Thứ Hai, 23 tháng 9, 2013

THƠ ĐẶNG HÀ MY



NAM DAO giới thiệu:





Có thể có nhiều hơn ba Đặng Hà My. Nhưng giới thiệu 9 bài thơ, tôi xin khoanh vùng vào ba, và mỗi một Hà My là một ngạc nhiên, ít ra là cho tôi.


Có Đặng Hà My của Hà Nội. Đài các. Kiêu sa. Kiệu rước mùa sang phủ Tây Hồ, trên con đường bóng rợp Cổ Ngư. Có cà phê Yên Phụ, giọt nhỏ tí tách, quên nhớ nôn nao. Có mùa thu, Hà My gọi tên là Hà Nội, nơi nàng sinh ra, lớn lên, và dẫu chẳng phải là chim di, nàng vỗ cánh bay đến một chân trời mây gió song song, để :


Có những đêm về nghe tiếng chuông Trấn Vũ
Vỗ gọi hồn sen 
Hương đội sóng lên ngôi.

Hà My phủ Tây Hồ mang cốt đồng, ngôn ngữ thơ có âm hưởng những bài chầu văn. Hỏi gốc gác, nàng nói bên ngoại nàng là hậu duệ Đoàn phu nhân của Chinh Phụ Ngâm chữ Nôm. Còn họ Đặng, bên nội. Tôi nhớ tới bà Chúa Chè Thị Huệ thời chúa Trịnh. Nhưng cũng có thể là Đặng Trần Côn, người viết Chinh Phụ Ngâm theo thể cổ phong ? Ô mà nếu thế, chắc các cụ Đoàn, Đặng phạt kẻ hậu bối này đã dám dịch lại cổ phong Đặng Trần Côn mà không qua song thất lục bát Đoàn Thị Điểm (và Phan Huy Ích?). Rượu phạt là thơ Hà My, không đến nỗi đắng cay gì! Uống thêm cũng chẳng sao...

Có Đặng Hà My rất hiện đại. Bạo miệng. Táo gan thách thức thứ thơ hiện đại nhấm nhẳn triết lý vụn, nhai lại thơ Mỹ, thơ Tây, thoa son làm dáng kiểu dị dạng Đài Loan, và chuyên đẻ non những hình thức hô hoán cách tân nhưng xem kỹ thì bụi bậm thời gian vẫn bám kha khá... Trong khi Hà My "gấp thời gian thành bước nhẩy bốn chiều", hoặc :

"để ngọn sóng thời gian. 
Có gạn bớt cho khóe ngày đừng quay quắt. 
Cho bầu trời thôi ánh chớp.Trắng mây…"

khó mà nói là sáo mòn, là lập lại...trong thơ Việt. Thơ Đặng nữ sĩ hiện đại ở một số cách ghép chữ bất ngờ. Chẳng hạn "Ưỡn cong niềm nhớ" . Và đan xen hình ảnh bất ngờ 
Váy mây lận cánh chim trời
Vỗ một hoàng hôn vừa kịp chín
 hoặc
Ngọn sóng thời gian
Vẫn dâng đầy trên khóe ngày quay quắt
Ngọ địu gùi mây 
Trắng vết vào xưa.

Và có Đặng Hà My ăm ắp thân xác trong nỗi xôn xao tâm linh.Thân xác là chỗ cấm kỵ của khá nhiều những nhà thơ nữ. Có đả động tới, họ rất khéo léo, úp mở, có lẽ là theo vết thơ truyền thống từ thời bà cô tổ Hồ Xuân Hương. Hãy đọc:


Bờ môi lần tìm bờ môi
vội vàng run rẩy
trần trụi bản thể một loài sói hoang ngửi thấy mùi thịt da đói khát điên cuồng.

Ôm ấp

dại khờ
bấn loạn
bừng bừng một mùa đầy ắp nhục tình

để thấy một Hà My vượt cấm kỵ, mới nghe qua có người vội vã bào thơ thế là thơ sếch, nhưng chỉ vài dòng sau, chúng ta bắt gặp một địa đàng trễ nải và những cơn mơ từng đêm khắc khoải, khoảng tâm linh xôn xao điều chỉ xác thân không thôi thì chẳng thể đạt được. Chính thế mà có gì nghe như nỗi tuyệt vọng của những vết chân kiếm tìm tuyệt đối từ thoạt kỳ thủy/ là muôn đời/ âm thanh đầu tiên của loài người: anh yêu em!Trong Mật Mã..., Trốn Tìm, Một Mình, và Paris màu rượu chát, cũng những xao xuyến thầm lặng đó lại hiện hình trong một nỗi cô đơn có tinh ý người đọc thơ mới cảm nhận được.


Chiếc váy lơi lơi
Xéo tà huyết dụ
Bờ môi thắm đỏ
Em uống hết rồi
Em ngất ngây rồi
Em lả mềm rồi
Sao chỉ còn có thế ta ơi?
Ô hay, sao lại chỉ còn có thế hỡi người? Nghe mà xót lòng!


Tôi đã nói về ba nét độc đáo trong Thơ Đặng Hà My. Không lẽ chỉ tán thơ! Thôi thì bắt một con sâu nho nhỏ cho vui: trong Paris, màu rượu chát cái váy hời hời là làm sao nhỉ. Tôi không tin lắm ở mình, liền tìm Tự Điển tiéng Việt cũa Hoàng Phê, và tra chữ thì hời nghĩa là rẻ. Giá hởi chẳng hạn. Nhưng làm thơ thì đôi khi vần và điệu trói buộc, có lẽ váy lơi lơi câu sau khiến nó phải hởi hời ở câu trước? Vui thôi, chẳng lẽ cả nồi canh mà không có được một chú sâu ư?


Thơ Đặng Hà My, hồn cốt có. Về âm sắc, ngữ điệu, trong thơ Đặng Hà My cũng đã hiện hình những nét rất riêng tư. Có lẽ, cứ tiếp tục chau chuốt cả xác lẫn hồn, Thơ Đặng Hà My hẳn sẽ có một chỗ đứng đặc biệt trong dòng thơ Việt Nam hiện đang tìm nguồn sống lại.




KIỆU RƯỚC MÙA SANG

Ưỡn cong lên niềm nhớ

Gió huyền thoại lay lay cành liễu
Lún phún chùm hoa đỏ
Thắp buổi chiều thấp thoáng nét hồng trần
Thắp buổi chiều cháy câu thơ
Hẹn ngày trở lại
Ngày ấm như còn nép dưới tán lá chưa hoang dại mùa tàn
Ngày ấm còn long lanh
Còn đài các
Còn kiêu sa
Còn nồng nàn ứa lên màu liễu đỏ
Váy mây lận cánh chim trời
Vỗ một hoàng hôn vừa kịp chín

Huyền mị đêm mắt tím

Thăm thẳm Cổ Ngư gió tràn chớp khóe môi đầy
Lồng lộng phương em
Sao trời thả hết sợi tơ xanh nhấp nháy
Vướng buộc đam mê màu cánh sen
E ấp nụ biếc
Nhấp nhô ngọn sóng Phủ Tây Hồ
Đêm vỗ vào đêm
Nhớ tràn vào nhớ

Hơi thở phồn sinh mênh mang thảo nguyên ước vọng

Nhịp vó nguyên nhung rung lên từ thẳm niệm hồng hoang
Lục lạc khua đỉnh phù hoa
Yên cương lụa thắm
Câu thơ hạ phàm
Mạc định
Kết một mùa qua

Câu thơ hạ phàm

Kiệu rước một mùa sang.





BƯỚC NHẢY THỜI GIAN....



Em gấp thời gian thành bước nhảy bốn chiều

Trái đất bẻ cong không gian từ mọi hướng
Chạm vào thân thể anh
Vòng cung định hình xoay ngược
Em hững hờ cơn gió
Thổi tung hết ngàn sao
Nhấp nháy tìm trong đêm
Màn đêm ẩn giấu nỗi khắc khoải
Màn đêm tô đen quầng sáng
Màn đêm nhung hết cả em
Dù vầng nhật hoa có lung linh đến thế
Cũng vậy thôi
Đêm giấu biệt đi rồi
Lỗ đen vũ trụ hay lỗ xanh trái đất
Có hút vào thăm thẳm biếc em
Cả những mùa giãn nở hành tinh
Co kéo một trời đam mê
Có giữ nổi ngày đắm đuối
Giữa bước nhảy thời gian.






THẢO MIÊN

Bờ môi lần tìm bờ môi

vội vàng run rẩy
trần trụi bản thể một loài sói hoang ngửi thấy mùi thịt da đói khát điên cuồng.

Ôm ấp

dại khờ
bấn loạn
bừng bừng một mùa đầy ắp nhục tình

Suối nguồn mươn theo hứng khởi chợt òa vào

mùa bão nổi
tung tràn tia sữa
tô trắng khóe môi đầy.

Bần bật thân xác bắn ra từng đợt bàng hoàng

tia mắt
rừng tực nhìn thảng thốt một bầu trời lạ quen.
trong thăm thẳm giấc tìm cõng bước mê hoang
triền sông tràn trề hoa nắng dồn dập vỗ phía chân mây.
Những đợt sóng nối liền những đợt sóng cộng hưởng

bóng hoàng hoa tuôn chảy dài theo nhịp chân gồng những cơn mơ từng đêm khắc khoải
Em ngửa mình cho dòng thời gian chao về đỉnh trời đang rẽ tỏa hàng ngàn triệu lượt áng mây hồng phấp phới lượn bay.

Em đẩy hết nhịp sống trong ký ức dòng hoài niệm vương theo dấu chân về một địa đàng trễ nải.
Tháng năm ru tròn ngà ngọc cánh tay trần. Áo hoa lung linh bảy sắc trên chín cung tình

loạn dòng máu nóng hối hả về tim


Anh gọi khẽ:

…Thảo Miên ơi!
Tiếng rền qua hàng triệu triệu năm ánh sáng
từ thoạt kỳ thủy
là muôn đời
âm thanh đầu tiên của loài người:
anh yêu em!



MẤT




Anh đã mất bạn
Anh đã mất em
Anh đã mất mình
Anh hiểu
Nhưng anh không hiểu
Tại sao anh
mất

Anh mất mình
Vì mất em
Vì mất bạn
Anh hiểu
Nhưng anh không hiểu
Sao em nỡ
mất

Ôi
Chỉ khi
Ta mất tất cả
Ta mới hiểu
Chính mình
em

khát khao triền miên vô tận cuối cùng của anh
em


Phan Huy Đường

Chủ Nhật, 22 tháng 9, 2013

Định tâm

      

Nhìn rõ thực tại

Tâm ta cũng giống như con khỉ, hết chuyền cành này đến cành khác mà không bao giờ chịu đứng yên. Dù biết rằng tâm là để nhận biết, cảm nhận, suy tưởng, thể hiện tình cảm hay quyết định nhưng nó không phải là một cỗ máy để cho ra số lượng sản phẩm càng nhiều càng tốt. Sự hạn chế tất yếu của con người là thường không biết nên để tâm lên đối tượng hay vấn đề kia ở mức độ nào là vừa đủ. Đủ không hẳn là phải giải quyết được vấn đề, mà nó hợp lý với nguồn năng lượng dự trữ đang có trong ta bởi vì ta còn phải chi tiêu cho những vấn đề quan trọng khác nữa. Không suy nghĩ là một trạng thái rất quan trọng để giúp cho tâm quân bình và sâu sắc, nhiều khi suy nghĩ chỉ đốt cháy năng lượng và làm cho ta thêm căng thẳng hay nhận thức lệch lạc chứ không giải quyết được vấn đề gì cả.

Triết gia Descartes đã có lần phát biểu “Tôi suy nghĩ, vì thế tôi đang tồn tại” (I think, therefore I am). Nhiều người cũng đồng quan điểm này, họ căn cứ vào dòng suy nghĩ để thấy được sự tồn tại của mình, nghĩa là con người phải luôn suy nghĩ vì nếu không suy nghĩ thì đó không còn là một thực tại sống động nữa. Cũng như những người già hay kiếm việc gì đó làm để thấy mình đang tồn tại, mình không phải là thứ bất tài vô dụng trong mắt con cháu. Thực ra họ chỉ cần ngồi yên đó, cứ mỉm cười vui vẻ với con cháu, hoặc luôn thể hiện năng lượng bình yên thì đủ chứng tỏ họ đang tồn tại rồi, và đó mới chính là sự tồn tại đích thực. Cũng vậy, khi nhìn một đóa hoa ta đâu cần suy tư thì ta mới cảm nhận được sự có mặt mầu nhiệm của nó. Đôi khi chính những dòng suy tưởng mông lung đã kéo ta ra khỏi thực tại, làm cho ta biến mất và thực tại cũng biến mất. Ta chỉ có xác mà không có hồn thì đâu thể nào gọi đó là sự tồn tại.

Khi nhìn đóa hoa mà không suy tưởng, không bị tương lai hay quá khứ kéo đi, chỉ thấy rõ đây là một đóa hoa đang nở trong buổi sớm thì đó là trạng thái định tâm (concentration). Định tâm tức là tâm đang đứng yên trong thực tại để nhận biết rất rõ những gì đang xảy ta trong ta và chung quanh ta. Nếu ta duy trì khả năng chuyên chú trên một đối tượng đã chọn lựa trong thực tại với một thời gian đủ lâu mà không có bất cứ ý niệm nào kéo đi thì ta sẽ có được định lực, tức là sức mạnh của tâm chuyên chú. Lỗi thường mắc của hầu hết chúng ta là có thói quen hay nhìn mọi thứ chỉ thoáng qua mà lại tưởng là mình đã thấy hay đã biết hết rồi, trong khi mỗi đối tượng đều luôn không ngừng vận động. Tâm chuyên chú mạnh mẽ sẽ có khả năng phát ra năng lượng chiếu sáng lên đối tượng, nên càng nhìn ta sẽ càng nhận rõ được bản chất thật hay cấu trúc hoạt động của nó.

Đời sống luôn có hấp dẫn lực nên rất dễ kéo tâm ta chạy lang thang suốt ngày ở bên ngoài, đến khi lên bàn ăn hay giường ngủ ta vẫn tiếp tục để nó chìm nổi trong những dự án kế hoạch. Theo thời gian ta dần đánh mất thói quen nghỉ ngơi hay để tâm chuyên chú vào một đối tượng, trái lại ta còn cho rằng càng nghĩ ra được nhiều ý tưởng mang lại lợi nhuận thì càng tốt. Làm như thể con người sinh ra chỉ để làm việc và kiếm tiền. Thế nên chậu kiểng trước nhà khô héo đã lâu ta cũng không thấy, chiếc áo đã sứt nút mà ta cũng không hay, trong nhà có bao nhiêu người đang có mặt chung ta cũng không biết, ta đã ăn cơm chưa hay có hẹn với ai hôm nay ta cũng không nhớ. Thật tệ! Ta cũng hay tự trách mỗi khi phát hiện ra mình bị đãng trí, nhưng rồi ta cũng tự bào chữa bằng lý do bận rộn rồi dễ dàng cho qua để tiếp tục thả tâm rong ruỗi đi tìm nơi trú ẩn hấp dẫn.

