Thứ Bảy, 21 tháng 9, 2013

Thơ Hoa Kỳ và Tân Hình Thức







Tạp chí Thơ {TC Thơ} bắt đầu từ số 19 (Thu 2000) giới thiệu thơ Tân Hình Thức {THT} Hoa Kỳ {HK}, kèm theo sáng tác của một số nhà thơ Việt Nam {VN} vừa tiếp thu bài học THT. Trong nhiều số sau, Khế Iêm và các bạn tiếp tục cổ động và đề cao THT qua nhiều tiểu luận, bài dịch, sáng tác; gây ra ấn tượng nhân tạo về một phong trào thơ vừa xuất hiện rầm rộ ở Mỹ, trong khi sự thực thì khác hẳn. Bài viết này hi vọng cung cấp cho độc giả không rành tiếng Anh và thiếu khả năng tra cứu, đặc biệt là người VN trong nước thiếu sách báo thế giới, một cách nhìn tương đối chính xác hơn về thơ HK hôm nay.

Con người tôi quảng đại, tôi dung chứa số đông.

Walt Whitman

Văn học Hoa Kỳ đặc biệt kể từ hai mươi năm gần đây

đổi thay hình dạng vì cuộc gặp gỡ với di dân.
Toni Morrison

*
Hoa Kỳ là một ngoại lệ không chỉ về lịch sử hay địa lý. Khác với châu Á hay châu Âu, vùng đất chưa mang đậm dấu ấn nhân văn ấy đúng là Tân Thế Giới cho dự án và sáng tạo. Thơ HK mang sắc thái đặc thù của loại văn học di dân lần lượt kế thừa và phát huy nhiều luồng văn hóa thế giới trên một lục địa phóng khoáng chưa bị bó buộc vào các nề nếp quá khứ như những vùng đất có lịch sử lâu đời... Có thể nói HK là dự phóng của địa cầu thu nhỏ vì tính đa văn hóa với sự đa dạng của các tộc người chung đụng nhau hàng ngày, đặc biệt ở các đại đô thị (1). Hơn bất cứ nơi nào khác, sự tương tác trong các sinh hoạt diễn ra tại đây với mức độ sôi động thường xuyên, chưa kể những xung đột khó tránh giữa các sắc dân và các địa phương về quyền lợi các thứ cộng thêm dị biệt tinh thần. Dưới những nét đậm nhạt tùy từng thời điểm của lịch sử chính trị, thi ca HK thể hiện điều vừa phác họa trên đây như một biểu đồ tâm lý-tinh thần không thể bỏ qua đối với những ai muốn tiếp cận vấn đề “thực chất và huyền thoại” của siêu cường số một ngày nay.


Trước khi đi sâu hơn tôi xin nêu lên vài con số để bạn đọc phần nào có thể hình dung quang cảnh của sinh hoạt thơ HK vào ngưỡng thiên niên kỷ mới: Theo danh sách của American Poetry Annual có khoảng 6000 nhà thơ hoạt động khắp nước trong đó hơn 1000 người đang giảng dạy các lớp, khóa sáng tác tại những đại học. Chưa kể hơn 2000 nhà xuất bản với báo chí định kỳ chuyên về thơ, cộng thêm hàng trăm giải thơ thường niên từ Pulitzer, National Book Award đến đủ loại tặng thưởng từ các tổ chức văn hóa hay đại học. Còn phải kể những buổi đọc thơ trên các đài phát thanh, truyền hình, và câu lạc bộ, phòng trà,… Tóm lại, có một nền văn hóa chuyên về thơ được hỗ trợ bởi cả mạng lưới chằng chịt thể chế công cộng lẫn tư nhân, từ chính quyền các cấp đến các địa phương xa xôi. Số nhà thơ nghiệp dư hiện nay lên đến vài trăm nghìn - lời bác hùng hồn cho vài ý kiến bi quan trước đây cứ lo thơ HK sắp chết (2).

Bên dưới các số liệu là sự chuyển động lớn về chính trị-văn hóa đã làm biến đổi sâu rộng tính chất WASP (3) của thi ca truyền thống bắt đầu từ thời lập quốc ở vùng New England quanh cái nôi lịch sử Boston. Từ thập niên 60 song song với cuộc chiến VN nhiều thi sĩ HK đã tham gia các cuộc tranh đấu cho quyền công dân và bình đẳng màu da, nam nữ, bên cạnh phong trào phản chiến toàn quốc. Thắng lợi chính trị của các lực lượng tiến bộ làm thay đổi bầu khí văn hóa, các giá trị mới ngày càng được phổ biến trong giáo dục và truyền thông dù các thế lực bảo thủ vẫn tiếp tục chống phá tinh vi (4). Trong ba thập niên cuối thế kỷ, hai sự kiện quan trọng sau đây đã tạo sinh khí cho các sinh hoạt tri thức và văn nghệ: xu thế dân chủ hóa bên cạnh trào lưu đa văn hóa. Ðể gia nhập thi đàn hôm nay nhà thơ trẻ HK không bắt buộc phải sinh sống ở New York, Boston, hay San Francisco như các thế hệ trước. Nhờ internet và hàng nghìn khóa sáng tác hàng năm tại vô số đại học khắp các tiểu bang, sự học hỏi và giao lưu trong giới làm thơ trở nên thuận tiện và nhanh chóng bội phần. Hàng trăm tạp chí văn chương với nhiều giải thưởng thơ do các đại học tài trợ song song với hệ thống xuất bản đại học giúp cho những tên tuổi và tài năng chưa được chú ý có nhiều cơ hội trình làng (5). Dân chủ hóa trong giáo dục với các sắc luật biệt đãi dân thiểu số (6) tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên da màu tham dự vào cuộc chạy đua học vấn và thăng tiến xã hội. Chỉ cần lượt qua phần danh tính trên sách báo HK hôm nay độc giả sẽ dễ dàng nhận ra sự góp mặt ngày càng đông đúc của các ngòi bút da màu không những trong học thuật mà cả trong sáng tác thơ văn.

Vậy thì thơ HK không bị suy vi mà đang tăng trưởng và phân hóa mạnh. Bây giờ với bản đồ Mỹ châu trước mặt mời bạn tham quan nhanh hiện tình thi ca, khởi hành từ cực Ðông Bắc HK, rồi men bờ biển xuống New York. Thủ đô lịch sử- văn hóa đầu tiên của nước Mỹ, Boston cùng các tiểu bang Massachusetts, Connecticut, Rhode Island… của vùng Tân Anh quốc đã và đang là lò đào tạo nhân tài cho HK và thế giới với đa số các đại học Ivy League ưu đẳng như Harvard, Yale, Amherst, Brown, Darmouth… Trước kia là thành lũy của tư tưởng Tin Lành vừa là thánh địa của dân chủ tư sản, nơi đây vẫn là đất “địa linh nhân kiệt” của tộc người anglo-saxon kể từ khi di dân khỏi châu Âu. Có thể lập một danh sách dài những thi sĩ HK hàng đầu sinh trưởng nơi đây, từng học hay dạy tại Harvard như Emerson, Poe, Longfellow, Eliot, Frost, Stevens, Aiken, Cummings…; hoặc xuất hiện lần đầu trên thi đàn nước Mỹ với giải thưởng đầy uy tín của đại học Yale tặng cho một thi tài trẻ (7).

Cũng như trục Paris-London đã từng đóng vai trò quyết định cho văn học phương Tây trước kia, từ bán thế kỷ hai mươi trở đi cái trục Boston-New York đã giành được uy thế của một đại trung tâm văn hóa khích lệ mọi thử nghiệm. Các trường phái thơ HK quan trọng như Confessional Poetry, New York School, Black Mountain, Beat, Language Writing, Nuyorican Café, Umbra Workshop… đã phát sinh và giữ những liên hệ mật thiết với cái trục này (8). Cùng với Hollywood-L.A., Boston-New York đóng vai chủ chốt trong việc truyền bá hình ảnh và huyền thoại của đế quốc văn hóa HK, một đàng bằng điện ảnh cộng truyền hình, một bên bằng chữ nghĩa và tư tưởng, tổng hợp khá tinh vi thành ý thức hệ bá chủ không chỉ đối với thế giới mà đặc biệt với các dân da màu cư ngụ trên đất Mỹ (9).

Ðây là nguyên ủy của biện chứng sáng tạo trong văn nghệ với học thuật thôi thúc các vùng văn hóa ngoại vi hay thiểu số phải đương đầu với đại trung tâm để tồn tại và phát huy bản sắc riêng (10); và lịch sử thi ca Mỹ thể hiện rõ nét biện chứng ấy qua các thi phái của miền Nam, miền Tây-Nam, hoặc miền biển California-West Coast, cùng các phong trào văn nghệ của dân thiểu số đã không ngừng tranh đấu để giành chỗ đứng và tiếng nói.

Ðối trọng đáng kể nhất là văn chương miền Nam (Southern Literature). Cùng với văn xuôi của Faulkner, Tennessee Williams, Carson McCullers… các thi sĩ miền Nam có hoài bảo phục hồi lối sống hương thôn và các quan hệ trường cửu giữa con người với thiên nhiên, chống lại văn minh công nghiệp và chứng tha hóa duy vật của thị dân phương Bắc. Hậu duệ của hai thi phái Fugitive-Agrarian (11), họ kế thừa tinh thần Robert Frost, vừa quan sát suy nghiệm vừa đối thoại chất vấn cảnh vật tự nhiên, các chu kỳ đồng áng, mùa màng, đồng thời ca ngợi chất thi vị dân dã với những nề nếp gắn bó của cộng đồng. Và cũng như Frost, nhà thơ miền Nam mang tâm trạng phân thân: dù cùng gốc Anh-Mỹ da trắng như đồng bào phương Bắc, họ lại đầy mặc cảm vì đã thua bại trong Nội chiến, cộng thêm lương tâm cắn rứt vì quá khứ chủ nô-da đen. Khác với khí thế chinh phục đầy tự tin của văn hóa phương Bắc, dòng thơ này nhuộm sắc trữ tình yếm thế nếu không nói là nặng tính bi kịch (12).

Nhưng cuộc đảo chánh ngoạn mục lật tung uy thế East Coast lại diễn ra bên bờ Thái bình dương khi những đứa con hoang của thế hệ Beat rời New York gia nhập nhóm văn nghệ giang hồ miền Tây, phần đông ngụ cư tại San Francisco. Giống các đàn anh như Fitzgerald, Hemingway, Henry Miller thời Lost Generation lang thang ở Paris, thế hệ lạc loài thứ hai này không chịu thích nghi với các giá trị, định chế tinh thần của dân anglo-saxon Tin Lành nên bỏ hương quán miền Ðông đi tìm những chân trời mới (13). Từ những năm 50-60 quanh vùng vịnh San Francisco hình thành một cộng đồng văn nghệ vô chính phủ quay lưng với nước Mỹ của chiến tranh lạnh và cơn sốt tiêu thụ. Các thi sĩ Beat đã gieo mầm cho counter-culture, kết hợp với tiếng nói và yêu sách của các thiểu số da màu để mở rộng không gian công cộng vừa giải phóng xã hội công dân thoát sự áp chế của văn hóa Da Trắng độc tôn. Một phần nhờ địa lý (tiếp giáp với văn minh Thái bình dương và dựa lưng vào Rocky Mountains, nơi sinh sống của nhiều thổ dân Bắc Mỹ), một phần do các đợt sóng di dân liên tiếp từ Nam Mỹ và châu Á, miền Viễn Tây HK trở thành đất lành cho cuộc phục hưng đa văn hóa những thập niên cuối thế kỷ 20. Cùng với California, thánh địa mới cho giới nghệ sĩ giang hồ đi tìm lối sống tâm linh là tiểu bang New Mexico vùng Tây Nam, đất tổ của dân Mễ trước khi bị HK xâm chiếm, nay được phong trào văn hóa-nghệ thuật Chicano mệnh danh là Aztlán (nghĩa là quê hương huyền thoại của tộc Aztec xa xưa) để phục hồi cội nguồn cho những di dân Mễ-Latino nói tiếng Tây Ban Nha (14). South Texas, New Mexico, Arizona, Colorado cũng đang chứng kiến sự hồi sinh văn hóa của các thổ dân. Các dòng thơ “ngoài luồng” như Pocho-Che (15), ethno-poetics (16), eco-critique (17)… khởi sinh từ văn hóa đối kháng miền Tây bên cạnh sự nở rộ của sáng tác người Mỹ gốc Á châu đã mang sinh khí mới cho thơ HK đang bị đe dọa bởi hai xu thế: đại học hóa và lý thuyết hóa.

Nếu ta có thể chỉ ra khu vực sinh hoạt của các phong trào và phái nhóm vừa kể trên bản đồ địa lý thì ngược lại có hai dòng thơ đầy khí thế vừa đa dạng về tài năng đã hòa trộn khắp nơi trên nước Mỹ. Chắc bạn đọc đã đoán ra; đó là thơ da đen và thơ nữ quyền tiếp tục đối chất với nền văn học chủ lưu của đàn ông da trắng Anh-Mỹ trên từng con đường, góc phố, mái nhà… Từ thuở Harlem Renaissance, qua Black Arts Movement song song với tranh đấu dân quyền, đến trào lưu hip-hop hiện nay với thơ và nhạc rap, ý thức chính trị với tự hào dân tộc đã giải phóng sáng tác cũng như học thuật da đen, vừa phát hiện lại các văn bản thời nô lệ (đặc biệt là thơ phụ nữ da đen), vừa kiến tạo một diện mạo tập thể cho cộng đồng da đen ở châu Mỹ, kế thừa truyền thống Phi châu phong phú và học hỏi kinh nghiệm của các dân tộc bị áp bức. Dưới nhiều hình dạng, đặc biệt là trình diễn, thơ da đen đang là chất xúc tác hàng đầu cho các phong trào hay sinh hoạt văn nghệ đa văn hóa HK (18). Còn một điều cần lưu ý; tiếng nói của phụ nữ da đen cũng giữ vai trò mũi nhọn trong sáng tác nữ quyền HK. Nếu đàn bà da trắng chỉ đòi bình đẳng giới tính và quyền lợi trong sự phản kháng chống chế độ phụ quyền, người bạn da đen của họ còn phải đấu tranh chống chính sách kỳ thị công khai hay giấu mặt của dân da trắng. Thơ văn nữ quyền HK ngoài ý thức chính trị cao còn chuyên chở thêm các mâu thuẫn giữa những nhóm phụ nữ khác màu da, nhưng cùng chiến tuyến. Trong hai thập niên gần đây sự tham gia ngày càng sôi nổi của phụ nữ gốc Á châu càng làm tăng thêm màu sắc đa văn hóa của sáng tác nữ giới nói chung ở Mỹ (19).

Richard Gray, học giả hàng đầu của Âu châu về văn học HK, gần đây có nhận định về tác động sâu rộng của chuyển biến dân số (từ các lớp sóng di dân và mức sinh sản cao của dân da màu) trên văn hóa-xã hội Mỹ, làm thay đổi cả tính chất của văn học HK: “…bị thay hình đổi dạng vì mãnh lực của những đợt dân số đa văn hóa luôn chuyển động, Hoa Kỳ đã chứng kiến sự xóa nhòa ranh giới giữa ‘trung tâm’ và ‘ngoại biên’. Và khi những người Mỹ trắng có vẻ như không tránh được xu thế trở thành thiểu số, HK cũng mất luôn bất kỳ lý lẽ hoặc một cái cớ nào vin vào đó để xác định một đặc tính Âu châu trung tâm hay một mệnh số ngoại hạng như trước đây”(20). Giáo sư Gray còn phác họa một hoàn cảnh mới quyết định sáng tác văn học Mỹ, ông gọi đó là một không gian mang tính thẩm thấu (permeable space) nơi gặp gỡ của các quốc gia và văn hóa: “Ðó là không gian lưng chừng, không gian của tính hậu hiện đại hoặc hiện đại cực đoan hóa mang dấu ấn của tan rã và phân tán, lưu động và vỡ vụn, tạp dị và lai giống - tất cả trên bình diện toàn cầu. Biểu hiện những văn hóa khác nhau, sinh sống giữa các nền văn hóa và ứng đáp với những nguồn cội cùng kinh nghiệm đa dạng của chúng, tất cả ngòi bút ở Mỹ đều chất vấn một cách hữu hiệu khái niệm của một di sản chung và các ranh giới cố định… Ðất nước mà họ khám phá và mô tả trong tác phẩm không mang những nét viền bất biến như xưa của một Ðịa Ðàng HK. Ðó là một nơi chốn với những ranh giới lưu động , chỗ gặp gỡ của những lịch sử văn hóa kình chống, dẫm lấn, và rốt cuộc lại phụ thuộc lẫn nhau… So với trước đây, bản chất quốc gia mất bớt đi tính quyết định, mở rộng hơn để đón các truyện kể và lịch sử khác”(21).

Dù đang đứng trước khủng hoảng, văn hóa chủ lưu (mainstream culture) vẫn tiếp tục theo đà đại học hóa với những khóa học sáng tác đều đặn sản xuất mỗi năm hàng vạn thi sĩ trường ốc ôm bằng M.F.A. (Master of Fine Arts, Cao học Nghệ Thuật) vào đời. Bên cạnh ưu điểm là tính dân chủ, lối đào tạo đại trà ấy hàm chứa nguy cơ của sự đồng bộ hóa, kèm với dễ dãi hóa vì các giảng viên cũng phải chạy theo năng suất trong thị trường chữ nghĩa và bằng cấp (22). Nếu đòi hỏi chất lượng quá cao thì các chuẩn-thi-sĩ sẽ bỏ cuộc và các khóa sáng tác sẽ dẹp tiệm! Nhà thơ rất quen thuộc trong giới đại học Donald Hall từng phê phán: “Loại thơ ấy trên hết mang tính cá nhân; đó là loại thơ tự biên tự diễn say đắm tác giả của mình”… Và loại thơ của tiếng nói cá thể ấy làm ngược lại điều nó đắc ý tuyên xưng: nó mắc phải bệnh thiếu cá tính, “cá mè một lứa”: Workshop Poem, McPoem, Clone-Poem hoặc SAP, nghĩa là Standard American Poem {Bài Thơ HK Chuẩn Mực} (23).

Cùng vào thời điểm đầu thập niên 80 xuất hiện hai phản ứng chống lại loại thơ trường học dễ dãi: phái Ngôn Ngữ {NN}(Language Writing) và nhóm Tân Hình Thức {THT}(New Formalism). Các nhà thơ trong phái NN tiếp nối chủ nghĩa tiên phong của các phái Objectivism (Khách Quan Thi Pháp) và Black Mountain School, chủ trương thử nghiệm và chất vấn ngôn ngữ trong sáng tác thơ văn. Chịu ảnh hưởng của Paris, nhất là phê bình hậu-cấu trúc của Kristeva với nhóm Tel Quel, họ đặt ngôn ngữ trước vành móng ngựa của lý trí phê phán và tố cáo nó đồng lõa với ý hệ thống trị. Họ muốn thông qua sáng tác cải tạo nó, khởi đi từ các thành tố cơ bản của ngữ âm và ngữ pháp. Phần đông là những nhà hàn lâm khuynh tả, hành vi ‘cách mạng’ của họ tương tự tham vọng xóa nhòa ranh giới giữa sáng tác và phê bình của một số tác gia hậu hiện đại: coi lý thuyết và thi pháp là một (24). Nhóm THT trái lại tránh né lý thuyết để trở về truyền thống của vần điệu và thi luật. Chê trách loại thơ tự do phá thể được giảng dạy khắp các đại học, nhóm này muốn chấn hưng thi đàn bằng những ước lệ và qui phạm ổn định từ thời thơ cổ điển Anh với Chaucer, Shakespeare, Milton… Xung đột thơ cũ / thơ mới vẫn xảy ra trong lịch sử thi ca của bất cứ dân tộc nào; tại HK trước đây trong những năm 20 hoặc thập niên 50 các thi sĩ miền Nam trong phái Fugitive và nhóm Tân Phê Bình cũng đã tìm về hình thức ước lệ của truyền thống thi ca Anh-Mỹ. Hiện tượng THT chẳng có chi độc đáo đối với chuyên ngành văn học sử: trong biện chứng của vận động văn hóa-văn nghệ truyền thống và hiện đại nếu không đối thoại thì vẫn song hành cho đến lần chạm trán kế tiếp. Nhưng có lẽ điều đáng lưu ý trong trường hợp này không thuộc về lĩnh vực văn chương thuần túy mà liên quan nhiều hơn đến môn tâm lý học xã hội. Cụ thể hơn là các biến động tâm lý chiều sâu của người Mỹ da trắng đang bị khủng hoảng về văn hóa và lý lịch trước nguy cơ sắp bị biến thành dân thiểu số trước sức tăng trưởng dân số không gì ngăn nổi từ các cộng đồng da màu trên nước Mỹ (25). Quay về truyền thống và ước lệ, dựa dẫm vào những nếp văn hóa ổn cố, phải chăng quan điểm thẩm mỹ bảo thủ của nhóm THT (đa số là các nam thi sĩ Mỹ trắng) là một cách tự trấn an khi ưu thế đặc quyền của họ bị lung lay? (26).

