một số người đã chĩa ngón tay về phía hai đảng viên Cộng hòa tích cực là anh em tỷ phú Charles và David Koch. Họ ném hàng triệu đô la vào chiến dịch chống cải cách y tế được Tổng thống Obama đề xuất. Cải cách muốn dùng tiền bảo hiểm của những người còn trẻ và khỏe mạnh tài trợ một phần cho chăm sóc y tế người nghèo không có bảo hiểm. Đảng Cộng hòa, trong đó có anh em Koch, nhìn nhận ở đây sự trôi dạt nguy hiểm về phía chủ nghĩa xã hội.

Giáo sư Michael Chosudovsky, người phụ trách Trung tâm nghiên cứu các vấn đề toàn cầu hóa nhận định rằng, yếu tố cá nhân không có nhiều giá trị trong cuộc đối đầu vừa kết thúc. Về nguyên tắc, đảng Cộng hòa luôn phản đối sự gia tăng các chi tiêu quốc gia vào phúc lợi xã hội, đặc biệt trong lúc này.

“Tất nhiên có những người như anh em Koch, nắm giữ sự can thiệp, sở hữu những quan hệ nhất định trong hành lang Nghị viện. Nhưng dù sao, bàn về cuộc tranh luận ngân sách hiện nay, chúng ta phải nhớ đến những nguyên nhân mang tính cơ cấu. Hoa Kỳ đứng bên bờ vực phá sản. Tương lai của chính quyền Liên bang đang bị đe dọa. Nhà chức trách đối mặt với tình huống nợ quốc gia tăng 70% kể từ cuộc khủng hoảng tài chính cuối cùng hồi năm 2008.”

Theo ông Chosudovsky, nước Mỹ ngày nay trước ngưỡng một cuộc tư hữu hóa quy mô lớn các tài sản quốc gia và khu vực. 100 thành phố ở Mỹ đã tuyên bố phá sản, trong đó có Detroit. Các đầu sỏ chính trị dang tay với tới những tài sản mà người ta đánh giá là phi lợi nhuận. Giáo sư Chosudovsky lưu ý rằng, không hề có tranh chấp giữa đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa trong vấn đề này, cả hai đều bị các nhóm vận động hành lang thao túng kiểm soát như nhau.

“Khi nói đến các nhóm vận động hành lang, chúng tôi không ám chỉ một hoặc hai gia đình giàu có, chẳng hạn anh em Koch. Chúng tôi đang nói về cả Wall Street, về những nhà băng giống JP Morgan Chase, Ngân hàng trung ương Mỹ hay còn được gọi là Cục Dự trữ Liên bang. Mang danh Liên bang nhưng trong thực tế đó là một tổ chức tư nhân, nắm giữ các kỳ phiếu nợ quốc gia.”

Ông Chosudovsky cho rằng, Hoa Kỳ không thể tránh khỏi những cắt giảm chương trình xã hội và chính sách thắt lưng buộc bụng theo mô hình Hy Lạp. Câu hỏi đặt ra là làm điều này như thế nào? Chương trình chăm sóc y tế của ông Obama là chiếc phao cứu sinh mà Nhà Trắng mong cung cấp cho những ai bị hất ra ngoài trong khuôn khổ "thắt lưng buộc bụng". Còn đảng Cộng hòa không chịu chi cho chiếc phao này, chú tâm mơ ước ngay lập tức chia trác tài sản quốc gia cho các "mèo mỡ", cách gọi những tập đoàn lớn ở Mỹ. Đó là toàn bộ ý nghĩa cuộc tranh giành giữa Nhà Trắng và Quốc hội hôm nay.

Kazakhstan phát minh vắc xin chống tham nhũng





Photo: RIA Novosti



Một nhà khoa học Almaty đã trình bày với Liên hiệp Hồi giáo Kazakhstan và Ủy ban Nhân quyền Hồi giáo Trung Á về phát minh mới mà theo ông sẽ triệt tiêu tận gốc tệ nạn tham nhũng trên thế giới.

Cơ sở của thuốc tiêm phòng chống tham nhũng là vắc xin chống virus HPV, hiện đang được tích cực phổ biến ở Kazakhstan. Nhà khoa học thêm vào vắc xin nước quả mạn việt quất, nước tiểu của lừa non, sữa ngựa và chiết xuất từ phân cừu.

Ông đề xuất tiêm vắc xin mới bắt đầu từ các nhân viên Viện Công tố Kazakhstan. Nhân viên nào chết sau khi tiêm chủng hoặc bị ốm nặng sẽ có nghĩa người mắc bệnh tham nhũng vô phương cứu chữa hoặc rất dễ sa ngã, - nhà khoa học khẳng định. Ông hi vọng giới thiệu công cụ chống tham nhũng mới tại EXPO -2017 và được đề cử nhận giải Nobel Y học.

Thứ Hai, 28 tháng 10, 2013

Tội phỉ báng, vu khống lãnh đạo và chính quyền (Bộ luật hình sự nước CHLB Đức)




§90 Phỉ báng tổng thống

(1) Ai phỉ báng tổng thống công khai hoặc phán tán truyền đơn sẽ bị phạt tù từ 3 tháng tới 5 năm

(2) Trong trường hợp nhẹ tòa có thể giảm án nếu không nằm trong đối tượng vi phạm vào điều 188

(3) Phạt tù từ 6 tháng tới 5 năm trong trường hợp vi phạm vào tội vu khống (điều 187) hoặc cố ý với mục đích nhằmmục đích gây nguy hại cho nước CHLB Đức hoặc chống lại hiến pháp.

(4) Hành vi vi phạm chỉ bị khởi tố khi có yêu cầu từ tổng thống


§90a Phỉ báng chính quyền và các biểu tượng của nhà nước
(1) Ai trong công khai hoặc phát tán truyền đơn nhằm
1. Phỉ báng hoặc vu khống chính quyền liên bang, tiểu bang hoặc cơ quan hợp pháp
2. Phỉ báng Màu biểu tượng, cờ, quốc huy, quốc ca của nước CHLB Đức hoặc các tiểu bang
bị phạt tù tới ba năm hoặc phạt tiền.

(2) Ai lấy đi, phá hoại, làm hỏng, gây hư hại hoặc làm cho biến dạng hoặc xúc phạm vào cờ của CHLB Đức hoặc của các tiểu bang, hoặc biểu tượng quốc gia được gắn tại các cơ quan chính quyền liên bang hoặc tiểu bang cũng sẽ bị phạt. Kể cả thử làm cũng bị phạt.

(3) Nếu như cố tình vi phạm nhằm gây nguy hại tới sự tồn vong của nước CHLB Đức hoặc hiến pháp sẽ bị phạt tiền hoặc phạt tù tới 5 năm.


§90b Phỉ báng có tính coi thường các cơ quan hiến pháp

(1) Ai trong công khai hoặc phát tán truyền đơn nhằm phỉ báng cơ quan lập pháp, chính quyền hoặc tòa án hiến pháp của liên bang hoặc tiểu bang hoặc một thành viên của các cơ quan đó nhằm gây nguy hại tới nhà nước hoặc nhằmmục đích gây nguy hại tới sự tồn vong của CHLB Đức sẽ bị phạt tù từ 3 tháng tới 5 năm.
(2) Các trường hợp vi phạm sẽ được xử khi nào các cơ quan, cá nhân bị phỉ báng có yêu cầu.


