Thứ Sáu, 11 tháng 10, 2013

Báo Anh: Tướng Võ Nguyên Giáp là "Napoleon Đỏ"







Trang Twitter của Thượng nghị sĩ Mỹ John McCain bày tỏ lòng tiếc thương Đại tướng Võ Nguyên Giáp (Nguồn: Twitter)

Sáng 12/10, tỉnh Quảng Bình đã cử hành trọng thể Lễ viếng theo nghi thức Quốc tang đồng chí Đại tướng Võ Nguyên Giáp.


Cùng với cả nước, lễ viếng theo nghi thức Quốc tang Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã được cử hành trọng thể tại Thành phố Hồ Chí Minh.

QH Venezuela ra nghị quyết để tưởng nhớ Tướng Giáp
Đại tướng Giáp trong lòng những người bạn Hàn Quốc
Đại tướng khắc sâu tình liên minh chiến đấu Việt-Lào

Ngay sau khi có tin Đại tướng Võ Nguyên Giáp từ trần ngày 4/10, các phương tiện truyền thông đại chúng trên khắp thế giới đã đăng tải thông tin này cùng những tin, bài, ảnh ca ngợi cuộc đời và sự nghiệp của Đại tướng.

Theo phóng viên TTXVN tại Washington, với đầu đề "Vị Tướng huyền thoại Võ Nguyên Giáp qua đời ở tuổi 102", hãng tin AP mô tả Đại tướng là một nhà chỉ huy quân sự tài ba, một người anh hùng dân tộc, một "Napoleon Đỏ" đã từng đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Thượng nghị sỹ John McCain viết trên trang mạng cá nhân: "Tướng Võ Nguyên Giáp đã qua đời. Ông là một chiến lược gia quân sự tài ba từng nói với tôi rằng chúng ta là những kẻ thù danh dự".

Báo "The New York Times " (Thời báo New York) mô tả Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một người rất lôi cuốn và hoạt bát, một nhà quân sự uyên bác và một người theo chủ nghĩa dân tộc quyết liệt. Ông có thể dùng sức hút của bản thân để lên tinh thần cho quân sỹ, làm bùng cháy trong họ sự sẵn sàng cống hiến cho đất nước".

Giáo sư Fredrik Logevall thuộc Đại học Cornell University, cho biết tuy là một vị tướng hầu như chỉ tự học hỏi, nhưng không ai có thể phủ nhận được thành tựu cuối cùng là ông đã chiến thắng thực dân Pháp và rồi chống lại sức mạnh quân sự khủng khiếp của Mỹ. Hãng tin Reuters trích lại lời Tướng Giáp từng nói: "Đầu hàng không có trong từ vựng của tôi. Bất kỳ cuộc đấu tranh quân sự nào vì tự do cũng có năng lượng sáng tạo để đạt được những điều mà kẻ địch không bao giờ có thể ngờ, hoặc có thể tưởng tượng được".....

Báo chí châu Âu cũng đưa tin về Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua đời, đồng thời có những bài viết về cuộc đời cũng như sự nghiệp của "Người anh cả" của quân đội nhân dân Việt Nam.

Theo phóng viên TTXVN tại London, tin Đại tướng Võ Nguyên Giáp từ trần ở tuổi 102 vào chiều 4/10 tại Hà Nội đã được nhiều báo Anh cùng ngày đăng tải. Với đầu đề “Võ Nguyên Giáp – người chiến sĩ đã dẫn dắt các lực lượng Việt Nam đánh lại Pháp và Mỹ”, báo “The Independent” trích lời Đại tướng nói rằng “bất cứ lực lượng nào tìm cách áp đặt ý định của họ lên các dân tộc khác sẽ phải hứng chịu thất bại”.

Báo “Telegraph” gọi Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một “Napoleon Đỏ”, trong đó có trích lời của cựu ứng cử viên tổng thống đảng Cộng hòa Mỹ John McCain trên trang cá nhân rằng “Tướng Giáp đã qua đời – nhà chiến lược quân sự tài năng từng nói với tôi rằng chúng tôi là kẻ thù xứng đáng”. Báo “the Guardian” dùng từ “huyền thoại” để nói về vị tướng đã “chỉ huy lực lượng quân đội non trẻ của Việt Nam đánh bại thực dân Pháp và sau đó tiếp tục dẫn dắt quân đội đánh lại đế quốc Mỹ”.

Trong khi đó, báo “Financial Times” bình luận Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một trong những nhà lãnh đạo quân sự kiệt xuất nhất của thế kỷ 20. Báo này cũng trích hồi ký của Peter Mac Donald, một thiếu tướng Anh đã nghỉ hưu nhận xét rằng “Tướng Giáp hội tụ một tầm nhìn chiến lược sâu sắc, với sự tinh thông nghệ thuật chiến tranh du kích cũng như công tác hậu cần mà kịch tính nhất là việc tạo ra tuyến đường mòn Hồ Chí Minh để tiếp viện cho miền Nam trong cuộc chiến tranh chống Mỹ”.

Theo phóng viên TTXVN tại Rome, hầu hết các trang điện tử của những tờ báo lớn ở Italy chiều 4/10 (tức đêm 4/10 theo giờ Việt Nam) đều đồng loạt đăng trang trọng tin Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua đời và ca ngợi ông là người anh hùng của nền độc lập dân tộc Việt Nam.

Trang điện tử của tờ Corriere della Sera, tờ báo hàng đầu Italy, viết rằng Đại tướng Võ Nguyên Giáp là người anh hùng của nền độc lập dân tộc Việt Nam và là vị tướng đã chỉ huy quân đội đánh bại thực dân Pháp trong trận Điện Biên Phủ năm 1954 cũng như đế quốc Mỹ trong các trận đánh quan trọng khác vào những năm 1960-1970.



Đại tướng Võ Nguyên Giáp gặp gỡ cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ McNamara (Nguồn: TTXVN)

Trang điện tử của tờ La Stampa ca ngợi Tướng Giáp là người anh hùng của toàn bộ các nước thuộc Phong trào không liên kết. Nghệ thuật quân sự của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã giúp Việt Nam giành thắng lợi trước thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Tờ La Stampa cho rằng giờ đây các học viện trên thế giới đều đang nghiên cứu "kiệt tác" của ông – trận Điện Biên Phủ.

Còn theo trang điện tử của tờ La Repubblica, Đại tướng là một nhân vật huyền thoại và danh tiếng của ông đã vượt ra ngoài đường biên giới của Việt Nam. Tướng Giáp là tác giả của cuốn “Vũ trang quần chúng cách mạng, xây dựng quân đội nhân dân” và tác phẩm này đã có phiên bản tiếng Italy (tựa đề “Masse armate ed esercito regolare”)./.

(TTXVN)

Đổi mới giáo dục: Cần cơ chế đặc thù cho giáo viên




Cần đảm bảo đời sống giáo viên để họ tận tâm với nghề. (Ảnh: TTXVN)


Với triết lý giáo dục lấy việc hình thành năng lực người học làm trung tâm, làm mục tiêu đào tạo thay cho truyền thụ kiến thức, Đề án đổi mới căn bản toàn diện giáo dục đã nhận được sự đồng thuận của đông đảo các chuyên gia nói riêng và người dân nói chung.

Có triết lý giáo dục mới, có chương trình mới, sách giáo khoa mới nhưng để thực hiện thành công đề án này, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phạm Vũ Luận xác định giáo viên là yếu tố then chốt, có tính quyết định và đổi mới giáo viên cũng là khâu đầu tiên để bắt đầu. Đây cũng là vấn đề các chuyên gia băn khoăn nhất.

Giáo viên phải đi trước một bước

Theo Bộ trưởng Luận, phương thức giáo dục mới tới đây sẽ thay đổi căn bản, thầy giáo không chỉ là người truyền thụ kiến thức, mà nhiệm vụ chính sẽ là tổ chức, hướng dẫn học sinh tự học, tự khai thác kiến thức, vận dụng kiến thức để hình thành năng lực và phẩm chất của mình. Giáo viên là “cỗ máy cái” và vì thế, phải đổi mới giáo viên mới có thể đổi mới phương pháp dạy và học.

Đồng quan điểm này, giáo sư Nguyễn Minh Thuyết cho rằng với bất kỳ một nền giáo dục nào, muốn đào tạo thế hệ trẻ có năng lực như mong muốn thì phải đào tạo giáo viên.

“Tôi hy vọng việc đổi mới giáo viên sẽ đi trước một bước để phù hợp với đổi mới chương trình. Các lần trước chúng ta có đổi mới chương trình nhưng chưa đổi mới giáo viên phù hợp nên chưa đáp ứng được yêu cầu. Tuy nhiên, để đổi mới được đào tạo giáo viên là rất khó khăn. Tôi rất lo lắng và chia sẻ ý kiến của Bộ trưởng,” ông Thuyết nói.

[Giáo dục Việt Nam trước đề án được kỳ vọng nhất]

Đây cũng là lo lắng của ông Nguyễn Văn Tuấn, Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Nam Định. “Phải ‘có bột mới gột nên hồ’, có thầy giỏi mới có trò giỏi, không có thầy giỏi thì chất lượng giáo dục không thể chuyển biến,” ông Tuấn nhận định.

Để nâng chất lượng người thầy, ông Nguyễn Hồng Sơn, Hiệu trưởng Đại học Kinh tế (Đại học Quốc gia Hà Nội) cho rằng cần đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, giảng viên của tất cả các cơ sở giáo dục. “Họ là lực lượng nòng cốt để thực hiện đổi mới giáo dục,” ông Sơn nhấn mạnh.

Về vấn đề này, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Vinh Hiển cho biết, sẽ có đổi mới hệ thống sư phạm từ công tác đào tạo. Theo đó, Bộ sẽ sắp xếp lại mạng lưới đào tạo sư phạm. Các giáo viên đang dạy cũng sẽ được rà soát toàn bộ để có thể tổ chức bồi dưỡng. Những giáo viên không đủ năng lực đứng lớp sẽ xem xét chuyển công tác khác.

“Đây là công việc rất bộn bề, vì hiện nay tỉnh nào cũng có trường sư phạm, dẫn đến chất lượng kém, thừa giáo viên. Tới đây sẽ sắp xếp lại, có thể có những trường sư phạm khu vực để thực sự trở thành những ‘máy cái',” Thứ trưởng Hiển nói.




Ảnh minh họa. (Minh Quyết/TTXVN)

Chờ cơ chế đặc thù

Việc đào tạo giáo viên, đặc biệt là bồi dưỡng các giáo viên đang đứng lớp để họ kịp bắt nhịp với sự thay đổi căn bản, toàn diện giáo dục, theo giáo sư Phạm Minh Hạc, nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, sẽ có nhiều khó khăn do lượng giáo viên khá lớn.

Tuy nhiên, giáo sư Đinh Quang Báo lại tỏ ra tin tưởng: “Tôi nghĩ đội ngũ giáo viên sẽ làm được vì họ được đào tạo bài bản. Vấn đề là phải có cơ chế để tạo động lực cho họ phấn đấu và quyết tâm làm, học hỏi, bồi dưỡng và tự bồi dưỡng.”

[Dạy tích hợp, chương trình mới tăng hay giảm tải?]

Cùng chia sẻ vấn đề này, giáo sư Hoàng Tụy cho rằng, chính sách với nhà giáo là yếu tố then chốt để đảm bảo chất lượng giáo dục. Lương người thầy thấp nên họ phải làm thêm nghề phụ để đảm bảo cuộc sống. Và nghề phụ thuận nhất là sử dụng kiến thức chuyên môn của chính mình, dẫn đến ép học sinh học thêm trái quy định.