Nhưng nếu nhìn chăm chú vào ánh nắng thì nắng ấm hơn, ta lắng lòng nghe tiếng chim hót thì tiếng chim sẽ hay hơn, ta hết lòng bưng tách trà uống thì trà sẽ thơm nồng hơn. Sự có mặt đích thực của thân lẫn tâm sẽ giúp cho chính đối tượng kia có giá trị hơn và chính ta cũng sẽ được thừa hưởng nhiều hơn. Một sự thật rất sâu sắc đó là khi tâm an định, chấp nhận có mặt 100% trong giây phút hiện tại thì nó sẽ kết nối được với những năng lượng an lành có sẵn trong vũ trụ, sẽ giúp những năng lượng độc hại trong ta lắng dịu xuống, đồng thời sẽ mời lên những phẩm chất quý giá trong chiều sâu tâm hồn. Đó là lý do khi tâm an định ta thường dễ tháo gỡ những vấn đề tưởng chừng rất khó khăn. Cho nên định tâm chính là thách đố lớn nhất cho những ai muốn tiến xa trên con đường đạo đức, vì chỉ có định tâm mới cho ta sức mạnh để kiên trì chiến đấu với phiền não.

Nghệ thuật định tâm

Để rèn luyện cho mình thói quen định tâm, điều kiện đầu tiên là ta phải bớt bận rộn, phải cho mình một cơ hội lớn tìm về chính mình. Ta không thể ra lệnh cho tâm mình dừng lại và ép nó không được suy nghĩ trong khi ta vẫn còn muốn nắm bắt cái này cái nọ. Một không gian nhẹ nhàng và tĩnh lặng sẽ rất giúp ta dễ dàng thu tâm mình trở về kết thành một mối với thân. Thân ở đâu thì tâm ở đó. Cũng như khi dùng chiếc kính lúp đón nhận những tia nắng song song thì nó sẽ hội tụ lại thành một điểm, sau đó ta lấy miếng rơm khô để phía dưới kính lúp thì chùm ánh sáng hội tụ ấy sẽ đốt cháy miếng rơm khô ngay tức khắc. Khả năng tập trung của tâm ý cũng có khả năng đốt cháy phần nào phiền não thô lậu trong ta, làm cho ta trở nên nhẹ nhàng, trầm tĩnh và sáng suốt hơn.

Ta cần cố gắng tập luyện sống chậm hơn bình thường càng nhiều càng tốt, nhưng cũng đừng quá chậm để mất đi vẻ tự nhiên. Mỗi khi mở vòi nước, đóng cánh cửa hay đặt tách trà xuống ta đều quan sát kỹ những đối tượng đó và ghi nhận rõ ràng ta đang làm gì. Ta có thể cắt từng hành động của mình ra thành từng mẫu nhỏ để thực nghiệm việc định tâm cho dễ dàng. Thí dụ khi bưng tách trà lên ta có thể chia làm 3 giai đoạn để chú tâm: bưng lên, đưa tới và uống. Trong khi uống ta cũng chia làm 3 giai đoạn để chú tâm: vừa uống, đang uống và uống xong. Mục đích cho sự thực tập chậm rãi giúp tâm ta không dễ dàng bay nhảy nơi khác vì nó phải tinh tế mới chuyên chú được trên những đối tượng nhỏ nhặt.

Bất kỳ cứ việc gì hay nơi đâu ta cũng có thể áp dụng bài thực tập chia nhỏ từng thao tác hành động để quan sát, trừ khi đó là những việc có tính chất nguy hiểm hay quá khẩn thiết. Tập quan sát bước chân của mình trong khi đi trong phòng thì sự định tâm cũng dễ dàng xảy ra. Chỉ cần thả lỏng hai tay theo chiều cơ thể và bắt đầu chú ý vào bước chân đi trong 3 giai đoạn: dở lên, đưa tới, đặt xuống. Ta cũng có thể chia mỗi động tác như vậy thành 3 lần nhỏ hơn nữa để sự chú ý của ta càng thêm mạnh mẽ: phần đầu – phần giữa và phần cuối của sự dở lên, phần đầu – phần giữa và phần cuối của sự đưa tới, phần – phần giữa và phần cuối của sự đặt xuống. Nên nhớ ta chỉ dùng tâm để cảm nhận chứ không cần phải nhìn xuống bước chân mình. Bài tập này tuy hơi khô khan, nhưng nếu kiên trì trong nửa giờ ta sẽ gặt hái kết quả rất bất ngờ. Và đây chính là bài tập căn bản của thiền.

Hơi thở mầu nhiệm

Những bậc tu thiền thành công từ nhiều thế hệ qua luôn xem hơi thở là sự lựa chọn hàng đầu để định tâm, vì hơi thở không chỉ là một tiến trình vật lý mà nó còn là nhịp cầu nối với các tiến trình tâm lý nữa, nghĩa là thông qua hơi thở mà ta có thể biết được những trạng thái biến đổi của tâm lý. Điều thú vị là ta có thể cảm nhận hơi thở một cách trực tiếp mà không cần đến sự can thiệp của tư tưởng hay kinh nghiệm có sẵn. Nên nhớ hơi thở là một tiến trình tự nhiên, ta không dùng ý chí can thiệp thì hơi thở vẫn vào và ra theo nhịp độ riêng của nó. Do vậy khi chọn hơi thở làm đối tượng chú tâm thì ta vẫn tôn trọng tính tự nhiên của nó, chỉ cần nhận biết và hiểu biết nó chứ không ép buộc nó phải như thế này hay như thế kia. Trên thực tế ta cũng hay vấp váp trong khi thở, vẫn muốn áp đặt hơi thở theo ý mình, muốn nó dài hơn hoặc ngắn hơn, muốn nó êm dịu hay nhẹ nhàng. Đó là một thái độ sai lầm cần phải tránh. Ranh giới giữa hơi thở tự nhiên và hơi thở có nhồi nặn rất mong manh, ta phải cẩn thận. Ta chỉ đơn thuần quan sát nó, đừng đọc lầm bầm trong tâm bằng một câu kệ nào đó hay tưởng tượng thêm cái gì hết.

Nhưng muốn quan sát được ta phải nhận diện ra hơi thở của mình như thế nào trước đã. Ta có thể chú tâm vào sự phình xẹp của bụng, khi hơi thở đi vào thì bụng sẽ tự động phình lên và khi hơi thở đi ra thì bụng sẽ tự động xẹp xuống. Song cách thở này chỉ phù hợp với một số ít người thôi, bởi nó sẽ làm cho ta dễ hồi hộp vì phải rượt đuổi theo hơi thở, vả lại, cách theo dõi này sẽ không làm cho ta cảm nhận hơi thở một cách trực tiếp. Cách mà nhiều vị hành thiền thường sử dụng đó là chú tâm vào chỗ phần chóp mũi, có thể là ngay vành trong của mũi hay ngay phía môi trên, điều này còn tùy thuộc vào chiếc mũi của mỗi người. Đầu tiên, ta hãy hít vào một hơi cho thật dài và sâu rồi ghi nhận không khí bên ngoài đi vào, nó sẽ chạm vào phần nào đó của chiếc mũi rõ ràng nhất, và đó chính là điểm mà ta cần ghi nhớ để quan sát hơi thở trong những lần thực tập sau này mà không nên để tâm chạy kiếm hơi thở lung tung. Đuổi theo hơi thở sẽ rất mệt mỏi nhưng không bao giờ đuổi kịp vì hơi thở nó cứ trôi chảy mãi.

Hãy tập quan sát mối liên hệ rất tinh tế giữa hơi thở và ý muốn điều khiển hơi thở và cả thái độ muốn ngưng sự điều khiển nữa. Ban đầu sẽ hơi khó chịu, nhưng dần dần ta sẽ cảm nhận được giá trị của hơi thở tự nhiên hoàn toàn khác biệt với hơi thở bị điều khiển, và ta sẽ học hỏi được rất nhiều về thái độ hay mong muốn của mình. Với thái độ quan sát hơi thở tinh vi như vậy thì chỉ trong một thời gian ngắn ta sẽ không còn muốn điều khiển nó nữa. Thời gian đầu việc quan sát hơi thở sẽ làm cho ta rất dễ chán nản vì cảm thấy nó thật là vô vị, nhưng nếu kiên trì một thời gian ngắn và thở đúng cách ta sẽ thấy nó rất đa dạng và kỳ diệu vô cùng. Thực ta, không có hơi thở nào giống với hơi thở nào, chúng biến hóa rất tinh xảo mà với tâm hời hợt hay có thành kiến rằng nó vốn là như vậy thì ta không thể nào khám phá và thấu hiểu được. Cho nên quan sát hơi thở không chỉ là quan sát đường nét của nó, mà ta còn quan sát đến cả nội dung của nó, nó là một bản nhạc hòa tấu giữa những trạng thái hổn hển rồi lắng dịu, sâu rồi cạn, gấp gáp rồi nhẹ nhàng.

Nhiều lúc ta có cảm giác như không nhận ra được hơi thở của mình. Đừng quá lo lắng. Hãy chú tâm trở lại ngay điểm mà ta đã chọn chỗ phần đầu chóp mũi hay sự phồng xẹp của bụng bằng một hơi thở mạnh thì ta sẽ nắm bắt được ngay. Nên nhớ, ta đừng bao giờ tự trách móc tâm mình trong khi thiền tập, điều đó chẳng lợi ích gì vì nó chỉ là kết quả của quá trình sống trong lãng quên của ta. Chỉ cần nhắc nhở nó thường xuyên là được. Trong khi quan sát hơi thở thì trong tâm ta cũng sẽ hiện lên hình ảnh, âm thanh, tình cảm, nhận xét, hay những tâm lý lo lắng, tiếc nuối, buồn tủi, hoang man…Khi ấy, ta tạm thời rời hơi thở để chú tâm lên những đối tượng mới. Nếu thấy mình không có chút định lực nào thì không nên, hãy tạm thời ngó lơ những biến động bất chợt của tâm lý mà giành hết ưu tiên cho mỗi hơi thở thôi. Nhưng nếu ta đã sẵn sàng quan sát thì chỉ nên quan sát từng hiện tượng tâm lý một, chứ đừng gom hết chúng lại.

Khi những đối tượng ấy phai mờ đi thì ta lại đem tâm trở về với hơi thở, hơi thở bấy giờ là đối tượng chính, là điểm tựa an toàn nhất của ta sau mỗi chuyến đi thăm những lĩnh vực khác dù đó là những phản ứng trên thân hay là những phản ứng trên tâm. Ta đừng nóng vội trong khi thực hành, đừng quá nôn nóng giải quyết những phiền não. Nhưng với chút định lực tích góp từ hơi thở, trong mỗi chuyến đi quan sát những biến động mạnh nơi thân hay nơi tâm như vậy thì tâm ta lại mang thêm một kinh nghiệm mới về bản chất vô thường và vô ngã của mọi sự vật và hiện tượng mà không chỉ riêng gì hơi thở. Thái độ quan sát bằng tâm không mong cầu hay chống đối, thuần túy bằng cái tâm tìm hiểu và khám phá thì sẽ cho ta nhiều cái thấy rất tuyệt vời mà từ trước giờ với cái tâm đầy xáo động và đặt sệt phiền não ta không tài nào biết nổi.

Một điều cần lưu ý là những lúc ta kinh nghiệm được hơi thở của mình một cách sâu sắc, thì ta bỗng nghe trong tâm hình như có rất nhiều gào thét hay những mớ âm thanh hỗn loạn, ta thấy mình như đang chới với như chiếc xe đang đầu xuống vực thẳm mà ta không thể điều khiển được. Không có gì lạ cả, thực ra lúc nào trong tâm ta cũng hỗn loạn như vậy, cũng đầy dẫy những cuộc xung đột hay những khoảng trống chơi vơi như vậy, chỉ vì trước giờ ta chưa bao giờ nhìn kỹ vào thôi. Tâm thức ta rối rắm và đầy phiền toái như vậy đó mà ta còn chưa chịu thu dọn hay giải quyết chúng, vẫn cứ lo đi tìm những thứ hấp dẫn bên ngoài thì đừng có trách tại sao ta vẫn thường hay bất lực với chính mình.

Chung quanh ta còn biết bao người vẫn đang sống bằng sự may rủi của hoàn cảnh, vẫn không biết cái gì đang tàn phá bên trong họ, nhìn họ có vẻ như không có vấn đề gì nhưng thực chất là họ đang bị trói buộc và điều khiển. Còn ta, tuy phải đối diện với những phiền toái bên trong nhưng ta đang trên con đường tháo gỡ nó. Nếu ta vẫn còn nhiều lý do để không chịu giành thời gian và năng lực tinh tiến luyện tập quan sát hơi thở và những biến động tâm lý của mình; hoặc ta không biết cách quan sát hơi thở, chỉ sử dụng nó một cách thô kệch hay áp đặt nó như những phương pháp luyện tập yoga thì ta sẽ tạo nên sự chay cứng trong công phu thiền tập của mình, ta sẽ có thành kiến với vấn đề quan sát hơi thở và chẳng bao giờ thu hoạch thêm sự khám phá mới lạ nào. Cho nên chấp nhận quay về chính mình đã hay lắm rồi, nhưng chính thái độ thực tập đúng đắn mới quyết định sự thành công. Và chỉ khi nào tâm ta yên định thật sự thì hạt giống trí tuệ mới bắt đầu hé nở.

Khi tâm tư lạc lõng
Hãy quay lại chính mình
Nương tựa vào hơi thở
Chốn nghỉ ngơi an bình.

Minh Niệm

Nhìn lại

     

Có một ông lão mù ngồi xin ăn lặng lẽ bên vệ đường. Phố xá đông đúc người qua lại nhưng ai nấy cũng vội vàng nên chẳng mấy ai để ý đến ông lão, mặc dù bên cạnh ông lão có để một tấm biển lớn “Xin mở lòng từ bi, tôi đã bị mù” (Have compassion, I am blind). Mãi đến xế trưa, bỗng có một anh chàng thương gia trẻ ăn mặc sang trọng tiến gần lại, ông lão nghe bước chân sát cạnh mình liền đưa bàn tay sờ lên đôi giày của anh ta và lòng mừng rỡ vì nghĩ hôm nay chắc mình sẽ không bị đói. Nhưng anh chàng thương gia không móc tiền cho ông lão mà anh ta lại lấy viết ra ghi cái gì đó phía sau tấm biển giấy.

Ông lão thất vọng vì anh chàng cũng vô tình quay gót như bao người khác, nhưng không bao lâu thì bỗng dưng chiếc lon của ông lão lại vang lên những tiếng rang rảng của những đồng xu và cả những tờ giấy bạc của những người qua đường. Ông lão sờ lên chiếc lon đầy ắp tiền lòng vừa mừng khôn xiết và cũng không kèm chế nổi sự ngạc nhiên. Vài giờ sau anh chàng thương gia trẻ kia quay lại kiểm tra, ông lão sờ lên đôi giày sang trọng thì biết là người dừng lại ban nảy nên ông gạn hỏi ngay anh đã viết gì trên tấm biển kia. Anh chàng vỗ vai ông lão nói rằng anh ta cũng viết với nội dung như vậy nhưng từ ngữ có khác đi đôi chút, rồi anh ta vui vẻ bước đi. Câu ấy là “Hôm nay là một ngày nắng đẹp, nhưng tôi không nhìn thấy được” (Today is a beautiful day, but I can not see it).

Câu viết đơn giản ấy như một tiếng chuông vang lên nhắc nhở mọi người hãy dừng lại để ý thức có một thực tại rất mầu nhiệm đang xảy ra, đó là một ngày nắng đẹp. Nếu ai đã sống trong những ngày tháng mùa đông âm u lạnh giá thì chắc chắn sẽ rất yêu quý một ngày nắng đẹp như thế. Nhưng ta vì có nhiều thứ phải lo toan và nắm bắt quá nên ta đã bỏ lỡ rất nhiều cơ hội với sự sống. Thì đây, một tấm biển của một ông lão mù đã làm cho ta không chỉ ý thức về một ngày nắng đẹp đang lên, mà còn nhắc nhở rằng ta đang có một đôi mắt sáng. Đó là một thứ tài sản vô giá mà biết bao người không có được. Một đôi mắt có thể nhìn thấy trời xanh mây trắng, có thể thấy muôn màu muôn vẻ trên thế gian này. Còn gì khổ cho bằng ta không thể nhìn thấy được chính mình và cả người thương của mình. Nhưng nhiều khi vì tham vọng mà ta cứ lầm lũi lao tới phía trước, không nhận biết được những gì đang xảy ra trong ta và chung quanh ta thì ta đâu khác gì một kẻ mù.