§187 Tội vu khống (cá nhân)


§188 Vu khống và phỉ báng các chính trị gia

(1) Ai công khai hoặc phát tán truyền đơn (§ 11 khoản. 3) nhằm bôi nhọ (§ 186) người đại diện của nhân dân, nhằm động cơ gây khó khăn cho công việc của những người bị hại sẽ bị phạt tù từ 3 tháng tới 5 năm

(2) Tội vu khống (§ 187) với điều kiện tương tự sẽ bị phạt tù từ 6 tháng tới 5 năm.

§ 194 Thưa kiện

Khoản 1: Người nhục mạ chỉ bị khởi tố khi có đơn yêu cầu. Nhưng nếu hành động đó qua việc phát tán truyền đơn, công khai nhục mạ hoặc qua đài truyền thanh thì việc đệ đơn là không cần thiết, nếu người bị hại là nạn nhân của các tổ chức dân tộc xã hội hoặc các tổ chức bạo lực khác. Cơ quan pháp luật không có quyền khởi tố trong trường hợp người đại diện hợp pháp yêu cầu hủy. Đơn xin hủy sẽ không được phép rút lại. Trong trường hợp người bị hại qua đời thì người có quyền đệ đơn hoặc hủy đơn là người thân theo điều 77 khoản 2.

Khoản 2: Nhục mạ người quá cố thì người thân (theo điều 77 khoản 2) có quyền đệ đơn kiện. Nếu việc nhục mạ đó được thông qua việc làm công khai, hoặc qua truyền đơn, đài truyền thanh thì việc đệ đơn là không cần thiết, nếu người bị nhục mạ là nạn nhân của chủ nghĩa dân tộc xã hội hoặc các tổ chức bao lực khác. Cơ quan pháp luật không có quyền khởi tố trong trường hợp người đại diện hợp pháp yêu cầu hủy.
Khoản 3: Nếu người bị nhục mạ là một nhân viên chính quyền, hoặc một quân nhân đang tại ngũ thì người đệ đơn sẽ là cấp chỉ huy trực tiếp. Nếu nhục mạ một cơ quan hành chính hoặc một bộ phận thì người đứng đơn là đại diện của cơ quan đó. Điều đó áp dụng cho các tôn giáo và chính quyền.

Khoản 4: Nếu nhục mạ một cơ quan lập pháp của liên bang hoặc tiểu bang, hoặc một hội đoàn họat động theo bộ luật này thì việc truy tố chỉ được tiến hành khi có yêu cầu của bên bị hại.

Vấn đề lớn của Đức: Người già bị hóa nghèo



Tại Đức một trong những vấn đề lớn hiện nay là người già rơi vào hoàn cảnh đói nghèo: Cả nước có 465.000 người hưu trí lương hưu không đủ để mua thực phẩm và các thứ thiết yếu và họ phải nhận thêm tiền trợ cấp, tăng 6,6% so với năm 2011 (Năm 2005 con số đó là 343.000). Đối tượng lớn nhất trong số đó lại là những người phụ nữ và phần nhiều ở tây Đức. Khu vực đông Đức bao gồm cả Berlin chỉ có 2,5% số người hưu trí phải nhận trợ cấp. Người già nghèo có nhiều nhất ở Hamburg, ở con số bình quân 6,5%. Có rất nhiều người đi làm cả cuộc đời, 30 năm, thậm chí 40 năm hoặc nhiều hơn, nhưng khi về hưu vẫn không đủ sống, đó là lý do mà họ phải nhận thêm trợ cấp. Một phần do vật giá leo thang, phần khác do chính phủ cắt giảm ngân sách, tiền hưu không được tăng,.....

Ngoài ra tuy rằng khoảng cách giàu nghèo theo báo cáo chính phủ giảm đi nhưng số người nghèo ở Đức vẫn chiếm 15,8%, tức là cứ 6 người thì có 1 người thuộc diện nghèo hoặc nguy cơ nghèo.
Trong EU, khái niệm nghèo cũng có rất nhiều khác biệt. Trong khi tại Đức, độc thân thu nhập dưới 952€ mỗi tháng được coi là nghèo thì tại Rumania con số đó là 105€, Bulgaria 145€, Luxemburg 1626€, Đan mạch: 1319€. Số người đối diện với nguy cơ nghèo thấp nhất là CH Séc, với 9,8%, Hà lan 11%, Áo 12,6%, Đan mạch 13%, Luxemburg 13,6%, Pháp 14%, Bỉ 15,3%, Ba lan 17,7%.

Mối liên quan giữa số người nghèo và chênh lệch giàu nghèo cũng rất mật thiết: Ở đâu chênh lệch càng lớn, ở đó càng có nhiều người nghèo. Ví dụ cụ thể cho trường hợp đó là Rumania, Bulgaria, Italia, Hy lạp, Tây ban nha và Bồ đào nha.

Mùa thu trong thơ Haiku Nhật Bản



HOÀNG XUÂN VINH



Mùa thu đi vào thế giới thi ca của xứ Phù Tang thơ mộng tự bao giờ ? có lẽ từ những bài tanka 31 âm tiết cổ xưa nhất trong “Manyoshu” (Vạn diệp tập), hợp tuyển thi ca vĩ đại cổ sơ thời đại Nara (thế kỷ VIII) . Giữa 4.496 chiếc lá thơ xinh xắn ta âm thầm nhặt lên, nâng niu trên tay bao chiếc lá khô giản dị, đơn sơ mà thanh khiết, tao nhả đến lạ lùng.

Thơ Haiku mùa thu mang nhiều sắc thái thẩm mỹ khác nhau, giao thoa hòa quyện lẫn hau để làm nên hương sắc và phong vị khó miêu tả, khó phân tích, chỉ có thể cảm nhận bằng sự vi diệu của tâm linh, sự tinh tế của tâm hồn, sự mẫn cảm của trực giác mà thôi. Trong đó bi cảm (tiềng Nhật là aware) là cảm thức bao trùm, là cái chất thu đẹp, buồn và quyến rũ, ngàn năm lay động hồn người dù chỉ bằng một chút men thu.

1- Lá phong đỏ , hoa cúc vàng và triệu nhan tím

Nhật Bản là đất nước của ngàn thơ, vì trước hết đó là đất nước cua ngàn hoa. Hoa lá một trong những hiện thân trọn vẹn và rực rỡ nhất của cái đẹp trên đời. Hình như tạo hóa có phần thiên vị Phù Tang quần đảo, và hình như người Nhật cũng đã cảm nhận được cái ân tình của tạo hóa nên thầm lặng nói lời tạ ơn bằng cách sống đẹp như hoa, trồng hoa trên khắp mọi miền đất nước, thưởng hoa suốt bốn mùa xuân hạ thu đông, đem hoa và tất cả hình nghệ thuật tinh túy nhất như vườn cảnh, cây cảnh, cắm hoa hội họa, trà đạo, trang phục, ẩm thực… Tất cả những người Nhật tài hoa chạm tay vào đều biến thành hoa của cuộc sống . Thơ Haiku mùa nào cũng có quý ngữ là những loài hoa đẹp… Lá phong đỏ, hoa cúc vàng, vàơ triệu nhan tím là ba hình ảnh hoa thơ đẹp nhất và đặc trưng cho sắc thu , hương thu, vị thu trong thơ Haiku.

