Thứ Sáu, 4 tháng 10, 2013

TIN VÀ ĐÁNG TIN




Bùi Văn Nam Sơn


1. Tin Xuân đã có nhành mai đấy
Không lịch nhưng mà vẫn biết giêng…

Đó là hạnh phúc đơn sơ của người hàn sĩ vào thuở mà tin còn đồng nghĩa với… tín, vì trong cõi vô thường, ít ra người ta vẫn còn có thể vững tin vào những định luật hầu như hằng cửu của tự nhiên: “xuân sinh thu thành, bản vô tâm ư thảo mộc; phong hành ba động, tận hữu tín ư trùng ngư…”. Ngày nay, có lẽ không khó lắm để có một quyển lịch, nhưng nhành mai thì không chắc sẽ kịp báo tin Xuân vì bị ngập úng; gió mưa không chỉ lỗi hẹn với cá tôm mà còn đẩy chúng vào chết ngạt giữa lòng thành phố… Rồi còn bao nhiêu sông hồ, rừng núi đang và sẽ là nạn nhân của cơn mê cuồng tàn phá. Câu thơ Cung Oán tưởng đã vĩnh viễn lùi xa nay lại làm quặn lòng bao người đang được sống trong hòa bình: tang thương đến cả hoa kia cỏ này… “Nhân tai” lan tràn khắp chốn và nay đang trở thành thảm họa toàn cầu với cơn đại khủng hoảng kinh tế-tài chính mà chưa ai lường hết được quy mô và những hệ lụy của nó. Khủng hoảng lòng tin là câu chuyện trên cửa miệng mọi người ngay khi đang đón xuân bên tách trà và… nhành mai (nếu có!).

2. Lòng tin nói ở đây là sự chờ đợi rằng những người hay những tổ chức có liên quan sẽ hành động trong khuôn khổ những giá trị chung hay những quan niệm luân lý nào đó. Nói cách khác, lòng tin giả định rằng sự việc sẽ diễn ra một cách tích cực hay đúng theo sự chờ đợi. Đặc điểm quan trọng ở đây là sự có mặt của một khả năng hành động khác, và đó cũng là chỗ phân biệt giữa lòng tin và hy vọng. Lòng tin dựa trên sự đáng tin cậy, sự yên tâm và sự trung thực. Nó thể hiện ra trong hiện tại nhưng lại hướng đến những gì xảy ra trong tương lai.

Hàng ngày ta vẫn thường được khuyên: “hãy giữ vững lòng tin!” như lời mời gọi của một phẩm tính nhân loại đích thực. Thật thế, lòng tin há chẳng phải là cơ sở mạnh mẽ cho quan hệ tốt đẹp giữa người với người, dù lòng tin ấy đã bao lần bị chà đạp, bởi người khác lẫn… bởi chính ta? Giá trị nhân loại ấy trở thành một giá trị giả, khi lòng tin cậy bị đánh đồng với sự tin tưởng mù quáng. “Hãy tin cậy tôi!” trở thành “hãy tin tôi đi!”. “Tôi không còn tin cậy anh nữa!” trở thành “tôi không tin anh!”. Tinthay chỗ cho biết, không khác gì ta tin một người mà không hề biết họ. Chỉ khi ta biết họ thì mới đồng thời biết được chiều hướng hành động của họ có đáng để ta tin hay không. Người thầy tin vào trò vì biết về năng lực của trò. Tin mà không biết là giao việc một cách mù quáng và vô trách nhiệm. Để nhận ra tầm quan trọng của cái biết vốn bắt rễ sâu trong lòng tin, nhiều tác giả phương Tây cố lần ra từ nguyên của chữ trust trong tiếng Anh hay chữ Vertrauen trong tiếng Đức. Cả hai đều bắt nguồn từ chữ gothic “trauan” có nghĩa là “mạnh mẽ, chắc nịch như một cây cổ thụ”. Nghĩa bóng của nó là: đúng đắn, chân thật, đích thực và không có chút dính líu gì đến việc tin mù quáng cả! Mạnh mẽ, chắc nịch như cây cổ thụ là hình ảnh và biểu trưng đầy sức mạnh cho sinh lực bền vững, luôn sáng tạo và tiến hóa. Không phải ngẫu nhiên mà ngay trong niềm tin tôn giáo, nơi cái biết tưởng như không mấy quan trọng vì người ta vẫn có thể “tin vì nó phi lý” hay “tin để biết” thì nhiều bậc giáo chủ vẫn lập tức bổ sung: “biết để tin” (Augustinus) hay mạnh mẽ hơn: “một khi ta đã xác tín vững chắc trong đức tin thì theo tôi, có vẻ chính sự buông thả đã khiến ta không nỗ lực tìm hiểu những gì ta tin” (Anselm).

Như thế, việc có được lòng tin đích thực (hay ngược lại, tạo được lòng tin đích thực nơi người khác) là gian nan hơn mới thoạt nhìn, vì lòng tin không phải là quà tặng dễ dãi mà phải “lao động” cật lực mới có được - giống như đối với mọi giá trị bền vững đích thực khác. Một khi lòng tin đích thực đã đạt được thì không dễ bị lạm dụng và lợi dụng, vì nó dựa vững chắc vào cái biết đích thực.

3. Nếu ở bình diện cá nhân, lòng tin cần nhiều đến sự hiểu biết thì ở bình diện xã hội, sự việc phức tạp hơn nhiều, vì ở đây quan hệ giữa người và người ngày càng ít dựa vào sự hiểu biết trực tiếp. Ngay từ đầu, lòng tin là một nguồn lực xã hội giúp cho hoạt động phối hợp giữa người với người có thể hình thành trong điều kiện hầu như hoàn toàn vô danh. Trong xã hội hiện đại, ta chịu tác động bởi những cái gọi là hệ thống trừu tượng, tức những cơ chế độc lập với đặc tính của những cá nhân. Chúng có giá trị như những hệ thống ký hiệu, và ta chỉ làm việc với những ký hiệu ấy. Chẳng hạn khi ta bỏ lá phiếu cho những cá nhân xa lạ, hay sẵn sàng giao dịch tài chính với những tổ chức mà ta không hề và cũng không cần quen biết. Môi trường giao dịch này là đáng tin cậy chỉ nhờ có lòng tin rằng nó được thừa nhận như là “ký hiệu” phổ biến mà cá nhân ta không tạo ra hay không tài nào thẩm tra được sự thừa nhận ấy. Một hệ thống trừu tượng khác chính là hệ thống của những chuyên gia khoa học được ta thường xuyên “vay mượn” thẩm quyền và kiến thức của họ. Các hệ thống ấy sở dĩ vận hành được là nhờ ta – tuy không biết hoặc biết rất ít thông tin – giả định rằng chúng là tử tế và tốt lành. Niklas Luhmann, một trong những ông tổ của lý thuyết hệ thống nhận ra ở đây một phép “biện chứng” của lòng tin: lòng tin là “cơ chế để giảm thiểu tính phức tạp của xã hội”, thậm chí là một sự “mạo hiểm được… tạm ứng” từ phía người dân không đủ thông tin và thì giờ. Mặt khác, nếu việc mất lòng tin được hiểu thông thường như là trái nghĩa với lòng tin, thì, cũng từ giác độ xã hội học, nó có sự “tương đương về chức năng” như lòng tin, vì nó cũng giúp giảm thiểu tính phức tạp để người phó thường dân có thể tỏ thái độ tức thời dựa vào sự mẫn cảm và lương tri lành mạnh của mình. Sự có mặt đồng thời của lòng tin và mất lòng tin không phải là một mâu thuẫn mà phụ thuộc vào hoàn cảnh xã hội hiện đại mang đặc tính phức tạp.

Cả hai tương đương về chức năng, nhưng tất nhiên không phải là một! Ngày nay người ta thường nói về bốn loại vốn liếng ảnh hưởng quyết định đến cấu trúc xã hội: vốn kinh tế, vốn văn hóa, vốn xã hội và vốn biểu trưng (mang lại sự thừa nhận và uy tín, danh giá), trong đó vốn xã hội ngày càng có vị trí quan trọng. Khác với vốn con người chỉ liên quan đến con người tự nhiên, vốn xã hội nói đến các mối quan hệ giữa họ với nhau, và trở thành đặc điểm chủ yếu của đời sống cộng đồng. Vốn xã hội hình thành từ sự sẵn sàng hợp tác giữa những tác nhân, tức giữa những người công dân với nhau. Nhưng, thước đo và cơ sở của vốn xã hội lại là lòng tin xã hội. Chỉ trong không khí tin cậy, ta mới sẵn lòng tin vào người khác, nhất là vào người xa lạ, mà không cần chờ đợi hay đòi hỏi sự “đền đáp” tức thời, vì ta tin rằng nhất định có những người xa lạ khác sẽ đền đáp cho ta. Vì thế, có nhiều hoặc có ít vốn xã hội (và lòng tin xã hội) sẽ giảm thiểu hoặc gia tăng phí tổn xã hội về nhiều phương diện và sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến sự ổn định và tăng trưởng kinh tế. Nguy hiểm hơn, việc mất lòng tin xã hội sớm muộn sẽ làm suy giảm tiềm lực đáp ứng yêu cầu của cả hệ thống: “do thiếu lòng tin, nhiều yêu cầu vốn chỉ có thể được thỏa mãn ở dài hạn sẽ đòi hỏi phải được đáp ứng cùng một lúc và trong thời gian ngắn, điều ấy sẽ phá vỡ các khả năng đáp ứng của toàn hệ thống. Dường như chúng ta đang ở đúng vào thời điểm nguy kịch này” (Luhmann).

