Thứ Sáu, 6 tháng 9, 2013

Biện pháp nào là chìa khóa chống tham nhũng ở Việt Nam?


Một xã hội trong sạch, lành mạnh là một xã hội mà về cơ bản, trên thực tế khi người ta làm việc tốt thì sẽ được điều tốt. Làm việc xấu sẽ bị điều xấu. Trong khi đó, xã hội nước mình hiện nay kẻ tham nhũng thì được lợi, còn người chống tham nhũng hoặc không tham nhũng thì không được lợi, nhiều khi còn bị bất lợi.

Như vậy là cái xã hội đó, cái môi trường đó thực chất đang
khuyến khích cái xấu, cái gian, thúc đẩy cái xấu xa, cái gian lận, cái hắc ám lên ngôi, và mở rộng, phát tán, phát triển những cái tiêu cực đen tối đó. Đương nhiên xã hội không ai cố tình muốn "khuyến khích" như vậy, nhưng những cái đó nó lây lan phát triển nhờ sự "vô minh", tính tham lam, cầu an, an phận, nhu nhược, mềm yếu của con người chung quanh, cam chịu "sống chung với lũ" hay nói đúng hơn là "trơ mắt ngó lũ kéo tới cuốn phăng nhà mình".

Các công ty nhà nước bao nhiêu gã "đòi ăn" mới chịu ký hợp đồng, từ các đàm phán, giao dịch, ký kết mướn nhà cho tới đặt hàng, mua máy móc, vật liệu, vật tư. Có những gã ngang nhiên ngồi trước ảnh Bác ngay trong phòng đàm phán bao nhiêu người, thẻ Đảng trong túi quần, bắt phone nói chuyện với gái hoặc với đệ tử sắp đặt gái phục vụ ngay trong đàm phán. Bao nhiêu công ty, cơ quan có cả một băng nhóm, đường dây tham nhũng, sơ múi, chấm mút, chôm chĩa tiền dân do nhà nước quản lý. Những thái độ, phong cách, tư cách, nhân phẩm đó là của một "công bộc nhân dân" hay là của một tên ma cô, mafia?


Chủ đề chống tham nhũng, chống tiêu cực này thì có rất nhiều vấn đề để nói, nhưng trước hết thử xét đến khái niệm đầu tiên và cách tiếp cận đầu tiên về khái niệm "tham nhũng". Lâu nay chúng ta có nhận thức đúng về nó hay không? "Tham nhũng" tiếng Anh là "corruption", nghĩa trong các tự điển dịch một cách máy móc thì corruption chính là tham nhũng, song dịch sát nghĩa theo cách hiểu của người dân Mỹ, thì corruption phải dịch là "tha hóa" thì chuẩn xác hơn.


Như vậy khái niệm của ta là
chống tham nhũng, còn khái niệm của người phương Tây là chống tha hóa. Nghĩa là ta quan tâm đến chống một hành động. Còn họ thì quan tâm đến chống một căn bệnh.

Khi chúng ta quan niệm chống một "hành động", chống hành động tham nhũng, thì cũng như cắt cái ngọn vậy. Dẹp bỏ được hành động lần này thì kẻ xấu vẫn sẽ hành động lần khác. Còn khi quan niệm chống một "căn bệnh", chống căn bệnh tha hóa, thì chúng ta sẽ buộc phải quan tâm hơn về việc làm sao trị tận gốc, sạch gốc, quan tâm đến cái nguồn gốc, cái nguyên nhân phát sinh tiêu cực. Có lẽ nhờ có nhận thức và hướng tiếp cận ban đầu chuẩn hơn như vậy nên một số nước chống tham nhũng, chống tha hóa, chống tiêu cực tốt hơn Việt Nam mình. Trong khi chúng ta loay hoay lo phạt người, lên án hành động, thì họ lo xây dựng cái nền tảng để tiêu cực khó phát sinh.


Bài viết này không bàn về việc trị cái ngọn, mà chủ yếu bàn về việc trị cái gốc, cái gốc của tiêu cực, tha hóa, cái nguồn gốc tiêu cực. Vậy làm sao để trị cái gốc rễ của tha hóa, tiêu cực?


Lâu nay đã có nhiều bài viết với rất nhiều vấn đề được đưa ra về đề tài này. Trong bài viết này, mình loại bỏ những vấn đề râu ria mà tập trung vào những vấn đề quan trọng nhất.


Vấn đề tuyển dụng và con người là vấn đề chính và quan trọng nhất. Cần tìm ra cơ chế, cách thức nào đó để trói buộc trách nhiệm và thúc ép những người có trách nhiệm phải chọn người hiền tài vào bộ máy, đồng thời loại bỏ ra dần những kẻ làm hỏng bộ máy, những kẻ làm mất uy tín, gây tai tiếng cho tập thể, làm trì trệ hệ thống, gây mất lòng tin nơi nhân dân.


