Thứ Bảy, 12 tháng 10, 2013

Năm giọt mật




Ngày xưa có một tên tử tù vừa vượt thoát khỏi lao ngục, chạy bán sống bán chết. Ðàng sau hắn, hai con voi say đang đuổi theo, do sự tổ chức truy nã của nhà cầm quyền.

Trong cơn hốt hoảng, chẳng may hắn ta rơi tõm xuống một cái giếng sâu ở dọc đường.

Nhưng trong cái rủi ro cũng còn được chút may mắn: Khi thân mình chưa rơi tới đáy, không biết quờ quạng vùng vẫy như thế nào mà hắn ta níu được một cái rễ cây mọc thòng xuống giếng.

Hú vía! qua giờ phút nguy ngập ấy, hắn tưởng chừng như đã yên thân: hai con voi sẽ chẳng biết mình ở đâu mà tìm. Nhưng ý nghĩ ấy thoạt biến mất theo hơi thở: hai con voi say đã đến bên miệng giếng, gầm rống vang động, hút phăng tất cả những cây cỏ mọc trên miệng giếng như để thị uy.

Nếu hắn mà lên thì phải chết!

Hắn hốt hoảng quá. Nếu sợi dây đang đeo mà đứt thì thật là chắc chết mười phần. Hắn ta tính phăng tuột lần xuống đáy giếng để may ra có chút hy vọng nào không. Nhưng bất đồ nhìn xuống đáy giếng sâu thẳm, hắn ta thấy ba con rồng đang múa vuốt, giơ nanh, miệng phun lửa dữ, như muốn bay đến nuốt trửng hắn. Ðiếng hồn, hắn đành phải cố bám chặt sợ dây, đeo lủng lẳng giữa chừng. Nhưng có phải được vậy là yên thân đâu? Ác nghiệt làm sao, kề trên miệng giếng, hai con chuột cống xù, một đen một trắng, đang đua nhau ráp cắn sợi dây. Ác nghiệt hơn nữa là bao quanh thành giếng, theo những lỗ trũng gần hắn nhất, bốn con rắn độc bây giờ xuất hiện, ngóc đầu, thè lưỡi toan mổ.

Những biến cố dồn dập xẩy tới tấp làm cho hắn ta hết phương trốn tránh, ý nghĩ liều mạng lại hiện đến: bề nào cũng không khỏi chết, thà leo ngược trở lên mặt đất, rồi bỏ chạy, dù có chết cũng còn thây. Thế là hắn ráng phăng lần leo ngược trở lên. Khốn khổ quá, phần lo sợ, phần đuối sức, mồ hôi mồ kê ướt dầm. Miệng khô cổ cháy, hắn ngước mặt lên trời mà than rằng: “Trời sao nỡ hành hạ ta đến nông nỗi này”.

Càng mệt, càng thở, hơi thở càng lúc càng ngắn dần; thở bằng mũi không kịp, hắn phải há miệng để thở phụ, trong giờ phút mạng cùng tuyệt vọng ấy, bỗng một bầy ong mật bay ngang qua làm rơi vào miệng hắn 5 giọt mật… Hắn ta chíp ngay, chắp chắp thấy ngon ngon… mê tít… và trong giây phút, quên mất bao nhiêu sự nguy nan đang bao vây hắn…

Người ta có thể quên bẳng đi được tất cả bao nhiêu khổ sở, đau đớn, khi người ta nhận được chút ít an ủi bằng Danh lợi, Tiền tài, Sắc đẹp, Tiếng khen, Ăn ngon, Ngủ kỹ.

Chỉ vì năm giọt mật “Ngũ dục” không đáng giá trong lòng lúc dục vọng đang khao khát trông chờ, mà người trong giếng có thể quên đi được bao nhiêu sự nguy hiểm đang bao bọc quanh mình; loài người vì năm món dục lạc mà quên đi tất cả những gì khổ não, tạm bợ, mạng sống không khác nào như chỉ mành treo chuông!

♥Sưu tầm

Thứ Sáu, 11 tháng 10, 2013

Luật mới của Thổ Nhĩ Kỳ: Cho phép bắt người có ý muốn tham gia biểu tình



Thổ Nhĩ Kỳ mới đây thông qua một bộ luật, theo đó những đối tượng nằm trong diện nghi vấn tham gia biểu tình có thể bị bắt giữ, câu lưu trong vòng 24 tiếng mà không cần tới tòa án hay viện công tố ra quyết định. Tất cả các tổ chức có thành viên tham gia biểu tình trước kia sẽ được giám sát nghiêm ngặt, trường hợp cần thiết khi có nghi vấn tổ chức biểu tình, cảnh sát sẽ tới để bắt người đi. Luật mới này cũng tăng án cho những đối tượng vi phạm qui định do cảnh sát đưa ra hoặc phá hoại tài sản, gây ra cháy sẽ bị phạt tới 5 năm tù giam.

Ông Semih Yalçın, phó chủ tịch đảng dân tộc hành động đánh giá rằng, bộ luật đó đang biến Thổ Nhĩ Kỳ trở thành một đất nước cảnh sát trị. Vào hôm 6 tháng 10 vừa qua ông đánh giá rằng "bộ luật đó sẽ đẩy đất nước vào tình trạng hỗn loạn và mọi sự cố gắng của chính quyền sẽ chẳng mang lại lợi ích gì".

Ông Ali Serindağ, đại biểu quốc hội thuộc đảng cộng hòa dân tộc đánh giá rằng bộ luật đó không phù hợp với một nước pháp quyền "Nếu người ta trao một quyền lực lớn như vậy cho lực lượng an ninh mà không cần tới sự đồng ý của viện kiểm sát thì đó là việc không phù hợp với một nhà nước pháp quyền. Việc quan trọng hơn đáng lý ra phải là việc đào tạo cảnh sát năng lực tiếp cận với người biểu tình."

Ông İlhan Cihaner, một đại biểu khác đánh giá rằng "còn hơn cả chế độ phát xít" và "bây giờ thì ngay cả những người chưa bao giờ biểu tình cũng có thể bị bắt bỡ dễ dàng hơn"
Tháng 6 vừa qua đã có 25 người TNK bị bắt vì viết trên Twitter về việc biểu tình. Tất cả họ bị cáo buộc tội tuyên truyền "công khai sự thù ghét" vì cách họ giải thích trên Twitter làm sao để có thể tham gia biểu tình. Cảnh sát sau khi đọc được những lời lẽ đó đã lần theo IP, truy tìm tới 38 địa chỉ và bắt được những người đó.

Tại Thổ Nhĩ Kỳ hiện nay, việc bàn luận trên Twitter hoặc các trang mạng xã hội khác công khai về vấn đề công viên Gezi hay chỉ trích chính quyền là điều hoàn toàn cấm kỵ. Ai cố tình vi phạm sẽ bị cảnh sát bắt giam. Thậm chí có những trường hợp tham gia bình luận trên những trang "lề trái" còn bị các đối tượng thân chính phủ miệt thị, mạ lị và doạ giết.

Thổ Nhĩ Kỳ là một nước đa đảng, nhưng được lãnh đạo chỉ bởi một đảng. Lý do đơn giản đó là việc đảng cầm quyền nắm đủ số ghế cần thiết để thành lập chính phủ, thông qua luật mà không cần tới sự đồng ý của bất cứ đảng phái nào khác. Mọi sự phản đối của các đảng đối lập cho tới nay chưa có bất cứ hiệu quả nào. Đơn giản là việc chính quyền ông Erdogan hiện nay nắm được trong tay cả quân đội lẫn an ninh. Đó cũng là nguyên nhân khiến cho nhiều cuộc biểu tình với qui mô rất lớn nhưng vẫn thất bại.
Bản dịch từ links gốc:
http://alles-schallundrauch.blogspot.de/2013/10/turkei-erlaubt-vorbeugende-verhaftung.html?utm_source=feedburner&utm_medium=feed&utm_campaign=Feed:+SchallUndRauch+%28Schall+und+Rauch%29
Tham khảo thêm: http://www.zeit.de/politik/ausland/2013-06/rechtsstaat-tuerkei-gezi-proteste

Tác giả người Canada giành giải Nobel văn học 2013




VOV.VN -Trái với suy đoán của các nhà phê bình văn học, Alice Munro - tác giả “Trốn chạy” đã được vinh danh với giải Nobel văn học 2013.

Lễ trao giải Nobel Văn học 2013 do Peter Englund, thư ký thường trực Viện hàn lâm Thụy Điển tổ chức đã được diễn ra tại trụ sở của Viện ở Stockholm vào lúc 18h ngày 10/10 (giờ Việt Nam).

Trong lời tuyên bố trao giải, Peter Englund đã gọi Alice Munro – tác giả cuốn “Trốn chạy” là “bậc thầy của truyện ngắn đương đại”. Cùng với đó, thư ký Viện hàn lâm Thụy Điển cũng không ngần ngại khi bày tỏ quan điểm của mình về nữ nhà văn người Canada. Ông nói: “Alice Munro là một con người nhỏ nhưng luôn mang trong mình một tâm hồn lớn”.

Tuy nhiên, điều ngạc nhiên nhất của giải Nobel văn học năm nay chính là sự lên ngôi của tác phẩm truyện ngắn – thể loại ít nhận được sự quan tâm của Ủy ban Nobel những năm trước.