Như thế, bao lâu người ta còn dành lòng tin cho các định chế, chúng mới có thể xác lập được sự đáng tin cậy trong hành động. Tự bản thân các định chế là không đủ để mang lại lòng tin cũng như để xây dựng các hình thức giao tiếp dân chủ, đoàn kết. Ở các nước đang chuyển đổi (chẳng hạn các nước Đông Âu cũ), việc thiết lập các định chế mới mẻ chỉ là bước đầu, dù là quan trọng. Điều tương tự cũng đã diễn ra: 20 năm sau ngày thiết lập các định chế dân chủ ở nước Đức hậu-phát xít, triết gia Karl Jaspers vẫn chưa thấy thể chế ấy đã được cắm sâu vào “lòng” nhân dân. Ông viết: “Trong thực tế, ta vẫn chưa có được mục tiêu chính trị được cắm sâu vào lòng dân, chưa có được cái ý thức tự đứng vững trên đôi chân của mình… Nhân dân nước ta không có tinh thần dân chủ. Ta có một hình thức chính thể đại nghị gọi là dân chủ, nhưng lại được thiết kế để làm vẩn đục hơn là khích lệ ý thức dân chủ” (Cộng hòa liên bang đi về đâu? 1966, tr. 177-178). Các kinh nghiệm lịch sử ấy cho thấy sự cần thiết phải nêu bật những điều kiện để biến sự thừa nhận những định chế một cách đơn thuần hình thức thành một sự thừa nhận đích thực và thành thực. Sự ổn định của một chế độ xã hội vẫn chưa được bảo đảm bao lâu người ta chưa thể đoán chắc rằng nó sẽ được nhân dân bảo bọc và bảo vệ khi lâm vào những thời kỳ khủng hoảng hoặc bị suy yếu về năng lực chế tài (do tham nhũng, thối nát, bất lực v.v…).

Lòng tin không thể mua mà có, không thể ra lệnh mà được, không thể học hay dạy mà cần thời gian để thử thách ở cả hai chiều: tin có nghĩa là tin nhau. Lòng tin không thể mua bán nhưng lại cần phải được “đầu tư” lâu dài, giống như không ai có thể tiếp tục rút tiền khỏi tài khoản để tiêu xài thoải mái mà không chịu khó thường xuyên đóng tiền vào. Có vẻ lạ thường, nhưng như đã nói trên, lòng tin gắn liền với một loạt những nghịch lý nan giải. Chúng ta vẫn phải hành động đôi khi mù quáng khi không có lựa chọn nào khác. Trong khi đó, lòng tin lại đòi hỏi một sự “dấn thân” nào đó, hay, nói khác đi, người có lòng tin bao giờ cũng hành động một cách tự nguyện dù không thể “biết” chắc về điều mình làm. Khi lòng tin bị tổn thương, ta nghĩ đến việc đi tìm những lựa chọn khác, và chính điều đó cho thấy trong lòng tin bao giờ cũng đã bao hàm một chút gì đó ngây thơ, thiếu suy xét như một yếu tố cấu thành. Đối với không ít người, đó là một giá quá đắt và vì thế, họ muốn giảm hơn là tăng thêm lòng tin! Nhưng mặt khác, ta cũng không nên đánh giá thấp những nguy hiểm nảy sinh khi muốn thay thế hoàn toàn lòng tin bằng sự kiểm soát (“tin tưởng là tốt, kiểm soát thì tốt hơn!”). Sự mất tự do sẽ là hệ quả sâu xa và nặng nề hơn người ta tưởng.

4. Trẻ em đặt trọn lòng tin vào người lớn cho tới khi chúng… thất vọng. Đó là cái giá khá đau đớn phải trả cho sự trưởng thành, tức cho sự thức tỉnh và mất ảo tưởng. Nhưng, nếu được hưởng một nền giáo dục tốt, vết thương ấy sẽ được chữa lành, thậm chí không để lại sẹo, mà còn thăng hoa thành tinh thần hoài nghi khoa học. Tinh thần ấy không làm thui chột lòng tin, trái lại, khi đã đủ mạnh, nó giúp giữ vững lòng tin vào những gì xứng đáng để tin.

Điều này có lẽ cũng đúng đối với cả một cộng đồng rộng lớn khi cộng đồng ấy không để mình ngã quỵ trước sự mất lòng tin nhờ biết dựa vào sức mạnh phòng vệ của một xã hội dân sự phát triển. Ta nhớ đến câu nói nổi tiếng của thi hào Goethe:“Phải tự tin mới có thể tin vào người khác!”. “Tự tin” càng cần thiết trong thời buổi khủng hoảng, trong “kỷ nguyên của sự ngờ vực” ngày nay
.

Chuyện cổ tích cuối cùng



Ottlik Géza

Ngày xửa ngày xưa có một hoàng tử bị phù phép, chàng lên đường chiến đấu, để giành giật lấy trái tim một nàng công chúa đẹp lộng lẫy chưa từng thấy. Nhưng chàng chỉ có thể lấy được công chúa, nếu trước tiên, chiến thắng một con rồng bảy đầu, sau đó phải xây nên một lâu đài cực kỳ diễm lệ, sau rốt, chàng phải đánh thức công chúa đang ngủ trong một căn phòng tường bị xây kín mít dậy, rồi phải làm cho nàng cười.

Thế là sau bao nhiêu gian khổ, bao nhiêu cuộc phiêu lưu, bao nhiêu hành động anh hùng, trả giá cho bao nhiêu cuộc ra đi và bao nhiêu công sức, hoàng tử đã giết được con rồng bảy đầu, xây được một lâu đài cực kỳ diễm lệ, và đánh thức dậy nàng công chúa đang ngủ say. Lập tức nàng mỉm cười nhìn chàng, và lập tức đám cưới được cử hành.

Sau đám cưới, hoàng tử và công chúa ngồi đối diện với nhau, tay trong tay, nhìn nhau mỉm cười.

Một ngày trôi qua, thêm một ngày nữa, rồi lại thêm một ngày nữa. Ngay ngày đầu tiên sao mà đã dài thế, vì gồm biết bao nhiêu tiếng đồng hồ, những tiếng đồng hồ lại có biết bao nhiêu là phút, những phút lại có biết bao nhiêu là giây.

- Thế bây giờ chúng mình làm gì nhỉ ? – hoàng tử hỏi.

- Bây giờ chúng mình đang hạnh phúc – công chúa trả lời.

- Đúng rồi – hoàng tử mừng rỡ.

Ba ngày sau đến lượt công chúa lên tiếng.

- Thế bây giờ chúng mình làm gì nhỉ ? – Nàng hỏi.

- Bây giờ chúng mình đang hạnh phúc – Phò mã trả lời.

- Ừ đúng rồi, suýt nữa thiếp quên mất.

Chàng và nàng nắm tay nhau, nhìn nhau mỉm cười thêm một ngày nữa, rồi cùng một lúc, cả hai cùng đứng dậy.

- Xem nào !

- Ta có một sáng kiến – Hoàng tử nói – bây giờ ta sẽ nhốt nàng vào phòng, xây kín tường lại, và cho nàng uống thuốc để ngủ lại.

- Đúng rồi !

- Sau đó ta sẽ phá cái lâu đài cực kỳ diễm lệ đi, ta sẽ khiến cho con rồng bảy đầu sống lại. Thế là ta lại có cái để xây, lại có kẻ thù để chiến thắng.

Chàng bắt tay vào làm ngay lập tức. Nhưng không hiểu tại sao, chẳng dễ dàng tẹo nào. Bao nhiêu gian khổ, bao nhiêu cuộc phiêu lưu, bao nhiêu hành động anh hùng, trả giá bao nhiêu cuộc ra đi và bao nhiêu công sức, chàng cũng không phá nổi cái lâu đài cực kỳ diễm lệ, vì nó cứ quay mặt đi với chàng, chàng cũng không lắp nổi bảy cái đầu bị chặt của con rồng vào đúng chỗ, cũng như sau khi nhốt công chúa vào phòng, xây kín tường lại, chàng cũng không làm sao khiến nàng ngủ lại được.

Thế là ngày lại ngày qua đi, làm thành tháng lại tháng qua đi, rồi thành năm kế năm trôi đi, chàng và nàng vẫn tiếp tục loay hoay.

Cả hai vẫn đang sống đến tận ngày hôm nay, nếu họ vẫn chưa chết.

Nguyễn Hồng Nhung dịch từ nguyên bản tiếng Hung

Bông hồng ứa máu






 Nguyễn Hồng Nhung






Có lẽ những người bạn thật sự, hiểu nhau bằng linh cảm.

Ba tháng trời tôi không hề viết cho ngài một chữ, tỏ ra một dấu hiệu mình tồn tại trên đời, cũng không.

Ngay sau buổi chiều duy nhất đến nhà ngài, tôi lặn một hơi, như thể cưỡi lên lưng một con cá voi khổng lồ vô hình, bơi ra biển.

Ngài gửi cho tôi một lá thư có vài chữ rụt rè, không đầu không đuôi, muốn hiểu thế nào cũng được. Sau này tôi mới biết, đấy là một trong những đặc điểm của các đạo sĩ, không bao giờ viết dài, không bộc lộ một chút xúc cảm nào, lá thư ngắn gọn đến nỗi, làm người đọc ngơ ngẩn vì cảm giác, mình bị ruồng bỏ…

Lúc đó tôi mặc kệ, vì quá nhiều việc xảy ra với mình. Nhưng một đặc điểm nữa của các đạo sĩ, là không kệ họ được, kiểu gì rốt cuộc vẫn phải quay lại đàm thoại với họ, một phần vì họ tiếp tục tồn tại trong tiềm thức của mình, dù muốn hay không, mặt khác, nếu một kẻ đã biến thành phù thủy như tôi, kiểu gì cũng phải liên hệ với các đạo sĩ.

