Thứ Bảy, 21 tháng 9, 2013

HAI MƯƠI NĂM SAU






After twenty years », O'Henry


Viên cảnh sát đi tuần ngược lên đại lộ một cách oai phong. Vẻ oai phong cố hữu chớ không cố tình lấy le vì chẳng mấy ai chứng kiến. Lúc đó chỉ mới khoảng mười giờ đêm, nhưng từng đợt gió lạnh và trời muốn mưa làm đường sá vắng hẳn người.

Viên cảnh sát kiểm tra từng nhà, quay tròn cây ma trắc bằng động tác rắc rối ngoạn mục, thỉnh thoảng anh quay lại nhìn dọc đại lộ dài yên tĩnh với cái nhìn đầy cảnh giác. Thân hình vạm vỡ vẻ đàng hoàng tự tin, viên cảnh sát là hình ảnh đẹp đẽ của người giữ an bình xã hội. Ở khu này mọi sinh hoạt ngừng rất sớm. Thảng hoặc mới thấy ánh đèn tiệm thuốc lá hay một cái bar mở cửa suốt đêm, nhưng phần đông là tiệm tùng nên cửa đã đóng từ lâu rồi.

Khi đến giữa chừng một dãy nhà, viên cảnh sát bỗng dưng chậm bước. Ở lối vào tối thui tiệm bán đồ ngũ kim, một người đàn ông đang đứng tựa vào đấy, điếu xì gà chưa đốt trên môi. Khi viên cảnh sát đến bên cạnh, người đàn ông nói vội vàng giọng chắc nịch :

- Mọi việc đều ổn cả, ông cảnh sát ạ. Tôi chỉ chờ người bạn. Ðây là cái hẹn đã định trước từ hai mươi năm rồi. Ông thấy có vẻ lạ lùng phải không ? Vậy tôi giải thích cho ông nghe, nếu ông muốn chắc chắn là mọi việc đều bình thường, hợp pháp. Cũng gần khoảng hai mươi năm nay, trước kia có tiệm ăn tên « Big Joe Brady's » ngay chỗ tiệm đồ này đây.

- Tiệm ăn đó đã bị phá năm năm nay rồi. Viên cảnh sát xác nhận.

Người đàn ông đứng chỗ lối vào bật diêm châm thuốc. Ngọn lửa soi rõ khuôn mặt hơi xanh, quai hàm vuông, cặp mắt sắc bén với cái thẹo trắng nhỏ gần chân mày phải. Cái kẹp cà vạt nạm cục kim cương to tướng hơi kỳ. Anh ta nói :

- Tối nay là hai mươi năm rồi, tôi đã ăn tối tại « Big Joe Brady's » ở đây với Jimmy Wells, bạn thân nhất của tôi, người tuyệt vời nhất thế giới. Cậu ấy và tôi cùng lớn lên ở đất Nữu Ước này y như hai anh em. Lúc đó tôi mười tám và Jimmy hai mươi. Sáng hôm sau tôi phải đi miền Tây kiếm tiền. Ông không thể lôi Jimmy ra khỏi Nữu Ước được đâu. Cậu ta cho Nữu Ước là mảnh đất không đâu hơn trên đời. Rồi đêm đó chúng tôi giao ước là sẽ gặp lại hai mươi năm sau, đúng ngày giờ này, bất kể điều kiện sống như thế nào và bao nhiêu xa xôi cách trở phải vượt qua. Tin rằng trong hai mươi năm, số phận mỗi đứa đã được vạch rõ và của cải cũng đã có rồi, dù là gì chăng nữa.

Viên cảnh sát nói :

- Thú vị nhỉ. Nhưng tôi thấy giữa hai cuộc gặp gỡ có hơi lâu. Anh không bao giờ nhận được tin tức gì của bạn từ khi ra đi sao ?

- Có chớ. Chúng tôicó liên lạc một thời gian. Nhưng vài năm sau bặt tin nhau. Ông coi, miền Tây là một áp-phe khá lớn nên tôi xuôi ngược khắp nơi như thổ công. Tôi biết Jimmy sẽ gặp tôi ở đây nếu cậu ta còn sống, bởi vì cậu luôn luôn là người chân thật và trung thành nhất thế gian. Cậu không quên đâu. Tôi vượt cả ngàn cây số để tới đây tối nay, và sẽ được đền bù nếu bạn tôi cũng tới.

Người đứng chờ rút trong túi ra cái đồng hồ khá đẹp, nắp cẩn hột xoàn. Anh ta nói :

- Mười giờ kém ba phút. Chúng tôi đã chia tay ở đây, trước cửa tiệm ăn lúc đúng mười giờ.

Viên cảnh sát hỏi :

- Anh thành công ở miền Tây lắm phải không ?.

- Còn phải nói ! Giá Jimmy làm được một nửa như tôi ! Cậu ta hơi chậm chạp nhưng là người rất tốt. Tôi đã phải vật lộn với mấy tên cáo già thứ dữ để lập gia tài. Ở Nữu Ước con người đâm ra ù lì đi. Phải là miền Tây mới làm người ta sắc bén ra.

Viên cảnh sát quay tròn cây ma trắc bước đi vài bước :

- Tôi tiếp tục đi tuần nhé. Hy vọng là bạn anh sắp tới. Anh ta phải đến thật đúng giờ à ?

- Ô, không, tôi để dôi ra cho cậu ta ít nhất là nửa giờ chứ. Nếu Jimmy còn trên quả đất này thì cậu ta sẽ đến khoảng giờ đó. Xin chào ông cảnh sát.

- Chào anh.

Viên cảnh sát trả lời và tiếp tục cuộc tuần tiễu, kiểm tra từng cửa khi đi qua.

Trời đổ cơn mưa bụi thật lạnh và gió thổi từng cơn. Một ít người đi bộ còn trong khu này đang rảo bước, buồn rầu im lặng, cổ áo kéo cao, hai tay thọc sâu trong túi. Ở lối vào tiệm bán đồ ngũ kim, người đàn ông đã vượt cả ngàn cây số để giữ đúng một cái hẹn bấp bênh đến độ vô lý với người bạn thời niên thiếu, đang hút xì gà và chờ đợi.

Anh ta đợi khoảng hai mươi phút thì một người đàn ông cao lớn mặc áo khoác dài, cổ áo dựng đứng tận tai, từ đầu đường kia vội vã tiến tới. Anh ta đến thẳng chỗ người đứng chờ và hơi ngập ngừng hỏi :

- Cậu đấy hả, Bob ?

Người đàn ông đứng chờ ở lối vào la lên :

- Cậu đấy hả, Jimmy Wells ?

Người mới tới vừa reo vừa cầm hai tay bạn trong tay mình :

- Trời ơi ! Ðích thị là Bob, đúng như hai với hai là bốn. Tớ chắc chắn là sẽ gặp cậu ở đây nếu cậu còn sống trên đời. Hừm, ừ, hai mươi năm quả là dài. Cái quán ăn cũ đã biến mất rồi Bob à. Tớ muốn nó còn đó, như vậy tụi mình lại có thể ăn tối với nhau. Miền Tây đãi ngộ cậu ra sao, hở ông bạn già ?

- Tuyệt. Nó cho tớ tất cả những gì tớ muốn. Cậu thay đổi nhiều đấy, Jimmy. Tớ không bao giờ nghĩ là cậu cao như vậy, ít nhất cũng cao hơn cả ngón tay.

- Ờ, sau hai mươi tuổi tớ có cao thêm chút đỉnh.

- Ở Nữu Ước có thành công không, Jimmy ?


- Tàm tạm thôi. Tớ có việc làm ở một trong các bộ của thành phố. Ði, Bob, tụi mình tới một chỗ tớ biết để nói nhiều về thời gian qua cho yên tĩnh.

Tay trong tay, hai người đi ngược lên phố. Người tới từ miền Tây, mà tánh tự cao được phóng đại bằng thành công, bắt đầu kể những nét chính về lịch sử nghề nghiệp mình. Người kia thì chìm kín trong áo khoác, chăm chú lắng nghe.

Ở góc đường có tiệm thuốc tây sáng rực ánh đèn. Khi họ tới dưới ánh sáng chói chang ấy, hai người cùng lúc quay lại chăm chăm nhìn mặt nhau.

Người đến từ miền Tây bỗng dừng lại nới tay ra. Anh ta nói khô khan :

- Anh không phải là Jimmy Wells. Hai mươi năm quả thực là lâu, nhưng không đủ lâu để biến cái mũi khoặm thành mũi tẹt được.

Người cao lớn trả lời :

- Ðôi khi thời gian ấy đủ để thay đổi một người chân thực thành kẻ bất lương. Anh đang trong tình trạng bị bắt từ mười phút rồi, « công tử » Bob ạ. Chicago nghĩ là anh sẽ đi một vòng gần chỗ chúng tôi nên điện cho biết là họ muốn tán gẫu với anh một chút. Anh bình tĩnh nghe đấy chứ ? Như vậy là hợp lý. Giờ thì, trước khi đến bót, anh hãy đọc cái giấy người ta nhờ tôi trao tận tay anh cái đã. Anh có thể đọc trước cửa kiếng này. Của cảnh sát viên Wells gửi cho anh đấy.

Người đến từ miền Tây mở miếng giấy nhỏ người kia vừa đưa. Tay anh ta bất động khi bắt đầu đọc, nhưng khi đọc xong thì nó run lên. Mảnh giấy có vẻ ngắn gọn :

« Bob, tớ đã đến chỗ hẹn đúng giờ. Khi cậu bật diêm châm xì gà thì tớ thấy đó là khuôn mặt mà Chicago đang tìm. Không biết sao tớ không thể tự mình làm công việc ấy, nên đã tìm một cảnh sát viên mặc thường phục đến để thi hành. Jimmy ».

MIÊNG




O'HENRY (1862-1910)


Tên thật là William Sydney Porter. O'Henry sinh ở Greensboro (North Carolina), và nổi tiếng nhờ truyện ngắn. Rời ghế nhà trường từ tuổi 15, ông đã làm đủ thứ nghề và học nhiều ngoại ngữ để kiếm sống. Năm 1896, bị nghi ngờ ăn cắp tiền của một nhà băng nơi ông làm việc ở Austin, ông trốn sang Honduras và chỉ trở về khoảng 2 năm sau, khi nghe tin vợ đau nặng. Ông bị kết án 5 năm tù tại nhà lao Columbus (Ohio), song chỉ ở đấy 3 năm 3 tháng nhờ hạnh kiểm tốt. Ðiều lý thú là chính trong nhà lao mà ông bắt đầu viết truyện ngắn với nhiều bút hiệu. Ra tù, ông định cư tại New York từ năm 1902, và tiếp tục viết. Năm 1903, tờ « World » ở New York thuê ông viết mỗi tuần một truyện, đăng ngày Chúa Nhật. Ông nổi tiếng nhờ các truyện ngắn này và xuất bản được tất cả là 10 tuyển tập, từ 1904 cho tới 1910, năm ông mất tại New York. Những quyển nổi tiếng nhất in dưới dạng sách bỏ túi (London, Minster Classics) là : « Cabbages and Kings », « The Four Millions », « The Voice of the City », « Strictly Business », « Six and Sevens », « Waifs and Strays », « The Ransom of Red Chief »... Khung cảnh khi thì cuộc đời thô thiển và giản dị của miền Tây và Nam Hoa Kỳ, khi thì cuộc đời trong những thành phố lớn, nhất là New York. Nhân vật thường là những tên vô lại, không đạo đức, được diễn tả một cách sống động, tự nhiên. Ðoạn cuối của câu chuyện thường được kết cấu một cách khéo léo, luôn luôn bất ngờ như trong truyện « After twenty years », rút ra từ « O'Henry Stories » (London, Minster Classics). Từ 1918, bút hiệu của ông được dùng cho một giải thưởng tiếng tăm - giải O'Henry - để trao tặng cho truyện ngắn nào được xem là hay nhất trong năm ở Hoa Kỳ.

Nhân-giới ảo, thế giới thực và ngôn từ




Nhân-giới là tấm gương[1] ảo của vật-giới. Nó khiến vật-giới tự tại, có quy luật khoa-học.

Nhân-giới là tấm gương ảo của sinh-giới, khiến sinh-giới có giá-trị.

Thí dụ. Trong sinh-giới, con thú nào, kể cả ta, cũng biết nhảy, thích nhảy, kiểu này kiểu nọ. Đó là một trong hai đặc tính của sinh-giới theo định nghĩa của Engels về sự-sống. Những nhà sinh học đời nay cũng chấp nhận điều ấy. Đã sống thì sống, phải sống, ráng sống, tự nhiên, thế thôi. Dường như chỉ người mới biết yêu. Nhưng yêu mà không được nhảy, dường như thiêu thiếu điều gì đó ! Phải chăng vì thế mà bàn dân PhuLăngXa đã sáng tác ra khái niệm faire l'amour, làm tình ? Làm tình như làm người ? Nếu thế, tuyệt cú mèo. "Là" Tây con, ta mong thế. Làm người ở đời Tây - Ziao Chỉ của ta, ta không tin lắm. Hè hè.

Vứt bỏ nhân-giới, vật-giới và sinh-giới chẳng là gì cả, chẳng có giá trị gì cả.

Trong kiếp người, gương ảo kia hiện hữu dưới dạng ngôn từ, sáng tác tự do của con người xuyên qua quan hệ giữa người với người để tồn tại, sống và làm người trong vũ trụ.

Đã là sáng tác tự do, nó có khả năng tự diệt.

Nó tự diệt khi nó quên quan hệ vật chất giữa người với vật-giới để tồn tại, quên quan hệ nhục cảm giữa người với sinh-giới để tồn sinh, quên quan hệ nhân tình giữa người với người để làm người. Quên làm chủ ngôn từ ở chính mình.

Ôi nỗi đau làm người, nỗi đau ngôn từ ở ta!

Hè hè…

Phan Huy Đường



[1]
Miroir hay culture, littérature. Victor Hugo, Baudelaire, Sartre khi bàn về văn chưong , e tutti quanti.

Thảnh thơi

     

Bây giờ hoặc không bao giờ

Nhiều năm thăng trầm trong cuộc đời, phần lớn chúng ta đều ý thức rằng những hấp dẫn lực bên ngoài sớm muộn gì cũng sẽ vỡ tan, chỉ có một cõi lòng bình an và hạnh phúc với chính nó mới đích thực là nhu yếu sâu sắc nhất của con người. Cho nên trong truyền thống Phật giáo hay nói đến từ an lạc. Bình an sẽ đưa đến hạnh phúc. Bình an càng lớn thì hạnh phúc càng lớn. Bình an là sự dừng lại mọi mong cầu và chống đối, nó chấp nhận mọi điều kiện đang diễn ra trong thực tại một cách tự nhiên, đầy bao dung và hiểu biết. Hạnh phúc mà không có bình an là hạnh phúc giả tạm, nó chỉ là một sự thỏa mãn nhất thời, nhưng để lại tàn dư là nỗi cô đơn day dứt.

Có nhiều khi ta thấy lòng mình thật bình an và hạnh phúc, nhưng ta hãy nhìn kỹ lại có phải mình đang sống trong những điều kiện quá thuận lợi như công việc ổn định, những người thân rất hiểu và rất thương, không có bất cứ sự tấn công hay tổn thất nào, cũng chẳng có một điều gì đáng phải bận tâm giải quyết nữa. Tuy ta đang bằng lòng với thực tại nhưng ta vẫn đứng trên nền tảng của sự vay mượn, chỉ khi nào ta sống trong những nghịch cảnh mà vẫn vui vẻ chấp nhận vì ta không còn đòi hỏi gì ở bên ngoài nữa thì lúc ấy cái bình an và hạnh phúc kia mới thực sự là của ta.

Đó là cái an lạc chân thật, và chỉ có nó mới chứa đựng tính chất thảnh thơi. Không có an lạc thì không có thảnh thơi, an lạc càng lớn thì thảnh thơi càng lớn. Trong vài truyền thống hay nói đến từ “giải thoát” hoặc “tự do” theo nghĩa là ta đã vượt thoát khỏi sự khống chế ràng buộc của một đối tượng hay hoàn cảnh nào đó, có khi phải lìa xa cả thế giới này mới giải thoát được. Trong khi “thảnh thơi” thì không cần chạy đi đâu cả, cũng không cần xua đuổi đối tượng hay hoàn cảnh nào cả, ta vẫn sống ung dung tự tại giữa khó khăn ràng buộc bởi vì những phiền não mong cầu và chống đối trong ta đã rơi rụng. Lòng ta giờ nhẹ như mây trôi mãi giữa không gian vô tận mà không có gì có thể ngăn ngại được.