Trên các số TC Thơ viết về THT, chúng ta không thấy được bối cảnh lịch sử-xã hội đằng sau các chọn lựa thẩm mỹ trong sinh hoạt văn chương HK. Mặt khác có lẽ các hạn chế về Anh ngữ và văn hóa đã khiến những bạn phất cờ THT, đứng đầu là Khế Iêm, không hiểu được đến nơi đến chốn những điều họ nhiệt thành rao giảng. Căn cứ vào những thiếu sót và sai lầm trong mấy bài dịch giới thiệu các văn bản quan trọng của phong trào THT, người đọc sẽ đặt câu hỏi về khả năng lĩnh hội thấu đáo những vấn đề phức tạp liên quan đến thi học hay thi luật Anh-Mỹ, chưa nói đến lịch sử thi ca HK và văn học sử nói chung (27). Ðại bộ phận sáng tác THT là các bài thơ tuân thủ thi luật Anh truyền thống, dựa trên ngữ điệu căn bản của tiếng Anh (English prosody) để cấu tạo từng câu hay kiến trúc toàn bài. Ngữ điệu đó là nhịp iambic xuyên suốt nhiều thế kỷ thi ca, như câu thơ bình dị sau đây của Shakespeare: ”I ne/ver saw/ a fa/ther in/ my li/fe” (28)

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10

Ðây là một câu pentameter (năm tiết nhịp) theo luật iambic (các trọng âm rơi vào số chẵn, 2-4-6-8-10), gắn bó lâu đời với ngữ điệu tự nhiên của tiếng Anh bắt đầu với tục ngữ và đồng dao. Khi các trọng âm rơi vào số lẻ câu thơ sẽ đổi qua luật trochaic, thật ra là dạng đối xứng của luật iambic: do đảo nhịp, trọng âm từ số chẵn nhảy qua lẻ nhưng cấu trúc tiết nhịp của câu thơ vẫn không thay đổi, nghĩa là vẫn trọng âm/khinh âm/trọng âm/… đều nhịp. Dù có vài biến thể ngữ điệu khác (như anapest, dactylic…) iambic với trochaic là hai dạng căn bản của thi luật Anh-Mỹ truyền thống.


Trong tập Rebel Angels (29), thi tuyển của 25 nhà thơ THT Mỹ, phần lớn các bài thơ dù có gieo vần hay không đều giữ cấu trúc tiết nhịp và trọng âm truyền thống. Sau đây là vài thí dụ:

A.

Yell/ow free/sia arc/ like twi/ning arms/ ;
I’m buy/ing show/er cur/tains, smo/ke alarms/,
And Wash/ington/ ,and you/ , Love/ -- stat/es away/ .
The clouds/ are flat/. The sky/ is go/ing grey/ .

Elizabeth Alexander – Letter: Blues, tr.3

B.

You drink/ to piss/ it all/ away/
You play/ it tough/ to seize/ the day/

 Toss out/ more chips/ and spread/ your stuff/
Or end/ it with/ enough/ enough/ …

R.S. Gwynn - Anacreontic, tr.64



Hai trích đoạn này khá tiêu biểu cho thơ THT. A dùng pentameter (5 tiết nhịp), B dùng tetrameter (4 tiết nhịp). Mọi câu thơ đều có vần và theo luật iambic, trừ câu đầu A đảo nhịp theo trochaic; và chữ Love phá cách khi E. Alexander nhấn mạnh từ này để tạo bất ngờ và tăng độ biểu cảm (cuộc tình cách biệt!), cộng thêm quãng lặng ngắn trước cụm “states away” như một tiếng thở dài.


Trong nhiều trường hợp các thi sĩ THT dùng blank verse kiểu Milton: câu thơ không cần cước vận nhưng vẫn theo luật tiết trọng âm.Chẳng hạn đoạn pentameter này:

C.


A sound/ like a rus/ty pump/ beneath/ our wind/ow
Woke/ us at dawn/. Draw/ing the cur/tains back/
We saw/ --through milk/y light/, above the dog/ house/
A blue jay/ lect/uring/ a neigh/bor’s cat/ …

Paul Lake - Blue Jay, tr.124

hoặc mấy câu tetrameter (4 nhịp) không vần sau đây:


D.


Ma/ma, there/ are black/ cow/boys.
A fist/ful/ of black/ crotch/.
Dead/wood Dick/. Don’t fuck/ with me/
Black/ cow/boy. Leath/er hat/.


Elizabeth Alexander - Deadwood Dick, tr.2

Có thể trích dẫn thêm; nhưng các bài thơ trong thi tuyển này, trừ vài ngoại lệ hiếm hoi, chứng tỏ rằng nhóm thi sĩ THT ở Mỹ đã trung thành với các ước lệ thi pháp Anh-Mỹ của những thế kỷ trước đây, đặc biệt là luật trọng âm (accentual meter). Các nhà thơ VN trên TC Thơ trái lại đã rất phóng túng, chưa nói là tùy tiện, trong sáng tác THT của họ. Nếu theo đúng tinh thần bảo thủ của thi phái THT Mỹ, nhà thơ VN phải quay về với vần điệu và niêm luật trong thơ cũ VN của Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan; hoặc ít ra với dòng Thơ Mới Tiền Chiến vẫn còn nhịp nhàng êm tai. Ðằng này các bài THT trên TC Thơ khiến người đọc có cảm giác đứng nhìn một trò chữ nghĩa biến những câu văn xuôi trung bình thành từng đoạn thơ bằng cách ngắt câu vắt dòng, bên cạnh việc lặp đi lặp lại khá nhàm một vài chữ hay ý tưởng. Thí dụ vài đoạn như sau:




người đàn ông hai mươi năm trước, không
nghe, không thấy được gì từ người đàn
ông hai mươi năm sau, cứ lầm lũi,
lầm lũi, lầm lũi, tựa bóng ma, và
chẳng hề hay biết, người đàn ông hai

mươi năm trước cũng là người đàn ông
hai mươi năm sau, đang đợi nhau, đợi
nhau, đợi nhau, như cái sống đợi cái
chết, ròng rã, đã hai mươi năm, dù

vở tuồng vẫn chưa được viết, và đêm
kịch vẫn chưa mở ra, những thùng rác
vẫn chứa rác và không chứa gì khác.

Khế Iêm - Ảnh Ảo – TC Thơ 19, tr.100

“lầm lũi”, “bóng ma”, “hai mươi năm trước”, “hai mươi năm sau”, “đêm kịch”, “vở tuồng”, “những thùng rác”… là một số hình tượng và từ ngữ quá quen thuộc của thơ văn VN và thế giới. Bi kịch của sự nhàm chán lải nhải đã được những tên tuổi như Joyce, Beckett, Céline, Louis-René des Forêts diễn tả đến mức thượng thừa! Những bài thơ như Ảnh Ảo trên TC Thơ chẳng qua là một lối viết tự sự kiểu cách, nặng tính tu từ pháp mà chính tác giả bài thơ đã lớn tiếng chỉ trích trong các tiểu luận của ông (30). Dù sao tính tổ chức theo cấu trúc liên hoàn trong bài Ảnh Ảo và một vài bài thơ khác của Khế Iêm cũng cho thấy ông quan tâm đến chuyện “tay nghề” hơn khá nhiều thi hữu khác trong nhóm chỉ cần nhắm mắt phóng bút là ra thơ …THT …à la vietnamienne! Chẳng hạn:



Trong khoảnh khắc có một
cái chết và chỉ cái chết mới
rõ là mình chết đi. Chỉ có
cái chết mới biện minh được rằng
họ không sống, và tiếng nói của
nó là sự vô tri và câm
lặng tuyệt đối. Nhưng có những cái
chết nói nhiều hơn tiếng nói sự
sống. Có những âm vang từ vô
ngôn, vô tận. Người ta sinh ra
từ sự chết. …

Quỳnh Thi - Chỉ Có – TC Thơ 19, tr.110

Cách ngắt câu xuống dòng loạn xị đã “nâng cấp” cho đoạn văn triết lý vụn khá tầm thường trên đây. Ngọn gió THT đã cứu sống nhiều câu văn xuôi đa ngôn và vô vị, tân trang chúng thành một loại thơ văn xuôi… dễ hiểu, dễ làm. Vì thế, không lấy gì làm lạ khi trên nhiều số TC Thơ bỗng nhiên nô nức “thi pháp đời thường”, bất cần ngữ điệu và nhạc tính của tiếng mẹ, tác sinh vô số câu cú không ra văn mà cũng chẳng ra thơ! (31)


Người đọc thông minh đến đây chắc sẽ phì cười cho rằng kẻ viết bài này “đầu voi đuôi chuột”: Mở đầu thì bàn hươu tán vượn về một lục địa thi ca đa văn hóa, chung cuộc lại chui vào cái rọ chữ Giao Chỉ! Thật ra bàn về THT và TC Thơ chỉ là một cái cớ, mục đích của những trang dông dài này là tiếp tục suy nghiệm từ một bài viết mới đây trên Hợp Lưu (32) về hiện tình thơ VN sau ba mươi năm di dân sang Mỹ và thế giới. Chúng ta, người Việt ở nước ngoài, đang bước vào thời đại toàn cầu hóa cùng với các dân tộc, cộng đồng khác.

Toàn cầu hóa và đa văn hóa là hai xu thế không thể đảo nghịch trong thế kỷ mới này. Người VN yêu thơ, dù trong sáng tác hay học thuật, cần mở rộng nhãn quan nhìn ra mọi phương trời và không cần hấp tấp nuốt vội các món thời trang. Bài học lịch sử từ các di dân da màu trên nước Mỹ cho thấy ý thức văn hóa phải đồng hành với đấu tranh chính trị.

Và không thể tách rời tự do bình đẳng trong xã hội với tự do bình đẳng trong ngôn luận và tư tưởng. Sự tái tổ chức của các lực lượng và cộng đồng bảo thủ ở Mỹ, đặc biệt là dân da trắng miền Nam (33), trước sự tăng trưởng của dân số da màu và áp lực đa văn hóa, báo hiệu một sự đụng độ phức tạp trong những năm sắp tới. Di dân VN, dù là dân thường hay thi nhân nghệ sĩ, khó có thể đứng bên lề làm khách bàng quan. Mặt khác, vào thời đại của tự do thị trường với tư bản toàn cầu, tất cả đều bị đe dọa biến thành thương phẩm kể cả văn hóa-văn nghệ. Làm thế nào để khỏi bị lường gạt, dụ dỗ trong các siêu thị chữ nghĩa của nền văn minh “hậu hiện đại” tranh tối tranh sáng “mập mờ nhân ảnh”? (34) Sau cùng, trước uy quyền vô hình của đế quốc văn hóa làm sao bảo vệ óc tim độc lập và khốn khổ (conscience malheureuse) của người cầm bút mà không cần đến sự trợ lực của các thứ “nha phiến” tân kỳ, lắm khi ngụy trang dưới dạng tác phẩm của chính mình?

CHÂN PHƯƠNG


Phụ đính:

Tạp Chí Thơ giới thiệu thi phái Tân Hình Thức Hoa Kỳ (New Formalism) qua nhiều bản dịch phần lớn do Khế Iêm dưới bút hiệu Ltt và Nguyễn Thị Ngọc Nhung chuyển ngữ. Ðáng tiếc là các bản dịch ấy có nhiều sai sót làm hại nội dung của các nguyên tác. Vì giới hạn của bài viết tôi chỉ đơn cử một số ví dụ từ hai bản dịch của Ltt: A/ John Briggs, Fractals (Introduction), Touchstone Books, 1992; và B/ Jarkman & Mason eds., Rebel Angels (Preface), Story Line Press, 1996. Ðể bạn đọc có thể kiểm tra tôi đánh số các đoạn có chữ, câu trích dẫn; chẳng hạn A1 là đoạn mở đầu bài nhập của Fractals, B3 là đoạn 3 bài Preface, Rebel Angels.

Trong dịch thuật, sai sót thường thấy ở 5 dạng: 1/ vụng về; 2/ hiểu sai; 3/ không hiểu nên dịch mò; 4/ hiểu nhưng không tìm ra thuật ngữ tương xứng; và 5/ phạm lỗi văn phạm hay đọc trật ngữ pháp. Cả 5 dạng này xuất hiện khá nhiều trong các bản dịch của Ltt tức Khế Iêm trên tạp chí Thơ.

1. A4:(studied) under glass in a laboratory = (học) dưới lớp kính phòng thí nghiệm. Ở đây nên dịch studied là nghiên cứu, khảo sát. A3: expose its (under-lying logic) = phơi bày (lý giải cơ bản). Nên dịch: phơi bày cái lý tiềm tàng/ hoặc/ lôgích bên dưới.

2. A2:Swallows... gathering and (flying off) in an organized flock. A lightning bolt (fracturing) the sky. = Những con chim én... tụ tập lại, (bay nhập vào) bầy đoàn có tổ chức. Ánh chớp nhoáng, (đứt đoạn) trên nền trời. Nên dịch: Ðàn én... tụ lại và bay đi trong một đội hình. Ánh sét xé rách nền trời.

3. A1:With its variability, (general dependability)... weather infiltrates our schedules... = Với sự biến đổi, (sự tùy thuộc tổng quát)... thời tiết xâm nhập vào thời khóa biểu. Ðây là kiểu dịch từng chữ một (mot à mot) với cuốn từ điển! Ở đây câu nguyên văn không có gì bí hiểm mà chỉ bàn về thi tiết, dù hay biến đổi nhưng thường thường vẫn có thể tin cậy được (general dependability).

4. A2:(pattern) created by (boulders) = (dạng thức) tạo bởi (những viên sỏi). Boulder là tảng đá to, người dịch quên tra từ điển; nhưng đáng bàn ở đây là từ pattern, một thuật ngữ của nhiều ngành, đặc biệt là tạo hình. Gọi pattern là dạng thức thì không đúng mà cũng không sai. Tương đương trong Hán tự là VĂN, nên ta có cụm từ hoa văn, văn tiết (pattern) trong trang trí, điêu khắc,v.v. A14: thruster rockets = hỏa tiễn kích thủy lực. Người đọc không chuyên về kỹ thuật phi thuyền không gian muốn biết dịch giả dựa vào tài liệu nào để tìm hiểu về kích thủy lực?

5. Nặng hơn là các lỗi văn phạm. Thí dụ trường hợp hai chữ sau không có liên can gì nhau trừ tự dạng! THOUGH là một liên từ (conjunction) với chức năng văn phạm quan trọng trong tiếng Anh có nghĩa là TUY NHIÊN, CHO DÙ; còn THROUGH có nghĩa QUA, THÔNG/ XUYÊN QUA. Trong các bản dịch Ltt đã lẫn lộn THOUGH thành THROUGH. A15: though, to be sure = qua đó chắc chắn; A16: Though unpredictable in detail = Qua chi tiết không thể đoán..; B10: Ultimately though... = Ðiều cơ bản qua đó...; và còn nữa. Về ngữ pháp tiếng Anh khi gặp các vế lồng vào nhau (clause within clause) dịch giả cũng hiểu sai vì không biết phân tích câu văn. Thí dụ A16: In fact, scientists learned that there are certain repeatable, rough patterns //systems seem attracted to// as they break down into or emerge from chaos. = Thực tế, những nhà khoa học hiểu rằng, (dạng thức của hệ thống) được lặp lại rõ ràng, bị lôi cuốn như thể chúng vỡ ra hoặc hiện xuất từ hỗn mang. Rõ ràng người dịch thay vì ngắt hai vế ra lại nhập chung vào nên hiểu patterns//systems = dạng thức của hệ thống! Phải hiểu câu nguyên tác trên như sau: Thật ra các nhà khoa học đã nghiệm thấy rằng các hệ thống hình như bị cuốn hút vào một số văn dạng (patterns) thô sơ lặp đi lặp lại khi chúng (hệ thống) vỡ tan hoặc nảy sinh trong hỗn mang.

Hiểu sai một từ hay vài chữ ai cũng có thể tra từ điển hay tham khảo sách chuyên môn; đọc sai ngữ pháp người dịch nên tự giác mở sách Anh văn học lại .

Nguyễn Tiến Văn, một dịch giả cẩn trọng và am tường Anh ngữ, đã phát hiện sự thiếu sót trong bản dịch B/ của Ltt và đã cất công dịch lại. (Ðộc giả có thể đối chiếu hai bản dịch: Ltt {Khế Iêm}, Những Thiên Thần Nổi Loạn, TC Thơ 19; và Nguyễn Tiến Văn, Những Thiên Sứ Nổi Dậy, TC Thơ 23). Với độc giả TC Thơ, ít ra dịch giả Nguyễn Tiến Văn cũng cho thấy ông tôn trọng đúng mức tác giả của nguyên tác. Tôi chỉ có chút ý kiến về vài từ-thuật ngữ ông đã dùng khi chuyển ngữ. Trước tiên là chữ VERSE mà ông dịch là VĂN VẦN (Nguyễn Thị Ngọc Nhung cũng từng dịch như vậy). Verse, vers, là từ hoán dụ cho thơ, thi ca vì các tác giả muốn tránh nhắc đi nhắc lại chữ poetry, poésie. Mallarmé có bài tuyên ngôn lừng danh La Crise du Vers mà ta không thể dịch là Sự Khủng Hoảng của Văn Vần! Mặt khác, Nguyễn Phan Cảnh trong chuyên khảo Ngôn Ngữ Thơ từng viết: “Truyền thống VN phân biệt rành rẽ thơ và diễn ca, văn vần”. (tr.58). Một thuật ngữ rất khó xử lý khác là METER mà Nguyễn Tiến Văn có khi dịch là VẬN LUẬT khi là LUẬT ÂM TIẾT. Cả hai cách đều không chính xác vì trong thi học Anh-Mỹ câu thơ đúng luật (meter) lắm khi không cần vần (blank verse của Milton thí dụ) mà chỉ cần nhấn đúng trọng âm (accentual meter) và không quan tâm nhiều đến âm tiết như thơ Pháp hay Ðường thi. Trước đây tôi tạm dịch METER là THỂ hay THỂ LUẬT dựa vào lịch sử thi ca Á đông đã từng có cổ thể thi, tân thể thi, thể tứ tuyệt, thể lục bát... Nay tôi lại phân vân vì THỂ hàm nghĩa quá rộng, có khi còn chỉ về hình thức, cấu tạo của cả bài thơ. Hay là chúng ta dùng từ CÁCH LUẬT vì từ nguyên CÁCH có nghĩa là khuôn thước dùng để đo đạt, tương ứng với METER mà nghĩa gốc là thước đo trong các ngôn ngữ Tây Âu bắt nguồn từ tiếng Latinh.

CHÂN PHƯƠNG

Phụ chú:


1. Louis Adamic từ 1945 gọi HK là A Nation of Nations trong tác phẩm cùng tên. Một chi tiết đáng ghi nhận: hiện nay cư dân Los Angeles nói khoảng 120 ngôn ngữ. Xem thêm Steven Hoelscher, Conversing Diversity, trong Textures of Places do Paul C. Adams ed., Univ. of Minnesota Press, 2001.


2. Các số liệu lấy từ Christopher Beach, Poetic Culture, Northwestern UP, 1999, t.2. Ðây là một biên khảo giá trị mang tính xã hội học xem xét thơ HK trong tương quan với các thiết chế văn hóa, nhất là đại học và các nhóm cộng đồng thi sĩ. Mùa đông 1995 truyền hình công cộng PBS phát hình khắp nước chương trình đại qui mô về thơ HK, The United States of Poetry, có 80 thi sĩ khác màu da tham dự từ cấp Nobel (Milosz, Walcott, Brodsky) đến hạng chưa có danh tiếng. Joseph Epstein trên Commentary (#86, 1988) báo động về sự hấp hối của thơ HK và mở ra tranh luận sôi nổi trên diễn đàn văn học Mỹ có Dana Gioia, Vernon Shetley, Donald Hall... nhập cuộc.

3. WASP = white anglo-saxon protestant là cụm từ chỉ di dân Mỹ chính gốc Tin Lành sang Tân Thế giới, được huyền thoại hóa thành chủ nhân da trắng có công lập quốc. Từ những năm 60 thuyết hệ da trắng độc tôn này (White supremacist discourse) bị các phong trào đa văn hóa phê phán triệt để. Hiện nay môn Hoa Kỳ học (American Studies) đã tự giác cải tạo quan điểm học thuật và tái định nghĩa gốc gác cùng lý lịch các nhóm cư dân ban đầu vùng thuộc địa New England. Mất quyền khống chế văn hóa (cultural hegemony) dân WASP bị khủng hoảng tâm lý vì Ngã tính đế chế (Imperial Self) rạn vỡ sau chiến tranh VN như Humpty Dumpty trong bài đồng dao xưa; từ đó sinh ra nhân cách hậu hiện đại HK vừa lạc phương hướng về tư tưởng (không còn meta-narrative), vừa ba phải về đạo lý. Nên tham khảo Stephen Whitfield, The Imperial Self in American Life, trong Columbia Journal of American Studies (Vol.4, #1, 2000) bên cạnh bài điểm sách uyên bác của Ivy Schweitzer, Salutary Decouplings: The Newest New England Studies, trong American Literary History (Vol.13, #3, 2001). Tủ sách chuyên đề New Americanists (Tân HK học) do Donald Pease chủ biên và Duke University xuất bản là diễn đàn chủ yếu của học thuật tiến bộ Mỹ hôm nay.