Nhà văn Alice Munro

Alice Munro được sinh ra tại Wingham, Ontario, Canada vào ngày 10/7/1931. Mẹ bà là giáo viên và cha là người nông dân chuyên làm chăn nuôi. Sau khi tốt nghiệp trung học, bà Alice Munro đã bắt đầu chuyên tâm cho việc học báo chí và tiếng Anh tại Đại học Western Ontario. Thế nhưng, sau đó một thời gian ngắn, bà đã bỏ dở việc học để kết hôn vào năm 1951.

Alice Munro bắt đầu viết truyện từ những ngày còn thơ ấu. Tác phẩm đầu tiên của bà được xuất bản vào năm 1968 với tựa đề “Dance of the Happy Shades” và nhận được nhiều sự quan tâm ở Canada thời bấy giờ. Các tác phẩm của bà thường lấy đề tài từ chính cuộc sống của thị trấn nhỏ nơi bà đang sống và tập trung viết về những vấn đề xã hội, đời sống. Bà chú trọng đến từng chi tiết, xây dựng nhân vật tài tình và đưa ra những kết thúc khó đoán khiến khán giả phải bất ngờ.

Truyện ngắn “Trốn chạy” của Alice Munro xoay quanh nhân vật người thiếu phụ không thể chạy trốn khỏi chồng, dù cô những tưởng đó là điều mình mong muốn. Câu chuyện từng bước xây dựng hình ảnh một cô gái bị mắc kẹt trong một cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Nỗi buồn dần tích tụ trở thành niềm tuyệt vọng cho đến lúc cô gái quyết định bỏ trốn.

Nữ tác giả người Canada từng thắng giải Man Booker Quốc tế năm 2009, ba lần đoạt giải Governor General của Canada cùng nhiều giải thưởng văn chương khác./.


Kim Dung/VOV online
Theo CNN, Reuters

Phọt phẹt và "bựa"


Phọt phẹt

Người mẹ cứ "vạch vú" ra bắt con bú, thằng con không chịu cứ khóc.
Ông nội ngồi bên dỗ cháu: "Bú ngoan đi cháu, không bú ông bú bây giờ"!
Người cha ngồi trên ghế nghe nóng mặt liền nói cha:
- Ơ hay cha, sao cha lại nói thế?
- Tao nói gì nào?
- Sao cha lại đòi "bú" vợ con!
- Mồ tổ cha mày chứ, hồi xưa mày bú vợ tao 2 năm tao có nói mày tiếng nào không! Bây giờ tao mới nói thôi mà mày đã nhảy dựng lên.


* Văn hóa "bựa"
Thấy con trai đi học về muộn, ông bố muốn hỏi nhưng sợ con nói dối, bèn mang máy phát hiện nói dối ra sử dụng. Đứa con vừa trả lời xong, bị máy phát hiện nói dối đấm cho 1 cái. Ông bố liền lên giọng "Hồi bằng tuổi con, bố không làm ông bà nội phải buồn lòng bao giờ", vừa nói xong ông bố bị cái máy đá một phát văng ra ngoài cửa. Thấy vậy, cô vợ liền lanh chanh nói "Đáng đời anh, vì anh mà con phải ra nông nổi thế này, ít ra thì nó cũng là con của anh chứ?". Vừa nói xong, cô vợ bị cái máy đá văng ra ngoài đường.


* Tri thức "bựa"
Một giáo sư môn logic học bị mất kính. Ông bèn suy luận: Ai lấy cắp? Đương nhiên là kẻ cắp rồi. Và tên này có thể bị cận thị, có thể không. Có thể hắn đã có kính, có thể chưa có. Nhưng nếu chưa có làm sao hắn có thể trông thấy kính của mình? Điều này chứng tỏ hắn không bị cận thị. Mà không bị cận thị thì đâu cần tới kính. Từ những giả thuyết trên, có thể kết luận là không ai lấy kính của mình cả. Chắc chắn nó nằm ở đâu đây thôi. Nhưng mình đã nhìn khắp rồi, không thấy gì cả. Mà mình nhìn được như vậy có nghĩa là mình đang đeo kính. A đúng rồi, kính đang nằm trên mũi mình.

(sưu tầm)

Báo Anh: Tướng Võ Nguyên Giáp là "Napoleon Đỏ"







Trang Twitter của Thượng nghị sĩ Mỹ John McCain bày tỏ lòng tiếc thương Đại tướng Võ Nguyên Giáp (Nguồn: Twitter)

Sáng 12/10, tỉnh Quảng Bình đã cử hành trọng thể Lễ viếng theo nghi thức Quốc tang đồng chí Đại tướng Võ Nguyên Giáp.


Cùng với cả nước, lễ viếng theo nghi thức Quốc tang Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã được cử hành trọng thể tại Thành phố Hồ Chí Minh.

QH Venezuela ra nghị quyết để tưởng nhớ Tướng Giáp
Đại tướng Giáp trong lòng những người bạn Hàn Quốc
Đại tướng khắc sâu tình liên minh chiến đấu Việt-Lào

Ngay sau khi có tin Đại tướng Võ Nguyên Giáp từ trần ngày 4/10, các phương tiện truyền thông đại chúng trên khắp thế giới đã đăng tải thông tin này cùng những tin, bài, ảnh ca ngợi cuộc đời và sự nghiệp của Đại tướng.

Theo phóng viên TTXVN tại Washington, với đầu đề "Vị Tướng huyền thoại Võ Nguyên Giáp qua đời ở tuổi 102", hãng tin AP mô tả Đại tướng là một nhà chỉ huy quân sự tài ba, một người anh hùng dân tộc, một "Napoleon Đỏ" đã từng đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Thượng nghị sỹ John McCain viết trên trang mạng cá nhân: "Tướng Võ Nguyên Giáp đã qua đời. Ông là một chiến lược gia quân sự tài ba từng nói với tôi rằng chúng ta là những kẻ thù danh dự".

Báo "The New York Times " (Thời báo New York) mô tả Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một người rất lôi cuốn và hoạt bát, một nhà quân sự uyên bác và một người theo chủ nghĩa dân tộc quyết liệt. Ông có thể dùng sức hút của bản thân để lên tinh thần cho quân sỹ, làm bùng cháy trong họ sự sẵn sàng cống hiến cho đất nước".

Giáo sư Fredrik Logevall thuộc Đại học Cornell University, cho biết tuy là một vị tướng hầu như chỉ tự học hỏi, nhưng không ai có thể phủ nhận được thành tựu cuối cùng là ông đã chiến thắng thực dân Pháp và rồi chống lại sức mạnh quân sự khủng khiếp của Mỹ. Hãng tin Reuters trích lại lời Tướng Giáp từng nói: "Đầu hàng không có trong từ vựng của tôi. Bất kỳ cuộc đấu tranh quân sự nào vì tự do cũng có năng lượng sáng tạo để đạt được những điều mà kẻ địch không bao giờ có thể ngờ, hoặc có thể tưởng tượng được".....

Báo chí châu Âu cũng đưa tin về Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua đời, đồng thời có những bài viết về cuộc đời cũng như sự nghiệp của "Người anh cả" của quân đội nhân dân Việt Nam.

Theo phóng viên TTXVN tại London, tin Đại tướng Võ Nguyên Giáp từ trần ở tuổi 102 vào chiều 4/10 tại Hà Nội đã được nhiều báo Anh cùng ngày đăng tải. Với đầu đề “Võ Nguyên Giáp – người chiến sĩ đã dẫn dắt các lực lượng Việt Nam đánh lại Pháp và Mỹ”, báo “The Independent” trích lời Đại tướng nói rằng “bất cứ lực lượng nào tìm cách áp đặt ý định của họ lên các dân tộc khác sẽ phải hứng chịu thất bại”.

Báo “Telegraph” gọi Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một “Napoleon Đỏ”, trong đó có trích lời của cựu ứng cử viên tổng thống đảng Cộng hòa Mỹ John McCain trên trang cá nhân rằng “Tướng Giáp đã qua đời – nhà chiến lược quân sự tài năng từng nói với tôi rằng chúng tôi là kẻ thù xứng đáng”. Báo “the Guardian” dùng từ “huyền thoại” để nói về vị tướng đã “chỉ huy lực lượng quân đội non trẻ của Việt Nam đánh bại thực dân Pháp và sau đó tiếp tục dẫn dắt quân đội đánh lại đế quốc Mỹ”.

Trong khi đó, báo “Financial Times” bình luận Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một trong những nhà lãnh đạo quân sự kiệt xuất nhất của thế kỷ 20. Báo này cũng trích hồi ký của Peter Mac Donald, một thiếu tướng Anh đã nghỉ hưu nhận xét rằng “Tướng Giáp hội tụ một tầm nhìn chiến lược sâu sắc, với sự tinh thông nghệ thuật chiến tranh du kích cũng như công tác hậu cần mà kịch tính nhất là việc tạo ra tuyến đường mòn Hồ Chí Minh để tiếp viện cho miền Nam trong cuộc chiến tranh chống Mỹ”.

Theo phóng viên TTXVN tại Rome, hầu hết các trang điện tử của những tờ báo lớn ở Italy chiều 4/10 (tức đêm 4/10 theo giờ Việt Nam) đều đồng loạt đăng trang trọng tin Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua đời và ca ngợi ông là người anh hùng của nền độc lập dân tộc Việt Nam.