Nếu ta nói rằng bây giờ ta đâu có rảnh rang, còn quá nhiều việc phải làm, phải đối đầu với muôn ngàn áp lực thì làm sao thảnh thơi cho được. Nói kiểu đó là ta chỉ có khái niệm về thảnh thơi chứ chưa thật sự cảm nhận trực tiếp hương vị của sự thảnh thơi. Làm sao ta tin chắc rằng khi ta giải quyết xong những hoàn cảnh khó khăn trước mắt, hoàn thành những dự án kế hoạch, đạt được những tâm nguyện là ta sẽ được thảnh thơi? Ta đã tập dượt cho mình thói quen căng thẳng lo lắng, suy tưởng mông lung, bỏ hình bắt bóng, đứng ngồi không yên…thì dù hoàn cảnh đã lắng dịu rồi ta cũng không tài nào lắng dịu nổi, cũng lại kiếm chuyện để lăng xăng.

Vấn đề là ta phải có ý thức giữ tâm chứ không giữ cảnh thì ta mới có thể chạm tới sự thảnh thơi được. Tuy ta còn cần tới vài điều kiện tiện nghi bên ngoài, nhưng nó chỉ là phương tiện tạm thời chứ không phải là mục đích chính của cuộc đời ta. Mà cái chính yếu ta không tiếp xúc được ngay bây giờ, ta cứ hẹn lần hẹn lựa ở tương lai, thì chừng nào ta mới tiếp xúc được? Còn đùn đẩy cho tương lai là ta chưa ý thức sâu sắc về bản chất của sự thảnh thơi, ta vẫn còn nghĩ thảnh thơi thuộc về sự thuận lợi của hoàn cảnh bên ngoài chứ không phải chính nơi tâm mình.

Vì vậy ta có thể nói thảnh thơi là bây giờ hoặc không bao giờ. Bây giờ mà ta không biết cách thảnh thơi, vẫn bị hoàn cảnh lôi kéo và khống chế, dù đó là hoàn cảnh đặc biệt cỡ nào thì ta sẽ không bao giờ nắm được sự thảnh thơi trọn vẹn. Dĩ nhiên nếu ta chưa đủ giỏi, chưa gạn lọc sạch hết những cấu bẩn phiền não thì sự thảnh thơi cũng có giới hạn, sẽ khi đầy khi vơi, nhưng bắt buộc ta phải đang đứng trên con đường thảnh thơi chứ không phải đứng trên con đường khác. Nghĩa là thảnh thơi phải luôn có mặt trong từng bước đi chứ không phải nằm ở cuối con đường. Tại vì sự thật không có con đường nào đưa tới sự thảnh thơi mà bản thân nó không thảnh thơi.

Phương tiện là cứu cánh
“Rủ nhau đi cấy đi cày
Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu”

Chắc ai trong chúng ta cũng quen thuộc những câu ca dao này. Chữ “phong lưu” có nghĩa đen là gió cuốn trôi, tức là phải nhẹ lắm thì gió mới cuốn đi được; còn nghĩa bóng là sự sung sướng, thoải mái, không phải lo toan gì nữa. Vì ta thấy mình còn thiếu thốn nhiều thứ, ta không tin rằng với bấy nhiêu điều kiện mà mình đang sở hữu là có thể hạnh phúc, nên ta cứ tự nhủ thôi ráng “cày bừa” cực khổ đi rồi ngày mai sẽ hưởng. Ngày mai mình sẽ hưởng cái gì? Có kho thóc vàng thì mình sẽ ăn sung mặc sướng, nhưng liệu nó có đủ trang trải hết những nhu cầu về hạnh phúc của con người không? Nó giải quyết nổi những buồn tủi, cô đơn, phản bội hay tuyệt vọng không?

Đó là chưa nói khi no ấm rồi thì ta lại hay sanh tật, trong điều kiện thuận lợi con người thường hay dễ dãi với chính mình, tự mình thưởng cho công lao làm việc khó nhọc của mình bằng những chuyến đi hoang bất tận. Trong khi “cực” không nhất thiết phải đưa tới “khổ”. Nếu mình chấp nhận được cái cực nhọc đó vì mình ý thức rằng muốn hưởng thì phải làm, không có cái sung sướng bền vững nào từ trên trời rớt xuống cả, cái cực nhọc sẽ tôi luyện cho thể chất và tinh thần mình vững chắc nên mình sẽ không than van, không trả giá hay không tìm cách tránh né nó. Cái khổ thường có là do mình không thích nó, mình muốn nó đừng có mặt mà nó vẫn tới.

Nhưng hai câu ca dao sau thật hay thật giá trị: “Trên đồng cạn, dưới đồng sâu. Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa”. Khung cảnh có chồng có vợ cùng san sẻ gian lao trên từng cánh đồng cạn hay dưới đồng sâu, rồi có thêm con trâu bầu bạn thì chẳng phải là điều kiện của hạnh phúc sao? Có phải ta đã từng thấm thía rằng cái vất vả gian lao thể xác không là gì so với cái chia lìa mất mát không? Có kho thóc vàng thì điều kiện hưởng thụ sẽ cao hơn, nhưng nó cũng không phải là mục đích tối hậu của con người. Vậy nên, không vì bất cứ lý do gì mà ta đánh mất giá trị an lạc và thảnh thơi của mình, dù công việc hay hoàn cảnh kia có đặc biệt như thế nào thì ta cũng quyết không để mình tiếp tục trôi dạt vào những cơn hôn mê cảm xúc vô nghĩa.

Người ta hay nói “an cư lạc nghiệp”, tức là mình cần phải có cơ ngơi ổn định, tiện nghi vật chất kha khá, thì mới có thể tạo dựng một cuộc sống hạnh phúc được. Cái quan điểm này gạt gẫm không biết bao nhiêu lớp người rồi. Vì ngay khi họ đang sống trong những điều kiện của hạnh phúc nhưng họ không dám tận hưởng hay không dám tin mình làm như vậy là đúng, phải phấn đấu không ngừng, phấn đấu đến khi nào thấy không còn thua sút hay có thể ngẩng cao đầu nhìn người khác thì họ mới an tâm. Thật ra, chữ “an cư” nghĩa là mình đã thật sự dừng lại, không chạy ngược chạy xuôi nữa, ta bằng lòng với những gì mình đang có thì gọi là an cư. “An” ở đây không phải là do hoàn cảnh ổn định, mà chính những mộng tưởng đảo điên đã không còn có lãng đãng trong tâm ta nữa.

Vậy thì khi tâm an thì ở đâu hay lúc nào mình cũng thảnh thơi được cả. Ngày mai có kho thóc vàng hay không, có thêm những điều kiện tiện nghi nữa hay không thì nó không thay đổi lẽ sống của mình được. Phương tiện không thể làm hư hại mục đích, và mình phải xem phương tiện cũng chính là mục đích. Mình có thể cắt đời sống mình ra thành từng mảnh nhỏ, mỗi giây phút mỗi công việc mình đang tiếp xúc là một cơ hội để mình sống sâu sắc và nhận diện ra sự có mặt của thực tại mầu nhiệm đang không ngừng nuôi dưỡng ta. Ta sẽ không còn mơ mộng tương lai nữa, không chạy đi tìm cái gì nữa, không còn nôn nóng vội vàng nữa, vì tất cả những gì làm nên một đời sống đúng nghĩa đã có sẵn ở đây cả rồi.

Sống như người biết sống

Cách đây vài thập niên người ta còn quan niệm ai sống thảnh thơi là người đó đã biết cách điều hợp cuộc sống, đã thành công. Bây giờ nếu ta nói ta đang tận hưởng những giây phút của hiện tại, ta không có gì quan trọng phải làm, thì mọi người sẽ nhìn ta sửng sốt. Ta phải nói ta luôn bận rộn ( busy) thì ta mới biết sống, ta mới có giá trị. Ở Mỹ, người ta không nói công ty đắt khách hàng mà họ nói công ty rất bận rộn. Người trẻ còn muốn tăng thêm mức bận rộn nữa, bận rộn tới mức quay cuồng thì họ mới chịu, họ tự hào là họ đang rất “crazy” với công việc ở công ty, tại vì theo họ nếu không “crazy” tức là ế ẩm, thà điên cuồng mà có tiền xài thì cũng không sao.

Chung quanh ta ai cũng lao tới phía trước như điên, thậm chí có kẻ bất chấp cả những phương tiện tồi tệ nhất, nên ta cũng không dám chậm chân. Đôi khi lại bị những người thân thúc đẩy là nếu đi chậm như vậy thì lấy gì sống, tương lai sẽ đi về đâu, nên ta hốt hoảng rồi thả mình trôi theo dòng chảy của xã hội. Ai sao ta vậy, ta khó có được chánh kiến hay bản lĩnh để tự tách mình ra khỏi sức hút mãnh liệt ấy. Nhưng ta hãy làm thử đi, ta có tài năng chinh phục kẻ khác để làm gì mà ta không thể thiết kế đời sống thảnh thơi cho mình được. Có thể ban đầu ta sẽ thấy lạc lõng, nhưng dần dần ta sẽ tìm thấy được chính mình, tìm thấy được cái tâm vốn rất an lạc và thảnh thơi mà ta đã lạc mất từ những ngày chập chững bước vào dòng đời.

Không phải trở thành một nhà tâm linh thì ta mới có thể thảnh thơi được, tại vì chung quanh ta có nhiều nhà tâm linh vẫn còn đầy dẫy những khắc khoải mong cầu, vẫn chưa chấp nhận thực tại một cách tuyệt đối. Họ nhân danh những công tác cao cả mà đánh mất khả năng sống thảnh thơi của mình thì làm sao có thể dẫn dắt kẻ khác đến nơi bình yên chân thật được. Không thành công trong hiện tại, họ bày vẽ tương lai bằng những viễn cảnh cực kỳ hấp dẫn để dụ dẫn những kẻ lòng non dạ yếu. Cho nên chủ trương đi tìm thế giới tự do đã trở thành xu hướng mạnh mẽ của những kẻ không định vị được mình trong cuộc sống, không cắm rễ vào sự sống, bất lực và muốn bỏ chạy trước những hoàn cảnh trái ngang mà họ cho đó là số phận.

Không có cái số phận nào cả, nếu ta biết luôn quay về để nhận diện và chuyển hóa những phiền não của chính mình, dừng lại cuộc truy đuổi theo những đối tượng khác. Tâm tham cầu và tâm chống đối càng bị triệt tiêu thì cảnh giới an lạc và thảnh thơi sẽ hiện ra lập tức. Mỗi khi ta suy tư, nói năng hay hành động điều gì thì ta hãy tự hỏi ta có thảnh thơi không, ta có đang nắm giữ mục đích cao cả của kiếp người không? Nếu không, ta hãy can đảm buông bỏ nó đi. Buông bỏ những ưu tư phiền muộn để giữ gìn tâm bình an phải cần đến một sự luyện tập nhất định nào đó chứ không chỉ có ý chí mà làm được. Dù vậy, ta vẫn tin chắc một điều là an lạc và thảnh thơi luôn có sẵn trong ta, chỉ cần biết cách và đủ can đảm để sắp xếp lại guồng máy hoạt động của tâm thức của mình sao cho thuận với nguyên tắc của vũ trụ. Nguyên tắc ấy là vô ngã, không có cái tồn tại biệt lập đáng để tự hào, kiêu ngạo hay thù hận.

Ngồi yên trong thảnh thơi
Tiếp xúc với mây trời
Buông cái tôi bé nhỏ
Thấy mình hiện muôn nơi

Minh Niệm

Thứ Sáu, 20 tháng 9, 2013

Tết Trung Thu Việt




THỜI ĐIỂM TẾT TRUNG THU:

Trung = giữa; Thu = mùa thu. Trung thu có nghĩa là giữa mùa thu. Theo cách tính mùa của âm lịch thì một năm chia thành 4 mùa, mùa xuân gồm tháng giêng, tháng hai, tháng ba; mùa hạ gồm tháng tư, tháng năm; tháng sáu; mùa thu gồm tháng bảy, tháng tám, tháng chín; và mùa đông gồm tháng mười, tháng mười một, tháng chạp. Như vậy, tháng tám âm lịch chính là THÁNG GIỮA MÙA THU và này rằm – tức giữa tháng – chính là NGÀY GIỮA MÙA THU. Vậy, TẾT TRUNG THU LÀ NGÀY TẾT GIỮA MÙA THU. Các bạn đọc nhí chớ nên nhầm lẫn Trung Thu là Trung Nguyên. Tiết Trung Nguyên là vào ngày rằm tháng bảy âm lịch, giữa Thượng Nguyên vào ngày rằm tháng giêng và Hạ Nguyên vào ngày rằm tháng mười. Nhiều người vẫn gọi là Tết Thượng Nguơn, Tết Trung Nguơn và Tết Hạ Nguơn. (Chữ cổ: Nguơn = Nguyên).

Ngoài Trung Hoa và Việt Nam, nhiều quốc gia Á Đông khác đều có ngày lễ tương tự như Tết Trung Thu này, tuy mỗi quốc gia có phong tục mừng ngày vui trung thu một cách rất khác nhau. Ví dụ ở Triều Tiên là Lễ Tạ Ơn Chusok, ở Nhật Bản là Hội Zyuyoga

NGUỒN GỐC TẾT TRUNG THU:

Đa số tài liệu vẫn cho rằng Tết Trung Thu bắt nguồn từ Trung Hoa. Có nhiều sự tích được truyền tụng về nguồn gốc của Tết Trung Thu, nhưng câu chuyện Đường Minh Hoàng Du Nguyệt Điện sau đây có lẽ được nhiều người biết nhất.


Đời nhà Đường thời vua Duệ Tôn, niên hiệu Văn Minh bên Trung Hoa, Đường Minh Hoàng (713 Đường Minh Hoàng – 741 TL) thương nhớ Dương Quí Phi đã qua đời, thơ thẩn dạo chơi vườn Ngự Uyển, nhân gặp đêm rằm tháng tám trăng tròn sáng tỏ, gió mát hây hây, say cảnh đẹp của đất trời, vua xa bước dạo chơi ngoài thành mãi đến lúc canh khuya… Nhìn lên mặt trăng to tròn vành vạnh, vua mê say ngắm trăng, rồi buột miệng ước ao được lên thăm mặt trăng một chuyến. Tình cờ một Tiên ông (có chỗ nói là Đạo Sĩ La Công Viễn; có chỗ lại nói là Pháp Sư Diệu Pháp Thiện) nghe thấy, bèn hóa phép giúp vua, dùng chiếc gậy trúc vẽ lên bầu trời biến thành một chiếc cầu vồng nối liền từ mặt đất đến mặt trăng đưa vua lên đó. Ở cung Trăng, được gặp các Tiên Nữ sắc nước hương trời, xiêm y rực rỡ, lại được xem họ hát múa “Tây Thiên Điệu Khúc”. Trong số Tiên Nữ đang múa hát, vua nhìn thấy cả hình ảnh Dương Quý Phi. Trở về trần thế, vua ngày đêm luyến tiếc cảnh tượng trên cung Quảng trong lần du Nguyệt điện, lại thêm thương nhớ Dương Quí Phi, vua hồi tưởng lại khúc “Tây Thiên”, đem hợp thêm với “Khúc Hát Bà La Môn” do Trương Kính Thuật – Tiết Độ Sứ Tây Lương – vừa triều tiến, tạo nên “Khúc Nghê Thường Vũ Y” (nghê là cầu vồng, thường là xiêm váy) rồi truyền mở tiệc cho cung nữ múa hát. Và để kỷ niệm dịp được đi thăm cung Trăng lần ấy, vua đặt lệ ngày rằm tháng tám mỗi năm là ngày Tết Trung Thu để thần dân bá tánh cùng được vui chơi, uống rượu thưởng trăng (ngắm trăng). Do vậy, ngày tết này còn được gọi là Tết Trông Trăng.