4. Từ đó nổ ra xung đột văn hóa (cultural wars) trong hai thập niên 80-90. Allan Bloom, tác giả The Closing of the American Mind (NY,1989) với lý thuyết gia Hậu-Chiến Tranh Lạnh Samuel Huntington, kẻ lớn tiếng báo động về đụng độ văn minh, The Clash Of Civilizations, trong Foreign Affairs (Vol.72, #3, 1993) là hai gương mặt cánh hữu tiêu biểu kêu gọi HK dựng lại phòng tuyến cho văn hóa da trắng phương Tây. Về mặt đối nội họ cũng chủ trương hạn chế tầm ảnh hưởng của các yêu cầu đa văn hóa, xem David Palumbo-Liu, Multiculturalism Now: Civilization, National Identity, and Difference before and after September 11th, trong Boundary2 (Vol.29, #2, 2002). Sau vụ 11-9-2001, ai chỉ trích chính sách quân sự ngoại giao của HK sẽ bị nhà nước USA quy kết là có óc bài Mỹ (chú thích 26, tr.126, bài vừa dẫn).

5. Phần lớn đại học HK đỡ đầu các tạp chí và xuất bản văn thơ. Ðể có một tổng quan có thể đọc thi tuyển từ xuất bản đại học do Ronald Wallace biên tập: Vital Signs, Univ. of Wisconsin Press,1989.

6. Ðứng đầu là chính sách bất thành văn Affirmative Action từ tổng thống Johnson để nâng đỡ dân da đen với thiểu số trong nghề nghiệp, giáo dục, nhà ở...; và bị chống đối từ các cộng đồng da trắng, nhất là di dân đến sau từ Trung Âu phải vất vả kiếm ăn trong một nền kinh tế ngày càng nợ nần vì chiến tranh và thâm thủng ngân sách. Xem John David Skrentny, Affirmative Action and the Failure of Presidential Leadership, trong One America, Stanley Renshon chủ biên, Georgetown University Press, 2001.

7. Tại Mỹ muốn có vốn liếng văn hóa (capital culturel, Pierre Bourdieu) sang nhất là tốt nghiệp ở Ivy League vùng New England. Harvard và Yale là hai đại học đầu tiên trong vùng. Giáo sư học giả Helen Vendler dạy môn thơ Anh-Mỹ tại Harvard là tiếng nói phê bình uy tín nhất hiện nay ở HK. Từ 1919 Yale trao giải thơ Yale và xuất bản thi phẩm đầu trong Yale Series of Younger Poets cho thi sĩ trẻ nào trúng tuyển. Không xa Yale là Wesleyan vớI chương trình xuất bản thơ từ 1958 nhằm giới thiệu thi tài mới, cả hai đại học này đã góp phần quan trọng trong việc phát hiện, đỡ đầu các nhà thơ chưa nổi tiếng. Ðọc thêm bài dẫn nhập tường tận của George Bradley ed., The Yale Younger Poets Anthology, Yale Univ. Press, 1998.

8. Quá trình vừa cạnh tranh vừa hợp tác giữa Boston và New York là một đề tài lý thú cho những ai tò mò về văn hóa và tư tưởng HK; xem Nina Baym, Early Histories of American Literature: A Chapter in the Institution of New England, trong The American Literary History Reader, do Gordon Hutner chủ biên, Oxford Univ.Press, 1995. Phần lớn thi sĩ trong tuyển tập do Paul Hoover thực hiện, Postmodern American Poetry (Norton, NY, 1994) đều sinh trưởng ở New England hay New York, từng theo học Harvard, Columbia, Yale, Brown, Cornell,...

9. Xem chú thích 3. Ngoài các thiểu số da đen hay Trung Mỹ, New York với Greenwich Village còn là thánh địa của dân Do Thái gốc Âu châu, cái lò sinh ra dòng văn học đầy chất thử nghiệm vì tính cách hoàn vũ (cosmopolitan) của trí thức nghệ sĩ Do Thái HK không ngừng đối chất văn hóa chủ lưu WASP. Cũng như cộng đồng gốc Irish ở Boston, vai trò phản diện của cộng đồng Do Thái ở New York là một đề tài công phu khác cho những ai muốn đi sâu vào lịch sử tư tưởng hiện đại Mỹ. Bắt đầu có thể tham khảo Terry Cooney, The Rise of the New York Intellectuals, Univ. of Wisconsin Press, 1986; và David Lehman, The Last Avant-Garde, Doubleday, NY, 1998.

10. Trong khái niệm không gian ký hiệu (semiotic space), Lotman nhấn mạnh chức năng chủ yếu của ranh giới (boundary) phân biệt Chúng Ta (Trong) / Chúng Nó (Ngoài). Chính các xung đột biện chứng tại đường ranh Trong / Ngoài tạo ra vận động sáng tạo trong toàn khí quyển văn hóa (semiosphere); và trung tâm với ngoại vi luôn hoán chuyển qua thời gian. Dù là đế quốc văn hóa, HK cũng không thoát khỏi qui luật biến dịch này; các phong trào chính trị đa văn hóa từ thập niên 60 là minh họa sinh động cho qui luật ấy. Xem Yuri M. Lotman, Universe of the Mind, Indiana Univ. Press, 1990, Phần 2 , Chương 8 và 9.

11. Vào khoảng 1915 phái Fugitive (Trích Lữ) qui tụ quanh đại học Vanderbilt ở Tennessee với các nhà thơ - phê bình gia đầy tiềm năng như Ransom, Tate, Donald Davidson... Tạp chí The Fugitive ra đời năm 1922 ở Nashville khai trương dòng văn học hiện đại miền Nam có ảnh hưởng rộng khắp nước Mỹ. Tiếp thu chủ nghĩa tượng trưng Pháp cùng huyền học phương Tây, thi phái này báo hiệu bế tắc hiện sinh của con người thời đại vừa cô đơn vừa tha hóa giữa sa mạc đô thị. Phái Fugitive đã chấn hưng văn hóa miền Nam, sau này đỡ đầu cho hai trường phái thi ca Agrarian (Ðồng Áng) và phê bình New Critics. Xem thêm William Pratt, The Fugitive Poets, N.Y.,1965.

12. Tham khảo Louis Rubin, Jr. ed., The History of Southern Literature, Louisiana State Univ.Press, 1985, Phần III; và thi tuyển thơ miền Nam thế kỷ 20 của David Rigsbee, ed., Invited Guest, Univ. Press of Virginia, 2001.

13. Nhiều tên tuổi Beat hàng đầu không phải dân wasp. Allen Ginsberg đồng tính luyến ái, mẹ gốc Do thái từng là đảng viên cộng sản Mỹ. Jack Kerouac có gốc Pháp Breton. Lawrence Ferlinghetti mồ côi cha mẹ sớm được một gia đình Mỹ giàu cho qua Pháp ăn học, sau đỗ tiến sĩ Sorbonne về văn học Pháp. Gregory Corso mẹ cha đều gốc ý và không sống với nhau lâu nên đứa con bỏ nhà đi bụi đời rồi vào tù năm 17 tuổi. Bob Kaufman là Do thái da đen và tù tội nhiều lần. Còn nhiều ví dụ khác cho thấy thế hệ Beat có quan hệ đa dạng với các dòng văn hóa di dân khác và có tâm trạng con hoang đối với ý hệ Tin Lành chủ lưu. David Meltzer, San Francisco Beat, City Lights, 2001 là cuốn sách không thể bỏ qua với loạt bài phỏng vấn công phu và lý thú các thi sĩ Beat trong suốt ba thập niên .

14. Hoa Kỳ xâm lăng vương quốc Mexico giữa thế kỷ 19, lấn chiếm cả một vùng bao la nay là các tiểu bang Texas, New Mexico, Arizona. Cư dân vùng này ngày nay vẫn dùng tiếng Tây ban nha và cố gắng phục hồi văn hóa Mễ , phần nào lai tạp vì nhiều đời chung sống với các thổ dân. Phong trào phục hưng văn hóa này sinh ra một chuyên ngành gọi là Chicano Studies với một số khái niệm chìa khóa như borderland (biên thổ), border-crossing (biên quá) để nhấn mạnh về tính chất lưỡng quốc- song ngữ của dân Mỹ gốc Mễ, vừa xung đột nội tâm vừa kích thích óc sáng tạo. Văn hóa Chicano gây ảnh hưởng mạnh trong các cộng đồng latino HK (dân Trung-Nam Mỹ), hiện nay là mũi nhọn trong lý thuyết văn hóa học bên cạnh học thuật da đen Mỹ. Sáng tác Chicano cực kỳ phong phú; đọc Rafael Pérez-Torres, Movements in Chicano Poetry, Cambridge Univ. Press, 1995, để thấy các quan hệ chằng chịt giữa tinh thần dân tộc và vận động văn hóa ở vùng Tây Nam HK hôm naỵ. New Mexico Poetry Renaissance (Santa Fe, 1994) do Niederman và Sagan biên soạn là thi tuyển tiêu biểu cho dòng thơ đa văn hóa ở New Mexico.

15. Gắn bó mật thiết với phong trào Chicano và thế hệ Beat là nhóm Pocho-Che ra đời cuối thập niên 60 ở vùng San Francisco cùng với trào lưu sinh viên tranh đấu khắp phương Tây. Chống ý hệ da trắng độc tôn, liên minh rộng với các nhóm thiểu số thua thiệt, bằng báo chí, văn nghệ và tổ chức, Pocho-Che tiêu biểu cho vận động đa văn hóa nhằm thiết lập diện mạo chính trị cho cộng đồng latino HK và chất vấn chính sách kỳ thị sắc tộc của các thế lực da trắng. Ðây là mô hình liên-văn- hóa tiên phong ở Mỹ có tham vọng xây dựng những giá trị nhân văn phổ quát cho sự chung sống giữa các cộng đồng công dân khác truyền thống và ngôn ngữ. Biên khảo gần đây của Rod Hernandez, Pocho-Che and the Production of Transnational / Transcultural Poetics, XCP 14, 2004, cho thấy ảnh hưởng lan sâu của Pocho-Che sau khi nhóm này hòa tan vào các cộng đồng latino khắp nơi trên nước Mỹ. Một thời đồng minh với Pocho-Che, các nhà thơ gốc Porto Rico như Victor H. Cruz, Miguel Pinero... qua New York thành lập Nuyorican Poets Café góp phần quan trọng vào phong trào thơ trình diễn (performance poetry); đọc thi tuyển Aloud (Henry Holt, NY, 1994) do Miguel Algarín và Bob Holman biên soạn.

16. Ethno-poetics ra đời từ nỗ lực của nhà thơ Jerome Rothenberg đã sưu tầm, tuyển chọn phong dao và thi ca truyền khẩu của các thổ dân Bắc Mỹ. Song song với công trình đáng khen của Rothenberg là sự phục sinh văn học thổ dân với sự xuất hiện của các nhà thơ tài năng như Gerald Vizenor, Leslie Silko, Louise Erdrich... Chuyên ngành nhân văn về thổ dân cũng lớn mạnh với nhiều đóng góp mới cho lý thuyết văn hóa học của Arnold Krupat chẳng hạn. Có thể tham khảo Jerome Rothenberg, Shaking the Pumpkin, Marck Editions, NY, 1986; và Arnold Krupat, The Turn to the Native, Univ. of Nebraska Press, 1996.

17. Eco-critique là ý thức bảo vệ sinh thái của một số nhà thơ HK, nổi bật có Wendell Berry và Gary Snyder. Phong trào này chịu ảnh hưởng tư tưởng Ðông phương, đặc biệt là Thiền và Phật giáo Tây Tạng mà các thi sĩ Beat như Waldman, Whalen, Snyder, Ginsberg đã tiếp thu và quảng bá. Không chỉ sáng tác hay trình diễn, họ đã đặt nền móng cho Naropa Institute, đại học Phật giáo duy nhất ở HK tại Boulder,Colorado. Ðọc tài liệu chủ yếu về thi phái Phật giáo HK, Anne Waldman & Marilyn Webb ed., Talking Poetics from Naropa Institute, Vol. 1 & 2, Shambhala, 1978; và tuyển tập do Carole Tonkinson, ed., Big Sky Mind: Buđhism & the Beat Generation, N.Y, 1995.

18. Văn học da đen ở Mỹ là một đề tài quá lớn. Từ văn chương nô lệ miền Nam đến Harlem Renaissance, từ các cộng đồng văn nghệ sinh động ở nhiều thành phố lớn như New York, Los Angeles, Chicago, Detroit, New Orleans... đến thuyết hệ da đen liên-Ðại Tây Dương, chưa kể phong trào hiphop với thơ-nhạc rap đang lan rộng trên thế giới, tiếng nói da đen ngày nay không còn là văn hóa ngoại vi ở Mỹ, nếu không nói là trái lại. Nên đọc các công trình biên soạn của thi sĩ-công dân da đen Ishmael Reed để có ý niệm về tầm vóc của mối liên minh sáng tạo da đen-da màu hiện nay; đặc biệt là Multi America, Viking Penguin,1997, và From Totems to Hip-Hop, Thunder Mouth Press,2003. Về thi pháp cộng đồng rap, xem Imani Perry, Prophets of the Hood, Duke U.P., 2004. Paul Gilroy, The Black Atlantic, Harvard U.P., và Michael E. Dyson, Reflecting Black, Minnesota, 1993, là hai tác phẩm cốt lõi của tư tưởng mỹ học và tâm lý văn hóa da đen hiện đại. Ngoài ra còn tập san định kỳ Callaloo do John Hopkins University bảo trợ phát hành là tư liệu quí cho giới chuyên gia về lĩnh vực văn hóa học da đen.

19. Sáng tác với học thuật nữ quyền là cuộc đại cách mạng văn hóa từ hơn bốn thập niên qua ở Mỹ. Riêng về thơ phụ nữ hay nữ quyền bất kể da trắng hay da màu đã có rất nhiều tuyển tập. Người đọc hiếu kỳ có thể truy tìm trên Google.com. Về nhận định phê bình, đáng chú ý là Alicia S. Ostriker, Stealing the Language, Beacon Press, 1986. Sự tham gia ngày càng đông đúc sôi nổi của dân HK gốc Á châu sau các làn sóng di dân từ những năm 60 vào các sinh hoạt văn nghệ, đặc biệt là nữ giới, càng cống hiến thêm nhiều sắc thái độc đáo cho dòng sáng tác đa văn hóa ở Mỹ. Tuyển tập lừng danh đầu tiên của các tác giả HK gốc Á do Paul Chan, Frank Chin, Fusao Inada và Shawn Wong đã được tái bản bổ sung, The Big Aiiieeeee! Meridian-Penguin,1991. Geok-Lin Lim & Amy Ling, Reading the Literatures of AsianAmerica, Temple U.P.,1992; và King-Kok Cheung, An Interethnic Companion to Asian American Literature, Cambridge U.P., 1997 là hai công trình biên khảo phê bình tập thể cho giới quan tâm một tổng quan không thể thiếu trong học thuật đa văn hóa hôm nay. Thêm một lưu ý: sáng tác đa văn hóa ở Mỹ không nhất thiết phải dùng Anh ngữ, phần lớn các cộng đồng di dân vẫn dùng tiếng mẹ để duy trì bản sắc văn hóa. Về vấn đề phức tạp này có thể tham khảo Marc Shell, ed., American Babel, Harvard U.P., 2002.

20. Richard Gray, A History of American Literature, Blackwell, 2004, tr.563. Ðây là tổng quan uyên bác và thông minh hiếm có về văn học sử đầy biến động của đế quốc văn hóa hùng mạnh nhất trong lịch sử. Là một học giả Âu (hàn lâm viện sĩ Anh quốc) Gray khách quan đánh giá các dòng văn học da màu và phong trào đa văn hóa trong xung đột biện chứng trung tâm / ngoại vi như mô hình đã nêu trên của Yuri Lotman (chú thích 10).

21. như trên, tr.564.

22. Tham khảo Richard Ohmann, Politics of Knowledge, Wesleyan U.P., 2003, để tìm hiểu sâu hơn về xu thế biến hệ thống đại học thành công nghiệp và thị trưong kiến thức cao cấp ở Mỹ hiện nay.

23. Donald Hall, Poetry and Ambition, Univ. of Michigan Press, 1988, tr.130. ý kiến này đáng quan tâm vì D. Hall là bộ mặt trưởng thượng trong dòng thơ chủ lưu HK.

24. Phái Language Writing nhờ các quan hệ chiến lược với đại học và mạng lưới tiên phong chủ nghĩa Âu-Mỹ đã được văn hóa chủ lưu HK chấp nhận và phát huy ảnh hưởng khá rộng trong thi ca thử nghiệm dùng Anh ngữ (Canada, Úc, Anh, kể cả Hoa Lục). Nhưng thế hệ nhà thơ trẻ có ý thức lịch sử-xã hội hôm nay ở Mỹ đã nhận ra tính chất lý thuyết tháp ngà của phái Ngôn Ngữ HK và yêu cầu giới làm thơ phải bám vào sáng tác và không được quên trách nhiệm của người nghệ sĩ công dân. Trong cuộc hội thảo thi ca quốc tế (thật ra chỉ là thế giới Anh ngữ) tại đại học New Hampshire tháng 8-1996 phái Ngôn Ngữ và mô hình thơ thử nghiệm HK đã bị chất vấn triệt để. Xem Steve Evans, The American Avant-Garde after 1989, trong Assembling Alternatives, Romana Huk chủ biên, Wesleyan U.P., 2003.

25. Theo ước tính của ngành dân số học HK, đến giữa thế kỷ 21 người Mỹ da trắng sẽ trở thành thiểu số; xem Richard Gray, sách đã dẫn, tr.563. Sự khủng hoảng về bản sắc văn hóa ấy đang là đề tài của học thuật HK, tìm đọc David Savran, Taking It like a Man, Princeton U.P., 1998.

26. Một số bài giới thiệu, điểm sách về nhóm Tân Hình Thức đã được dịch (với nhiều sai sót!) sang tiếng Việt và đăng trên tạp chí Thơ từ số 19 (Thu 2000) đến số 25 (Thu 2003). Vì tính chất bảo thủ tập cổ, THT không gây được ảnh hưởng ngoài nước Mỹ như thơ văn Beat hoặc phái Ngôn Ngữ. Theo hiểu biết có giới hạn của người viết bài này, có lẽ THT chỉ được một ít nhà thơ VN ở Bolsa hay Sài Gòn hưởng ứng. Dù các thi sĩ THT (25 vị trong thi tuyển Rebel Angels) đã được quảng cáo rằng họ thuộc vào số các tác gia sẽ đưa nền thơ HK vào thế kỷ 21, thực tế và thời gian đã tỏ ra khá phủ phàng! Với tài nghệ thường thường bậc trung nhóm THT không gây được kỳ tích nào đáng nhớ, chẳng hạn một giải thơ Pulitzer. Theo nhận định của giới phê bình đại học HK thì thi phái ao nhà này đã suy tàn; xem Christopher Beach, sách đã dẫn, tr.173-174; và Philip Levine trong bài phỏng vấn do Harry Thomas thực hiện, Talking with Poets, Handsel Books, N.Y, 2002, tr.76.

27. Xem phần Phụ Ðính.

28. đọc mục Meter trong The New Princeton Encyclopedia of Poetry & Poetics, 1993, tr.770.

29. Mark Jarman & David Mason ed., Rebel Angels, Story Line Press, 1996. Thi tuyển này cũng như mấy tên sách khác cổ xúy thơ THT đều do nhà xuất bản nhỏ Story Line Press ở Oregon in ấn.

30. Ðọc Khế Iêm, Tân Hình Thức, Văn Mới, 2003. Trong bài đầu có tính lý thuyết, tác giả tuyên bố: “...thơ THT Việt... sử dụng NGÔN NGỮ ÐỜI THƯỜNG, kết hợp với một số yếu tố và kỹ thuật của thơ tự do tiếng Anh, phá vỡ âm hưởng Tiền Chiến...” (tr.12). Lập luận như thế là đầu Ngô mình Sở vì ai đọc thông thạo tiếng Anh cũng có thể kiểm chứng rằng thi phái THT nặng lời bài bác, phê phán loại thơ tự do (free verse) bất qui tắc và phá luật, được dạy khắp các đại học đồng thời rất thịnh hành trên sách báo HK. Ở bài tiếp theo (viết vào mùa xuân 2001) tác giả Khế Iêm đã phát biểu sai lạc và không bằng chứng như sau khi ca tụng thi phái THT: “...cho đến bây giờ vẫn là một phong trào đang ở thời kỳ sung mãn nhất của thơ HK, trong khi Thơ Ngôn Ngữ lui dần vào bóng tối” (tr.33). Ðúng là không gì nguy hiểm bằng sự thiếu thốn thông tin, đặc biệt với một người khảo cứu, vì óc hư cấu ở đây hoàn toàn bất lực nếu không nói là có hại. (Cho đến nay tôi vẫn thắc mắc tại sao Khế Iêm lại cứ gán cái danh xưng THT vào sáng tác của nhóm mình trên tạp chí Thơ trong khi râu ông chẳng liên can gì đến cằm bà!)