Nhiều ông tuyên giáo và chính phủ bảo phải có niềm tin. Cái này đúng, nhưng đó phải là niềm tin tự giác và tự nhiên, chính đáng và hợp tình hợp lý, thì nó mới đúng, mới lành mạnh và bền. Chứ đương không làm sao cố gắng tin một cách duy ý chí được?


Một số lãnh đạo phát biểu trên báo chí hoặc trả lời phỏng vấn báo chí hay nói suông, nói khơi khơi, nói chung chung rằng phải có niềm tin, rằng cứ tin đi, nhiều khi nghe thấy tình cảm lắm nhưng nghĩ lại thì lại thấy không đúng. Lòng tin là phải xuất phát từ cái gì đó có thật, cái gì đó hợp tình hợp lý, từ sự tai nghe mắt thấy của dân, từ sự chứng kiến của người dân, phải có lý do để người ta tin, chứ còn bảo tin từ không khí thì làm sao mà tin?


Vấn đề phát biểu, trả lời phỏng vấn báo chí, quan hệ công chúng, là rất quan trọng, ông muốn dân tin ông thì ông phải làm cho tốt, hay ít nhất là ông nên nói gì đó cụ thể một chút, đương nhiên nhiều cái chưa thể tiết lộ ngay được nhưng cũng hé lộ ra cái gì đó có thể nói được, ví dụ như công việc tiến triển ra sao, đại khái là đến đâu, các ông định làm gì, hướng giải quyết của các ông là gì và đại khái sẽ dự tính làm như thế nào, khoảng bao nhiêu "con sâu" bị bắt rồi, về cơ bản các ông đã làm được những gì, dự định sắp tới các ông sẽ làm gì, làm như thế nào, cách làm căn bản là gì, nguyên tắc, quan niệm của ông về cách làm là gì v.v.


Nên cụ thể một chút. Ít ra nên nói, nên trả lời cụ thể rõ ràng chi tiết hơn nữa thì người dân còn có chút cơ sở để mà tin. Rằng à, cách này có vẻ hay, hướng đi có thể được, ông này hiểu biết vấn đề, ông này nắm vững ông ta đang ở đâu, ông này biết phải làm gì, dù chưa thấy hiệu quả tức thời nhưng ít ra người dân cần tin là ông biết cách làm, ông rõ ràng có suy nghĩ đau đầu, bỏ công bỏ sức bỏ thời gian ra vì vấn đề này, vì việc dân, việc nước, vì công cuộc chống tham nhũng.


Nhiều lúc thấy trên báo, bao nhiêu lãnh đạo phát ngôn rất chung chung, mơ hồ không rõ ràng, duy ý chí, kêu gọi suông và một chiều (ví dụ "người dân hãy nhập cuộc giúp chúng tôi tố giác tham nhũng"), họ đơn giản là nói đi nói lại những "lời hay ý đẹp" trong sách, hay những người tiền nhiệm đã nói, hay những lời hay ý đẹp trong dân gian hay những người nổi tiếng, những lãnh đạo có uy tín đã nói, lặp lại các câu nói của Bác Hồ....


Họ nói lại những câu nói nổi tiếng, những câu nói mà người dân đã thuộc nằm lòng, đã nghe nhiều rồi. Họ nói lại những khái niệm, những vấn đề mà người dân đã biết. Người dân cần ông nói những cái gì họ chưa biết, chứ ông nói lại những cái họ đã biết để làm gì?


Xưa nay Việt Nam mình không thiếu những lãnh tụ, những nhà lãnh đạo vừa thành thật quan tâm đến lòng dân, đến niềm tin của dân, thành thật nói cụ thể, nói chi tiết những cái có thể nói được cho dân, đồng thời khéo léo giữ lại những bí mật thật sự là bí mật và thật tình chưa thể nói ra được.


Những cái chưa tiết lộ được thường là những cái thật sự liên quan đến an ninh quốc phòng, đến quân sự, chính trị vĩ mô, chính trị cấp cao, ngoại giao v.v. Chứ không phải cái gì cũng hô là "bí mật quốc gia". Nếu hễ cái gì động đến cá nhân ông hay lợi ích nhóm của ông thì ông hô là "bí mật", "tối mật" rồi không cho nhà báo phóng viên người ta làm việc. Vậy thì làm thế nào để chống tham nhũng có tiến triển?


Những lãnh tụ, nhà lãnh đạo tốt mà thường xuyên nói chuyện cụ thể, sâu sát với dân, không chung chung, không sáo rỗng là những lãnh đạo như chủ tịch Hồ Chí Minh, ông Lê Duẩn, về quân sự thì có Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh.


Ngày nay, có ông Nguyễn Bá Thanh, Nguyễn Sự, và đôi khi là ông Nguyễn Phú Trọng, về Biển Đông và quốc phòng, quân sự thì có ông Nguyễn Chí Vịnh, là những người có ít nhiều gì nói cụ thể, trả lời cụ thể khá thẳng thắn đúng vào chính đề, ít vòng vo Tam Quốc, ít nói xa nói gần, không nói chuyện quá chung chung, gây mơ hồ, mù mờ cho người nghe, người đọc. Khi người dân nghe những lời nói vừa trí tuệ vừa tâm huyết của những người đó, cho thấy họ nắm vững thông tin, quả thật biết nhiều về chuyên môn của họ, về trách nhiệm họ được giao, thì người dân ít nhiều gì cũng yên tâm, an lòng, có lòng tin hơn.