Vẫn theo giáo sư Hoàng Tụy, thu nhập thấp, người thầy cũng sẽ thiếu tâm huyết với nghề. Mải lo kiếm sống, giáo viên ít có thời gian để tự bồi dưỡng và vì thế, chất lượng đào tạo đương nhiên bị ảnh hưởng.

Từ góc nhìn thực tế, nói về thu nhập của mình, cô Hà Thị Hợi, giáo viên trường Trung học cơ sở Nam Cao (Kiến Xương, Thái Bình) cho biết, cô vào nghề đã gần 9 năm; trong đó hơn 7 năm biên chế, nhưng tổng thu nhập gồm cả lương, phụ cấp thâm niên, phụ cấp đứng lớp… mới được hơn 3 triệu đồng mỗi tháng.

“May mà tôi dạy trường làng, ở nông thôn, ngoài giờ dạy vẫn phải lao động quần quật như bất cứ người nông dân nào, cấy lúa ngoài đồng lấy gạo ăn, rau trồng ngoài vườn, lợn gà tự nuôi nên đỡ đi phần nào sự thiếu thốn của đồng lương eo hẹp. Giáo viên thành phố cũng chỉ có ngần ấy tiền trong khi chi phí đắt đỏ, họ không dạy thêm thì sống bằng gì?” cô Hợi buồn bã nói.

[Những khác biệt của sách giáo khoa sau năm 2015]

Chia sẻ trước những khó khăn của giáo viên, Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển cho biết, chúng ta đã có cú hích đầu vào đối với tuyển sinh sư phạm khi miễn học phí và từ đó đã tạo ra đột phá khi chất lượng đầu vào của ngành được cải thiện, có thời điểm thí sinh phải đạt 27 điểm mới đỗ vào sư phạm.

“Tuy nhiên, hiện nay cú hích đó không còn tác dụng, học sinh giỏi không chọn làm thầy. Vì vậy, Bộ Giáo dục và Đào tạo mạnh dạn đề xuất cú hích đầu ra, đó là xếp lương sư phạm ở bậc cao nhất,” ông Hiển nói.

Hiện Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng đã quyết định ra Nghị quyết về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục, Thứ trưởng Hiển cho biết: “Tôi rất hy vọng đời sống giáo viên sẽ có thay đổi để họ có thể toàn tâm toàn ý với nghề.”./.

Phạm Mai (Vietnam+)

Chủ nghĩa cộng đồng (Communitarianism)


Chủ nghĩa cộng đồng (*) là trào lưu triết học chính trị được khởi xướng và thực hiện từ thập niên 1980, gắn liền với chính sách nội bộ và quốc tế từ thời Bill Clinton, Tony Blair và nhiều lãnh đạo đảng phái chính trị cánh tả trên thế giới. Phản đối chủ nghĩa tự do vốn từng là chủ thuyết đại diện cho phương Tây, nhưng không quá cực đoan cách mạng như chủ nghĩa Mác, và lấy gốc là các quần thể xã hội nhỏ, địa phương, hệ tư tưởng này cũng chiếm được sự ủng hộ cả từ các nhóm chính trị có quan điểm bảo thủ, và đang dần cùng các hoạt động quốc tế cả chính thức lẫn phi chính phủ, xâm nhập và thay đổi cơ cấu xã hội và chính trị tại các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Bài viết này đi kèm với một hệ thống chú giải các từ khóa, mà tác giả đang soạn thảo và hoàn chỉnh trên Wikipedia tiếng Việt, nhằm giới thiệu một số khái niệm và quan điểm cần thiết nhất để hiểu và nắm bắt các nội dung phát biểu và chính sách có liên quan hoặc đặt cơ sở trên hệ tư tưởng mới này.
1. Giới thiệu:
Cũng giống như hệ tư tưởng Mác-xít, chủ nghĩa cộng đồng thoát ra khỏi phạm vi học thuật và trở thành hệ thống lý luận chính trị cho nhiều đảng phái và chính phủ cầm quyền ở các nước phương Tây. Thủ tướng Tony Blair và các lãnh đạo hàng đầu trên thế giới từng ngụ ý về ‘con đường thứ ba’ hồi thập niên 1990. Dần theo năm tháng, những lập luận cơ sở cũng xâm nhập vào các nước đang phát triển, như hiện chính quyền địa phương và các tổ chức nước ngoài hoạt động tại Việt Nam thường xuyên nhắc tới từ khóa ‘cộng đồng’ hơn trước. Chính phủ ở trung ương cũng khuyến khích các tỉnh thực hiện mục tiêu phát triển cộng đồng và đánh giá qua chỉ số PCI mà GS Edmund Malesky (*) đã soạn thảo khi còn làm việc cho văn phòng US-AID tại Việt Nam.

Trên thế giới, hệ tư tưởng communitarianism gắn liền với tên tuổi của các giáo sư xã hội học, chính trị học và triết học đã vượt ra ngoài giảng đường mà tham gia vận động chính trị bằng cách vào thẳng chính trường làm nghị sĩ, hay lập nhóm cố vấn và soạn thảo chính sách cho lãnh đạo đất nước, hoặc xây dựng mạng lưới các tổ chức phi chính phủ cổ xúy phát triển xã hội ở tầm mezzo. Giáo sư gốc Do Thái Đức Amitai Etzioni (*) được coi là người đi đầu trong việc thay đổi hệ tư tưởng lãnh đạo ở Mỹ, thông qua uy tín nghề nghiệp trong ngành xã hội học và công lao tạo dựng tổ chức Comunitarian Network (1) cùng các tạp chí lý luận chuyên ngành, và hàng chục đầu sách lý luận chính trị xã hội. Giáo sư Michael Sandel (*) nổi tiếng với các bài giảng phê phán John Rawls đạt kỷ lục về số lượng sinh viên theo học tại Harvard, hơn 1000 người ghi danh trong học kỳ 2 năm 2007, đồng thời cũng là nhà lý luận thường xuyên được các báo lớn trên thế giới trích dẫn khi viết bài định hướng trong ngành đạo đức sinh học. Giáo sư đại học Princeton, Michael Walzer (*) có nhiều đóng góp trong hệ cơ sở lý luận xây dựng cộng đồng và hoạch định chính sách, đặc biệt trong những tình huống nguy cấp nhất, ví dụ như luận điểm về cuộc chiến chính nghĩa. Tên tuổi của triết gia Alasdair McIntyre (*) cũng thường được nhắc tới trong nhóm guru về chủ nghĩa cộng đồng, với những lập luận đào sâu về bản sắc và đạo hạnh của cá nhân trong mối quan hệ cộng đồng. Từ Canada, triết gia Charles Taylor (*) nổi bật với phát hiện về quá trình xây dựng hệ giá trị trong mỗi cá nhân thông qua biện chứng với các cá nhân khác. Ngoài ra, cũng cần phải nhắc đến các đóng góp cho việc nghiên cứu quần thể xã hội ở mức cộng đồng của giáo sư Robert Putnam (*), bắt đầu từ công trình (2) gây chấn động, báo động mức suy giảm vốn xã hội của nước Mỹ, coi đó là nguy cơ cho nền dân chủ.

2. Một số luận điểm chọn lọc
Communitarianism là khái niệm tiếng Anh mới chỉ xuất hiện gần đây, thế kỷ 19-20, phát xuất từ chữ community – ‘cộng đồng’, được thêm đuôi –arian biến thành tính từ và –ism để thể hiện tính chất ‘chủ nghĩa’. Về mặt triết học, các chuyên gia đào sâu lý luận và xây dựng nền tảng tư duy nhiều lúc trái ngược lẫn nhau, do tầm nhìn có khác nhau cả về bản thể lẫn hiện tượng, ontology và epistemology. Tuy nhiên, từ góc cạnh sử học tư tưởng, người ta coi chủ nghĩa cộng đồng là nhóm quan điểm của các triết gia và chính trị gia hoạt động từ thập niên 1980 với tư duy nhấn mạnh tới vai trò của cộng đồng – community, khởi nguồn từ trào lưu lập luận phản bác hệ tư tưởng của John Rawls trong quyển Lý thuyết công lý (1971) và Robert Nozick trong công trình về Quốc gia, Vô chính phủ và Không tuởng (1974) (Szahaj 2005). Trong ứng dụng thực tiễn, người ta thường chỉ nhấn mạnh tới một số giá trị chính thường gặp.

Cá nhân và cộng đồng
Một trong số các luận điểm chung của nhóm tư tưởng cộng đồng là cá nhân khó hoặc thậm chí không thể tồn tại được, đặc biệt trong xã hội hiện đại, nếu không liên hệ vớI một cộng đồng nào đó. Hơn vậy, mỗi cá nhân tồn tại cùng lúc trong nhiều cộng đồng khác nhau, ví dụ vừa là thành viên của một đại gia đình, còn là dân cư của một tổ dân phố, và nhân viên một tập đoàn, cũng như hội viên một tổ chức quốc tế… Do vậy “điểm mấu chốt của xã hội hiện đại là khả năng của mỗi cá nhân biết cân nhắc và lựa chọn giữa các trách nhiệm, biết cách sống trong mối quan hệ mâu thuẫn của sự trung thành nhiều chiều” (Sandel 1996). Vai trò trong xã hội tạo ra bản sắc (identity) của mỗi cá nhân, một sự định hình dù mang tính lựa chọn nhưng không phụ thuộc vào mục tiêu chung, mà là thể hiện của sự tư duy về mục tiêu riêng, về vai trò của bản thân trong sự tồn tại của quần thể. Nói cách khác, chính các mối quan hệ cộng đồng xung quanh cá nhân, từ gia đình, hàng xóm cho đến quốc gia, đã định đoạt cái “tôi” của cá nhân đó (Sandel 1982). Hơn vậy, mối liên kết chặt chẽ trong cộng đồng loại trừ khả năng trung lập về chính trị, còn được coi như là vấn đề đạo đức, vì nó bảo vệ và quảng bá các giá trị của cộng đồng chung. Cá nhân sẽ không có cơ hội xây dựng bản sắc, mất khả năng tự chủ và bị tuớc đoạt quyền lợi nếu bị hoặc tự tách rời khỏi chính trị, tức là quá trình bàn thảo và đấu tranh cho quyền lợi chung.

Quan hệ và giá trị
Cũng cần phải nhắc thêm là khái niệm ‘cộng đồng’ thường được hiểu ở qui mô địa phương, nhưng cũng không loại trừ khả năng vận dụng cho các cộng đồng có số lượng lớn nhưng khá đồng nhất. Etzioni (1996) phân biệt nhiều cấp cộng đồng, từ nhỏ như hàng xóm láng giềng, khu dân cư, cho đến lớn như quốc gia và cộng đồng quốc tế. Cái quan trọng nhất tạo nên định nghĩa cộng đồng chính là các mối quan hệ đượm màu sắc tình cảm giữa người với người, song song với mức độ trách nhiệm với các giá trị chung, chuẩn mực, biểu tượng, lịch sử và bản sắc. Hệ giá trị chung được các thành viên tôn trọng và tạo dựng thông qua bàn cãi, cùng nhau thực hiện, chứ không phải do ai khác áp đặt. Ngay cả trong mối quan hệ với cộng đồng, cá nhân cũng là mối quan hệ ngang hàng vì chính cá nhân là quan tòa cao nhất phán quyết về giá trị và hành vi đạo đức của mình, nhưng có thể thấy ảnh hưởng của cộng đồng lên cá nhân có phần mạnh hơn chiều ngược lại. Nếu xét về tầm quan trọng của các thứ bậc cộng đồng thì các quần thể nhỏ nhất, gần nhất với mỗi cá nhân thường mạnh hơn, giá trị của nó dù giới hạn nhưng lại có vị thế cao hơn so với giá trị của cộng đồng lớn hơn. Điều này khiến Etzioni (1999, 2000) thường xuyên lo ngại trước xu hướng xã hội Mỹ ngày càng phân hóa, không chỉ da trắng, đen, vàng mà còn chia rẽ sâu hơn như các nghiên cứu về người gốc A châu cho thấy họ không thích bị nhập chung, ví dụ như, giữa người Việt với Nhật, Hàn hay Hoa.