Hơn một ngàn năm trôi qua rồi mà ta vẫn còn rúng động khi nghe lời thầm thì cùng lá đỏ trong “Manyoshu”xưa:

Đàn nhạn bay về / cây phong của ta ơi / đến lượt em rồi đó / đã sang mùa / em hãy đổi màu đi !
Khi người yêu tôi / mặc áo trắng đi ngang đồi / vương vào lá / vì đang là mùa thu

Mùa thu là mùa của lễ hội ngắm lá. Vàng rơi phủ dần đường xưa lối cũ là sắc đỏ sang mùa của ngàn vạn lá phong. Đẹp đến mức Shiki phải thốt lên :

Đẹp lạ lùng / ai mà không ghen tị / lá đỏ rời cành phong .

Cũng như hoa anh đào, đẹp từ lấm tấm nụ dến bạt ngàn hoa , đẹp cả lúc lả tả trong mưa bụi gió xuân , rơi xuống làm hồ Biwa gợn sóng, lá phong đẹp rợn ngợp trên cành cây cao và kiêu hảnh gieo mình về với cội rễ già, chôn mình bằng xác lá khô héo úa vàng .

Một lần đi qua xứ lạnh mủa thu, nhà thơ Tế Hanh hạ bút :

Lá phong đỏ như mối tình rực lửa
Hoa cúc vàng như nỗi nhớ dây dưa

Thiên nhiên hình như cũng biết tình tứ hẹn hò. Nhớ lời ước hẹn sang thu , hoa cúc rủ nhau về nở rộ :

Cúc vàng cúc trắng / đóa cúc hồng / tôi khát khao /(Shiki)

Mong manh mong manh / một nhành hoa cúc / vừa đơm nụ vàng ( Basho)
Hoa cúc bé nhỏ và mong manh là vậy, nhưng lại ẩn giấu dưới sắc vàng rực rỡ một sức sống tiềm tàng tràn trề sinh lực.

Dẫu thân hao gầy / cành hoa cúc ấy / nụ hoa căng đầy ( Basho)

Không chỉ đẹp trong cái sắc trắng ngần, hoa cứ đến trong cuộc đời trần trụi bụi bặm này một cách hồn nhiên, trong veo, thanh khiết, vô tư.

Kìa hoa cúc trắng ngần / không mảy may hạt bụi / nở ngay trước mắt trần ( Basho)
Bông hoa cúc Nhật ấy cũng như đóa sen trong ca dao Việt vậy. Cái đẹp trong quan niệm thẩm mỹ của người Nhật thường hài hòa với cái nghèo nàn , đơn sơ mộc mạc, xù xì bé nhỏ gần gủi quanh ta :

Quanh chiếc cối xay / trên mình cúc trắng / chút bụi bám bay ( Basho )


Cái lam lũ của cối xay, cái tội nghiệp nghèo nàn của bụi bám vương vào cánh hoa cúc trắng tinh khôi tạo nên một tương giao của vạn vật hiền hòa . Và đến khi thu vàng sắp từ biệt , những đóa cúc muộn màng cuối mùa cũng ra đi , vạn vật hầu như chỉ còn là hư không trống vắng , như có một cái gì đó vừa trôi qua tầm tay ta.

Hoa cúc hết mùa / ngoài cây củ cải / còn lại gì đâu ( Basho)

Mùa thu còn quyến rũ lòng người bằng sắc triệu nhan (asagao) xanh tím. Triêu nhan – gương mặt buổi sáng – còn được mang một cái tên dân dã dễ thương là bìm bìm , loài hoa leo dân dã đồng nội thân quen quấn quýt khắp nơi, giăng mắc mọi lối Triêu nhan không phải là hoa của mùa thu, nhưng vì cái màu tím đẹp và gợi cảm của hoa nên thường được người Nhật nhắc đến trong những bài thơ về mùa thu như một quý ngữ, một hình ảnh trung tâm của thế giới thơ. Thiền Ni Chiyo không để lại nhiều thơ, nhưng vẫn đủ sức tạo hương gây mùi nhớ cho đời, mà đẹp nhất là bài thơ về bông hoa triêu nhan biêng biếc bên thành giếng một sớm tinh mơ :

A ! Asagao! / dây gầu vương hoa bên giếng / đành xin nước nhà bên .

Bài thơ đẹp cách tạo hình ảnh vừa tương phản lại vừa tương hợp giữa dãy hoa dây gầu, còn đẹp hơn bởi cách tạo yếu tố bất ngờ trùng điệp tăng cấp qua cả ba câu thơ bé nhỏ . Bài thơ còn sâu sắc ở chỗ đã gửi gắm kín đáo dưới chữ nghĩa ít ỏi kia một nét đẹp lấp lánh của tâm hồn Nhật Bản. Đó là sự tinh tế và nhạy cảm trước cái Đẹp của cuộc sống và hơn thế nữa là thái độ và nghĩa cử biết nâng niu , trân trong gìn giữ cái đẹp trong đời .

Đóa triều nhan trong bài thơ nhỏ của Basho lại đáng yêu một cách khác:

Triều nhan một đóa / suốt ngày chốt cửa / cài vào cổng tôi ( Basho)
Trong thế giới của tĩnh lặng và tách biệt bụi trần , triêu nhan bé nhỏ thầm lặng làm người gác cổng đáng yêu bên lối nhỏ vào đường thiền vạn nẻo , vào tâm thiền thênh thang .

2-Săc màu và hương vị cùng gió và sương thu

Trong thế giới nghệ thuật không chỉ có những sự vật hiện tượng cụ thể mới có hình hài sắc màu , hương vị …diêu thú vị khi thưởng thức thơ Haiku mùa thu là ta không chỉ vừa có thể thấy được bao sắc màu , lại còn có thể ngửi thấy được cả mùi vị của mùa thu mới thật là kỳ lạ !

Bắt gặp sắc đỏ của mùa thu qua thảm lá , tán lá , sắc vàng trắng của mùa thu qua bạt ngàn cúc hoa , ta lại ngẩn ngơ trước sắc tím xanh biêng biếc của triêu nhan bên hàng dậu đổ . Nhưng cái màu sắc vô hình của mùa thu lại chính là sắc trắng – một sắc trắng kỳ lạ của hư vô , hình như không thể nhìn thấy bằng mắt , mà chính là màu tâm trạng , màu tâm hồn , màu tâm tư , màu tâm tưởng , cả màu tâm linh nữa .