31. Nếu chịu khó xem từng dòng thơ trong Rebel Angels người đọc cẩn thận sẽ nhận ngay ra một điều: các nhà thơ THT tôn trọng ước lệ và cách luật nên tránh cưỡng bức cú pháp với ngữ nghĩa; khi chuyển mạch văn hay dứt ý mới ngắt câu. Chỉ khi nào câu thơ dài quá khổ họ mới phải bắt buộc vắt dòng, trong khi các bạn trên TC Thơ lại biến trò vắt dòng thành một tiểu xảo máy móc thiếu suy nghĩ. Có thể tham khảo Chân Phương, Vũ Ðiệu của Lời, TC Thơ 18, Xuân 2000, tr. 4-9, để tìm hiểu thêm về nghệ thuật của ngôn ngữ thi ca hiện đại.

32. Chân Phương, tiểu luận Thơ Việt đi về đâu?; cùng phỏng vấn Chân Phương do Thụy Khuê thực hiện, Tình Hình Thơ Ca VN Hôm Nay, Hợp Lưu 80, Xuân 2005, tr. 40-60 .

33. Có khá nhiều sách phân tích chính sách cực hữu của chính phủ W. Bush nhưng Michael Lind, Made in Texas, Basic Books, 2003 là đáng đọc vì tác giả sinh trưởng ở Texas nên am hiểu chính tình miền Nam. Khảo cứu tổng quan về chủ nghĩa dân tộc da trắng do Carol Swain, The New White Nationalism in America, Cambridge U.P., 2002, là tài liệu phong phú nhất.

34. Ðây là đề tài hay cho một số chủ đề Hợp Lưu tương lai. Trong khi chờ đợi nên đọc lại Guy Debord, La Société du Spectacle, Folio-Gallimard,1992.

Khái quát các dòng tư duy xã hội học



(Hành vi con người và nghiên cứu xã hội học)

Martin Holborn & Mike Haralambos, Lê Hải dịch [*]

Phần này sẽ bàn đến các quan điểm (view) triết học về hành vi con người. Các quan điểm đó ảnh hưởng đến cả loại dữ liệu mà nhà xã hội học thu lượm lẫn phương pháp mà họ vận dụng để thu nhặt dữ liệu.

Quan điểm về hành vi con người có thể chia đại khái thành hai nhóm, một nhấn mạnh đến các yếu tố bên ngoài còn một là đến các yếu tố bên trong. Cách tiếp cận của nhóm đầu coi hành vi là bị ảnh hưởng từ kết cấu của xã hội, vốn là khách quan và tồn tại bên ngoài nhận thức của cá nhân. Cách tiếp cận của nhóm sau quan tâm hơn đến trạng thái chủ quan của cá nhân: cảm giác của họ, ý nghĩa mà họ gắn cho hiện tượng, và động cơ mà họ có khi hành xử theo những cách nhất định. Theo quan điểm này, cách người ta phản ứng với các yếu tố bên ngoài được định hình qua cách mà cá nhân diễn giải các yếu tố đó.


Cách phân chia hình thức (dichotomy) kiểu vừa rồi có phần giả tạo. Trên thực tế đa số các nhà xã hội học áp dụng góc mở từ cả hai cách tiếp cận trên khi nghiên cứu và diễn giải kế quả. Cũng có rất nhiều biến hóa khác nhau trong mỗi lối tiếp cận. Ví dụ như phần sau sẽ bàn đến sự khác biệt giữa giới chuyên gia hiện tượng học (phenomenologist) và các nhà xã hội học nào chuyên nhấn mạnh đến tầm quan trọng của ảnh hưởng bên trong lên hành vi con người.


Trường phái thực chứng


Nhiều nhà sáng lập ra ngành xã hội học tin rằng có thể tạo ra một ngành khoa học về xã hội dựa trên nguyên tắc và qui trình giống hệt như các ngành khoa học tự nhiên, như là hóa học hay sinh học, mặc dù khoa học tự nhiên thường là việc với vật chât vô tri vô giác cho nên không quan tâm đến cảm giác, cảm xúc và các trạng thái chủ quan khác. Trường phái thực chứng (positivism) được coi là ảnh hưởng mạnh nhất từ quan điểm muốn áp dụng phương pháp của khoa học tự nhiên vào xã hội học.

Auguste Comte (1798-1857), được coi là đã sáng chế ra chữ xã hội học (sociology) và ghi nhận là một trong số những người sáng lập ra ngành này, cho rằng áp dụng các phương pháp và ước đoán của các ngành khoa học tự nhiên sẽ giúp tạo ra "một ngành khoa học xã hội thực chứng". ông tin rằng điều đó sẽ cho thấy tiến hóa của xã hội theo "các luật không đổi". Theo đó sẽ thể hiện ra rằng hành vi của con người bị chi phối bởi các nguyên tắc nhân quả cũng không đổi như là hành vi của vật chất, đối tượng nghiên cứu của khoa học tự nhiên.


Bên trong ngành xã hội học thì lối tiếp cận của trường phái thực chứng áp đặt một số tư tưởng sau. Hành vi của con người, cũng như hành vi của vật chất, có thể đo đạc khách quan. Cũng giống như là hành vi của vật chất có thể định lượng bằng các phép đo như là trọng lượng, nhiệt độ và áp lực, các phương pháp đo đạc khách quan có thể được xây dựng cho hành vi của con người. Các phép đo đó là tối cần thiết để giải thích hành vi.


Ví dụ, để giải thích phản ứng của một hóa chất khi đun nóng, người ta cần đo chính xác nhiệt độ, trọng lượng và các chỉ số khác. Nhờ các phép đo đó mà có thể quan sát chính xác hành vi của vật chất và đưa ra phát biểu về nguyên nhân và kết quả. Phát biểu đó có thể là AxB=C, nơi A là số lượng vật chất, B là độ nóng và C là lượng khí sinh ra. Khi người ta có thể thể hiện rằng vật chất đang nghiên cứu luôn phản ứng giống nhau trong những điều kiện cố định, thì có thể xây dựng lý thuyết để giải thích hành vi đó.


Từ quan điểm của phái thực chứng, các phương pháp và tư duy đó có thể áp dụng cho hành vi của con người. Các quan sát hành vi dựa trên phép đo khách quan sẽ tạo khả năng lập phát biểu về nguyên nhân và kết quả. Sau đó sẽ có thể thiết kế lý thuyết để giải thích hành vi đã quan sát được.


Tiếp cận của phái thực chứng trong xã hội học đặc biệt quan tâm đến các hành vi có thể quan sát trực tiếp được. Họ lập luận rằng những yếu tố không thể quan sát trực tiếp - như là ý nghĩa, cảm giác và mục đích - không đặc biệt quan trọng và có thể khiến hiểu sai. Ví dụ, nếu đa số thành viên trưởng thành của một xã hội kết hôn và sinh con, thì hiện tượng đó có thể quan sát và định lượng. Do đó mà tạo ra dữ liệu đáng tin cậy. Tuy nhiên, các ý nghĩa mà những thành viên của xã hội đưa ra cho các hoạt động đó - nguyên nhân khiến họ kết hôn và sinh con - không thể quan sát trực tiếp được. Ngay cả trường hợp có thể đo chính xác thì vẫn có thể làm lệch chú ý ra khỏi nguyên nhân thật của hành vi. Một người có thể tin rằng kết hôn vì thấy cô đơn, người khác cho là vì tình yêu, người khác nữa là vì 'phải làm thế', và một người khác là vì muốn có con. Dựa vào loại dữ kiện này để giải thích có nghĩa là cho răng mỗi cá nhân biết nguyên nhân tại sao kết hôn. Điều đó che mờ nguyên nhân thật của hành vi của họ.


Sự thiên vị của phái thực chứng cho các "sự kiện" có thể quan sát được chủ yếu là do tin rằng hành vi con người có thể lý giải cũng giống như cách lý giải đối với hành vi của vật chất. Các nhà khoa học tự nhiên không tìm hiểu nguyên nhân và ý nghĩa của vật chất. Hạt nhân và phân tử không hoạt động theo cách hiểu của ý nghĩa, mà đơn giản là phản ứng lại tác động bên ngoài. Cho nên khi nhiệt độ, tác động bên ngoài, được đặt vào vật chất thì vật chất sẽ phản ứng. Nhiệm vụ của nhà khoa học tự nhiên là quan sát, đo đạc và rồi giải thích phản ứng.


Tiếp cận của phái thực chứng đối với hành vi con người cũng áp dụng logic tương tự. Người ta phản ứng với tác động bên ngoài và hành vi của họ có thể được lý giải theo cách hiểu phản ứng này. Họ kết hôn và sinh con là phản ứng với nhu cầu của xã hội: xã hội cần hành vi đó để tồn tại và các thành viên của xã hội đơn giản là đáp ứng đòi hỏi đó. Ý nghĩa và mục đích họ kèm theo hành vi của mình là không quan trọng.


Người ta thường lập luận rằng lý thuyết hệ thống (systems theory) trong xã hội học tiếp nhận lối tiếp cận thực chứng. Khi hành vi được coi là đáp ứng các tác động bên ngoài (ví dụ như lực kinh tế hay yêu cầu của hệ thống xã hội), các phương pháp và suy đoán của các ngành khoa học tự nhiên trở nên thích hợp cho nghiên cứu con người. Chủ nghĩa Mác có lúc được coi là tiếp cận thực chứng, vì người ta có thể lập luận là coi hành vi con người là phản ứng trước tác động của hạ tầng kinh tế. Trường phái chức năng (functionalism) cũng được nhìn tương tự. Hành vi của các thành viên trong xã hội có thể được coi là phản ứng đối với các sắp đặt chức năng của hệ thống xã hội. Cách nhìn đó về hệ thống xã hội phần nào là đơn giản hóa vấn đề. Tuy nhiên, có thể công bằng mà nói là lý thuyết hệ thống gần với tiếp cận thực chứng hơn là các quan điểm sẽ được bàn tới tiếp theo đây.


Trường phái hành động xã hội


Những người ủng hộ cho trường phái hành động xã hội (social action perspectives) lập luận rằng đối tượng của khoa học xã hội và khoa học tự nhiên có khác nhau về cơ bản. Và kết quả là các phương pháp và suy đoán cho khoa học tự nhiên không thích hợp cho nghiên cứu con người. Các ngành khoa học tự nhiên nghiên cứu vật chất. Để hiểu và giải thích hành vi của vật chất chỉ cần quan sát chúng từ bên ngoài. Hạt nhân và phân tử không có nhận thức: chúng không có ý nghĩa và mục đích điều khiển hành vi của chúng. Vật chất đơn giải là phản ứng vô nhận thức trước tác động bên ngoài; nói theo ngôn ngữ khoa học thì vật chất hoạt động (behave). Kết quả là các nhà khoa học tự nhiên có thể quan sát, đo đạc và đặt logic bên ngoài cho các hành vi để giải thích chúng. Họ không cần khám phá logic bên trong nhận thức của vật chất đơn giản vì điều đó không tồn tại.

Không giống vật chất, con người có nhận thức (consciousness) - suy nghĩ, cảm giác, ý nghĩa, ý định và ý thức về việc tồn tại. Vì điều đó mà các hành động của con người là có nghĩa (meaningful): con người xác định tình huống và xác lập nghĩa cho hành động của họ và hành động của người khác. Kết quả là họ không chỉ phản ứng lại tác động bên ngoài, họ không chỉ đơn thuần là hoạt động - họ hành động (act).


Khi mường tượng về phản ứng của những con người tiền sử về lửa do núi lửa tạo ra hay đám cháy bất ngờ. Họ không đơn thuần là phản ứng trong hành động giống hệt nhau khi trải nghiệm lửa. Họ gán một loạt các ý nghĩa khác nhau cho lửa và các ý nghĩa đó chỉ đạo hành động của họ. Họ định nghĩa lửa như phương tiện của sự ấm áp và dùng lửa để sưởi ấm nơi ở; họ coi đó là phương tiện tự vệ và dùng để đuổi thú hoang; và họ coi đó là phương tiện làm thay đổi vật chất và dùng lửa để nấu ăn hay trui đầu cung tên. Con người không chỉ phản ứng với lửa, họ hành động theo những ý nghĩa mà họ đã gán cho lửa.


Nếu hành động phát xuất từ ý nghĩa chủ quan, thì tiếp đó là nhà xã hội học phải phát hiện ý nghĩa đó nếu muốn hiểu hành động. Nhà xã hội học không chỉ đơn giản là quan sát hành động từ bên ngoài và đưa ra logic bên ngoài để giải thích. Họ phải diễn giải logic bên trong từng chỉ đạo hành động của nhân vật (actor).


Max Weber (1864-1920) là một trong số những nhà xã hội học đầu tiên phác họa chi tiết quan điểm này. ông lập luận rằng các giải trình xã hội học cần bắt đầu bằng việc quan sát và diễn giải 'trạng thái tư duy' chủ quan của con người. Như trong phần trước đã giải thích, trường phái tương tác (interactionism) áp dụng lối tiếp cận tương tự, đặc biệt quan tâm đến quá trình tương tác. Trong khi trường phái chứng thực chú ý đến sự kiện và các mối quan hệ nhân quả, trươờng phái tương tác đặt nặng sự nhìn thấu (insight) và thông hiểu (understanding). Vì không thể vào trong đầu của nhân vật, quá trình khá phá ý nghĩa phải dựa vào diễn giải (interpretation) và trực giác (intuition). Do vậy mà phép đo khách quan không thể thực hiện và tính chính xác trong khoa học tự nhiên không thể áp dụng. Vì ý nghĩa liên tục được xác định lại (negotiate) trong quá trình tương tác đang tiếp tục diễn ra, cho nên không thể thiết lập mối quan hệ nhân quả đơn giản được. Cho nên một số nhà xã hội học lập luận rằng xã hội học chỉ giới hạn vào việc diễn giải hành động xã hội (social action).


Tuy nhiên, cả Weber và các chuyên gia theo trường phái tương tác đều nghĩ rằng có thể đưa ra giải thích về nguyên nhân của hành vi con người, nếu việc tìm hiểu ý nghĩa là một phần của các giải thích đó. Một số nhà xã hội học, đặc biệt là những ai theo trường phái hiện tượng luận, thì đưa lập luận đó đi tiếp và tuyên bố rằng nhà xã hội học không thể tìm ra được nguyên nhân của hành động của con người (human action).


Hiện tượng học


Với các nhà hiện tượng học (phenomenology) thì không thể đo đạc khách quan bất kỳ góc cạnh nào của hành vi con người. Con người giải nghĩa thế giớ bằng cách phân chia. Qua ngôn ngữ họ phân biệt sự khác nhau giữa các vật, các sự kiện, các hành động và con người. Ví dụ như một số hành động bị định nghĩa là tội phạm còn những hành động khác thì không' tương tự vậy một số người bị định nghĩa là tội phạm còn những người khác là tuân thủ pháp luật. Quá trình phân loại (categorization) là chủ quan: phụ thuộc vào ý kiến của người quan sát. Xác suất thống kê chẳng qua là sản phẩm của ý kiến của những người tạo ra. Cho nên chỉ số về lượng tội phạm là do cảnh sát và tòa án tạo ra, và không thể hiện gì khác hơn là ý kiến của những cá nhân có liên quan. Nếu các nhà xã hội học đưa ra bảng thống kê thì đó cũng là kết quả của ý kiến chủ quan - trong trường hợp này là của nhà xã hội học.


Các nhà hiện tượng học tin rằng không thể tạo ra dữ liệu thực tế cho nên không thể tạo ra và kiểm chức các giải trình về nguyên nhân. Điều mà nhà xã hội học có thể hi vọng nhất là hiểu được ý nghĩa mà các cá nhân đã đặt ra cho các hiện tượng riêng biệt. Nhà hiện tượng học không tìm cách xác định điều gì gây ra tội phạm; thay vào đó họ tìm cách khám phá xem những sự kiện nhất định được định nghĩa là tội phạm như thế nào và một số người nhất định bị định nghĩa là tội phạm như thế nào. Do đó nhà hiện tượng học khảo sát cách mà cảnh sát đi đến quyết định là có bắt và khởi tố người bị tình nghi hay không. Bằng cách này nhà hiện tượng học hi vọng sẽ xác định được ý nghĩ được gắn với những chữ phạm tội và tội phạm được cảnh sát sử dụng. Kết quả cuôi cùng của nghiên cứu hiện tượng học là hiểu được ý nghĩa được các thành viên trong xã hội dùng hàng ngày.


Mặc dù có khác biệt giữa những ai ủng hộ phái hành động xã hội và hiện tợng học, cả hai đều công nhận là lối tiếp cận thực chứng tạo ra bức tranh bị biến dạng về cuộc sống xã hội.


Peter Berger (1966) lập luận rằng xã hội thường được coi như sân khấu múa rối mà thành viên xã hội được coi như là "những con rối nhảy múa trên các dây điều khiển, vui vẻ biểu diễn những phần đã được giao". Xã hội truyền dẫn giá trị, chuẩn mực và vai trò, và con người phản ứng theo trách nhiệm như những con rối của Berger. Tuy nhiên, phái tương tác và phái hiện tượng học tin rằng con người không phản ứng thụ động với xã hội bên ngoài. Họ xem con người như tích cực tạo ra nghĩa riêng cho mình và xã hội của mình trong tương tác với người khác. Theo cách hiể đó thì họ suy nghĩ tương tự như các tiếp cận hậu hiện đại đã bàn ở phần trước.


Xã hội học và giá trị


[...]

Mường tượng xã hội học


Mặc dù các nhà xã hội học có góc nhìn (perspective), phương pháp và giá trị khác nhau, tất cả họ đều (ngoại trừ một vài nhà hậu hiện đại) chia sẻ mục tiêu thông hiểu và giải thích (explaining) thế giới xã hội. Phối hợp các góc mở (insight) do các tiếp cận khác nhau mang lại có thể là cách tốt nhất để đạt mục tiêu này.

Các lý thuyết cấu trúc về xã hội, ví dụ như hệ phái kết cấu và Mác-xít, nhấn mạnh đến tầm quan trọng của xã hội trong việc định hình hành vi con người. Từ phía ngược lại, các tiếp cận như hệ phái tương tác nhấn mạnh đến tầm quan trọng của hành vi con người trong định hình xã hội. Nhiều nhà xã hội học hôm nay tin rằng ngành xã hội học phải nghiên cứu cả cấu trúc xã hội lẫn tương tác xã hội. Họ tin rằng chỉ có phối hợp nghiên cứu các thay đổi lớn trong xã hội và cuộc sống cá nhân thì nhà xã hội học mới có thể xây dựng hiểu biết về cuộc sống xã hội (social life).


Ý tưởng này không mới, từng được nhà xã hội học rất nhiều ảnh hưởng người Đức Max Weber ủng hộ, và gần đây là nhà xã hội học người Anh Anthony Giddens. Tuy nhiên, có lẽ sự giải thích rõ ràng nhất cho quan điểm này là nhà xã hội học người Mỹ C. Wright Mills.


Mills (1959) gọi khả năng nghiên cứu cấu trúc xã hội cùng lúc với cuộc sống của cá nhân là 'mường tượng xã hội học' (sociological imagination). ông lập luận rằng mường tượng xã hội học cho phép người ta hiểu 'các rắc rối riêng tư' trong bối cảnh 'các vấn đề công cộng'. Thất nghiệp, chiến tranh và tan vỡ hôn nhân đều được người ta trải nghiệm qua những rắc rối họ tạo ra trong cuộc sống riêng. Họ phản ứng lại các vấn đề đó như cá nhân, và phản ứng của họ kéo theo tác động xã hội khi nhìn chung. Tuy nhiên, với Mills các vấn đề này chỉ có thể hiểu toàn bộ trong bối cảnh rộng hơn của các lực chung xã hội. Ví dụ các hoàn cảnh đặc biệt sẽ khiến một người bị thất nghiệp, nhưng tỷ lệ thất nghiệp tăng khi xét tổng thể sẽ trở thành vấn đề công cộng cần giải thích. Nhà xã hội học sẽ cân nhắc 'các định chế kinh tế và chính trị trong xã hội, chứ không đơn giản là hoàn cảnh cá nhân và cá tính của một nhóm cá nhân'


Theo Mills thì xã hội học cần là ngành nghiên cứu trải nghiệm sống (biography) của các cá nhân trong bối cảnh lịch sử xã hội. Mường tượng xã hội học không chỉ hữu dụng với nhà xã hội học, mà còn quan trọng với tất cả thành viên xã hội nào muốn hiểu, thay đổi và cải thiện cuộc sống. Có lẽ xã hội học có thể coi là thành công nếu cho phép người ta đạt được mường tượng này, và các lý thuyết và nghiên cứu trong các chương còn lại của sách này có thể được đánh giá theo cách đó.