Vốn xã hội
Lấy tiến sĩ chính trị học từ năm 29 tuổi, Putnam nhanh chóng xây dựng hệ thống lý luận thực tiễn song song với các mối quan hệ trong giới chính khách phe tả phương Tây. Sức lan truyền của các học thuyết Putnam càng tăng mạnh khi cùng lúc trong danh sách những chính trị gia sử dụng luận điểm của ông có cả Bill Clinton lẫn Tony Blair. Khá dễ hiểu vì khái niệm của ông về vốn xã hội (social capital) đã tồn tại từ lâu trong cách hiểu bình dân ở nhiều nước trên thế giới, từ như Blat ở Nga, Wasta ở Trung Đông, hay một loại hình cấu trúc giá trị của Gemeinschaft ở Đức, cho đến Guanxi (關係) ở Trung Quốc (cũng như Việt Nam), nơi mà mối quan hệ có thể quyết định vận mạng của một cá nhân. Về mặt học thuật, Putnam (2000) cũng không thiếu cơ sở lý thuyết để coi mấu chốt của xã hội là các mối liên kết (social networks) mà tập hợp các mối liên kết đó tạo ra giá trị chung là vốn xã hội, thể hiện qua hoạt động của công dân nếu xét ở tầm mức quốc gia. Nếu một người công nhân có thể tự trang bị thêm vốn, cả vật chất lẫn kiến thức, để nâng cao năng suất lao động, thì một trường đại học cũng có thể nâng vốn xã hội để tạo thêm của cải cho cộng đồng và xã hội, cả về vật chất lẫn tinh thần. Đây là một trong số ba loại vốn mà Pierre Bourdieu từng khái quát, bên cạnh vốn kinh tế (tư bản) và vốn văn hóa (3). Vốn xã hội cũng là nền tảng then chốt để bảo đảm dân chủ (Putnam 1995).

Hệ thống hóa
Về cơ bản, có thể coi chủ nghĩa cộng đồng là trào lưu triết học phát xuất từ các nước thuộc khối nói tiếng Anh, xây dựng lại nền tảng từ các hệ thống cổ điển như của Hegel và Aristoteles (Bell 2004). Tuy nhiên, do khác biệt về xuất phát điểm với các góc nhìn khác nhau lẫn hệ cơ sở lý luận khác nhau trong triết, xã hội và chính trị học, bản thân các nhà tư tưởng hàng đầu thường miễn cưỡng khi bị xếp chung vào một nhóm, và tạm hài lòng hơn khi được phân vào các trục đối lập nhau, ví dụ McIntyre vs Walzer khi xét về quyền tự chủ chính trị, hay Sandel vs Etzioni khi nói về phạm vi áp dụng mô hình community (Gawkowska 2003). Một số nhóm quan điểm còn phát triển mạnh về hướng toàn thể (holism-colectivism), rất gần với hệ tư tưởng Mác-xít, cho rằng sự ưu tiên của tập thể đối với tự do và độc lập của cá nhân là mối quan hệ thuộc về bản chất (ontology) của xã hội. Tuy nhiên, các khác biệt về hệ thống ít thấy vượt ra khỏi tầm tranh luận thiên về học thuật trong giảng đường đại học.

Xã hội học
Từ góc cạnh nghiên cứu, còn có thể nhìn cộng đồng như một dự án phát triển (ideological project) chính thức hoặc tự phát, công khai hoặc tiềm ẩn, mà mọi thành viên trong cộng đồng đều tham gia thiết kế và thi công, hoặc chuyên nghiệp như những người nghiên cứu và dẫn dắt tư tưởng, hoặc không chuyên như tất cả những ai có mặt trong các hoạt động văn hóa, xã hội, chính trị hàng ngày của cộng đồng (Kurczewksa 2003). Theo đó, kết cấu cộng đồng xét về mặt tư tưởng có thể được tái hiện thông qua mật độ và phạm vi các mối quan hệ, cả tích cực lẫn tiêu cực, và sự liên tưởng chung, cũng như phản ứng của nó, tích cực lẫn tiêu cực, của cả cộng đồng về vị trí trong một mối quan hệ xã hội vĩ mô hơn. Vận dụng phương pháp nghiên cứu của ngành cộng đồng học (community studies) vào Việt Nam không chỉ giúp các nhà nghiên cứu làm chủ được một hệ ngôn ngữ chung để hội nhập với ngành xã hội học trên thế giới, mà còn mở ra vô số lãnh vực và đề tài (cứ thử nghĩ xem mỗi địa phương – tùy theo cách định nghĩa, từ làng xã đến tỉnh - sẽ trở thành case study cho nhiều phương pháp và góc độ nghiên cứu khác nhau) cho sinh viên và nghiên cứu sinh, nếu chưa phải là triết học và chính trị học, thì cũng là ngành xã hội học và nhân văn từ các trường đại học của Việt Nam.

3. Mô hình Singapore và kinh nghiệm vận dụng cho Việt Nam
Khi xây dựng đảng Nhân dân hành động vào năm 1959, Lý Quang Diệu (*) đã khéo léo lồng chủ thuyết xây dựng cộng đồng vào hệ tư tưởng dân tộc, ảnh hưởng sâu rộng lên toàn xã hội và tư duy lãnh đạo của Singapore cho đến tận hôm nay. Hiện có đến 80% dân số nước này sống trong các khu nhà được xây từ chương trình phát triển cộng đồng (HDB) hồi thập niên 1960. Nhấn mạnh đến góc cạnh phản-cá nhân chủ nghĩa, hệ tư tưởng của Lý Quang Diệu dễ dàng hòa trộn với lối tư duy thiên cổ như tinh thần tập thể của Nho giáo. Xã hội Singapore nhấn mạnh tới trách nhiệm của mỗi cá nhân với cộng đồng. Có nhiều điểm tương đồng giữa chủ thuyết này và chủ nghĩa cộng sản, nhưng điểm khác biệt chủ yếu là nó không lấy mô hình kinh tế làm cơ sở, mà thiên về mô tả kết cấu chính trị xã hội, lấy quyền lợi quốc gia làm trọng tâm. Về mặt lý luận, các thuyết về chủ nghĩa cộng đồng khá gần với hệ tư tưởng của giới lãnh đạo theo chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam, và các mô hình thực tiễn thành công như từ nước láng giềng Singapore cũng ít nhiều khiến họ cân nhắc.

Thời còn làm bí thư tỉnh ủy Sông Bé/ Bình Dương, ông Sáu Phong (Nguyễn Minh Triết) đã trực tiếp áp dụng một số chính sách của Singapore, thông qua việc mời đầu tư, tham vấn quan chức, và xây dựng các khu công nghiệp Singapore dọc tỉnh lộ. Mô hình Singapore cũng hay được nhắc tới trong các phát biểu của giới quan chức cao cấp, đặc biệt là các đời thủ tuớng từ Võ Văn Kiệt đến Phan Văn Khải và nay là Nguyễn Tấn Dũng. Lý Quang Diệu được mời làm cố vấn đặc biệt cho Việt Nam. Tuy nhiên, có vẻ như hệ thống lý luận của Singapore đã không được phép hoặc không đủ người có trình độ tiếp nhận vào xã hội Việt Nam để tạo bước phát triển đột phá. Tỉnh Bình Dương hầu như không nhận gì thêm ngoài đầu tư kinh tế, các mặt khác của cơ sở hạ tầng và cấu trúc thượng tầng như lối sống, quan điểm đạo đức, trình độ văn hóa, truyền thông… vẫn không có gì thay đổi. Việc điều động ông Sáu Phong về làm bí thư thành ủy tp.HCM lại càng không giúp được gì cho ước vọng, nếu có, về việc thực hiện mô hình Singapore, vì địa phương này vô cùng đa dạng về văn hóa tư tưởng lẫn quan hệ cộng đồng, không phải là một cộng đồng địa phương đồng nhất. Bước đường thăng tiến của ông lên làm chủ tịch nước lại càng khiến việc thực hiện mô hình phát triển cộng đồng càng thêm xa vời, trừ khi ông ủng hộ hoặc lập nhóm nghiên cứu ứng dụng chính sách của Singapore, một việc có lẽ còn xa vời hơn sau gần 10 năm ông rời mảnh đất Bình Dương. Tuy nhiên, chủ nghĩa cộng đồng còn có thể du nhập vào Việt Nam qua nhiều ngả.

Từ một góc cạnh khác, có thể thấy giới lãnh đạo Việt Nam hiện nay ít nhiều cũng chịu ảnh hưởng của hệ cơ sở lý luận cộng đồng, một phần vì nó cũng gần với hệ thống Mác-xít, và hơn nữa, cũng gần với chủ trương ‘lấy dân làm gốc’ mà họ từng vận dụng thành công trong thời chiến. Các nhà nghiên cứu nước ngoài theo trào lưu đang là mốt trong ngành chính trị và xã hội học hiện nay là thiên về địa phương như David Koh (*) với công trình về mối liên hệ cấp Phường ở Hà Nội, hay Edmund Malesky (*) về vai trò cấp Tỉnh trong chính sách thu hút đầu tư trực tiếp, cũng ít nhiều tác động về mặt tư duy đối với giới tri thức có liên quan tới quá trình xây dựng chính sách ở trung ương và thực hiện chính sách ở địa phương. Quan điểm của các tổ chức phi chính phủ cũng góp phần ảnh hưởng đáng kể về mọi mặt. Chính phủ Việt Nam gần đây không chỉ chấp nhận, mà có vẻ còn ủng hộ việc giám sát thực hiện chỉ số cạnh tranh của các tỉnh (PCI), một cơ sở quan trọng cho tiến trình đem chủ nghĩa cộng đồng du nhập vào Việt Nam, là hệ tư tưởng có thể dùng để nói tiếng nói chung với cộng đồng quốc tế mà các nước phương Tây đang dẫn dắt.