Dường như đã từ lâu rồi ta đánh mất thói quen nhìn lại mình. Ta cứ lo đuổi bắt những đối tượng bên ngoài hay trong xa vời vì ta tin tưởng rằng hạnh phúc của mình nằm ở nơi đó. Nhiều lần thất vọng khi phát hiện ra chúng chỉ là những cảm xúc sung sướng trong nhất thời chứ không phải là hạnh phúc chân thật, nhưng ta vẫn cố chấp lao tới tìm kiếm cho bằng được, vì chung quanh ta ai cũng làm như vậy, ta không thể thua sút. Nhưng có một đôi mắt sáng chẳng phải là một điều kiện hạnh phúc hay sao? Ta sẽ làm gì với tất cả những tài sản và danh vọng mà ta giành lấy được khi ta không còn nhìn thấy chúng được nữa. Mà ta đâu chỉ có mỗi đôi mắt là quý giá, hãy nhìn kỹ lại hình hài của mình từ trên đầu xuống dưới bàn chân, ta sẽ thấy tất cả những gì mình đang có đều là điều kiện căn bản của hạnh phúc cả, không có nó ta sẽ không cảm nhận được thứ hạnh phúc nào nữa.

Nếu đã xác nhận nó là hạnh phúc thì tại sao ta không trân quý giữ gìn, lại bỏ bê và thậm chí còn đày ải nó đến kiệt sức để đạt được những thứ hạnh phúc khác. Đó có phải là hành động khôn ngoan không? “Hôm nay là một ngày nắng đẹp” là một câu xác định, phải đứng ngay trên đất của thực tại, không còn chạy lăng xăng, phải dừng lại thực sự để tiếp xúc thì ta mới phát biểu được như thế. Cho nên muốn nhìn lại thì điều kiện tiên quyết là phải dừng lại, không dừng lại thì sẽ không nhìn thấy gì cả, hoặc sẽ thấy rất mù mờ và có thể sẽ sai lệch. Dừng lại để tiếp nhận giá trị sâu sắc bên trong, thay vì lao tới để nắm bắt những cái cạn cợt bên ngoài, đó đâu phải là thái độ sống của một người thiếu thực tế. Nếu đã thấy rõ ta không được gì từ bên ngoài hãy tìm về nơi chính ta đi, ta vốn có sẵn một kho tàng hạnh phúc to tát kìa. Mà nhiều khi ta không nắm được cái bên ngoài chính vì ta không có khả năng nắm cái bên trong, nói cách khác, nắm được bên trong thì mới có hy vọng nắm được bên ngoài. Song, người sống được với chính mình thì lại hay khước từ nắm cái bên ngoài, xem nó không quan trọng, đôi khi cho đó là xa xỉ hay vô ích nữa.

Vậy để nhìn lại những gì mình đang có thì ta buộc phải dừng lại, không thể dừng lại tất cả thì dừng lại bớt, phải có thái độ buông bỏ bớt những điều kiện hấp dẫn lôi kéo bên ngoài, phải thu gọn lại những đòi hỏi từ nơi đối tượng khác, dồn năng lượng về phía mình để trở về tiếp quản lại gia tài thân tâm mình. Có thể nó đang xuống cấp trầm trọng, nhưng ta đừng nao núng, cũng đừng phiền trách hay áp đặt nó. Lỗi thường xảy ra là ta bỏ bê chúng cho đã, rồi khi quay về ta lại tỏ thái độ không chấp nhận, lại muốn nó phải như thế này thế kia. Chấp nhận là điều kiện cần phải có trong tiến trình chăm sóc thân tâm. Đó là lỗi của ta, là kết quả của quá trình sống thiếu tỉnh thức của ta, ta không chấp nhận là ta quá tham lam. Cái gì tốt đẹp ta cũng đều muốn cả mà không chịu chăm sóc giữ gìn.

Trở về thân tâm phải có thái độ nhẹ nhàng hòa nhã thì ta mới có thể hiểu được tình trạng thật của nó. Ta hãy để ý lại bước chân của mình khi bước lên cầu thang, khi đi vào công ty hay dạo trên phố, thay vì cứ ngó dáo dác chung quanh hoặc suy nghĩ lung tung đến chuyện khác. Đi cũng là một sự sống, cũng là một điều kiện của hạnh phúc, cũng là một phần của cái tôi. Một ngày kia khi mình không thể sử dụng đôi chân được nữa thì có thể tương lai sự nghiệp của mình cũng sẽ sụp đổ theo, vậy nên, mình hãy đi cho đàng hoàng tử tế. Mình phải đối xử tử tế với chính mình trước thì mới hy vọng đối xử tử tế với người khác một cách thật lòng. Ta hãy cảm nhận bước chân của mình đi, hãy bước đi với tư cách của một kẻ tự do hạnh phúc nhất trên đời, và hãy nở nụ cười hạnh phúc vì mình còn làm được điều đó. Đi trong tỉnh thức như thế bước chân ta sẽ trở nên mềm mại và đĩnh đạc hơn, năng lượng bình yên trong ta sẽ thoát ra và sẽ ôm lấy mặt đất vốn đã bị rạn nứt quá nhiều vì những bước chân căng thẳng, mưu toan và đầy thù hận của con người.

Ta hãy tập thêm cho mình thói quen nhìn như đang nhìn, đóng cánh cửa như đang đóng cánh cửa, đưa tay bưng chén trà như đưa tay bưng chén trà, nở nụ cười như đang nở nụ cười, mở lời nói như đang mở lời nói… chứ không mang theo bất cứ một ý niệm nào, dù là thái độ yêu thích hay ghét bỏ. Loại bỏ bớt những thái độ không cần thiết trong mỗi động thái cử chỉ ở mọi lúc mọi nơi thì đó là một thái độ quay về đúng đắn. Thái độ ấy sẽ giúp ta có một kỹ năng nhạy bén và vững vàng để đi vào lĩnh vực tâm hồn, một khu vườn kỳ bí mà không phải ai cũng đủ khả năng khám phá được sự thật của nó. Ta phải nhìn lại một cách thành công từ những cái thô thiển nhất thì ta mới hy vọng tiếp xúc được những cái tinh tế nhất. Nếu ta không ý thức được bước chân, giọng nói hay hơi thở một cách thuần thục thì ta đừng trông mong nhìn thấu nổi những tâm lý phức tạp như buồn tủi, cô đơn, tuyệt vọng của mình. Điều này phải cần đến một quá trình trải nghiệm, sự thông minh đành phải nhường chỗ cho lòng kiên nhẫn và cả sự từ tốn với chính mình.

Cảm xúc (emotions) là một phần của tâm, nó là những chuỗi phản ứng yêu thích cái này ghét bỏ cái kia cứ tuôn chảy bất tận trong tâm như một dòng thác đổ. Ta có bao giờ để ý đến phản ứng khó chịu khi đi ngoài trời tuyết lạnh hay thích thú khi bưng uống chén trà nóng không? Hay ta cứ mãi bận lòng chống đối cái lạnh hay mân mê cái ấm mà bỏ qua một sự thật quan trọng là dòng cảm xúc đang chi phối mình. Chính nó quyết định cho thái độ sống của mình chứ không phải đối tượng bên ngoài. Nếu mình kịp thời nhận ra cảm xúc ấy là phi lý, thời tiết mùa đông thì phải lạnh, mình phải chấp nhận sự thật đó như một lẽ đương nhiên rồi tìm cách để bảo vệ cơ thể chứ mình không khó chịu hay ghét bỏ nó. Buông bỏ được thái độ chống đối đó thì ta sẽ đi dưới tuyết một cách rất an nhiên, có khi ta sẽ cảm thấy tuyết rất đẹp và là một phần tất yếu của sự sống nữa.

Uống chén trà ấm cũng vậy, nếu mình thấy được sự yêu thích đang diễn ra trong tâm và sắp mở lời tấm tắc ngợi khen thì hãy dừng lại và buông bỏ thái độ ấy. Đừng dễ dãi để cho hạt giống yêu thích bị kích hoạt như thế, nếu không, sau này với những đối tượng lớn hơn và có tính chất trả giá đắt hơn thì ta sẽ không cưỡng lại nổi. Uống trà với một tâm hồn tinh khiết, cảm nhận hương vị của nó một cách trọn vẹn mà không nhận xét hay phê phán thì ta sẽ đạt tới đỉnh cao của sự thưởng thức. Đành rằng yêu ghét là bản năng tự vệ tự nhiên của con người, không ai có quyền ngăn cấm ta yêu ghét cả, nhưng ta nên xét lại tất cả những phản ứng tự vệ ấy đều hợp lý và cần thiết hết chăng, hay chúng chỉ là sự nông nổi nhất thời của cái tôi ích kỷ và thiếu hiểu biết. Người sống từng trải thường nhận ra được chân lý sống là càng bớt yêu thích và ghét bỏ thì sẽ càng nắm được hạnh phúc, vì hạnh phúc có từ nơi tâm hồn bình yên, dừng lại mọi lao xao tranh đấu bên ngoài.

Phần lớn cảm xúc bắt nguồn từ tâm tưởng (perceptions) quá phong phú của ta. Tâm ta như một anh chàng họa sĩ tài ba, có khả năng vẽ vời đủ mọi cảnh tượng từ hấp dẫn đến rùng rợn và có khi phóng đại quá xa với thực tế. Người ta mới nhìn mình chăm chú là mình tưởng họ yêu thích mình, người ta mới nhắc nhở một câu là mình nghĩ họ căm ghét mình. Mình mới có tài sơ sơ mà tưởng là quá giỏi nên cứ muốn đội đá vá trời. Hoặc mình thật sự có tiềm năng nhưng vì thất bại đôi lần là mình không còn tin tưởng bản thân nữa, mình tưởng mình vô dụng và chắc ai cũng nghĩ mình như vậy. Đó là chứng bệnh hoang tưởng, một trong những hội chứng đáng báo động nhất của thời đại. Con người bây giờ đang dần đánh mất khả năng hiểu biết và tin tưởng chính mình nên họ sống mòn trong mộng tưởng. Đúng là không có trí tưởng tượng thì không có nền văn minh của nhân loại, nhưng một khi nó vượt qua mức kiểm soát của đạo đức thì sẽ trở thành đại họa. Biết bao cuộc tình gãy đổ, huynh đệ tương tàn, chiến tranh khốc liệt cũng vì mộng tưởng điên đảo của con người. Khi mộng tưởng vỡ tan thì sự ăn năn đã không còn kịp cứu rỗi.

Người sống tỉnh thức là phải luôn phát hiện kịp thời những hình ảnh đang được xây dựng trong tâm mình, đó là một quá trình được góp nhặt từ những dữ kiện mà chính ta trải nghiệm hoặc tích lũy từ kinh nghiệm của kẻ khác. Công trình xây dựng ấy có thể nhồi nặn ra một dự án hay một tương lai rất tốt đẹp và khả thi nếu nó được sự hỗ trợ chặt chẽ của tâm an định và tâm hiểu biết. Và nó sẽ trở thành thứ vọng tưởng làm não loạn tâm thần hay tiêu phá đến khánh tận năng lượng và trí tuệ sáng tạo của ta nếu nó được hình thành từ những tham vọng cuồng nhiệt mà bất chấp mọi hậu quả. Cả hai tiến trình ấy ta đều quan sát, tìm ra nguyên nhân gốc rễ và những điều kiện hợp tác để hình thành. Cần thiết thì ta hãy tháo gỡ guồng máy đó để trả tâm hồn ta trở về vị trí bình yên và nhẹ nhõm. Nên nhớ trong quá trình nhìn lại tâm tưởng, ta vẫn không mang theo thái độ chê trách, phẫn nộ hay áp đặt. Hãy để yên đó và im lặng quan sát, từ khi nó hình thành đến tan rã.

Ngoài ra ta còn phải có trách nhiệm nhìn lại những tâm hành (mental formations) của mình. Từ những tâm hành tốt như là nhường nhịn, chấp nhận, tha thứ, thương yêu đến những tâm hành xấu như là ích kỷ, giận hờn, kỳ thị, thù hận, ta đều luôn nhận diện ra mặt mũi của chúng khi chúng phát hiện lên trên bề mặt ý thức. Với sự quan sát tinh tế, ta còn có thể phát hiện ra nguyên nhân nào khiến những hạt giống ấy từ trong chiều sâu tâm thức trồi đầu ra, có thể do ta bất cẩn để cho hoàn cảnh tưới tẩm hay do những phiền não khác trong tâm kích hoạt vào chúng, biến chúng thành những tâm hành, rồi tạo nên những hành động mà ta phải chịu trách nhiệm. Dù lý do nào, ta cũng nhận diện và quan sát với tâm bình thản. Nếu không phải đối phó trình diễn với ai, ta nên để cho chúng phát hiện hết mức để ta nhìn thấy rõ chân tướng thì ta mới có cơ hội đào xới chúng tận gốc. Dùng ý chí để can thiệp chỉ nên là trường hợp bất đắc dĩ thôi, dùng nhiều quá thì ta chỉ trấn áp được trong nhất thời nhưng tương lai nó sẽ trở lại mà ta bất giác vì cứ ngỡ mình đã chiến thắng.

Nếu lúc nào ta cũng nhìn lại cảm xúc, tâm tưởng và tâm hành của mình thì ta sẽ không còn lo sợ của những loại vi khuẩn độc hại tàn phá tâm ta mà ta không hay biết. Ta sẽ không còn thốt lên những câu nói “Tôi cũng hiểu tại sao tôi lại làm như vậy”, hay “Tôi muốn mở lòng ra chấp nhận nhưng tôi làm không được”. Chìa khóa làm chủ bản thân bắt đầu từ chỗ đó. Khi làm chủ được bản thân mình thì ta sẽ dễ dàng làm chủ cuộc đời mình. Một điều kỳ diệu là khi ta trở về làm mới thân tâm mình, lấy bớt những chất độc vốn đã tích tụ từ lối sống thiếu tỉnh thức vừa qua thì ta sẽ nhìn lên mọi đối tượng bằng một con mắt khác. Ta sẽ nhìn thấy cánh rừng mùa thu tuyệt đẹp chứ không phải là sự tàn tạ, ta sẽ thấy nụ cười bé thơ dễ thương như thiên thần chứ không phải phiền toái, ta sẽ thấy người thương của ta là mầu nhiệm chứ không phải là oan trái. Đó mới là cái nhìn đúng đắn.

Sự thật là tâm ta như thế nào thì ta sẽ dệt lên đối tượng như thế ấy. Trong quá khứ, vì không biết rõ sự thật này nên ta cứ đổ thừa hoàn cảnh và gắng sức thay đổi chúng, và ta đã thay đổi không biết bao lần rồi mà rốt cuộc khổ đau vẫn chưa hề thuyên giảm. Vậy khi ta đã tạo được thói quen quan sát thân tâm mình một cách thường trực và nhạy bén thì bấy giờ ta nên nhìn lại những đối tượng mà trước đây ta đã từng ghét bỏ hay muốn loại trừ. Dưới ánh sáng mới của tâm thức, những thành kiến trong ta đã rơi rụng, ta sẽ nhìn họ với lăng kính nhận diện đơn thuần (mere recognition), nhìn như họ đang là chứ không phải như chính tâm trạng hay cảm xúc ta đang là, thì chắc chắn ta sẽ thấy rõ được nguyên nhân sâu xa nào khiến họ trở nên như vậy. Chừng hiểu ra được gốc rễ nguồn cơn, ta sẽ cảm thông và chấp nhận dễ dàng, đôi khi ta còn rất biết ơn họ đã giúp ta có những bài thực tập gian nan mà cũng thật giá trị. Thế mới nói, một nhận thức đúng đắn có thể tái thiết lập nền hòa bình ngay lập tức. Tất cả đều do tâm mà ra.