Tôi không hề hay, mình đã tiến hóa thêm một bước trên thế gian, khi trở thành phù thủy. Một người bạn, đi theo một szektár nào đó, trước khi chúng tôi nói lời chia tay không hẹn gặp lại, đã thẳng thừng bảo tôi đúng là một phù thủy - vì không giống cô, và những người sống cạnh, và có nhiều đặc điểm giống phù thủy.


Nếu thích đơn độc, không tham dự vào đám đông và có một niềm vui duy nhất là sách vở, được gọi là phù thủy, có thể cũng có lý. Nhất là khi trong đống sách vở đó, rất nhiều sách viết về cây cối, các loài hoa, các cây thuốc, về lịch sử các tôn giáo, về nguồn gốc các loại bói toán, về những thói quen di chuyển của chim, hay về : những loài cá có đặc điểm gì dưới đại dương, hoặc tại sao có các ngày lễ cổ xưa ghi trên lịch.


Vì ưa thích đọc mọi loại sách, tôi thấy mình khá nhiều lúc lơ lửng trên chín tầng mây, suy nghĩ toàn những điều kỳ dị. May tôi chỉ nghĩ, chứ không nói ra, nên nhìn tôi bên ngoài, người ta chỉ thấy tôi là một phụ nữ ít lời, lẳng lặng, có vẻ trầm ngâm dưới cặp kính, nhưng thực ra tuyệt đối không thờ ơ, thậm chí, rất ân cần nếu có người hỏi tới.

Nhưng nếu ai hỏi, tôi đang nghĩ gì, chắc câu trả lời của tôi, sẽ làm người khác lùi ra sau chút ít vì… lo lắng.

Chẳng hạn: tôi đang nghĩ, trên quả đất này, nối các dòng sông lại với nhau, để thành một dòng duy nhất chảy ra biển, sẽ thấy những bến sông chạy dài, mỗi bến là một cảnh tượng khác hẳn nhau: chỗ này đám phụ nữ đang giặt, đập những cái chiếu và quần áo bôm bốp xuống mặt nước, nước bắn tóe lên trắng muốt, long lanh dưới ánh mặt trời. Chỗ kia người ta đang chuẩn bị thiêu một cái xác được buộc chặt vào một cái bè, mùi hương trầm thơm nghi ngút và tiếng khóc rỉ rả như dế nổi lên xung quanh. Lại chỗ này nữa, người ta quẩy những thùng tôn, thùng gỗ xuống bến, lấy nước về ăn, về nấu… nghĩa là chẳng có gì xa lạ, và khó khăn, ai cũng có thể nhìn thấy người khác đang làm gì trên dòng sông ấy.

Bức tranh sinh hoạt trên trái đất hiện ra trước mắt tôi bằng phẳng, như trên một miếng đất cực kỳ rộng, nhiều hoạt động cùng xảy ra một lúc, chỉ ở những địa điểm khác nhau. Dòng sông duy nhất với những bến sông khác nhau trên trái đất, là một ví dụ minh họa cho cách nghĩ, chẳng cái gì đứng một mình riêng rẽ, của tôi.

Tôi nhìn thấy quả đất này là một quả trứng, toàn bộ những gì đang có bên trong đều nối liền, dựa dẫm vào nhau, nếu chắp dài nó thành một đường thẳng, nhưng không thể nhét vào quả trứng ấy được, nên phải cắt vụn, đặt cạnh nhau.

Còn con người trong đó, giống như lũ kiến, hồi bé khi tôi và lũ em đặt một cục gạch nhấp nhô vào trong chậu nước, rồi bắt cơ man nào là kiến, thả lên, lũ kiến chạy lăng xăng, nhòm ngó quanh quẩn nhưng không dám thò chân xuống nước. Mấy chị em nằm, bò, ngồi, ngổn ngang quanh chậu, say mê nghĩ cách tiêu khiển với lũ tù binh bị giam cầm: thả một chiếc lá làm thuyền, đặt dăm ba chú kiến lên, thả một cánh hoa sen, trên đặt một hạt gạo, đây là nơi dành cho những nàng công chúa kiến, hoặc lấy thêm một cục gạch nhỏ khác đặt vào chậu, lấy đũa cả làm cây cầu nối hai bên tù ngục, để lũ kiến cuống quýt di chuyển từ bên này sang bên kia, khiến cả người lẫn kiến đều không biết chán.

Con người, nếu bằng con mắt nhìn xuống trần gian của thượng đế, có khác gì lũ kiến bị quy định này đâu? May mắn, họ sẽ là lũ kiến ở nơi có một cây cầu, đi lại dễ dàng, còn không, sẽ bị chôn chân suốt đời, ở một chốn trơ trụi nào đó.

Thượng đế là ai ư? Là tất cả những gì vô hình mà ta sẵn lòng tin: những câu chuyện cổ tích, những chuyện ma quỷ, những thần thoại về các vị thần, những truyền thuyết về thiên nhiên, về con người. Nếu không tin vào những điều này, làm sao có khái niệm về phù thủy, cũng như, làm sao tin nổi con người đã hành hạ giới phù thủy như thế nào, khi họ chỉ có mỗi một tội là hiểu biết hơn loài người?


Tôi trở về thành phố quê hương của mình, vào một chiều thu. Mang trong vali một mụ phù thủy bằng vải đen, đầu chít khăn nâu, cưỡi chổi. Từ bé, tôi đã không thích búp bê, chỉ thích phù thủy. Khi lớn lên, có điều kiện hơn, tôi bắt đầu tích lũy phù thủy các loại, treo đầy nhà. Và đi đâu cũng mang theo một mụ phù thủy, như bạn đường.

Căn nhà trong thành phố của tôi đặc biệt yên tĩnh. Dân cư khu này phần lớn từ quê lên, nên họ bố trí nhà cửa giống hệt dưới quê, mặc dù đây là một khu nhà tập thể bốn tầng, chỉ xây trong thành phố. Các hộ ở tầng đất chiếm lấy một mảnh không gian, rào dậu lại, biến nó thành một mảnh vườn hoặc mảnh sân, tùy hứng chủ nhà.

Căn hộ của tôi trên gác, được hưởng ân huệ phần ngọn, hai cây cau trồng giữa sân tầng đất, cứ bình minh, mặt trời lên, những tàu hoa cau trắng nõn mịn màng tỏa ngào ngạt, hương thơm chui vào tận gối. Đúng năm giờ sáng, chú gà trống gầy đét dưới sân sẽ nhảy lên một cái gì đấy -mà tôi chưa kịp khám phá- cất tiếng gáy rộn rã tưng bừng đến nỗi, trong giấc mơ bực bội, tôi chỉ ước giá cho ngay nó vào nồi.

Thành phố này là nơi tôi sống từ khi còn bé, và xa nó, đi rất xa, rất lâu, khi lớn lên. Nhưng lúc nào tôi cũng ngong ngóng quay về gặp lại. Thành phố này như một góc vạt áo của thượng đế dễ tính, cho phép tôi gói gắm, mang theo tất cả những gì tôi yêu mến, quen thuộc từ thuở thơ ấu. Để khi về, tôi chỉ việc lần lượt đi gặp lại những ngóc ngách thân yêu ấy, như thể ra đi chỉ để tích góp nhớ thương, và quay về, chỉ để rải thương nhớ. Hình như đấy là mục đích duy nhất của những chuyến ra đi?

Những con phố, tôi thuộc làu làu từng xó xỉnh, chưa bao giờ thấy xa lạ, cho dù người ta xây, sửa, thêm vào, bớt đi, những chi tiết không gian. Có lẽ cái hồn của phố đã lộ ra trước mắt tôi, ngay khi tôicòn nhỏ, lúc mải miết kiếm tìm, khám phá cả tuổi thơ lẫn môi trường sống quanh mình. Mọi ý đồ cải tạo của con người chỉ đọng lại trên bề mặt của phố, còn những gì thật sự chứa trong hồn của nó, chỉ tìm được, bằng toàn bộ sự chăm chú, và nhẫn nại, như thể phải vạch từng cái lá, mới nhìn thấy những đường gân mảnh dẻ của cành.

Chẳng ai có đủ thời gian và sự kiên nhẫn để tìm lại linh hồn của thành phố. Trừ giới phù thủy và các đạo sĩ, những người vì đọc quá nhiều sách, suy ngẫm quá lâu trong những đêm mất ngủ, đã luyện cho mình sự kiên nhẫn tuyệt đỉnh, đạt tới mức phẳng lặng trong suy tưởng, không náo nức, bồn chồn trước bất kỳ sự việc gì. Dường như không cần tìm, họ vẫn nhìn thấy linh hồn của thành phố, xưa và nay, bằng linh cảm tri thức chắt lọc từ kiến thức.

Một buổi, từ nhà ngài, một đạo sĩ làm nghề họa sĩ ra về, tôi sửng sốt nhận ra sự khác biệt của cư dân tôi gặp trong thành phố. Từ những đôi mắt của họ.

Rất nhiều đôi mắt trống rỗng, không nói lên bất cứ khát vọng cũng như cảm xúc nào thuộc về con người. Những đám người mang cặp mắt kiểu này khá đông, họ vội vã tiêu khiển kiếp sống ngắn ngủi của họ, như của một loài phù du cây cỏ, bằng cách tiêu thụ những đống hàng hóa chất trong thành phố, loại hàng hóa cũng vội vã được chế biến, không mùi vị, không trọng lượng, và cũng chẳng có tên gọi.