Một sự tích khác giải thích nguồn gốc Tết Trung Thu cho rằng: Tết Trung Thu bắt nguồn từ lễ tạ Trời Đất của vua Hán Quang Vũ – thời Tây Hán – sau khi diệt được phản thần Vương Mãng, bình định đất nước, khôi phục nhà Hán vào năm 25 sau Tây Lịch. Chuyện kể trong lúc chinh chiến, khi bị quân Vương Mãng vây khốn nhiều ngày, hết lương thực, tướng sĩ của Lưu Tú nhờ tìm được khoai môn và bưởi để ăn mà không bị chết đói, nên về sau khi Lưu Tú dẹp được giặc, lên ngôi vua lấy hiệu Quang Võ (tức Hán Quang Vũ), vua đã tổ chức lễ tạ ơn mỗi năm vào ngày ấy và trong số phẩm vật cúng lễ luôn phải có khoai môn và bưởi. Tết Trung Thu về sau người ta thường sắm sửa hai thức ấy là do tích này.

Rồi dần dần Tết Trung Thu thành ngày lễ lớn ở Trung Hoa. Dịp này thường trùng với lúc gặt lúa vừa xong thành ra cũng là dịp mừng vui của các nông gia. Sau một nông vụ cực nhọc vất vả, đây là lúc rãnh tay nghĩ ngơi, bày biện lễ vật tạ ơn Trời Phật, Thần Tiên…



Thế nhưng cũng có nhiều người không đồng tình với nguồn gốc ngày Tết Trung Thu của Việt Nam theo cách giải thích trên, lập luận đưa ra là:

Theo các nhà khảo cổ học, thì Tết Trung Thu ở Việt Nam vốn có từ thời xa xưa, đã được in trên mặt trống đồng Ngọc Lũ (chứng tỏ sự sự ra đời và gắn bó của Tết Trung thu với người Việt đã có ít nhất 2500 năm). Còn theo các văn bia chùa Đọi năm 1121 thì từ đời nhà Lý, Tết Trung Thu đã được chính thức tổ chức ở kinh thành Thăng Long với các hội đua thuyền, múa rối nước và rước đèn. Và theo sách “Tang Thương Ngẫu Lục” miêu tả thì: “đến đời Lê – Trịnh, Tết Trung Thu đã được tổ chức rất xa hoa trong phủ Chúa”. Ngay cả sách “Thái Bình Hoàn Vũ Ký” của người Trung Hoa cũng chép: “Người Lạc Việt cứ mùa thu tháng tám thì mở hội, trai gái giao duyên, ưng ý nhau thì lấy nhau”. Đây chính là hội rằm tháng tám của dân tộc Việt, vì:

Văn minh của dân tộc Việt là văn minh lúa nước. Giữa mùa thu (giữa tháng 8 âm lịch) khí trời mát mẻ, dễ chịu, lại vừa mới thu hoạch xong vụ mùa. Gặp lúc nông nhàn này những cư dân nông nghiệp mới tụ họp nhau lại để trước hết là “chơi trăng”, sau là tổ chức những trò vui bình dị nhằm giải trí vui chơi, nghĩ ngơi sau một vụ mùa làm lụng vất vả. Từ nền tảng kinh tế và sinh hoạt nông nghiệp đó đã hình thành nên hội rằm tháng tám (hay Tết Trung Thu). Ngoài ra, sự gắn bó mật thiết giữa văn minh nông nghiệp lúa nước với mặt trăng cũng có thể chứng minh qua quan niệm nhìn trăng trung thu để tiên đoán thời tiết và kết quả mùa màng. Người Việt xưa tin chắc rằng, vào đêm trăng rằm tháng tám, nếu màu trăng vàng thì năm tới sẽ được mùa; trăng màu xanh thì đất nước có thiên tai; trăng màu hồng cam thì đất nước yên ổn thanh bình. Điều này cũng dễ dàng tìm thấy trong ca dao, dân ca truyền khẩu của dân tộc Việt:

“Muốn ăn lúa tháng năm,
Trông trăng rằm tháng tám”.

“Tỏ trăng mười bốn được tằm,
Đục trăng hôm rằm thì được lúa chiêm”.

Lý giải trên tương tự cách giải thích của người Triều Tiên về lễ Tạ Ơn Chuseok: [Tục ngữ Triều Tiên có câu: "Nông dân tháng 5, thần tiên tháng 8" để ám chỉ vào tháng 5, người nông dân phải vất vả, bận rộn với mùa màng, nhưng đến tháng 8, khi việc đồng áng trong một năm đã dần bước vào giai đoạn thu hoạch thì có thể rảnh rang nghỉ ngơi như thần tiên"]. Còn việc sách chép: trong ngày hội, “trai gái giao duyên, ưng ý nhau thì lấy nhau” cho thấy rằng mùa thu tháng tám là mùa giao duyên, kết hôn của dân Việt, và cũng rất giống cách giải thích ý nghĩa trò chơi ganggangsulae trong lễ hội Chuseok: [Trong xã hội nông nghiệp, trăng rằm là biểu tượng cho sự sinh sôi, nảy nở, rất tương đồng với chức năng và biểu tượng sinh sản, gieo mầm và phát triển sự sống của người phụ nữ. Bởi thế, ngày mãn nguyệt (ngày trăng tròn) còn được ví như người phụ nữ đến kỳ “khai hoa nở nhụy”. Trò chơi ganggangsulae trong ngày rằm là sự thăng hoa, là bài ca về cái đẹp của thiên nhiên và người phụ nữ"].

Hơn nữa, người Trung Hoa với nền tảng văn hóa là văn minh du mục và trồng khô (lúa mì, bắp, cao lương…), lịch trồng trọt và thu hoạch ít phụ thuộc vào trăng hay theo bốn mùa xuân, hạ, thu, đông (lý giải này có hơi khiên cưởng – QM) giống như của người Việt. Vã lại tiết trời vào thời điểm tháng tám tại Trung Hoa bắt đầu lạnh. Những điều kiện như vậy không góp phần hình thành nên một lễ hội chơi theo trăng… Như vậy kết hợp cái nhìn tổng hợp của khảo cổ học, cơ sở văn hóa, ca dao dân ca và chính ghi chép của người Trung Hoa cho thấy rằng hội rằm trung thu là một sinh hoạt văn hóa của người Việt dựa trên nền văn minh lúa nước.

Vì không có ý (và cũng không đủ tài năng) khảo cứu sâu về nguồn gốc tết Trung Thu nên bài viết này sẽ tạm dừng phần này ở đây để bạn đọc tùy nghi nghiên cứu và kết luận. Chúng ta hãy chuyển sang các lĩnh vực lý thú hơn của ngày Tết độc đáo này trong tinh thần thuần Việt.

Điều chúng ta có thể xác quyết là Tết Trung Thu của người Việt, đầu tiên vốn là thú vui của người lớn, đặc biệt là nông dân. Người ta sắm sửa thức ăn, thức uống, bày biện cổ bàn trước hết cúng tạ Trời Phật, Thần Tiên sau một vụ mùa vừa thu hoạch (ở đây có lẽ cần luận thêm rằng, nói cúng tạ ơn sau một vụ mùa bội thu là không hoàn toàn chính xác, bởi theo truyền thống tri ân và báo ân của người Việt, thì cho dù được mùa hay mất mùa, việc cúng bái cũng sẽ được thực hiện kỷ lưỡng với một niềm thành kính, không những để tạ ơn Phật Trời, Thần Linh, Tổ Tiên đã trợ giúp cho vụ mùa vừa thu hoạch được, mà còn cầu mong được mưa thuận gió hòa, không phát sinh dịch bệnh cho vụ mùa tiếp theo).

Trở lại với Tết Trung Thu, sau các nghi thức cúng bái lễ tạ thì gia đình, xóm làng tổ chức ăn tiệc, uống rượu hay uống trà thưởng nguyệt (ngắm trăng) vào đêm rằm, ban ngày thì bày các trò vui bình dân cổ truyền để vui chơi giải trí. Dần dà, do ý thức và cũng là một nét truyền thống đặc trưng của người Việt là yêu trẻ, dịp trung thu người lớn chuẩn bị mâm cổ riêng với nhều loại bánh và trái cây phù hợp, được trẻ con yêu thích để khi đám trẻ tụ họp với nhau ca hát, rước đèn (những chiếc “lồng đèn trung thu” được cha mẹ hay anh chị, ông bà tỉ mẫn làm cho) về đến là cả nhà tập trung “phá cỗ” vào lúc mặt trăng lên cao nhất.

Về sau, Tết Trung Thu mặc nhiên trở thành ngày tết đặc biệt của trẻ em với các tên gọi quen thuộc: Tết Nhi Đồng; Tết Thiếu Nhi nhưng vẫn còn được người lớn “ăn theo”. Do vậy, phong tục Tết Trung Thu của Việt Nam chúng ta vẫn xen lẫn những trò vui trẻ con và thú vui người lớn.

Đặc biệt nhất của Tết Trung Thu là phải có đèn Trung Thu; bánh Trung Thu và múa lân Trung Thu…



ĐÈN TRUNG THU:

Lồng đèn trung thu được chế tạo cho trẻ em với thiên hình vạn trạng, sặc sở muôn màu muôn vẽ… Đèn lồng, đèn xếp với đủ loại hình thù: mặt trăng; ông sao; các nhân vật cổ tích; các con giống; các loại thú – có lẽ nhiều nhất là đèn cá chép và con thỏ (theo cổ tích)…

Một trong những loại đèn trung thu có giá trị và thực hiện công phu mà người lớn cũng dùng để trang trí nhà cửa không chỉ dịp Tết Trung Thu là đèn kéo quân, loại đèn trước đây có hình quan quân, tướng sĩ quay quanh trục đèn, còn bây giờ thì đã chế tác ra nhiều hình ảnh khác nữa.

Những ngày gần đến tết, trẻ em đã được cho thắp đèn chơi ở nhà hoặc bên nhà hàng xóm. Một hai đêm trước và đúng đêm rằm tháng tám, các em tụ họp nhau đi rước đèn Trung Thu. Đám trẻ tay cầm hay xách những chiếc đèn trung thu được thắp sáng bằng nến (đèn sáp, đèn cầy) tung tăng từng đoàn khắp xóm làng, ngõ phố, vừa đi vừa ca hát, nô đùa vô cùng hân hoan náo nhiệt.

Có giải thích rằng đèn trung thu đầu tiên tại Việt Nam xuất xứ ở Hội An – Trung Việt thời xưa – khoảng thế kỷ XVI hay XVII, khi người Trung Hoa di dân sang lập nghiệp đông đúc tại thành phố này. Đèn trung thu Hội An thay vì dán giấy thì được bọc bằng loại lụa Hà Đông, ánh sáng đẹp và lung linh, huyền ảo hơn.

Ngoài lồng đèn trung thu, trong dịp này các em còn được người lớn yêu chiều mua sắm cho một vài thứ “đồ chơi trung thu” khác mà ngày thường ít khi có được: Đặc trưng nhất là ông Tiến Sĩ Giấy (một thứ đồ chơi bằng giấy làm thành người đàn ông, dáng vẻ… học thức. Sau này, chữ “tiến sĩ giấy” dùng ám chỉ những kẻ hay “lòe” người khác, tự cho mình là trí thức nhưng thực tế là “ruột rổng”, dốt nát); các loại đồ chơi làm bằng giấy bồi, đất sét hoặc bột được tô màu lòe loẹt có hình dạng hoa quả, đình chùa, người ngựa; các loại con giống (thú vật) – thường được ưa chuộng là con thiềm thừ (cóc) cử động được; mặt nạ bằng giấy với diện mạo những nhân vật trong các tích truyện nổi tiếng; các thứ trống bỏi, chong chóng, cung kiếm v.v… và v.v…



BÁNH TRUNG THU:

Bánh ngon và đặc biệt nhất trong dịp tết Trung Thu dĩ nhiên phải là… bánh trung thu.

Bánh trung thu ban đầu hình tròn như mặt trăng, được gọi là bánh “đoàn viên” vì là bánh cho cả gia đình ăn khi đoàn tụ ngắm trăng. Ngày nay, bánh trung thu gồm hai loại chính: Bánh dẻo có vỏ làm bằng bột nếp, nhân đậu xanh, hạt sen, vỏ cam v.v… Bánh dẻo hương vị ngọt và thơm. Bánh nướng có vỏ là bột mì, nhân thập cẩm, lòng đỏ trứng muối, thịt heo, lạp xưởng, hạt dưa v.v… Bánh nướng hương vị mặn mà. Bánh dẻo thường có màu trắng và hình tròn, được cho là tượng trưng cho mặt trăng. Bánh nướng thường có màu vàng sẫm và hình vuông được cho là tượng trưng cho mặt đất hoặc hình tròn có khía tượng trưng cho mặt trời.

Giả thuyết hiện nay cho là bánh trung thu có thể bắt nguồn từ thời Trung Hoa bị người Mông Cổ xâm nhập. Truyền thuyết lưu truyền rằng do bị người Nguyên cai trị, người Trung Hoa âm mưu nổi dậy, hẹn định khởi nghĩa vào một ngày rằm tháng 8. Để tập hợp các lực lượng, một trong những người cầm đầu là Lưu Bá Ôn đã cho bán một loại bánh, trong ruột bánh có mảnh giấy ghi “đêm rằm tháng tám khởi nghĩa” như là một cách truyền tin. Nhờ vậy người dân nhất loạt hưởng ứng và đã lật đổ đươc thể chế cai trị hà khắc của người Mông Cổ. Từ đó, Trung Hoa có tục lệ mỗi năm tụ họp gia đình, ăn bánh vào ngày rằm tháng tám để kỷ niệm.

Hiện nay tại nhiều quốc gia Âu, Mỹ người ta cũng đã biết và thưởng thức loại bánh đặc biệt này với một kiểu gọi tên tuy không chính xác (là trung thu) nhưng đã trở thành quen thuộc: Moon cake – Bánh mặt trăng.



MÚA LÂN TRUNG THU:

Trung Thu có nhiều trò vui cho trẻ em nhưng vui nhộn và hấp dẫn nhất vẫn là múa lân (hay múa sư tử). Đây là sinh hoạt nhộn nhịp mà ở đâu chúng ta cũng bắt gặp trong dịp Tết Trung Thu và Tết Nguyên Đán.


Lân là một trong Tứ Linh (bốn con vật quý) Long (rồng); Lân (kỳ lân); Quy (rùa); Phụng (chim phượng hoàng). Tuy tôi và các bạn chưa hề được thấy con kỳ lân thật “mặt mũi” ra sao, nhưng người ta còn phân biệt kỳ lân làm 2 giống với KỲ là con đực và LÂN là con cái(?). theo mô tả, đầu lân có một cái sừng rất to và trông thoáng qua hơi giống đầu sư tử nên trước đây miền Bắc Việt Nam chúng ta gọi là múa sư tử. Thật ra múa sư tử thì người múa đội chiếc đầu sư tử và cũng có dải vải làm thân và đuôi sư tử (ngắn, dài tùy ý) như múa lân.

Đám múa lân, phần chính là “con” lân, có một người đội (thật ra là phải cầm bằng hai tay) chiếc đầu lân thật to bằng giấy bồi, màu sắc sặc sỡ rất đẹp. Thân và đuôi lân là một dải vải nhiều màu sắc, rộng và khá dài do những người khác chia nhau cầm giữ từng khúc che trên đầu và phần lưng (người cầm) để múa theo đầu lân theo nhịp trống và thanh la, não bạt (chập cheng). Nhân vật phụ trợ nhưng quan trong không kém là “ông Địa” do một người đeo mặt nạ hóa trang. Chiếc mặt nạ ông Địa nếu thật sự ấn tượng thì cũng là một tác phẩm nghệ thuật như cái đầu lân. Với cái đầu tròn và bóng loáng, ông Địa có khuôn mặt tròn xoe như mặt trăng cười toe toét với các chi tiết vẽ mắt, mũi, tai, miệng rất hoạt kê, cái bụng phệ rất bự dấu trong tà áo dài thắt dây lưng ngoài, tay không ngừng phe phẩy hoặc vẫy chiếc quạt cũng quá khổ luôn lăng xăng trêu đùa, làm những động tác ngộ nghỉnh, hài hước. Đây là nhân vật mà các em nhỏ vừa thích thú – có khi còn thích hơn xem lân múa – chạy theo trêu chọc nhưng cũng vừa e dè, sợ sệt. Hiện nay, nhiều đám múa lân còn tăng cường thêm những nhân vật hóa trang theo các tích truyện nổi tiếng, đa số là các nhân vật Tề Thiên, Bát Giới, Sa Tăng trong Tây Du Ký. Một thành phần nữa trong đám múa lân là những người đi theo lân để đánh trống, thanh la, não bạt… Những người này có thể cũng cải trang, cầm cờ xí nhiều màu, cầm đao, côn, kiếm… hoặc hoàn toàn không hóa trang.