[*] từ trang 14-17 giáo trình Sociology Themes and Perspectives, 7th edition, Collins

Hạnh phúc trong tầm tay


Mỗi sáng khi chạy bộ tôi đều có được một niềm vui nhỏ. Đó là trao đổi một câu chào hỏi và một nụ cười thân thiện với một nhóm bốn bà cụ người Úc mà tôi đoán đã ngoài tuổi bát tuần. Tôi không biết nhóm “tứ nhân bang” này đã bắt đầu sinh hoạt thể dục từ lúc nào. Chỉ biết là từ hơn 2 năm nay, ngoại trừ những ngày mưa to gió lớn, không trừ một ngày nào và lúc nào cũng đúng giờ, các cụ luôn có mặt trên lối đi quen thuộc dành cho người đi bộ xung quanh bờ hồ gần chỗ tôi ở. Tôi có cảm tưởng như các cụ là những thiên thần luôn có mặt bên cạnh người khác để mà nâng đỡ, cổ võ và khuyến khích người khác rèn luyện thân thể, giữ gìn sức khỏe. Mỗi lần gặp tôi, các cụ trở thành những ủng hộ viên thể thao luôn miệng hô hào “gắng lên, nhanh lên”. Hẳn các cụ phải vui lắm, vì lúc nào tôi cũng nói rằng các cụ là niềm cảm hứng của tôi. Lần nọ, sau câu chào hỏi thông thường, tôi dừng lại nói chuyện lâu hơn. Tách riêng một cụ lúc nào cũng cười nói huyên thuyên, tôi hỏi bí quyết nào giúp cụ lúc nào trông cũng khỏe mạnh và yêu đời. Cụ đáp gọn: “Hãy tận hưởng mỗi giây phút hiện tại”. Thì ra thế! Tôi tin rằng cụ bà không nói theo sách vở mà từ chính kinh nghiệm của bản thân. Ở tuổi già, có người chỉ biết sống với những kỷ niệm của tuổi thơ. Có người lại hoài niệm những thành tựu mình đã đạt được ở tuổi trưởng thành. Nhưng khôn ngoan hơn cả có lẽ là những người luôn biết tận hưởng giây phút hiện tại.
Ngoài lợi ích thể dục, giờ chạy bộ mỗi buổi sáng của tôi cũng trở thành một giờ “tâm niệm” về hạnh phúc của đời người. Mỗi bước đi của tôi đều là một quyết tâm “sinh ra là để được hạnh phúc”. Bất hạnh lớn nhứt trong đời người là gì nếu không phải là không muốn sống hạnh phúc. Tôi tin rằng hạnh phúc nằm ở trong tầm tay mỗi người. Trong các thứ tài sản thì hạnh phúc là tài sản riêng tư nhứt không thể mang ra trao đổi hay mặc cả với bất cứ ai khác. Nếu mình không hạnh phúc thì chẳng có ai có thể hạnh phúc thay mình.Trong những ngày vừa qua, ý tưởng trên đây lại càng “nung nấu” tôi hơn khi tôi đọc được một tin vui: Úc Đại Lợi là quốc gia hạnh phúc nhứt thế giới! Từ năm 2011 đến nay, lúc nào Úc Đại Lợi cũng được Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (gọi tắt là OECD) xếp đầu danh sách những nước “hạnh phúc” nhứt trong các nước kỹ nghệ phát triển nhứt trên thế giới. Có một thời, hai nước Thuỵ Điển và Gia Nã Đại lúc nào cũng đứng đầu danh sách. Vậy mà nay Úc Đại Lợi “của tôi” đã qua mặt những nước ấy!
Theo chỉ số được gọi là “Cuộc sống tốt đẹp hơn” (Better Life) do Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế đề ra, Úc Đại Lợi của tôi bóp còi qua mặt những nước khác về những yếu tố tạo nên hạnh phúc cho con người như: mức thất nghiệp thấp (tại Úc Đại Lợi số người thất nghiệp chỉ chiếm có 5,5 phần trăm; tại các nước trong khu vực Đồng Euro, tỷ lệ này lên đến 12,1 phần trăm), mức thu nhập trung bình của một người Úc sau khi đã trừ thuế và nợ nhà là 28.884 Úc kim (trong khối các nước có kỹ nghệ phát triển, thu nhập trung bình chỉ có khoảng 23.047 Úc kim). Từ 21 năm qua, tăng trưởng kinh tế của Úc Đại Lợi chưa một lần suy giảm, kể cả trong cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hồi năm 2009. Điều đáng kể hơn cả là khí hậu và môi trường sống của Úc Đại Lợi. Về điểm này thì chắc chắn người dân các nước khác phải ghen với dân Úc mà thôi! Tuổi thọ trung bình hiện nay của người Úc là gần 82 tuổi. Trong khối các nước có kỹ nghệ phát triển, tuổi thọ trung bình chỉ khoảng 80 (VL, 31/5/2013). Đọc xong bản tin này, tôi thấy thật hãnh diện được làm công dân Úc. Nhưng liệu tất cả mọi người dân Úc có thực sự “cảm thấy” hạnh phúc như cụ bà trong nhóm đi bộ “tứ nhân bang” mà tôi gặp mỗi ngày không? Bài bình luận của ký giả Michael Pascoe trên báo Brisbanetimes số ra ngày 28 tháng 5 vừa qua cho rằng Úc Đại Lợi là “một đất nước tương đối tốt đến nỗi dân chúng không nhận ra điều đó”. Tôi cũng không tin rằng vì Úc có những chỉ số “hạnh phúc” hàng đầu thế giới mà đương nhiên số người Úc cảm thấy hạnh phúc nhiều hơn các nước khác. Các cuộc thăm dò ý kiến thường cho thấy con số người dân tại một số nước nghèo cảm thấy hài lòng với cuộc sống có khi lại nhiều hơn các nước có chỉ số hạnh phúc cao. Tại “Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa, độc lập-tự do-hạnh phúc” chẳng hạn, số người nghèo mạt rệp nhưng vẫn cảm thấy hạnh phúc đâu phải là ít. Hạnh phúc là điều rất tương đối và chủ quan, bởi vì nó là một tâm trạng cá nhân có khi không lệ thuộc vào những thước đo được gọi là chỉ số hạnh phúc.
Theo phân tách của Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhà lãnh đạo tinh thần của Tây Tạng, có ba yếu tố có thể góp phần làm cho con người cảm thấy hạnh phúc. Ba yếu tố đó là: tiền của, sức khỏe và tình bạn. Tiền của hay điều kiện vật chất dĩ nhiên ảnh hưởng đến hạnh phúc của con người. Chỉ có người ngu mới chối bỏ tầm quan trọng của những yếu tố vật chất đối với hạnh phúc hay phúc lợi của con người. Ngay cả một vị ẩn sĩ giam mình trong một hang động trên núi cao cũng cần phải có quần áo và thức ăn. Không có những điều kiện vật chất tối thiểu, con người khó có thể sống xứng với phẩm giá của mình. Nhưng tiền của không những không bao giờ thỏa mãn được lòng tham của con người, mà thường lại là nguyên nhân gây ra tranh chấp, giành giựt ngay cả trong cùng một gia đình. Đức Đạt Lai Lạt Ma khẳng định: “Tiền của không bảo đảm cho hạnh phúc”. Ngài cho biết không thiếu những người giàu có, ngay cả tỷ phú, mà Ngài đã gặp gỡ tâm sự rằng họ không cảm thấy hạnh phúc. Tiền của tạo ra một thứ tổ kén để giam hãm con người vào nỗi cô đơn.
Còn sức khỏe thì sao? Chắc chắn sức khỏe là một yếu tố quan trọng góp phần vào hạnh phúc của con người. Phần lớn trong chúng ta, ai cũng đã một lần cảm nghiệm được rằng khi đau đớn bệnh tật triền miên, giữ được một thái độ tích cực hay an nhiên vui sống không phải là điều dễ dàng. Ai cũng nhận thấy là để có thể vui sống cần phải ăn ngon, ngủ kỹ và vận động cơ thể. Tuy nhiên, sức khỏe thể lý không phải là yếu tố duy nhất mang lại hạnh phúc cho con người. Thiếu gì những người có thân hình lực sĩ, sức khỏe không chê vào đâu được, vậy mà vẫn có thể cảm thấy không hạnh phúc. Thiếu gì những người đói ăn, ốm yếu tại những nước kém phát triển vẫn cảm thấy hạnh phúc. Ngay cả những người già cả, ho hen, đi đứng không vững biết đâu vẫn cảm thấy hạnh phúc. Sức khỏe thể lý là điều cần thiết cho hạnh phúc nhưng chắc chắn không phải là yếu tố tối hậu. Hạnh phúc đích thực nằm ở nội tâm, mà nội tâm có khi lại chẳng lệ thuộc vào sức khỏe thể lý.
Sang đến yếu tố thứ ba góp phần mang lại hạnh phúc cho con người là tình bạn, ai trong chúng ta lại chẳng thấy “ấm lòng” khi có bạn hữu để trò chuyện, để chia sẻ kinh nghiệm hay chỉ để hiện diện bên nhau. Là những con vật có tính xã hội, mối quan hệ với người khác là điều thiết yếu cho hạnh phúc của chúng ta. Tuy nhiên, bạn hữu cũng có trăm thứ bạn hữu. Có người chỉ có “bè” mà không có “bạn”, nghĩa là không có những người tâm giao mà mình có thể tin tưởng và chia sẻ. Bạn theo kiểu “còn tiền còn bạc còn đệ tử, hết cơm hết gạo hết ông tôi” (Nguyễn Bỉnh Khiêm), chỉ mang lại trống rỗng và cay đắng hơn là hạnh phúc. Một tình bạn đích thực chỉ có thể được xây dựng trên sự tin tưởng và lòng cảm mến. Hai thứ tình cảm này lại chỉ xuất phát từ nội tâm của mỗi người hơn là sự hiện diện của người khác. Do đó, ngay cả khi ở một mình, con người cũng vẫn có thể cảm thấy tràn đầy tin tưởng và yêu mến đối với người khác. Cô độc không đương nhiên làm cho con người cô đơn. Như vậy, tình bạn, nếu hiểu như là sự hiện diện của người khác, chưa hẳn là điều thiết yếu để mang lại hạnh phúc cho con người (x.His Holiness The Dalai Lama, Beyond Religion, Ethics for a Whole World, Rider, Sydney, 2012 trg 31-38).
Được bậc thày về hạnh phúc như Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích, tôi càng xác tín rằng hạnh phúc nằm trong tâm trạng con người hơn là xuất phát từ những điều kiện khách quan bên ngoài. Nghèo mà vẫn thấy hạnh phúc. Sống xa chốn phồn hoa, ít được người đời biết đến mà vẫn cảm thấy hạnh phúc. Và nhứt là và ngay cả khi bệnh hoạn ốm đau, cũng vẫn có thể cảm thấy hạnh phúc. Như Đức Đạt Lai Lạt Ma đề nghị: hãy thử tưởng tượng hai người cùng một lúc được chẩn đoán bị ung thư trong giai đoạn cuối. Một người sẽ tỏ ra giận dữ khi nhận được tin ấy và cho rằng đời “bất công”. Người kia có thể tỏ ra bình thản và chấp nhận. Trong cả hai trường hợp, điều kiện vật chất, tức sức khỏe thể lý và sự đau đớn, đều như nhau. Nhưng người thứ nhứt lại có thêm nỗi đau tâm lý và cảm xúc, trong khi người thứ hai vì có tâm trạng bình thản cho nên được trang bị tốt hơn để chấp nhận cuộc sống và tiếp tục thụ hưởng những gì mà cuộc sống có thể mang lại. Sự khác biệt giữa hai người nằm trong tâm trạng hơn là điều kiện khách quan. Với lòng quả cảm, sự cương quyết, ngay cả trong những hoàn cảnh nghiệt ngã, con người vẫn có thể duy trì được hạnh phúc. Nói cách khác, nếu không có nội lực thì không có bất cứ một sự thỏa mãn nào có thể làm cho chúng ta cảm thấy thực sự hạnh phúc.Nhưng cũng theo nhà lãnh đạo tinh thần Tây Tạng, “nếu sự an bình nội tâm là thuẩn đỡ đầu tiên giúp chúng ta chống lại những khó khăn và đau khổ, thì cũng có những yếu tố khác góp phần mang lại hạnh phúc và niềm vui đích thực. Những cuộc nghiên cứu khoa học gần đây cho rằng yếu tố quan trọng nhứt là ý thức về mục đích (của cuộc sống) vốn vượt qua quyển lợi trước mắt và cảm nhận được mối liên kết với người khác hay với một cộng đồng. Cội rễ của những yếu tố đó, theo tôi nghĩ, là sự cảm thông hay nhiệt tâm” (sđd trg 39).Bây giờ thì tôi hiểu được tại sao lúc nào Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng nở nụ cười trên môi. Đã từng là một nguyên thủ quốc gia phải bỏ nước ra đi lưu vong và trong hơn 50 năm qua đã phải chứng kiến không biết bao nhiêu nỗi khổ đau mà Trung Cộng giáng xuống trên dân tộc của mình, thì dù có là “Phật sống”, bản thân ngài hẳn cũng đã nếm trải khổ đau và dĩ nhiên cũng đã từng biết thế nào là thương khóc. Nhưng trong tất cả những lần xuất hiện trước công chúng, dường như lúc nào Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng đều có sẵn nụ cười trên môi. Chắc chắn đó chỉ có thể là một nụ cười của hạnh phúc và hạnh phúc vì lúc nào cũng biết cảm thông với người khác, ngay cả với kẻ thù mà ngài luôn xem như “nạn nhân” của tham lam, của quyền lực, của hận thù. Họ cũng cần được giải thoát như bất kỳ con người nào. Tôi đang sống trong một quốc gia có chỉ số hạnh phúc cao nhứt thế giới. Tôi luôn cảm nhận được điều đó. Tôi hãnh diện được làm công dân của đất nước này. Nhưng nếu tôi không có sự cảm thông trong tâm hồn, nếu tâm tình ấy không được tôi trau dồi và nuôi dưỡng mỗi ngày, thì dù có hưởng được mọi chỉ số hạnh phúc tốt nhứt trên thế giới này, tôi sẽ chẳng bao giờ có được hạnh phúc đích thực.

Chu Thập

KHI EM ĐẾN



PILINSZKY JÁNOS ( 1921-1981)

( Một trong những nhà thơ Hungary nổi tiếng nhất trong thế kỷ XX)





 KHI EM ĐẾN



Anh một mình, khi em đến,

anh sẽ là sinh vật sống cuối cùng,
chỉ là những túm lông trong chuồng trại rỗng tuếch
chỉ là những vì sao thay thế bầu trời.

Trong nỗi mồ côi không chôn cất,

như trên bãi rác mùa đông,
giữa đống phế liệu anh cào cấu
nhặt nhạnh kiếm đời mình.

Đây sẽ là hòa bình hoàn hảo.

Đến trái tim anh chúng cũng chẳng lắng nghe,
những chướng ngại vật ngất ngây
của lặng câm tứ phía.

Hiện thực vĩnh hằng trần trụi.

Sẽ là của em, chỉ là của em
từ buổi sơ khai đã rắp tâm chuẩn bị
chỉ để cho em, sự giản dị tuyệt tác này.

Như một kẻ –một cái giỏ câm lặng

thời gian chỉ ngồi không nói năng chi
nó đã hết chân - tay cho vọng ước,
chỉ còn lại thân khúc thở dập dồn

Anh bị mất toàn bộ, khi em đến,

không còn nhà, giường êm ấm cũng không,
chúng mình nằm khểnh khang không vương vấn,
trong nồng nàn quyện gắn trắng trơn.

Nhưng em đừng chớp lấy! chớ vội rời bỏ!

Nếu em yếu mềm, lúc ấy anh tiêu luôn.
Trong giường, giữa những cái gối, giữa tiếng ồn
phố xá, sẽ kinh hoàng nếu choàng tỉnh, kinh hoàng.

( Trong tập:”Hình thang và rào cản 1940-1946”) 

Nguyễn Hồng Nhung dịch

HAI MƯƠI NĂM SAU






After twenty years », O'Henry


Viên cảnh sát đi tuần ngược lên đại lộ một cách oai phong. Vẻ oai phong cố hữu chớ không cố tình lấy le vì chẳng mấy ai chứng kiến. Lúc đó chỉ mới khoảng mười giờ đêm, nhưng từng đợt gió lạnh và trời muốn mưa làm đường sá vắng hẳn người.

Viên cảnh sát kiểm tra từng nhà, quay tròn cây ma trắc bằng động tác rắc rối ngoạn mục, thỉnh thoảng anh quay lại nhìn dọc đại lộ dài yên tĩnh với cái nhìn đầy cảnh giác. Thân hình vạm vỡ vẻ đàng hoàng tự tin, viên cảnh sát là hình ảnh đẹp đẽ của người giữ an bình xã hội. Ở khu này mọi sinh hoạt ngừng rất sớm. Thảng hoặc mới thấy ánh đèn tiệm thuốc lá hay một cái bar mở cửa suốt đêm, nhưng phần đông là tiệm tùng nên cửa đã đóng từ lâu rồi.

Khi đến giữa chừng một dãy nhà, viên cảnh sát bỗng dưng chậm bước. Ở lối vào tối thui tiệm bán đồ ngũ kim, một người đàn ông đang đứng tựa vào đấy, điếu xì gà chưa đốt trên môi. Khi viên cảnh sát đến bên cạnh, người đàn ông nói vội vàng giọng chắc nịch :

- Mọi việc đều ổn cả, ông cảnh sát ạ. Tôi chỉ chờ người bạn. Ðây là cái hẹn đã định trước từ hai mươi năm rồi. Ông thấy có vẻ lạ lùng phải không ? Vậy tôi giải thích cho ông nghe, nếu ông muốn chắc chắn là mọi việc đều bình thường, hợp pháp. Cũng gần khoảng hai mươi năm nay, trước kia có tiệm ăn tên « Big Joe Brady's » ngay chỗ tiệm đồ này đây.

- Tiệm ăn đó đã bị phá năm năm nay rồi. Viên cảnh sát xác nhận.

Người đàn ông đứng chỗ lối vào bật diêm châm thuốc. Ngọn lửa soi rõ khuôn mặt hơi xanh, quai hàm vuông, cặp mắt sắc bén với cái thẹo trắng nhỏ gần chân mày phải. Cái kẹp cà vạt nạm cục kim cương to tướng hơi kỳ. Anh ta nói :

- Tối nay là hai mươi năm rồi, tôi đã ăn tối tại « Big Joe Brady's » ở đây với Jimmy Wells, bạn thân nhất của tôi, người tuyệt vời nhất thế giới. Cậu ấy và tôi cùng lớn lên ở đất Nữu Ước này y như hai anh em. Lúc đó tôi mười tám và Jimmy hai mươi. Sáng hôm sau tôi phải đi miền Tây kiếm tiền. Ông không thể lôi Jimmy ra khỏi Nữu Ước được đâu. Cậu ta cho Nữu Ước là mảnh đất không đâu hơn trên đời. Rồi đêm đó chúng tôi giao ước là sẽ gặp lại hai mươi năm sau, đúng ngày giờ này, bất kể điều kiện sống như thế nào và bao nhiêu xa xôi cách trở phải vượt qua. Tin rằng trong hai mươi năm, số phận mỗi đứa đã được vạch rõ và của cải cũng đã có rồi, dù là gì chăng nữa.

Viên cảnh sát nói :

- Thú vị nhỉ. Nhưng tôi thấy giữa hai cuộc gặp gỡ có hơi lâu. Anh không bao giờ nhận được tin tức gì của bạn từ khi ra đi sao ?

- Có chớ. Chúng tôicó liên lạc một thời gian. Nhưng vài năm sau bặt tin nhau. Ông coi, miền Tây là một áp-phe khá lớn nên tôi xuôi ngược khắp nơi như thổ công. Tôi biết Jimmy sẽ gặp tôi ở đây nếu cậu ta còn sống, bởi vì cậu luôn luôn là người chân thật và trung thành nhất thế gian. Cậu không quên đâu. Tôi vượt cả ngàn cây số để tới đây tối nay, và sẽ được đền bù nếu bạn tôi cũng tới.

Người đứng chờ rút trong túi ra cái đồng hồ khá đẹp, nắp cẩn hột xoàn. Anh ta nói :

- Mười giờ kém ba phút. Chúng tôi đã chia tay ở đây, trước cửa tiệm ăn lúc đúng mười giờ.

Viên cảnh sát hỏi :

- Anh thành công ở miền Tây lắm phải không ?.

- Còn phải nói ! Giá Jimmy làm được một nửa như tôi ! Cậu ta hơi chậm chạp nhưng là người rất tốt. Tôi đã phải vật lộn với mấy tên cáo già thứ dữ để lập gia tài. Ở Nữu Ước con người đâm ra ù lì đi. Phải là miền Tây mới làm người ta sắc bén ra.

Viên cảnh sát quay tròn cây ma trắc bước đi vài bước :

- Tôi tiếp tục đi tuần nhé. Hy vọng là bạn anh sắp tới. Anh ta phải đến thật đúng giờ à ?

- Ô, không, tôi để dôi ra cho cậu ta ít nhất là nửa giờ chứ. Nếu Jimmy còn trên quả đất này thì cậu ta sẽ đến khoảng giờ đó. Xin chào ông cảnh sát.