Trang điện tử của tờ Corriere della Sera, tờ báo hàng đầu Italy, viết rằng Đại tướng Võ Nguyên Giáp là người anh hùng của nền độc lập dân tộc Việt Nam và là vị tướng đã chỉ huy quân đội đánh bại thực dân Pháp trong trận Điện Biên Phủ năm 1954 cũng như đế quốc Mỹ trong các trận đánh quan trọng khác vào những năm 1960-1970.



Đại tướng Võ Nguyên Giáp gặp gỡ cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ McNamara (Nguồn: TTXVN)

Trang điện tử của tờ La Stampa ca ngợi Tướng Giáp là người anh hùng của toàn bộ các nước thuộc Phong trào không liên kết. Nghệ thuật quân sự của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã giúp Việt Nam giành thắng lợi trước thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Tờ La Stampa cho rằng giờ đây các học viện trên thế giới đều đang nghiên cứu "kiệt tác" của ông – trận Điện Biên Phủ.

Còn theo trang điện tử của tờ La Repubblica, Đại tướng là một nhân vật huyền thoại và danh tiếng của ông đã vượt ra ngoài đường biên giới của Việt Nam. Tướng Giáp là tác giả của cuốn “Vũ trang quần chúng cách mạng, xây dựng quân đội nhân dân” và tác phẩm này đã có phiên bản tiếng Italy (tựa đề “Masse armate ed esercito regolare”)./.

(TTXVN)

Đổi mới giáo dục: Cần cơ chế đặc thù cho giáo viên




Cần đảm bảo đời sống giáo viên để họ tận tâm với nghề. (Ảnh: TTXVN)


Với triết lý giáo dục lấy việc hình thành năng lực người học làm trung tâm, làm mục tiêu đào tạo thay cho truyền thụ kiến thức, Đề án đổi mới căn bản toàn diện giáo dục đã nhận được sự đồng thuận của đông đảo các chuyên gia nói riêng và người dân nói chung.

Có triết lý giáo dục mới, có chương trình mới, sách giáo khoa mới nhưng để thực hiện thành công đề án này, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phạm Vũ Luận xác định giáo viên là yếu tố then chốt, có tính quyết định và đổi mới giáo viên cũng là khâu đầu tiên để bắt đầu. Đây cũng là vấn đề các chuyên gia băn khoăn nhất.

Giáo viên phải đi trước một bước

Theo Bộ trưởng Luận, phương thức giáo dục mới tới đây sẽ thay đổi căn bản, thầy giáo không chỉ là người truyền thụ kiến thức, mà nhiệm vụ chính sẽ là tổ chức, hướng dẫn học sinh tự học, tự khai thác kiến thức, vận dụng kiến thức để hình thành năng lực và phẩm chất của mình. Giáo viên là “cỗ máy cái” và vì thế, phải đổi mới giáo viên mới có thể đổi mới phương pháp dạy và học.

Đồng quan điểm này, giáo sư Nguyễn Minh Thuyết cho rằng với bất kỳ một nền giáo dục nào, muốn đào tạo thế hệ trẻ có năng lực như mong muốn thì phải đào tạo giáo viên.

“Tôi hy vọng việc đổi mới giáo viên sẽ đi trước một bước để phù hợp với đổi mới chương trình. Các lần trước chúng ta có đổi mới chương trình nhưng chưa đổi mới giáo viên phù hợp nên chưa đáp ứng được yêu cầu. Tuy nhiên, để đổi mới được đào tạo giáo viên là rất khó khăn. Tôi rất lo lắng và chia sẻ ý kiến của Bộ trưởng,” ông Thuyết nói.

[Giáo dục Việt Nam trước đề án được kỳ vọng nhất]

Đây cũng là lo lắng của ông Nguyễn Văn Tuấn, Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Nam Định. “Phải ‘có bột mới gột nên hồ’, có thầy giỏi mới có trò giỏi, không có thầy giỏi thì chất lượng giáo dục không thể chuyển biến,” ông Tuấn nhận định.

Để nâng chất lượng người thầy, ông Nguyễn Hồng Sơn, Hiệu trưởng Đại học Kinh tế (Đại học Quốc gia Hà Nội) cho rằng cần đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, giảng viên của tất cả các cơ sở giáo dục. “Họ là lực lượng nòng cốt để thực hiện đổi mới giáo dục,” ông Sơn nhấn mạnh.

Về vấn đề này, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Vinh Hiển cho biết, sẽ có đổi mới hệ thống sư phạm từ công tác đào tạo. Theo đó, Bộ sẽ sắp xếp lại mạng lưới đào tạo sư phạm. Các giáo viên đang dạy cũng sẽ được rà soát toàn bộ để có thể tổ chức bồi dưỡng. Những giáo viên không đủ năng lực đứng lớp sẽ xem xét chuyển công tác khác.

“Đây là công việc rất bộn bề, vì hiện nay tỉnh nào cũng có trường sư phạm, dẫn đến chất lượng kém, thừa giáo viên. Tới đây sẽ sắp xếp lại, có thể có những trường sư phạm khu vực để thực sự trở thành những ‘máy cái',” Thứ trưởng Hiển nói.




Ảnh minh họa. (Minh Quyết/TTXVN)

Chờ cơ chế đặc thù

Việc đào tạo giáo viên, đặc biệt là bồi dưỡng các giáo viên đang đứng lớp để họ kịp bắt nhịp với sự thay đổi căn bản, toàn diện giáo dục, theo giáo sư Phạm Minh Hạc, nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, sẽ có nhiều khó khăn do lượng giáo viên khá lớn.

Tuy nhiên, giáo sư Đinh Quang Báo lại tỏ ra tin tưởng: “Tôi nghĩ đội ngũ giáo viên sẽ làm được vì họ được đào tạo bài bản. Vấn đề là phải có cơ chế để tạo động lực cho họ phấn đấu và quyết tâm làm, học hỏi, bồi dưỡng và tự bồi dưỡng.”

[Dạy tích hợp, chương trình mới tăng hay giảm tải?]

Cùng chia sẻ vấn đề này, giáo sư Hoàng Tụy cho rằng, chính sách với nhà giáo là yếu tố then chốt để đảm bảo chất lượng giáo dục. Lương người thầy thấp nên họ phải làm thêm nghề phụ để đảm bảo cuộc sống. Và nghề phụ thuận nhất là sử dụng kiến thức chuyên môn của chính mình, dẫn đến ép học sinh học thêm trái quy định.

Vẫn theo giáo sư Hoàng Tụy, thu nhập thấp, người thầy cũng sẽ thiếu tâm huyết với nghề. Mải lo kiếm sống, giáo viên ít có thời gian để tự bồi dưỡng và vì thế, chất lượng đào tạo đương nhiên bị ảnh hưởng.

Từ góc nhìn thực tế, nói về thu nhập của mình, cô Hà Thị Hợi, giáo viên trường Trung học cơ sở Nam Cao (Kiến Xương, Thái Bình) cho biết, cô vào nghề đã gần 9 năm; trong đó hơn 7 năm biên chế, nhưng tổng thu nhập gồm cả lương, phụ cấp thâm niên, phụ cấp đứng lớp… mới được hơn 3 triệu đồng mỗi tháng.

“May mà tôi dạy trường làng, ở nông thôn, ngoài giờ dạy vẫn phải lao động quần quật như bất cứ người nông dân nào, cấy lúa ngoài đồng lấy gạo ăn, rau trồng ngoài vườn, lợn gà tự nuôi nên đỡ đi phần nào sự thiếu thốn của đồng lương eo hẹp. Giáo viên thành phố cũng chỉ có ngần ấy tiền trong khi chi phí đắt đỏ, họ không dạy thêm thì sống bằng gì?” cô Hợi buồn bã nói.

[Những khác biệt của sách giáo khoa sau năm 2015]

Chia sẻ trước những khó khăn của giáo viên, Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển cho biết, chúng ta đã có cú hích đầu vào đối với tuyển sinh sư phạm khi miễn học phí và từ đó đã tạo ra đột phá khi chất lượng đầu vào của ngành được cải thiện, có thời điểm thí sinh phải đạt 27 điểm mới đỗ vào sư phạm.

“Tuy nhiên, hiện nay cú hích đó không còn tác dụng, học sinh giỏi không chọn làm thầy. Vì vậy, Bộ Giáo dục và Đào tạo mạnh dạn đề xuất cú hích đầu ra, đó là xếp lương sư phạm ở bậc cao nhất,” ông Hiển nói.

Hiện Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng đã quyết định ra Nghị quyết về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục, Thứ trưởng Hiển cho biết: “Tôi rất hy vọng đời sống giáo viên sẽ có thay đổi để họ có thể toàn tâm toàn ý với nghề.”./.