Múa lân cho đến nay đã trở thành một loại hình sinh hoạt dân gian nghệ thuật khéo léo, đòi hỏi người múa có kỷ năng cao. Trong tiếng trống thì thùng, tiếng não bạt chập cheng, trước đây khi chưa bị cấm, còn có tiếng pháo đì đùng của các nhà đón lân vào múa và đì đẹt tiếng pháo tiểu của trẻ con đi theo đám múa thỉnh thoảng đốt chơi, hòa quyện với tiếng nói cười rộn rã của đám đông kéo theo… Đám múa lân qua đến đâu là huyên náo cả một vùng, tạo nên một không khí vô cùng hào hứng, phấn chấn. Lân qua nhà nào có ý định đón vào múa, chủ nhà đã gói sẵn tiền, cột treo ở một nơi cao và khó lấy nhất. Lân dừng lại, vào nhà làm các “thủ tục” vái lạy từ đường, chào gia đình theo hiệu trống và biểu diễn màn múa ngoạn mục trước khi tìm cách trèo lên cao lấy tiền thưởng. Những người trong đám múa lân lúc này sẽ khéo léo đứng chồng lên nhau, tạo thành chiếc thang người, lân vừa múa vừa leo lên cao dần “táp” lấy tiền thưởng rồi xuống múa lạy tạ chủ nhà lần chót trước khi tạm biệt đi ra cổng qua nhà khác…



MÂM CỖ TRUNG THU (Cỗ trông trăng):

Ngày Tết Trung Thu, người ta thường bày cỗ với nhiều món trái cây tươi và các loại bánh đặc trưng, nhưng theo quan niệm dân gian Việt Nam, cho dù muốn bày biện loại trái cây gì thì cũng nên có quả xanh, quả chín. Bởi trái màu xanh mang tính âm, trái chín mang tính dương, tượng trưng cho luật cân bằng âm dương của vũ trụ. Với người xưa, Trung Thu là dịp cả nhà sum vầy thưởng trăng, “phá” cổ. Đây cũng là thời điểm dự báo cho vụ mùa sắp tới, nên mâm ngũ quả dâng lên bàn thờ tổ tiên luôn đậm hương sắc mùa thu chín, như là tấm lòng con cháu cầu sự may mắn và thịnh vượng cho mùa sau.

Còn mâm cỗ Trung Thu (còn gọi là cỗ trông trăng) thường được xếp các hình thú vật, thông thường nhất là một con chó được xếp bằng tép bưởi, gắn 2 hạt đậu đen làm mắt; hình bầy heo con múp míp vây quanh bên heo mẹ; hình cá chép từ hình dạng mấy loại bánh chay, bánh nướng, bánh dẻo thập cẩm… Chung quanh bày nhiều loại hoa quả. Một mâm cỗ Trung thu đầy đủ luôn gồm cả bưởi xanh phớt vàng, mãng cầu xanh màu men sứ, hồng đỏ bóng, hồng ngâm xanh, mía tím, chuối tiêu vàng chen lẫn ổi, cam, dưa hấu và các thứ hoa trái khác tùy sáng kiến, sở thích và điều kiện tiền bạc từng nhà… Người ta gởi gắm trong mâm cỗ đó sự mong cầu tượng trưng qua từng loại trái.

Trước đây, thời trẻ con còn thịnh hành chơi đồ chơi bằng giấy và “con giống”, chính giữa, trên chổ cao nhất của mâm cổ trông trăng thường nghễu nghện một ông “Tiến Sỹ Giấy” lung lay trước gió. Và phải kể một thứ thức ăn không thể thiếu vào dịp Trung Thu xưa tại miền Bắc Việt Nam mà ngày nay những ai xa quê cũng đành cho đó là món hàng “quý hiếm”: Loại cốm dẻo thơm ngon được làm từ mầm lúa mới, và ngon nhất, nỗi tiếng nhất phải là “cốm làng Vòng”.

Khi trăng lên tới đỉnh đầu là lúc trẻ em đi rước đèn Trung Thu trở về, cả nhà quân quần hạ mâm cổ xuống, cùng thưởng thức hương vị Tết Trung Thu, giây phút ấy gọi là “phá cỗ”. Lúc bấy giờ, những hạt bưởi trước đó vài tuần đã chuẩn bị sẵn, bóc lớp vỏ áo rồi xâu vào các sợi dây thép (dây kẽm, dây chì) đem phơi khô, giờ được đám trẻ đem ra đốt cháy lên, tuy không sáng là bao nhưng mùi thơm sực nức cả nhà. Niềm vui đêm Trung Thu thời bấy giờ chỉ bình dị như vậy mà sao ngọt ngào đến vậy…



CHUYỆN CỔ TÍCH TRUNG THU:

Tết Trung Thu, dưới ánh trăng rằm vằng vặc, cũng là dịp đặc biệt để ông bà, cha mẹ kể chuyện cổ tích cho con cháu. Những tích truyện quen thuộc thường được kể đi, kể lại nhiều năm mà trẻ vẫn thấy hay, thấy thích là:
Chuyện Chú Cuội Cây Đa:

Đúng ra là trong kho tàng cổ tích chúng ta có đến 2 câu chuyện về sự tích chú Cuội và cây đa trên mặt trăng (không tính đến các câu chuyện kiểu… nói láo như Cuội). Ở đây chỉ xin dẫn ra một chuyện:

Ngày xưa ở một vùng nọ có người tiều phu tên là Cuội. Một hôm, như lệ thường, Cuội vác rìu vào rừng sâu đốn củi. Khi đến gần một con suối nhỏ, Cuội bỗng giật mình trông thấy một cái hang cọp. Nhìn trước nhìn sau anh chỉ thấy có bốn con cọp con đang vờn nhau. Muốn trừ họa cho dân làng, Cuội liền xông đến vung rìu bổ cho mỗi con một nhát lăn quay trên mặt đất. Nhưng vừa lúc đó, cọp mẹ cũng về tới nơi. Nghe tiếng gầm kinh hồn ở sau lưng, Cuội chỉ kịp quẳng rìu leo thoắt lên ngọn một cây cao. Từ trên nhìn xuống, Cuội thấy cọp mẹ lồng lộn trước đàn con đã chết. Nhưng chỉ một lát, cọp mẹ lẳng lặng đi đến một gốc cây gần chỗ Cuội ẩn, đớp lấy một ít lá rồi trở về nhai và mớm cho con. Khoảng thời gian chưa ăn giập miếng trầu, bốn con cọp con đã vẫy đuôi sống lại, khiến cho Cuội vô cùng sửng sốt. Chờ cho cọp mẹ tha con đi nơi khác, Cuội mới lần xuống tìm đến cây lạ kia đào gốc vác về.

Dọc đường gặp một ông lão ăn mày nằm chết vật trên bãi cỏ, Cuội liền đặt gánh xuống, không ngần ngại, bứt ngay mấy lá nhai và mớm cho ông lão. Mầu nhiệm làm sao, vừa mớm xong, ông lão đã mở mắt ngồi dậy. Thấy có cây lạ, ông lão liền hỏi chuyện. Cuội thực tình kể lại đầu đuôi. Nghe xong ông lão kêu lên: “Cây này chính là cây thần có phép cải tử hoàn sinh! Thật là trời cho con để cứu giúp thiên hạ. Con hãy chăm sóc cho cây nhưng nhớ một điều: đừng bao giờ tưới bằng nước bẩn mà cây sẽ bay lên trời đó!”. Nói rồi ông lão chống gậy đi. Còn Cuội thì vác cây về nhà trồng ở góc vườn phía đông, luôn luôn nhớ lời ông lão dặn, ngày nào cũng tưới bằng nước giếng trong. Từ ngày có cây thuốc quý, Cuội cứu sống được rất nhiều người. Hễ nghe nói có ai nhắm mắt tắt hơi là Cuội vui lòng mang lá cây đến tận nơi cứu chữa. Tiếng đồn Cuội có phép lạ lan đi khắp nơi.

Một hôm, Cuội lội qua sông gặp xác một con chó chết trôi. Cuội vớt lên rồi giở lá trong mình ra cứu chữa cho chó sống lại. Con chó quấn quít theo Cuội, tỏ lòng biết ơn. Từ đấy, Cuội có thêm một con vật tinh khôn làm bạn. Một lần khác, có lão nhà giàu ở làng bên hớt hải chạy đến tìm Cuội, vật nài xin Cuội cứu cho con gái mình vừa sẩy chân chết đuối. Cuội vui lòng theo về nhà, lấy lá chữa cho. Chỉ một lát sau, mặt cô gái đang tái nhợt bỗng hồng hào hẳn lên, rồi sống lại. Thấy Cuội là người cứu sống mình, cô gái xin làm vợ chàng. Lão nhà giàu cũng vui lòng gả con cho Cuội. Vợ chồng Cuội sống với nhau thuận hòa, êm ấm thì một hôm, trong khi Cuội đi vắng, có bọn giặc đi qua nhà Cuội. Biết Cuội có phép cải tử hoàn sinh, chúng quyết tâm chơi ác. Chúng bèn giết vợ Cuội, cố ý moi ruột người đàn bà vứt xuống sông, rồi mới kéo nhau đi. Khi Cuội trở về thì vợ đã chết từ bao giờ, mớm bao nhiêu lá vẫn không công hiệu, vì không có ruột thì làm sao mà sống được. Thấy chủ khóc thảm thiết, con chó lại gần xin hiến ruột mình thay vào ruột vợ chủ để đền ơn cứu sống và nuôi dưỡng bấy lâu. Cuội chưa từng làm thế bao giờ, nhưng thương vợ nên cũng đánh liều mượn ruột chó thay ruột người xem sao. Quả nhiên người vợ sống lại và vẫn trẻ đẹp như xưa. Thương con chó có nghĩa, Cuội bèn nặn thử một bộ ruột bằng đất, rồi đặt vào bụng chó, chó cũng sống lại. Vợ với chồng, người với vật lại càng quấn quít.

Nhưng cũng từ đó, tính nết vợ Cuội tự nhiên thay đổi hẳn. Hễ nói đâu là quên đó, làm cho Cuội lắm lúc bực mình. Ðã không biết mấy lần, chồng dặn vợ: “Có tiểu thì tiểu bên Tây, chớ tiểu bên Ðông, cây dông lên trời!”. Nhưng vợ Cuội hình như lú ruột, lú gan, vừa nghe dặn xong đã quên ngay sau đó. Một buổi chiều, chồng còn đi rừng kiếm củi chưa về, vợ ra vườn sau, không còn nhớ lời chồng dặn, đang mắc tiểu bèn nhằm vào gốc cây quý kia mà tiểu. Thế là khi chị ta vừa đi tiểu xong thì mặt đất chuyển động, cây đảo mạnh, gió thổi ào ào. Cây đa tự nhiên bật gốc, lững thững bay lên trời. Đúng lúc đó Cuội vừa về đến nhà. Thấy thế, Cuội hốt hoảng vứt gánh củi, nhảy bổ đến, toan níu cây lại. Nhưng cây lúc ấy đã rời khỏi mặt đất lên quá đầu người. Cuội chỉ kịp móc rìu vào rễ cây, định lôi cây xuống, nhưng cây vẫn cứ bốc lên, không một sức nào cản nổi. Cuội cũng nhất định không chịu buông, thành thử cây kéo cả Cuội bay vút lên đến cung trăng.

Từ đó Cuội ở luôn cung trăng với cả cái cây quý của mình. Mỗi năm cây chỉ rụng xuống biển có một lá. Bọn cá heo đã chực sẵn, khi lá xuống đến mặt nước là chúng tranh nhau đớp lấy, coi như món thuốc quý để cứu chữa cho tộc loại chúng. Nhìn lên mặt trăng, người ta thấy một vết đen rõ hình một cây cổ thụ có người ngồi dưới gốc, người ta gọi cái hình ấy là hình chú Cuội ngồi gốc cây đa….


Chuyện Hằng Nga – Hậu Nghệ:

Thời cổ xưa, Hằng Nga (có chỗ gọi là Thường Nga) là vợ Hậu Nghệ đều là thần tiên sống trên trời. Lúc bấy giờ có đến mười mặt trời cùng xuất hiện trên bầu trời, ánh sáng mặt trời rực rỡ thiêu đốt đất đai, đồng ruộng khô héo, nứt nẻ, loài người nóng đến mức không thở được, thường ngã xuống đất hôn mê bất tỉnh. Thời tiết quá nóng bức, các loài yêu quái, mãnh thú hung hãn cũng từ sông ngòi khô cạn hay rừng sâu chạy ra đồng bằng làm hại loài người.

Thảm hoạ đã làm kinh động đến Thiên đình, Thiên Đế ra lệnh cho Thần cung Hậu Nghệ xuống trần gian giúp loài người thoát khỏi cảnh khổ. Hậu Nghệ mang theo một chiếc cung màu đỏ, một túi tên màu trắng do Thiên Đế ban cho, cùng người vợ xinh đẹp của mình là Hằng Nga xuống trần gian thi hành mệnh lệnh. Sau khi đến trần gian, Hậu Nghệ trước hết khuyên mười mặt trời mỗi ngày lần lượt thay phiên nhau để một mặt trời ra, như vậy vừa mang lại ấm áp cho trái đất, mang lại ánh sáng cho loài người, lại tránh mặt đất không bị quá nóng, nhưng các mặt trời (vốn là 10 người con của Ngọc Hoàng) rất kiêu căng không nghe lời Hậu Nghệ. Hậu Nghệ nổi giận bắt đầu cuộc chiến đấu bắn mặt trời. Chàng lấy chiếc cung đỏ từ trên vai mình xuống, rút mũi tên trắng, bắn vào các mặt trời kiêu ngạo và ngang ngược, không bao lâu, lần lượt chín mặt trời bị bắn rơi. Bầu trời chỉ còn một mặt trời chiếu sáng và tỏa ấm nên loài người có thể an cư lạc nghiệp. Vì thế dân chúng rất cảm phục, biết ơn và yêu mến chàng. Thế nhưng, công lao của Hậu Nghệ đã bị các vị Thần khác ghen tị, họ đến bên Thiên Đế gièm pha, khiến Thiên Đế xa lánh Hậu Nghệ. Cuối cùng Thiên Đế cách chức và đày Hậu Nghệ, Hằng Nga xuống trần gian, không cho phép trở về Trời. Hậu Nghệ và Hằng Nga đành phải ẩn cư tại trần gian, dựa vào nghề săn bắn của Hậu Nghệ đề sống một cuộc sống nghèo khổ.

Theo đà thời gian trôi qua, Hậu Nghệ cảm thấy có lỗi với vợ vì mình mà liên luỵ, bị đày xuống trần gian khổ cực. Chàng nghe Tây Vương Mẫu trên núi Côn Luân có một loại đan dược, uống loại thuốc thần này, người có thể lên Trời. Do vậy, anh trèo đèo lội suối, trải bao gian khổ, đến núi Côn Luân xin Tây Vương Mẫu thuốc thần. Điều đáng tiếc là, thuốc thần của Tây Vương Mẫu cho chỉ đủ dùng cho một người. Hậu Nghệ không nỡ bỏ lại người vợ yêu dấu để một mình lên Trời, cũng không muốn một mình vợ lên Trời bỏ lại mình dưới trần, nên mang thuốc thần về nhà rồi giấu đi. Nhưng Hằng Nga nhân một ngày Hậu Nghệ không ở nhà, nàng bắt gặp thuốc thần, liền đem uống. Bỗng chốc, nàng thấy người mình càng lúc càng nhẹ rồi từ từ bay lên Trời, cuối cùng thành Tiên bay đến tận mặt trăng, sống trong cung Quảng Hàn. Hậu Nghệ sau khi phát giác vợ đã bỏ mình lên Trời, rất đau khổ, nhưng lại không thể dùng tên thần phương hại Hằng Nga, đành phải nuốt lệ chia tay với Hằng Nga vĩnh viễn.