Các khái niệm như vốn xã hội (social capital), hoạt động công dân (civic engagement), tăng quyền cho cấp cơ sở (decentralisation) chắc chắn sẽ là cầu nối cho Việt Nam, không chỉ với giới lãnh đạo các nước tư bản phát triển, mà với cả các nước đông Âu mà đi đầu là Ba Lan đang áp dụng chủ nghĩa cộng đồng trong quá trình chuyển đổi cơ cấu chính trị xã hội, và cả nhiều nước đang phát triển đang được quốc tế giúp đỡ trong tiến trình xóa đói giảm nghèo toàn cầu thông qua trợ giúp tăng vốn xã hội. Vấn đề không chỉ là câu hỏi cho các thành viên của cộng đồng mạng Talawas (tức cả người viết và người đọc trong mối quan hệ hai chiều) là vai trò, vị trí và bản sắc của mỗi người trong mối quan hệ cộng đồng nhiều chiều của chính họ. Tri thức nên làm gì, và có làm được gì hay không, cho cộng đồng mà họ đang là thành viên?
Lê Hải 


Chú thích:

(*) Tất cả các từ khóa nằm trước dấu này đang được xây dựng và hoàn chỉnh phần giải thích sơ lược trên trang Wikipedia tiếng Việt ở địa chỉ vi.wikipedia.org.
(**) Tác giả đang sống và làm việc ở London, đồng thời là nghiên cứu sinh tại Viện hàn lâm khoa học Ba Lan, khoa Triết và xã hội học, emailthanhai@wp.pl (từng đóng góp nhiều bài viết về lý luận, trong đó có vài thử nghiệm lý luận phê bình cho hội họa Việt Namhttp://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=857&rb=0202,http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=854&rb=0202 )

(1) Hoạt động dưới sự bảo trợ của đại học George Washington, có trang mạng liên lạc và truy cập ở địa chỉ http://www.gwu.edu/~ccps/
(2) Có tên là Bowling alone, là metaphor nhưng cũng là hiện tượng mà Putnam dùng để mô tả chiều hướng thay đổi của xã hội Mỹ, ngày càng cá nhân hóa, ngay cả như trong tập quán chơi bowling, làm suy yếu giá trị hay cũng là vốn để tạo của cải và phát triển từ các mối quan hệ trong xã hội. Bài báo được đăng trên tạp chí chuyên ngành và nhật báo lớn gây xôn xao trong năm 1995, được tiếp nối bằng quyển sách xuất bản năm 2000, và sau đó là nhiều nghiên cứu chuyên sâu về xã hội Mỹ từ góc nhìn cộng đồng, phát triển thành nhóm qua trang mạnghttp://www.bowlingalone.com/
(3) Trong các văn bản tiếng Việt có nơi gọi là tín dụng, ví dụ như bài viết gần đây của Hồ Bạch Thảo trên Talawashttp://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=12243&rb=0302

Tham khảo:

Bell, Daniel 2004, Communitarianism, Stanford Encyclopedia of Philosophy, http://plato.stanford.edu/entries/communitarianism/

Etzioni, Amitai 1996, The New Golden Rule: Community and Morality in a Democratic Society, Basic Books, New York.

Etzioni, Amitai 1999, A Nation of Minorities, The Responsive Community, vol.10 issue 1.

Etzioni, Amitai 2000, A New American Race? The Responsive Community, vol.10 issue 2.

Gawkowska, Anna 2003, Filozofia Lokalnosci: Wybrane argumenty teorii komunitarystycznych, Lokalne Spolecznosci Obywatelskie, OBS ISNS UW W-wa.

Kurczewska, Joanna 2003, Dwie ideologie lokalnosci z narodem w tle, Kultura I Spoleczenstwo vol.XLVII nr3.

Putnam, Robert 1995, Bowling Alone: America’s Declining Social Capital, Journal of Democracy vol.6 issue 1http://xroads.virginia.edu/~HYPER/DETOC/assoc/bowling.html

Putnam, Robert 2000, Bowling Alone: The Collapse and Revival of American Community, Simon and Schuster, New York

Sandel, Michael 1996, Democracy’s Discontent: America in Search, UP Cambridge, MA.

Sandel, Michael 1982, Liberalism and the Limits of Justice, UP Cambridge, MA.

Szahaj, Andrzej 2005, Komunitaryzm, Encyklopedia Socjologii, tom Suplement, ON W-wa

Bà Tưng trước, trong và sau phẫu thuật




Nhan sắc nguyên sơ ban đầu của Huyền Anh, cô sở hữu khuôn mặt khá ưa nhìn, đôi mắt tinh anh, sắc sảo.





Những hình ảnh của Bà Tưng chụp ở thời điểm được cho là chưa phẫu thuật thẩm mỹ. Quả thật trong những bức ảnh này, chiếc mũi của cô gái này còn thấp và hơi gãy chứ không được đẹp và cao như hiện tại



Bỏ ngoài tai những lời lên án gay gắt từ phía dư luận, bà Tưng tiếp tục trượt dài trên cái dốc của sự tha hóa. Khi mà hiệu ứng từ clip nhảy còn chưa lắng xuống, Bà Tưng tiếp tục "gây bão" với clip tiếp theo vào vai cô giáo trong bài giảng về giáo dục sinh lý với chủ đề "Cô ấy đang cứu sống cả một thế hệ". Mới đây nhất, hotgirl nổi loạn này một lần nữa khiến cộng đồng mạng choáng váng với video đóng vai y tá, trong đó cô gái này mặc một bộ trang phục không khác gì các nữ diễn viên phim khiêu dâm Nhật Bản. Trước những hành động gàn dở, lố lăng, cố chấp của Bà Tưng, buộc ngành văn hóa phải có những quyết định triệt để bằng văn bản. Cục Nghệ thuật biểu diễn đã ra công văn yêu cầu tạm thời ngừng cấp phép cho “bà Tưng” Lê Thị Huyền Anh trong các buổi biểu diễn, ngay cả trong các quán bar.

Hành động lố lắng đó của bà Tưng như giọt nước làm tràn ly, dư luận ớn đến tận cổ trước những trò lố của cô, một làn sóng tẩy chay, tạo nên những cơn mưa đá....đến đây cô gái trẻ bắt đầu nhận thức được những hành vi của mình, tự nhận thấy có vẻ cô đã quá đà, vượt quá giới hạn cho phép. Bà Tưng như đang trượt dài....và quyết định thay đổi, đầu tiên là diện mạo, xé bỏ hình ảnh của một hot girl nổi loạn.


Sau những gì đã sảy ra Huyền Anh mới thực sự nhận thấy hệ lụy khôn lường từ những hành động sốc nổi của mình gây ra. giờ đây mọi người nhìn cô bằng con mắt ghẻ lạnh như muốn tránh xa.

Vì thế như muốn quên đi tất cả những ký ức không đẹp trước đó, bà Tưng quyết định ra Hà Nội lần này để thực hiện một cú "lột xác" ngoạn mục với hy vọng tìm được hình ảnh mới, phù hợp cho con đường sắp tới trong tương lai.




Đây là cuộc phẫu thuật rất quan trọng với tương lai của cô gái trẻ, Lê Huyền Anh hy vọng sau lần thay đổi này, những cơ hội mới sẽ tìm đến với cô. Cô liên tục đưa ra lời xin lỗi với mong muốn công chúng nhìn cô với ánh mắt thiện cảm hơn.
Chưa đầy hai tuần sau phẫu thuật thẩm mỹ, Bà Tưng gây bất ngờ khi xuất hiện với gương mặt xinh đẹp, ngoan hiền, dịu dàng. Liệu rằng với diện mạo mới này, hot girl Huyền Anh có đổi mới được bản thân, có vượt lên được chính mình, có bứt phá để làm nên một cái gì đó bằng thực lực của chính mình trên con đường nghệ thuật đúng đắn???











Tâm An-TTVN

Thứ Năm, 10 tháng 10, 2013

Tìm hiểu về chữ " Phúc"


HIẾU TÍN


***


1. Chữ phúc 福 là từ Hán Việt, người miền Nam đọc là phước. Chữ phúc trong giáp cốt văn là hình tượng hai bàn tay bưng hũ rượu đứng trước bàn thờ. Như vậy, chữ phúc vốn được xem là điều tốt lành do cầu cúng mà có được.





Điều tốt lành có nghĩa là "thuận lợi", "đồng thuận". Thuận có nghĩa là từ dưới lên trên, từ trong ra ngoài đều thông suốt, không có gì trở ngại. Trên thuận trời đất, dưới thuận vua tôi, dưới nữa thuận cha mẹ, con cái. Đời sống tinh thần bên trong và đời sống vật chất bên ngoài đều thuận lợi không có gì trắc trở, như vậy gọi là thuận, là phúc.





Một điều thật lạ là câu chúc Tết của người phương Tây thường đề cập đến hạnh phúc, sức khỏe và thành đạt. Đứng ở góc độ nào đó có sự tương đồng như Phúc, Lộc, Thọ mà ở Trung Hoa người ta tâm niệm. Cả Âu lẫn Á đều đặt phúc lên vị trí hàng đầu, nhưng nếu tìm hiểu kỹ thêm một chút mới thấy chữ phúc của phương Đông rất tinh tế.





Người Trung Hoa chơi chữ bằng cách vẽ hai con dơi đâu cánh lại, ngụ ý là trùng phúc, họ còn vẽ thêm một lúc năm con dơi biểu tượng cho ngũ phúc (ngũ phúc lâm môn) mà sách Hồng Phạm viết: "Ngũ phúc, nhất viết Thọ, nhị viết Phú, tam viết Khang minh, tứ viết Du hảo đức, ngũ viết Khảo chung mệnh" (Năm phúc: sống thọ, giàu có, bình an, đức tốt, chết vào tuổi già).

Nói chung, phần lớn con người đặt phúc trên niềm tin (tình cảm). Vì thế, phúc mang nhiều sắc thái tiêu cực, nhiều khi đưa tới mê tín.

2. Theo Từ điển Khai Trí Tiến Đức thì "Phúc" là điều hay, điều tốt. Điều hay, điều tốt có được nơi một người là do việc làm nhân đức của chính người ấy mà ra. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên trong tâm thức của người Việt, từ lâu đã quan niệm phúc bao giờ cũng đi đôi với đức. Thuật ngữ phúc đức 福 德 luôn gắn liền nhau. Chính điều này đã làm sâu sắc thêm triết lý nhân duyên của nhà Phật và đem lại màu sắc tích cực cho hai chữ họa phúc (Họa vô đơn chí, phúc bất trùng lai). Phúc dày hay mỏng cũng do chính con người can dự quyết định, thuật ngữ Phật giáo gọi sự việc này là phúc báo 福報.

Phúc chính là kết quả mà con người tự tạo ra qua những hành động tốt của mình, là kết quả từ những hạt giống tốt được tay người tự gieo trên những mảnh đất mà ta thường gọi là phúc điền (ruộng phước). Do quan niệm họa phúc ở đời là sợi dây gieo nhân gặt quả, nên nhiều người Việt Nam chú trọng đến việc "làm ơn, làm phước".


Hơn thế nữa, mỗi hành động, việc làm của chúng ta không những ảnh hưởng đến bản thân ta mà còn lưu lại kết quả cho thế hệ sau. Nhà có phúc là nhà có được cuộc sống bình yên thanh thản, đặc biệt là có hậu vận tốt. Muốn được đức phải có phúc và ngược lại đức sẽ đem lại phúc, đó là quy luật. Nội dung của đức phụ thuộc điều kiện lịch sử, xã hội, văn hóa, tôn giáo,... Ví như đức của Nho giáo là ngũ thường, đức của Phật giáo là ngũ giới và thập thiện, đức của Kitô giáo là 10 điều răn ... Dù văn chương chữ nghĩa có khác nhau, nhưng chung quy về đức ở mỗi dân tộc, mỗi thời đại đều có chung quan niệm nhằm mưu cầu lợi ích cho mọi người.


3. Ngày nay, khi kinh tế có chiều khởi sắc, dường như người ta ít đặt, hay lãng quên chữ "Phúc" trong mối quan hệ với nhân là "Đức" hay "Thiện" (phúc đức, phúc thiện), mà thường đặt "Phúc" trong mối quan hệ với quả là chữ "Đạt" (thành đạt) hay "Lợi" (phúc đạt, phúc lợi).