- Chào anh.

Viên cảnh sát trả lời và tiếp tục cuộc tuần tiễu, kiểm tra từng cửa khi đi qua.

Trời đổ cơn mưa bụi thật lạnh và gió thổi từng cơn. Một ít người đi bộ còn trong khu này đang rảo bước, buồn rầu im lặng, cổ áo kéo cao, hai tay thọc sâu trong túi. Ở lối vào tiệm bán đồ ngũ kim, người đàn ông đã vượt cả ngàn cây số để giữ đúng một cái hẹn bấp bênh đến độ vô lý với người bạn thời niên thiếu, đang hút xì gà và chờ đợi.

Anh ta đợi khoảng hai mươi phút thì một người đàn ông cao lớn mặc áo khoác dài, cổ áo dựng đứng tận tai, từ đầu đường kia vội vã tiến tới. Anh ta đến thẳng chỗ người đứng chờ và hơi ngập ngừng hỏi :

- Cậu đấy hả, Bob ?

Người đàn ông đứng chờ ở lối vào la lên :

- Cậu đấy hả, Jimmy Wells ?

Người mới tới vừa reo vừa cầm hai tay bạn trong tay mình :

- Trời ơi ! Ðích thị là Bob, đúng như hai với hai là bốn. Tớ chắc chắn là sẽ gặp cậu ở đây nếu cậu còn sống trên đời. Hừm, ừ, hai mươi năm quả là dài. Cái quán ăn cũ đã biến mất rồi Bob à. Tớ muốn nó còn đó, như vậy tụi mình lại có thể ăn tối với nhau. Miền Tây đãi ngộ cậu ra sao, hở ông bạn già ?

- Tuyệt. Nó cho tớ tất cả những gì tớ muốn. Cậu thay đổi nhiều đấy, Jimmy. Tớ không bao giờ nghĩ là cậu cao như vậy, ít nhất cũng cao hơn cả ngón tay.

- Ờ, sau hai mươi tuổi tớ có cao thêm chút đỉnh.

- Ở Nữu Ước có thành công không, Jimmy ?


- Tàm tạm thôi. Tớ có việc làm ở một trong các bộ của thành phố. Ði, Bob, tụi mình tới một chỗ tớ biết để nói nhiều về thời gian qua cho yên tĩnh.

Tay trong tay, hai người đi ngược lên phố. Người tới từ miền Tây, mà tánh tự cao được phóng đại bằng thành công, bắt đầu kể những nét chính về lịch sử nghề nghiệp mình. Người kia thì chìm kín trong áo khoác, chăm chú lắng nghe.

Ở góc đường có tiệm thuốc tây sáng rực ánh đèn. Khi họ tới dưới ánh sáng chói chang ấy, hai người cùng lúc quay lại chăm chăm nhìn mặt nhau.

Người đến từ miền Tây bỗng dừng lại nới tay ra. Anh ta nói khô khan :

- Anh không phải là Jimmy Wells. Hai mươi năm quả thực là lâu, nhưng không đủ lâu để biến cái mũi khoặm thành mũi tẹt được.

Người cao lớn trả lời :

- Ðôi khi thời gian ấy đủ để thay đổi một người chân thực thành kẻ bất lương. Anh đang trong tình trạng bị bắt từ mười phút rồi, « công tử » Bob ạ. Chicago nghĩ là anh sẽ đi một vòng gần chỗ chúng tôi nên điện cho biết là họ muốn tán gẫu với anh một chút. Anh bình tĩnh nghe đấy chứ ? Như vậy là hợp lý. Giờ thì, trước khi đến bót, anh hãy đọc cái giấy người ta nhờ tôi trao tận tay anh cái đã. Anh có thể đọc trước cửa kiếng này. Của cảnh sát viên Wells gửi cho anh đấy.

Người đến từ miền Tây mở miếng giấy nhỏ người kia vừa đưa. Tay anh ta bất động khi bắt đầu đọc, nhưng khi đọc xong thì nó run lên. Mảnh giấy có vẻ ngắn gọn :

« Bob, tớ đã đến chỗ hẹn đúng giờ. Khi cậu bật diêm châm xì gà thì tớ thấy đó là khuôn mặt mà Chicago đang tìm. Không biết sao tớ không thể tự mình làm công việc ấy, nên đã tìm một cảnh sát viên mặc thường phục đến để thi hành. Jimmy ».

MIÊNG




O'HENRY (1862-1910)


Tên thật là William Sydney Porter. O'Henry sinh ở Greensboro (North Carolina), và nổi tiếng nhờ truyện ngắn. Rời ghế nhà trường từ tuổi 15, ông đã làm đủ thứ nghề và học nhiều ngoại ngữ để kiếm sống. Năm 1896, bị nghi ngờ ăn cắp tiền của một nhà băng nơi ông làm việc ở Austin, ông trốn sang Honduras và chỉ trở về khoảng 2 năm sau, khi nghe tin vợ đau nặng. Ông bị kết án 5 năm tù tại nhà lao Columbus (Ohio), song chỉ ở đấy 3 năm 3 tháng nhờ hạnh kiểm tốt. Ðiều lý thú là chính trong nhà lao mà ông bắt đầu viết truyện ngắn với nhiều bút hiệu. Ra tù, ông định cư tại New York từ năm 1902, và tiếp tục viết. Năm 1903, tờ « World » ở New York thuê ông viết mỗi tuần một truyện, đăng ngày Chúa Nhật. Ông nổi tiếng nhờ các truyện ngắn này và xuất bản được tất cả là 10 tuyển tập, từ 1904 cho tới 1910, năm ông mất tại New York. Những quyển nổi tiếng nhất in dưới dạng sách bỏ túi (London, Minster Classics) là : « Cabbages and Kings », « The Four Millions », « The Voice of the City », « Strictly Business », « Six and Sevens », « Waifs and Strays », « The Ransom of Red Chief »... Khung cảnh khi thì cuộc đời thô thiển và giản dị của miền Tây và Nam Hoa Kỳ, khi thì cuộc đời trong những thành phố lớn, nhất là New York. Nhân vật thường là những tên vô lại, không đạo đức, được diễn tả một cách sống động, tự nhiên. Ðoạn cuối của câu chuyện thường được kết cấu một cách khéo léo, luôn luôn bất ngờ như trong truyện « After twenty years », rút ra từ « O'Henry Stories » (London, Minster Classics). Từ 1918, bút hiệu của ông được dùng cho một giải thưởng tiếng tăm - giải O'Henry - để trao tặng cho truyện ngắn nào được xem là hay nhất trong năm ở Hoa Kỳ.

Nhân-giới ảo, thế giới thực và ngôn từ




Nhân-giới là tấm gương[1] ảo của vật-giới. Nó khiến vật-giới tự tại, có quy luật khoa-học.

Nhân-giới là tấm gương ảo của sinh-giới, khiến sinh-giới có giá-trị.

Thí dụ. Trong sinh-giới, con thú nào, kể cả ta, cũng biết nhảy, thích nhảy, kiểu này kiểu nọ. Đó là một trong hai đặc tính của sinh-giới theo định nghĩa của Engels về sự-sống. Những nhà sinh học đời nay cũng chấp nhận điều ấy. Đã sống thì sống, phải sống, ráng sống, tự nhiên, thế thôi. Dường như chỉ người mới biết yêu. Nhưng yêu mà không được nhảy, dường như thiêu thiếu điều gì đó ! Phải chăng vì thế mà bàn dân PhuLăngXa đã sáng tác ra khái niệm faire l'amour, làm tình ? Làm tình như làm người ? Nếu thế, tuyệt cú mèo. "Là" Tây con, ta mong thế. Làm người ở đời Tây - Ziao Chỉ của ta, ta không tin lắm. Hè hè.

Vứt bỏ nhân-giới, vật-giới và sinh-giới chẳng là gì cả, chẳng có giá trị gì cả.

Trong kiếp người, gương ảo kia hiện hữu dưới dạng ngôn từ, sáng tác tự do của con người xuyên qua quan hệ giữa người với người để tồn tại, sống và làm người trong vũ trụ.

Đã là sáng tác tự do, nó có khả năng tự diệt.

Nó tự diệt khi nó quên quan hệ vật chất giữa người với vật-giới để tồn tại, quên quan hệ nhục cảm giữa người với sinh-giới để tồn sinh, quên quan hệ nhân tình giữa người với người để làm người. Quên làm chủ ngôn từ ở chính mình.

Ôi nỗi đau làm người, nỗi đau ngôn từ ở ta!

Hè hè…

Phan Huy Đường



[1]
Miroir hay culture, littérature. Victor Hugo, Baudelaire, Sartre khi bàn về văn chưong , e tutti quanti.

Thảnh thơi

     

Bây giờ hoặc không bao giờ

Nhiều năm thăng trầm trong cuộc đời, phần lớn chúng ta đều ý thức rằng những hấp dẫn lực bên ngoài sớm muộn gì cũng sẽ vỡ tan, chỉ có một cõi lòng bình an và hạnh phúc với chính nó mới đích thực là nhu yếu sâu sắc nhất của con người. Cho nên trong truyền thống Phật giáo hay nói đến từ an lạc. Bình an sẽ đưa đến hạnh phúc. Bình an càng lớn thì hạnh phúc càng lớn. Bình an là sự dừng lại mọi mong cầu và chống đối, nó chấp nhận mọi điều kiện đang diễn ra trong thực tại một cách tự nhiên, đầy bao dung và hiểu biết. Hạnh phúc mà không có bình an là hạnh phúc giả tạm, nó chỉ là một sự thỏa mãn nhất thời, nhưng để lại tàn dư là nỗi cô đơn day dứt.

Có nhiều khi ta thấy lòng mình thật bình an và hạnh phúc, nhưng ta hãy nhìn kỹ lại có phải mình đang sống trong những điều kiện quá thuận lợi như công việc ổn định, những người thân rất hiểu và rất thương, không có bất cứ sự tấn công hay tổn thất nào, cũng chẳng có một điều gì đáng phải bận tâm giải quyết nữa. Tuy ta đang bằng lòng với thực tại nhưng ta vẫn đứng trên nền tảng của sự vay mượn, chỉ khi nào ta sống trong những nghịch cảnh mà vẫn vui vẻ chấp nhận vì ta không còn đòi hỏi gì ở bên ngoài nữa thì lúc ấy cái bình an và hạnh phúc kia mới thực sự là của ta.

Đó là cái an lạc chân thật, và chỉ có nó mới chứa đựng tính chất thảnh thơi. Không có an lạc thì không có thảnh thơi, an lạc càng lớn thì thảnh thơi càng lớn. Trong vài truyền thống hay nói đến từ “giải thoát” hoặc “tự do” theo nghĩa là ta đã vượt thoát khỏi sự khống chế ràng buộc của một đối tượng hay hoàn cảnh nào đó, có khi phải lìa xa cả thế giới này mới giải thoát được. Trong khi “thảnh thơi” thì không cần chạy đi đâu cả, cũng không cần xua đuổi đối tượng hay hoàn cảnh nào cả, ta vẫn sống ung dung tự tại giữa khó khăn ràng buộc bởi vì những phiền não mong cầu và chống đối trong ta đã rơi rụng. Lòng ta giờ nhẹ như mây trôi mãi giữa không gian vô tận mà không có gì có thể ngăn ngại được.

Nếu ta nói rằng bây giờ ta đâu có rảnh rang, còn quá nhiều việc phải làm, phải đối đầu với muôn ngàn áp lực thì làm sao thảnh thơi cho được. Nói kiểu đó là ta chỉ có khái niệm về thảnh thơi chứ chưa thật sự cảm nhận trực tiếp hương vị của sự thảnh thơi. Làm sao ta tin chắc rằng khi ta giải quyết xong những hoàn cảnh khó khăn trước mắt, hoàn thành những dự án kế hoạch, đạt được những tâm nguyện là ta sẽ được thảnh thơi? Ta đã tập dượt cho mình thói quen căng thẳng lo lắng, suy tưởng mông lung, bỏ hình bắt bóng, đứng ngồi không yên…thì dù hoàn cảnh đã lắng dịu rồi ta cũng không tài nào lắng dịu nổi, cũng lại kiếm chuyện để lăng xăng.

Vấn đề là ta phải có ý thức giữ tâm chứ không giữ cảnh thì ta mới có thể chạm tới sự thảnh thơi được. Tuy ta còn cần tới vài điều kiện tiện nghi bên ngoài, nhưng nó chỉ là phương tiện tạm thời chứ không phải là mục đích chính của cuộc đời ta. Mà cái chính yếu ta không tiếp xúc được ngay bây giờ, ta cứ hẹn lần hẹn lựa ở tương lai, thì chừng nào ta mới tiếp xúc được? Còn đùn đẩy cho tương lai là ta chưa ý thức sâu sắc về bản chất của sự thảnh thơi, ta vẫn còn nghĩ thảnh thơi thuộc về sự thuận lợi của hoàn cảnh bên ngoài chứ không phải chính nơi tâm mình.

Vì vậy ta có thể nói thảnh thơi là bây giờ hoặc không bao giờ. Bây giờ mà ta không biết cách thảnh thơi, vẫn bị hoàn cảnh lôi kéo và khống chế, dù đó là hoàn cảnh đặc biệt cỡ nào thì ta sẽ không bao giờ nắm được sự thảnh thơi trọn vẹn. Dĩ nhiên nếu ta chưa đủ giỏi, chưa gạn lọc sạch hết những cấu bẩn phiền não thì sự thảnh thơi cũng có giới hạn, sẽ khi đầy khi vơi, nhưng bắt buộc ta phải đang đứng trên con đường thảnh thơi chứ không phải đứng trên con đường khác. Nghĩa là thảnh thơi phải luôn có mặt trong từng bước đi chứ không phải nằm ở cuối con đường. Tại vì sự thật không có con đường nào đưa tới sự thảnh thơi mà bản thân nó không thảnh thơi.

Phương tiện là cứu cánh
“Rủ nhau đi cấy đi cày
Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu”

Chắc ai trong chúng ta cũng quen thuộc những câu ca dao này. Chữ “phong lưu” có nghĩa đen là gió cuốn trôi, tức là phải nhẹ lắm thì gió mới cuốn đi được; còn nghĩa bóng là sự sung sướng, thoải mái, không phải lo toan gì nữa. Vì ta thấy mình còn thiếu thốn nhiều thứ, ta không tin rằng với bấy nhiêu điều kiện mà mình đang sở hữu là có thể hạnh phúc, nên ta cứ tự nhủ thôi ráng “cày bừa” cực khổ đi rồi ngày mai sẽ hưởng. Ngày mai mình sẽ hưởng cái gì? Có kho thóc vàng thì mình sẽ ăn sung mặc sướng, nhưng liệu nó có đủ trang trải hết những nhu cầu về hạnh phúc của con người không? Nó giải quyết nổi những buồn tủi, cô đơn, phản bội hay tuyệt vọng không?

Đó là chưa nói khi no ấm rồi thì ta lại hay sanh tật, trong điều kiện thuận lợi con người thường hay dễ dãi với chính mình, tự mình thưởng cho công lao làm việc khó nhọc của mình bằng những chuyến đi hoang bất tận. Trong khi “cực” không nhất thiết phải đưa tới “khổ”. Nếu mình chấp nhận được cái cực nhọc đó vì mình ý thức rằng muốn hưởng thì phải làm, không có cái sung sướng bền vững nào từ trên trời rớt xuống cả, cái cực nhọc sẽ tôi luyện cho thể chất và tinh thần mình vững chắc nên mình sẽ không than van, không trả giá hay không tìm cách tránh né nó. Cái khổ thường có là do mình không thích nó, mình muốn nó đừng có mặt mà nó vẫn tới.

Nhưng hai câu ca dao sau thật hay thật giá trị: “Trên đồng cạn, dưới đồng sâu. Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa”. Khung cảnh có chồng có vợ cùng san sẻ gian lao trên từng cánh đồng cạn hay dưới đồng sâu, rồi có thêm con trâu bầu bạn thì chẳng phải là điều kiện của hạnh phúc sao? Có phải ta đã từng thấm thía rằng cái vất vả gian lao thể xác không là gì so với cái chia lìa mất mát không? Có kho thóc vàng thì điều kiện hưởng thụ sẽ cao hơn, nhưng nó cũng không phải là mục đích tối hậu của con người. Vậy nên, không vì bất cứ lý do gì mà ta đánh mất giá trị an lạc và thảnh thơi của mình, dù công việc hay hoàn cảnh kia có đặc biệt như thế nào thì ta cũng quyết không để mình tiếp tục trôi dạt vào những cơn hôn mê cảm xúc vô nghĩa.

Người ta hay nói “an cư lạc nghiệp”, tức là mình cần phải có cơ ngơi ổn định, tiện nghi vật chất kha khá, thì mới có thể tạo dựng một cuộc sống hạnh phúc được. Cái quan điểm này gạt gẫm không biết bao nhiêu lớp người rồi. Vì ngay khi họ đang sống trong những điều kiện của hạnh phúc nhưng họ không dám tận hưởng hay không dám tin mình làm như vậy là đúng, phải phấn đấu không ngừng, phấn đấu đến khi nào thấy không còn thua sút hay có thể ngẩng cao đầu nhìn người khác thì họ mới an tâm. Thật ra, chữ “an cư” nghĩa là mình đã thật sự dừng lại, không chạy ngược chạy xuôi nữa, ta bằng lòng với những gì mình đang có thì gọi là an cư. “An” ở đây không phải là do hoàn cảnh ổn định, mà chính những mộng tưởng đảo điên đã không còn có lãng đãng trong tâm ta nữa.

Vậy thì khi tâm an thì ở đâu hay lúc nào mình cũng thảnh thơi được cả. Ngày mai có kho thóc vàng hay không, có thêm những điều kiện tiện nghi nữa hay không thì nó không thay đổi lẽ sống của mình được. Phương tiện không thể làm hư hại mục đích, và mình phải xem phương tiện cũng chính là mục đích. Mình có thể cắt đời sống mình ra thành từng mảnh nhỏ, mỗi giây phút mỗi công việc mình đang tiếp xúc là một cơ hội để mình sống sâu sắc và nhận diện ra sự có mặt của thực tại mầu nhiệm đang không ngừng nuôi dưỡng ta. Ta sẽ không còn mơ mộng tương lai nữa, không chạy đi tìm cái gì nữa, không còn nôn nóng vội vàng nữa, vì tất cả những gì làm nên một đời sống đúng nghĩa đã có sẵn ở đây cả rồi.

Sống như người biết sống

Cách đây vài thập niên người ta còn quan niệm ai sống thảnh thơi là người đó đã biết cách điều hợp cuộc sống, đã thành công. Bây giờ nếu ta nói ta đang tận hưởng những giây phút của hiện tại, ta không có gì quan trọng phải làm, thì mọi người sẽ nhìn ta sửng sốt. Ta phải nói ta luôn bận rộn ( busy) thì ta mới biết sống, ta mới có giá trị. Ở Mỹ, người ta không nói công ty đắt khách hàng mà họ nói công ty rất bận rộn. Người trẻ còn muốn tăng thêm mức bận rộn nữa, bận rộn tới mức quay cuồng thì họ mới chịu, họ tự hào là họ đang rất “crazy” với công việc ở công ty, tại vì theo họ nếu không “crazy” tức là ế ẩm, thà điên cuồng mà có tiền xài thì cũng không sao.

Chung quanh ta ai cũng lao tới phía trước như điên, thậm chí có kẻ bất chấp cả những phương tiện tồi tệ nhất, nên ta cũng không dám chậm chân. Đôi khi lại bị những người thân thúc đẩy là nếu đi chậm như vậy thì lấy gì sống, tương lai sẽ đi về đâu, nên ta hốt hoảng rồi thả mình trôi theo dòng chảy của xã hội. Ai sao ta vậy, ta khó có được chánh kiến hay bản lĩnh để tự tách mình ra khỏi sức hút mãnh liệt ấy. Nhưng ta hãy làm thử đi, ta có tài năng chinh phục kẻ khác để làm gì mà ta không thể thiết kế đời sống thảnh thơi cho mình được. Có thể ban đầu ta sẽ thấy lạc lõng, nhưng dần dần ta sẽ tìm thấy được chính mình, tìm thấy được cái tâm vốn rất an lạc và thảnh thơi mà ta đã lạc mất từ những ngày chập chững bước vào dòng đời.

Không phải trở thành một nhà tâm linh thì ta mới có thể thảnh thơi được, tại vì chung quanh ta có nhiều nhà tâm linh vẫn còn đầy dẫy những khắc khoải mong cầu, vẫn chưa chấp nhận thực tại một cách tuyệt đối. Họ nhân danh những công tác cao cả mà đánh mất khả năng sống thảnh thơi của mình thì làm sao có thể dẫn dắt kẻ khác đến nơi bình yên chân thật được. Không thành công trong hiện tại, họ bày vẽ tương lai bằng những viễn cảnh cực kỳ hấp dẫn để dụ dẫn những kẻ lòng non dạ yếu. Cho nên chủ trương đi tìm thế giới tự do đã trở thành xu hướng mạnh mẽ của những kẻ không định vị được mình trong cuộc sống, không cắm rễ vào sự sống, bất lực và muốn bỏ chạy trước những hoàn cảnh trái ngang mà họ cho đó là số phận.