Hậu Nghệ sống lẻ loi một mình, chàng tiếp tục nghề săn bắn để sinh sống và dạy học trò bắn cung tên. Trong số học trò, có một người tên Phùng Mông tiến bộ rất nhanh, không bao lâu đã rất giỏi nghề bắn tên. Ác thay, Phùng Mông thường suy nghĩ, nếu Hậu Nghệ còn sống thì mình không thể là người nhất thiên hạ được, bởi vậy một lần nhân thầy uống rượu say, Phùng Mông đã từ đằng sau bắn chết Hậu Nghệ.

Lại nói Hằng Nga tuy đã lên cung Trăng, nhưng trên đó chỉ có một chú thỏ trắng giã thuốc tiên và một ông lão đốn củi. Hằng Nga nhớ lại quãng thời gian chung sống hạnh phúc với chồng và tình cảm ôn hoà dưới trần gian, nàng cảm thấy cô độc và lạnh lùng vắng vẻ, bởi vậy Hằng Nga suốt ngày chỉ buồn bã ngồi trong cung Quảng.

Củng như chuyện chú Cuội, sự tích Hằng Nga cũng có rất nhiều chuyện nội dung khá khác nhau, trên đây chỉ là một trong số đó.



CÁC THÚ VUI NGƯỜI LỚN TRONG TẾT TRUNG THU:

Như trên đã nói, Tết Trung Thu nguyên là ngày hội của người lớn, dần dần về sau mới trở thành tết của trẻ em, nên ngoài những sinh hoạt chung cho cả gia đình, người lớn có những thú vui riêng tuy bình dị mà rất thanh cao, trong đó phải kể là thú làm thơ (của cả nước) và thú hát “trống quân” (ở miền Bắc Việt).

Tương truyền hát trống quân đã có tận từ thời vua Lạc Long Quân đời Hồng Bàng. Đến đời Vua Quang Trung (Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ) trong chuyến đem quân Bắc tiến đại phá quân Thanh, lúc rãnh việc quân, đã cho quân sĩ giả làm con gái, chia làm hai phe ngồi hai bên như trai gái thật, hát trống quân cho quân sĩ đỡ nhớ nhà. Từ đó hát trống quân trở thành thịnh hành trong dân chúng.

Còn thơ thưởng nguyệt trong đêm Trung Thu thì ai cũng biết đương nhiên là nhiều vô kể, vậy chỉ xin chép lại đôi vần để kết thúc bài viết tản mạn này khi trăng rằm cũng đã chớm lên rồi. Chúc các tao nhân mặc khách có nhiều thi hứng phóng bút mấy bài trong khi chờ đợi đám trẻ nhỏ đang đi rước đèn và hát đồng dao “ông giẳng, ông giăng” trở về thì chúng ta cùng phá cỗ…




TRUNG THU (Đỗ Phủ)


Thu cảnh kim tiêu bán
Thiên cao nguyệt bội minh
Nam lâu thùy yến hưởng
Ty trúc tấu thanh thanh

Bản dịch của Thái Giang:

Cảnh thu nay đúng nửa rồi
Trăng thu thêm sáng, khung trời thêm cao
Lầu nam ai rót rượu đào
Tiếng tơ, tiếng trúc thanh tao nhịp nhàng.
oOo

TRUNG THU NGOẠN NGUYỆT HOÀI

Thông thông khách lý hựu Trung Thu
Nguyệt tự phong thanh độc tự sầu.
Dao vọng cố nhân khâm vận tại
Tao hồn kỷ độ nhiễu Nam Lâu.

Bản dịch của Hoàng Khôi:

Thời gian thoáng đã lại Trung Thu,
Gió mát trăng trong vẫn cứ sầu.
Xa nhớ cố nhân thơ vẫn giữ,
Hồn thơ lẩn quẩn tại Nam Lâu.
oOo

Sưu tầm – Biên tập: QUANG MAI

Nhàm chán

     

Điều kiện môi trường

Do di truyền khác nhau và điều kiện lớn lên khác nhau nên mỗi cá thể sở hữu một bản năng khác nhau. Nói đúng hơn là có những bản năng đã được thuần phục cho thuận với nguyên tắc điều hợp của vũ trụ và sự tiến hóa của xã hội, nhưng cũng có những bản năng còn rất hoang sơ chỉ biết đi tìm những gì đem tới cảm xúc thỏa mãn cho chính bản thân mà không suy xét đến những cái giá rất đắc phải trả. Cho nên chân – thiện – mỹ là mục tiêu phấn đấu cao cả của con người, ai không tiếp xúc được ba chất liệu đó thì vẫn chưa thể hiện được chức năng thiêng liêng mà trời đất đã hiến tặng và vẫn chưa đạt được giá trị hạnh phúc và bình an thật sự trong đời sống. Kẻ ấy vẫn chưa có phương hướng sống.

Khi một đứa bé không còn ưa thích món đồ chơi mới mua ngày hôm qua mà chính nó đã nài nỉ đòi có cho bằng được, thì ta biết đứa bé này có khuynh hướng mau chóng nhàm chán. Nhàm chán là thuộc tính của tất cả những ai đang sở hữu bản năng cảm xúc quá mạnh. Bản năng này sẽ thúc đẩy ta tìm kiếm những đối tượng có thể đem tới sự dễ chịu thoải mái cho các giác quan như “bắt mắt”, “êm tai”, “hợp khẩu vị”… mà lý trí không đủ sức can thiệp rằng ta chưa đủ khả năng để nắm bắt đối tượng đó, hoặc nếu ta nắm bắt được thì nó sẽ ảnh hưởng đến đời sống của ta và những người sống chung quanh ta ra sao. Chỉ khi nào cơn cảm xúc tàn rụi thì ta mới biết sự chọn lựa ấy là sai lầm đáng tiếc.

Đây là một tâm lý rất xấu đã hình thành ngay từ thuở nhỏ mà chúng ta ít được người lớn chỉ vẽ và lưu ý tới. Nếu ta sinh ra trong một gia đình nghéo khó, hoặc lớn lên trong bối cảnh xã hội có nền kinh tế lạc hậu, thì sự chọn lựa những thứ mà ta yêu thích sẽ bị giới hạn. Bản năng ấy có thể bị cô lập hóa đến mức xói mòn nếu điệu kiện không thể chọn lựa duy trì trong khoảng thời gian khá dài, đủ để bản năng hình thành một thói quen hay bản tính mới. Cái này cũng tùy, nhưng phần lớn những đứa bé không có điều kiện hưởng thụ từ nhỏ thì bản tính nhàm chán không có cơ hội phát triển. Ta hãy quan sát một đứa bé sở hữu hàng chục món đồ chơi đắt tiền, nhưng nó vẫn cứ đòi mua những món đồ chơi khác mà nó đã thấy của bạn bè hay quảng cáo trên ti vi. Gặp cha mẹ quá bận rộn, thay vì giải thích cho con hiểu đó là thói quen không tốt hay tìm cho con những sinh hoạt khác lành mạnh hơn, thì cha mẹ lại nuông chìu để cho con vui và cho mình khỏe.

Lớn lên nếu ta trở thành một thiếu nữ xinh đẹp hay một chàng thanh niên đa tài thì ta nghiễm nhiên được nhiều người ngưỡng mộ và yêu thích, ta lại có điều kiện được chọn lựa và mau chóng nhàm chán. Hễ dễ dàng chọn lựa là mau chóng đưa tới sự nhàm chán, đó là cấu trúc rất tự nhiên của tâm lý. Rồi khi ta kiếm được nhiều tiền, ta có quyền mua sắm mọi thứ trang phục, xe cộ, nhà cửa… theo ý mình, song chắng mấy chốc ta lại muốn thay đổi kiểu dáng khác. Ta chỉ đơn giản phát biểu rằng ta không thích kiểu đó nữa, kiểu đó xưa rồi, kiểu đó không hợp với “gu” (gout) mới của những giới sành điệu, nhưng ta không hề biết rằng mình đang bị cảm xúc điều khiển, đang nuôi dưỡng thói quen nhàm chán mà nó là tiền đề cho những cuộc tình sớm vội tàn phai hay đổ vỡ trong tương lai.

Từ nhàm chán đến phản bội

Khi ta nói nhàm chán nhau tức là ta cho rằng đối tượng kia đã có sự xuống cấp, không còn khả năng hấp dẫn hay tạo nên sự mến mộ trong ta nữa. Sự xuống cấp ấy có thể là hình thức bên ngoài hoặc là phẩm chất đạo đức bên trong. Nếu vì sự xuống cấp hình thức bên ngoài mà khiến ta trở nên nhàm chán tức là trước kia ta đến với nhau bằng cảm xúc thỏa mãn hơn là tình yêu đích thực. Khi ấy mỗi bên cố gắng đem tới sự mới lạ về hình thức để đáp ứng nhu cầu yêu thích của đối phương, dù có khi phải vắt kiệt năng lượng mới có thể tạo dựng được một hình ảnh ấn tượng, mục đích không gì hơn là khiến cho bên kia hệ lụy vào mình hơn, biến họ thành đối tượng sở hữu vững chắc của mình hơn.

Nhưng làm sao người kia đủ sức để tạo dựng những hình ảnh gợi cảm mới lạ mãi được. Tại vì họ còn bao nhiêu chuyện cần phải làm chứ đâu phải lúc nào cũng giành hết năng lực cho ta, vả lại, nhu cầu hưởng thụ của ta cứ tăng tốc mà năng lực trong người kia cứ suy giảm theo thời gian. Và khi người kia không còn đủ sức để cung cấp thức ăn cảm xúc cho ta nữa, ta sẽ lâm vào tình trạng đói khát và sự phản bội sẽ dễ dàng xảy ra. Ta trách người kia cũng đúng vì chính họ đã nuông chìu ta, đã tập cho ta thói quen yêu bằng cảm xúc thay vì đánh thức ta thăng hoa những giá trị tâm hồn. Nhưng lỗi ở nơi ta nhiều hơn, ta biết “mới chuộng cũ vong” là bản tính nằm trong máu thịt của mình, đáng lẽ ta phải tìm cách chế phục nó trước khi quyết định sống chung với người khác, thì ta lại biến đối tượng thương yêu trở thành kẻ phục tùng cho bản năng hưởng thụ quá lớn của mình.

Nếu vì sự xuống cấp về phẩm chất bên trong của người kia mà khiến ta trở nên nhàm chán thì chứng tỏ tình yêu của ta giành cho họ chưa đủ lớn. Lẽ dĩ nhiên là khi người kia không còn giữ được những cái hay cái đẹp trong tâm hồn mà ta đã từng ngưỡng mộ, trái lại họ còn tập tành theo những thói quen mới rất kỳ cục khiến ta vô cùng khó chịu và mệt mỏi, thì sự đổ vỡ hình ảnh đẹp là điều có thể xảy ra. Nhưng ta sẽ không dễ dàng nhàm chán và đi tới sự ruồng rẫy nếu lý trí trong ta đủ mạnh, kịp thời soi sáng cho ta giải quyết vấn đề theo chiều hướng khác. Bởi khi sự hiểu biết được thắp sáng, ta sẽ nhận ra sự xuống cấp của người kia chỉ là một hiện tượng nhất thời chứ không phải là toàn bộ con người của họ, hoặc có thể họ đang bị kẹt vào một nhận thức sai lầm nào đó nên khiến họ không muốn giữ gìn phong độ của mình nữa, hoặc do chính ta là thủ phạm đã khiến họ không còn niềm tin vào bản thân để có cảm hứng duy trì và phát huy những điểm sáng.

Ta đừng quên nguyên tắc của thương yêu là phải có sự hiến tặng và chia sớt. Ta phải có những năng lượng tích cực để hiến tặng cho người ta thương để họ được hay thêm và đẹp thêm khi gắn bó cuộc đời với ta. Mỗi khi người kia rơi vào tình cảnh khó khăn bế tắc, bị gục ngã giữa muôn trùng cám dỗ của cuộc đời thì ta phải có khả năng đánh thức và đưa cánh tay tình thương đến để nâng đỡ hay chở che. Chứ mình nói mình thương người ta mà khi người ta bị xuống cấp, cần sự giúp đỡ của mình, thì mình lại than van là nhàm chán và muốn bỏ chạy. Cái đó chỉ là một sự đổi chác sòng phẳng chứ đâu phải là tình thương. Ta phải có trách nhiệm với bất cứ những gì ta đã gây ra. Ta đã đi vào cuộc đời của người ấy và đã góp phần đẩy tâm thức họ tới mức yếu kém như vậy thì ta không thể đổ thừa hay than trách gì cả. Thái độ đúng đắn nhất là mở lòng ra chấp nhận và giúp đỡ.

Nhưng có khi bên kia chẳng hề có một thay đổi nào, họ vẫn hay vẫn đẹp như họ trước đây, nhưng ta lại không hạnh phúc khi nhìn thấy họ nữa, ta nói ta nhàm chán mà không lý giải được tại sao. Có thể tâm thức ta đang bị khủng hoảng bởi những biến động của hoàn cảnh, hay do ta bị vướng kẹt vào thành kiến từ một việc làm sai trái gần đây của người kia mà ta không còn nhìn thấy họ như chính họ đang là, ta nhìn họ bằng một tâm thức khác mà ta cứ ngỡ là họ đang thay đổi. Cũng có thể do nhu yếu hưởng thụ trong ta đang tăng tốc, ta tiếp xúc thế giới bên ngoài và ngưỡng mộ những nhân vật mà ta cho là chuẩn mực rồi ta muốn người thương của mình phải được như vậy, nếu người thương của ta không làm được thì ta cho rằng ta đang tiến bộ còn họ thì đang bị tụt lùi. Cũng có thể ta vẫn còn thấy cái hay cái đẹp của người ấy, nhưng họ lại không phục tùng ta, trái lại họ có vẻ khinh thường ta nên cuối cùng ta cũng trở nên nhàm chán họ.

Mới chuộng cũ vong
Thái độ nhàm chán thường xuất phát từ sự ích kỷ của ta, ta chỉ muốn người kia phải như thế này hoặc như thế nọ để phục vụ cho cảm xúc thỏa mãn của ta thôi, chứ ta không nghĩ gì đến cuộc đời của họ. Chính vì vậy mà người có bản tính mau chóng nhàm chán thì rất sợ gánh phần trách nhiệm, họ luôn bận tâm để tìm tòi khám phá cái mới chứ không sẵn sàng chi tiêu năng lượng để đền bù cho những thứ mà họ muốn từ bỏ. Nhưng đạo đức không cho phép họ làm như vậy. Làm người mà chỉ biết rút tỉa năng lượng của kẻ khác thì còn kém xa loài ong lấy mật hoa mà không hề làm cho hoa tổn thương. Họ không xứng đáng tiếp tục nhận lãnh năng lượng tình thương và che chở của đất trời. Họ chắc chắn sẽ không có những tháng ngày bình yên và sẽ bị đào thải dù sớm hay muộn.

Ý thức được mình đang sở hữu một bản năng bình thường hóa cảm xúc rất lớn, ta hãy quyết tâm quay về chăm sóc lại tâm hồn mình, dừng bớt cuộc rong ruỗi đi tìm những đối tượng hấp dẫn ở bên ngoài. Ta hãy thường xuyên tập ngồi xuống thật yên cho tâm tư lắng đọng mà không tiếp tục dùng nó để thăng hoa những cảm xúc không cần thiết. Từ khi thức dậy cho đến khi lên giường ngủ, lúc nào nhận biết tâm mình đang lang thang đi tìm những cảm giác mới lạ thì ta hãy nhìn vào tình trạng tâm thức lúc ấy bằng một thái độ không thành kiến và nở một nụ cười thật tươi để xác nhận là ta và cảm xúc vừa có cuộc chạm trán. Khả năng phát hiện này sẽ giúp cho ta nhạy bén hơn khi nhìn ra tâm của mình trong những lần sau và góp phần làm cho cảm xúc bị suy yếu.