Phạm Mai (Vietnam+)

Chủ nghĩa cộng đồng (Communitarianism)


Chủ nghĩa cộng đồng (*) là trào lưu triết học chính trị được khởi xướng và thực hiện từ thập niên 1980, gắn liền với chính sách nội bộ và quốc tế từ thời Bill Clinton, Tony Blair và nhiều lãnh đạo đảng phái chính trị cánh tả trên thế giới. Phản đối chủ nghĩa tự do vốn từng là chủ thuyết đại diện cho phương Tây, nhưng không quá cực đoan cách mạng như chủ nghĩa Mác, và lấy gốc là các quần thể xã hội nhỏ, địa phương, hệ tư tưởng này cũng chiếm được sự ủng hộ cả từ các nhóm chính trị có quan điểm bảo thủ, và đang dần cùng các hoạt động quốc tế cả chính thức lẫn phi chính phủ, xâm nhập và thay đổi cơ cấu xã hội và chính trị tại các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Bài viết này đi kèm với một hệ thống chú giải các từ khóa, mà tác giả đang soạn thảo và hoàn chỉnh trên Wikipedia tiếng Việt, nhằm giới thiệu một số khái niệm và quan điểm cần thiết nhất để hiểu và nắm bắt các nội dung phát biểu và chính sách có liên quan hoặc đặt cơ sở trên hệ tư tưởng mới này.
1. Giới thiệu:
Cũng giống như hệ tư tưởng Mác-xít, chủ nghĩa cộng đồng thoát ra khỏi phạm vi học thuật và trở thành hệ thống lý luận chính trị cho nhiều đảng phái và chính phủ cầm quyền ở các nước phương Tây. Thủ tướng Tony Blair và các lãnh đạo hàng đầu trên thế giới từng ngụ ý về ‘con đường thứ ba’ hồi thập niên 1990. Dần theo năm tháng, những lập luận cơ sở cũng xâm nhập vào các nước đang phát triển, như hiện chính quyền địa phương và các tổ chức nước ngoài hoạt động tại Việt Nam thường xuyên nhắc tới từ khóa ‘cộng đồng’ hơn trước. Chính phủ ở trung ương cũng khuyến khích các tỉnh thực hiện mục tiêu phát triển cộng đồng và đánh giá qua chỉ số PCI mà GS Edmund Malesky (*) đã soạn thảo khi còn làm việc cho văn phòng US-AID tại Việt Nam.

Trên thế giới, hệ tư tưởng communitarianism gắn liền với tên tuổi của các giáo sư xã hội học, chính trị học và triết học đã vượt ra ngoài giảng đường mà tham gia vận động chính trị bằng cách vào thẳng chính trường làm nghị sĩ, hay lập nhóm cố vấn và soạn thảo chính sách cho lãnh đạo đất nước, hoặc xây dựng mạng lưới các tổ chức phi chính phủ cổ xúy phát triển xã hội ở tầm mezzo. Giáo sư gốc Do Thái Đức Amitai Etzioni (*) được coi là người đi đầu trong việc thay đổi hệ tư tưởng lãnh đạo ở Mỹ, thông qua uy tín nghề nghiệp trong ngành xã hội học và công lao tạo dựng tổ chức Comunitarian Network (1) cùng các tạp chí lý luận chuyên ngành, và hàng chục đầu sách lý luận chính trị xã hội. Giáo sư Michael Sandel (*) nổi tiếng với các bài giảng phê phán John Rawls đạt kỷ lục về số lượng sinh viên theo học tại Harvard, hơn 1000 người ghi danh trong học kỳ 2 năm 2007, đồng thời cũng là nhà lý luận thường xuyên được các báo lớn trên thế giới trích dẫn khi viết bài định hướng trong ngành đạo đức sinh học. Giáo sư đại học Princeton, Michael Walzer (*) có nhiều đóng góp trong hệ cơ sở lý luận xây dựng cộng đồng và hoạch định chính sách, đặc biệt trong những tình huống nguy cấp nhất, ví dụ như luận điểm về cuộc chiến chính nghĩa. Tên tuổi của triết gia Alasdair McIntyre (*) cũng thường được nhắc tới trong nhóm guru về chủ nghĩa cộng đồng, với những lập luận đào sâu về bản sắc và đạo hạnh của cá nhân trong mối quan hệ cộng đồng. Từ Canada, triết gia Charles Taylor (*) nổi bật với phát hiện về quá trình xây dựng hệ giá trị trong mỗi cá nhân thông qua biện chứng với các cá nhân khác. Ngoài ra, cũng cần phải nhắc đến các đóng góp cho việc nghiên cứu quần thể xã hội ở mức cộng đồng của giáo sư Robert Putnam (*), bắt đầu từ công trình (2) gây chấn động, báo động mức suy giảm vốn xã hội của nước Mỹ, coi đó là nguy cơ cho nền dân chủ.

2. Một số luận điểm chọn lọc
Communitarianism là khái niệm tiếng Anh mới chỉ xuất hiện gần đây, thế kỷ 19-20, phát xuất từ chữ community – ‘cộng đồng’, được thêm đuôi –arian biến thành tính từ và –ism để thể hiện tính chất ‘chủ nghĩa’. Về mặt triết học, các chuyên gia đào sâu lý luận và xây dựng nền tảng tư duy nhiều lúc trái ngược lẫn nhau, do tầm nhìn có khác nhau cả về bản thể lẫn hiện tượng, ontology và epistemology. Tuy nhiên, từ góc cạnh sử học tư tưởng, người ta coi chủ nghĩa cộng đồng là nhóm quan điểm của các triết gia và chính trị gia hoạt động từ thập niên 1980 với tư duy nhấn mạnh tới vai trò của cộng đồng – community, khởi nguồn từ trào lưu lập luận phản bác hệ tư tưởng của John Rawls trong quyển Lý thuyết công lý (1971) và Robert Nozick trong công trình về Quốc gia, Vô chính phủ và Không tuởng (1974) (Szahaj 2005). Trong ứng dụng thực tiễn, người ta thường chỉ nhấn mạnh tới một số giá trị chính thường gặp.

Cá nhân và cộng đồng
Một trong số các luận điểm chung của nhóm tư tưởng cộng đồng là cá nhân khó hoặc thậm chí không thể tồn tại được, đặc biệt trong xã hội hiện đại, nếu không liên hệ vớI một cộng đồng nào đó. Hơn vậy, mỗi cá nhân tồn tại cùng lúc trong nhiều cộng đồng khác nhau, ví dụ vừa là thành viên của một đại gia đình, còn là dân cư của một tổ dân phố, và nhân viên một tập đoàn, cũng như hội viên một tổ chức quốc tế… Do vậy “điểm mấu chốt của xã hội hiện đại là khả năng của mỗi cá nhân biết cân nhắc và lựa chọn giữa các trách nhiệm, biết cách sống trong mối quan hệ mâu thuẫn của sự trung thành nhiều chiều” (Sandel 1996). Vai trò trong xã hội tạo ra bản sắc (identity) của mỗi cá nhân, một sự định hình dù mang tính lựa chọn nhưng không phụ thuộc vào mục tiêu chung, mà là thể hiện của sự tư duy về mục tiêu riêng, về vai trò của bản thân trong sự tồn tại của quần thể. Nói cách khác, chính các mối quan hệ cộng đồng xung quanh cá nhân, từ gia đình, hàng xóm cho đến quốc gia, đã định đoạt cái “tôi” của cá nhân đó (Sandel 1982). Hơn vậy, mối liên kết chặt chẽ trong cộng đồng loại trừ khả năng trung lập về chính trị, còn được coi như là vấn đề đạo đức, vì nó bảo vệ và quảng bá các giá trị của cộng đồng chung. Cá nhân sẽ không có cơ hội xây dựng bản sắc, mất khả năng tự chủ và bị tuớc đoạt quyền lợi nếu bị hoặc tự tách rời khỏi chính trị, tức là quá trình bàn thảo và đấu tranh cho quyền lợi chung.

Quan hệ và giá trị
Cũng cần phải nhắc thêm là khái niệm ‘cộng đồng’ thường được hiểu ở qui mô địa phương, nhưng cũng không loại trừ khả năng vận dụng cho các cộng đồng có số lượng lớn nhưng khá đồng nhất. Etzioni (1996) phân biệt nhiều cấp cộng đồng, từ nhỏ như hàng xóm láng giềng, khu dân cư, cho đến lớn như quốc gia và cộng đồng quốc tế. Cái quan trọng nhất tạo nên định nghĩa cộng đồng chính là các mối quan hệ đượm màu sắc tình cảm giữa người với người, song song với mức độ trách nhiệm với các giá trị chung, chuẩn mực, biểu tượng, lịch sử và bản sắc. Hệ giá trị chung được các thành viên tôn trọng và tạo dựng thông qua bàn cãi, cùng nhau thực hiện, chứ không phải do ai khác áp đặt. Ngay cả trong mối quan hệ với cộng đồng, cá nhân cũng là mối quan hệ ngang hàng vì chính cá nhân là quan tòa cao nhất phán quyết về giá trị và hành vi đạo đức của mình, nhưng có thể thấy ảnh hưởng của cộng đồng lên cá nhân có phần mạnh hơn chiều ngược lại. Nếu xét về tầm quan trọng của các thứ bậc cộng đồng thì các quần thể nhỏ nhất, gần nhất với mỗi cá nhân thường mạnh hơn, giá trị của nó dù giới hạn nhưng lại có vị thế cao hơn so với giá trị của cộng đồng lớn hơn. Điều này khiến Etzioni (1999, 2000) thường xuyên lo ngại trước xu hướng xã hội Mỹ ngày càng phân hóa, không chỉ da trắng, đen, vàng mà còn chia rẽ sâu hơn như các nghiên cứu về người gốc A châu cho thấy họ không thích bị nhập chung, ví dụ như, giữa người Việt với Nhật, Hàn hay Hoa.