Trong Phật giáo có dạy: “Bồ tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả”. Ngạn ngữ Lào có câu: "Hạnh phúc là kết quả của những hành vi đạo đức". Hi vọng rằng dù lịch sử có thay đổi như thế nào đi nữa thì quan niệm về chữ "Phúc" của dân tộc, của mỗi gia đình, của mỗi người chúng ta sẽ mãi mãi là "mã di truyền" tốt đẹp trong đời sống văn hóa người Việt.


Căng thẳng



Con người sống trong xã hội hiện nay ngày càng bận rộn. Gần như ai nấy cũng phải chạy mới có thể làm hết việc của mình. Việc ở đâu mà nhiều thế? Cũng tự nơi ta đề ra thôi, xã hội đi tới đâu ta đi tới đó, ai có cái gì ta có cái đó. Nếu không ta sẽ bị chê trách là lạc hậu, không sống được một đời sống văn minh.

Ta hay nghĩ rằng đời sống văn minh là đời sống bắt kịp tri thức và lối sống hiện đại nhất của nhân loại, trong đó, những thành tựu vật chất luôn được đem ra làm thước đo cho sự nghiệp của mỗi người. Nhưng ta đâu biết rằng phía sau những thành tựu đó là những hầm hố chôn vùi vô số nạn nhân của stress, trầm cảm, tâm thần, tự tử trên khắp thế giới. Bởi lẽ càng hưởng thụ thì con người phải bỏ nhiều thời gian và năng lực ra để chế biến, nhưng cũng thật buồn cười là càng tích góp bao nhiêu thì ta càng không có cơ hội để tận hưởng bấy nhiêu. Thức ăn có đầy trong tủ lạnh nhưng ta vẫn ăn cơm hộp, nhà cửa đầy đủ tiện nghi nhưng ta vẫn chạy suốt ngoài đường. Nói như triết gia A. Gluckman: “Không có thứ gì không thuộc về con người mà xa lạ với con người như hiện nay”.

Quả thật bận rộn quá thì làm sao sống, làm sao có đủ năng lực để kiểm soát và điều tiết được bản thân, làm sao có thể thừa hưởng được những giá trị hạnh phúc đang hiện hữu? Một đời sống như thế chỉ được gọi là một đời sống hưởng thụ.

Văn minh phải là đời sống có hiểu biết, trong đó, con người phải có khả năng chọn lựa những gì có thể bồi đắp cho hạnh phúc và thương yêu, cũng như sẵn sàng buông bỏ bớt những gì chỉ đem tới sự thỏa mãn nhất thời nhưng lại phá hại sự cân bằng và thanh thản.

Vậy nên, khi ta xác định rõ mục tiêu của đời mình theo hướng nào thì phong cách sống của ta cũng sẽ đồng điệu với hướng đó. Nghĩa là khi ta lựa chọn lối hưởng thụ cao cấp là ta đã chấp nhận tuyên chiến với những chứng bệnh tâm lý của thời đại, mà stress là hội chứng lớn nhất hiện nay.

Bắt đầu từ sự lo lắng về một vấn đề cần phải giải quyết dứt điểm trong một thời gian ấn định, nhưng vì chưa có giải pháp, nên não bộ cứ liên tục nhắc nhở vấn đề khiến ta phải nhớ – rồi lại lo lắng vì chưa tìm được giải pháp – rồi lại nhớ vấn đề – rồi lại nôn nóng giải quyết nhưng chưa được – rồi lại lo lắng… Mỗi vòng lặp lại như vậy sẽ làm cho mức độ cảm xúc xấu tăng dần, dồn nén liên tục cảm xúc sẽ bị nghẽn mạch. Nếu đó là vấn đề quan trọng thì sự thoi thúc của ý chí sẽ càng lớn và cường độ cảm xúc sẽ càng mạnh.

Lẽ dĩ nhiên nếu vấn đề không giải quyết được thì ta phải gánh chịu tổn thất, đó có thể là công việc hay một mối quan hệ. Nhưng vì ta muốn kháng cự lại, ta không chấp nhận mình bị thất bại, không muốn chịu đựng cái cảm xúc xấu do sự tổn thất đưa tới, cũng như ta cố tranh đấu quyết liệt để bảo vệ những cảm xúc tốt mà mình đang có. Thế nên chuỗi phản ứng tâm lý như sợ hãi, lo lắng và căng thẳng xuất hiện và phát triển không ngừng để thể hiện bản năng tự vệ của mình.

Một khi tâm lý bị bế tắc liên tục sẽ khiến cho cảm xúc xấu cứ dồn nén ở mức độ cao, đó sẽ là cơ hội tốt cho các loại độc tố như epinephrine chế xuất ồ ạt trong não bộ, khiến các quá trình hoạt động và trao đổi chất của cơ thể bị rối loạn. Ngành y khoa đã xác nhận hiểm họa của sự rối loạn các quá trình trao đổi chất của cơ thể sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ đến bệnh tim mạch, suy nhược thần kinh và cả những triệu chứng ung thư nữa.

Vậy mà khi vấn đề được giải quyết ta chỉ thấy mình thật tài năng, thật may mắn và cũng thật sung sướng vì có thêm một vài thứ tiện nghi nữa trong tay. Nhưng ta không hề biết rằng để có nó ta đã tiêu phí bao nhiêu cân não, tiêu hủy bao nhiêu năng lượng sống và hệ quả đáng sợ là một ngày không xa ta phải chào đón những chứng bệnh quái quỷ nhất của thời đại. Đó có phải là một bài toán khôn ngoan không?

Mỗi khi rơi vào trạng thái stress, thay vì ta đổ thừa cho người khác hay hoàn cảnh, cũng như tìm mọi cách để thay đổi tình huống, thì ta hãy thật bình tĩnh quay lại kiểm tra thái độ của mình, vì phần lớn chính ta mới là tác giả của những khó khăn và đau khổ trong ta. Sau đây là 10 lý do thường khiến ta trở nên căng thẳng.

1. Muốn mọi việc theo ý mình: Ta hay muốn cách giải quyết vấn đề phải theo kinh nghiệm và kiến thức của mình, chứ không chịu mở lòng tham khảo ý kiến của người khác. Nhưng đâu phải lúc nào ý kiến của mình cũng đúng và được người khác lắng nghe. Cho nên tính độc tài là một trong những kẻ gây ra stress.

2. Đánh giá sai lầm kết quả: Ta thường thổi phồng hoặc nghiêm trọng hóa vấn đề đang xảy ra. Dù vấn đề vẫn đang trong giai đoạn giải quyết nhưng ta luôn nhìn bằng con mắt bi quan, tự tiên đoán kết quả rất tồi tệ. Và nếu thất bại thì mọi thứ khác sụp đổ hết, ta sẽ không còn gì và người kia sẽ nghĩ về ta như thế nào đây… Trong khi sự thật vấn đề không phải như ta nghĩ. Bản tính nhút nhát lo sợ đã tạo ra áp lực cho chính ta.

3. Đánh giá sai lầm đối tác: Mỗi khi gặp rắc rối ta hay nghĩ: “Tại sao cứ phải là tôi, bộ muốn hành hạ hay sao mà bắt tôi phải làm nhiều thế? Gấp rút thế này thì ai đảm đương cho nổi, bộ tôi là cái máy à? Sao tôi phải làm việc chung với những người không chuyên nghiệp thế kia? Tại số tôi đen đủi hay tại bọn họ có quá nhiều năng lượng xấu? Thái độ nghi ngờ và coi thường đối tác rất dễ tạo ra những cân não nặng nề, mệt mỏi.

4. Thiếu khả năng chấp nhận: Nếu đã từng thành công dễ dàng trong quá khứ, chưa từng gặp qua khó khăn nào như vậy, và tự đặt cho mình nguyên tắc chỉ có thành công chứ không có thất bại, thì khả năng chấp nhận trong ta sẽ rất yếu kém. Ta cần phải ý thức rằng thuận nghịch, may rủi, thành bại đều là sự vận hành rất tự nhiên của cuộc sống. Thái độ khôn ngoan nhất là nên học cách chấp nhận, thua keo này ta lại bày keo khác.

5. Tình trạng tâm lý yếu kém: Sức khỏe sa sút, tình cảm trục trặc, truyền thông giữa các đồng nghiệp xấu tệ, sếp thiếu tin tưởng và luôn chỉ trích…thường là những tác nhân khiến cho tinh thần ta xuống dốc. Cho nên vấn đề đáng lẽ không mấy phức tạp, nhưng khi tâm trí rối bời thì không những không tìm được một giải pháp tốt, mà ta làm hỏng thêm bằng những hành vi không tự chủ.

6. Thói quen cứng nhắc: Nếu áp dụng nguyên tắc 2 lần 2 là 4 vào mọi vấn đề trong cuộc sống thì ta sẽ gặp rắc rối to. Đôi khi 2 lần 2 có thể bằng 3 hoặc bằng 5, chỉ cần chờ thêm một thời gian nữa thì 3 sẽ tự động cộng thêm 1 và 5 sẽ tìm cách trừ đi 1. Mọi vấn đề luôn vượt ra khỏi những khuôn khổ, nên ta phải kịp thời uyển chuyển thì cơ hội sẽ tự động mở ra. Đừng quên ta cần giải quyết vấn đề chứ không phải cần giữ gìn nguyên tắc.

7. Thói quen cảm xúc: Thay vì phải đặt mục đích và quyền lợi của tập thể lên trên, ta lại để cho cảm xúc thích hay không thích của cá nhân chi phối. Nhiều khi vấn đề cũng thật đơn giản, nhưng chính sự tự ái và tổn thương quá lớn đã khiến cho ta rơi vào tình trạng bức xúc và nhìn vấn đề theo chiều hướng lệch lạc.

8. Luyến tiếc quá khứ: Khi sự việc đang xảy ra, ta lại hay so sánh với những thành công trong quá khứ. Ngay khi vấn đề đã trôi qua rồi, nhưng ta vẫn ray rứt về những điều đáng lẽ mình có thể xoay xở trong tầm tay. Luyến tiếc chính là biểu hiện của sự thiếu tự tin, nó luôn vắt kiệt năng lực và khiến ta luôn chán nản, dễ dàng bỏ cuộc.

9. Mơ tưởng tương lai: Vì cho rằng cái khó khăn mà ta đang gặp là do hoàn cảnh bất lợi, nên ta hay có thái độ đứng núi này trông núi nọ. Thay vì bắt tay vào tháo gỡ vấn đề thì ta lại mơ tưởng đến một hợp đồng khác, một đối tác khác, một công ty khác hay một thị trường kinh tế khác. Đây cũng là biểu hiện của sự thiếu bản lĩnh, chối bỏ hiện tại.

10. Không sống được với hiện tại: Nếu thấy được hạnh phúc luôn có mặt đầy đủ trong giây phút hiện tại, vấn đề kia chỉ là một phần nhỏ của sự sống, thì ta sẽ đủ can đảm xếp chúng vào một ngăn riêng chờ điều kiện thuận lợi hơn sẽ giải quyết. Chính vì không thể sống trong hiện tại nên ta luôn bị cuốn vào vòng xoáy được mất, hơn thua và quên luôn mục đích cao cả cuộc sống.

Như vậy trạng thái bế tắc tâm lý phần lớn là do tâm của con người tạo ra. Hoàn cảnh luôn tồn tại một cách trung lập, tự thân của nó vốn dĩ không chứa đựng sự căng thẳng. Vậy khi có một người than rằng tôi đang bị stress quá, tức là người đó đã tự tuyên bố về sự xuống cấp của chính mình. Thay vì tìm cách thay đổi hoàn cảnh thì hãy quay về điều chỉnh và bồi dưỡng lại nội tâm của mình. Đó là sự lựa chọn khôn ngoan nhất.