Bể tối sầm / tiếng nhạn / phơn phớt trắng.
Trắng hơn / đá trên núi / gió thu
Không bao giờ quên / mùi cô đơn/ của giọt sương trắng ( Basho)

Khi cảm nhận sắc màu của vạn vật trong không gian thu , nhân vật trữ tình ẩn tàng trong những bài thơ Haiku trên đã có một năng lực trực cảm kỳ lạ đó là sự chuyển đổi cảm giác . Ở bài thơ thứ nhất , sắc đen tối sầm của biển tương phản và làm nổi bật màu phơn phớt trắng , không phải của cánh nhạn , mà là của tiếng nhạn . Tiếng nhạn trên biển tố không phải được nghe bằng tai mà được thấy bằng mắt ! Ở bài thứ hai , nghệ thuật so sánh đã làm nổi bật màu trắng của gió thu trên nền màu trắng của núi đá . Gió ở đây cũng không phải được nghe bằng tai mà được thấy bằng mắt và gió có …màu trắng ! Ở bài thứ ba , lắng sâu vào lòng người , lặng sâu vào vũ trụ là một giọt sương . Giọt sương thắm ấy không chỉ có màu mà còn có cả mùi vị . Một cái mùi vị độc đáo không thể ngửi thấy được , không thể nếm , không thể miêu tả được mà vẫn cảm nhận được , đó là mùi…cô đơn !

Hình hài của mùa thu không chỉ hiển hiện ra trong màu sắc , mà thu chỉ thật sự hiện hữu , thật sự được cảm nhận từ những làn hương .

Ở Yamankta/ không cần ngắt hoa cúc bỏ vào / mà nước suối vẫn thơm ( Basho)
Mưa mù sương / phù dung một đóa / làm mùa dâng hương ( Basho)
Đi giữa trời thu, con người hòa vào vũ trụ một cách như nhiên nhất, vì ta chính là một phần của bản thể vũ trụ mà. Vì vậy, ta có thể cảm nhận một cách tinh tế nhất cái cuộc sống huyền diệu này. Cái đẹp của vạn vật vào thu không chỉ tồn tại như một hằng thường khách quan mà vô thường trong cảm nhận chủ quan của chính con người. Trực giác bao giờ cũng sắc bén khiến những câu thơ thu bé nhỏ kia đẹp và thực đến khó tin.

Gió thu và sương thu là những quý ngữ quen thuộc trong những khúc ca thu bé nhỏ này. Gió cũng là ngôn ngữ riêng của thu; lời của thu cũng là lời của gió. Đi qua những ngày hạ nóng nực, những làn thu phong đã đem lại cho vạn vật một cảm giác mát mẻ dễ chịu những ngày đầu thu :

Đỏ bừng / mặt trời . nhưng rồi thu phong
Không khí mát mẻ mùa thu / bàn tay gọt vỏ / dưa gang và cà tím ( Basho)

Và trong làn gió thu nhẹ thoảng, những chiếc lá chao mình rơi rụng, đùa giỡn cùng gió mùa thu tinh nghịch:

Một chiếc lá rơi / chiếc khác / gió đoạt ( Issa)

Thiên nhiên có sự giao cảm lạ kỳ; đầy bí ẩn. Dấu ấn cảm quan sùng thượng thiên nhiên của Thần đạo (Shinto) in đậm trong bài thơ thu. Gió thu không chỉ là cái đẹp của thiên nhiên mà còn là sức mạnh thần bí của vũ trụ. Thơ mùa thu vì vậy không chỉ mang đi cảm xúc về cái tình, cái đẹp mà còn ẩn chứa trong sâu thẳm những trầm tư triết lý , đức tin và tín ngưỡng của con người .

Gió thổi, sương pha nhắc ta biết vạn vật đã sang mùa. Vào thu, đất trời không còn cái ấm áp tinh khôi của mùa xuân, cái nồng nàn khỏe khoắn của mùa hạ, cũng chưa có cái lạnh lẽo, âm thầm của mùa đông. Mùa thu trong thơ Haiku có cái đẹp mơ màng của mù sương xứ lạnh.

Chìm trong mưa sương / đỉnh Fuji ấy / lòng ta không buồn ( Basho)
Mưa mù sương / phù dung một đóa /làm mùa dâng hương ( Basho )
Hoa đinh hương ơi / những giọt sương sáng/ em đừng để rơi ( Basho)

Ôi những hạt sương/ trân châu từng hạt / hiện hình cố hương ( Issa)

Thật kỳ diệu những giọt sương ! Chỉ trong một hạt sương long lanh mà có thể chứa đựng tất cả vũ trụ : cái đẹp, niềm vui, nỗi buồn, ảo ảnh… Đơn sơ là một giọt sương, hư vô là một giọt sương, nghèo nàn là một giọt sương, mà giàu có cũng chỉ là một giọt sương trên đầu ngọn cỏ mà thôi !

3-Chiều thu, đêm thu, trăng thu cùng nỗi buồn , sự cô đơn và cái chết

Thơ Haiku mùa thu thường ngập ngừng dừng bước vào những thời điểm đẹp và buốn nhất trong một ngày thu là chiều tà và đêm tối. Có lẽ những phút giây tĩnh lặng nhất trong ngày. Cùng với bi cảm (aware), thì sabi (tịch) cũng là một cảm thức thẩm mỹ thường trực trong Haiku mùa thu .

Trên cành khô / cánh quạ đậu / chiều thu ( Basho)
Đó là bài Haiku danh tiếng của tôn sư Basho. Haiku vốn không có nhan đề, nhưng bạn yêu thơ đời sau đã thân ái đặt cho bài thơ này một cái tên lâu dần thành thân quen như bài thơ Con quạ. Bài thơ chỉ có một gam màu sẫm tối buồn bã với ba hình tượng nghệ thuật được sắp xếp một cách đơn lẻ : Một cành cây khô trơ trụi, một cánh quạ nhỏ bé , lẻ loi , xấu xí đứng yên không động vọng , một hoàng hôn bóng tối loang dần . Thế nhưng tất cả đã hòa vào nhau thành một nhất thể như tự khởi nguyên, vô thủy và vô chung, vô âm và vô sắc, vô định và vô hạn, vô ngại và vô chấp.

Trên con đường này /giữa chiều thu ấy / đi về không ai ( Basho)
Một mình/ thăm một người/ chiều thu (Buson)


Trong cả hai bài thơ nhỏ bé này đều có một chủ thể trữ tình vừa ẩn tàng vừa lộ diện. Cả hai đều cô độc trong chiều thu cô liêu. Cảm giác đơn côi của người lữ khách trên con đường thiên lý giữa buổi chiều thu lộ ra qua những số từ “không” và “môt”. Sự cô đơn , sự già nua , cái chết , biệt ly… là những chủ đề đi xuyên qua nhiều bài Haiku mùa thu ảm đạm .

Mùa thu năm nay / sao tôi chóng già thế . chim sa ở mây trời ( Basho)
Bài thơ nói về cái tôi mà không có cái tôi. Khi ngộ ra những vô thường, cũng là lúc con người thoát ra khỏi vòng luân hồi sinh tử, an nhiên như chim tung cánh, như mây trời lang thang.