Vốn xã hội
Lấy tiến sĩ chính trị học từ năm 29 tuổi, Putnam nhanh chóng xây dựng hệ thống lý luận thực tiễn song song với các mối quan hệ trong giới chính khách phe tả phương Tây. Sức lan truyền của các học thuyết Putnam càng tăng mạnh khi cùng lúc trong danh sách những chính trị gia sử dụng luận điểm của ông có cả Bill Clinton lẫn Tony Blair. Khá dễ hiểu vì khái niệm của ông về vốn xã hội (social capital) đã tồn tại từ lâu trong cách hiểu bình dân ở nhiều nước trên thế giới, từ như Blat ở Nga, Wasta ở Trung Đông, hay một loại hình cấu trúc giá trị của Gemeinschaft ở Đức, cho đến Guanxi (關係) ở Trung Quốc (cũng như Việt Nam), nơi mà mối quan hệ có thể quyết định vận mạng của một cá nhân. Về mặt học thuật, Putnam (2000) cũng không thiếu cơ sở lý thuyết để coi mấu chốt của xã hội là các mối liên kết (social networks) mà tập hợp các mối liên kết đó tạo ra giá trị chung là vốn xã hội, thể hiện qua hoạt động của công dân nếu xét ở tầm mức quốc gia. Nếu một người công nhân có thể tự trang bị thêm vốn, cả vật chất lẫn kiến thức, để nâng cao năng suất lao động, thì một trường đại học cũng có thể nâng vốn xã hội để tạo thêm của cải cho cộng đồng và xã hội, cả về vật chất lẫn tinh thần. Đây là một trong số ba loại vốn mà Pierre Bourdieu từng khái quát, bên cạnh vốn kinh tế (tư bản) và vốn văn hóa (3). Vốn xã hội cũng là nền tảng then chốt để bảo đảm dân chủ (Putnam 1995).

Hệ thống hóa
Về cơ bản, có thể coi chủ nghĩa cộng đồng là trào lưu triết học phát xuất từ các nước thuộc khối nói tiếng Anh, xây dựng lại nền tảng từ các hệ thống cổ điển như của Hegel và Aristoteles (Bell 2004). Tuy nhiên, do khác biệt về xuất phát điểm với các góc nhìn khác nhau lẫn hệ cơ sở lý luận khác nhau trong triết, xã hội và chính trị học, bản thân các nhà tư tưởng hàng đầu thường miễn cưỡng khi bị xếp chung vào một nhóm, và tạm hài lòng hơn khi được phân vào các trục đối lập nhau, ví dụ McIntyre vs Walzer khi xét về quyền tự chủ chính trị, hay Sandel vs Etzioni khi nói về phạm vi áp dụng mô hình community (Gawkowska 2003). Một số nhóm quan điểm còn phát triển mạnh về hướng toàn thể (holism-colectivism), rất gần với hệ tư tưởng Mác-xít, cho rằng sự ưu tiên của tập thể đối với tự do và độc lập của cá nhân là mối quan hệ thuộc về bản chất (ontology) của xã hội. Tuy nhiên, các khác biệt về hệ thống ít thấy vượt ra khỏi tầm tranh luận thiên về học thuật trong giảng đường đại học.

Xã hội học
Từ góc cạnh nghiên cứu, còn có thể nhìn cộng đồng như một dự án phát triển (ideological project) chính thức hoặc tự phát, công khai hoặc tiềm ẩn, mà mọi thành viên trong cộng đồng đều tham gia thiết kế và thi công, hoặc chuyên nghiệp như những người nghiên cứu và dẫn dắt tư tưởng, hoặc không chuyên như tất cả những ai có mặt trong các hoạt động văn hóa, xã hội, chính trị hàng ngày của cộng đồng (Kurczewksa 2003). Theo đó, kết cấu cộng đồng xét về mặt tư tưởng có thể được tái hiện thông qua mật độ và phạm vi các mối quan hệ, cả tích cực lẫn tiêu cực, và sự liên tưởng chung, cũng như phản ứng của nó, tích cực lẫn tiêu cực, của cả cộng đồng về vị trí trong một mối quan hệ xã hội vĩ mô hơn. Vận dụng phương pháp nghiên cứu của ngành cộng đồng học (community studies) vào Việt Nam không chỉ giúp các nhà nghiên cứu làm chủ được một hệ ngôn ngữ chung để hội nhập với ngành xã hội học trên thế giới, mà còn mở ra vô số lãnh vực và đề tài (cứ thử nghĩ xem mỗi địa phương – tùy theo cách định nghĩa, từ làng xã đến tỉnh - sẽ trở thành case study cho nhiều phương pháp và góc độ nghiên cứu khác nhau) cho sinh viên và nghiên cứu sinh, nếu chưa phải là triết học và chính trị học, thì cũng là ngành xã hội học và nhân văn từ các trường đại học của Việt Nam.

3. Mô hình Singapore và kinh nghiệm vận dụng cho Việt Nam
Khi xây dựng đảng Nhân dân hành động vào năm 1959, Lý Quang Diệu (*) đã khéo léo lồng chủ thuyết xây dựng cộng đồng vào hệ tư tưởng dân tộc, ảnh hưởng sâu rộng lên toàn xã hội và tư duy lãnh đạo của Singapore cho đến tận hôm nay. Hiện có đến 80% dân số nước này sống trong các khu nhà được xây từ chương trình phát triển cộng đồng (HDB) hồi thập niên 1960. Nhấn mạnh đến góc cạnh phản-cá nhân chủ nghĩa, hệ tư tưởng của Lý Quang Diệu dễ dàng hòa trộn với lối tư duy thiên cổ như tinh thần tập thể của Nho giáo. Xã hội Singapore nhấn mạnh tới trách nhiệm của mỗi cá nhân với cộng đồng. Có nhiều điểm tương đồng giữa chủ thuyết này và chủ nghĩa cộng sản, nhưng điểm khác biệt chủ yếu là nó không lấy mô hình kinh tế làm cơ sở, mà thiên về mô tả kết cấu chính trị xã hội, lấy quyền lợi quốc gia làm trọng tâm. Về mặt lý luận, các thuyết về chủ nghĩa cộng đồng khá gần với hệ tư tưởng của giới lãnh đạo theo chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam, và các mô hình thực tiễn thành công như từ nước láng giềng Singapore cũng ít nhiều khiến họ cân nhắc.

Thời còn làm bí thư tỉnh ủy Sông Bé/ Bình Dương, ông Sáu Phong (Nguyễn Minh Triết) đã trực tiếp áp dụng một số chính sách của Singapore, thông qua việc mời đầu tư, tham vấn quan chức, và xây dựng các khu công nghiệp Singapore dọc tỉnh lộ. Mô hình Singapore cũng hay được nhắc tới trong các phát biểu của giới quan chức cao cấp, đặc biệt là các đời thủ tuớng từ Võ Văn Kiệt đến Phan Văn Khải và nay là Nguyễn Tấn Dũng. Lý Quang Diệu được mời làm cố vấn đặc biệt cho Việt Nam. Tuy nhiên, có vẻ như hệ thống lý luận của Singapore đã không được phép hoặc không đủ người có trình độ tiếp nhận vào xã hội Việt Nam để tạo bước phát triển đột phá. Tỉnh Bình Dương hầu như không nhận gì thêm ngoài đầu tư kinh tế, các mặt khác của cơ sở hạ tầng và cấu trúc thượng tầng như lối sống, quan điểm đạo đức, trình độ văn hóa, truyền thông… vẫn không có gì thay đổi. Việc điều động ông Sáu Phong về làm bí thư thành ủy tp.HCM lại càng không giúp được gì cho ước vọng, nếu có, về việc thực hiện mô hình Singapore, vì địa phương này vô cùng đa dạng về văn hóa tư tưởng lẫn quan hệ cộng đồng, không phải là một cộng đồng địa phương đồng nhất. Bước đường thăng tiến của ông lên làm chủ tịch nước lại càng khiến việc thực hiện mô hình phát triển cộng đồng càng thêm xa vời, trừ khi ông ủng hộ hoặc lập nhóm nghiên cứu ứng dụng chính sách của Singapore, một việc có lẽ còn xa vời hơn sau gần 10 năm ông rời mảnh đất Bình Dương. Tuy nhiên, chủ nghĩa cộng đồng còn có thể du nhập vào Việt Nam qua nhiều ngả.

Từ một góc cạnh khác, có thể thấy giới lãnh đạo Việt Nam hiện nay ít nhiều cũng chịu ảnh hưởng của hệ cơ sở lý luận cộng đồng, một phần vì nó cũng gần với hệ thống Mác-xít, và hơn nữa, cũng gần với chủ trương ‘lấy dân làm gốc’ mà họ từng vận dụng thành công trong thời chiến. Các nhà nghiên cứu nước ngoài theo trào lưu đang là mốt trong ngành chính trị và xã hội học hiện nay là thiên về địa phương như David Koh (*) với công trình về mối liên hệ cấp Phường ở Hà Nội, hay Edmund Malesky (*) về vai trò cấp Tỉnh trong chính sách thu hút đầu tư trực tiếp, cũng ít nhiều tác động về mặt tư duy đối với giới tri thức có liên quan tới quá trình xây dựng chính sách ở trung ương và thực hiện chính sách ở địa phương. Quan điểm của các tổ chức phi chính phủ cũng góp phần ảnh hưởng đáng kể về mọi mặt. Chính phủ Việt Nam gần đây không chỉ chấp nhận, mà có vẻ còn ủng hộ việc giám sát thực hiện chỉ số cạnh tranh của các tỉnh (PCI), một cơ sở quan trọng cho tiến trình đem chủ nghĩa cộng đồng du nhập vào Việt Nam, là hệ tư tưởng có thể dùng để nói tiếng nói chung với cộng đồng quốc tế mà các nước phương Tây đang dẫn dắt.