Không có cái số phận nào cả, nếu ta biết luôn quay về để nhận diện và chuyển hóa những phiền não của chính mình, dừng lại cuộc truy đuổi theo những đối tượng khác. Tâm tham cầu và tâm chống đối càng bị triệt tiêu thì cảnh giới an lạc và thảnh thơi sẽ hiện ra lập tức. Mỗi khi ta suy tư, nói năng hay hành động điều gì thì ta hãy tự hỏi ta có thảnh thơi không, ta có đang nắm giữ mục đích cao cả của kiếp người không? Nếu không, ta hãy can đảm buông bỏ nó đi. Buông bỏ những ưu tư phiền muộn để giữ gìn tâm bình an phải cần đến một sự luyện tập nhất định nào đó chứ không chỉ có ý chí mà làm được. Dù vậy, ta vẫn tin chắc một điều là an lạc và thảnh thơi luôn có sẵn trong ta, chỉ cần biết cách và đủ can đảm để sắp xếp lại guồng máy hoạt động của tâm thức của mình sao cho thuận với nguyên tắc của vũ trụ. Nguyên tắc ấy là vô ngã, không có cái tồn tại biệt lập đáng để tự hào, kiêu ngạo hay thù hận.

Ngồi yên trong thảnh thơi
Tiếp xúc với mây trời
Buông cái tôi bé nhỏ
Thấy mình hiện muôn nơi

Minh Niệm

Thứ Sáu, 20 tháng 9, 2013

Tết Trung Thu Việt




THỜI ĐIỂM TẾT TRUNG THU:

Trung = giữa; Thu = mùa thu. Trung thu có nghĩa là giữa mùa thu. Theo cách tính mùa của âm lịch thì một năm chia thành 4 mùa, mùa xuân gồm tháng giêng, tháng hai, tháng ba; mùa hạ gồm tháng tư, tháng năm; tháng sáu; mùa thu gồm tháng bảy, tháng tám, tháng chín; và mùa đông gồm tháng mười, tháng mười một, tháng chạp. Như vậy, tháng tám âm lịch chính là THÁNG GIỮA MÙA THU và này rằm – tức giữa tháng – chính là NGÀY GIỮA MÙA THU. Vậy, TẾT TRUNG THU LÀ NGÀY TẾT GIỮA MÙA THU. Các bạn đọc nhí chớ nên nhầm lẫn Trung Thu là Trung Nguyên. Tiết Trung Nguyên là vào ngày rằm tháng bảy âm lịch, giữa Thượng Nguyên vào ngày rằm tháng giêng và Hạ Nguyên vào ngày rằm tháng mười. Nhiều người vẫn gọi là Tết Thượng Nguơn, Tết Trung Nguơn và Tết Hạ Nguơn. (Chữ cổ: Nguơn = Nguyên).

Ngoài Trung Hoa và Việt Nam, nhiều quốc gia Á Đông khác đều có ngày lễ tương tự như Tết Trung Thu này, tuy mỗi quốc gia có phong tục mừng ngày vui trung thu một cách rất khác nhau. Ví dụ ở Triều Tiên là Lễ Tạ Ơn Chusok, ở Nhật Bản là Hội Zyuyoga

NGUỒN GỐC TẾT TRUNG THU:

Đa số tài liệu vẫn cho rằng Tết Trung Thu bắt nguồn từ Trung Hoa. Có nhiều sự tích được truyền tụng về nguồn gốc của Tết Trung Thu, nhưng câu chuyện Đường Minh Hoàng Du Nguyệt Điện sau đây có lẽ được nhiều người biết nhất.


Đời nhà Đường thời vua Duệ Tôn, niên hiệu Văn Minh bên Trung Hoa, Đường Minh Hoàng (713 Đường Minh Hoàng – 741 TL) thương nhớ Dương Quí Phi đã qua đời, thơ thẩn dạo chơi vườn Ngự Uyển, nhân gặp đêm rằm tháng tám trăng tròn sáng tỏ, gió mát hây hây, say cảnh đẹp của đất trời, vua xa bước dạo chơi ngoài thành mãi đến lúc canh khuya… Nhìn lên mặt trăng to tròn vành vạnh, vua mê say ngắm trăng, rồi buột miệng ước ao được lên thăm mặt trăng một chuyến. Tình cờ một Tiên ông (có chỗ nói là Đạo Sĩ La Công Viễn; có chỗ lại nói là Pháp Sư Diệu Pháp Thiện) nghe thấy, bèn hóa phép giúp vua, dùng chiếc gậy trúc vẽ lên bầu trời biến thành một chiếc cầu vồng nối liền từ mặt đất đến mặt trăng đưa vua lên đó. Ở cung Trăng, được gặp các Tiên Nữ sắc nước hương trời, xiêm y rực rỡ, lại được xem họ hát múa “Tây Thiên Điệu Khúc”. Trong số Tiên Nữ đang múa hát, vua nhìn thấy cả hình ảnh Dương Quý Phi. Trở về trần thế, vua ngày đêm luyến tiếc cảnh tượng trên cung Quảng trong lần du Nguyệt điện, lại thêm thương nhớ Dương Quí Phi, vua hồi tưởng lại khúc “Tây Thiên”, đem hợp thêm với “Khúc Hát Bà La Môn” do Trương Kính Thuật – Tiết Độ Sứ Tây Lương – vừa triều tiến, tạo nên “Khúc Nghê Thường Vũ Y” (nghê là cầu vồng, thường là xiêm váy) rồi truyền mở tiệc cho cung nữ múa hát. Và để kỷ niệm dịp được đi thăm cung Trăng lần ấy, vua đặt lệ ngày rằm tháng tám mỗi năm là ngày Tết Trung Thu để thần dân bá tánh cùng được vui chơi, uống rượu thưởng trăng (ngắm trăng). Do vậy, ngày tết này còn được gọi là Tết Trông Trăng.

Một sự tích khác giải thích nguồn gốc Tết Trung Thu cho rằng: Tết Trung Thu bắt nguồn từ lễ tạ Trời Đất của vua Hán Quang Vũ – thời Tây Hán – sau khi diệt được phản thần Vương Mãng, bình định đất nước, khôi phục nhà Hán vào năm 25 sau Tây Lịch. Chuyện kể trong lúc chinh chiến, khi bị quân Vương Mãng vây khốn nhiều ngày, hết lương thực, tướng sĩ của Lưu Tú nhờ tìm được khoai môn và bưởi để ăn mà không bị chết đói, nên về sau khi Lưu Tú dẹp được giặc, lên ngôi vua lấy hiệu Quang Võ (tức Hán Quang Vũ), vua đã tổ chức lễ tạ ơn mỗi năm vào ngày ấy và trong số phẩm vật cúng lễ luôn phải có khoai môn và bưởi. Tết Trung Thu về sau người ta thường sắm sửa hai thức ấy là do tích này.

Rồi dần dần Tết Trung Thu thành ngày lễ lớn ở Trung Hoa. Dịp này thường trùng với lúc gặt lúa vừa xong thành ra cũng là dịp mừng vui của các nông gia. Sau một nông vụ cực nhọc vất vả, đây là lúc rãnh tay nghĩ ngơi, bày biện lễ vật tạ ơn Trời Phật, Thần Tiên…



Thế nhưng cũng có nhiều người không đồng tình với nguồn gốc ngày Tết Trung Thu của Việt Nam theo cách giải thích trên, lập luận đưa ra là:

Theo các nhà khảo cổ học, thì Tết Trung Thu ở Việt Nam vốn có từ thời xa xưa, đã được in trên mặt trống đồng Ngọc Lũ (chứng tỏ sự sự ra đời và gắn bó của Tết Trung thu với người Việt đã có ít nhất 2500 năm). Còn theo các văn bia chùa Đọi năm 1121 thì từ đời nhà Lý, Tết Trung Thu đã được chính thức tổ chức ở kinh thành Thăng Long với các hội đua thuyền, múa rối nước và rước đèn. Và theo sách “Tang Thương Ngẫu Lục” miêu tả thì: “đến đời Lê – Trịnh, Tết Trung Thu đã được tổ chức rất xa hoa trong phủ Chúa”. Ngay cả sách “Thái Bình Hoàn Vũ Ký” của người Trung Hoa cũng chép: “Người Lạc Việt cứ mùa thu tháng tám thì mở hội, trai gái giao duyên, ưng ý nhau thì lấy nhau”. Đây chính là hội rằm tháng tám của dân tộc Việt, vì:

Văn minh của dân tộc Việt là văn minh lúa nước. Giữa mùa thu (giữa tháng 8 âm lịch) khí trời mát mẻ, dễ chịu, lại vừa mới thu hoạch xong vụ mùa. Gặp lúc nông nhàn này những cư dân nông nghiệp mới tụ họp nhau lại để trước hết là “chơi trăng”, sau là tổ chức những trò vui bình dị nhằm giải trí vui chơi, nghĩ ngơi sau một vụ mùa làm lụng vất vả. Từ nền tảng kinh tế và sinh hoạt nông nghiệp đó đã hình thành nên hội rằm tháng tám (hay Tết Trung Thu). Ngoài ra, sự gắn bó mật thiết giữa văn minh nông nghiệp lúa nước với mặt trăng cũng có thể chứng minh qua quan niệm nhìn trăng trung thu để tiên đoán thời tiết và kết quả mùa màng. Người Việt xưa tin chắc rằng, vào đêm trăng rằm tháng tám, nếu màu trăng vàng thì năm tới sẽ được mùa; trăng màu xanh thì đất nước có thiên tai; trăng màu hồng cam thì đất nước yên ổn thanh bình. Điều này cũng dễ dàng tìm thấy trong ca dao, dân ca truyền khẩu của dân tộc Việt:

“Muốn ăn lúa tháng năm,
Trông trăng rằm tháng tám”.

“Tỏ trăng mười bốn được tằm,
Đục trăng hôm rằm thì được lúa chiêm”.

Lý giải trên tương tự cách giải thích của người Triều Tiên về lễ Tạ Ơn Chuseok: [Tục ngữ Triều Tiên có câu: "Nông dân tháng 5, thần tiên tháng 8" để ám chỉ vào tháng 5, người nông dân phải vất vả, bận rộn với mùa màng, nhưng đến tháng 8, khi việc đồng áng trong một năm đã dần bước vào giai đoạn thu hoạch thì có thể rảnh rang nghỉ ngơi như thần tiên"]. Còn việc sách chép: trong ngày hội, “trai gái giao duyên, ưng ý nhau thì lấy nhau” cho thấy rằng mùa thu tháng tám là mùa giao duyên, kết hôn của dân Việt, và cũng rất giống cách giải thích ý nghĩa trò chơi ganggangsulae trong lễ hội Chuseok: [Trong xã hội nông nghiệp, trăng rằm là biểu tượng cho sự sinh sôi, nảy nở, rất tương đồng với chức năng và biểu tượng sinh sản, gieo mầm và phát triển sự sống của người phụ nữ. Bởi thế, ngày mãn nguyệt (ngày trăng tròn) còn được ví như người phụ nữ đến kỳ “khai hoa nở nhụy”. Trò chơi ganggangsulae trong ngày rằm là sự thăng hoa, là bài ca về cái đẹp của thiên nhiên và người phụ nữ"].

Hơn nữa, người Trung Hoa với nền tảng văn hóa là văn minh du mục và trồng khô (lúa mì, bắp, cao lương…), lịch trồng trọt và thu hoạch ít phụ thuộc vào trăng hay theo bốn mùa xuân, hạ, thu, đông (lý giải này có hơi khiên cưởng – QM) giống như của người Việt. Vã lại tiết trời vào thời điểm tháng tám tại Trung Hoa bắt đầu lạnh. Những điều kiện như vậy không góp phần hình thành nên một lễ hội chơi theo trăng… Như vậy kết hợp cái nhìn tổng hợp của khảo cổ học, cơ sở văn hóa, ca dao dân ca và chính ghi chép của người Trung Hoa cho thấy rằng hội rằm trung thu là một sinh hoạt văn hóa của người Việt dựa trên nền văn minh lúa nước.

Vì không có ý (và cũng không đủ tài năng) khảo cứu sâu về nguồn gốc tết Trung Thu nên bài viết này sẽ tạm dừng phần này ở đây để bạn đọc tùy nghi nghiên cứu và kết luận. Chúng ta hãy chuyển sang các lĩnh vực lý thú hơn của ngày Tết độc đáo này trong tinh thần thuần Việt.

Điều chúng ta có thể xác quyết là Tết Trung Thu của người Việt, đầu tiên vốn là thú vui của người lớn, đặc biệt là nông dân. Người ta sắm sửa thức ăn, thức uống, bày biện cổ bàn trước hết cúng tạ Trời Phật, Thần Tiên sau một vụ mùa vừa thu hoạch (ở đây có lẽ cần luận thêm rằng, nói cúng tạ ơn sau một vụ mùa bội thu là không hoàn toàn chính xác, bởi theo truyền thống tri ân và báo ân của người Việt, thì cho dù được mùa hay mất mùa, việc cúng bái cũng sẽ được thực hiện kỷ lưỡng với một niềm thành kính, không những để tạ ơn Phật Trời, Thần Linh, Tổ Tiên đã trợ giúp cho vụ mùa vừa thu hoạch được, mà còn cầu mong được mưa thuận gió hòa, không phát sinh dịch bệnh cho vụ mùa tiếp theo).

Trở lại với Tết Trung Thu, sau các nghi thức cúng bái lễ tạ thì gia đình, xóm làng tổ chức ăn tiệc, uống rượu hay uống trà thưởng nguyệt (ngắm trăng) vào đêm rằm, ban ngày thì bày các trò vui bình dân cổ truyền để vui chơi giải trí. Dần dà, do ý thức và cũng là một nét truyền thống đặc trưng của người Việt là yêu trẻ, dịp trung thu người lớn chuẩn bị mâm cổ riêng với nhều loại bánh và trái cây phù hợp, được trẻ con yêu thích để khi đám trẻ tụ họp với nhau ca hát, rước đèn (những chiếc “lồng đèn trung thu” được cha mẹ hay anh chị, ông bà tỉ mẫn làm cho) về đến là cả nhà tập trung “phá cỗ” vào lúc mặt trăng lên cao nhất.

Về sau, Tết Trung Thu mặc nhiên trở thành ngày tết đặc biệt của trẻ em với các tên gọi quen thuộc: Tết Nhi Đồng; Tết Thiếu Nhi nhưng vẫn còn được người lớn “ăn theo”. Do vậy, phong tục Tết Trung Thu của Việt Nam chúng ta vẫn xen lẫn những trò vui trẻ con và thú vui người lớn.

Đặc biệt nhất của Tết Trung Thu là phải có đèn Trung Thu; bánh Trung Thu và múa lân Trung Thu…



ĐÈN TRUNG THU:

Lồng đèn trung thu được chế tạo cho trẻ em với thiên hình vạn trạng, sặc sở muôn màu muôn vẽ… Đèn lồng, đèn xếp với đủ loại hình thù: mặt trăng; ông sao; các nhân vật cổ tích; các con giống; các loại thú – có lẽ nhiều nhất là đèn cá chép và con thỏ (theo cổ tích)…

Một trong những loại đèn trung thu có giá trị và thực hiện công phu mà người lớn cũng dùng để trang trí nhà cửa không chỉ dịp Tết Trung Thu là đèn kéo quân, loại đèn trước đây có hình quan quân, tướng sĩ quay quanh trục đèn, còn bây giờ thì đã chế tác ra nhiều hình ảnh khác nữa.

Những ngày gần đến tết, trẻ em đã được cho thắp đèn chơi ở nhà hoặc bên nhà hàng xóm. Một hai đêm trước và đúng đêm rằm tháng tám, các em tụ họp nhau đi rước đèn Trung Thu. Đám trẻ tay cầm hay xách những chiếc đèn trung thu được thắp sáng bằng nến (đèn sáp, đèn cầy) tung tăng từng đoàn khắp xóm làng, ngõ phố, vừa đi vừa ca hát, nô đùa vô cùng hân hoan náo nhiệt.

Có giải thích rằng đèn trung thu đầu tiên tại Việt Nam xuất xứ ở Hội An – Trung Việt thời xưa – khoảng thế kỷ XVI hay XVII, khi người Trung Hoa di dân sang lập nghiệp đông đúc tại thành phố này. Đèn trung thu Hội An thay vì dán giấy thì được bọc bằng loại lụa Hà Đông, ánh sáng đẹp và lung linh, huyền ảo hơn.

Ngoài lồng đèn trung thu, trong dịp này các em còn được người lớn yêu chiều mua sắm cho một vài thứ “đồ chơi trung thu” khác mà ngày thường ít khi có được: Đặc trưng nhất là ông Tiến Sĩ Giấy (một thứ đồ chơi bằng giấy làm thành người đàn ông, dáng vẻ… học thức. Sau này, chữ “tiến sĩ giấy” dùng ám chỉ những kẻ hay “lòe” người khác, tự cho mình là trí thức nhưng thực tế là “ruột rổng”, dốt nát); các loại đồ chơi làm bằng giấy bồi, đất sét hoặc bột được tô màu lòe loẹt có hình dạng hoa quả, đình chùa, người ngựa; các loại con giống (thú vật) – thường được ưa chuộng là con thiềm thừ (cóc) cử động được; mặt nạ bằng giấy với diện mạo những nhân vật trong các tích truyện nổi tiếng; các thứ trống bỏi, chong chóng, cung kiếm v.v… và v.v…



BÁNH TRUNG THU:

Bánh ngon và đặc biệt nhất trong dịp tết Trung Thu dĩ nhiên phải là… bánh trung thu.

Bánh trung thu ban đầu hình tròn như mặt trăng, được gọi là bánh “đoàn viên” vì là bánh cho cả gia đình ăn khi đoàn tụ ngắm trăng. Ngày nay, bánh trung thu gồm hai loại chính: Bánh dẻo có vỏ làm bằng bột nếp, nhân đậu xanh, hạt sen, vỏ cam v.v… Bánh dẻo hương vị ngọt và thơm. Bánh nướng có vỏ là bột mì, nhân thập cẩm, lòng đỏ trứng muối, thịt heo, lạp xưởng, hạt dưa v.v… Bánh nướng hương vị mặn mà. Bánh dẻo thường có màu trắng và hình tròn, được cho là tượng trưng cho mặt trăng. Bánh nướng thường có màu vàng sẫm và hình vuông được cho là tượng trưng cho mặt đất hoặc hình tròn có khía tượng trưng cho mặt trời.

Giả thuyết hiện nay cho là bánh trung thu có thể bắt nguồn từ thời Trung Hoa bị người Mông Cổ xâm nhập. Truyền thuyết lưu truyền rằng do bị người Nguyên cai trị, người Trung Hoa âm mưu nổi dậy, hẹn định khởi nghĩa vào một ngày rằm tháng 8. Để tập hợp các lực lượng, một trong những người cầm đầu là Lưu Bá Ôn đã cho bán một loại bánh, trong ruột bánh có mảnh giấy ghi “đêm rằm tháng tám khởi nghĩa” như là một cách truyền tin. Nhờ vậy người dân nhất loạt hưởng ứng và đã lật đổ đươc thể chế cai trị hà khắc của người Mông Cổ. Từ đó, Trung Hoa có tục lệ mỗi năm tụ họp gia đình, ăn bánh vào ngày rằm tháng tám để kỷ niệm.

Hiện nay tại nhiều quốc gia Âu, Mỹ người ta cũng đã biết và thưởng thức loại bánh đặc biệt này với một kiểu gọi tên tuy không chính xác (là trung thu) nhưng đã trở thành quen thuộc: Moon cake – Bánh mặt trăng.



MÚA LÂN TRUNG THU:

Trung Thu có nhiều trò vui cho trẻ em nhưng vui nhộn và hấp dẫn nhất vẫn là múa lân (hay múa sư tử). Đây là sinh hoạt nhộn nhịp mà ở đâu chúng ta cũng bắt gặp trong dịp Tết Trung Thu và Tết Nguyên Đán.


Lân là một trong Tứ Linh (bốn con vật quý) Long (rồng); Lân (kỳ lân); Quy (rùa); Phụng (chim phượng hoàng). Tuy tôi và các bạn chưa hề được thấy con kỳ lân thật “mặt mũi” ra sao, nhưng người ta còn phân biệt kỳ lân làm 2 giống với KỲ là con đực và LÂN là con cái(?). theo mô tả, đầu lân có một cái sừng rất to và trông thoáng qua hơi giống đầu sư tử nên trước đây miền Bắc Việt Nam chúng ta gọi là múa sư tử. Thật ra múa sư tử thì người múa đội chiếc đầu sư tử và cũng có dải vải làm thân và đuôi sư tử (ngắn, dài tùy ý) như múa lân.