Mùa thu ở Kiso / người tiễn đưa ta, ta tiễn đưa người ( Basho )
Xin hãy lay động nấm mồ / những lời than khóc của tôi / chiều thu ( Basho)
Không còn mẹ / một mình em bé tập cười / đêm mùa thu rơi ( Issa)
Gió mùa thu rơi / hoa tím còn muốn hái /cô bé chết hôm nào ( Issa)

Thơ Issa là tấm gương phản chiếu nỗi đau trong tâm hồn, trong cuộc đời nhà thơ. Cuộc đời Issa buồn vả khổ, hạnh phúc thì hiếm hoi, mà bất hạnh thì dồn dập, chất chồng. Mỗi bài thơ buồn của Issa là một vành khăn sô trắng màu tang tóc của mùa thu.

Những tưởng đã giũ bỏ mọi lớp bụi hồng trần đế an nhiên thung dung phiêu lãng trên con đường sâu thẩm của hài cú đạo, thế mà ngay cả Thiền sư Basho cũng không ngăn được dòng lệ trước sự vô thường của cuộc đời , trước sự nghiệt ngã của cuộc tử biệt sinh ly . Ngày đi có bóng mẹ tiễn đưa, ngày về cỉ còn:

Lệ trào nóng hổi / tan trên tay tóc mẹ / làn sương thu ( Basho)

Nước mắt của đứa con đi xa trở về không kịp nhìn thấy mẹ lần cuối, chỉ còn trên tay chút tóc bạc mẹ già để lại theo phong tục cổ xưa. Đó là một trong những bài thơ hay nhất về mẹ trong thế giới thơ ca Nhật Bản, lấp lánh một góc khuất tình cảm trong cuộc đời ngời thi sĩ lãng tử thiền sư.

Cây chuối trong gió thu / tiếng mưa rơi tí tách vào chậu / ta nghe như tiếng đêm (Basho)
Đêm thu có âm thanh riêng của nó mà chỉ người thức trắng cùng đêm, cùng thu , cùng gió, cùng mưa mới hốt nhiên nghe được tổng hòa cái âm thanhkỳ lạ ấy, được định danh là “tiếng đêm”. Và đêm không còn là đêm của một thời gian cụ thế, mà đã trở thành đêm phi hiện thực, phi thời gian, đêm của sâu thẩm tâm linh, đêm của lòng ta hay đêm huyền diệu bao la của vũ trụ vô tận này?

Trong cái tận cùng của cô đơn, trong cái vộ cùng của vũ trụ, con người may ra còn có duy nhất một người bạn trên đời:

Chỉ vầng trăng và tôi /trên cầu gặp gỡ / cô đơn gió buốt (Kikushani)
Trăng thu / cùng tôi phiêu lãng / suốt đêm quanh hồ (Basho)

Trăng và tôi, hai chủ thể cùng cô đơn, đã hợp nhất thành một. Con người giữa đất trời hiện hữu, tự nó đã là một minh chứng cho quy luật tồn sinh của vạn vật. Triết lý Thiền, triết lý Đạo, triết lý Thần ngẫu nhiên gặp nhau trong quan niệm vạn vật bình đẳng và tương giao trên góc nhìn nhân sinh quan và cả vũ trụ quan nữa. Những bài Haiku bé nhỏ đôi khi lại có một năng lực, một sức chứa kỳ lạ có thể dung nạp hết mọi đạo lý huyền diệu vào một vài con chữ ít ỏi của thơ ca.

Trong ánh mắt / gió mùa thu thổi / đều là Haiku ( Shiki)


Trên bước đường phiêu lãng, trong cái phút tạm dừng bước giang hồ , người lãng tử thiển sư đã hốt nhiên bắt gặp một bức tranh tuyệt đẹp đến toàn bích, vì đó là nơi hội tụ của ba đỉnh điểm cái đẹp của vũ trụ : Thiếu nữ, Trăng và Hoa.

Quán bên đường / các du nữ ngủ / trăng và đinh hương ( Basho)
Mùa thu bao giờ cũng đem lại cho con người cảm giác buồn hơn vui. Bởi vì mùa thu đẹp quá! Cái đẹp trong tâm thức, trong cảm thức người Nhật bao giờ cũng gắn liền với cái buồn xao xuyến, cái hoài niệm, cái tiếc nuối và sự dùng dằng ,ngập ngừng như níu kéo để còn được khát khao , được mong đợi dù biết rằng thu đã sang mùa .

Con trai sò / chia xác vỏ ra hai / mùa thu sắp đi (Baso)
Thu đã cuối rồi / nhưng quả xoài xanh / vẫn tin vào ngày sắp tới (Basho)

Kết cấu vòng tròn của bài thơ không chỉ khẳng định tình yêu dành cho mùa thu, còn ấn giấu một niềm lạc quan và phát lộ một bản lĩnh trường tồn của tạo vật. Có rồi không, không để rồi lại có. Đó là sự hằng thường của lẽ vô thường, là quy luật vận hành của vạn vật. Dẫu vậy vẫn xin được cảm ơn Thiền sư Basho đã nói hộ lòng ta nhắn gởi với mùa thu rằng :

Ngón tay nho nhỏ /hạt dẻ trong vỏ / xin mùa thu đừng rời !.

Hãy biết sống yêu thương




Không thấy ai ở bên
Sau một đêm nằm sốt
Tôi miên man với cái đầu lửa đốt
Những người thương giờ ở nơi đâu?

Tôi tìm về ký ức tuổi chăn trâu
Như đứa trẻ nô đùa trên đồng cỏ
Như cánh diều căng mình đón gió
Những đứa trẻ nhà nghèo đùm bọc lấy nhau!

Giờ đây khi cuộc sống sang giàu
Nơi đô thành cửa cao nhà kín cổng.
Sau bao năm mỏi mòn kiếm sống
Bây giờ ai cũng tự hào với cửa rộng, nhà cao.

Nhưng sao
Thật lạnh lùng, tẻ nhạt?
Những buổi tối bên mâm cơm chỉ toàn thấy bát,
Vài câu nói nhát gừng…
Những kênh truyền hình kín bưng
Toàn chương trình quảng cáo,
Những tin tức toàn cầu về đánh bom, hay giết người thô bạo…
Sao con người chẳng thể sống yên vui
Khi đã có rất nhiều những tiện nghi vật chất?
Có nên trách sự rủi may số phận
Hay trách mình không được cậy nhờ con?
Sẽ còn rất nhiều những tuổi già cô đơn
Khi “vật chất lên ngôi, tình người xuống cấp”
Những bài học vỡ lòng về đạo đức
Người ta đang xem như trò đùa
Sao con người lại chẳng được như xưa
Như “Từ Thứ” bỏ quan về quê chăm mẹ?
Hãy biết sống yêu thương ngay từ khi còn trẻ
Để lúc về già ta sẽ nhận thương yêu!