Cho nên làm gì thì làm, ta cũng đừng bao giờ quên nhìn lại mình như một bổn phận không thể thiếu giữa một cá thể đối với một cá thể, hay một cá thể đối với đoàn thể hoặc đại thể. Như lời nhắc nhở của thiền sư Tuệ Trung Thượng Sĩ vào thời nhà Trần nước ta: “Phản quang tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc”. Nhìn lại mình là bổn phận của mỗi người, vì nó có thể làm cho mình có bình an và hạnh phúc chân thật, mọi sự tranh đấu chỉ đem lại sự thỏa mãn nhất thời, đuổi theo nó để nắm bắt thì chẳng được gì đâu!

Tâm ý đã mệt nhoài
Thương ghét mãi chưa nguôi
Dừng nói năng phân biệt
Tôi tìm về chính tôi.

Minh Niệm

Thứ Bảy, 21 tháng 9, 2013

Vấn đề thế kỷ Châu á

GS.TS. Hồ Sĩ Quý





BBT. Thế kỷ châu Á không phải là một khái niệm phi thực tế. Trong thế kỷ XXI chắc chắn Trung Quốc, Đông Á và Đông Nam Á sẽ tiếp tục phát triển và nhiều khả năng là thịnh vượng hơn. Vấn đề biển Đông đúng là một thế kẹt của tham vọng cường quốc; bởi Thế kỷ châu Á chỉ có thể trở thành hiện thực nếu ở biển Đông không có chiến tranh. Nhưng cho đến nay, tất cả các dự báo đều khá tin tưởng vào khả năng kiểm soát tình hình của của các đầu óc chiến lược. Nếu dự báo này không sai thì thế kỷ châu Á sẽ là kết quả của sự dịch chuyển đầu tiên của nền văn minh nhân loại từ phương Tây sang phương Đông.

Thế kỷ Thái Bình Dương cũng là khái niệm có thực, phản ánh sự năng động và phức tạp của trật tự địa chính trị vùng này. Do những ảnh hưởng thực tế của việc thực hiện chiến lược này, nên quan niệm về Thế kỷ Thái Bình Dương lại trở thành một phần của quan niệm về Thế kỷ châu Á. Biển, mà ở đây là biển Đông ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đời sống chính trị thế giới. Trong tương lai gần, Biển Đông sẽ trở thành “nơi tập trận” của những quan điểm, những chiến lược, những phương pháp (bao gồm cả những thủ đoạn), và những thái độ (bao gồm cả sự nhân nhượng)… về tất cả các mặt kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao giữa các quốc gia có liên quan, mà trước hết là giữa các nước có liên quan trực tiếp.

Trong lộ trình hiện thực hóa quan điểm Thế kỷ Thái Bình Dương, chắc chắn Mỹ sẽ hiện diện mạnh mẽ hơn ở Biển Đông. Bởi vậy thực lực của Mỹ vốn vẫn mạnh lại buộc phải phát triển theo hướng mạnh hơn trong thế cạnh tranh chiến lược. Nghĩa là Mỹ chưa thể “phai tàn” như một số chiến lược gia trông đợi. Mỹ chưa thể “phai tàn”, nghĩa là phương Tây vẫn chưa cáo chung. Và quả thật phương Tây vẫn còn rất nhiều giá trị mà các nước đi sau vẫn cần thiết phải học hỏi để phát triển.

Về lý thuyết, Trung Quốc có thể phát triển theo một kịch bản khác nếu từ bỏ tham vọng độc chiếm Biển Đông. Và nếu như vậy rất có thể giấc mộng Trung Hoa sẽ không phải là cơn ác mộng do tính hài hòa ở mức nào đó của nó với lợi ích của các cường quốc khác và của các bên có liên quan. Nhưng Trung Quốc đã chọn và không có đường từ bỏ tham vọng này nên thế kẹt của tham vọng cường quốc cũng là một khái niệm có thực. Trung Quốc đang tự hạn chế khả năng trở thành cường quốc của mình. Khả năng này (trở thành cường quốc) hóa ra vẫn là một khả năng xa, nhường chỗ cho sự tác động, chi phối, gây sức ép, lừa vào bẫy… của Mỹ.

Nếu tiến bộ xã hội đúng là quy luật thì sự phát triển của loài người dù quanh co đến đâu, dù bất ngờ và khó đoán đến mấy, thế kỷ XXI vẫn là thế kỷ không thiếu hứa hẹn đối với châu Á và nhân loại.




I. Đặt vấn đề


Sau một thời gian không dài tăng trưởng kinh tế với tốc độ trung bình gần 10%/năm, Nhật Bản, từ chỗ thua kém tất cả các nước phương Tây, năm 1964 đã gia nhập khối OECD, năm 1968 vươn lên chiếm vị trí thứ hai về tổng GDP trong thế giới tư bản, và năm 1982 đạt ngưỡng GDP 10.000 USD đầu người/năm, trở thành cường quốc kinh tế đầu tiên ở châu Á. Không chỉ có Nhật Bản, ở châu Á, Đài Loan cán đích GDP 10.000 USD đầu người/năm năm 1987, Hồng Kông năm 1988, Singapore năm 1989, Hàn Quốc năm 1990. Năm 1996 Hàn Quốc gia nhập OECD. Hiện châu Á có 5 nước tham gia khối G 20 gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ và Indonesia[1].

Cả thế giới giật mình trước điều kỳ diệu châu Á - từ chỗ nghèo đói, quá trình “hóa rồng” của mấy nước NICs diễn ra chỉ chưa đầy 30 năm, trong khi hầu hết các nước tư bản châu Âu đi chặng đường này phải mất hàng trăm năm.

Nhưng không dừng ở các nước NICs, điều kỳ diệu châu Á dường như vẫn đang tiếp tục.

Nếu Trung Quốc vào năm 2000 có nền kinh tế đứng thứ 6 thế giới, thì đến năm 2010 đã có tổng GDP đạt tới 1.335 tỷ USD (tương đương 5.800 tỷ USD tính theo PPP[2]) vượt qua Nhật, Đức, Pháp và Anh, vươn lên hàng thứ hai thế giới, sau Mỹ. Các dự báo đều nói thời điểm Trung Quốc vượt Mỹ về tổng GDP sẽ diễn ra rất gần, có thể chỉ ngay vào những năm đầu thập niên sau. Chưa hết, ở châu Á, bên cạnh Trung Quốc còn có những nước khác cũng đã từng phát triển rất ngoạn mục và có lúc đã được dự báo sẽ sớm “cất cánh”. Philippines, Thái Lan, Malaysia... là những nước như vậy. Rồi ngay cả Việt Nam những năm 2000 cũng đã được kỳ vọng là “con hổ tương lai”.

Mặc cho từ năm 2008 nền kinh tế thế giới gặp khủng hoảng và sa sút, năm 2011, Ngân hàng ADB vẫn xuất bản cuốn sách “Châu Á 2050: hiện thực hóa thế kỷ châu Á” dự báo khá chi tiết lộ trình của “Thế kỷ châu Á”.

Đó là nội dung cơ bản của khái niệm “Thế kỷ châu Á”, nhìn từ phương diện kinh tế.



Nhưng vấn đề sẽ khác đi nếu “Thế kỷ châu Á” được nhìn từ phương diện xã hội hoặc văn hóa. Mức độ lạc quan sẽ giảm đáng kể nếu người ta chú ý đến những vấn nạn xã hội ở Trung Quốc, Philippines, Việt Nam và ở một số nước khác, như khoảng cách giàu nghèo và trình độ an sinh xã hội, tệ tham nhũng và khả năng khống chế lợi ích nhóm, công bằng xã hội và mức độ bình đẳng giới, nạn buôn người và tình trạng an ninh trật tự xã hội, trình độ quản lý và mức độ cởi mở xã hội, chất lượng giáo dục và việc thực hiện quyền con người, v.v… Một số nhà nghiên cứu đánh giá rằng, có thể khả năng đạt tới thịnh vượng của toàn châu Á vẫn còn khá xa, hoặc “Thế kỷ châu Á” ở mức độ nào đó, vẫn chỉ là khái niệm hoang tưởng[3].

Vấn đề còn phức tạp hơn và khó dự báo hơn, nếu “Thế kỷ châu Á” được nhìn từ phương diện địa chính trị. Ở đây, “Thế kỷ châu Á” hóa ra có liên quan rất chặt với “Thế kỷ Thái Bình Dương”[4], một quan niệm của các nhà chiến lược lược Mỹ đặt ra cho nước Mỹ, nhằm tránh sự suy giảm về vị thế quốc gia, về vai trò chi phối thế giới. “Mỹ tàn phai” (Fade Away) không chỉ là hình tượng kích thích tâm lý Mỹ ở các đầu óc chiến lược, mà còn là khái niệm được đặt ra từ năm 2011 để phân tích tương quan địa chính trị toàn cầu[5].

Trong chiến lược “Thế kỷ Thái Bình Dương”, vấn đề Biển Đông, không ngẫu nhiên và cũng không bất ngờ, đang giữ vị trí là vấn đề chủ yếu và đặc biệt quan trọng do sự biến động của tình hình khu vực. Biển Đông đã bị “khuấy động” (Stirring)[6] và rõ ràng là ngày càng nóng không chỉ đối với Việt Nam mà còn đối với khu vực châu Á và thế giới.

“Thế kỷ châu Á” chỉ có thể trở thành hiện thực nếu ở Biển Đông không có chiến tranh[7].



II. Sự dịch chuyển văn minh và hai khái niệm châu Á


Từ cuối thế kỷ XIX, những lý thuyết về sự hưng vong của các nền văn minh đã thấy xuất hiện. Bắt đầu từ Oswald Spengler, với tác phẩm “The Decline of the West” (1918), những lý thuyết về sự dịch chuyển của nền văn minh thế giới, về ngày tàn, buổi hoàng hôn của châu Âu ngày một được chú ý hơn[8]. Nhưng mãi nhiều thập niên sau đó, sự trỗi dậy của châu Á vẫn là một chủ đề ít được coi là thực tế. Chỉ từ sau những năm 80 (thế kỷ XX), khả năng vươn tới thịnh vượng của châu Á mới được bàn luận nhiều hơn. Rồi từ những năm 90, sau khi mấy con rồng châu Á xuất hiện, đặc biệt khi Trung Quốc đạt được tốc độ tăng trưởng cao và liên tục trong nhiều năm liền, thì việc dự báo thế kỷ XXI sẽ là Thế kỷ của châu Á mới thực sự trở thành chủ đề nóng trên các diễn đàn học thuật và chính trị - xã hội.
Khá nhiều học giả phương Tây, với những cách lý giải từ các góc nhìn khác nhau, về những nội dung tưởng như khác nhau, nhưng lại cùng đi vào một chủ đề chung, với cùng một mối quan tâm - vấn đề vị thế mới của châu Á - châu Á, với những gì mà người ta đã chứng kiến trong hơn nửa thế kỷ qua, liệu có tiếp tục phát triển và làm lan tỏa sự thịnh vượng đến các quốc gia còn lại, để trở thành một trung tâm văn minh mới trong thế kỷ này? Trong tương quan với một châu Á phát triển nhanh và liên tục, thì châu Âu, phương Tây và Mỹ sẽ thế nào? Liệu có giống như tình huống trên chiếc cầu bập bênh, nếu một bên lên cao thì bên kia phải hạ xuống hay không? Và đặc thù hơn, Biển Đông - Thái Bình Dương có phải là khu vực mang trong nó những vấn đề ảnh hưởng đến toàn cục, giống như một “ngòi nổ” chi phối sự an toàn của trật tự toàn cầu?

Có thể bắt gặp những thuật ngữ ấn tượng thuộc các nội dung khác nhau nhưng có liên quan trực tiếp đến số phận của châu Á thường được nhắc đến trong những năm gần đây: Thế kỷ Thái Bình Dương, Thế kỷ Châu Á, Mô hình đàn sếu bay, Con sư tử Trung Hoa thức giấc, Châu Âu già nua, Phương Tây cáo chung, Nước Mỹ phai tàn v.v [9] … Cuộc khủng hoảng tài chính 1997-1998 ở châu Á tuy có làm các nhà dự báo giật mình, khi phải đối mặt với lời mỉa mai thế kỷ châu Á chưa đến nhưng đã qua rồi, nhưng ngay sau đó, châu Á đã lấy lại nhịp điệu tăng trưởng, thậm chí ngay cả trong cơn lốc khủng hoảng 2008-2009, khiến chẳng mấy ai còn dám nghi ngờ vị thế mới của châu Á sẽ xác lập trong thế kỷ mới. Mới đây, 8/2011, bằng một nghiên cứu định lượng công phu, Ngân hàng ADB còn xuất bản một Báo cáo 130 trang dự báo chi tiết lộ trình của việc hiện thực hóa thế kỷ châu Á đến năm 2050[10].


Ở một phạm vi khác, hẹp hơn và có vẻ xoáy sâu hơn vào những bàn luận địa chính trị, đặc biệt là từ mấy năm gần đây, thì vấn đề tập trung vào vị thế so sánh giữa Mỹ với Trung Quốc. Trung Quốc tăng trưởng nhanh, can thiệp mạnh hơn vào các vấn đề của khu vực và thế giới, vươn khắp toàn cầu về sản xuất hàng hóa, trong khi đó, Mỹ suy giảm đáng kể về kinh tế trong 2 năm khủng hoảng 2008-2009, gặp khó khăn và thậm chí sa lầy tại một vài điểm nóng chính trị, ít nhiều điều chỉnh sức mạnh can thiệp…, khiến nhiều dự báo càng nghiêng về sự trỗi dậy của Trung Quốc và châu Á hưng thịnh, đồng thời cho rằng vai trò của Mỹ ngày một “tàn phai”.

Trong giới lý luận, những người xem nền văn minh phương Tây đang đi đến hồi kết và tới đầu thế kỷ XXI sẽ buộc phải nhường bước cho châu Á, có khá nhiều. Nhưng người có tiếng nói nổi trội hơn cả, với nhiều tác phẩm khẳng định sự suy tàn của “đế chế Tây phương” là Niall Ferguson, giáo sư lịch sử tại Đại học Havard. Sau nhiều năm giảng dạy và viết khá nhiều về “ưu thế phương Tây" - phương Tây với hơn 5 thế kỷ đã kiến tạo nên những giá trị rực rỡ và đã trở thành “động lực chính của sức mạnh toàn cầu”, năm 2011 ông đã cho ra mắt cuốn sách “Văn minh: Phương Tây và phần còn lại của thế giới” (Civilization: The West And The Rest)[11]. Ngay lập tức cuốn sách gây được tiếng vang, được xuất bản tại nhiều nước và được đề nghị giải thưởng. Theo ông, thế giới đang chứng kiến giai đoạn cuối của thời kỳ chi phối của phương Tây, nền văn minh được nảy sinh từ cuộc cách mạng khoa học và đã đạt được cực thịnh trong thời đại công nghiệp và hậu công nghiệp. Vài chục năm gần đây, phương Tây suy yếu dần và trong thập niên đầu của thế kỷ XXI, thời điểm rẽ ngoặt của của nền văn minh phương Tây chính là khi sự thâm hụt tài khoản vãng lai của Mỹ lớn đến mức nghiêm trọng, và ngay lúc đó, các ngân hàng trung ương Trung Quốc và châu Á nhảy vào hỗ trợ. Khi đó, nhiều nước phương Tây nghiêng ngả vì khủng hoảng và suy thoái, còn Trung Quốc, trái với nhiều dự báo bi quan, lại chỉ suy giảm nhẹ, nhờ vào gói kích cầu của chính phủ và sự nới rộng tín dụng.