Mắt một đám cư dân khác, lại chất chứa quá nhiều cảm xúc khác nhau, khiến người ta muốn hay không, cũng phải buộc lòng quan sát.

Có một loại cảm xúc như kẻ bị giật mình, che dấu dưới vẻ bâng quơ, xa vắng. Những người này, mang dáng dấp của những kẻ lơ đễnh, thể xác làm việc này, ở đây, nhưng linh hồn và cảm xúc đi tận đâu đâu mất. Có thể lúc đầu, đấy chỉ là một bản năng tự vệ, chống lại sự vô nghĩa của công việc họ đang làm, sau dần dần trở thành thói quen. Tuy đôi lúc, ánh mắt họ mơ màng, khi họ bất thần quên hiện tại của mình, như trong cơn vô thức, dò dẫm quay lại tìm điểm xuất phát của cuộc đời là tuổi thơ.

Công việc của họ, giống như một hư cấu vô duyên của trí tưởng tượng lười biếng. Họ bận bịu với việc chăm sóc những thần tượng.

Thần linh thường vô hình - bệ phóng cho các dạng khẩn cầu thành tâm của con người - nhưng, quả là điều lạ: giữa thành phố dựng lên một ngôi đền thật hùng vĩ, bên trong sừng sững bức tượng to gấp trăm nghìn lần người thật, một nguyên mẫu con người, được phong thánh và trở thành thần linh ngay ở thời hiện tại, không cần sự kiểm chứng lâu đời cần thiết của lịch sử.

Những thần linh hiện tại chưa kịp tạo ra truyền thuyết, truyền thuyết cần thời gian, để xóa đi những thực dụng ru ngủ, để phớt lớp mù sương lên những bài học đạo đức trắng trợn, để dân gian tha thứ, cho phép chỉ lưu lại những gì được gọi là tinh hoa trong lòng người.

Những kẻ canh ngôi đền này, đều mang dáng vẻ băn khoăn. Như thể biết mình có một nhu cầu cụ thể nào đấy, biết chắc mười mươi, nhưng vẫn không dám tin và khẳng định, đúng là mình đang có nhu cầu ấy. Và vì thế cứ băn khoăn, khiến các nhu cầu của họ trở thành lập lờ, không hiểu cái nào là thực, cái nào là giả.

Một cái gì đó nhắc họ, nên về nhà ngủ thì tốt hơn, là ngày ngày chăm bẵm một ngôi đền giá lạnh, đọc những bài hịch rời rạc, chắp vụng về những chữ cái khiên cưỡng, mang những nội dung ngơ ngẩn không thể hiểu được, cho đám dân thành phố, cũng không hiểu vì sao vẫn thích đến nơi đây -có thể chỉ vì nhu cầu đám đông tụ họp, có thể vì trí tò mò muôn thuở của loài người- ngay cả với những điều họ đã biết từ đời tám hoánh.

Khi đã rời thành phố đi xa, tôi thỉnh thoảng đọc trên trời, đôi dòng chữ nói về những hoạt động trong ngôi đền ấy: vị thánh giá lạnh trên tượng đài, cần truyền tải những sợ hãi tương lai, của những kẻ chăm bẵm ngôi đền cho dân chúng - một đám đông khổng lồ tươi vui, cung kính, bước vào đền, vái lạy với vẻ ngoan ngoãn phục tùng, nhưng vừa ra khỏi cửa, đám đông ấy cười phá lên và mải miết chạy theo những thú vui, mà họ vừa chợt nghĩ ra, trong nhịp điệu sống ngày thường của họ.

Lại có một đám cư dân kỳ lạ khác, mang những cặp mắt rất buồn, như những chú hươu con bị bắt, bị giam trong cũi, đăm chiêu ngóng đôi mắt buồn đau đớn, nhớ về cánh rừng vĩnh viễn xa, trong một chiều hoang vu không đề phòng. Đám người buồn phiền này đi lại, làm việc, sống trong thành phố, vật vờ như những bóng ma lặng lẽ, mệt nhoài vì đau đớn kiệt sức, vì giữ im lặng không phiền lụy người khác, tuy đôi khi họ rất vui vẻ và hài hước, họ giống những tia nắng cuối cùng chập chờn, mờ ảo chiếu lên tường, lấp lánh rực rỡ tựa bụi vàng, trước khi vụt tắt ngấm. Họ khiến khách thập phương rảo bước ngang qua tò mò nhìn theo, suy ngẫm, ngắm những đôi mắt buồn thẳm và tự hỏi: tại sao đớn đau không làm người ta chết?

Đám người này trái ngược hẳn với một lớp cư dân hớn hở khác, tôi thường gặp ở những nơi sang trọng. Đám hớn hở này ăn mặc cầu kỳ, với những thời trang quái gở, khiến đẳng cấp hoặc xuất xứ của họ luôn bị nhầm lẫn. Đám người hớn hở này hệt như những đám rêu nhợt nhòa lan rộng, lúc đầu ẩm ướt, xanh rì ven hồ nuớc, quanh ngôi đình, sau đột nhiên- như có phép lạ- trân trọng rơi vào những tủ cá quảng cáo đắt tiền nhất, làm nền cho đám cá vàng vui tươi, bơi lội tung tăng dưới ánh đèn neon.

Có những chiều thu muộn, sương mù đột ngột phủ vây thành phố, từ tầng thượng một siêu thị cao cấp, nhìn ra cái hồ đẹp nhất trung tâm, ngắm nườm nượp xe, người vô tận nối nhau đi, bỗng phát hiện : những gì nhìn, nghe, chứng kiến, trong cuộc sống ta đang tham dự, giống như một vở chèo thiếu diễn viên, bởi vậy, tùy theo cảnh đóng, một diễn viên lúc vào vai người, chút nữa vào vai ma, hoặc biến thành vua chúa. Một thứ vở diễn không cần chuẩn, thôi dùng lối cách điệu bắt buộc của nghệ thuật, không thèm yêu mến trí tưởng tượng của sáng tạo bản năng, mà hoàn toàn phụ thuộc vào ông trùm gánh hát đã quá già lẩm cẩm, nhưng không chịu nằm nghỉ, mà vẫn tiếp tục đòi ăn, hút, uống, và bắt diễn những cái tích ấu trĩ ông ta thuộc lòng.

Đấy là lúc người ta chiêm nghiệm cuộc sống hiện tại bằng con mắt đạo sĩ - những người đã thôi ngạc nhiên từ lâu, đã dẹp bỏ nỗi bất bình, sự đau khổ, cũng như những nỗi quằn quại vô hướng. Các đạo sĩ đọc sách và suy ngẫm, mày mò tìm kiếm trong đêm đen, của nỗi nhàm chán u mê hàng ngày một cái gì đấy, một tia sáng mảnh, sắc như nước, có thể cắt, nghiền, xuyên qua mọi vật, vì họ nhìn đâu trong thành phố, cũng thấy những cái nút vô hình chặn đứng, hoặc làm chậm lại các dòng chảy.

Những đạo sĩ này ở rải rác trong thành phố, đôi khi tụ tập thành một nhóm nhỏ, nhưng đại đa số cô đơn trong những góc làm việc miệt mài không ai buồn để ý. Họ vẽ tranh, viết văn, làm sách, soạn nhạc, dạy học, thậm chí ban ngày họ có mặt trong mọi lĩnh vực hoạt động của cuộc sống, kể cả lao động chân tay, chỉ đêm đêm, hoặc chỉ đôi khi, họ khoác lên mình tấm áo đạo sĩ. Họ nhận biết linh hồn của thành phố, của cuộc sống và những con người đô thị, họ tỉnh táo nên bình thản, biết trước cái gì sẽ xảy ra, âm thầm, họ giúp đời bằng cách chặn bớt những tai họa hiện tại, để sự chịu đựng của dân đô thị ít đi.

Những điều giúp đời, thể hiện trong tác phẩm của họ, có thể bằng chữ, bằng ký hiệu, bằng đường nét, bằng màu sắc, chứa đựng những nội dung dai dẳng bền bỉ nào đó của những di sản xa xưa, bản thân những tác phẩm này như có phép thuật: lần đầu tiên ngó vào, đọc, xem, ta không hiểu, nhưng đột nhiên một ngày, mở ra xem lại, ta hiểu hết.

Giống như cây phải đủ độ ẩm của đất, của nước, của ánh nắng, mới nảy mầm, đâm chồi, ra hoa, kết quả. Lớp đạo sĩ này như thể sa xuống từ bầu trời, đầy các vì sao, trong một đêm, thành phố thoắt bỗng nhiên lặng lẽ. Hoặc họ tách ra từ các tia nắng sớm, chạm vào đồ vật, biến thành người, tỏa ra mọi ngõ hẻm, chẳng ai quan tâm. Từ bất kỳ góc nào của cuộc sống trong thành phố, cũng có những cặp mắt đạo sĩ rõi theo, chiêm nghiệm, ngắm nghía, suy tưởng. Họ nhận ra những cá nhân, những linh hồn vất vưởng trong cô đơn, trong lẻ loi tìm kiếm, trong miệt mài suy nghĩ, và họ tìm đến, để giúp đỡ, hoặc kết bạn.

Bởi vì nơi nào có con người xuất hiện, nơi đấy cần những điều kiện giúp họ tiến hóa, chỉ tiến hóa, nghĩa là thay đổi, con người mới không bị tiêu diệt. Các đạo sĩ -với tri thức mang theo từ di sản xa xưa- đến ở lẫn với loài người và giúp đỡ họ, vì thế.