Khi phát hiện ra mình đang bị stress, trước tiên ta phải ý thức đây chính là sự báo động tình trạng tâm lý đang bế tắc và có thể gặp nguy hiểm, nên phải nhanh chóng tìm cách giúp đỡ. Cách hồi phục năng lượng hay nhất là phải gạt bỏ hết những lo lắng rối nhùi trong đầu, muốn vậy, hãy chọn một nơi thật yên tĩnh để thực tập định tâm bằng hơi thở. Chừng mười lăm phút theo dõi hơi thở vào ra, ta sẽ dễ dàng trở lại trạng thái ổn định.

Đi từng bước nhỏ chậm rãi trong phòng, ngoài hành lang hay trên một đoạn đường râm mát cũng đem lại nhiều kết quả bất ngờ. Chỉ cần ta ý thức từng bước chân của mình chạm xuống mặt đất, hoặc chú ý đến những dòng cảm xúc đang tuôn tràn và nếu có thể hãy tìm hiểu thêm nguyên nhân của nó. Nở nụ cười ghi nhận những cảnh vật đang xảy ra trước mắt cũng rất cần thiết để giúp ta thư giãn thần kinh, buông xả năng lượng tiêu cực.

Thực tập yoga, thể thao, hội họa, chơi kiểng, du lịch cũng cải thiện được tinh thần, đặc biệt thiền là phương pháp đối trị stress hữu hiệu nhất. Khi ta nhìn nhận vấn đề trong một phạm vi rộng lớn, đặt nó vào một khoảng thời gian đủ lâu và một tinh thần minh mẫn để xem xét thì ta sẽ thấy rõ sự thật hơn, như vậy sẽ có nhiều cơ hội hay nhiều cách giải quyết hơn.

Nếu vấn đề là sự cố giữa các mối quan hệ thì ta hãy chủ động tiếp cận đối tượng kia, dùng nghệ thuật lắng nghe và ái ngữ để nói rõ những cái thấy, khó khăn, yếu kém và cả nguyện vọng của mình, xin bên kia giúp đỡ. Nếu là công việc thì ta cần phải nhìn nhận lại tình trạng vấn đề một cách chính xác để tìm ra nguyên nhân nào dẫn đến khó khăn.

Trường hợp điều kiện để thay đổi vẫn còn trong tầm tay thì ta hãy đem hết tài năng ra để tháo gỡ, lần này chắc chắn khả quan hơn vì năng lực trong ta đã phục hồi và thái độ của ta đối với vấn đề đã khác. Nếu lỡ sự việc nằm ngoài tầm tay thì ta đành phải chấp nhận thất bại một phen, coi như đây là lần học hỏi kinh nghiệm.

Ta đừng quên rằng mọi thứ trong đời sống đều giữ riêng một giá trị, chứ không phải chỉ có mỗi mục đích mà ta đang lao tới, cho nên hãy tập sống chậm lại để có nhiều cơ hội tiếp xúc từng giá trị mầu nhiệm của cuộc sống đang hiệu hữu chung quanh.

Hãy sống thật đơn giản, biết chọn lựa những giá trị nào có thể nuôi dưỡng bình an và hạnh phúc. Còn những thứ tiện nghi chỉ đem lại sự hưởng thụ xa xỉ hay sự bám víu ích kỷ thì ta hãy cố gắng buông bỏ bớt. Đừng để bản năng háo thắng luôn tìm cách chứng tỏ mình, khiến ta liều lĩnh lao tới phía trước như con thiêu thân không cần biết đoạn kết.

Hãy nâng niu trái tim yêu thương và niềm tin đi vào cuộc sống, ta sẽ cùng trôi nổi với dòng đời vốn không ngừng đổi thay này một cách tự tại an nhiên.

Buông bỏ những ưu tư
Che mặt trời trước mặt
Cho con thuyền xa khơi
Đâu mang nhiều thứ nặng.

♥Minh Niệm

Một trăm cách để tồn tại như một hoạ sĩ mà không cần cắt tai mình




Addison Parks

Vincent Van Gogh
Tự hoạ với tai bị băng, 1889
sơn dầu trên canvas, 60 x 49 cm


1 – Làm hoạ sĩ là lựa chọn của bạn; bạn chỉ cần sự cho phép và chấp thuận của chính mình mà thôi!

2 – Nghệ thuật là một cuộc thử nghiệm; thất bại là một phần của quá trình; đó là cách chúng ta học.

3 – Hãy tin tưởng vào chính mình; hãy kiềm chế phán xét: tư tưởng phê phán của bạn là một kẻ yếm thế.

4 – Bạn là người duy nhất phải nâng niu tác phẩm của mình chứ không phải ai khác!!!

5 – Nghệ thuật là một quá trình “tự hỏi”; tôi tự hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu …

6 – Vui thú với công việc của mình giữ cho bạn liên tục làm việc.

7 – Làm nghệ thuật tức là phơi mặt ra với đời; điều đó có nghĩa bạn là người dũng cảm.

8 – Hãy gìn giữ tiếng nói riêng của mình, chúng ta hơn nhau ở chỗ đó.

9 – Hãy ghi nhận công lao của mình vì làm được bất cứ thứ gì; đó đã là một thắng lợi lớn rồi!

10 – Luôn luôn lắng nghe trái tim mình; bạn sẽ không bao giờ đi sai đường.

11 – Hãy biết cảm kích trước tác phẩm của đồng nghiệp; họ không phải là kẻ thù.

12 – Làm nghệ thuật là một đặc ân, đừng trông đợi sự hỗ trợ vì bạn làm nghệ thuật.

13 – Có năng khiếu là một trách nhiệm: để cho chứ không phải để khoe khoang.

14 – Nghệ thuật là làm cho cuộc đời có ý nghĩa, nhận ra mối liên hệ với chính mình trong đó.

15 – Hãy làm một người yêu nghệ thuật, kể cả khi nghệ thuật của bạn chẳng có giá trị gì.


Honoré Daumier
Những người mê nghệ thuật thăm xưởng vẽ


16 – Sáng tạo của bạn là sức mạnh của bạn, hãy thả nó ra, đốt nó cháy bùng lên.

17 – Hãy tập trung vào cái bạn đang làm trong xưởng vẽ của mình, bên ngoài là trò mạo hiểm.

18 – Hãy sống tốt trong khả năng của bạn; hãy tái chế những thứ người khác vứt đi.

19 – Hãy tránh hành động như thể đang cứu con bệnh ung thư trong xưởng vẽ của mình.

20 – Đừng đem nghệ thuật của mình ra thế chấp; tránh mắc nợ.

21 – Hãy tặng tác phẩm của mình – bạn là nguồn – hãy tạo ra nhiều hơn.

22 – Đừng bỏ qua năng lượng hay tác động từ tác phẩm của mình, mà hãy lắng nghe nó.

23 – Hãy thu thập phản hồi; tìm ra ít nhất một người để bạn cho xem tác phẩm của mình.

24 – Tuyên ngôn nghệ thuật phải là sự thật trần trụi; hãy viết nó giản dị.

25 – Hãy đối xử tử tế với những người buôn tranh, hoặc bất kỳ người nào bán tác phẩm của bạn.


Pablo Picasso
Chân dung Ambroise Vollard (1910)
sơn dầu trên canvas, 92 x 65 cm.


Ambroise Vollard (1866 – 1939) là nhà buôn tranh nổi tiếng, từng hỗ trợ nhiều hoạ sĩ Pháp đầu t.k. XX.


26 – Bạn là duy nhất nhưng không phải là không thay thế được. Trên đời này có rất nhiều hoạ sĩ.

27 – Hãy cứng rắn, gallery tức là chuyện làm ăn.

28 – Phán xét là thứ vũ khí chết người: hãy cẩn thận xem ngắm vào đâu.

29 – Nghệ thuật không phải là cuộc thi; tác phẩm để chứng tỏ thường bốc mùi khó ngửi.

30 – Đừng quá nóng vội trưng bày tranh của mình tại gallery.

31 – Hãy giữ ngọn đèn của mình cháy sáng, và nó sẽ luôn bên bạn.

32 – Hãy trao đổi với các hoạ sĩ khác; bằng cách đó chúng ta làm cuộc sống của mình phong phú thêm.

33 – Hãy học cách nói về tác phẩm của mình, nhưng đừng nói nhiều quá.

34 – Hãy tham gia các triển lãm nhóm, để đặt mình vào tương quan với các đồng nghiệp.

35 – Hãy vẽ nhiều trên giấy, bạn có thể nhét toàn bộ sưu tập của cả đời dưới gầm giường.

36 – Nếu tranh bạn bán được thì tốt, nếu không được, hãy tiếp tục vẽ, đời là vậy.

37 – Đừng quẳng những gì bạn say mê cho bày sói.

38 – Làm hoạ sĩ không bao giờ dễ dàng, nhưng đừng ăn mừng cuộc đấu tranh.

39 – Hãy bỏ qua các năng lượng tiêu cực trong công việc.

40 – Những gì đi vào tranh của bạn là những gì sẽ được tiếp tục.

41 – Hãy có ít nhất một kỹ năng không phải là hội họa (nhưng mang lại thu nhập) mà bạn thích thú.

42 – Nếu nghệ thuật là trải nghiệm, thì trải nghiệm của bạn là gì?

43 – Hãy làm nghệ sĩ toàn bộ thời gian, và làm việc bán thời gian để kiếm sống.

44 – Phó mặc và tạo ra là hai mặt quan trọng như nhau của công việc.

45 – Hãy làm người trước, nghệ sĩ sau; nghệ thuật sẽ có một nghĩa gì đó.

46 – Hãy ghi nhận công lao của mình trong mỗi thành tựu mà bạn đạt được.

47 – Làm hoạ sĩ giỏi là vấn đề của tính cách, chứ không phải kỹ năng.

48 – Các phán xét của chúng ta bao giờ cũng chủ quan; chúng chỉ là tấm gương phản chiếu chính chúng ta.

49 – Hãy tỏ ra rộng lượng khi xem tranh trong sự hiện diện của tác giả.

50 – Hãy học cách tự chụp ảnh tranh mình trong ánh sáng tự nhiên; bạn là người biết tranh mình phải trông như thế nào.

51 – Không có gì trường tồn được trên một nền tảng giả; đừng làm giả.

52 – Những rung động nào đến từ tranh của bạn?

53 – Những thành tố trong tranh của bạn có tươi mới không? Và chúng có gần gũi với bạn không?

54 – Các niềm hy vọng và nỗi đau của bạn – tất cả đều là một phần tác phẩm của bạn.

55 – Bạn có thể dựng nên tác phẩm từ bất cứ thứ gì, miễn đó là thực, cho dù có nhỏ tới đâu.

56 – Bạn sẽ bị hoài nghi dằn vặt nhưng bạn sẽ lấy lại niềm tin.

57 – Hãy bao quanh mình các năng lượng tích cực: đó là sự hỗ trợ mạnh mẽ và yên lặng.

58 – Không có luật lệ. Hãy nghĩ về điều đó. Bạn đã đến lượt. Hãy nắm lấy nó.

59 – Ân hận luôn luôn là sự phá hủy.

60 – Bất cứ điều gì bạn che giấu sẽ tự bộc lộ ra trong tác phẩm của bạn.

61 – Dùng công việc để lấp lỗ hổng trong cuộc đời thì chỉ làm cho lỗ hổng đó to thêm.

62 – Bất cứ nơi nào cũng có thể là xưởng vẽ, kể cả một góc nhỏ bạn mang trong mình.