Đám múa lân, phần chính là “con” lân, có một người đội (thật ra là phải cầm bằng hai tay) chiếc đầu lân thật to bằng giấy bồi, màu sắc sặc sỡ rất đẹp. Thân và đuôi lân là một dải vải nhiều màu sắc, rộng và khá dài do những người khác chia nhau cầm giữ từng khúc che trên đầu và phần lưng (người cầm) để múa theo đầu lân theo nhịp trống và thanh la, não bạt (chập cheng). Nhân vật phụ trợ nhưng quan trong không kém là “ông Địa” do một người đeo mặt nạ hóa trang. Chiếc mặt nạ ông Địa nếu thật sự ấn tượng thì cũng là một tác phẩm nghệ thuật như cái đầu lân. Với cái đầu tròn và bóng loáng, ông Địa có khuôn mặt tròn xoe như mặt trăng cười toe toét với các chi tiết vẽ mắt, mũi, tai, miệng rất hoạt kê, cái bụng phệ rất bự dấu trong tà áo dài thắt dây lưng ngoài, tay không ngừng phe phẩy hoặc vẫy chiếc quạt cũng quá khổ luôn lăng xăng trêu đùa, làm những động tác ngộ nghỉnh, hài hước. Đây là nhân vật mà các em nhỏ vừa thích thú – có khi còn thích hơn xem lân múa – chạy theo trêu chọc nhưng cũng vừa e dè, sợ sệt. Hiện nay, nhiều đám múa lân còn tăng cường thêm những nhân vật hóa trang theo các tích truyện nổi tiếng, đa số là các nhân vật Tề Thiên, Bát Giới, Sa Tăng trong Tây Du Ký. Một thành phần nữa trong đám múa lân là những người đi theo lân để đánh trống, thanh la, não bạt… Những người này có thể cũng cải trang, cầm cờ xí nhiều màu, cầm đao, côn, kiếm… hoặc hoàn toàn không hóa trang.

Múa lân cho đến nay đã trở thành một loại hình sinh hoạt dân gian nghệ thuật khéo léo, đòi hỏi người múa có kỷ năng cao. Trong tiếng trống thì thùng, tiếng não bạt chập cheng, trước đây khi chưa bị cấm, còn có tiếng pháo đì đùng của các nhà đón lân vào múa và đì đẹt tiếng pháo tiểu của trẻ con đi theo đám múa thỉnh thoảng đốt chơi, hòa quyện với tiếng nói cười rộn rã của đám đông kéo theo… Đám múa lân qua đến đâu là huyên náo cả một vùng, tạo nên một không khí vô cùng hào hứng, phấn chấn. Lân qua nhà nào có ý định đón vào múa, chủ nhà đã gói sẵn tiền, cột treo ở một nơi cao và khó lấy nhất. Lân dừng lại, vào nhà làm các “thủ tục” vái lạy từ đường, chào gia đình theo hiệu trống và biểu diễn màn múa ngoạn mục trước khi tìm cách trèo lên cao lấy tiền thưởng. Những người trong đám múa lân lúc này sẽ khéo léo đứng chồng lên nhau, tạo thành chiếc thang người, lân vừa múa vừa leo lên cao dần “táp” lấy tiền thưởng rồi xuống múa lạy tạ chủ nhà lần chót trước khi tạm biệt đi ra cổng qua nhà khác…



MÂM CỖ TRUNG THU (Cỗ trông trăng):

Ngày Tết Trung Thu, người ta thường bày cỗ với nhiều món trái cây tươi và các loại bánh đặc trưng, nhưng theo quan niệm dân gian Việt Nam, cho dù muốn bày biện loại trái cây gì thì cũng nên có quả xanh, quả chín. Bởi trái màu xanh mang tính âm, trái chín mang tính dương, tượng trưng cho luật cân bằng âm dương của vũ trụ. Với người xưa, Trung Thu là dịp cả nhà sum vầy thưởng trăng, “phá” cổ. Đây cũng là thời điểm dự báo cho vụ mùa sắp tới, nên mâm ngũ quả dâng lên bàn thờ tổ tiên luôn đậm hương sắc mùa thu chín, như là tấm lòng con cháu cầu sự may mắn và thịnh vượng cho mùa sau.

Còn mâm cỗ Trung Thu (còn gọi là cỗ trông trăng) thường được xếp các hình thú vật, thông thường nhất là một con chó được xếp bằng tép bưởi, gắn 2 hạt đậu đen làm mắt; hình bầy heo con múp míp vây quanh bên heo mẹ; hình cá chép từ hình dạng mấy loại bánh chay, bánh nướng, bánh dẻo thập cẩm… Chung quanh bày nhiều loại hoa quả. Một mâm cỗ Trung thu đầy đủ luôn gồm cả bưởi xanh phớt vàng, mãng cầu xanh màu men sứ, hồng đỏ bóng, hồng ngâm xanh, mía tím, chuối tiêu vàng chen lẫn ổi, cam, dưa hấu và các thứ hoa trái khác tùy sáng kiến, sở thích và điều kiện tiền bạc từng nhà… Người ta gởi gắm trong mâm cỗ đó sự mong cầu tượng trưng qua từng loại trái.

Trước đây, thời trẻ con còn thịnh hành chơi đồ chơi bằng giấy và “con giống”, chính giữa, trên chổ cao nhất của mâm cổ trông trăng thường nghễu nghện một ông “Tiến Sỹ Giấy” lung lay trước gió. Và phải kể một thứ thức ăn không thể thiếu vào dịp Trung Thu xưa tại miền Bắc Việt Nam mà ngày nay những ai xa quê cũng đành cho đó là món hàng “quý hiếm”: Loại cốm dẻo thơm ngon được làm từ mầm lúa mới, và ngon nhất, nỗi tiếng nhất phải là “cốm làng Vòng”.

Khi trăng lên tới đỉnh đầu là lúc trẻ em đi rước đèn Trung Thu trở về, cả nhà quân quần hạ mâm cổ xuống, cùng thưởng thức hương vị Tết Trung Thu, giây phút ấy gọi là “phá cỗ”. Lúc bấy giờ, những hạt bưởi trước đó vài tuần đã chuẩn bị sẵn, bóc lớp vỏ áo rồi xâu vào các sợi dây thép (dây kẽm, dây chì) đem phơi khô, giờ được đám trẻ đem ra đốt cháy lên, tuy không sáng là bao nhưng mùi thơm sực nức cả nhà. Niềm vui đêm Trung Thu thời bấy giờ chỉ bình dị như vậy mà sao ngọt ngào đến vậy…



CHUYỆN CỔ TÍCH TRUNG THU:

Tết Trung Thu, dưới ánh trăng rằm vằng vặc, cũng là dịp đặc biệt để ông bà, cha mẹ kể chuyện cổ tích cho con cháu. Những tích truyện quen thuộc thường được kể đi, kể lại nhiều năm mà trẻ vẫn thấy hay, thấy thích là:
Chuyện Chú Cuội Cây Đa:

Đúng ra là trong kho tàng cổ tích chúng ta có đến 2 câu chuyện về sự tích chú Cuội và cây đa trên mặt trăng (không tính đến các câu chuyện kiểu… nói láo như Cuội). Ở đây chỉ xin dẫn ra một chuyện:

Ngày xưa ở một vùng nọ có người tiều phu tên là Cuội. Một hôm, như lệ thường, Cuội vác rìu vào rừng sâu đốn củi. Khi đến gần một con suối nhỏ, Cuội bỗng giật mình trông thấy một cái hang cọp. Nhìn trước nhìn sau anh chỉ thấy có bốn con cọp con đang vờn nhau. Muốn trừ họa cho dân làng, Cuội liền xông đến vung rìu bổ cho mỗi con một nhát lăn quay trên mặt đất. Nhưng vừa lúc đó, cọp mẹ cũng về tới nơi. Nghe tiếng gầm kinh hồn ở sau lưng, Cuội chỉ kịp quẳng rìu leo thoắt lên ngọn một cây cao. Từ trên nhìn xuống, Cuội thấy cọp mẹ lồng lộn trước đàn con đã chết. Nhưng chỉ một lát, cọp mẹ lẳng lặng đi đến một gốc cây gần chỗ Cuội ẩn, đớp lấy một ít lá rồi trở về nhai và mớm cho con. Khoảng thời gian chưa ăn giập miếng trầu, bốn con cọp con đã vẫy đuôi sống lại, khiến cho Cuội vô cùng sửng sốt. Chờ cho cọp mẹ tha con đi nơi khác, Cuội mới lần xuống tìm đến cây lạ kia đào gốc vác về.

Dọc đường gặp một ông lão ăn mày nằm chết vật trên bãi cỏ, Cuội liền đặt gánh xuống, không ngần ngại, bứt ngay mấy lá nhai và mớm cho ông lão. Mầu nhiệm làm sao, vừa mớm xong, ông lão đã mở mắt ngồi dậy. Thấy có cây lạ, ông lão liền hỏi chuyện. Cuội thực tình kể lại đầu đuôi. Nghe xong ông lão kêu lên: “Cây này chính là cây thần có phép cải tử hoàn sinh! Thật là trời cho con để cứu giúp thiên hạ. Con hãy chăm sóc cho cây nhưng nhớ một điều: đừng bao giờ tưới bằng nước bẩn mà cây sẽ bay lên trời đó!”. Nói rồi ông lão chống gậy đi. Còn Cuội thì vác cây về nhà trồng ở góc vườn phía đông, luôn luôn nhớ lời ông lão dặn, ngày nào cũng tưới bằng nước giếng trong. Từ ngày có cây thuốc quý, Cuội cứu sống được rất nhiều người. Hễ nghe nói có ai nhắm mắt tắt hơi là Cuội vui lòng mang lá cây đến tận nơi cứu chữa. Tiếng đồn Cuội có phép lạ lan đi khắp nơi.

Một hôm, Cuội lội qua sông gặp xác một con chó chết trôi. Cuội vớt lên rồi giở lá trong mình ra cứu chữa cho chó sống lại. Con chó quấn quít theo Cuội, tỏ lòng biết ơn. Từ đấy, Cuội có thêm một con vật tinh khôn làm bạn. Một lần khác, có lão nhà giàu ở làng bên hớt hải chạy đến tìm Cuội, vật nài xin Cuội cứu cho con gái mình vừa sẩy chân chết đuối. Cuội vui lòng theo về nhà, lấy lá chữa cho. Chỉ một lát sau, mặt cô gái đang tái nhợt bỗng hồng hào hẳn lên, rồi sống lại. Thấy Cuội là người cứu sống mình, cô gái xin làm vợ chàng. Lão nhà giàu cũng vui lòng gả con cho Cuội. Vợ chồng Cuội sống với nhau thuận hòa, êm ấm thì một hôm, trong khi Cuội đi vắng, có bọn giặc đi qua nhà Cuội. Biết Cuội có phép cải tử hoàn sinh, chúng quyết tâm chơi ác. Chúng bèn giết vợ Cuội, cố ý moi ruột người đàn bà vứt xuống sông, rồi mới kéo nhau đi. Khi Cuội trở về thì vợ đã chết từ bao giờ, mớm bao nhiêu lá vẫn không công hiệu, vì không có ruột thì làm sao mà sống được. Thấy chủ khóc thảm thiết, con chó lại gần xin hiến ruột mình thay vào ruột vợ chủ để đền ơn cứu sống và nuôi dưỡng bấy lâu. Cuội chưa từng làm thế bao giờ, nhưng thương vợ nên cũng đánh liều mượn ruột chó thay ruột người xem sao. Quả nhiên người vợ sống lại và vẫn trẻ đẹp như xưa. Thương con chó có nghĩa, Cuội bèn nặn thử một bộ ruột bằng đất, rồi đặt vào bụng chó, chó cũng sống lại. Vợ với chồng, người với vật lại càng quấn quít.

Nhưng cũng từ đó, tính nết vợ Cuội tự nhiên thay đổi hẳn. Hễ nói đâu là quên đó, làm cho Cuội lắm lúc bực mình. Ðã không biết mấy lần, chồng dặn vợ: “Có tiểu thì tiểu bên Tây, chớ tiểu bên Ðông, cây dông lên trời!”. Nhưng vợ Cuội hình như lú ruột, lú gan, vừa nghe dặn xong đã quên ngay sau đó. Một buổi chiều, chồng còn đi rừng kiếm củi chưa về, vợ ra vườn sau, không còn nhớ lời chồng dặn, đang mắc tiểu bèn nhằm vào gốc cây quý kia mà tiểu. Thế là khi chị ta vừa đi tiểu xong thì mặt đất chuyển động, cây đảo mạnh, gió thổi ào ào. Cây đa tự nhiên bật gốc, lững thững bay lên trời. Đúng lúc đó Cuội vừa về đến nhà. Thấy thế, Cuội hốt hoảng vứt gánh củi, nhảy bổ đến, toan níu cây lại. Nhưng cây lúc ấy đã rời khỏi mặt đất lên quá đầu người. Cuội chỉ kịp móc rìu vào rễ cây, định lôi cây xuống, nhưng cây vẫn cứ bốc lên, không một sức nào cản nổi. Cuội cũng nhất định không chịu buông, thành thử cây kéo cả Cuội bay vút lên đến cung trăng.

Từ đó Cuội ở luôn cung trăng với cả cái cây quý của mình. Mỗi năm cây chỉ rụng xuống biển có một lá. Bọn cá heo đã chực sẵn, khi lá xuống đến mặt nước là chúng tranh nhau đớp lấy, coi như món thuốc quý để cứu chữa cho tộc loại chúng. Nhìn lên mặt trăng, người ta thấy một vết đen rõ hình một cây cổ thụ có người ngồi dưới gốc, người ta gọi cái hình ấy là hình chú Cuội ngồi gốc cây đa….


Chuyện Hằng Nga – Hậu Nghệ:

Thời cổ xưa, Hằng Nga (có chỗ gọi là Thường Nga) là vợ Hậu Nghệ đều là thần tiên sống trên trời. Lúc bấy giờ có đến mười mặt trời cùng xuất hiện trên bầu trời, ánh sáng mặt trời rực rỡ thiêu đốt đất đai, đồng ruộng khô héo, nứt nẻ, loài người nóng đến mức không thở được, thường ngã xuống đất hôn mê bất tỉnh. Thời tiết quá nóng bức, các loài yêu quái, mãnh thú hung hãn cũng từ sông ngòi khô cạn hay rừng sâu chạy ra đồng bằng làm hại loài người.

Thảm hoạ đã làm kinh động đến Thiên đình, Thiên Đế ra lệnh cho Thần cung Hậu Nghệ xuống trần gian giúp loài người thoát khỏi cảnh khổ. Hậu Nghệ mang theo một chiếc cung màu đỏ, một túi tên màu trắng do Thiên Đế ban cho, cùng người vợ xinh đẹp của mình là Hằng Nga xuống trần gian thi hành mệnh lệnh. Sau khi đến trần gian, Hậu Nghệ trước hết khuyên mười mặt trời mỗi ngày lần lượt thay phiên nhau để một mặt trời ra, như vậy vừa mang lại ấm áp cho trái đất, mang lại ánh sáng cho loài người, lại tránh mặt đất không bị quá nóng, nhưng các mặt trời (vốn là 10 người con của Ngọc Hoàng) rất kiêu căng không nghe lời Hậu Nghệ. Hậu Nghệ nổi giận bắt đầu cuộc chiến đấu bắn mặt trời. Chàng lấy chiếc cung đỏ từ trên vai mình xuống, rút mũi tên trắng, bắn vào các mặt trời kiêu ngạo và ngang ngược, không bao lâu, lần lượt chín mặt trời bị bắn rơi. Bầu trời chỉ còn một mặt trời chiếu sáng và tỏa ấm nên loài người có thể an cư lạc nghiệp. Vì thế dân chúng rất cảm phục, biết ơn và yêu mến chàng. Thế nhưng, công lao của Hậu Nghệ đã bị các vị Thần khác ghen tị, họ đến bên Thiên Đế gièm pha, khiến Thiên Đế xa lánh Hậu Nghệ. Cuối cùng Thiên Đế cách chức và đày Hậu Nghệ, Hằng Nga xuống trần gian, không cho phép trở về Trời. Hậu Nghệ và Hằng Nga đành phải ẩn cư tại trần gian, dựa vào nghề săn bắn của Hậu Nghệ đề sống một cuộc sống nghèo khổ.

Theo đà thời gian trôi qua, Hậu Nghệ cảm thấy có lỗi với vợ vì mình mà liên luỵ, bị đày xuống trần gian khổ cực. Chàng nghe Tây Vương Mẫu trên núi Côn Luân có một loại đan dược, uống loại thuốc thần này, người có thể lên Trời. Do vậy, anh trèo đèo lội suối, trải bao gian khổ, đến núi Côn Luân xin Tây Vương Mẫu thuốc thần. Điều đáng tiếc là, thuốc thần của Tây Vương Mẫu cho chỉ đủ dùng cho một người. Hậu Nghệ không nỡ bỏ lại người vợ yêu dấu để một mình lên Trời, cũng không muốn một mình vợ lên Trời bỏ lại mình dưới trần, nên mang thuốc thần về nhà rồi giấu đi. Nhưng Hằng Nga nhân một ngày Hậu Nghệ không ở nhà, nàng bắt gặp thuốc thần, liền đem uống. Bỗng chốc, nàng thấy người mình càng lúc càng nhẹ rồi từ từ bay lên Trời, cuối cùng thành Tiên bay đến tận mặt trăng, sống trong cung Quảng Hàn. Hậu Nghệ sau khi phát giác vợ đã bỏ mình lên Trời, rất đau khổ, nhưng lại không thể dùng tên thần phương hại Hằng Nga, đành phải nuốt lệ chia tay với Hằng Nga vĩnh viễn.

Hậu Nghệ sống lẻ loi một mình, chàng tiếp tục nghề săn bắn để sinh sống và dạy học trò bắn cung tên. Trong số học trò, có một người tên Phùng Mông tiến bộ rất nhanh, không bao lâu đã rất giỏi nghề bắn tên. Ác thay, Phùng Mông thường suy nghĩ, nếu Hậu Nghệ còn sống thì mình không thể là người nhất thiên hạ được, bởi vậy một lần nhân thầy uống rượu say, Phùng Mông đã từ đằng sau bắn chết Hậu Nghệ.

Lại nói Hằng Nga tuy đã lên cung Trăng, nhưng trên đó chỉ có một chú thỏ trắng giã thuốc tiên và một ông lão đốn củi. Hằng Nga nhớ lại quãng thời gian chung sống hạnh phúc với chồng và tình cảm ôn hoà dưới trần gian, nàng cảm thấy cô độc và lạnh lùng vắng vẻ, bởi vậy Hằng Nga suốt ngày chỉ buồn bã ngồi trong cung Quảng.

Củng như chuyện chú Cuội, sự tích Hằng Nga cũng có rất nhiều chuyện nội dung khá khác nhau, trên đây chỉ là một trong số đó.



CÁC THÚ VUI NGƯỜI LỚN TRONG TẾT TRUNG THU:

Như trên đã nói, Tết Trung Thu nguyên là ngày hội của người lớn, dần dần về sau mới trở thành tết của trẻ em, nên ngoài những sinh hoạt chung cho cả gia đình, người lớn có những thú vui riêng tuy bình dị mà rất thanh cao, trong đó phải kể là thú làm thơ (của cả nước) và thú hát “trống quân” (ở miền Bắc Việt).

Tương truyền hát trống quân đã có tận từ thời vua Lạc Long Quân đời Hồng Bàng. Đến đời Vua Quang Trung (Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ) trong chuyến đem quân Bắc tiến đại phá quân Thanh, lúc rãnh việc quân, đã cho quân sĩ giả làm con gái, chia làm hai phe ngồi hai bên như trai gái thật, hát trống quân cho quân sĩ đỡ nhớ nhà. Từ đó hát trống quân trở thành thịnh hành trong dân chúng.

Còn thơ thưởng nguyệt trong đêm Trung Thu thì ai cũng biết đương nhiên là nhiều vô kể, vậy chỉ xin chép lại đôi vần để kết thúc bài viết tản mạn này khi trăng rằm cũng đã chớm lên rồi. Chúc các tao nhân mặc khách có nhiều thi hứng phóng bút mấy bài trong khi chờ đợi đám trẻ nhỏ đang đi rước đèn và hát đồng dao “ông giẳng, ông giăng” trở về thì chúng ta cùng phá cỗ…




TRUNG THU (Đỗ Phủ)


Thu cảnh kim tiêu bán
Thiên cao nguyệt bội minh
Nam lâu thùy yến hưởng
Ty trúc tấu thanh thanh

Bản dịch của Thái Giang:

Cảnh thu nay đúng nửa rồi
Trăng thu thêm sáng, khung trời thêm cao
Lầu nam ai rót rượu đào
Tiếng tơ, tiếng trúc thanh tao nhịp nhàng.
oOo

TRUNG THU NGOẠN NGUYỆT HOÀI

Thông thông khách lý hựu Trung Thu
Nguyệt tự phong thanh độc tự sầu.
Dao vọng cố nhân khâm vận tại
Tao hồn kỷ độ nhiễu Nam Lâu.

Bản dịch của Hoàng Khôi:

Thời gian thoáng đã lại Trung Thu,
Gió mát trăng trong vẫn cứ sầu.
Xa nhớ cố nhân thơ vẫn giữ,
Hồn thơ lẩn quẩn tại Nam Lâu.
oOo

Sưu tầm – Biên tập: QUANG MAI