Tôi đã quen, kết bạn và trở thành bạn bè thân thiết với nhiều đạo sĩ trong những ngày tìm kiếm.

Một hôm tôi đi lang thang, tìm lại những hoài ức tuổi trẻ bông lung trong thành phố. Mỗi kỷ niệm tuổi trẻ của tôi, đều hoặc bị gãy một góc, hoặc bị bao phủ bởi màn sương vô hình, hoặc bởi góc nhớ dành cho nó trong não nhất định không chịu hoạt động. Tìm được một địa điểm gợi quang cảnh thanh bình một thời, tôi chỉ thấy mình trơ trọi, vì các nhân vật cùng tham dự hoặc đã chết, hoặc trôi về nơi đâu, tôi không biết nữa.

Bởi thế, có phải đôi khi, ta có cảm giác, đời mình là những mẩu phim cắt vụn, khó chắp đúng vào với nhau, vì để riêng từng mẩu, đều độc lập và có thể bắt đầu ngay từ lúc ấy. Bởi vì, ngay cuộc sống hiện tại của chúng ta, mặt cắt ngang của một mẩu đời sống vũ trụ, cũng chỉ là những nốt sáng độc lập, sát cạnh nhau, lấp lánh những mảng màu riêng biệt. Đấy có phải vì cuộc sống hiện tại của ta hôm nay đây, đang chứa đựng những tiềm năng đổi thay bí ẩn, mà nỗi sốt ruột của con mắt thường hữu hạn, không nhìn thấy cả một quá trình đang tự chuyển ?

Tôi hay lang thang đi bộ trên hè phố quen xưa, vừa ngắm nghía những dãy nhà quen thuộc, vừa hòa cùng hơi thở thương mến của những hàng cây xanh, vừa nghĩ miên man như thế.

Đúng lúc ấy tôi gặp một chàng trai, bạn học thuở nhỏ. Chàng vất vưởng như bóng chiều mải chơi, không chịu chia tay trần thế, trở về nhà sau dãy núi. Sau này tôi mới biết linh cảm của mình là đúng: thân xác chàng mang một căn bệnh tượng trưng của thời đại, căn bệnh do nỗi vất vả chạy theo thời thế, và sao nhãng chính linh hồn mình, nên những gì tôi bắt gặp trong tấm thân vất vưởng ấy, chỉ còn là chút cô độc, rã rời và ưu tư, như những phiền muội cần ra đi từ lâu của bóng nắng hoàng hôn vật vã, khi đêm tới.

Thành phố của tôi, sau những trận vật vã chết đi sống lại của chiến tranh, đói khổ, tàn phá, từ từ hồi sinh. Nhưng không đợi cái cơ thể yếu mềm đầy những vết thương phục hồi theo thời gian, nỗi khát sống đã biến cơ thể ấy thành một con rồng quái đản bảy đầu, chỗ run rẩy tấm thân non trẻ để giữ cái đầu mải lắc lư theo điệu nhạc vui tươi tiệm quán, chỗ oằn oại không thể ngóc cao một cái đầu khác, hau háu ngóng về phía những hang động phảng phất vị lửa luyện vàng, chỗ khác, tấm thân chưa lên da non từ những vết thương cũ, giờ máu ứa ra từ những vết thương mới khác, mang tên những căn bệnh khác nhau. Bảy cái đầu con rồng nhân tạo này nhìn quanh quất đi muôn hướng, và phun lửa phì phì ra môi trường xung quanh, lúc cơn giận hoặc cơn đói, hoặc cơn thèm khát của nó nổi lên.

Tôi lang thang cùng chàng bạn học, khắp xó xỉnh phố phường, đi tìm kỷ niệm thuở thơ dại, như thuở ta bước vật vờ trên thảm cỏ thu bát ngát, ngắt những bông cúc vàng dịu dàng, những cúc trắng li ti như tia nước, những mảnh mai thủy tiên sà trên lối công viên một chiều tan học sớm tạt vào, khi nhặt những quả bàng uơm vừa thơm vừa ngòn ngọt, hay lúc thổi búp đa thành một khoảng trong vắt, căng phồng những niềm vui.

Tôi và chàng gật gù trong những quán cafe muộn quá nửa đêm, hay tinh mơ bình minh, thành phố chưa thức giấc, hối hả lục lọi tìm lại quá khứ, vội vàng như thể sắp hết thời gian, một kẻ như muốn từ biệt thế gian vật chất hình hài, kẻ kia, trước khi cưỡi chổi bay lên vầng mặt trời nóng bỏng, tìm kiếm nốt con đường dẫn đến các vì sao.

Suốt một cuộc hành trình dài tìm về thành phố quê hương, phủ màn sương mờ, bí ẩn man dại, chỉ trong những giây phút cuối cùng, ngồi bên người bạn học thuở ấu thơ, nghe nhạc trong một quán người đông đặc, trong một giây duy nhất, tôi bỗng rỏ giọt nước mắt xuống ngực chàng, trong nỗi xót thương người khác lớn hơn cả lòng thương xót với bản thân, như muốn làm tan giá băng cô độc, mà chàng tưởng rằng, cả cuộc đời chàng sẽ chỉ biết đến, cảm giác ngày mỗi rét buốt hơn mà thôi.

Phút ấy, từ cửa sổ bên lâu đài ven hồ trong thành phố, ngài đạo sĩ, đã nhìn thấy từ rất xa. Không đành lòng trước vẻ khổ đau của cô phủ thủy, mà ngài quen biết từ thời còn thiếu nữ, đạo sĩ căng vải lên khung trời rộng, vẩy cành cọ ướt đẫm nước mắt của sưong đêm, vẽ tặng cô một bông hồng ứa máu.

Hãy khóc nốt đi em -đêm nay- để sớm mai bay lên phía mặt trời, trên con đường vũ trụ vĩnh cửu của sự sống, hái lượm muôn vì sao bình yên, rải xuống thành phố yêu xưa…

Đợi Chờ




Tác giả: L


Khoảng trống mênh mông, khoảng trống buồn
Cuộc đời chữ nhật, tròn hay vuông
Mà khi trời lặn và đêm xuống
Chỉ thấy quanh ta bốn bức tường

Trắng ngã đôi tay, sầu đượm sầu
Chiếc thuyền cô độc ghé về đâu
Ðã hay định mệnh thường dâu bể
Mà nghĩa ân tình cũng nhạt mau

Giọt dài, giọt ngắn, giọt nào vương
Ðêm vắng mình ta, ai có thương?
Từng giọt mềm môi nghe mặn đắng
Tình xa, tình đợi, bến sông Tương

Giọt lệ lạc loài, giọt lệ rơi
Ai thương, ai tiếc cánh hoa đời
Sầu giăng khung cửa, sầu vương mắt
Vẫn đợi, vẫn chờ một bóng thôi !

Chánh ngữ và bốn giới hạnh về ngôn ngữ



 Trần Đình Hoành


Trong thời đại thông tin bùng nổ của chúng ta, với đủ mọi thứ báo chí, TV, radio, email, websites, blogs… chúng ta nói/viết rất nhiều và nghe/đọc cũng rất nhiều. Ngôn ngữ tràn ngập đường phố, tràn ngập không gian thật, và tràn ngập không gian ảo. Vì vậy, trong mọi loại tội lỗi gây ra ngày nay, có lẽ là tội lỗi từ lời nói và chữ viết là nhiều nhất.

Phật pháp có bốn giới hạnh về ngôn ngữ, tức là bốn điều cấm kị về lời nói: vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiệt, và ác khẩu.

1. Vọng ngôn là nói dối. Có nói thành không, không nói thành có.

Trong luật pháp còn có khái niệm “misleading” (dẫn đi lạc), tức là nói một nửa giấu một nửa để cho người ta hiểu lầm. Ví dụ : “Anh yêu em trọn đời” (nhưng anh không nói ra là anh dự tính chẳng bao giờ cưới em làm vợ). Trên nguyên tắc thì câu nói yêu em là đúng, ngoại trừ nó thiếu phần sau nên nó được dùng để lừa con gái người ta.

2. Ỷ ngữ là thêu dệt. Có 1 thêu dệt thêm thành 10, để nói xấu người khác (kiểu các blog nhảm nhí), hoặc lường gạt người khác (kiểu người bán hàng không thành thật).

3. Lưỡng thiệt là hai lưỡi. Tức là đâm thọc đầu này đầu kia để thiên hạ đánh nhau.

4. Ác khẩu là lời hung ác.

Ngày nay trong các diễn đàn và thư rác, nhất là các diễn đàn và thư rác có mùi chính trị, bốn loại ngôn ngữ cấm kị này tràn ngập. Chúng hủy hoại văn hóa và trí tuệ của chúng ta. Những người dùng những loại ngôn ngữ này đầu độc chính họ và những người khác. Họ làm dòng thông tin của xã hội mất chính xác vì toàn dối trá, làm người ta ngu dốt vì tiêu thụ thông tin dối trá, và làm người ta hung ác vì tiêu thụ ngôn từ và ‎ý tưởng hung ác.

Một xã hội toàn thông tin rác tạo ra người dốt và ác, thì xã hội đó chỉ có thể là trộm cướp.

Ngày nay, vì các lối nói và viết như thế tràn lan, ta chỉ nói đó là “thiếu văn hóa”.

Nhưng, sự thật là trong rất nhiều trường hợp, đó là hình tội. Ví dụ: Nói dối hay thêu dệt trên blog về một người nào đó có thể là tội vu khống hay mạ lị. Nói dối để lấy tiền của người là tội lừa lọc.