Hồng Hoa NTT

Sân hận luôn làm khổ tôi



 JAN WILLIS NGUYỄN VĂN NGHỆ dịch

Trong số tất cả những cảm xúc tiêu cực tai hại của chúng ta, sân hận rõ ràng là cái càm xúc nguy hiểm nhất vì nó không chỉ gây hại cho người khác mà có lẽ nó gây hại cho chính chúng ta nhiều nhất. Phật giáo từ xưa dạy chúng ta rằng để trở thành một chiến sĩ thật sự, một người chiến thắng, chúng ta phải đặc biệt khống chế được kẻ địch này. Phật giáo dạy ta rằng, một vị A-la- hán là một vị đã hoàn toàn diệt được những kẻ thù tham, sân, si (hay là lòng ham muốn, sân hận và sự ngu dốt) của mình và vị đó – khi diệt những kẻ thù đó – đã đập vỡ tan được chính cái cốt lõi và cái gốc của luân hồi, cái thế giới của khổ đau. Tại sao lại nói mạnh mẽ như vậy? Bởi vì trong tất cả mọi thứ trong thế giới luân hồi, chỉ có lòng sân hận là có duy nhất một ý định là làm hại chúng ta và người khác. Đó là cái bản chất và là lý do tồn tại của nó. Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva), một nhà thơ lớn của thế kỷ thứ 8 đã hiểu rất rõ điều đó. Trong tuyệt tác Bồ-tát hạnh, ở chương 6 nổi tiếng – ‘Nhẫn’– đoạn 7 và 8, Ngài đã viết:

Được những điều tôi không muốn, Và tất cả những điều cản trở ham muốn của tôi – Trong sự không như ý của tôi, cơn giận tìm được nhiên liệu.

Từ đó nó lớn lên và quật ngã tôi. Vì vậy tôi sẽ tiêu diệt hoàn toàn

Những gì nuôi dưỡng cái kẻ thù đó của tôi, Cừu nhân của tôi, kẻ chỉ có một mục đích duy nhất

Là làm tổn thương tôi, làm khổ tôi.

Sân hận không có mục đích nào khác hơn là làm khổ và làm tổn thương tôi.

Những cảm xúc tiêu cực như sân hận, thù hằn, ganh ghét, cao ngạo v.v. được gọi là những phiền não, nghĩa là những loại cảm xúc tấn công hoặc gây tai hại cho ta và cho người khác. Không có phiền não hiền lành. Không có một thứ phiền não nào là bất bạo động. Tất cả đều muốn làm tổn thương và làm hại và tên thủ phạm tồi tệ nhất trong những phiền não ấy là lòng sân hận. Vậy chúng ta hiểu như thế nào hay có thể hiểu được cái gọi là “sân hận chính đáng” không? Câu hỏi này là một câu hỏi thường được đặt ra cho tôi. Tôi tin rằng câu hỏi này được đặt ra cốt để khẳng định một cách mạnh mẽ rằng chắc hẳn phải có những ngoại lệ đối với cái ý niệm rằng sân hận là luôn tai hại; để gợi ý rằng trên thực tế, trong một số điều kiện nào đó, sân hận có thể là có ích, thậm chí là mang lại cho ta sức mạnh. Tôi có thể hiểu được lý do tại sao mà người ta có suy nghĩ như vậy. Chẳng hạn như người ta mong muốn không cho phép, một cách thụ động, một tình hình sai trái nào đó tiếp diễn. Nhưng ở đây tôi muốn nhấn mạnh rằng không đánh trả lại không có nghĩa, hoặc ít nhất là không nhất thiết có nghĩa là thụ động hay phục tùng. Hòa bình chủ nghĩa không có nghĩa là thụ động. Chúng ta có thể bất bạo động và vẫn chống lại. Thật vậy, chúng ta phải bất bạo động để có thể hoạt động hữu hiệu cho phúc lợi của chính mình và của những người khác. Chúng ta cần phải rõ ràng, sáng tạo và có tính đổi mới để có thể tạo ra sự thay đổi. Nhưng trong lúc rối trí do giận hờn và căm ghét, chúng ta không thể suy nghĩ rõ ràng được. Do đó những nỗ lực của chúng ta, hết lần này đến lần khác, cứ bị thất bại mãi. Tôi biết những chuyện này người ta đã nói nhiều và thành sáo mòn rồi. Tuy nhiên ở đây tôi nói xuất phát từ trải nghiệm của chính mình.

Lúc đang còn là một thiếu niên, tôi đã đi tuần hành cùng Mục sư Tiến sĩ Martin Luther King, Jr. trong Chiến dịch Nhân quyền Birmingham năm 1963. Đôi lúc tôi sợ mấy con chó bẹc-giê Đức của ông cảnh sát trưởng Bull Connor nhưng thường là tôi lấy làm hồ hởi vì có được cơ hội tham gia vào một phong trào vẻ vang về mặt đạo đức và tinh thần như thế. Dĩ nhiên, bất bạo động và tình thương chính là trọng tâm của phong trào. Mục tiêu của chúng tôi là một mục tiêu kép, vì chúng tôi muốn mang lại chiến thắng cho chính chúng tôi và cho cả những người chống lại chúng tôi. Và cuộc phản kháng hòa bình và bất bạo động đó rốt cuộc đã thành công khi trong năm tiếp sau đó Đạo luật Nhân quyền được phê chuẩn trở thành luật. Nhưng động lực nuôi dưỡng phong trào đó là bất bạo động và tình thương. Đó là tình thương yêu, không phải lòng căm thù.

Vài năm sau, tôi bị lôi kéo vào trong một tình huống làm cho tôi thấy rõ rằng giữ cho được cái tâm nhẫn nhục là rất khó. Tôi giận dữ, tôi như phát sốt, tôi giận đỏ mặt. Tôi hoàn toàn không kềm chế được và nói cụ thể là tôi giận sục sôi trong nhiều ngày, không ngủ được và đầu óc rối bời. Những lý do gây ra cơn giận của tôi không quan trọng, mặc dù người ta có thể gọi cơn giận của tôi là “chính đáng” và tôi cũng cho là vậy. Tuy nhiên, điều tôi biết rõ nhờ trải nghiệm của chính mình là những ngày giận dữ đó đau khổ lắm, cả về thể chất lẫn tinh thần. Tất cả cũng là vì cơn giận của tôi, kẻ thù của tôi chỉ có mục đích duy nhất là làm khổ tôi, làm tổn thương tôi. Cho dù chuyện xảy ra cho đối tượng giận dữ của bạn là gì đi nữa, bạn khổ sở vì sự giận dữ luôn làm tổn thương bạn

Nhưng làm sao chúng ta có thể diệt được cơn giận? Làm sao chúng ta có thể làm cho cơn giận, ngay cả cơn giận “chính đáng”, nguôi ngoai đi? Làm sao chúng ta chấm dứt được cái vòng luẩn quẩn của sự căm ghét? May thay, nhiều lời dạy của Đức Phật và riêng đối với tôi, một Phật tử Báp-tít, nhiều bài thuyết giáo của Mục sư Tiến sĩ Martin Luther King đã mang lại những phương pháp hữu hiệu để chiến thắng cơn giận, những phương pháp vốn thừa nhận rằng không có những giải pháp nhanh chóng cho những thói quen lâu đời này và rằng sự thay đổi cần phải có thời gian.