Niall Ferguson đã so sánh thành tựu của Trung Quốc từ năm 1978 đến năm 2004, GDP tăng trưởng 10 lần trong 26 năm, với những gì mà nước Anh đạt được trong giai đoạn 1830-1900, GDP tăng trưởng 4 lần trong 70 năm. Đầu thế kỷ XXI, GDP của Mỹ gấp 8 lần của Trung Quốc, còn hiện nay, chỉ gấp khoảng 4 lần. Khả năng tổng sản lượng GDP Trung Quốc vượt Mỹ có thể rất gần. Theo Niall Ferguson, 6 yếu tố (kẻ sát thủ tạo nên sự thịnh vượng - killer apps of prosperity) giúp phương Tây vượt lên trong suốt 500 năm qua là 1/Cạnh tranh (Competition), 2/ Cách mạng khoa học (Scientific Revolution), 3/ Quyền sở hữu (Property Rights), 4/ Y tế hiện đại (Modern Medicine), 5/ Xã hội tiêu dùng (The Consumer Society) và 6/ Đạo đức trong công việc (The Work Ethic)[12]. Nếu phương Đông biết ứng dụng cả 6 ý tưởng này, thì quyền lực chi phối thế giới chuyển từ Tây sang Đông sẽ diễn ra như một qui luật.

Và, dường như trong khi vẫn ứng dụng tốt 6 nhân tố này, phương Đông lại đang sáng tạo được thêm những yếu tố khác để đạt được thịnh vượng.


Theo dõi chủ đề này, các nhà nghiên cứu có thể bắt gặp khá nhiều tác giả có quan điểm về một châu Á hưng thịnh, với một Trung Quốc trỗi dậy khó có thể cản bước, bất chấp tất cả những nghi ngại đang lớn dần về những thái độ chưa xứng tầm cường quốc. Nhưng ở đây, về mặt học thuật, có sự phân biệt thú vị xung quanh khái niệm châu Á.

Theo Anthony Bubalo và Malcolm Cook, hai học giả của Viện chính sách quốc tế Lowy tại Sydney, Australia, có ít nhất hai cách hiểu về khái niệm châu Á. Nếu hiểu châu Á với trục các quốc gia gắn liền với Thái Bình Dương, trải dài từ Triều Tiên, Nhật Bản tới Indonesia, Australia…, thì đó là một châu Á theo chiều dọc. Còn ít nhất là một châu Á khác - châu Á nằm ngang, với trục các quốc gia như Nga, Ấn Độ, Trung Quốc[13]… Nếu nhìn châu Á theo khái niệm thứ hai này thì sự hưng thịnh của châu Á còn rõ hơn nữa. Việc phân biệt châu Á theo chiều dọc và theo chiều ngang đã chỉ ra những điểm và những hiện tượng chỉ có tính chất tương đối trong các quan niệm học thuật, nhất là trong địa chính trị. Nếu người nghiên cứu và các nhà chiến lược chú ý tới điều này, người ta có thể tránh được những thiên kiến võ đoán khi quá thiên về chỉ một logic của các hiện tượng. Tuy nhiên, đằng sau các quan niệm ấy, sự phát triển của châu Á và khả năng chi phối thế giới của khu vực này trong tương lai gần là điều mà phần đông các học giả đã gần như khẳng định.


Cái nhìn tổng thể về một châu Á lớn mạnh trong thế kỷ XXI và sự dịch chuyển nền văn minh thế giới từ Tây sang Đông là một thực tế tưởng như đơn giản, nếu nhìn từ góc độ kinh tế học phát triển. Nhưng vấn đề sẽ trở nên phức tạp hơn nếu nó được phân tích từ góc độ xã hội – văn hóa hoặc lịch sử. Và thế kỷ châu Á sẽ trở nên đặc biệt phức tạp, thậm chí rất không tất nhiên, nếu khái niệm này được coi là khái niệm thuần túy địa chính trị - vấn đề thế kỷ châu Á trong tư duy chiến lược - chính trị, phụ thuộc một cách đáng kể vào việc giải quyết các vấn đề khác như thế kỷ Thái Bình Dương hay Sự suy yếu tương đối của Mỹ…




III. Trung Quốc với thế kỷ châu Á


Vấn đề thực sự được bắt đầu từ những năm 50 với hiện tượng “Thần kỳ Nhật Bản”. Cụ thể là, sau thế chiến II, Nhật Bản với những kinh nghiệm công nghiệp hóa có từ trước chiến tranh, nuốt nỗi cay đắng của kẻ bại trận, chấp nhận là mắt xích của Mỹ trong “vòng cung chống Cộng”, quyết tâm làm lại nước Nhật bằng phát triển kinh tế. Kết quả thật ngoạn mục. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình hằng năm từ năm 1945 đến năm 1950 đạt 9,4%; từ năm 1950 đến năm 1955 đạt 10,9%; từ năm 1950 đến năm 1987 đạt 7,1%. Năm 1952, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Nhật đã tương đương với trước chiến tranh. Năm 1968, nợ nước ngoài đã thấp hơn cho vay, Nhật Bản vươn lên vị trí thứ hai về tổng GDP trong thế giới tư bản. Năm 1982, GDP tính tổng thể là 4.177 tỷ USD, bình quân đầu người là 10.326,34 USD, Nhật Bản trở thành cường quốc kinh tế, khẳng định điều thần kỳ của nước Nhật hậu chiến[14].

Xu thế phục hưng của Nhật Bản, ngay từ lúc thoát khỏi chế độ chiếm đóng của Mỹ vào năm 1952, đã gây tiếng vọng đến Hàn Quốc, Đài Loan và nhiều nước châu Á khác, đánh thức khát vọng thoát nghèo ở khu vực này. Hồng Kông, Philipines, Indonesia rồi Thái Lan, và sau đó là Singapore, Malaysia đã nhận ra tiếng vọng và bắt đầu thấy bức bối với tình trạng lạc hậu. Khi các nền kinh tế giữ được tốc độ tăng trưởng ngày càng ổn định thì giấc mơ “cất cánh” ngày càng hiện rõ và thôi thúc cơn khát phát triển.

Không rơi vào những cái bẫy của sự phát triển để rồi phải dừng lại ở mức vài nghìn USD đầu người/năm, bốn nền kinh tế Đông Á gồm Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và Singapore tiếp tục phát triển và đạt ngưỡng 10.000 USD đầu người chỉ chưa đầy 20 năm sau mốc đầu tiên của thu nhập trung bình. Đó là năm 1987 với Đài Loan, năm 1988 với Hồng Kông, năm 1989 với Singapore và năm 1990 với Hàn Quốc. Cả thế giới giật mình - bốn nền kinh tế Đông Á đã “cất cánh”, hay còn gọi là “hoá rồng”, trở thành các nước công nghiệp mới (NICs/NIEs[15]), làm nên điều kỳ diệu châu Á thế kỷ XX.

Còn Trung Quốc, bằng quá trình tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ từ đầu thập niên 90 sau chuyến “tuần du phương Nam” của Đặng Tiểu Bình năm 1992 với tuyên bố “mèo trắng mèo đen” nổi tiếng[16], đến nay, quốc gia đông dân nhất thế giới này đã chứng tỏ được là “con sư tử đã tỉnh ngủ” (lời Napoleon gần 200 năm trước[17]). Việc duy trì tính chất của chế độ chính trị cũ, nhưng lại cải cách táo bạo về kinh tế, tham dự và can thiệp sâu vào đời sống quốc tế, trên cơ sở kích thích tham vọng phục hưng nền văn minh Trung Hoa truyền thống, đã tạo ra một Trung quốc đại lục có vai trò khó phủ nhận đối với châu Á và đối với thế giới ở thế kỷ XXI.

Sau khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998, kinh tế Trung Quốc vẫn tăng trưởng cao, đạt 9,1% năm 2003, 9,5% năm 2004 và 9,8% năm 2005. Tính bình quân 1970-2008, tăng trưởng kinh tế Trung Quốc là 7,9%, thuộc loại cao nhất thế giới[18]. Tháng 12/2005, Tổng cục thống kê Trung Quốc đã tính toán và công bố, Trung Quốc trở thành nền kinh tế đứng thứ sáu thế giới (vượt Italia với GDP khoảng 2.000 tỷ USD). Năm 2006, Trung Quốc tự công bố là nền kinh tế đứng thứ tư thế giới, tính theo USD, vượt Pháp và Anh. Ngày 16/8/2010, theo tờ New York Times, Trung Quốc được công nhận là nền kinh tế đứng thứ hai thế giới sau khi Nhật Bản thông báo GDP của mình là 1.286 tỷ USD (= 5.474 tỷ USD tính theo PPP), thấp hơn so với con số 1.335 tỷ USD (= 5.800 tỷ USD tính theo PPP) của Trung Quốc. Nghĩa là, Trung Quốc đã thế chỗ Nhật Bản ở vị trí nền kinh tế lớn thứ hai thế giới[19]. Nhiều nhà kinh tế cho rằng, nếu giữ được mức tăng trưởng như năm 2010 là 10,3%, trong thập niên sau, quy mô kinh tế Trung Quốc sẽ ngang ngửa với Mỹ.

Sự phát triển của Trung Quốc bên cạnh các con rồng châu Á từ cuối thế kỷ XX đã làm dấy lên những dự báo, bàn luận về diện mạo mới của châu Á. Có những nghi ngại về một khái niệm châu Á không thống nhất (tương đối) do ở khu vực này vẫn hiện rõ tính cục bộ và thiếu liên kết, hay thiếu tương đồng giữa các nước trong sự phát triển. Nhưng khác với châu Âu, châu Á xưa nay chưa bao giờ là một khối thống nhất, dù là thống nhất về cách thức hay chiều hướng phát triển. Và điều đó chỉ làm phức tạp hơn các kế sách trong chiến lược vĩ mô của nhiều nước trên thế giới đối với một châu Á của thế kỷ mới mà thôi.

Dù châu Á được hiểu theo các khái niệm khác nhau đến thế nào và dù châu lục này không phải chỉ là Trung Quốc do trên thực tế có một loạt nước châu Á trong hơn 30 năm nay đang tham dự vào sự trỗi dậy của khu vực, nhưng thành phần đáng kể nhất, đáng nói nhất để thế giới tin rằng có một châu Á đang lớn mạnh và sẽ chi phối thế giới nhiều hơn trong thế kỷ XXI là sự tăng cường vai trò và vị thế của Trung Quốc. Với hơn 30 năm cải cách và mở cửa, thế giới ngày nay đã quen với nhiều tác động toàn cầu của nền kinh tế Trung Quốc. Trung Quốc thực tế đã là một nhà đầu tư và thương mại có uy quyền, một chủ nợ lớn của nhiều nước Á, Phi, kể cả nước Mỹ và là một nhân tố có thể làm thay đổi các xu thế của thị trường toàn cầu. Các nhà chiến lược của nền kinh tế Trung Quốc thời gian gần đây thường không ngần ngại tìm cách điều chỉnh lại các chuẩn thương mại và các điều kiện đầu tư quốc tế cho phù hợp với quan điểm của mình. Dĩ nhiên các nước khác cũng tìm cách đàm phán với Trung Quốc nhằm định hướng lại đối với Trung Quốc. Tuy nhiên, có nhiều điều đã vượt ra khỏi kinh nghiệm của WTO và một vài hiệp ước quốc tế. Sự nghi ngại dần tăng theo thời gian, không hẳn do lệ thuộc vào các nỗ lực mở rộng quân sự có xu hướng dân tộc chủ nghĩa cùng với những tham vọng trở thành cường quốc biển mà người ta thấy đặc biệt rõ từ năm 2009. “Chết dưới tay Trung Quốc” đã trở thành cuốn sách bán chạy năm 2011 ở Mỹ và ở nhiều nước khác; và nếu tính đến mức độ phổ biến trên mạng thì cuốn sách này gần như là lời cảnh báo toàn cầu[20].



Trong mối tương quan, phải nói là không kém phần trực tiếp tới hiện tượng Trung Quốc trỗi dậy - thế kỷ châu Á, cần thiết phải nói đến vấn đề Biển Đông - vùng biển đã thực sự “bị khuấy động” (Stirring) trong thời gian gần đây[21]. Vấn đề là ở chỗ, khác với các vùng biển khác, kể cả vùng Đông bắc Thái Bình dương, Biển Đông khi “bị khuấy động” đã gây ảnh hưởng không nhỏ, thậm chí làm thay đổi quan điểm chiến lược của một số nước, trong đó có Mỹ. Và trên thực tế, vấn đề Biển Đông từ năm 2010 đã chi phối khả năng thực tế của Thế kỷ châu Á.

IV. Vấn đề biển Đông - thế kẹt của tham vọng cường quốc


Cần thiết phải nói rõ rằng, Biển Đông mà chúng tôi nói đến ở đây là vùng biển phía Tây Thái Bình Dương được giới hạn bởi các nước Việt Nam, Malaysia, Indonesia, Brunei, Philippines, Đài Loan, và Trung Quốc. Ở Việt Nam, vùng biển này xưa nay vẫn được gọi là “Biển Đông”. Trên phạm vi hàng hải quốc tế, theo thói quen từ trong lịch sử, vùng biển này được biết đến bằng tên gọi biển “South China Sea”. Vấn đề là ở chỗ, gần đây, một số chính khách vụ lợi và một số đầu óc dân tộc chủ nghĩa Trung Hoa cố tình nhầm lẫn hiểu tên gọi này là “Vùng biển phía Nam thuộc Trung Quốc”. Bởi vậy đã có nhiều học giả và chính khách đề nghị đổi tên là “Biển Đông” hoặc “Biển Đông Nam Á”. Từ năm 2012, Philippines đã chính thức đặt tên vùng biển này là “Biển Tây Philippines”.

Cùng với sự lớn mạnh vượt trội về kinh tế, sức mạnh quân sự của Trung Quốc cũng được tăng cường và tham vọng trở thành cường quốc biển ngày nay đã trở thành cơn khát trong tâm lý dân tộc chủ nghĩa Trung Hoa. Sau nhiều thập niên thực hiện phương châm của Đặng Tiểu Bình “Ẩn sáng dưỡng tối” (giấu mình chờ thời), ngày nay, một số đầu óc chiến lược Trung Quốc đã lộ rõ tâm trạng nôn nóng[22]. Điểm nôn nóng nhất mà Trung Quốc chủ tâm thể hiện là kế hoạch độc chiếm biển Đông. Bên cạnh việc tăng cường nghiên cứu và tuyên truyền về biển đảo, từng bước hiện thực hóa mưu đồ “đường lười bò”, hiện đại hóa quân đội và lực lượng hải quân, đóng thử và đưa vào hoạt động tàu sân bay, phóng thêm vệ tinh giám sát toàn bộ biển đảo, vận hành giàn khoan khổng lồ…, Trung Quốc còn thực hiện kế sách gây phức tạp ở biển Đông, cản trở việc thực thi công ước Liên Hợp Quốc về luật biển 1982, đối đầu với Philipinnes, cắt cáp tàu thăm dò dầu khí của Việt Nam, cản trở ngư dân Việt Nam đánh bắt cá trong vùng biển của mình, mời thầu khai thác dầu khí tại thềm lục địa của Việt Nam, tổ chức với số lượng lớn ngư dân đánh cá trái phép, lập đơn vị hành chính Tam Sa, hành chính hóa sự quản lý Hoàng Sa - Trường sa, chia rẽ và gây áp lực với các nước ASEAN trong vấn đề biển đảo... Trên bàn cờ địa chính trị, vấn đề biển Đông với tham vọng khai thác tài nguyên, kiểm soát tự do hàng hải, chi phối ASEAN và khống chế toàn bộ vùng phía Tây Thái Bình Dương…, trong chiến lược trỗi dậy của Trung Quốc, đã trở thành cái không thể che giấu[23].