Nếu khi “mới chuộng” mà ta không đủ sức để ngăn chặn thì ta hãy quan sát lại tâm mình khi “cũ vong”. “Mới chuộng” và “cũ vong” là hai tâm thức khác nhau. Một cái quá hưng phấn muốn có cho bằng được, còn một cái quá nhàm chán muốn bỏ cho bằng được. Ta thấy có nhiều người để cho cảm xúc này tràn lắp ra lời nói và hành động, khiến ta có cảm tưởng như họ đang bơi đuối sức trong một dòng nước đang chảy xiết. Cảm xúc cũng giống như dòng nước, mức độ mãnh liệt của nó có thể khiến người ta vượt núi băng đèo để tìm đến nhau, nhưng cũng sẵn sàng dùng tới những thủ đoạn kinh rợn nhất để tiêu diệt nhau. Cho nên thiết lập được thói quen quan sát và buông bỏ bớt thái độ nhàm chán sẽ giúp ta không dễ trở thành kẻ bội bạc, dù có khi ta không vượt thắng nó nhưng ít ra ta cũng có cơ hội hiểu rõ hơn guồng máy hoạt động của cơ chế cảm xúc trong ta.

Ta có thể tháo gỡ cơ chế ấy ra từng mảnh vụn từ những cảm xúc yêu thích và chống đối nhỏ nhặt vẫn thường xảy ra trong đời sống. Mỗi khi ta muốn thay đổi cách ăn mặc, giọng nói, thể hình, xe cộ, chỗ ở, sở thích đến cả quan hệ bạn bè, thì ta nên tự hỏi có phải mình đang muốn tạo dựng thêm cảm giác mới lạ cho chính mình và những đối tượng kia không, có phải vì ta không đủ niềm tin phẩm chất bên trong có giá trị đích thực nên ta chú trọng tới hình thức bên ngoài không? Điều đó chẳng tội vạ gì nhưng đó là lý do mà ta trở thành nạn nhân của kẻ không giữ được lập trường, hay dễ dàng bỏ cuộc khi gặp khó khăn. Lẽ dĩ nhiên đời sống là phải luôn khám phá sáng tạo, nhưng nó phải được thực hiện trên một tâm thức vững vàng, một lý trí kiên định và một tinh thần trách nhiệm thì ta mới đủ bản lĩnh đi về phía mặt trời sáng tỏ mà không bị tan chảy như những giọt sương.

Cảm xúc cũng vô thường
Nắng bừng vỡ giọt sương
Mời lên tâm tỉnh thức
Càng nhìn lại càng thương.

Minh Niệm

Làm báo kiểu mới


Trái ngược với nhiều tiên đoán bi quan về tương lai của báo chí, có nhiều dấu hiệu cho thấy báo chí đang phát triển mạnh! Thoạt nghe rất trái tai nhưng cũng rất dễ đồng tình với nhận xét này nếu chúng ta không đánh đồng “báo chí” với “báo in”.


Ngày xưa, có lẽ thói quen của nhiều người là sáng ra, cầm tờ báo đọc một mạch các tin bài quan trọng rồi thôi. Có ai sáng đã đọc rồi, trưa vẫn tìm báo đọc, chiều tìm tin mới và tối loay hoay lùng sục các sạp báo coi còn sót tờ nào nữa không! Hiếm lắm.



Nhưng đó chính là hình ảnh cách đọc báo của nhiều người hiện nay. Họ đọc sáng, đọc chiều, đọc tối; họ đọc trên máy tính, quay sang đọc trên máy điện thoại di động, tối về nằm đọc trên máy tính bảng. Họ đọc tờ này, nhảy sang tờ khác, tin trên mạng này, qua tin trên mạng khác. Họ đọc bất kỳ khi nào có bạn bè giới thiệu.



Như vậy đã có thể kết luận được chăng, rằng nhu cầu tin tức vẫn tăng mạnh, chỉ có điều cái phương tiện chuyển tải thông tin không còn là tờ báo in nữa mà thôi.



Vậy cái nghịch lý nhu cầu đọc tin tăng, nhu cầu đọc báo in giảm, sẽ dẫn chúng ta đi đâu, sẽ đưa tương lai báo chí về chỗ nào?



Trong một bài viết gần đây, giảng viên trường Harvard Kennedy School Nicco Mele tiên đoán tương lai của báo chí là mô hình báo nhỏ. Dù Mele không nói mô hình báo nhỏ là như thế nào, có thể hình dung theo kịch bản dưới đây. Đã từng có người giả định trong tương lai một nhạc sĩ chỉ cần có 1.000 người hâm mộ thật sự, sẵn sàng trả 100 đô-la mỗi người trong một năm cho nhạc sĩ này yên tâm sáng tác, không còn phải lo lắng giữa “nhạc thị trường” hay “nhạc nghệ thuật”. Mô hình này có thể tồn tại là nhờ tính kết nối thông qua Internet.



Nay giả thử một một nhà báo, có chừng 5.000 người theo đọc (trên blog cá nhân hay trên Facebook), mỗi người sẵn lòng bỏ ra chừng 100.000 đồng/năm trả cho nhà báo này để được đọc tin bài do anh sản xuất, vị chi anh ấy sẽ có thu nhập chừng 500 triệu đồng/năm! Nghe như chuyện giả tưởng nhưng cứ nghĩ lại, mỗi tháng, bấm 10.000 đồng (bằng giá hai tờ báo ngày hiện nay) chuyển cho anh nhà báo qua điện thoại di động để được đọc tin bài mà mình thích, e cũng không đến nỗi quá viễn vông. Vấn đề là bản quyền bởi nếu tin bài nào đăng lên đều bị nơi khác lấy lại vô tội vạ thì mô hình này sẽ đổ vỡ ngay.



Và nghĩ xa hơn một chút, người đọc làm “fan” một hai nhà báo kiểu đó thì được còn bắt họ đọc gì cũng phải trả tiền kiểu đó, chắc chắn cũng không khả thi. Nói cách khác, mô hình nhà báo đơn độc như trên ắt chỉ thành công với một số người đếm được trên đầu ngón tay và như thế cũng không giải quyết được gì cho mô hình báo chí và nghề báo trong tương lai.



Từ đó mới thấy những mô hình làm báo mới xuất hiện có lý của nó và có thể thành công. Đó là một mô hình dựa vào mô hình xuất bản của Amazon, loại bỏ nhà xuất bản trung gian, chỉ còn người đọc và nơi phát hành sách. Áp dụng vào báo chí, đó là sự loại bỏ cơ quan báo chí, chỉ còn lại người viết và nơi chuyển tải nội dung đến tận tay người đọc.



Trở lại giả định nói trên, thay vì 5.000 người, anh nhà báo có đến 50.000 người đọc, đương nhiên “phí nuôi sống” anh sẽ tụt xuống còn 10.000 đồng/năm chứ không còn phải đến 100.000 đồng/năm như trước nữa. Hay nói cách khác có chỗ nào đó bán sỉ, tập hợp được 10 anh nhà báo như thế thì người đọc vẫn trả tiền như cũ nhưng đọc được bài viết của 10 người thay vì chỉ 1 người. Đó là bộ khung của mô hình báo quy mô nhỏ của tương lai.



Sẽ có người lo ngại, như thế những ai viết chuyện giật gân, câu khách sẽ sống khỏe và dần dần sẽ chỉ còn những bài viết rẻ tiền, dung tục? Rất có thể như vậy nhưng cũng rất có thể nhu cầu thông tin của con người không xoay quanh chuyện xì-căng-đan của các sao giải trí; họ thật sự cần những kiến giải giúp hoạch định cuộc sống.



Lấy ví dụ, các doanh nhân đang lo chuyện phải cạnh tranh khi thuế nhập khẩu giảm ắt rất muốn biết một phân tích sâu tình hình, kèm theo là những khuyến nghị hữu ích. Lúc đó chắc họ sẵn sàng trả tiền để đọc bài đang cần tìm và không chịu bỏ xu nào cho loại bài nhảm nhí.



Như vậy, tương lai của tổ chức báo chí gồm đầu ra nhỏ, phục vụ cho một số đối tượng chứ không phải đại trà, thu tiền người đọc chứ không phải sống nhờ quảng cáo. Đã có những tổ chức báo chí kiểu mới như thế đang sống được, sống khỏe ở các nước.



Cách viết tin bài cũng thay đổi để làm sao người làm tin bài như một nhà tư vấn, một người bạn tâm tình, vừa cung cấp chuyện mới, vừa giải thích nó là gì, nó tác động đến cuộc sống ra sao, cần phải có thái độ như thế nào. Cách đưa tin cũng phải thay đổi, ưu tiên cho sự tương tác với người đọc. Người đọc phải có tiếng nói, như thể tạo dựng một cuộc trò chuyện thì tin bài mới có sức lan tỏa. Người đọc sẽ giúp lọc tin sai, tin viết ẩu, họ sẽ làm giám khảo nghiêm khắc cho mỗi bài viết. Bốn cột trụ làm nên nghề báo vẫn còn đó mà người bình thường không thay được: xác minh, giải thích, chứng kiến và điều tra.



Vấn đề còn lại là tính tổ chức của tòa soạn bởi để một bài báo có chất lượng ra đời, đâu phải chỉ là công sức của người viết, nó còn là sự kiểm chứng thông tin của nhiều người khác, là công sức biên tập, là sự hỗ trợ thông tin nền, là sự động não tập thể về đề tài và hướng triển khai, là uy tín của một tổ chức giúp người viết tiếp cận được nguồn tin. Nhìn ở góc độ này, cuộc tìm kiếm mô hình báo chí cho tương lai vẫn tiếp diễn.

NVP

Xiếc chữ*



Bất bình tắc minh
Hàn Dũ



Khỉ bất tử + computơ có bộ nhớ vô hạn + [0,1] = Thượng Ðế, một ý niệm tiệm cận ở vô tận trục thời gian của con Người hữu hạn. Sợi dây chăng từ hiện tại đến tiệm cận đó là văn hóa, vắt chông chênh giữa hai bờ vực, một bên là tâm, bên kia là trí : giữ thăng bằng tránh hụt chân rơi vào thăm thẳm là công việc nhà văn.


1. Khỉ, [0 , 1], và…

Cho một con khỉ một cái máy chữ. Khỉ bất tử, máy chữ cũng vậy, tức không có thời gian. Khỉ gõ máy, gõ ‘‘vô tư ’’ , theo tính ngẫu nhiên, vừa gõ vừa ăn chuối.Thế mà cuối cùng (của cái gì nhỉ, trong vũ trụ phi thời gian ?) sẽ có đủ thứ, đủ mặt. Phương Pháp Luận của Descartes, định luật quả táo (bà Eve có nếm qua) của Newton, Nguyên Lý Ngẫu Ðịnh của Heisenberg, thuyết Tương Ðối hẹp, rồi tổng quát của Einstein, hằng số Planck…Về văn chương, có Ly Tao của Khuất Nguyên, Nam Hoa kinh của Trang Tử, rồi nào là Trung Dung, Luận Ngữ, Tứ Thư, Ngũ Kinh cho đến Nền Cộng Hòa của Platon, Luận Lý của Aristote. Rồi Cervantes của Don Quichotte (hay ngược laiï), Công Ước của Rousseau, Ulysse của J Joyce, Hữu Thể và Hư Vô của Sartre. Lục kỹ, ơ này có Chùa Ðàn của Nguyễn Tuân, Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền. Lạ chưa, vừa rồi có cả Trang Tôn Kinh Huyền Hoặc Hậu Hiện Ðại của Trần Vũ. Hay chưa, xem này, có cả « Vấn đề đoạn tuyệt với quá khứ để lên đường»[1]của Thụy Khuê.

Có thật là lạ không? Bây giờ khỉ bỏ máy chữ kiểu cổ, gõ computơ, không cần màn hình vì gõ ‘‘vô tư’’, nhưng cần một bộ nhớ vô hạn. Và chỉ phân biệt hai nút, trắng là 0 và đen là 1, là đủ. Tập hợp nhị phân (0,1) có khả năng biểu diễn mọi thứ ngôn ngữ, hình ảnh, âm thanh. Phi thời gian, trong hằng hà vô số ký bản có cả Bản Giao Hưởng số 5 của Beethoven, tranh Guernica của Picasso, nằm đâu đó cạnh nào là Barthes, Derrida, Foucault, Nabokov, Steiner… những tên tuổi á thánh thường được nhắc trong lý luận văn học đương đại viết bằng ngữ Việt. Xin nhắc, khỉ vừa gõ vừa ăn chuối ( lượng chuối vô hạn) trong vũ trụ phi thời gian, với một cái computơ có bộ nhớ cũng vô hạn, là nhân loại có mọi tác phẩm, mọi kiến thức, cả khoa học, triết học và nghệ thuật. Sau hệ (0,1), ta có hết rồi, làm thế nào phân biệt được cũ-mới đây.

2. Chặt, và đứt.

Làm thế nào ? Mình là người, nó là khỉ. Không, luận cứ này gẫy ngay. Thủy tổ mình là nó, lại ở đâu bên Phi Châu, theo hai con đường, đường lên Bắc Á, rồi phân tán, di cư, di tản xuống phía Nam mãi đâu dăm chục nghìn năm trước, đích thị là ta. Ta từ hang đá chui ra, vươn vai một cái rồi ta lại vào ? Cũng không ! Ta không lại vào như thế. Ta đoạn tuyệt với «quá khứ» chứ ! Bằng chứng trong văn chương ta, có Tự Lực Văn Ðoàn ‘’chặt đứt’’quá khứ thế hệ Tản Ðà, nhà nho buổi Tây học, gầy nên văn thơ tiền chiến. Chưa chiến, Trần Dần và nhóm Tượng Trưng đã «chôn tiền chiến» với tuyên ngôn hạ huyệt phong trào lãng mạn nhóm Tự Lực nhập từ nước Ðại Pháp. Chiến rồi xuôi Nam, mấy năm sau thì nhóm Sáng Tạo tiếp tục cuộc chôn cất Tự Lực, không ai khóc, tang lễ vui tươi, dứt khóat đoạn tuyệt với quá khứ, và, xin trích Thụy Khuê « sự đả kích tiền chiến và Tự Lực Văn Ðoàn của Sáng Tạo cũng ‘’hời hợt’’,’’ấu trĩ’’ như Tự Lực Văn Ðoàn đã từng đả kích hời hợt và ấu trĩ thế hệ Tản Ðà.» Ðọc những nhận định của Thanh Tâm Tuyền ( tr 16, bài Thụy Khuê #1), ‘’hời hợt’’,’’ấu trĩ’’ thế nào ? Còn về phần Tự Lực Văn Ðoàn ‘’hời hợt’’,’’ấu trĩ’’ ra sao thì cũng không có dẫn chứng gì. Nhưng thôi, cứ tin cũng chẳng sao, vì ngay câu sau, Thụy Khuê tự mâu thuẫn : «…thật sự là Sáng Tạo đã có những thảo luận đứng đắn về những quan điểm sáng tác ». Thế là thế nào ? Ai lại có thể cùng một lúc hời hợt ấu trĩ mà rồi vẫn có «những thảo luận đứng đắn» và «…họ đã thành công trong việc đổi mới văn học Việt Nam …» ? [2] Vâng, bà đánh giá là cả Tự Lực Văn Ðoàn và Sáng Tạo « thành công trong việc đổi mới văn học» và đặt vấn đề : «tìm hiểu tại sao họ lại thành công trong việc ‘’chặt đứt’’ quá khứ của họ. Trong khi văn học hải ngoại, từ 20 năm nay, cũng muốn ‘’chặt đứt’’ quá khứ, nhưng chưa có những thành tựu đáng kể»(#1,tr 17).

Tìm hiểu, Thụy Khuê đưa ra hai nhận xét. Thứ nhất, Tự Lực và Sáng Tạo hô hào đánh đổ cái cũ vì biết là họ có thể dựa vào một điểm tựa mới. Tự Lực dựa vào văn thơ Pháp đánh đổ thế hệ Tản Ðà, còn Sáng Tạo đánh đổ Tự Lực «…vì họ biết chắc là họ đang nắm thực chất của ‘’văn hóa hiện sinh’’, của ‘’văn minh siêu thực’’, những dòng tư tưởng chính của thế kỷ XX…»(#1, tr 17).