Các khái niệm như vốn xã hội (social capital), hoạt động công dân (civic engagement), tăng quyền cho cấp cơ sở (decentralisation) chắc chắn sẽ là cầu nối cho Việt Nam, không chỉ với giới lãnh đạo các nước tư bản phát triển, mà với cả các nước đông Âu mà đi đầu là Ba Lan đang áp dụng chủ nghĩa cộng đồng trong quá trình chuyển đổi cơ cấu chính trị xã hội, và cả nhiều nước đang phát triển đang được quốc tế giúp đỡ trong tiến trình xóa đói giảm nghèo toàn cầu thông qua trợ giúp tăng vốn xã hội. Vấn đề không chỉ là câu hỏi cho các thành viên của cộng đồng mạng Talawas (tức cả người viết và người đọc trong mối quan hệ hai chiều) là vai trò, vị trí và bản sắc của mỗi người trong mối quan hệ cộng đồng nhiều chiều của chính họ. Tri thức nên làm gì, và có làm được gì hay không, cho cộng đồng mà họ đang là thành viên?
Lê Hải 


Chú thích:

(*) Tất cả các từ khóa nằm trước dấu này đang được xây dựng và hoàn chỉnh phần giải thích sơ lược trên trang Wikipedia tiếng Việt ở địa chỉ vi.wikipedia.org.
(**) Tác giả đang sống và làm việc ở London, đồng thời là nghiên cứu sinh tại Viện hàn lâm khoa học Ba Lan, khoa Triết và xã hội học, emailthanhai@wp.pl (từng đóng góp nhiều bài viết về lý luận, trong đó có vài thử nghiệm lý luận phê bình cho hội họa Việt Namhttp://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=857&rb=0202,http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=854&rb=0202 )

(1) Hoạt động dưới sự bảo trợ của đại học George Washington, có trang mạng liên lạc và truy cập ở địa chỉ http://www.gwu.edu/~ccps/
(2) Có tên là Bowling alone, là metaphor nhưng cũng là hiện tượng mà Putnam dùng để mô tả chiều hướng thay đổi của xã hội Mỹ, ngày càng cá nhân hóa, ngay cả như trong tập quán chơi bowling, làm suy yếu giá trị hay cũng là vốn để tạo của cải và phát triển từ các mối quan hệ trong xã hội. Bài báo được đăng trên tạp chí chuyên ngành và nhật báo lớn gây xôn xao trong năm 1995, được tiếp nối bằng quyển sách xuất bản năm 2000, và sau đó là nhiều nghiên cứu chuyên sâu về xã hội Mỹ từ góc nhìn cộng đồng, phát triển thành nhóm qua trang mạnghttp://www.bowlingalone.com/
(3) Trong các văn bản tiếng Việt có nơi gọi là tín dụng, ví dụ như bài viết gần đây của Hồ Bạch Thảo trên Talawashttp://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=12243&rb=0302

Tham khảo:

Bell, Daniel 2004, Communitarianism, Stanford Encyclopedia of Philosophy, http://plato.stanford.edu/entries/communitarianism/

Etzioni, Amitai 1996, The New Golden Rule: Community and Morality in a Democratic Society, Basic Books, New York.

Etzioni, Amitai 1999, A Nation of Minorities, The Responsive Community, vol.10 issue 1.

Etzioni, Amitai 2000, A New American Race? The Responsive Community, vol.10 issue 2.

Gawkowska, Anna 2003, Filozofia Lokalnosci: Wybrane argumenty teorii komunitarystycznych, Lokalne Spolecznosci Obywatelskie, OBS ISNS UW W-wa.

Kurczewska, Joanna 2003, Dwie ideologie lokalnosci z narodem w tle, Kultura I Spoleczenstwo vol.XLVII nr3.

Putnam, Robert 1995, Bowling Alone: America’s Declining Social Capital, Journal of Democracy vol.6 issue 1http://xroads.virginia.edu/~HYPER/DETOC/assoc/bowling.html

Putnam, Robert 2000, Bowling Alone: The Collapse and Revival of American Community, Simon and Schuster, New York

Sandel, Michael 1996, Democracy’s Discontent: America in Search, UP Cambridge, MA.

Sandel, Michael 1982, Liberalism and the Limits of Justice, UP Cambridge, MA.

Szahaj, Andrzej 2005, Komunitaryzm, Encyklopedia Socjologii, tom Suplement, ON W-wa

Bà Tưng trước, trong và sau phẫu thuật




Nhan sắc nguyên sơ ban đầu của Huyền Anh, cô sở hữu khuôn mặt khá ưa nhìn, đôi mắt tinh anh, sắc sảo.





Những hình ảnh của Bà Tưng chụp ở thời điểm được cho là chưa phẫu thuật thẩm mỹ. Quả thật trong những bức ảnh này, chiếc mũi của cô gái này còn thấp và hơi gãy chứ không được đẹp và cao như hiện tại



Bỏ ngoài tai những lời lên án gay gắt từ phía dư luận, bà Tưng tiếp tục trượt dài trên cái dốc của sự tha hóa. Khi mà hiệu ứng từ clip nhảy còn chưa lắng xuống, Bà Tưng tiếp tục "gây bão" với clip tiếp theo vào vai cô giáo trong bài giảng về giáo dục sinh lý với chủ đề "Cô ấy đang cứu sống cả một thế hệ". Mới đây nhất, hotgirl nổi loạn này một lần nữa khiến cộng đồng mạng choáng váng với video đóng vai y tá, trong đó cô gái này mặc một bộ trang phục không khác gì các nữ diễn viên phim khiêu dâm Nhật Bản. Trước những hành động gàn dở, lố lăng, cố chấp của Bà Tưng, buộc ngành văn hóa phải có những quyết định triệt để bằng văn bản. Cục Nghệ thuật biểu diễn đã ra công văn yêu cầu tạm thời ngừng cấp phép cho “bà Tưng” Lê Thị Huyền Anh trong các buổi biểu diễn, ngay cả trong các quán bar.

Hành động lố lắng đó của bà Tưng như giọt nước làm tràn ly, dư luận ớn đến tận cổ trước những trò lố của cô, một làn sóng tẩy chay, tạo nên những cơn mưa đá....đến đây cô gái trẻ bắt đầu nhận thức được những hành vi của mình, tự nhận thấy có vẻ cô đã quá đà, vượt quá giới hạn cho phép. Bà Tưng như đang trượt dài....và quyết định thay đổi, đầu tiên là diện mạo, xé bỏ hình ảnh của một hot girl nổi loạn.


Sau những gì đã sảy ra Huyền Anh mới thực sự nhận thấy hệ lụy khôn lường từ những hành động sốc nổi của mình gây ra. giờ đây mọi người nhìn cô bằng con mắt ghẻ lạnh như muốn tránh xa.

Vì thế như muốn quên đi tất cả những ký ức không đẹp trước đó, bà Tưng quyết định ra Hà Nội lần này để thực hiện một cú "lột xác" ngoạn mục với hy vọng tìm được hình ảnh mới, phù hợp cho con đường sắp tới trong tương lai.




Đây là cuộc phẫu thuật rất quan trọng với tương lai của cô gái trẻ, Lê Huyền Anh hy vọng sau lần thay đổi này, những cơ hội mới sẽ tìm đến với cô. Cô liên tục đưa ra lời xin lỗi với mong muốn công chúng nhìn cô với ánh mắt thiện cảm hơn.
Chưa đầy hai tuần sau phẫu thuật thẩm mỹ, Bà Tưng gây bất ngờ khi xuất hiện với gương mặt xinh đẹp, ngoan hiền, dịu dàng. Liệu rằng với diện mạo mới này, hot girl Huyền Anh có đổi mới được bản thân, có vượt lên được chính mình, có bứt phá để làm nên một cái gì đó bằng thực lực của chính mình trên con đường nghệ thuật đúng đắn???











Tâm An-TTVN

Thứ Năm, 10 tháng 10, 2013

Tìm hiểu về chữ " Phúc"


HIẾU TÍN


***


1. Chữ phúc 福 là từ Hán Việt, người miền Nam đọc là phước. Chữ phúc trong giáp cốt văn là hình tượng hai bàn tay bưng hũ rượu đứng trước bàn thờ. Như vậy, chữ phúc vốn được xem là điều tốt lành do cầu cúng mà có được.





Điều tốt lành có nghĩa là "thuận lợi", "đồng thuận". Thuận có nghĩa là từ dưới lên trên, từ trong ra ngoài đều thông suốt, không có gì trở ngại. Trên thuận trời đất, dưới thuận vua tôi, dưới nữa thuận cha mẹ, con cái. Đời sống tinh thần bên trong và đời sống vật chất bên ngoài đều thuận lợi không có gì trắc trở, như vậy gọi là thuận, là phúc.





Một điều thật lạ là câu chúc Tết của người phương Tây thường đề cập đến hạnh phúc, sức khỏe và thành đạt. Đứng ở góc độ nào đó có sự tương đồng như Phúc, Lộc, Thọ mà ở Trung Hoa người ta tâm niệm. Cả Âu lẫn Á đều đặt phúc lên vị trí hàng đầu, nhưng nếu tìm hiểu kỹ thêm một chút mới thấy chữ phúc của phương Đông rất tinh tế.