Xưởng vẽ của Francis Bacon ở South Kensington (London) nơi ông sống và vẽ trong 3 thập kỷ, cho đến khi qua đời vào năm 1992.

63 – Các kỷ luật thực tế sinh ra từ giấc mơ của bạn.

64 – Khi gặp bế tắc, hãy hăng lên, hãy liều.

65 – Coi việc của mình như một vấn đề nan giải khiến nó trở thành một vấn đề nan giải.

66 – Hãy để ý tới nguồn của tác phẩm.

67 – Bạn đang làm ra một cái gì đó từ chỗ không có gì.

68 – Bạn có thể thực sự dũng cảm như bạn tưởng tượng.

69 – Những gì sống động trong tranh của bạn sẽ không bao giờ chết.

70 – Ánh sáng cuối con đường hầm là ở trong chính bạn; càng nhiều niềm tin, càng nhiều ánh sáng.

71 – Hãy sống ở nơi nào mà nghệ thuật có ý nghĩa; đừng sống ở nơi nó không có ý nghĩa.

72 – Tất cả các hoạ sĩ đều ngồi chung một con thuyền, chung một nhu cầu, chung một cuộc đấu tranh, chung niềm vui sướng.

73 – Hãy sống ở nơi mình làm việc, làm việc ở nơi mình sống. Như thế rẻ hơn.

74 – Hãy dùng các hoạ phẩm rẻ hơn nếu điều đó vẫn cho phép bạn vẽ được.


Jean Baptist-Siméon Chardin
Những vật tượng trưng cho nghệ thuật (1766)
sơn dầu trên canvas, 112 x 141 cm


75 – Hãy chấp nhận rằng bạn là người may mắn vì đang làm cái mình muốn làm.

76 – Đừng trông đợi sự ủng hộ của người khác nếu không làm điều họ muốn.

77 – Đừng dùng các hoạ phẩm, chất liệu độc hại. Chúng sẽ gây hại cho bạn sau này.

78 – Ai là người thích bị phê bình? Tất cả chúng ta đều cần sự cảm thông, và trân trọng.

79 – Hãy thu thập quanh mình thứ nghệ thuật nào luôn hé mở cho bạn điều gì đó.

80 – Tin hay không tùy bạn, nhưng bạn không nằm trong tầm ganh đua với mọi hoạ sĩ.

81 – Đừng lợi dụng nghệ thuật của mình để chứng minh một điều gì đó, vì có thể sẽ bốc mùi thối.

82 – May thay, nghệ thuật vẫn có thể xảy ra, bất chấp những ý đồ tệ nhất của bạn.

83 – Niềm tin tưởng đã là nửa trận đánh rồi, nhưng đó không phải là điều cốt lõi.

84 – Không phải bao giờ lao động nặng nhọc cũng được việc, nó chỉ làm công việc trở nên nặng nhọc.

85 – Nghệ thuật đôi khi là 99% cảm hứng và 1% mồ hôi.

86 – Hãy tránh sở hữu các kỹ thuật; hãy tìm con đường của riêng bạn để tới đó.

87 – Âm nhạc là người bạn tốt nhất của hoạ sĩ, hãy nghe, chơi một nhạc cụ nào đó.


Auguste-Dominique Ingres
Chân dung gia đình Stamaty (1818).


Điều đáng ngạc nhiên trong bức ký họa chì rất chi tiết này là, mặc dù Ingres là một người chơi violin nghiệp dư và mê âm nhạc, phím đàn piano ông vẽ lại chỉ có các cụm 3 phím đen, trong khi đúng ra mỗi quãng tám phải có một cụm 2 phím đen (do và ré) và một cụm 3 phím đen (fa, sol, và la).


88 – Nghệ thuật không có chỗ cho sự thiếu tính hài hước.

89 – Không có công bằng trong một triển lãm có hội đồng duyệt, mà chỉ có chương trình nghị sự.

90 – Hãy thoáng trong việc công bố tác phẩm của bạn bằng các cách khác nhau.

91 – Đừng tích trữ các tác phẩm của mình thành một sưu tập vô giá … trị.

92 – Thái độ là tất cả: là cuộc sống và công việc của bạn.

93 – Màu sắc là năng lượng; đó là một phần của tất cả, phải hiểu nó.

94 – Bố cục là thứ sinh ra khi bạn thừa chỗ trống.

95 – Hãy làm việc như lần đầu tiên; mọi thứ đều có thể xảy ra.

96 – Hãy biết rằng cay đắng và thất vọng luôn bám theo mỗi hoạ sĩ.

97 – Một cuộc đời trong nghệ thuật là phần thưởng của chính cuộc đời; mọi thứ khác đều là giả dối.

98 – Tác phẩm của bạn có thể chiếu ánh sáng và bóng tối, đem lại tiếng cười, và cả điều kỳ diệu.

99 – Hoạ sĩ vừa là nhân chứng vừa là kẻ mách bảo; họ nhìn thấy và phơi bày.

100 – Cuối cùng chỉ có một con đường: con đường của chính bạn!


Nguyễn Đình Đăng
Ngưỡng cửa (2003)
sơn dầu trên canvas, 130.3 x 162 cm


Nguyễn Đình Đăng dịch từ nguyên văn tiếng Anh

Addison Parks , “One hundred ways to survive as an artist without cutting off your ear“.

Phụ lục của người dịch:
Các danh ngôn tương tự

(3) Triết gia Pháp Jean de Labruyère (1645 – 1696): “Chúng ta bị khoái cảm của phê bình tước mất khoái cảm được xúc động bởi một số thứ rất đẹp.”

(38) Đạo sĩ Yoga Ấn Độ Swami Sivananda (1887 – 1963) : “Cuộc đời chỉ có nghĩa trong đấu tranh. Thắng hay bại là do Trời định đoạt. Vì thế hãy ăn mừng cuộc đấu tranh.”
(43) Hoạ sĩ Mỹ Jeff Koons (1955): “Tôi luôn là hoạ sĩ. Tôi từng làm môi giới để kiếm sống nhưngg tôi luôn nghĩ tới nghệ thuật của mình.“

(60) Văn sĩ Pháp Albert Camus (1913 – 1960): “Lương tâm tội lỗi cần sự thú nhận. Tác phẩm nghệ thuật là một sự thú nhận.“

(78) Văn sĩ Anh William Somerset Maugham (1874 – 1965): “Người ta yêu cầu bạn phê bình, nhưng họ chỉ muốn được khen.“

(92) Văn sĩ và phi công Pháp Antoine de Saint-Exupéry (1900 – 1944): “Ý nghĩa của sự vật không ở trong sự vật, mà ở trong thái độ của chúng ta đối với sự vật.“

(97) Triết gia Đức Friedrich Nietzsche (1844 – 1900): “Chúng ta có nghệ thuật để khỏi chết vì chân lý.“

Chiếc thùng mẻ




Một người đàn bà gánh hai thùng nước trên vai. Một thùng có vết nứt, con thùng kia luôn chứa đầy nước. Đến cuối đoạn đường dài từ suối đến nhà, thùng mẻ chỉ còn nửa lượng nước.

Hai năm dài với mỗi ngày người đàn bà chỉ gánh về một thùng rưỡi nước. Chiếc thùng đựng đầy nước luôn hảnh diện về thành quả của mình. Còn chiếc thùng bị vết nứt bên kia buồn bã và xấu hổ vì mình không toàn hảo nên chỉ làm được một nửa công việc mình được tạo ra để làm. Sau hai năm sống trong sự đau khổ vì không làm tròn nhiệm vụ. Một ngày kia bên bờ suối chiếc thùng bị nứt bèn nói với người đàn bà:

– Tôi rất xấu hổ về chính mình vì một vết nứt phía thùng của tôi đã làm cho nước chảy ra ngoài suốt đoạn đường bà gánh nước về nhà.”

Người đàn bà mỉm cười: “Bạn có nhìn thấy rất nhiều hoa bên đường phía bạn đi ngang qua nhưng không có hoa nào ở phía bên kia không? Bởi vì tôi luôn nhận biết khuyết điểm của bạn, nên tôi đã gieo những hạt giống của bông hoa phía bạn đi qua, để mỗi ngày trên đường về bạn đã tưới nước cho những hạt mầm. Suốt hai năm qua tôi đã hái những bông hoa đẹp để chưng trên bàn. Nếu không có bạn với những gì của bạn thì đã không có những nét đẹp trang điểm cho ngôi nhà đẹp thêm”.

Mỗi người chúng ta đều có những khuyết điểm. Nhưng qua những vết rạn nứt và những khuyết điểm đó làm cuộc đời mỗi người thêm phong phú.

Mỗi người cần chấp nhận người chung quanh và tìm những điều tốt nơi người đó.

Ngạn ngữ Trung Hoa

Sự tích hoa nhã thảo

Lilia

Thủa ấy, đã lâu lắm rồi, ở phía cuối chân trời kia, trong ngôi làng nhỏ ven rừng có một đôi bạn rất thân cùng nhau lớn lên.

Ngày ngày, cậu bé và cô bé cùng nhau chơi đùa. Khi thì họ rủ nhau vào khoảng rừng thưa, cậu bé hái những thứ quả ăn được đem chia cho cô bé. Họ thích thú lắng nghe tiếng chim chóc ríu ran trong vòm lá, nhìn những chú sóc nâu thoăn thoắt chuyền cành, hay ngắm nghía mấy chú ốc sên đầy màu sắc. Khi thì họ chạy đuổi nhau trên trảng cỏ bên bìa rừng, tóc cô bé tung bay trong gió. Cô bé có mái tóc óng ả đẹp tuyệt trần. Họ cũng hay ra bờ suối chơi, khi đó cậu bé lội xuống suối tìm nhặt những viên đá cuội thật đẹp, còn cô bé thì tha thẩn ven bờ, hái những bông hoa dại để kết thành vòng hay cài lên tóc. Cậu bé rất yêu mái tóc cô bé, cậu thích nghịch ngợm tát nước suối lên tóc cô, để những giọt nước long lanh li ti đọng vào đó lấp lánh sáng lên dưới ánh sáng mặt trời... Cậu thích nhất khi cô bé tết tóc thành bím, thích ngắm hai bím tóc dài trên vai cô bé tinh nghịch nhún nhẩy mỗi khi cô chạy ào đến với cậu, má ửng hồng...

Bên bờ suối có một ngôi nhà gỗ bỏ hoang. Ngày trước, có một ông lão gác rừng sống ở đó, nhưng từ khi ông bỏ đi, không còn ai gác rừng nữa. Ngôi nhà rất nhỏ và đã xiêu vẹo, nhưng nó lại là một chỗ trú ẩn lí tưởng cho đôi bạn những khi trời bất chợt đổ mưa. Một lần, họ tìm thấy một chiếc hòm bí mật đặt trong cái hầm nhỏ dưới nền nhà. Trong hòm không có gì hết, có lẽ trước đây ông lão gác rừng dùng nó để cất đồ đạc của mình. Mặc dù vậy, đôi bạn vẫn ngất ngây sung sướng vì khám phá này. Kể từ đó, chiếc hòm trở thành „thùng thư bí mật” của họ. Nếu không gặp nhau, họ để lại đấy cho nhau những món quà nho nhỏ, khi là cái bánh mẹ mới nướng, khi là bức tranh nhỏ mới vẽ, khi thì đơn giản chỉ là một viên đá, một cành hoa...
 
Năm cậu bé lên mười, gia đình cậu chuyển ra thành phố. Cậu bé và cô bé khóc hết nước mắt. Trước khi lên đường cùng cha mẹ, cậu bé nói với cô bé: „Bạn hãy giữ mãi mái tóc này cho mình nhé, nó rất đẹp. Mình sẽ rất nhớ bạn!”.
 