Nhưng cái gì là hai cái cụm từ ghê gớm trên thì Thụy Khuê không nói và vì thế tôi, người đọc, chẳng biết hiện sinh kiểu gì ( vô thần, hữu thần, Nietzsche hay Kierkergaard hay Marcel hay Ponty hay …vân vân). Rồi ai nắm gì, ai không ? Ðến phần sau, bà mới hé cho biết là Thanh Tâm Tuyền nắm Nietzsche, xử dụng siêu thực Breton về mặt tạo hình, nhưng rồi với tập Dọc Ðường, ông lại hiện thực với cả Balzac, Freud ( dấu ? của tôi, vì tôi chẳng biết Freud hiện sinh chỗ nào), Dostoievsky. Còn Mai Thảo, theo bà cũng thành công, thì «không phải là một nhà văn hiện sinh » (#1, tr 19). Số thành tựu còn lại, đủ mặt bá quan (Vũ Khắc Khoan, Nguyên Sa, Doãn Quốc Sĩ, Nhật Tiến…), chẳng hiện sinh hiện xiếc gì, và thậm chí có tí ti siêu thực cũng lại vẫn TT Tuyền với ảnh hưởng của kỹ thuật Breton như nói trên. Thứ nhì, Thụy Khuê huỵch toẹt, Sáng Tạo nói vậy mà không phải vậy,(#1,tr 17), và các vị còn lại được bà gán những là «tiền chiến», là «nhà nho xuống đường», là «giao lưu kim cổ». Thế thì Sáng Tạo «…biết chắc là họ đang nắm thực chất của ‘’văn hóa hiện sinh’’, của ‘’văn minh siêu thực’’» hiểu làm sao được đây ? Hay là vì tôi, người đọc, chậm hiểu. Ừ, để yên lòng cứ cho là thế vậy!

Vậy, nhưng có điều buồn hơn vậy : nhà văn Việt Nam cứ phải dựa vào văn học và tư tưởng mấy vị ở trời Tây mới có chỗ dựa để đánh đổ thế hệ trước ( tức là lấy Tây đánh Ta, nói kiểu tiếu lâm Bắc Hà)? Nếu có thế, quả là bị «thực dân trị» vào máu vào óc, tự ti đến độ giải thích vận động của bản thân văn hóa mình qua văn hóa người ta ( tức Tây!).

Không phải vậy, vì cuối cùng thì chính Thụy Khuê lại tự phản biện : trừ TT Tuyền (theo chủ quan của bà), mấy nhà văn nhóm Sáng Tạo có dựa vào cái gọi là ‘’văn hóa hiện sinh’’ và ‘’văn minh siêu thực’’( sic!)[3] gì đâu. Tôi nhớ có đọc một cuộc phỏng vấn Mai Thảo, trong đó ông nói, Sáng Tạo chẳng có tổ chức, giáo điều, quan niệm, lý thuyết gì cả, hợp thì đi lại, chơi bời, nhẩy đầm, rượu chè với nhau. Thế mới hay : hiện sinh ở ngay trong đời sống, dám là mình ( chữ Thụy Khuê lập lại nhiều lần ) ở cái nghĩa đó, và từ xuất phát điểm sống mà viết, giản dị thế thôi !

2. Lại mới – cũ

Giản dị, mà lại chẳng giản dị, vì Sáng Tạo đã «…thành công trong việc đổi mới văn học Việt Nam …». Vấn đề mới-cũ vẫn đấy! Những con khỉ không có máy computơ với bộ nhớ vô hạn và chịu luật sinh tử như những con người thì không thể khẳng định là không có gì mới, không có gì cũ. Trong văn học, thời gian không phải là thước đo cũ-mới. Hồ xuân Hương , sống khoảng trên 2 thế kỷ trước, vẫn mới, và mới chẳng kém gì Linda mặt ngang, tuy tình tự thì có khác. Cervantes, sống gần 6 trăm năm trước, so với nhiều tác giả hiện đại thì vẫn rất hiện đại, thậm chí có những đoạn văn rất hậu hiện đại. Cũ, là cái nhàm. Nghe (đọc) nhiều lần, tất biết rồi khổ lắm nói (viết) mãi, và chẳng ai bảo là mới, là không nhàm, nhất là người phải nghe (đọc). Và, lô gích nhị nguyên sơ đẳng, không nhàm không cũ là mới.

Nhưng mới ở đâu ? Cấu trúc, ngữ nghĩa ? Hình ảnh, âm thanh, thuộc diện ngoại vật ? Tâm tình, tâm lý, thân phận là phần nội tại ? Ở đâu cũng được. Ở mọi phạm trù, cả nội dung lẫn hình thức, càng hay. Mới-cũ nằm ở cách nhìn. Trong khoa học, rất nhiều thí dụ khá cụ thể. Mời bạn nhìn quả táo Newton rơi khi bạn ngồi một chuyến xe lửa tốc hành rồi tưởng tượng nó đi với tốc độ ánh sáng để ngẫm thuyết tương đối hẹp, chẳng hạn. Trong văn chương, xin bạn hoá thân thành Khuất Nguyên vật vờ bên dòng Mịch La, nghe lão lái đò bảo nước sạch thì giặt giải mũ, nước đục thì rửa chân. Bạn cũng nghe rồi cảm Khuất Nguyên vì bạn đã, hoặc đang, sống cái nỗi đau trong Ly Tao. Nỗi đau không mới, nhưng có đấy, nên lúc nào cũng mới như sự hiện tồn của chính bạn. Mới làm sao hơn thế được nhỉ ? Vì vậy, tính mới-cũ một tác phẩm nằm ngay ở sự cảm nhận của người đọc. Cái mới có thể nằm trong hình thức cái cũ, nhưng mới phải có khả năng truyền đạt để tồn tại, tức là, phải tất yếu. Cái mới tồn tại được là cái mới mở ra chứ không khép lại, có khả năng phóng chiếu vào những chân trời cảm thức và ý thức mới, không sáo mòn, nhàm cũ, cliché, khẩu hiệu.

Ðổi mới với Tự Lực, rồi Sáng Tạo, là tất yếu. Cũng như lời vẫy gọi nhau lên đường của những nhà văn nhà thơ trong Văn Học Việt Nam Hải Ngoại, từ quen miệng nhưng rất đáng ghét. Ðã viết bằng tiếng Việt, thì là văn học Việt Nam , hải ngoại và trong nước là hai tính từ có tính địa lý và chẳng dính dấp gì đến văn học cả.

3. Chặt, không đứt !

Lên đường, nghe mới thôi thúc làm sao! Lên đường đổi mới văn chương, chao ôi, chông gai thế nào ! Thời Tự Lực, những Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam đã làm tiếng Việt trong sáng, thanh tao, hiện đại. Thứ là, họ mang vào văn chương ý thức một xã hội vận chuyển từ cái khung truyền thống đậm đà tính phong kiến đang quá độ lên mức tiểu tư sản thành thị. Thời Sáng Tạo, có khác. Cuộc nội chiến tương tàn đưa con người vào những băn khoăn siêu hình, những khắc khoải thực tế sống nay chết mai, sinh Nam tử Bắc (hay ngược lại)[4]. Họ khó mà lãng mạn kiểu tiền chiến trước thực tại bi thương, đặc biệt, nhà văn Dương Nghiễm Mậu đã để lại một số tác phẩm làm chứng tích một thời kỳ lịch sử đen tối.

Nhưng lên đường thế nào ? Có bắt buộc lên đường là ‘’chặt đứt’’, là đoạn tuyệt với quá khứ không ? Và nếu có, thì quá khứ nào ? Quá khứ văn chương thế giới ? hay quá khứ văn chương Việt Nam ( và chỉ miền Nam thôi sao ?). Ở điểm này, Thụy Khuê rành rọt hơn, kể Nhất Linh khâm phục Tolstoi, Thanh Tâm Tuyền khâm phục Dostoievsky, hai vị này là hai ngôi sao ở hai thái cực trong văn chương nội địa, Nhất Linh viết về những con người bình thường, TTTuyền viết về những con người bất thường, thác loạn (#1, tr 36). Bà kết luận « Tóm lại là không thể có sự chặt đứt với quá khứ, và có muốn chặt đứt cũng không được . Bằng chứng là TT Tuyền muốn chặt đứt với quá khứ tiền chiến, những ông lại phải dựa vào quá khứ thế kỷ XIX, của Nietzsche (1844-1900), của Dostoievsky (1821-1881), của Freud (1856-1933)…để tạo nên con đường tư tưởng của mình »

Thế là hai nhà văn (theo bà là) quan trọng đều có người «bảo lãnh», toàn là những vị tai to mặt lớn trong văn học thế giới. Vậy là không chặt đứt với quá khứ văn chương thế giới ! Và, lại xem, bà viết « Khái Hưng, Nhất Linh,và Thạch Lam vẫn còn tiếp tục ảnh hưởng đến các nhà văn Việt Nam trong hậu bán thế kỷ XX : từ Bình Nguyên Lộc, Võ Phiến đến Doãn Quốc Sĩ, Mai Thảo, Nhật Tiến, Võ Hồng, Duyên Anh…bằng kỹ thuật xây dựng tiểu thuyết, kỹ thuật mô tả, cách phân tích tâm lý, lối nhìn sự vật qua tâm cảm người viết vv…» (#1, tr35). Vậy, tức là không chặt đứt với quá khứ văn chương Việt Nam ! Hai anh lớn ( tức Nhất Linh, TT Tuyền) dựa vào mấy ông lớn mắt xanh mũi lõ, đàn em (tức những nhà văn vừa kể) thì dựa vào hai anh. Tóm lại, nền văn chương của Việt Nam ta là sự dựa dẫm, và những nhà văn nói trên đứng một mình đều không được, lao chao theo cách đi đứng của các vị đàn anh, hoặc đang sống, hoặc đã chết. Chao ôi, đến là đáng thương, viết văn làm gì cho khổ !

Kể đến đoạn này, Thụy Khuê nhắn nhủ « kinh nghiệm này có thể rất hữu ích cho những người viết trẻ hiện nay muốn đổi mới văn học. Trước hết phải tìm cái nền làm điểm tựa ( ngoại trừ những trường phái như hậu hiện đại, phá cấu trúc mà chúng tôi muốn sẽ nói đến ở phần sau) »(#1,tr 36). Bà viết tiếp « …hiển nhiên là đã có một sự chặt đứt với quá khứ rồi …Có hai lý do chính :

- Vì không có phưong tiện tiếp xúc với văn học miền Nam,như trên đã nói, trong nước : sự thiêu hủy sách vở sau 75 chưa khôi phục lại, ngoài nước : vì không muốn tìm đọc….

- Vì thiếu một hệ thống phê bình đứng đắn nên người đọc không biết hướng về đâu để tìm đọc những tác phẩm có giá trị »

4. Ðiểm tựa mới và biện chứng cái bàn.

Sau khi khuyên nhủ những nhà văn trẻ như trên, dĩ nhiên Thụy Khuê đào sâu chuyện «đi tìm một điểm tựa mới» (#1, tr 38). Bà chỉnh lý cho những nhà văn nhà thơ đang Tân Hình Thức hay Hậu Hiện Ðại sáng tác của họ. Về Tân Hình Thức, nhà thơ Khế Iêm đang ở đầu sóng đỉnh gió, với những bài tham luận nghiêm chỉnh trong tạp chí Thơ và trên mạng Talawas. Về Hậu Hiện Ðại, hai vị Nguyễn Hưng Quốc[5] và Hoàng Ngọc Tuấn đứng mũi chịu sào từ nhiều năm qua, trên tờ Việt, một tờ báo lấp được đôi phần « chốn vắng tư duy », chữ Trần Vũ bịa, trong Trang Tôn Kinh đã dẫn. Về phần Hoàng Ngọc Tuấn, biên khảo Văn Học Hiện Ðại và Hậu Hiện Ðại qua Thực Tiễn Sáng Tác và Góc Nhìn Lý Thuyết [6] rất đồ sộ, công phu, và mang lại rất nhiều kiến thức cho những người sáng tác. Riêng HN Tuấn, ông còn sáng tác[7], chứng tỏ phê bình và lý luận văn học không chỉ suông, mà có thực tiễn. Những vị Khế Iêm, HN Tuấn, N H Quốc này có thẩm quyền để thảo luận với Thụy Khuê, vì thế tôi xin được miễn dịch.

Nhưng ngoài Tân Hình Thức và Hậu Hiện Ðại, Thụy Khuê bàn thêm về hiện tượng «sinh dục hóa thơ văn » đề cập trong Trang tôn kinh của Trần Vũ. Dù không ai khác hơn là nhà thơ Ðỗ Kh đẻ ra cô Linda mặt ngang có thể vui miệng tranh cãi (nếu đáng), ở khuôn khổ bài viết ngắn này cho đôi hàng đề cập đến « biện chứng của cái bàn và cái lá đa» trong cặp đối kháng thanh-tục của ngôn ngữ.

Thụy Khuê hỏi và trả lời[8] :

«Những tiếng nôm na để chỉ bộ phận sinh dục có phải là những tiếng «thật» nhất không ? Trong đời sống hàng ngày, trong đời sống sinh lý, trong đời sống nội tâm…bạn có dùng những tiếng ấy để nói chuyện với mình, với đối tác (partenariat)[9] hay không ? Chắc là không….Tại sao ?

1-Câu trả lời đầu tiên : bởi vì nó «tục» quá…( bà dài dòng kể cửa mình là l…, chim là c…, hai loại sau chỉ dùng trong lời chửi, văng tục…)

2-Nhưng nhìn sâu hơn và một cách toàn diện hơn : những tiếng tục hay không tục cũng chỉ là những tên gọi. Nói chung, với tất cả các loại tên gọi, tiếng nôm âm hưởng bình dân, tiếng Hán Việt âm hưởng lịch sự có học, nhưng cả hai đều là ký hiệu của ngôn ngữ, nó không có giá trị gì đối với thực chất đối tượng mà nó chỉ định[10] : Khi bạn nhìn hoặc nghĩ đến cái bàn, bạn không ‘’gọi’’ nó là cái bàn hay án thư nữa mà bạn nhìn và nghĩ về nó như một thực thể; dùng để ăn cơm, dùng để đánh bài, để ngồi viết…, hoặc là một mặt phẳng bằng gỗ, có bốn chân…, hoặc nó làm bằng gỗ lim, gỗ giổi vv…, tùy theo cái ‘’ý’’ của bạn, muốn ‘’lợi dụng’’ nó vào việc gì, hoặc muốn mua , bán nó. Y hệt như vậy, khi bạn nghĩ đến bộ phận sinh dục của bạn, hoặc của người partenaire (đối tác)[11], bạn cũng không ‘’gọi’’ nó là cái này, cái kia, mà bạn chỉ nghĩ đến thực chất của nó, sẽ đem lại những cảm giác, lạc thú …gì cho bạn. Vấn đề tên gọi các bộ phận sinh dục bằng tiếng nôm hay tiếng Hán Việt trong những hoàn cảnh intime[12] nhất, cũng không đặt ra, bởi chúng chỉ là những tên gọi…»

3-…

4-…

Thưa vâng, cái lúc hoàn cảnh intime ấy… thì quả chẳng ai đặt vấn đề gì , nôm hay Hán Việt thế nào cũng «thích» cả ! Ðến đây, nếu bạn đọc chưa đủ mệt, xin thư giãn bằng cách hoán đổi cái bàn bằng cái l…, cái c…, và từ nghiêm trang án thư bằng từ Hán Việt âm hưởng lịch sự có học ( chữ Thụy Khuê) là âm hộ, dương vật. Rồi tùy hứng, bạn thay thế dùng để…này nọ vân vân … thế nào cho hợp nghĩa và thật vui là bạn có thể có một trận cười vô tư miễn phí. Quả thật ứng dụng Ngôn Ngữ lý thuyết vào Chủ Nghĩa Thực Dụng cái bàn để ngồi, cái l…để…là một bước nhẩy vọt của trí tuệ.

Thế cái lá đa trong quá trình biện chứng nói trên là chi ? À, cái lá đa và Hang Cắc Cớ của bà Hồ Xuân Hương là một. Hãy hỏi người yêu, em ơi, vào hang nhé. Người yêu hiểu ngay, dẫu chưa được đọc lý luận văn học, nhỏ nhẻ …vươn vai một cái rồi ta lại vào, nhé anh nhé ! Thích thật, sự đời như cái lá đa mà, có ai nói nó là cái gì khác đâu, nó là nó, nó chỉ định nó, có sao mà rầy rà nhau quá chừng vậy !