Người Trung Hoa chơi chữ bằng cách vẽ hai con dơi đâu cánh lại, ngụ ý là trùng phúc, họ còn vẽ thêm một lúc năm con dơi biểu tượng cho ngũ phúc (ngũ phúc lâm môn) mà sách Hồng Phạm viết: "Ngũ phúc, nhất viết Thọ, nhị viết Phú, tam viết Khang minh, tứ viết Du hảo đức, ngũ viết Khảo chung mệnh" (Năm phúc: sống thọ, giàu có, bình an, đức tốt, chết vào tuổi già).

Nói chung, phần lớn con người đặt phúc trên niềm tin (tình cảm). Vì thế, phúc mang nhiều sắc thái tiêu cực, nhiều khi đưa tới mê tín.

2. Theo Từ điển Khai Trí Tiến Đức thì "Phúc" là điều hay, điều tốt. Điều hay, điều tốt có được nơi một người là do việc làm nhân đức của chính người ấy mà ra. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên trong tâm thức của người Việt, từ lâu đã quan niệm phúc bao giờ cũng đi đôi với đức. Thuật ngữ phúc đức 福 德 luôn gắn liền nhau. Chính điều này đã làm sâu sắc thêm triết lý nhân duyên của nhà Phật và đem lại màu sắc tích cực cho hai chữ họa phúc (Họa vô đơn chí, phúc bất trùng lai). Phúc dày hay mỏng cũng do chính con người can dự quyết định, thuật ngữ Phật giáo gọi sự việc này là phúc báo 福報.

Phúc chính là kết quả mà con người tự tạo ra qua những hành động tốt của mình, là kết quả từ những hạt giống tốt được tay người tự gieo trên những mảnh đất mà ta thường gọi là phúc điền (ruộng phước). Do quan niệm họa phúc ở đời là sợi dây gieo nhân gặt quả, nên nhiều người Việt Nam chú trọng đến việc "làm ơn, làm phước".


Hơn thế nữa, mỗi hành động, việc làm của chúng ta không những ảnh hưởng đến bản thân ta mà còn lưu lại kết quả cho thế hệ sau. Nhà có phúc là nhà có được cuộc sống bình yên thanh thản, đặc biệt là có hậu vận tốt. Muốn được đức phải có phúc và ngược lại đức sẽ đem lại phúc, đó là quy luật. Nội dung của đức phụ thuộc điều kiện lịch sử, xã hội, văn hóa, tôn giáo,... Ví như đức của Nho giáo là ngũ thường, đức của Phật giáo là ngũ giới và thập thiện, đức của Kitô giáo là 10 điều răn ... Dù văn chương chữ nghĩa có khác nhau, nhưng chung quy về đức ở mỗi dân tộc, mỗi thời đại đều có chung quan niệm nhằm mưu cầu lợi ích cho mọi người.


3. Ngày nay, khi kinh tế có chiều khởi sắc, dường như người ta ít đặt, hay lãng quên chữ "Phúc" trong mối quan hệ với nhân là "Đức" hay "Thiện" (phúc đức, phúc thiện), mà thường đặt "Phúc" trong mối quan hệ với quả là chữ "Đạt" (thành đạt) hay "Lợi" (phúc đạt, phúc lợi).


Trong Phật giáo có dạy: “Bồ tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả”. Ngạn ngữ Lào có câu: "Hạnh phúc là kết quả của những hành vi đạo đức". Hi vọng rằng dù lịch sử có thay đổi như thế nào đi nữa thì quan niệm về chữ "Phúc" của dân tộc, của mỗi gia đình, của mỗi người chúng ta sẽ mãi mãi là "mã di truyền" tốt đẹp trong đời sống văn hóa người Việt.


Căng thẳng



Con người sống trong xã hội hiện nay ngày càng bận rộn. Gần như ai nấy cũng phải chạy mới có thể làm hết việc của mình. Việc ở đâu mà nhiều thế? Cũng tự nơi ta đề ra thôi, xã hội đi tới đâu ta đi tới đó, ai có cái gì ta có cái đó. Nếu không ta sẽ bị chê trách là lạc hậu, không sống được một đời sống văn minh.

Ta hay nghĩ rằng đời sống văn minh là đời sống bắt kịp tri thức và lối sống hiện đại nhất của nhân loại, trong đó, những thành tựu vật chất luôn được đem ra làm thước đo cho sự nghiệp của mỗi người. Nhưng ta đâu biết rằng phía sau những thành tựu đó là những hầm hố chôn vùi vô số nạn nhân của stress, trầm cảm, tâm thần, tự tử trên khắp thế giới. Bởi lẽ càng hưởng thụ thì con người phải bỏ nhiều thời gian và năng lực ra để chế biến, nhưng cũng thật buồn cười là càng tích góp bao nhiêu thì ta càng không có cơ hội để tận hưởng bấy nhiêu. Thức ăn có đầy trong tủ lạnh nhưng ta vẫn ăn cơm hộp, nhà cửa đầy đủ tiện nghi nhưng ta vẫn chạy suốt ngoài đường. Nói như triết gia A. Gluckman: “Không có thứ gì không thuộc về con người mà xa lạ với con người như hiện nay”.

Quả thật bận rộn quá thì làm sao sống, làm sao có đủ năng lực để kiểm soát và điều tiết được bản thân, làm sao có thể thừa hưởng được những giá trị hạnh phúc đang hiện hữu? Một đời sống như thế chỉ được gọi là một đời sống hưởng thụ.

Văn minh phải là đời sống có hiểu biết, trong đó, con người phải có khả năng chọn lựa những gì có thể bồi đắp cho hạnh phúc và thương yêu, cũng như sẵn sàng buông bỏ bớt những gì chỉ đem tới sự thỏa mãn nhất thời nhưng lại phá hại sự cân bằng và thanh thản.

Vậy nên, khi ta xác định rõ mục tiêu của đời mình theo hướng nào thì phong cách sống của ta cũng sẽ đồng điệu với hướng đó. Nghĩa là khi ta lựa chọn lối hưởng thụ cao cấp là ta đã chấp nhận tuyên chiến với những chứng bệnh tâm lý của thời đại, mà stress là hội chứng lớn nhất hiện nay.

Bắt đầu từ sự lo lắng về một vấn đề cần phải giải quyết dứt điểm trong một thời gian ấn định, nhưng vì chưa có giải pháp, nên não bộ cứ liên tục nhắc nhở vấn đề khiến ta phải nhớ – rồi lại lo lắng vì chưa tìm được giải pháp – rồi lại nhớ vấn đề – rồi lại nôn nóng giải quyết nhưng chưa được – rồi lại lo lắng… Mỗi vòng lặp lại như vậy sẽ làm cho mức độ cảm xúc xấu tăng dần, dồn nén liên tục cảm xúc sẽ bị nghẽn mạch. Nếu đó là vấn đề quan trọng thì sự thoi thúc của ý chí sẽ càng lớn và cường độ cảm xúc sẽ càng mạnh.

Lẽ dĩ nhiên nếu vấn đề không giải quyết được thì ta phải gánh chịu tổn thất, đó có thể là công việc hay một mối quan hệ. Nhưng vì ta muốn kháng cự lại, ta không chấp nhận mình bị thất bại, không muốn chịu đựng cái cảm xúc xấu do sự tổn thất đưa tới, cũng như ta cố tranh đấu quyết liệt để bảo vệ những cảm xúc tốt mà mình đang có. Thế nên chuỗi phản ứng tâm lý như sợ hãi, lo lắng và căng thẳng xuất hiện và phát triển không ngừng để thể hiện bản năng tự vệ của mình.

Một khi tâm lý bị bế tắc liên tục sẽ khiến cho cảm xúc xấu cứ dồn nén ở mức độ cao, đó sẽ là cơ hội tốt cho các loại độc tố như epinephrine chế xuất ồ ạt trong não bộ, khiến các quá trình hoạt động và trao đổi chất của cơ thể bị rối loạn. Ngành y khoa đã xác nhận hiểm họa của sự rối loạn các quá trình trao đổi chất của cơ thể sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ đến bệnh tim mạch, suy nhược thần kinh và cả những triệu chứng ung thư nữa.

Vậy mà khi vấn đề được giải quyết ta chỉ thấy mình thật tài năng, thật may mắn và cũng thật sung sướng vì có thêm một vài thứ tiện nghi nữa trong tay. Nhưng ta không hề biết rằng để có nó ta đã tiêu phí bao nhiêu cân não, tiêu hủy bao nhiêu năng lượng sống và hệ quả đáng sợ là một ngày không xa ta phải chào đón những chứng bệnh quái quỷ nhất của thời đại. Đó có phải là một bài toán khôn ngoan không?

Mỗi khi rơi vào trạng thái stress, thay vì ta đổ thừa cho người khác hay hoàn cảnh, cũng như tìm mọi cách để thay đổi tình huống, thì ta hãy thật bình tĩnh quay lại kiểm tra thái độ của mình, vì phần lớn chính ta mới là tác giả của những khó khăn và đau khổ trong ta. Sau đây là 10 lý do thường khiến ta trở nên căng thẳng.

1. Muốn mọi việc theo ý mình: Ta hay muốn cách giải quyết vấn đề phải theo kinh nghiệm và kiến thức của mình, chứ không chịu mở lòng tham khảo ý kiến của người khác. Nhưng đâu phải lúc nào ý kiến của mình cũng đúng và được người khác lắng nghe. Cho nên tính độc tài là một trong những kẻ gây ra stress.