Trong các truyền thống tâm linh, bốn cách nói trên (vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu) là tội lỗi.

Trên phương diện phát triển tâm lý con người, chúng làm cho nhiều người trong xã hội thành ngu dốt, hung ác, và thiếu phẩm cách.

Trên phương diện ngoại giao và quản lý, chúng là cơn bệnh mà bệnh nhân bị mất sự tin tưởng và kính trọng của người khác, cho nên người đó ngóc đầu lên không được trên đường sự nghiệp.

Vì vậy, hàng ngày, khi bạn đọc thì lựa bài mà đọc, nghe thì lựa bài mà nghe, nói hay viết thì lựa từ mà dùng.

Đối nghịch lại với 4 loại ngôn ngữ xấu này, là “chánh ngữ”.

Chánh ngữ là một trong tám nhánh đường giác ngộ (bát chánh đạo).

Chánh ngữ là lời nói thành thật, chính xác, hòa ái.

Chánh ngữ là nói/viết với chánh niệm—tức là tập trung tư tưởng vào lời nói hay chữ viết mình đang dùng, với một trái tim thiện hảo mong mang lại yêu thương, tích cực, và phúc lợi cho những người nghe/đọc mình.
Ngôn ngữ có thể là một trong tám nhánh đường đưa đến giác ngộ–giải thoát ta khỏi biển si mê—hay là một nghiệp tội đẩy ta xuống địa ngục tối tăm của ngu dốt.

Mười điều cần biết về nhân học xã hội




Alan Barnard, Lê Hải lược dịch và chú thích[1]


1. Nghiên cứu nhân học xã hội
Nhân học xã hội là ngành học về cuộc sống xã hội của loài người. Sinh viên học môn này vì nhiều lý do khác nhau, nhưng đa số là vì muốn tìm hiểu những trải nghiệm rất khác nhau và đa dạng của con người. Kiến thức về sự giống nhau và khác biệt giữa các xã hội sẽ giúp sinh viên hiểu hơn về xã hội nói chung. Nhân học xã hội có thể bổ sung cho nhiều bộ môn khác, và cũng có thể ứng dụng trong nhiều ngành nghề. [...]

2. Dân tộc ký: viết về dân chúng
Dân tộc ký (ethnography) có nghĩa là viết về dân chúng. Đối tượng của dân tộc ký là thâm nhập vào bên trong một nền văn hóa khác, và mục tiêu là so sánh kết quả với những nghiên cứu dân tộc ký đối với các nền văn hóa khác. Xuất phát của ngành dân tộc ký bắt đầu từ thế kỷ 19, và sinh viên ngành nhân học vẫn tiếp tục học các kỹ năng dân tộc ký cổ điển, được xây dựng chủ yếu từ đầu thế kỷ 20. [...]

3. Sinh thái học: kiến thức về môi trường và kỹ thuật
Sinh thái học (ecology) là môn học về mối quan hệ giữa các sinh vật sống và môi trường. Trong ngành nhân học, bộ môn này quan tâm đến mối quan hệ giữa con người trong môi trường sống của họ, và chuyện họ sử dụng kỹ thuật như thế nào để khai thác môi trường đó. Các nhà nhân học sinh thái tập trung vào việc người làm thế nào để kiếm sống và thường chuyên tâm vào các nguyên cứu những mô hình xã hội đặc biệt trên cơ sở này, ví dụ như loại hình săn bắn hái lượm, các cộng đồng ngư dân, v.v. [...]

4. Kinh tế: diễn giải sản xuất và phân phối
Kinh tế đề cập tới các vấn đề vật chất của xã hội. Các vấn đề đó bao gồm sản xuất, phân phối nội bộ, và trao đổi với các xã hội khác. Các ca nghiên cứu được dân tộc ký khai thác để làm nổi bật góc cạnh văn hóa của các hệ thống kinh tế và soi sáng kiến thức về kinh tế vốn trừu tượng. Các nghiên cứu nhân học sẽ tạo ra nhiều lý thuyết khác nhau về các cơ sở kinh tế.

5. Chính trị và luật: phân quyền và kiểm soát xã hội
Chính trị bao gồm quyền lực và uy tín lãnh đạo, chính sách chọn lựa, và cơ cấu kiểm soát xã hội (băng nhóm, bộ lạc, thủ lãnh và quốc gia). Nhân học chính trị tập trung vào các vấn đề đó cùng với những đề tài có liên quan như sắc tộc và chủ nghĩa dân tộc. Nghiên cứu nhân học trong luật pháp cũng có liên quan tới nhân học chính trị. Nó thiên về các nghiên cứu so sánh, đặc biệt là đối với luật lệ trong các xã hội ở qui mô nhỏ[3]. [...]

6. Lòng tin, nghi lễ tôn giáo và hệ thống biểu tượng
Lòng tin, nghi lễ tôn giáo và hệ thống biểu tượng (symbolism) là những góc cạnh phức tạp của văn hóa. Nhà nhân học tìm cách diễn giải các hệ thống này mà không áp đặt trước lối đánh giá bằng lòng tin tôn giáo của bản thân. Họ lập ra các khái niệm xây dựng nên từ quá trình nghiên cứu nhiều xã hội và các phương pháp dựa trên quan sát và linh cảm. Những khác biệt then chốt, như hi sinh và báng bổ, hay phù thủy và yêu thuật giúp cho công việc đó được dễ dàng hơn. Nhờ tìm cấu trúc của các huyền thoại và hệ thống biểu tượng, một số nhà nhân học đã tìm được ý nghĩa của cái mà ban đầu tưởng như là một mớ hỗn độn vô nghĩa[4]. [...]

7. Tính dục, giới tính và gia đình
Tính dục liên quan đến sinh vật, còn giới tính thì dính nhiều tới các hành vi xã hội và văn hóa. Các nhà nhân học đã nghiên cứu giới tính trong các xã hội khác nhau, nhưng quan trọng hơn là họ đã tiến hành so sánh giữa các nền văn hóa và tìm bằng chứng ủng hộ hoặc phản lại các suy nghĩ phổ biến về tính dục và giới tính. Lập luận nữ quyền ảnh hưởng đặc biệt mạnh khiến các nhà nhân học phải cân nhắc về các vấn đề như vậy. Tương tự vậy, các nghiên cứu xuyên văn hóa về gia đình và hôn nhân cho thấy những gì chúng ta thường coi như là phổ biến lại hóa ra không phải như vậy[5]. [...]

8. Dòng họ: thuật ngữ, gốc gác và liên minh
Dòng họ là bộ môn đòi hỏi nhiều kỹ thuật nhất của nhân học, nhưng cũng không kém sức thu hút. Chìa khóa để thành công là học những khái niệm cơ bản và làm chủ kỹ năng đọc và vẽ sơ đồ họ hàng. Bộ môn dòng họ bao gồm phép phân loại người thân, cơ cấu tổ chức các nhóm họ hàng, và các quan niệm về hôn nhân. Các nhà nhân học chuyên tâm vào các nhóm họ hàng được gọi là 'các lý thuyết gia về gốc gác', và những ai quan tâm hơn đến các mối quan hệ giữa các nhóm (qua hôn nhân) được gọi là 'các lý thuyết gia về liên minh'[6]. [...]

9. Nhân học ứng dụng và phát triển
Một số nhà nhân học coi ngành nhân học ứng dụng (applied) như một nhánh của nhân học chuyên nghiên cứu các vấn đề mang giá trị thực dụng, trong khi một số khác thì lại tin rằng tất cả các nhánh của nhân học đều có nhiều khả năng áp dụng được trong cuộc sống. Bất kể quan điểm là như thế nào thì những người nghiên cứu nhân học ứng dụng sử dụng các tư tưởng của nhân học trong các lãnh vực như giáo dục đa văn hóa, chính phủ, y tế và công tác thiện nguyện. Nhân học phát triển (development) cũng là ngành có liên quan. Các nhà nhân học phát triển tập trung vào công tác tư vấn cho các chính phủ và các tổ chức từ thiện về các vấn đề xã hội và văn hóa liên quan tới phát triển kinh tế, đặc biệt là ở Thế giới thứ ba[7]. [...]

10. Lý thuyết nhân học
Lý thuyết nhân học cùng lúc hướng dẫn quá trình nghiên cứu theo phương pháp nhân học và đồng thời cũng đưa ra giải nghĩa cho các kết quả tìm được. Nó tạo ra khung lý thuyết cho hệ thống kiến thức về văn hóa và xã hội. Bởi vì các nhà nhân học có quan điểm khác nhau về kết cấu của một khung lý thuyết như vậy, cho nên họ thường tranh cãi. Lý thuyết nhân học thay đổi rất nhiều trong những năm qua, nhưng nhiều nhà nhân học dự vào các hệ tư tưởng cổ điển hoặc đặt cơ sở cho quan điểm hiện tại của mình dựa trên những cuộc tranh luận quan trọng trong quá khứ. [...]