Tình huống này, không chỉ gây áp lực đối với Việt Nam, các nước ASEAN, mà còn liên quan trực tiếp và thách thức lợi ích chiến lược của Mỹ[24].

Bởi vậy, ngày 23/7/2010 Hillary Clinton, ngoại trưởng Mỹ chính thức lên tiếng tại Hà Nội về “lợi ích quốc gia của Mỹ trong việc tự do hàng hải ở biển Đông”. Mỹ tuyên bố “hỗ trợ ngoại giao đối với các bên tranh chấp và lên án sự cưỡng ép, sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực của bất kỳ nước nào”. Ngoại trưởng Mỹ còn nói rõ, “việc đòi chủ quyền đối với không gian biển phải bắt nguồn từ việc đòi chủ quyền hợp pháp với các đảo, đất, đá...trên biển”. Bài phát biểu của Clinton lập tức gây chấn động mạnh; ngoại trưởng Trung Quốc bỏ phòng họp và chính giới Trung Quốc khó chịu[25].



Không dừng ở đó, cuối năm 2011, Mỹ đã chính thức tuyên bố thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ Thái Bình Dương của Mỹ. Phục vụ chiến lược này, Mỹ đã nâng cấp quan hệ quân sự và tiến hành tập trận chung với các nước như Philippines, Singapore, Australia, Ấn Độ… - những nước đang có tranh chấp với Trung Quốc. Kế hoạch cho sự có mặt dài lâu của quân đội Mỹ ở khu vực châu Á Thái Bình Dương cũng đã không ngần ngại được nói đến. Tinh thần “thế kỷ Thái Bình Dương” được Mỹ liên tục nhắc lại trong các diễn đàn chính trị quốc tế và cũng ít nhiều đã được triển khai trong thực tế. Mới đây nhất, tại Diễn đàn các quốc đảo Thái Bình Dương (PIF) diễn ra ở đảo Cook ngày 31/8/2012, ngoại trưởng Mỹ một lần nữa khẳng định “Washington sẽ can dự lâu dài ở Nam Thái Bình Dương” và điều này không phải là độc chiếm Thái Bình Dương mà là do “Khu vực Thái Bình Dương đủ rộng cho tất cả các nước, cho Mỹ và cho một Trung Quốc đang lên”[26]. Tại Trung Quốc ngày 5/9/2012, Ngoại trưởng Clinton cũng nhắc lại, châu Á - Thái Bình Dương là khu vực được Mỹ xem là động lực chính cho sự phát triển kinh tế và chính trị của thế giới trong thế kỷ XXI. Bà thúc giục Trung Quốc giải quyết tranh chấp trên biển Đông phải tiến hành bằng các biện pháp hòa bình, “không cưỡng ép” (without coercion) và việc đạt được Bộ quy tắc ứng xử giữa các bên trên Biển Đông (COC) là phù hợp với “lợi ích của tất cả các bên”[27]. Cỗ máy truyền thông Trung Quốc ngay lập tức đã tỏ thái độ phản ứng với quan điểm của Ngoại trưởng Mỹ.

Thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ Thái Bình Dương của Mỹ - lời tuyên bố chính thức cho chiến lược này được ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton công bố tại hội nghị thượng đỉnh khối APEC gồm các nhà lãnh đạo của 21 nền kinh tế châu Á - Thái Bình Dương nhóm họp tại Honolulu ngày 10/11/2011. Bài phát biểu của bà Clinton sau đó được đăng lại trên tờ Foreign Policy số tháng 11/2011. Chắc chắn đây là một văn kiện quan trọng mà có thể nhiều thập niên sau người ta mới thấy hết ý nghĩa của nó. Trong bài này, bà Clinton nói rõ: “Tương lai của các hoạt động chính trị sẽ được quyết định ở châu Á, chứ không phải ở Apghanistan hay Iraq, và Mỹ sẽ ở trung tâm của những hành động đó… Đúng là châu Á có ý nghĩa quyết định đối với tương lai của nước Mỹ, một nước Mỹ can dự sẽ mang tính sống còn đối với tương lai của châu Á. Mỹ là cường quốc duy nhất có mạng lưới liên minh mạnh mẽ trong khu vực, không tham vọng về lãnh thổ, và có một thành tích lâu dài trong việc mang lại lợi ích chung. Cùng với các đồng minh, Mỹ đã nhận trách nhiệm đảm bảo an ninh khu vực trong nhiều thập niên - tuần tra các tuyến đường biển châu Á và duy trì sự ổn định - và đến lượt nó, điều đó đã góp phần tạo điều kiện cho sự tăng trưởng. Mỹ đã giúp đỡ hội nhập hàng tỉ người trong khắp khu vực vào nền kinh tế toàn cầu bằng cách thúc đẩy hiệu quả kinh tế, trao quyền xã hội, và tạo các mối quan hệ to lớn hơn giữa người dân với người dân. Mỹ là đối tác thương mại và đầu tư lớn, một nguồn tạo ra sự đổi mới có lợi cho người lao động và các doanh nghiệp ở cả hai bờ Thái Bình Dương, là nơi học tập của 350.000 sinh viên châu Á mỗi năm, người đấu tranh cho các thị trường mở cửa, và là một quốc gia ủng hộ các quyền phổ biến của con người”[28].

Có thể là để chuẩn bị cho bà Clinton công bố chiến lược Thế kỷ Thái Bình Dương, tờ Foreign Policy, trước đó một số, số tháng 9 và tháng 10 năm 2011 đã đăng bài “Biển Đông: tương lại của xung đột”, một bài viết ở tầm tư duy chiến lược, vạch rõ những căn cứ lý luận, những tư tưởng nền tảng cho chiến lược Biển Đông của Mỹ. Tác giả bài viết này là Robert D. Kaplan, chuyên viên cao cấp của Trung tâm An ninh Mỹ (CNAS - Center for a New American Security), thành viên Hội đồng Chính sách Quốc phòng thuộc Bộ Quốc phòng. Ông cũng là một trong các tác giả CNAS hoạch định Chiến lược của Mỹ về Biển Đông thể hiện trong bản phúc trình 115 trang của CNAS công bố 1/2012[29]. Từ lúc công bố đến nay, bài viết này (“Biển Đông: tương lại của xung đột”) đã gây được sự chú ý của giới nghiên cứu, giới quân sự và các nhà hoạt động xã hội ở khắp các diễn đàn liên quan tới tình hình Biển Đông và Châu Á - Thái Bình Dương.

Robert D. Kaplan viết: “Đông Nam Á ngày nay đã nằm sâu trong giai đoạn hậu - Chiến tranh Lạnh. Việt Nam, thống soái bờ phía tây của Biển Đông, đang tìm kiếm các mối quan hệ quân sự gần gũi hơn với Mỹ... Cuộc đấu tranh để giành địa vị ưu việt tại Tây Thái Bình Dương không nhất thiết phải bao gồm chiến tranh. Chiến tranh chẳng phải là chuyện không thể tránh khỏi cho dù cạnh tranh là điều hiển nhiên. Và nếu Trung Quốc và Hoa Kỳ xử lý thành công cuộc chuyển giao sắp đến, thì châu Á, và cả thế giới, sẽ là một nơi an toàn và thịnh vượng hơn. Có gì có thể đạo đức hơn điều đó?”[30]. Dĩ nhiên đây không chỉ là quan điểm của riêng Kaplan.

Dẫn ra một cách kỹ hơn những quan niệm của Hillary Clinton và Robert Kaplan, chúng tôi muốn góp phần lý giải, tại sao vấn đề Biển Đông lại có ý nghĩa đáng kể đến như vậy trong tham vọng chiến lược của Trung Quốc và Mỹ. Chẳng phải ngẫu nhiên mà nhóm chuyên gia phân tích tình hình quốc tế trong báo cáo của mình về tình hình biển Đông còn đánh giá rằng, vấn đề Biển Đông sẽ là “thế kẹt” (trapped) của những tham vọng cường quốc[31]. Câu hỏi Trung Quốc liệu có vượt qua Mỹ để trở thành cường quốc chi phối thế giới trong thế kỷ XXI hay không, trên thực tế lại phụ thuộc không nhỏ vào việc giải quyết vấn đề Biển Đông.



V. Sự suy yếu tương đối của Mỹ - “Mỹ phai tàn”?


Những dự báo Trung Quốc sẽ vượt qua Mỹ để chiếm vị trí nền kinh tế lớn nhất thế giới vào một thời điểm gần đã làm sôi động những tranh luận về việc Mỹ sẽ phải đối mặt với những thách thức ngày càng lớn về vị thế kinh tế - chính trị của mình trong tương lai. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, vai trò của quy mô kinh tế đối với vị thế cường quốc, không luôn luôn và không nhất thiết có quan hệ nhân quả với nhau - đây là điều khá tinh tế mà không phải mọi nhà chiến lược đều đã ý thức rõ. Tự thân kinh tế không phải là một thước đo đầy đủ và chính xác sức mạnh thực của các quốc gia trong hệ thống thế giới, nhất là với những nền kinh tế lớn về quy mô và phạm vi nhưng lại chưa cao về trình độ và cơ cấu như Trung Quốc. Vả lại, Trung Quốc ngay từ thế kỷ XIX, đã có lúc là nền kinh tế lớn nhất thế giới. Nhưng vào đúng những thời điểm như vậy, Trung Quốc lại đã từng cúi đầu khuất phục những quốc gia chẳng to lớn gì ở châu Âu. Còn ngày nay, cho dù Trung Quốc có thực sự vươn lên đỉnh cao kinh tế và quân sự, quốc gia này cũng không dễ rút ngắn sự tụt hậu khá xa so với Mỹ và Châu Âu về GDP bình quân đầu người, về chỉ số HDI (phát triển con người), về khoa học, giáo dục và về nhiều phẩm chất văn hóa - văn minh khác mà chính người Trung Quốc đang tự phàn nàn[32].

Những người tin tưởng chắc chắn vào khả năng lớn mạnh hơn nữa của châu Á có vẻ vẫn đang nhiều thêm. Ngay cả Thomas Friedman, nhà báo nổi tiếng của tờ New York Times, tác giả cuốn “Thế giới phẳng” gây xôn xao dư luận mấy năm vừa rồi, cũng đã lên tiếng chỉ trích chính quyền Washington để nước Mỹ tụt hậu đáng kể trong cuộc chạy đua với những đối thủ châu Á. Tháng 8/2011 cùng với Michael Mandelbaum, một trong những nhà tư tưởng hàng đầu về chính sách đối ngoại của Mỹ, giáo sư Đại học Johns Hopkins, Friedman đã xuất bản cuốn sách “Chúng ta đã từng như thế: Mỹ tụt hậu trong thế giới mà Mỹ đã tạo ra như thế nào và làm thế nào để chúng ta quay trở lại” (That Used to Be Us: How America Fell Behind in the World It Invented and How We Can Come Back). Friedman và Mandelbaum đã dẫn ra những số liệu đáng chú ý về thâm hụt ngân sách và phân tích những yếu kém trong quản lý vĩ mô của Mỹ về mặt kinh tế - xã hội. Theo các ông, toàn bộ nền kinh tế Mỹ đến nay đã giảm sút nghiêm trọng về trình độ và tốc độ tăng trưởng. Mức độ sụt giảm kinh tế Mỹ, theo Friedman và Mandelbaum, đáng phê phán đến mức kỳ lạ, nếu đem so với bất kỳ nền kinh tế mới nổi nào như Ấn Độ, Brazil, Thổ Nhĩ Kỳ…, mà đặc biệt là với Trung Quốc. Trong chính trị và quân sự, Mỹ cũng không nắm được vấn đề hạt nhân của Iran và Triều Tiên, bị động trước sự biến động của khu vực Arap và các khu vực khác. Những biểu hiện của quyền lực Mỹ suy tàn đã và đang hiện ra rất rõ. Friedman và Mandelbaum không ngần ngại kết luận, thời kỳ Mỹ “lãnh đạo thế giới và có khả năng bắt các nước làm theo” đã kết thúc rồi[33].




Thế nhưng, bất chấp số người tin tưởng châu Á sẽ vượt lên trước phương Tây ngày một nhiều thêm, vẫn có rất nhiều tiếng nói cho là quá sớm khi tụng ca thế kỷ châu Á và coi Mỹ đang lụi tàn giống như đế quốc Anh quốc nửa đầu thế kỷ XX. Vì ngoài sức mạnh kinh tế vẫn còn khá nghèo so với Mỹ và phương Tây, châu Á đang đối mặt với những thử thách lớn về dân số, chính trị, môi trường và đặc biệt là liên kết khu vực; châu Á còn quá xa vời với kiểu liên kết như Liên minh châu Âu. Hơn thế nữa, theo Joshua Kurlantzick, chuyên gia về Đông Nam Á của Hội đồng quan hệ đối ngoại Mỹ, tất cả những cường quốc châu Á như Ấn Độ, Trung Quốc hay Nhật Bản, thực tế, vẫn muốn gây chiến với nhau hơn là hợp tác để tạo ra những định chế chung[34].

Phải chăng Mỹ đang lụi tàn, như gần đây nhiều chính khách và học giả đang tin là thế? Có phải Mỹ đã từ bỏ những đức tin và ý chí đã giúp họ thành công trong quá khứ và ngày nay Mỹ hoàn toàn thiếu tiềm lực và sức mạnh để giải quyết những vấn đề họ đang đối mặt? Hay liệu Washington sẽ phải tự kết liễu vị thế siêu cường của mình vì nhận thấy sự dịch chuyển nền văn minh đang khiến cho sức mạnh Mỹ không tránh khỏi suy giảm? Mặc cho Niall Ferguson vẫn thu hút khá đông cử tọa đến giảng đường nghe lý luận về phương Tây lụi tàn của ông, mặc cho Friedman và Mandelbaum vẫn đang lôi cuốn độc giả cười nhạo hình ảnh một Chú Sam già yếu và bất lực, trật tự thế giới ngày nay, như nhiều nhà nghiên cứu đã phân tích khá cặn kẽ tới mức khó có thể phủ nhận được - vẫn đang là trật tự phản ánh sự thắng thế và hợp lý của nhiều nguyên tắc Mỹ, mô hình Mỹ, quan niệm Mỹ, lối sống Mỹ và nói chung là ưu thế Mỹ trong hầu hết các khía cạnh chính trị, kinh tế, văn hóa và quân sự. Sự suy tàn của Mỹ, rất có thể chỉ là sự phản ánh tâm lý bức xúc của những người không muốn nước Mỹ yếu đi, nhiều lắm nó cũng chỉ là hồi chuông đánh động nhà cầm quyền. Còn nếu như có thực, sự suy tàn của Mỹ chắc chắn sẽ đồng nghĩa với việc mở ra một thế giới khác cho nhân loại.

Nhưng giả dụ, nếu điều này xảy ra thì đáng mừng hay đáng lo?