Trong tác phẩm Bồ-tát hạnh của Tôn giả Tịch Thiên, toàn bộ chương về “nhẫn nhục” được dành để đưa ra nhiều phương pháp khác nhau để đối phó và để làm nguôi ngoai cơn giận. Một số phương pháp liên quan đến việc “trao đổi cái ngã với người khác” hay quán xét mình khi ở trong hoàn cảnh của người khác. Một số phương pháp khác đòi hỏi chúng ta hãy nghĩ rằng chuyện gì xảy ra cũng do những nguyên nhân và điều kiện và phải nhận ra rằng những hành động trong quá khứ của chúng ta đã tạo ra cái hoàn cảnh hiện tại như thế nào. Một số phương pháp khác nữa yêu cầu chúng ta suy nghĩ về lợi lạc của những cảm xúc vụn vặt khi mà tất cả chúng ta đều sẽ chết; và các phương pháp khác, hình dung ra những niềm vui hơn là nỗi buồn ta có được khi tạo ra hạnh phúc cho người khác. Bồ-tát hạnh là một kiệt tác thơ ca làm xúc động lòng người.

Có lần Tiến sĩ King thuyết giảng một bài tập trung riêng về chủ đề “Yêu thương kẻ thù của bạn”. Ông mở đầu bằng câu nói, “Chắc hẳn không có lời khuyên răn nào của Đức Giê-su khó thực hiện hơn là lời dạy bảo “hãy yêu thương kẻ thù của con”. Tuy vậy, gọi Chúa Giê-su là một người có đầu óc thực dụng, ông tiếp tục nói rằng “trách nhiệm của những người Ki-tô giáo chúng ta là khám phá ý nghĩa của lời dạy bảo này và cố gắng thực hiện một cách thiết tha lời dạy này trong cuộc sống hằng ngày. Sau đó Mục sư King trình bày ba bước để thực hiện phương pháp yêu thương kẻ thù của mình. Ông ta nói trước hết “chúng ta phải phát triển và duy trì khả năng tha thứ”. Thứ hai là “chúng ta phải thừa nhận rằng hành động xấu xa của kẻ thù… không bao giờ hoàn toàn biểu lộ bản chất của người đó” và thứ ba là, chúng ta phải cố gắng hòa giải và “tranh thủ được thân tình và sự thấu hiểu (của kẻ thù)”. Rất đơn giản mà cũng đầy thách thức.

Tôi tin rằng điều vô cùng quan trọng trong hai cách tiếp cận nêu trên là sự hiểu biết rằng trong khi chính những cảm xúc dữ dội và thiếu đắn đo suy nghĩ của chúng ta khiến cho chúng ta phiền não, thì cách duy nhất để chế ngự những cảm xúc đó là phải dùng đến một sự phân tích hữu lý rộng rãi, cởi mở, bền bỉ và đầy tình thương yêu. Chúng ta phải sử dụng cùng lúc con tim và khối óc của mình.

Jan Willis là Giáo sư môn Tôn giáo tại Wesleylan University, bang Connecticut, Hoa Kỳ. Bà đã nghiên cứu và giảng dạy về Phật học trong hơn bốn thập niên qua, là tác giả của nhiều cuốn sách về tôn giáo và tâm linh.

Trong thế giới vội vã



SAKYONG MIPHAM RINPOCHE- THỊ GIỚI dịch

Thế giới đang trở nên đông đúc, vội vã bất an và sôi nổi hơn bao giờ hết. trong những điều kiện đó, con người có khuynh hướng giảm bớt lòng từ bi và tăng thêm tâm gây gổ, kiêu căng. Tôi nghĩ việc rèn luyện tâm bình an là cách duy nhất để loài người có thể sống còn.

Làm thế nào để chúng ta có một cuộc sống bình an? – Đó là nhận ra tính chất bình an của chúng ta, trong trạng thái “an trú” hay dừng lại, chúng ta tập trung vào một đối tượng, như hơi thở. Chúng ta đưa tâm vào những mức độ tập trung sâu hơn để được nghỉ ngơi trong trạng thái bình an, một trạng thái ồn cố sáng sáng tự tại.

Giữ tâm an trú không có nghĩa là xa lìa thực tế. Ngược lại tâm an trú đó chính là một thực tại. Chỉ những người điên rồ mới nghĩ rằng có thể tìm thấy giải thoát ở bên ngoài chính mình. Khi không tin tưởng vào bản tánh chân thật của mình, con người trở nên hụt hẫng. Từ đó họ sinh ra trách cứ người khác, trả thù và phá hoại. Và khi chúng ta có hành động phá hoại kết quả chỉ là chất chứa thêm sự tiêu cực vào tâm. Con đường bình an là con đường rèn luyện tâm đòi hỏi sự nhẫn nại và chuyên cần.

Chúng ta nghe nói tâm của chúng ta luôn chạy rong trong sáu đường vì trong sáu cách nhận biết – thấy, nghe, ngửi, nếm, chạm và biết – mỗi cách đều có nhận biết riêng. Và trên cùng là sự tưởng tượng hay vọng tưởng sợ hãi làm cho tâm bấn loạn đẩy tâm ra khỏi phạm vi nhận biết của chúng ta. Vì thế mà chúng ta phải chuyên cần tu tập để kéo tâm trở lại hơi thở.

Shamatha (chỉ hay dừng tâm) cho chúng ta những phương tiện khéo léo trong việc điều khiển tâm, giống như chúng ta đang huấn luyện một con ngựa hoang. Bước đầu tiên là phát triển một sự quan hệ với nơi chốn chúng ta đang hiện hữu. Nếu chúng ta chỉ ngồi xuống và ghì giữ tâm chúng ta, nó sẽ chống cự lại. Do đó chúng ta không nên vội vàng lao ngay vào việc tu tập thiền định, vì điều đó chỉ giống như ta đặt ra chiếc yên trên lưng một con ngựa chưa thuần thục. Trước hết sự phát triển tính chất tự giác – biết chúng ta là ai và chúng ta đang làm gì – là việc rất quan trọng.

Do đó, khi ngồi vào bồ đoàn để tham thiền, chúng ta bắt đầu việc nhìn vào điều gì đang xảy ra trong đời sống chúng ta, và đó chỉ mới chỉ là vòng ngoài của sự tu tập. Shamatha trong đời sống hàng ngày là một thức giác về một sự việc đang xảy ra về trật tự, sự trôi chảy và vắng bóng của những xung đột. Không có một mức độ an trú trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta sẽ luôn luôn ở trong tình trạng vùng vẫy. Sự vùng vẫy này sẽ ngăn chúng ta tiến sâu hơn trong thiền quán.

Vòng tiếp theo của shamatha là soi rọi vào chính mình. Đây là giai đoạn đầu trong việc tu tập chính thức. Chúng ta bắt dầu bằng việc quán sát những cảm nhận của mình. Chúng ta có thể hỏi: “Tôi cảm thấy vui hay buồn? tôi cảm thấy lo lắng hay không? Trạng thái căn bản tâm của tôi ra sao trước khi tôi bắt đầu tu tập?” khi chúng ta có những cảm xúc khó khăn, lý do thường là chúng ta không dể ý đến chúng ta là ai. Chúng ta có thể nghĩ chúng ta là những hành giả cừ khôi, trong khi thực tế chỉ là chứng loạn thần kinh trước kia đang bày trò trong tâm chúng ta. Nếu chúng ta muốn biết những khía cạnh vi tế của tâm hoặc giữ một đối tượng để quan sát, ít nhất chúng ta cần có khả năng nhận ra chúng ta cảm thấy gì.