--------------------------------------------------------
[1] Đây là quyển giáo trình cho sinh viên do giáo sư Alan Barnard biên soạn Social Anthropology - Investigating Human Social Life, Studymates xuất bản lần thứ hai 2006 (2000), 160 trang. Người dịch chỉ chuyển tải phần rút gọn ở mỗi đầu chương để cung cấp một số ý niệm cơ bản. Quí vị có thêm quan tâm về quyển sách này xin mời truy cập vào địa chỉ www.studymates.co.uk để tham khảo thêm. Giáo sư Alan Barnard dạy ở khoa Nhân học chuyên về vùng Nam Phi của Đại học Edinburgh, email: alan.barnard@studymates.co.uk
[2] Foreword do giáo sư Tim Ingold từ Đại học Aberdeen viết.
[3] Ví dụ như công trình nghiên cứu và mô tả hoạt động cấp phường ở Hà Nội của tiến sĩ chính trị học người Singapore David Koh, Viện nghiên cứu Đông Nam Á. Có thể đọc thêm ở trang mạng giới thiệu sách http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2008/08/080822_david_koh.shtml
[4] Ví dụ như công trình nghiên cứu và phân loại hồn ma ở Việt Nam của tiến sĩ nhân học Anh gốc Hàn quốc Kwon Heon-ik, Đại học Edinburgh. Có thể đọc thêm ở trang mạng giới thiệu sách http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2008/09/080908_kwon_heonik.shtml
[5] Ví dụ như công trình nghiên cứu tái dựng hình ảnh người phụ nữ Việt Nam hậu thuộc địa của tiến sĩ nhân học Anh Susan Bayly, Đại học Cambridge. Có thể đọc thêm ở trang mạng giới thiệu sách http://www.bbc.co.uk/vietnamese/magazine/story/2008/08/080826_hanoi_intellectuals.shtml
[6] Ví dụ như các nhà nghiên cứu phát hiện thấy mối quan hệ mandala - dùng hôn nhân để tạo liên minh giữa các nhóm - rất phổ biến trong ngoại giao ở Đông Nam Á trước thời bị thực dân ảnh hưởng. Nhà Trần từng giữ mối quan hệ ngoại giao với vương quốc Chămpa bằng đám cưới Công chúa Huyền Trân và vua Chế Mân (Jaya Sinhavarman III), đổi lại quyền làm chủ châu Ô và châu Lý. Có thể đọc thêm ởhttp://vi.wikipedia.org/wiki/Huyền_Trân, hoặchttp://www.bbc.co.uk/vietnamese/regionalnews/story/2005/07/050724_regionalism.shtml


[7] Ví dụ như công trình nghiên cứu của chuyên gia Ronald Bruce St John về chiến lược cải tổ của Việt Nam. Có thể đọc thêm ở trang mạng giới thiệu sách

Tư duy tích cực và chiều sâu con tim



 Trần Đình Hoành

Nếu các bạn đã nghiên cứu và thực hành tư duy tích cực lâu năm, các bạn đều nhận ra một điều là tư duy tích cực có nhiều cấp độ, mỗi cấp độ có hiệu lực trên một loại tình huống nào đó trong đời sống. Nếu ta tích cực đang chỉ ở cấp 3, mà tình huống ta đang đối diện có mức khó khăn cấp 7, thì khả năng tích cực của ta cũng không đủ để giúp ta thật sự.

Kinh nghiệm cho thấy càng muốn đi sâu vào tư duy tích cực ta càng phải bước sâu vào quả tim của mình. Cấp đầu của tất cả các khóa học về tư duy tích cực luôn luôn nằm ở mức nửa ly nước. Cấp hai là biết mình và yêu mình. Cấp ba là yêu người và yêu thế giới. Cấp tư trở lên là tìm kiếm những giá trị sâu thẳm trong con tim của mình, những gì cho mình tình yêu, an lạc và sức mạnh tinh thần nhiều nhất. Đại khái là theo cấp bậc sau: gia đình, quê hương, đồng bào và tổ quốc, thế giới con người, Đại Thể Tuyệt Đối (the One, the Ultimate, the Beginning and the End, the Heart, God). Tùy theo mình muốn đi sâu đến đâu, sức mạnh tinh thần của mình tăng theo đến đó. Con đường này dài đủ để cho tất cả mọi người đều có thể đi cùng đường, dù rằng cấp độ có thể khác nhau.

Có vài điều chúng ta cần quan tâm ở đây là:

1. Người cấp một thì chưa biết cấp ba. Cho nên khi các bạn nghe một điều mà không thấu triệt, thì khoan gạt ra đã. Có thể năm tới bạn sẽ nghiệm ra, hoặc có thể là bạn sẽ cần 20 năm sống nữa để hiểu ra. Khiêm tốn một tí thì thu thập tốt hơn. Mình đọc Bát Nhã Tâm Kinh và vô chấp lúc học triết ở Đại Học Văn Khoa năm 18 tuổi. Ba mươi năm sau, mình hiểu được Bát Nhã Tâm Kinh và vô chấp. Và những điều “ngớ ngẩn” Chúa Giê Su nói (như là “yêu kẻ thù”) cũng tốn mình khoảng 30 năm suy nghĩ và sống.

2. Nếu bạn không quan tâm đến quả tim của bạn, thì bạn sẽ luôn luôn dừng ở cấp một, cấp hai, không tiến lên được.

3. Càng vào sâu trong quả tim, càng khó diễn đạt. Nói một, nhiều khi người nghe hiểu lầm hai ba. Cho nên các quí vị đắc đạo rất ít nói. Gặp nhau thì hầu như chẳng nói gì bao giờ. (Nói nhiều như mình, ngày nào cũng viết bài, là chưa đắc đạo. Nhưng không viết thì không chia sẻ với các bạn được, nhất là các bạn trẻ hơn mình, mà mình rất quan tâm). Vì vậy, vào các vấn đề chiều sâu của con tim, các bạn đọc, nhưng nên tự quán sát con tim của mình kỹ càng để thực hành hàng ngày thì mới trực nghiệm được các vấn đề. Đừng quá bị ảnh hưởng bởi ngôn từ ta đọc, vì chấp vào ngôn từ là ta sẽ lạc.

4. Khi nói đến chiều sâu thẳm nhất của con tim, bắt buộc ta phải rớ đến các khái niệm nghe rất tôn giáo, hay các vị thầy được xem là giáo chủ các tôn giáo. Nhưng chiều sâu con tim không phải là tôn giáo. Tôn giáo là đình, chùa, thờ, miếu, chức sắc, hàng ngũ, tiền bạc, quyền lực, luật lệ hành chánh, và đôi khi là tranh chấp quyền lực và chính trị. Nói chung đó là những tổ chức con người không khác các đại công ty mấy. Các việc đó không phải là việc chúng ta quan tâm ở đây. Chúng ta chỉ quan tâm đến thành quả nghiên cứu chiều sâu con tim của các vị thầy của các tôn giáo đã gặt hái trong mấy ngàn năm để sử dụng những gì ta đồng y’‎ và thấy thích hợp với mình. Nếu nhìn quanh thế giới, thì ta thấy kho dữ liệu lớn nhất về nghiên cứu sức mạnh tinh thần là các tôn giáo. Bên ngoài đó, thì chỉ có khoa tâm l‎y’ học, nhưng khoa này cũng chỉ mới thực sự thành hình được chừng 100 năm nay, và cho đến lúc này thì vẫn mới chỉ sờ đến lớp da ngoài của tâm trí con người.

5. Dù sao đi nữa thì mình tin rằng, ở bất kỳ mức độ thấp cao nào, tất cả chúng ta đều có thể cảm nhận được một điều rất căn bản: Muốn hiền dịu vui tuơi với đời, nhưng mạnh mẽ, nghĩa là không bao giờ gãy, ta phải đứng vững trên một vài qui luật đã có từ nghìn, hay có thể là triệu, năm nay để giúp chúng ta vững mạnh.

Tạm gọi là “nhân lễ nghĩa trí tín.”

Nếu mình nhớ không lầm, Phan Bội Châu trong quyển Khổng Học Đăng có nói chữ “nhân” bao gồm tất cả các chữ khác. Và năm chữ “ngũ thường” này đi theo thứ tự quan trọng của nó: Nhân lễ nghĩa trí tín. Mất Nhân thì phải dùng Lễ. Mất Lễ thì phải dùng Nghĩa. Mất Nghĩa thì phải dùng Trí. Mất Trí thì phải dùng Tín.

Theo mình thấy trong mấy mươi năm nay, ở nước ta, và ở cả nhiều nơi trên thế giới, có một luồng văn hóa tích cực dạy người ta không thành thật, tức là sống mà bỏ chữ tín, bỏ cái thành thật đi, sống theo kiểu giành giật lươn lẹo, và cho đó là thức thời.

Chính sức mạnh dữ dội của luồng văn hóa đó đã gây ra bao nhiêu dối trá trộm cắp trong xã hội. Chúng ta phải đứng vững, vận động gạt luồng văn hóa đó ra ngoài, trước hết là trong tim mình, sau đó là thuyết phục những người chung quanh.

Chữ Tín là thành trì cuối cùng, chữ cuối cùng, trong đạo làm người; mất chữ này là ta đã mất hết cả năm chữ của đạo làm người.

Đây là vấn đề lớn cho đất nước và cho cả guồng máy giáo dục (vì thế, ta có chiến dịch nói “Không” với tiêu cực trong giáo dục). Chúng ta phải vững tâm để xua luồng văn hóa dối trá đi xa. Nếu không thì rất khó phát triển đất nước. Chỉ trong một ngôi trường nhỏ, thiếu chữ tín là bao nhiêu xào xáo đã xảy ra rồi, huống chi là cả một nước.

Đề cập đến các vấn đề lớn lao của đất nước đôi khi nghe rất nặng nề, vì ai trong chúng ta cũng cảm thấy nó quá lớn đối với mỗi cá nhân ta. Có lẽ các bạn cũng hiểu mình một tí rồi. Chính mình cũng chỉ thích chơi đùa, thi ca và âm nhạc hơn là mấy chuyện nặng nề. Nhưng nước nhà sừng sững trước mắt không thể bỏ qua.