Từ đó họ bặt tin nhau. Vài năm sau, nhà cô bé cũng chuyển đi nơi khác, đến một nơi ồn ào và đông đúc mà người lớn thích. Người lớn thật khó hiểu. 
Thời gian trôi qua, cậu bé và cô bé ngày xưa cũng trở thành người lớn. Họ cũng dần dần trở nên khó hiểu. Nhưng thỉnh thoảng, trong những lúc tĩnh lặng hiếm hoi, họ nhớ lại ngôi làng bên cánh rừng thưa của thời thơ ấu và người bạn nhỏ ngày nào. Khi ấy, họ cảm thấy những điều khó hiểu bỗng trở nên rõ ràng và dễ hiểu hơn đôi chút.
 
Một buổi sáng mùa xuân, cậu bé giờ đã là một chàng trai trở lại thăm làng xưa. Chàng trai lang thang khắp nơi, nhưng mọi thứ đã trở nên xa lạ. Buồn bã, chàng đi ra bờ suối. 
Ngôi nhà gỗ của người gác rừng vẫn còn đó, lút trong cỏ dại và càng xiêu vẹo hơn. Chợt nhớ đến hòm thư bí mật, chàng tìm lại nắp hầm và kéo lên. May sao, cái hòm vẫn nằm đó. Chàng trai mở cái hòm ra, và sững người.
 
Trong hòm, bím tóc xinh xắn của cô bé nằm ngay ngắn, bím tóc mà chàng từng yêu đến thế. Nó được tết thêm những sợi ruy băng hồng, tím, trắng. Không hiểu vì sao cô bé lại cắt bím tóc đi và để lại đây cho chàng. Đây là một bí mật, vì cô bé vốn thích những điều bí mật.
Nhìn món quà của cô bé dành tặng cho mình, hình ảnh cô bạn nhỏ và bao kỷ niệm ấu thơ chợt ùa về, chàng trai nghẹn ngào lặng đi. Từ khóe mắt trên gương mặt phong trần của chàng, hai giọt lệ ứa ra, nhỏ xuống bím tóc. Chúng đọng lại trên đó một thoáng, long lanh và tinh khôi, rồi tan ra và biến vào những sợi tóc.
Chàng trai cất bím tóc về chỗ cũ rồi trở về thành phố.
 
Từ bím tóc của cô bé, nơi hai giọt lệ của chàng trai nhỏ xuống, kỳ lạ thay, những mầm cây nhỏ mọc lên, dài ra và nảy những chiếc lá nhỏ mỏng mảnh, mỗi ngày một nhiều hơn. Rồi những bông hoa li ti màu hồng, tím, trắng nở ra, phủ khắp thân cành, trông tựa những dải ruy băng trên bím tóc cô bé. Đám hoa lan ra thật nhanh, trông mỏng manh yếu đuối như vậy nhưng chúng thật dẻo dai, dù trời gió mưa hay nắng gắt, chúng vẫn tràn đầy sức sống. Đó chính là hoa nhã thảo, loài hoa của tình bạn thủa ấu thơ trong sáng và tinh khôi.
Mùa xuân năm sau, cô bé giờ đã là một cô gái cũng lại trở về thăm làng cũ. Cô gái tìm đến ngôi nhà của người gác rừng. Căn nhà gỗ cũ kỹ giờ đây ngập trong hoa nhã thảo, như bừng sáng lên trong sắc hồng, trắng, tím. Cô gái bàng hoàng, ngây ngất trước vẻ đẹp dịu dàng tinh tế của hoa, nàng đem chúng về thành phố trồng trên ban công nhà mình. 
Hàng xóm láng giềng thấy loài hoa đẹp và dễ trồng, mỗi người xin một ít. Từ đó, hoa nhã thảo xuất hiện ở thành phố, dần dà trở nên quen thuộc ở khắp nơi.
Chàng trai cũng nhiều lần đem nhã thảo về trồng trước hiên nhà. Chàng thích ngắm những bụi nước li ti long lanh đọng trên cánh hoa mỗi sáng tinh mơ. Chúng gợi cho chàng một cảm giác thân thương thuần khiết rất dịu dàng mà chàng không sao lý giải được. 
Nhưng cả chàng trai và cô gái đều không biết rằng loài hoa ấy mọc lên từ bím tóc kỷ niệm ngày xưa.
Bởi vì đó mãi mãi là một bí mật.

Tình yêu từ cái nhìn đầu tiên






7 giây. Chúng ta cần từng đó thời gian để quyết định: tôi thích cái này, để phán xét: đúng hay sai, để phải lòng hay chán ghét ai đó. Vô cùng nhanh, bộ não gửi cho chúng ta câu trả lời cảm tính, tức thời và.... thường là KHÔNG chính xác đến đáng ngạc nhiên. Có nên tin vào cảm nhận đầu tiên hay không? Phải làm gì để chúng ta ít sai lầm hơn?


Không hiếm khi một người phỏng vấn tuyển nhân viên từ chối ai đó chỉ sau vài phút nói chuyện, chỉ vìngười này có nụ cười giống cô bạn vô duyên hồi cấp 1, giọng nói giống anh chàng hàng xóm đáng ghét, mái tóc giống người đồng nghiệp hay kèn cựa v.v... Trong khi đó, có thể chính họ sẽ là những nhân viên lành nghề nhất, thích hợp với công việc đó nhất. Điều này không làm nhà tâm lý học David Myers ngạc nhiên. Ông đã tiến hành nghiên cứu và phát hiện ra: dự đoán của phần lớn các chuyên gia tuyển dụng nhân sự thường sai lầm đến mức gây sốc. Kết quả của các dự đoán này thường tồi tệ hơn các bài kiểm tra đơn thuần để đánh giá ứng cử viên rất nhiều.


Có thật là các ý nghĩ đầu tiên thường đúng nhất không? Ngày nay chúng ta sẵn lòng tin vào điều này hơn bao giờ hết. Trong khi đó, các nghiên cứu cho thấy cảm nhận đầu tiên đánh lừa các quan tòa khi phán xét về mức độ đáng tin cậy trong lời khai của các các nhân chứng hay bị cáo, đánh lừa các bác sỹ khi dự đoán bệnh nhân có khuynh hướng tự tử hay không, đánh lừa các nhân viên bán hàng (nhân là các nhân viên bán xe hơi) và làm cho họ coi thường các khách hàng tiềm năng (mà sau đó chạy sang hãng của đối thủ cạnh tranh mua xe). Những cuộc hôn nhân từ tình yêu từ cái nhìn đầu tiên không bền vững hơn những cuộc hôn nhân mà tình yên đến từ từ theo thời gian.


Tại sao cảm nhận đầu tiên của chúng ta lại sai? Có phải vì chúng ta thiếu trực giác (intuition)?



Trực giác phụ thuộc vào sự hiểu biết, kinh nghiệm, các trải nghiệm được ghi nhớ sẵn trong ký ức. Khi ta cảm thấy ai đó hay một nơi nào đó dễ mến, dễ thương, có nghĩa là ta cảm thấy người đó hay nơi đó có cái gì đó quen thuộc với ta. Khi không có thời gian để phân tích và suy nghĩ, chúng ta nghĩ tắt. Toàn bộ bí ẩn của trực giác là sự tìm kiếm chớp nhoáng trong kho ký ức, nhanh đến nỗi bản thân chúng ta cũng không ý thức được. Kết quả có trong vài giây: đó chính là cảm nhận. Tốt hoặc xấu. Nhưng trước hết là chính xác hay sai lầm.



Điều này phụ thuộc vào cái gì? Vào việc chúng ta có những gì trong kho ký ức. Chúng ta càng có nhiều hiểu biết, nhiều quan sát thì càng tốt. Nếu chúng ta là chuyên gia trong lĩnh vực nào đó, các cảm nhận của chúng ta phần lớn sẽ đúng. Nếu ta không thạo về vấn đề gì, cảm nhận sẽ đánh lừa chúng ta.



Một đứa bé hai tuổi thích nghịch các ổ điện. Trực giác của nó nói rằng cái đó tuyệt đối an toàn. Hàng nghìn năm, loài người bằng cảm nhận đã tin rằng trái đất phẳng.



Cảm nhận đầu tiên cũng giống như khi ta đọc nhan đề của một bài viết và dừng lại ở đó. Như vậy có phải là đủ không? Nhưng đó chính là điều chúng ta làm khi nhìn người khác, làm quen với họ và đánh giá họ bằng vài giây cảm nhận.





Tình yêu từ cái nhìn đầu tiên giống như tình cảm từ máy tự động. Người phụ nữ gặp một người đàn ông. Trong chớp mắt cơ cấu suy nghĩ bằng trực giác khởi động: hồi tưởng về tất cả các người đàn ông cô từng quen trong quá khứ được lục lại trong ký ức, giọng nói, nét mặt, cử chỉ, mùi hương, lối sống. Kết luận chớp nhoáng: đây là người đàn ông dành cho tôi. Anh ta có cái gì đó thân quen, gợi những liên tưởng dễ chịu. Vì thế chúng ta thường phàn nàn khi ai đó cứ yêu những người đàn ông giống nhau.


Trực giác là sự thừa hưởng một cách tiến hóa của chúng ta, nhiệm vụ của nó là cảnh báo các nguy hiểm. Những thứ thân quen có nghĩa là tốt và an toàn, còn những thứ lạ - là nguy hiểm. Trong cuộc sống nhiều khi mọi sự không như vậy, nhưng trực giác luôn luôn nhắc nhở ta theo cách cũ ấy.



Không ai là có trực giác tốt trong tất cả mọi chuyện. Bạn có thể có cảm nhận chính xác về đàn ông, nhưng lại cảm nhận sai bét về các vấn đề tài chính. Càng nhiều hiểu biết và kinh nghiệm, bạn sẽ càng có ít những suy nghĩ theo lối mòn, những định kiến. Đó là điều kiện để có các cảm nhận quý giá và chính xác.





Nếu bạn muốn cảm nhận của mình về mọi người chính xác hơn, bạn có thể luyện tập bằng cách có thêm các kinh nghiệm mới, mở rộng các mối quan hệ của mình, quen biết thêm nhiều người, nhất là những người khác với bạn.



Con trai của tỉ phú và nhà tài chính George Soros có lần đã tiết lộ: - Tôi thấy cha tôi trình bày các lý thuyết tại sao ông lại mua loại cổ phiếu này, bán cổ phiếu kia. Tầm phào! Ai cũng biết là cha tôi bán cô phiếu ra khi ông thấy đau lưng.





Các nhà tâm lý học khuyên chúng ta không nên coi thường các tín hiệu của cơ thể. Sự bất an, đau bụng, giật giật ở chân cũng là các cảm nhận. Thay vì tự trấn an: đây là tôi đang lo lắng thôi, vào thời gian này trong năm tôi luôn cảm thấy khó ở, bạn hãy quan sát xem các sự kiện hay quyết định gì đến cùng với các tín hiệu này. Một bài tập tốt là hãy tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra nếu bạn đã quyết định chuyện đó rồi, và quan sát tình cảm cũng như các hình ảnh hiện ra. Quan sát tất cả, đến tận cuối cùng, vì thường xảy ra trường hợp sau các cảm nhận tích cực đầu tiên, các cảm nhận khác ít thú vị hơn bắt đầu xuất hiện. Mà những cảm nhận cuối cùng mới là quan trọng nhất.





(Theo Twój Styl)