Theo James Kurth, thế kỷ XX mới là thế kỷ Mỹ thứ nhất, thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ Mỹ thứ hai. Những trụ cột làm nên một siêu cường Mỹ ở thế kỷ thứ hai có thể sẽ khác, nhưng Mỹ vẫn sẽ là cường quốc mạnh nhất thế kỷ XXI mặc dù không dựa vào kiểu thống trị như trong thế kỷ vừa qua. James Kurth cho rằng, Mỹ còn rất lâu nữa vẫn tồn tại dựa vào những trụ cột mà Trung Quốc và những cường quốc khác khó có thể tạo ra cho mình những cái gì đó tương tự. Bên cạnh những trụ cột thuộc kinh tế, chính trị, quân sự, và văn hóa…, Mỹ hiện vẫn là tấm gương khiến cả thế giới muốn bắt chước về sự sáng tạo công nghệ và một lối sống hấp dẫn[35]. Dù lâu nay người ta đã nói nhiều về việc châu Á sẽ vươn lên làm chủ công nghệ trong tương lai, nhưng một năng lực sáng tạo công nghệ liên tục và thường xuyên như Mỹ đã làm trong suốt nửa sau thế kỷ XX thì không hề đơn giản đối với bất kỳ quốc gia nào. Mặc dù Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore hay Trung Quốc đã thành công về kinh tế, nhưng những cường quốc của khu vực này vẫn chưa đủ đảm bảo để các nước khác yên tâm với sức mạnh của sự tiến bộ - như Mỹ đã tạo nên cho các đồng minh của Mỹ. Ngoài ra, không tham vọng lãnh thổ còn là một phẩm chất mà xưa nay người ta thấy chỉ có ở đế chế này[36].

Và gần đây, chính quyền Obama dường như đã ý thức hơn về sức mạnh dài lâu của Mỹ.

Trong theo dõi của chúng tôi, người có tiếng nói đáng chú ý hơn cả trong việc khẳng định vị thế cường quốc của Mỹ trong thế kỷ XXI là Robert Kagan, nhà nghiên cứu chính sách đối ngoại của Viện Brookings, bình luận viên báo Washington Post, nhà tư tưởng chiến lược có ảnh hưởng lớn ở Mỹ (One of the country's most influential strategic thinkers). Trong cuốn sách mới nhất của mình “Thế giới mà nước Mỹ tạo ra” (The World America Made) xuất bản năm 2012 và trong bài “Chưa phai tàn. Phản biện huyền thoại về sự suy tàn của Mỹ” (Not Fade Away. Against the myth of American decline) đăng trên tờ The New Republic số tháng 2/2012, Kagan đã một lần nữa bàn về vai trò và vị thế hiện tại của Mỹ, với quan điểm gần như là đối lập hoàn toàn với Niall Ferguson, với Thomas Friedman và Michael Mandelbaum. Ngay từ khi công bố, cuốn sách và bài báo này đã nhận được sự phản hồi sôi nổi của đông đảo độc giả[37].



Theo Robert Kagan, hiện đang có nhiều sự bi quan được đặt không đúng chỗ; chuyện Mỹ đang suy tàn, thực ra là một huyền thoại thiếu căn cứ. Thế giới sẽ trở thành một thế giới khác và có thể trở nên nguy hiểm hơn nếu Mỹ giảm bớt vai trò lãnh đạo toàn cầu để dồn sức chỉ vào việc giải quyết các vấn đề nội bộ. Sự trở lại của chiến tranh sẽ tăng lên khi các quốc gia chen lấn vì quyền lực thế giới. Sự rút lui của dân chủ sẽ diễn ra ở những nước như Nga. Sự độc đoán sẽ có thêm sức mạnh ở những nước như Trung Quốc. Và sự yếu kém sẽ ngự trị trong nền kinh tế thị trường tự do toàn cầu, một trật tự đáng mơ ước mà Mỹ đã tạo ra và liên tục hỗ trợ trong hơn 60 năm qua. Bằng các căn cứ định lượng và định tính cụ thể, Robert Kagan đã vẽ nên một bức tranh sống động, thậm chí đáng báo động về việc nếu Hoa Kỳ có ý định để cho ảnh hưởng của mình suy yếu đi[38].

Theo Robert Kagan, không phải chỉ nhờ may mắn hay nhờ cầu nguyện mà trong quá khứ Mỹ đã vượt qua những cuộc khủng hoảng và trỗi dậy mạnh mẽ hơn các nước khác trong khi nhiều đối thủ của Mỹ đã suy sụp. Vấn đề là ở chỗ, sự suy tàn, đối với Mỹ, là một lựa chọn. Nếu Mỹ lựa chọn chiến lược để tàn lụi thì nước Mỹ sẽ suy tàn. Quyết định nằm trong tay người Mỹ; suy tàn không phải là một định mệnh không thể tránh được, ít nhất là cho tới thời điểm hiện nay. Dĩ nhiên, nền văn minh thế giới rồi sẽ dịch chuyển. Các đế chế hưng thịnh - đến như La Mã - rồi cũng sẽ suy vong. Nhưng vào lúc nào? Nếu Mỹ bắt đầu sự suy tàn của mình trong hai thập niên tới, điều đó sẽ có ý nghĩa hệ trọng cho hai thế kỷ tiếp theo, không chỉ đối với người Mỹ mà còn đối với bản chất của thế giới mà Mỹ và nhân loại đang sống[39].

Trong thế kỷ XX, Mỹ đã gây ảnh hưởng lớn, lớn hơn bất cứ cường quốc nào kể cả thời Đế chế La Mã. Mỹ đã đạt được nhiều thành tựu và cũng giúp cho thế giới đạt được nhiều thành tựu. Nhưng Mỹ vẫn có những yếu kém và sai lầm. Mỹ không hoàn hảo và cũng đừng bao giờ mong Mỹ hoàn hảo[40].

*

* *

Như đã thấy ở trên, những tài liệu dẫn ra trong bài này đều ở dạng khá chọn lọc. Chúng tôi chú ý đến những quan niệm thể hiện tương đối rõ tính khách quan với những căn cứ có lẽ là đủ tin cậy. Cái nhìn trong các bài được chọn để phân tích cũng là cái nhìn tránh được sự thiên lệch. Tuy nhiên, với những vấn đề gắn chặt với tư duy chính trị - chiến lược như trong bài này, khả năng gây ảnh hưởng của những quan điểm được nêu cũng cần thiết phải được tính đến. Bởi vậy, chúng tôi đã cố gắng không bỏ sót những tác giả có uy tín nhất, những người có bề dày hoạt động trong lĩnh vực tư duy chiến lược, có sự phân tích sắc sảo và điều quan trọng nhất, sắc sảo nhưng thực tế.

Chỉ với không nhiều tài liệu đã dẫn ra trong bài, những kết luận đầu tiên về vấn đề phức tạp này cũng đã có thể hình dung được như sau.

VI. Kết luận

Thế kỷ châu Á là một khái niệm không đến nỗi viển vông hay hoang tưởng. Trong thế kỷ XXI chắc chắn Trung Quốc và châu Á, nói chính xác hơn, Trung Quốc, Đông Á và Đông Nam Á sẽ còn tiếp tục phát triển và nhiều khả năng là sẽ thịnh vượng hơn. Biển Đông đúng là một thế kẹt của tham vọng cường quốc, nhưng nếu các đầu óc chiến lược đủ tỉnh táo để không xảy ra chiến tranh thì châu Á, mặc dù thiếu liên kết, sẽ vẫn buộc phải cùng với Trung Quốc mở ra một diện mạo mới cho châu Á và điều đó góp phần làm thay đổi thế giới. Cho đến nay, chưa có một dự báo nào khẳng định khả năng chiến tranh, mặc dù các phương án quân sự đối phó với chiến tranh vẫn đang được triển khai khá quyết liệt ở một số nước. Gần đây nguy cơ này ở Biển Đông được suy đoán có vẻ tăng thêm, song nhiều các nhà chiến lược vẫn thấy đây là nguy cơ có thể kiểm soát được. Nếu dự báo này không sai thì thế kỷ châu Á sẽ là kết quả của sự dịch chuyển đầu tiên của nền văn minh nhân loại từ phương Tây sang phương Đông.

Thế kỷ Thái Bình Dương cũng là khái niệm có thực, phản ánh sự năng động và phức tạp của trật tự địa chính trị vùng này. Tuy khái niệm này được người Mỹ tạo ra để phục vụ cho lợi ích của Mỹ. Song do những ảnh hưởng thực tế của việc thực hiện chiến lược này, nên quan niệm về Thế kỷ Thái Bình Dương lại trở thành một phần của quan niệm về Thế kỷ châu Á. Biển, mà ở đây là biển Đông ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đời sống chính trị thế giới. Để chiến tranh không thể xảy ra, Biển Đông sẽ trở thành “nơi tập trận” của những quan điểm, những chiến lược, những phương pháp (bao gồm cả những thủ đoạn), và những thái độ (bao gồm cả sự nhân nhượng)… về tất cả các mặt kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao giữa các quốc gia có liên quan, mà trước hết là giữa các nước có liên quan trực tiếp.

Trong lộ trình hiện thực hóa quan điểm Thế kỷ Thái Bình Dương, chắc chắn Mỹ sẽ hiện diện mạnh mẽ hơn ở Biển Đông và điều này củng cố đồng thời làm gia tăng lợi ích của Mỹ. Vị thế của Mỹ gắn chặt với Biển Đông và gắn chặt với lợi ích của các bên có liên quan, dù trực tiếp hay gián tiếp. Bởi vậy thực lực của Mỹ vốn vẫn mạnh lại buộc phải phát triển theo hướng mạnh hơn trong thế cạnh tranh chiến lược với Trung Quốc. Nghĩa là Mỹ chưa thể “phai tàn” như một số chiến lược gia trông đợi.

Đáng ra Trung Quốc có thể phát triển theo một kịch bản khác nếu từ bỏ tham vọng độc chiếm Biển Đông. Và nếu như vậy rất có thể giấc mộng Trung Hoa sẽ không phải là cơn ác mộng do tính hài hòa ở mức nào đó của nó với lợi ích của các cường quốc khác và của các bên có liên quan. Nhưng Trung Quốc đã chọn và không có đường từ bỏ tham vọng này nên thế kẹt của tham vọng cường quốc cũng là một khái niệm có thực. Trung Quốc đang tự hạn chế khả năng trở thành cường quốc của mình. Khả năng này (trở thành cường quốc) hóa ra vẫn là một khả năng xa, nhường chỗ cho sự tác động, chi phối, gây sức ép, lừa vào bẫy… của Mỹ.

Mỹ chưa thể “phai tàn”, nghĩa là phương Tây vẫn chưa cáo chung. Và quả thật phương Tây vẫn còn rất nhiều giá trị mà các nước đi sau vẫn cần thiết phải học hỏi để phát triển. Với truyền thống duy lý rực rỡ từ thời đại Phục hưng và Khai sáng, với khẩu hiệu “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” lay động lòng người từ Cách mạng Tư sản Pháp 1789, với nền khoa học và giáo dục hùng mạnh từ thời Newton, Descartes, Kant, Humboldt, Einstein, và với các giá trị văn hóa đã trở thành khuôn vàng thước ngọc bởi Leonardo da Vinci, Shakespeare, Cervantes, Rousseau, Beethoven, Mozart… phương Tây vẫn còn khá nhiều giá trị “kinh điển” mà ngay cả Mỹ vẫn chưa đi hết con đường phương Tây đã đi để vươn tới tiến bộ[41].

Trong sự tiếp nối còn đang dang dở ấy, Mỹ vẫn có “đất múa võ” để mạnh hơn cả về kinh tế, chính trị, quân sự, và giá trị sống. Hiện Mỹ vẫn rất giàu, rất mạnh và đủ tiến bộ. Trong thế kỷ XXI, Mỹ vẫn còn khả năng giàu hơn, mạnh hơn và tiến bộ hơn, trước khi một Trung Quốc hoặc một nước nào khác có thể giàu hơn, mạnh hơn và tiến bộ hơn so với Mỹ. Nghĩa là Mỹ vẫn rất cần cho sự tiến bộ của thế giới.

Nếu tiến bộ xã hội đúng là quy luật thì sự phát triển của loài người dù quanh co đến đâu, thậm chí dù chiến tranh cục bộ có xảy ra, dù tư tưởng dân tộc cực đoan có tạm thắng thế, nghĩa là dù bất ngờ và khó đoán đến mấy, thế kỷ XXI vẫn là thế kỷ không thiếu hứa hẹn đối với châu Á và nhân loại.

===================


[1]. Các số liệu này do CIA, OECD, IMF và WB công bố. Chúng tôi chọn và soạn theo
http://www.indexmundi.com.

[2]. Xem: Vinh Nguyễn (2010). Phía sau việc kinh tế Trung Quốc thăng hạng. http://vneconomy.vn/20100817113414261P0C99/phia-sau-viec-kinh-te-trung-quoc-thang-hang.htm.

[3]. Haruhiko Kuroda (2011). Is the Asian century upon us? http://www.chinadaily.com.cn/opinion/2011-05/10/content_12476305.htm. // Joshua Kurlantzick (2011). The Asean Century? Not Quite Yet. Current History - A Journal of Contemporary World Affairs. January.

[4] Xem: Hillary Rodham Clinton, Secretary of State (2010). Press Availability. National Convention Center. Hanoi, Vietnam. July 23,. http://www.state.gov/secretary/rm/2010/07/145095.htm.

[5] Xem: Robert Kagan (2012). Not Fade Away. The myth of American decline. The New Republic. January 11. http://www.tnr.com/article/politics/magazine/99521/america-world-power-declinism?id=FoZ4F7oMNWb7y04UpK20GKfyrbir7aLsgUrHpHEN0jQVczVWeQ0QSkXGLNwv2vj2.

[6] International Crisis Group (2012). Stirring up the South China Sea (I&II): Regional Responses. Asia Report N°223, 23 Apr 2012; N°229,. 24 Jul 2012. http://www.crisisgroup.org/~/media/Files/asia/north-east-asia/223-stirring-up-the-south-china-sea-i.pdf. http://www.crisisgroup.org/~/media/Files/asia/north-east-asia/229-stirring-up-the-south-china-sea-ii-regional-responses

[7] Xem: Robert D. Kaplan (2011). The South China Sea Is the Future of Conflict. Foreign Policy. Sept/Oct,. http://www.foreignpolicy.com/articles/2011/08/15/the_south_china_sea_is_the_future_of_conflic // CNAS. Cooperation from Strength: The United States, China and the South China Sea.(Edited by Patrick M. Cronin. Contributors: Patrick M. Cronin, Peter A. Dutton, M. Taylor Fravel, James R. Holmes, Robert D. Kaplan, Will Rogers and Ian Storey). January, 2012. http://www.cnas.org/files/documents/publications/CNAS_CooperationFromStrength_Cronin_1.pdf.

[8]. Xem: Oswald Spengler (1918, 1922). The Decline of the West (Der Untergang des Abendlandes) t.1. 1918, t.2. 1922). // Francis Fukuyama (1992). The End of History and The Last Man”. // Philip Atkinson (2012). The End Of Western Civilization. http://www.ourcivilisation.com/theend.htm. // David Marquand (2011). The End of the West: the Once and Future Europe. Princeton University Press. // Зиновьев А. А (1995). Запад. http://www.deloteca.ru/st2/r29/t1/id501

[9]. Asian Century, Pacific Century, Asia-Pacific Century, Flying-geese Pattern, Chinese lion woke, Old Europe, Secular Europe; The End of West, America Fade Away…

[10]. Asia 2050: Realizing the Asian Century. ADB Published 2011. http://www.unido.org/fileadmin/user_media/UNIDO_Worldwide/Asia_and_Pacific_Programme/Documents/AsianDevelopmentBankreport_asia-2050.pdf

[11]. Niall Ferguson (2011). Civilization: The West And The Rest. Penguin Press.