2. Đánh giá sai lầm kết quả: Ta thường thổi phồng hoặc nghiêm trọng hóa vấn đề đang xảy ra. Dù vấn đề vẫn đang trong giai đoạn giải quyết nhưng ta luôn nhìn bằng con mắt bi quan, tự tiên đoán kết quả rất tồi tệ. Và nếu thất bại thì mọi thứ khác sụp đổ hết, ta sẽ không còn gì và người kia sẽ nghĩ về ta như thế nào đây… Trong khi sự thật vấn đề không phải như ta nghĩ. Bản tính nhút nhát lo sợ đã tạo ra áp lực cho chính ta.

3. Đánh giá sai lầm đối tác: Mỗi khi gặp rắc rối ta hay nghĩ: “Tại sao cứ phải là tôi, bộ muốn hành hạ hay sao mà bắt tôi phải làm nhiều thế? Gấp rút thế này thì ai đảm đương cho nổi, bộ tôi là cái máy à? Sao tôi phải làm việc chung với những người không chuyên nghiệp thế kia? Tại số tôi đen đủi hay tại bọn họ có quá nhiều năng lượng xấu? Thái độ nghi ngờ và coi thường đối tác rất dễ tạo ra những cân não nặng nề, mệt mỏi.

4. Thiếu khả năng chấp nhận: Nếu đã từng thành công dễ dàng trong quá khứ, chưa từng gặp qua khó khăn nào như vậy, và tự đặt cho mình nguyên tắc chỉ có thành công chứ không có thất bại, thì khả năng chấp nhận trong ta sẽ rất yếu kém. Ta cần phải ý thức rằng thuận nghịch, may rủi, thành bại đều là sự vận hành rất tự nhiên của cuộc sống. Thái độ khôn ngoan nhất là nên học cách chấp nhận, thua keo này ta lại bày keo khác.

5. Tình trạng tâm lý yếu kém: Sức khỏe sa sút, tình cảm trục trặc, truyền thông giữa các đồng nghiệp xấu tệ, sếp thiếu tin tưởng và luôn chỉ trích…thường là những tác nhân khiến cho tinh thần ta xuống dốc. Cho nên vấn đề đáng lẽ không mấy phức tạp, nhưng khi tâm trí rối bời thì không những không tìm được một giải pháp tốt, mà ta làm hỏng thêm bằng những hành vi không tự chủ.

6. Thói quen cứng nhắc: Nếu áp dụng nguyên tắc 2 lần 2 là 4 vào mọi vấn đề trong cuộc sống thì ta sẽ gặp rắc rối to. Đôi khi 2 lần 2 có thể bằng 3 hoặc bằng 5, chỉ cần chờ thêm một thời gian nữa thì 3 sẽ tự động cộng thêm 1 và 5 sẽ tìm cách trừ đi 1. Mọi vấn đề luôn vượt ra khỏi những khuôn khổ, nên ta phải kịp thời uyển chuyển thì cơ hội sẽ tự động mở ra. Đừng quên ta cần giải quyết vấn đề chứ không phải cần giữ gìn nguyên tắc.

7. Thói quen cảm xúc: Thay vì phải đặt mục đích và quyền lợi của tập thể lên trên, ta lại để cho cảm xúc thích hay không thích của cá nhân chi phối. Nhiều khi vấn đề cũng thật đơn giản, nhưng chính sự tự ái và tổn thương quá lớn đã khiến cho ta rơi vào tình trạng bức xúc và nhìn vấn đề theo chiều hướng lệch lạc.

8. Luyến tiếc quá khứ: Khi sự việc đang xảy ra, ta lại hay so sánh với những thành công trong quá khứ. Ngay khi vấn đề đã trôi qua rồi, nhưng ta vẫn ray rứt về những điều đáng lẽ mình có thể xoay xở trong tầm tay. Luyến tiếc chính là biểu hiện của sự thiếu tự tin, nó luôn vắt kiệt năng lực và khiến ta luôn chán nản, dễ dàng bỏ cuộc.

9. Mơ tưởng tương lai: Vì cho rằng cái khó khăn mà ta đang gặp là do hoàn cảnh bất lợi, nên ta hay có thái độ đứng núi này trông núi nọ. Thay vì bắt tay vào tháo gỡ vấn đề thì ta lại mơ tưởng đến một hợp đồng khác, một đối tác khác, một công ty khác hay một thị trường kinh tế khác. Đây cũng là biểu hiện của sự thiếu bản lĩnh, chối bỏ hiện tại.

10. Không sống được với hiện tại: Nếu thấy được hạnh phúc luôn có mặt đầy đủ trong giây phút hiện tại, vấn đề kia chỉ là một phần nhỏ của sự sống, thì ta sẽ đủ can đảm xếp chúng vào một ngăn riêng chờ điều kiện thuận lợi hơn sẽ giải quyết. Chính vì không thể sống trong hiện tại nên ta luôn bị cuốn vào vòng xoáy được mất, hơn thua và quên luôn mục đích cao cả cuộc sống.

Như vậy trạng thái bế tắc tâm lý phần lớn là do tâm của con người tạo ra. Hoàn cảnh luôn tồn tại một cách trung lập, tự thân của nó vốn dĩ không chứa đựng sự căng thẳng. Vậy khi có một người than rằng tôi đang bị stress quá, tức là người đó đã tự tuyên bố về sự xuống cấp của chính mình. Thay vì tìm cách thay đổi hoàn cảnh thì hãy quay về điều chỉnh và bồi dưỡng lại nội tâm của mình. Đó là sự lựa chọn khôn ngoan nhất.

Khi phát hiện ra mình đang bị stress, trước tiên ta phải ý thức đây chính là sự báo động tình trạng tâm lý đang bế tắc và có thể gặp nguy hiểm, nên phải nhanh chóng tìm cách giúp đỡ. Cách hồi phục năng lượng hay nhất là phải gạt bỏ hết những lo lắng rối nhùi trong đầu, muốn vậy, hãy chọn một nơi thật yên tĩnh để thực tập định tâm bằng hơi thở. Chừng mười lăm phút theo dõi hơi thở vào ra, ta sẽ dễ dàng trở lại trạng thái ổn định.

Đi từng bước nhỏ chậm rãi trong phòng, ngoài hành lang hay trên một đoạn đường râm mát cũng đem lại nhiều kết quả bất ngờ. Chỉ cần ta ý thức từng bước chân của mình chạm xuống mặt đất, hoặc chú ý đến những dòng cảm xúc đang tuôn tràn và nếu có thể hãy tìm hiểu thêm nguyên nhân của nó. Nở nụ cười ghi nhận những cảnh vật đang xảy ra trước mắt cũng rất cần thiết để giúp ta thư giãn thần kinh, buông xả năng lượng tiêu cực.

Thực tập yoga, thể thao, hội họa, chơi kiểng, du lịch cũng cải thiện được tinh thần, đặc biệt thiền là phương pháp đối trị stress hữu hiệu nhất. Khi ta nhìn nhận vấn đề trong một phạm vi rộng lớn, đặt nó vào một khoảng thời gian đủ lâu và một tinh thần minh mẫn để xem xét thì ta sẽ thấy rõ sự thật hơn, như vậy sẽ có nhiều cơ hội hay nhiều cách giải quyết hơn.

Nếu vấn đề là sự cố giữa các mối quan hệ thì ta hãy chủ động tiếp cận đối tượng kia, dùng nghệ thuật lắng nghe và ái ngữ để nói rõ những cái thấy, khó khăn, yếu kém và cả nguyện vọng của mình, xin bên kia giúp đỡ. Nếu là công việc thì ta cần phải nhìn nhận lại tình trạng vấn đề một cách chính xác để tìm ra nguyên nhân nào dẫn đến khó khăn.

Trường hợp điều kiện để thay đổi vẫn còn trong tầm tay thì ta hãy đem hết tài năng ra để tháo gỡ, lần này chắc chắn khả quan hơn vì năng lực trong ta đã phục hồi và thái độ của ta đối với vấn đề đã khác. Nếu lỡ sự việc nằm ngoài tầm tay thì ta đành phải chấp nhận thất bại một phen, coi như đây là lần học hỏi kinh nghiệm.

Ta đừng quên rằng mọi thứ trong đời sống đều giữ riêng một giá trị, chứ không phải chỉ có mỗi mục đích mà ta đang lao tới, cho nên hãy tập sống chậm lại để có nhiều cơ hội tiếp xúc từng giá trị mầu nhiệm của cuộc sống đang hiệu hữu chung quanh.

Hãy sống thật đơn giản, biết chọn lựa những giá trị nào có thể nuôi dưỡng bình an và hạnh phúc. Còn những thứ tiện nghi chỉ đem lại sự hưởng thụ xa xỉ hay sự bám víu ích kỷ thì ta hãy cố gắng buông bỏ bớt. Đừng để bản năng háo thắng luôn tìm cách chứng tỏ mình, khiến ta liều lĩnh lao tới phía trước như con thiêu thân không cần biết đoạn kết.

Hãy nâng niu trái tim yêu thương và niềm tin đi vào cuộc sống, ta sẽ cùng trôi nổi với dòng đời vốn không ngừng đổi thay này một cách tự tại an nhiên.

Buông bỏ những ưu tư
Che mặt trời trước mặt
Cho con thuyền xa khơi
Đâu mang nhiều thứ nặng.

♥Minh Niệm