4. Con đường nào để sáng tạo ?



Nhưng bỏ qua tiểu tiết, vẫy gọi nhau vào đoạn V, mà Con đường nào để sáng tạo? là tiêu đề. Thụy Khuê đặt vấn đề : « …người sáng tác choáng váng trước quá nhiều tên các lý thuyết được trình làng, bị bắt buộc phải đổi mới. Họ không còn cái tự nhiên, muốn viết gì thì viết nữa, sa vào mặc cảm sợ bị chê, phải viết cái mới,nhưng chưa biết cái mớí là cái gì. Làm thế nào để thành mới ? »(#1, tr 44).


Làm thế nào để thành mới ? Câu hỏi cốt tử này, Thụy Khuê sẽ chỉ cho chúng ta con đường ra khỏi tháp Babylon, trong cái hội chứng Trần Vũ đặt tên, và nhiếc[13], trong lẫn ngoài nước, nhà văn Việt Nam thường đứng bến ăn vịt lộn uống bia Trung Quốc, bia Heinenken, ngắm nghía trầm trồ từ bãi giữ xe. Kẻ vào tháp, đi thang máy cho đỡ nhọc, chọn tầng tháp hợp tạng, nhưng ngấp nghé ở hành lang, chụp hình, mua cạc-pốt-tan rồi về kể cho nhau, thì « chúng nó » có hơn gì ta đâu !

Thụy Khuê kêu : « Trước những hoang mang đó, nhiều người viết văn trẻ (ở trong nước nước và Ðông Âu) quay lại với những thần tượng…Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài…Ở Phạm Thị Hoài, (họ) chỉ bắt được giọng ’’đanh đá’’( xin lỗi Hoài), ở Nguyễn Huy Thiệp là sự ‘’cộc lốc ‘’, nhưng ít ai….». Ðúng , đừng bắt chước. Ðiều này đúng quá. Nhưng tôi lại chạnh nghĩ đến những Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh, Phan Huyền Thư, Bùi Hoằng Vị…trong nước. Rồi tôi nghĩ đến Phạm Hải Anh, Trần Hoài Văn, Lê Minh Hà…ở Ðông Âu. Tôi có thấy họ đi bắt chước ai đâu ?

Nhưng thôi, xét trường hợp sau là Nguyễn Bình Phương, tác giả Trí Nhớ Suy Tàn, và Trần Vũ. Cả hai bị mang cái án trường phái Châu Mỹ La Tinh, với «…thần tượng Marquez, hiện thực huyền ảo, nhà văn của những nước nhược tiểu nói chung, của châu Mỹ La Tinh nói riêng ». Marquez được ai phong là nhà văn của những nước nhược tiểu ? Còn châu Mỹ La Tinh, chẳng nhẽ họ chỉ nhớ Marquez mà quên Borges, Neruda, Fuente, Cortazar và … vân vân cũng thêm được 1, 2 cái giải Nobel khác. Không, Thụy Khuê chắc có ý vạch rõ NB Phương thuộc một quốc gia nhược tiểu, còn Trần Vũ thì gốc là một quốc gia nhược tiểu. Ðiều đó cũng đúng, họ đều viết văn bằng tiếng Việt, và không Thụy Khuê nói thì ai cũng biết. Thế thì bà dùng từ nhược tiểu có lẽ ngầm bảo chót sinh ra ở đấy thì mặc cảm tự ti dẫn đến bắt chước là lẽ tất nhiên ?

Ðiều sau mới…là một phát hiện văn học. Thụy Khuê tiếp « Nhưng ít người thành công trong điïa hạt này, bởi những nước Châu Mỹ LaTinh có một lịch sử khác với nước Việt : cái khốc liệt của họ không giống cái khốc liệt của Việt Nam ». Thế có nghĩa gì ? Có phải cứ mỗi một nền lịch sử là chỉ có một nền văn học tương ứng ? Văn học và lịch sử khốc liệt là một ? Bởi lẽ những con người trong mỗi cái lịch sử khốc liệt đó biến tính đến độ hoàn toàn dị biệt không có cái mẫu số chung nhân tính ? Người Nga hẳn có một lịch sử khác với người Việt mà sao Nhất Linh bị ảnh hưởng của Tolstoi, TT Tuyền của Dostoievsky (và sau thêm Balzac với Freud, kẻ Pháp, người Ðức), thì Thụy Khuê đánh giá là thành công ? Cả Nguyễn Bình Phương lẫn Trần Vũ theo trường phái gì đó bắt chước thần tượng Marquez, hóa ra cũng lại là những nhà văn « dựa dẫm », cứ như Nhất Linh và TT Tuyền khi xưa, nhưng ở điạ hạt ít người thành công là sao ? Và vì sao ? Tôi đọc Trí Nhớ Suy Tàn mà tôi chẳng thấy Mạckét Mạckếch gì cả, lại lờ mờ âm ba kiểu Tân Tiểu Thuyết. Tôi đọc Cái Chết sau Quá Khứ, thì văn Trần Vũ có tí chút hơi hướm ông Mạc két, nhưng lại có pha cả các ông khác, kể cả ông NH Thiệp, ông Nguyễn Tuân, và…rồi nhúng lẩu hóa ra văn Trần Vũ, khó gắn cho một cái nhãn hiệu trình toà này nọ.

5. Tác giả và văn bản

Mượn lời Nietzsche (và Thạch Lam ?), Thụy Khuê nhắn nhủ những nhà văn trẻ, mình hãy «dám là mình». Nietzsche gào lên như vậy để báo Thượng Ðế đã chết trong triết học và kêu gọi sự ra đời con người chủ thể.

Mình «dám là mình»? Có phải Thụy Khuê muốn bắt nhịp cầu nối những nhà văn trẻ với thế hệ Sáng Tạo của nền đệ nhất và đệ nhị Cộng Hòa miền Nam khi xưa mà bà kể thành tựu ( từ trang 17 đến 33, tức 16 trang trong bài viết 34 trang của bà) ? Dám là mình không có nghĩa là ‘’chặt đứt’’ ’’đoạn tuyệt’’ gì với quá khứ. Vì đã xử dụng chung một ngôn ngữ và có chung một văn hóa, có muốn thì ‘’chặt đứt’’ ’’đoạn tuyệt’’ cũng chả được. Nhưng không ‘’chặt đứt’’ ’’đoạn tuyệt’’ không đồng nghĩa là quay về với quá khứ . Ðặt một vấn đề cốt tử trong sáng tác với những người viết trẻ đương đại sau khi tuyên dương 8 nhà văn thành công nổi tiếng, ai cũng có thể có cảm tưởng là Thụy Khuê chẳng cổ vũ gì cái chuyện «lên đường» hay «đổi mới» trong văn học, mà ngược lại, chỉ ra một hướng «về nguồn». Quay về quá khứ thời Sáng Tạo như mẫu mực, tha hồ chúng ta sẽ có những phó bản của TT Tuyền, Mai Thảo, rồi cả Bình Nguyên Lộc, Nhật Tiến…Tương lai văn học Việt Nam chẳng lẽ là một sự nhai lại có ‘’ý thức’’ à ? Tôi hy vọng là không bao giờ Thụy Khuê lại nghĩ như vậy ! Thụy Khuê thừa kiến thức và bản lãnh để chia sẻ những ưu tư sáng tạo, tính phiêu lưu của sáng tác, và sự cần thiết có một nền văn chương mở và hội nhập với thế giới. Ðóng một hệ thống, dù là vật lý, sinh thái, hay thông tin (tức văn hóa), sẽ không bao giờ thoát được qui luật Nhiệt Ðộng Học, entropy tăng, đưa hệ thống đến ù lì, chai cứng và cuối cùng là sự chết. Thụy Khuê vạch cho ta thấy Tự Lực từng đổi mới, Sáng Tạo từng đổi mới, và thành công đưa văn học lên đường. Khi bà kể kinh nghiệm tiếp cận của Nhất Linh và Thanh Tâm Tuyền với văn chương Nga, Pháp, chẳng phải bà đã nghiêm túc nhắc những người viết là muốn đổi mới thì ắt cần tiếp cận, giao thoa và cộng hưởng với thế giới văn hoá bên ngoài sao !

Thượng Ðế chết, rồi Con Người ( chủ thể) chết, sau này Tác giả cũng chết nốt. Quả thế kỷ vừa qua có nhiều tang ma (chưa kể hai trận Thế Chiến có những cái chết sinh vật của nhiều con người). Cho đếùn đoạn này là đoạn kết, tôi đã hành xử kiểu hiện đại lạnh : tác giả chết - chỉ còn văn bản. Tôi chỉ tập trung vào văn bảnnhư đối tượng phân tích, và đặt những câu hỏi tôi chưa hiểu, hoặc tôi chưa thấy có câu trả lời thỏa đáng, và quên hẳn tác giả. Ðó là trí, là lý, tức chỉ là một quan năng. Còn tâm ? Tác giả văn bản vẫn đó, và là một người có uy tín, có đóng góp vào văn học hải ngoại qua những bài nhận định, phân loại, và phê bình được đánh giá. Lòng quí mến bà không cho phép tôi ngoa ngôn, vì tôi tin rằng chúng ta có thể ngộ nhận nếu chỉ ngừng ở mức văn bản mà quên đi đằng sau còn tác giả. Và nếu hiểu văn bản, không chỉ qua văn bản, mà qua tiếp cận con người tác giả, tôi đoan chắc rằng Thụy Khuê sẽ cùng thế hệ «lên đường» góp tay vào một nền văn học đang cần chuyển dạ để sinh sôi những mầm mới, rất bức thiết, bởi nó chính là sự sống còn.

Nhà văn đang tồn tại, còn viết, thì dám là mình là dám thế nào ? Dựa dẫm, tìm á thánh, phong Thành hoàng, rồi xì xụp một đời vong thân tha hóa? Không ! Bắt chước, và «giả cách hàn lâm» không tạo ra nhà văn, nhưng có khả năng biến người mọc đuôi thành khỉ. Con khỉ đó không phải là con khỉ bất tử, có computơ với bộ nhớ vô hạn, và một lượng chuối ăn đến ngày tận thế cũng chưa hết, nên cũng như chúng ta, không thể ‘‘vô tư ’’ gõ phím máy chờ cho ngẫu nhiên sinh ra tác phẩm. ý thức cái hữu hạn của đời sống, tôi khiêm tốn cố tìm cho mình những lối ít lầy vết chân, trong sự nỗ lực lên đường đi tìm cái mới, như một tất yếu của cuộc tồn sinh nói chung, của văn chương ngữ nghĩa nói riêng.

Dám là mình, là dám gõ phím máy, không có Thành hoàng để van vái cầu xin «bảo lãnh» và «thế chấp» văn chương. Và chỉ có trí tuệ và cảm thức trong nỗi cô đơn người viết nào cũng thông cảm. Tác phẩm, nếu có, cũng như một ánh sao rơi, mong manh thật, nhưng sẽ để chút dấu vết. Vì không có gì thực sự sinh ra, không có gì thực sự mất đi, như qui luật bất biến ràng buộc vật chất.

Sáng tạo là đi dây chăng giữa hai đầu, đầu-vào : mồ hôi lao động viết, đầu-ra : ẩn số chênh vênh. Xin đừng vừa ăn chuối vừa đi dây, khỉ cũng như người làm xiếc chữ, nhà văn cũng như nhà phê bình. Bởi hụt chân, dưới kia là vực sâu thăm thẳm.

NAM DAO

*
Bình thường trong thảo luận có tự do, bài viết này lẽ ra phải đi trên Hợp Lưu, nên với biên khảo #1 dưới đây, số trang là số của nguyên bản Hợp Lưu 68, có thể gây chút khó khăn cho bạn đọc trên diễn đàn Talawas, mong bạn lượng thứ vậy.
[1] #1, Hợp Lưu 68, tháng 12-2002, tr 14-48.
[2] Ðây mới là mâu thuẫn 1 trong lý luận.
[3] Phải nói, cụm từ này « đắt» thật, nhưng có ý nghĩa gì thì xin chịu. Hiểm nguy «nói chữ» là có thật chứ không siêu thực !
[4]
Không thể không nhắc đến đoạn Thụy Khuê so hận thù châu Mỹ LaTinh với hận thù Việt Nam. Bà viết «…sự hận thù của người Việt chỉ ở «ngoài da», Nguyễn Hoàng và Trịnh Kiểm là anh em cột chèo (Ngọc Bảo, chị Nguyễn Hoàng, là vợ Trịnh Kiểm), như anh em Nhật Tiến-Nhật Tuấn, kẻ Nam người Bắc. Do đó, sự thù hận của dân tộc Việt Nam , là thù hận trong tình ruột thịt (sic!), có thù hận mà có nương tay »(#1,tr 45). Vâng , nương nhẹ lắm, cuộc chiến kết thúc năm 75 tổng kết là có gần 4 triệu tử vong, 6 triệu thương vong, không kể số người chết trên biển cả trong những cuộc vượt biên, ước lượng khoảng 3-4 trăm nghìn người. Thôi, cứ cho là 4 triệu, và thế là có 8 triệu những cánh tay khẳng khiu quờ quạng níu Thụy Khuê kêu, may thật, hận thù «ngoài da» nương tay nên thế, chứ hận thù «trong ruột» xuống tay (như bọn Mỹ Latinh ?) thì chắc chí ít là họ phải chết bao nhiêu lần rồi…Dài dòng ở đây, tôi chỉ mong sao những ai đó sống và viết lách cho có trách nhiệm và có tình người với những kẻ đã nằm xuống trong cái cuộc hận thù khó lòng mà đánh giá là «ngoài da» ấy.

[5]
Xin tham khảo Việt, #7, 2001, về chủ đề Chủ Nghĩa Hậu Hiện Ðại và Văn Học Việt Nam .
[6] Nhà XB Văn Nghệ, 2002, California, Hoa Kỳ
[7] Bên Kia Khung Kính, Việt, #5, 2000.
[8] (#1,tr 42-43)
[9] Ðối tác (partenariat) : tiếng Việt Nam đang Hán hóa, lại được hiệu đính bằng tiếng Pháp, cho rõ nghĩa ! Tôi hiểu là người tình, người yêu, hay nếu không có tình yêu thì tôi gọi đối tác là…ô tục quá, thôi !
[10] Chắc Thụy Khuê đang dùng khái niệm signifiant - signifié trong Ngôn Ngữ học đây ! Không, đoạn này có vẻ là một đoạn của Sartre được ứng dụng tinh tế với ngôn ngữ Việt chăng ? Tôi chịu !
[11] Xem phụ chú 9.
[12] Từ tiếng ngoại này có nghĩa là thân gần, thân mật, theo từ điển bỏ túi Pháp Việt của Ðào Ðăng Vĩ ?
[13] Chỗ này, tôi hư cấu theo trí nhớ đây, vì ngại phải trích dẫn kiểu hàn lâm tỉ mủn.

Những Ðiều Giản Dị

Có những dòng thư viết cho một người
ở rất xa
ngoài tôi
ngoài nỗi buồn
bên cạnh đêm

Có những cái nhìn sững chiếc lá rơi
không một tiếng rên khi chạm vào mặt đường
lá chỉ là lá
ngoài tôi

Có những con sẻ loanh quanh đùa chơi
kiễng chân trống mái
dùi dụi cánh lông
ngoài tôi

Có những ánh mắt vương theo sợi khói
mái nhà người mái nhà ai
lửa ấm
ngoài tôi

Có những đóa hoa nở trong bóng tối
mặc mùa đông
mặt trời chết ba giờ chiều
rưng cánh mở
nỗi sống mời
ngoài tôi

Có một ngọn đèn bên thềm hiên
đổ bóng người
đón ai về đó
câu bình an nơi ngưỡng cửa
ngoài tôi

Có những khi tôi hỏi
làm sao vào sự sống
làm sao ra khỏi tôi
ra khỏi buổi chiều sớm mai đêm tối
ra khỏi sự bạc trắng và sẫm đen
bất tín và biệt tích

Có một câu trả lời
hãy chăm chú dõi theo một điều gì trước mắt
dù chỉ là
chiếc lá rơi xuống mặt đường
con chim nhảy trên vuông gạch
làn khói cuộn từ nóc nhà
cánh hoa bay theo ngọn gió
ánh đèn sáng bên thềm cửa

Những điều thật giản dị
ở ngoài nỗi đau
ngoài tôi
để một phút một giờ một ngày
tập sống


Mai Ninh