[12]. Xem: Niall Ferguson (2011). The 6 killer apps of prosperity. http://www.ted.com/talks/niall_ferguson_the_6_killer_apps_of_prosperity.html

[13]. Xem: Anthony Bubalo, Malcolm Cook (2010). Horizontal Asia. American Interest. May/June.

[14] Các số liệu này do CIA, OECD, IMF và WB công bố. Chúng tôi chọn và soạn theo http://www.indexmundi.com.

[15] NIEs - gọi đầy đủ là “Các nền kinh tế công nghiệp hóa mới” (Newly Industrialized Economies). NICs - “Các nước công nghiệp hóa mới” (Newly Industrialized Countries). Số liệu nói về năm GDP của Đài Loan và Hàn Quốc đạt tới 10.000 USD đầu người không thống nhất trong các tài liệu khác nhau. Theo IMF, Đài Loan đạt 10.000 USD đầu người năm 1990 và Hàn Quốc năm 1992. Còn theo các tài liệu khác thì Đài Loan năm 1987 và Hàn Quốc năm 1990 hoặc 1991. Tuy nhiên nhanh chậm 1-2 năm ở đây không làm thay đổi bản chất vấn đề đang bàn.

[16] Năm 1962, tại hội nghị Lư Sơn, để nói lý lẽ của mình về quan hệ sản xuất, Đặng Tiểu Bình nhắc lại một câu ngạn ngữ Tứ Xuyên: “Bất kỳ mèo trắng mèo đen, hễ bắt được chuột thì đều là mèo tốt” (不 管 黑 貓 白 貓, 捉 到 老 鼠 就 是 好 貓 - Bất quản hắc miêu bạch miêu, tróc đáo lão thử tựu thị hảo miêu). Tháng 2/1976, Mao Trạch Đông ra chỉ thị phê phán và bắt giam Đặng vì “lý luận con mèo”. Khi thăm Thâm Quyến năm 1992, dường như Đặng đã nhắc lại câu nói này và từ đó, tư tưởng này được ca ngợi nhiều.

[17] Napoleon nói về Trung Quốc, 1816. Xem thêm: Nguyễn Lưu Viên. Trung Quốc đã thức dậy rồi... thế giới có run sợ chưa. http://vietnamlibrary.informe.com/trung-qu-c-no-th-c-d-y-r-ei-a-b-s-nguy-an-l-u-vi-dt230.html

[18] UNDP. Human Development Report 2010. tr. 207.

[19] Xem: Vinh Nguyễn (2010). Tài liệu đd.

[20] Navarro, Peter & Greg Autry (2011). Dead by China, Confronting Dragon – A Global Call for Action. Publishing as Prentice Hall. http://www.deathbychina.com/DBC-excerpt.pdf .

[21] Xem: International Crisis Group (2012). Stirring up the South China Sea (I&II). tài liệu đd.

[22] Xem: Lưu Minh Phúc (2011). Giấc mơ Trung Quốc.Tư duy nước lớn và định vị chiến lược trong thời đại hậu Mỹ. Nxb. Thời đại. // 同主题阅读:[ZGPT]未来50年中国的六场战争:将彻底打破世界格局 (6 cuộc chiến tranh của Trung Quốc 50 năm tới). http://www.mitbbs.com/article_t/MiscNews/31207047.html

[23] Xem: David Uren (2012). The Kingdom and the quarry: China, Autralia feear and Greed. Publisher: Black Inc. (Rất nhiều tài liệu về vấn đề này, nhưng đây là tài liệu đáng chú ý hơn cả). Xem thêm: Trung Quốc tham vọng độc chiếm biển Đông - Kế hoạch ứng phó liên minh Mỹ - Australia http://miscellaneous-land.over-blog.net/article-trung-qu-c-tham-v-ng-c-chi-m-bi-n-ong-k-ho-ch-ng-pho-ng-minh-m-_-uc-106345685.html.

[24] Xem: Vikram Nehru (2012). Collision Course in the South China Sea. http://nationalinterest.org/commentary/collision-course-the-south-china-sea-7380.

[25] Hillary Rodham Clinton, Secretary of State (2010). Tài liệu đd.

[26] Hillary Rodham Clinton, Secretary of State (2012). Commemorating U.S. Peace and Security Partnerships in the Pacific.Cook Islands, August 31. http://www.state.gov/secretary/rm/2012/08/197262.htm

[27] Ngoại trưởng Mỹ: COC phù hợp với lợi ích của tất cả các bên. http://hanoimoi.com.vn/newsdetail/The-gioi/558457/ngoai-truong-my-coc-phu-hop-voi-loi-ich-cua-tat-ca-cac-ben.htm.

[28] Hillary Clinton (2011). America's Pacific Century. Foreign Policy. November, 2011. http://www.foreignpolicy.com/articles/2011/10/11/americas_pacific_century?page=full.

[29] CNAS (2012). Tài liệu đđ.

[30] Robert D. Kaplan (2011). Tài liệu đd.

[31] Xem: International Crisis Group (2012). Stirring up the South China Sea (II): Regional Responses. Asia Report N°229,. 24 Jul 2012. http://www.crisisgroup.org/~/media/Files/asia/north-east-asia/229-stirring-up-the-south-china-sea-ii-regional-responses // "Thế kẹt" của Trung Quốc ở Biển Đông. http://nghiencuubiendong.vn/tin-ncbd/1567-qth-ktq-ca-trung-quc--bin-ong

[32]. Xem: Lưu Á Châu (2012). Sự đáng sợ của nước Mỹ. http://trankinhnghi.blogspot.com/2012/03/nghe-nguoi-trung-hoa-noi-ve-hoa-ky-va.html.

[33]. Xem: Thomas Friedman, Michael Mandelbaum (2011). That Used To Be Us. How America Fell Behind in the World It Invented and How We Can Come Back. http://www.thomaslfriedman.com/bookshelf/that-used-to-be-us. // That Used to be Us By Thomas L. Friedman and Michael Mandelbaum. http://www.nytimes.com/2011/09/11/books/review/that-used-to-be-us-by-thomas-l-friedman-and-michael-mandelbaum-book-review.html?pagewanted=all

[34]. Xem: Joshua Kurlantzick (2011). Tài liệu đd. // Xem thêm: Haruhiko Kuroda (2011). Tài liệu đd.

[35]. Xem: James Kurth (2009). Pillars of the Next American Century. Tracing the foundations of American global strength, from past to future. The American Interest. Volume 5, Number 2. November/ December.

[36]. Trích theo: Viện những vấn đề phát triển http://www.vids.org.vn/vn/asp/News_Detail.asp?tabid=1&;;;;mid=802&ID=2138:

Trong một cuộc họp báo, Tổng Giám Mục Giáo xứ Canterbury, Anh, gay gắt hỏi Ngoại trưởng Mỹ Collin Powell việc Mỹ đem quân sang Iraq và Afganistan có phải là thí dụ điển hình về tham vọng bành trướng lãnh thổ của Mỹ hay không? Ngoại trưởng Collin Powel trả lời: Thưa Đức Cha, từ bao nhiêu năm qua, Mỹ đã gửi không biết bao nhiêu nam thanh, nữ tú của mình dấn thân vào lửa đạn để tranh đấu cho tự do ngoài biên cương Mỹ. Tham vọng về đất đai của chúng tôi, nếu có là chỉ xin vừa đủ đất để chôn những người tử trận không thể trở về nhà.

[37]. Xem: Robert Kagan (2012). The World America Made published by Alfred A. Knopf, 2012.// Robert Kagan (2012). Not Fade Away. Tài liệu đd.

[38]. Robert Kagan (2012). Tài liệu đd.

[39]. Robert Kagan (2012). Tài liệu đd.

[40]. Robert Kagan (2012). Tài liệu đd.

[41]. Xem: Зиновьев А. А (1995). Запад. http://www.deloteca.ru/st2/r29/t1/id501 // Зиновьев А. A. (2006). Что мы теряем? Сегоднья заадноевроейская циливизация находиться в сеpьезной опасности. Литературная газета. № 11-12, 22-28 Марта 2006. // Fuller, Graham: old Europe - or old America? International Herald Tribune, 12/2/2003. (http://www.digitalnpq.org/archive/ 2003spring/fuller.html). // Hồ Sĩ Quý (2009). Giá trị châu Âu: những gợi ý cho sự phát triển. Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu số 1.



Tài liệu tham khảo:

1. Atkinson, Philip (2012). The End Of Western Civilization. http://www.ourcivilisation.com/theend.htm.
2. Asia 2050: Realizing the Asian Century. ADB Published 2011. http://www.unido.org/fileadmin/user_media/UNIDO_Worldwide/Asia_and_Pacific_Programme/Documents/AsianDevelopmentBankreport_asia-2050.pdf
3. Bubalo, Anthony & Malcolm Cook (2010). Horizontal Asia. American Interest. May/June.
4. Clinton, Hillary Rodham, Secretary of State (2010). Press Availability. National Convention Center. Hanoi, Vietnam. July 23,. http://www.state.gov/secretary/rm/2010/07/145095.htm .
5. Clinton, Hillary (2011). America's Pacific Century. foreign Policy. November, 2011. http://www.foreignpolicy.com/articles/2011/10/11/americas_pacific_century?page=full
6. CNAS. Cooperation from Strength: The United States, China and the South China Sea. (Edited by Patrick M. Cronin. Contributors: Patrick M. Cronin, Peter A. Dutton, M. Taylor Fravel, James R. Holmes, Robert D. Kaplan, Will Rogers and Ian Storey). January, 2012. http://www.cnas.org/files/documents/publications/CNAS_CooperationFromStrength_Cronin_1.pdf
7. Vũ Thành Công, Nguyễn Thế Phương (2012). Giữ lại tên biển “Nam Trung Hoa” là không hợp lý. http://www.baomoi.com/Home/TheGioi/tuanvietnam.vietnamnet.vn/Giu-lai-ten-bien-Nam-Trung-Hoa-la-khong-hop-ly/9629011.epi
8. Ferguson, Niall (2011). Civilization: The West And The Rest. Penguin Press.
9. Ferguson, Niall (2011). The 6 killer apps of prosperity. http://www.ted.com/talks/niall_ferguson_the_6_killer_apps_of_prosperity.html
10. 同主题阅读:[ZGPT]未来50年中国的六场战: 将彻底打破世界格局 (6 cuộc chiến mà Trung Quốc phải tiến hành 50 năm tới) http://www.mitbbs.com/article_t/MiscNews/31207047.html
11. Friedman, Thomas, Michael Mandelbaum (2011). That Used To Be Us. How America Fell Behind in the World It Invented and How We Can Come Back. http://www.thomaslfriedman.com/bookshelf/that-used-to-be-us.
12. Fukuyama, Francis (1992). The End of History and The Last Man. Harper Perennial.
13. Fuller, Graham: old Europe - or old America? International Herald Tribune, 12/2/2003. (http://www.digitalnpq.org/archive/ 2003spring/fuller.html).
14. International Crisis Group (2012). Stirring up the South China Sea (I): Regional Responses. Asia Report N°223, 23 Apr 2012 http://www.crisisgroup.org/~/media/Files/asia/north-east-asia/223-stirring-up-the-south-china-sea-i.pdf.
15. International Crisis Group (2012). Stirring up the South China Sea (II): Regional Responses. Asia Report N°229,. 24 Jul 2012. http://www.crisisgroup.org/~/media/Files/asia/north-east-asia/229-stirring-up-the-south-china-sea-ii-regional-responses
16. Kaplan, Robert D. (2011). The South China Sea Is the Future of Conflict. Foreign Policy. Sept/Oct,. http://www.foreignpolicy.com/articles/2011/08/15/the_south_china_sea_is_the_future_of_conflict
17. Kagan, Robert D. (2012). The World America Made published by Alfred A. Knopf, 2012.
18. Kagan, Robert D. (2012). Not Fade Away. The myth of American decline. The New Republic. January 11. http://www.tnr.com/article/politics/magazine/99521/america-world-power-declinism?id=FoZ4F7oMNWb7y04UpK20GKfyrbir7aLsgUrHpHEN0jQVczVWeQ0QSkXGLNwv2vj219.Kurlantzick, Joshua (2011). The Asean Century? Not Quite Yet. Current History - A Journal of Contemporary World Affairs. January.
20. Kuroda, Haruhiko (2011). Is the Asian century upon us? http://www.chinadaily.com.cn/opinion/2011-05/10/content_12476305.htm.
21. Kurth, James (2009). Pillars of the Next American Century. Tracing the foundations of American global strength, from past to future. The American Interest. Volume 5, Number 2. November/ December.
22. Lưu Á Châu (2012). Sự đáng sợ của nước Mỹ. http://trankinhnghi.blogspot.com/2012/03/nghe-nguoi-trung-hoa-noi-ve-hoa-ky-va.html.
23. Lưu Minh Phúc (2011). Giấc mơ Trung Quốc.Tư duy nước lớn và định vị chiến lược trong thời đại hậu Mỹ. Nxb. Thời đại.
24. Marquand, David (2011). The End of the West: the Once and Future Europe. Princeton University Press.
25. Navarro, Peter & Greg Autry (2011). Dead by China, Confronting Dragon – A Global Call for Action. Publishing as Prentice Hall. http://www.deathbychina.com/DBC-excerpt.pdf .
26. Nehru, Vikram (2012). Collision Course in the South China Sea. http://nationalinterest.org/commentary/collision-course-the-south-china-sea-7380.
27.Trung Quốc tham vọng độc chiếm biển Đông - Kế hoạch ứng phó liên minh Mỹ - Australia. http://miscellaneous-land.over-blog.net/article-trung-qu-c-tham-v-ng-c-chi-m-bi-n-ong-k-ho-ch-ng-pho-ng-minh-m-_-uc-106345685.html
28. UNDP. Human Development Report 2010.
29. Uren, David (2012). The Kingdom and the quarry: China, Autralia feear and Greed. Publisher:Black Inc.
30. Nguyễn Lưu Viên. Trung Quốc đã thức dậy rồi... thế giới có run sợ chưa. http://vietnamlibrary.informe.com/trung-qu-c-no-th-c-d-y-r-ei-a-b-s-nguy-an-l-u-vi-dt230.html
31. Vinh Nguyễn (2010). Phía sau việc kinh tế Trung Quốc thăng hạng. http://vneconomy.vn/20100817113414261P0C99/phia-sau-viec-kinh-te-trung-quoc-thang-hang.htm.
32. Зиновьев А. А (1995). Запад. Изд. Центрполиграф. http://www.deloteca.ru/st2/r29/t1/id501
33. Зиновьев А. A. (2006). Что мы теряем? Сегоднья заадноевроейская циливизация находиться в сеpьезной опасности. Литературная газета. № 11-12, 22-28 Марта.
34. Ngoại trưởng Mỹ: Thái Bình Dương đủ rộng cho cả Mỹ và Trung Quốc. http://dantri.com.vn/c36/s36-636411/ngoai-truong-my-thai-binh-duong-du-rong-cho-ca-my-va-trung-quoc.htm
35. Ngoại trưởng Mỹ: COC phù hợp với lợi ích của tất cả các bên. http://hanoimoi.com.vn/newsdetail/The-gioi/558457/ngoai-truong-my-coc-phu-hop-voi-loi-ich-cua-tat-ca-cac-ben.htm.

29. Hồ Sĩ Quý (2009). Giá trị châu Âu: những gợi ý cho sự phát triển. Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu số 1.
30. Spengler, Oswald (1918, 1922). The Decline of the West (Der Untergang des Abendlandes) t.1. 1918, t.2. 1922).
31. “Thế kẹt”của Trung Quốc ở Biển Đông. http://nghiencuubiendong.vn/tin-ncbd/1567-qth-ktq-ca-trung-quc--bin-ong