Tự quán chiếu cũng có thể bao gồm suy nghĩ. Là những người tu thiền, chúng ta thường có cái nhìn cho rằng suy nghĩ là xấu. Thực tế là chúng ta ngồi trên bồ đoàn và suy nghĩ. Tại sao lại không suy nghĩ về thứ gì đó giúp chúng ta tiến theo hướng đúng? Đây là cơ hội rèn luyện tâm của tôi. Tôi có 20 phút và tôi sẽ để 20 phút đó cho tâm và cố gắng rèn luyện nó, giống như rèn luyện một con ngựa”.

Ngay vả khi chúng ta giữ được sự ổn định và đặt được tâm trên hơi thở, tâm của chúng ta có thể vẫn còn hoang dã. Những sự việc như tìm tòi hay ăn uống vẫn còn lãng vãng trong tâm chúng ta. Hoặc chúng ta vẫn còn bị dính chặt vào lòng tức giận hay ham muốn, cảm xúc của chúng ta hầu như còn cứng như đá. Tưởng tượng và cảm xúc là những niệm tưởng có sức mạnh mang chúng ta đi xa, và tìm cách hiểu được những niệm tưởng đó là một phần làm trong tiến trình làm lắng dịu chúng ta. Nhưng nếu chúng ta trải rộng và để cho tâm chúng ta rong ruổi tự do, chúng ta không thực sự thực hành thiền quán, khi đó chúng ta không làm việc gì với tâm cả. Giống như chúng ta cho ngựa thêm lúa và để nó chạy vòng vòng, nghĩ rằng việc đó sẽ làm cho nó thuần phục.

Chúng ta phải quan sát xem chúng ta điều khiển chính mình như thế nào. Đây là một mức độ khác trong việc thức giác về chính mình – biết chúng ta đang thiền quán như thế nào. Rồi khi chúng ta để ý thấy rằng chúng ta bị đẩy ra xa. Thời gian đó không trôi qua một cách vô ích vì khi chúng ta theo dõi những hình thái hoạt động của tâm, nó cho phép chúng ta nhận ra những hình thái hoạt động đó một cách dễ dàng hơn.

Ở mức độ này chúng ta cũng có rất nhiều niệm trung tính (vô ký). Những thứ này có thể là những thứ nguy hiểm nhất trong việc tu thiền của chúng ta. Bởi vì chúng không tàn phá chúng ta như những đam mê hay sự gây gổ, chúng ta dần dần quen thuộc với chúng hơn. Chúng ta nghĩ: “Không có gì xấu; nó không lan trải rộng ra”. Giống như nói: “Nhà tôi chưa hẳn là hoàn toàn sạch, nhưng cũng đủ sạch”. Chúng ta không muốn tiêu dùng thêm năng lượng đó, do đó, chúng ta quen dần việc sống chung với bụi.

Còn có những niệm tưởng lan man, không mạch lạc, biểu hiện ra dưới hinh thức khích động hay một dòng lao xao. Để đối phó với những niệm tưởng lan man, điều quan trọng là đừng nghĩ: “Tâm của tôi thực sự là hoang dã, tôi có rất nhiều tưởng niệm, vì vậy tôi là người tồi”. Chúng ta nên thức giác những điều đang xảy ra trong những ý nghĩ lan man của mình, và chúng ta đừng cố gắng triệt tiêu chúng. Nếu chúng ta quá khắt khe trong việc tu tập thiền quán, cố gắng nhứt tâm trong mọi lúc, chúng ta tiêu dùng quá nhiều nỗ lực làm cho chúng ta bị dội ngược ngay vào trạng thái nhiều lan man hơn.

Thay vì vậy, chúng ta hãy thực hành việc nhìn vào tâm và thấy cách nó đi đến mọi nơi mọi chốn. Nó chạy tán loạn và không thể dừng lại, hoặc dừng lại trên một ý tưởng; nó không ngừng đem hết việc này đến việc khác vào. Dĩ nhiên có một mức độ nghĩ nhớ lan man. Thật sự chúng ta có thể có một buổi tham thiền tốt đẹp trong nửa giờ đồng hồ, có chút đỉnh những ý nghĩ lan man nhưng không bao giờ thật sự đánh mất đối tượng thiền quán.

Một khía cạnh của việc biết chúng ta đang ở chỗ nào và giữ những hướng vọng của chúng ta một cách hợp lý. Nếu chúng ta nói: “Tôi có một ngày bận rộn. Tôi hoàn toàn chưa thuần phục, nhưng giờ đây tôi ngồi xuống và gắn kết vào hơi thở” điều đó sẽ không xảy ra. Thay vì vậy, chúng ta sử dụng sự thông minh của chúng ta: “Nếu tôi chỉ có thể cảm thấy không gian của căn phòng và có một cảm nhận về hơi thở của tôi trong nửa giờ đồng hồ, đó sẽ là một bước tiến bộ”. Sau đó khi chúng ta lắng xuống được một chút, chúng ta có thể nghĩ: “Giờ đây tôi có thể tập trung hơn vào hơi thở”.

Mức độ kế tiếp của niệm tưởng mà chúng ta gặp phải rất vi tế, những niệm tưởng này không phải là những niệm tưởng đem chúng ta đến một tiệm ăn mới hay chuẩn bị cho buổi tu tập theo sau, chúng không phải là những ý nghĩ lan man tạo ra sự lao xao trong tâm; chúng chỉ là những ý niệm nhỏ, nhẹ như bong bóng. Tâm như hòa trong đó. Nhưng sau khi thực hành shamatha một thời gian, chúng ta có thể đạt đến giai đoạn ổn cố của tâm trong sự an bình, ơ đó, những niệm tưởng nhỏ nhiệm này tiêu tán giống như những lọn tuyết dưới ánh mặt trời.

Ý tưởng về sự thành tựu trong thiền quán nơi tôi luôn luôn tồn tại và không gián đoạn, chúng ta có thể tham thiền trong một ngày và có kinh nghiệm hoàn toàn về nhất tâm, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta đã thuần thục được tâm của mình. Cách chúng ta gắn bó với việc tu tập là hiểu chúng ta là ai, chúng ta đang làm gì, và vì sao chúng ta làm việc đó. Tâm là một cái gì lạ lùng. Vui và buồn, tất cả mọi cảm nhận của chúng ta xuất hiện nơi tâm. Và khi chúng ta cảm nhận những thứ đó, chúng ta cần cố gắng làm cho chúng ta dừng nghỉ. Khi có được sự dừng nghỉ, chúng ta sẽ cảm nhận được sự trong sạch cố hữu của chúng ta, cho chúng ta sức mạnh, tình thương và lòng từ bi.