Hơn nữa, nói thì nghe lớn, nhưng vẫn là chuyện nhỏ. Chỉ cần mỗi người chúng ta cố nắm chữ cuối cùng trong mỗi ngày của cuộc sống—chữ Tín.

Chỉ Nhớ Người Thôi Đủ Hết Đời



Tác giả : Thơ Du Tử Lê - Nhạc Trần Duy Đức
Trình bày : Lê Uyên


Viết về tình trạng đổ vỡ gia đình trong tập thể người Việt tỵ nạn ở Mỹ, ngày một gia tăng, và đó cũng là tình trạng của chính tác giả.

Lần đầu tiên, tác giả đưa ra một quan điểm hoàn toàn ngược, lại, vốn rất phổ cập trong thơ văn Việt Nam. Đó là cái tinh thần “hứa hẹn dành cho nhau đời sau!” hay sẽ có nhau ở kiếp khác- khi tác giả viết:

“Chỉ nhớ người thôi sông đủ cạn / nói gì kiếp khác, với đời sau.”

Có người cho rằng câu thơ này là đỉnh điểm của quan niệm hiện sinh – sống với hiện tại. Nhưng dù cho có đúng là như vậy, thì nội dung bài thơ, tự nó cũng vẫn thủy chung tấm lòng thương yêu, tưởng tiếc hạnh phúc đã mất. Tinh thần này, rất đông phương, không một chút tây phương nào hết!


chẳng chiến chinh mà cũng lẻ đôi

chỉ nhớ người thôi đủ hết đời
chim về góc biển. Bóng ra khơi
lòng tôi lũng thấp. tâm hiu quạnh
chẳng chiến chinh mà cũng lẻ đôi.

chỉ nhớ người thôi đủ hết đời
buổi chiều chăn, gối thiếu hơi ai!
em đi để lại hồn thơ dại
tôi, vó câu buồn sâu sớm mai.

III.

chỉ nhớ người thôi đủ hết đời
em còn gương lược dấu đường ngôi?
nằm mơ thấy tóc thơm vai hẹn
và, khoảng trời xanh đến rợn người.

chỉ nhớ người thôi đủ hết đời
bàn tay dư mấy ngón chia phôi!
(tặng nhau chính ngón không đeo nhẫn)
và những tàn phai đầy tuổi tôi.

chỉ nhớ người thôi đủ hết đời
như trời nhớ đất (rất xa xôi.)
nắng mưa nhớ mãi hàng hiên đợi
thư nhớ hồi âm. Lệ nhớ môi.

BIS.

chỉ nhớ người thôi sông đủ cạn
nói gì kiếp khác với đời sau.
đôi khi nghe ấm trên da, thịt
như thể ai đi mới trở về.


Có nghe đời nghiêng


Xem văn bản như là văn học





JONATHAN CULLER
LÊ MINH KHA DỊCH


- Giả sử bạn tình cờ bắt gặp những dòng sau đây:
Chúng tôi xoay vòng quanh và đoán mò
nhưng Bí mật ngồi ở giữa và thấu hiểu
Đấy là gì, và làm thế nào bạn biết điều đó?
Vâng, có nhiều điều cần lưu ý khi bạn tiếp xúc với nó. Nếu những câu này được in trên một mẩu giấy nhỏ trong chiếc bánh cầu phúc Trung Hoa, bạn có thể xem nó như lời đoán vận bí hiểm thường tình, nhưng khi nó được nêu ra như một dẫn chứng (như ở đây), bạn phải xoay qua trở lại các khả năng trong số những cách sử dụng ngôn ngữ gần gũi với mình. Nó có phải là một câu đố, đòi hỏi ta tìm ra điều bí mật? Phải chăng nó là mẩu quảng cáo cho món hàng được gọi là “Bí mật”? Những mẩu quảng cáo thường có vần điệu – “Winston vị thơm, đích thị thuốc lá” – và chúng dần trở nên mơ hồ trong những nỗ lực tranh giành khách hàng chán ngấy. Nhưng câu này dường như không lệ thuộc bất kỳ bối cảnh thực tế nào có thể hình dung được, gồm cả việc bán buôn một sản phẩm. Và thực tế nó có vần, sau hai từ đầu tiên, nó tuân theo nhịp đều đặn của sự xen kẽ những âm tiết nhấn mạnh và không nhấn mạnh(‘róund in a ríng and suppóse’), tạo nên khả năng đó có thể là thơ, một dẫn liệu văn học.

Tuy vậy, ở đây có một vấn đề nan giải: thực ra, câu này không có nội dung thực tế rõ ràng – điều chính yếu tạo ra khả năng nó là văn học, nhưng phải chăng, ta có thể không có được điều đó, bởi việc tách những câu này ra khỏi những bối cảnh xác định nội dung biểu hiện của chúng? Giả sử ta lẩy một câu văn ra khỏi cuốn tài liệu, công thức nấu ăn, mẩu quảng cáo, một tờ báo, và chép nó vào trang giấy riêng:

Khuấy mạnh và để trong năm phút

Đây có phải là văn học? Có phải tôi đã biến nó thành văn học bằng cách tách nó ra khỏi bối cảnh thực tế của một công thức nấu ăn. Có lẽ vậy, nhưng chắc chắn là rất đỗi mơ hồ. Dường như thiếu hụt điều gì đó; câu này văn này hầu như không có những thông tin để bạn xử lý. Để biến nó thành văn học, có lẽ, bạn cần hình dung một nhan đề mà mối quan hệ của nó với dòng này sẽ bộc lộ vấn đề và đòi hỏi trí tưởng tượng: chẳng hạn, “Bí mật” hay “Phẩm chất nhân từ”.

Những điều như thế sẽ hữu ích, nhưng một câu, chẳng hạn “Trái mận trên gối vào buổi sớm” dường như có nhiều khả năng trở thành văn học hơn, vì nó không thể là bất cứ điều gì, ngoài một hình tượng khơi gợi một sự chú ý nào đó, gọi mời những suy ngẫm. Cũng như vậy, đối với những câu mà liên hệ giữa hình thức và nội dung tiềm ẩn những điều đáng suy tư. Theo đó, câu mở đầu của tác phẩm triết học Từ quan điểm logic của W. O. Quine có thể được đón nhận như một bài thơ

Một thứ lạ lùng
về vấn đề bản thể
chính là sự giản dị của nó

Chép lại theo hình thức này lên một trang giấy, những mép lề đáng sợ của niềm im lặng vây quanh, câu này có thể thu hút sự chú ý nào đó, ta có thể gọi là chất văn chương: sự quyến rũ trong các từ ngữ, những quan hệ của chúng với thứ khác, những ẩn ý, và đặc biệt, sự thú vị trong mối liên kết giữa cái được nói với cách nói. Nghĩa là, chép lại theo cách này, câu đó dường như có thể đạt đến một ý niệm hiện đại nào đó về bài thơ và đáp ứng sự chú ý mà ngày nay, được gắn kết với văn học.

Nếu ai đó định nói câu này với bạn, bạn sẽ hỏi, “Ý bạn muốn nói gì?”, nhưng nếu bạn xem câu này như một bài thơ, câu hỏi hoàn toàn không như thế: không phải người nói hay tác giả muốn nói gì, mà là bài thơ muốn nói điều gì? Ngôn ngữ ấy vận hành ra sao? Câu thơ ấy biểu thị điều gì?

Tách riêng dòng đầu, những từ “Một thứ lạ lùng” có thể gợi lên một câu hỏi: Nó là gì và cái gì khiến nó trở nên lạ lùng. “Nó là cái gì?” là một vấn đề thuộc bản thể luận, khoa học về sự tồn tại hay nghiên cứu về cái hiện tồn. Nhưng “thứ” trong cụm từ “một thứ lạ lùng” không phải là một đối tượng vật lý mà là thứ giống một mối quan hệ, hay phương diện, vốn không hiện diện như một cục đá hay ngôi nhà. Câu này nói về sự giản dị nhưng có vẻ không thực hiện điều nó trình bày, minh họa, với sự mơ hồ của từ thứ, những phức tạp ghê gớm của bản thể luận. Nhưng có lẽ, sự giản dị vô cùng của bài thơ – thực tế nó dừng lại sau từ “sự giản dị”, như không cần nói gì thêm – đem lại niềm xác tín cho những khẳng nhận đáng ngờ về sự giản dị. Dù sao đi nữa, tách riêng theo cách đó, câu này có thể tạo ra dạng thức diễn giải gắn liền với văn học – dạng hoạt động, mà ở đây, tôi đang triển khai.

Những thể nghiệm suy tư như vậy có thể nói với ta điều gì về văn học? Trước tiên, chúng đề xuất: khi ngôn ngữ bị tách rời khỏi những bối cảnh khác và những mục đích khác, nó có thể được diễn giải là văn học (dù nó phải mang những đặc trưng giúp nó đáp ứng những diễn giải đó). Nếu văn học là ngôn ngữ được phi bối cảnh hóa, tách khỏi những chức năng và mục đích khác, bản thân nó cũng là một bối cảnh – thứ thúc đẩy hay khơi gợi những sự chú ý đặc biệt. Chẳng hạn, người đọc lưu ý vào những điều phức tạp tiềm ẩn và kiếm tìm những hàm nghĩa, mà không cho rằng: câu ấy yêu cầu họ làm việc gì. Để trình bày về “văn học”, cần phân tích một tập hợp các giả định và những hoạt động diễn giải mà người đọc có thể áp dụng đối với những văn bản như vậy.

Dịch từ Treating texts as literature; trích trong công trình
Jonathan Culler: Literary Theory: A Very Short Introduction,
Oxford University Press,1997; Reissue edition (June 15, 2000), p.22 - 25