Chứ nếu cứ nói chung chung, lặp lại những gì mà người dân đã nghe đã biết, cứ lạm dụng các "lời hay ý đẹp", lời của người xưa, loanh quanh vòng vo mà không đi thẳng được vào vấn đề, thì không thể đem tới niềm tin cho dân và càng không thể kêu gọi suông được.


Niềm tin không phải là vật mà có thể lấy từ trong túi ra. Đây là quan hệ nhân - quả. Niềm tin là một hệ quả, là một hiệu quả. Muốn có cái "quả" niềm tin thì cái "nhân" phải như thế nào? Muốn có cái "hệ quả", "hiệu quả" niềm tin thì phải có cái "nguyên nhân" chứ? Chứ chẳng lẽ niềm tin có thể lấy ra được từ không khí?


Đúng là người dân có thể tin vào Đảng từ kết quả của hai cuộc kháng chiến. Nhưng thời gian càng lùi xa, những thế hệ tuyệt vời đó bây giờ hầu hết đều đã cao tuổi, về hưu, hoặc một số người đã thay đổi, biến chất, tha hóa, tự diễn biến.


Nên bây giờ người dân chủ yếu là tin vào kết quả hiện tại chính trị xã hội kinh tế như thế nào. Chứ khó thể nào mà hoàn toàn tin vào những cán bộ đảng viên, lãnh đạo ngày nay, trong nền kinh tế thị trường hiện tại, mà chỉ dựa vào kết quả thành công của thời chiến tranh hồi xưa, mà phần lớn là nhờ sự đóng góp chung của nhân dân và của những lãnh đạo khác mà nay đã về hưu.


Mà ngay cả thời kháng chiến, ví dụ như thời chống Mỹ thì người dân tin Đảng là vì quả thật Đảng lãnh đạo kháng chiến có hiệu quả. Chứ đâu phải người dân lúc đó tin Đảng vì Đảng lãnh đạo chống Pháp thành công? Trong kháng chiến chống Pháp, người dân tin Việt Minh là vì Việt Minh chống Pháp có hiệu quả ngay lúc đó, chứ đâu phải người dân hoàn toàn tin Việt Minh chỉ vì VM thực hiện Cách mạng tháng Tám thành công? Người ta tin là vì quả thật các lãnh đạo gương mẫu, và công cuộc kháng chiến - kiến quốc có hiệu quả thấy được.


Ngày xưa dân mình tin lãnh đạo, tin Đảng là vì quả thật Đảng đánh Pháp, đánh Mỹ có hiệu quả. Chứ nếu nằm nhà mà hô hào "tôi chống Pháp", "tôi chống Mỹ" thì ai mà tin được? Ví dụ: Thời Pháp thuộc, có cả chục lực lượng, tổ chức, hội kín, đảng phái, giáo phái tự xưng là chống Pháp, họ nằm nhà hô hào chống Pháp, hoặc họ chiếm cứ một số vùng đất ly khai cát cứ, thu thuế của dân địa phương rồi hưởng lạc như một lãnh chúa, quân phiệt, rồi gọi đó là "chống Pháp". Vậy rốt cuộc người dân có tin theo họ không? Người dân khi đó chỉ tin theo cụ Hồ, Đảng, Việt Minh, vì những người cộng sản này mới là đánh Tây thật, và đánh có hiệu quả.


Mình trích dẫn chuyện xưa chuyện nay như vậy là để khẳng định quan điểm: Niềm tin phải xuất phát từ hiệu quả thực tế, từ những trải nghiệm, kinh lịch, chứng kiến thực tế. Chứ không thể nào xuất phát từ những kêu gọi suông, những lời nói hoa mỹ dù nghe hay đến cỡ nào, càng không thể xuất phát từ không khí. Nếu ông không nói những gì thực tế mà có tác dụng
cập nhật thông tin cho dân thì lời nói của ông không có tác dụng gì cả, không đem lại cái gì cả. Và người dân, cử tri, cũng như các đại biểu Quốc hội không tin được vào những lời nói đó.

Đó là nói về việc "lời nói phải cụ thể" thôi, chứ thật ra lời nói cụ thể thì vẫn phải đi đôi với việc làm, và việc làm đưa tới hiệu quả. Nhận thức đúng tới hành động đúng, hành động đúng tới kết quả tốt. Lời nói đi đôi với việc làm, việc làm đưa đến hiệu quả. Thì người dân không muốn tin cũng không được. Thì những lời xuyên tạc, bịa đặt, bóp méo của các thế lực phản động, chống phá, Diễn biến hòa bình, tự nhiên sẽ trở thành vô nghĩa, vô giá trị, trở thành trò hề trước mắt người dân.


Niềm tin gượng ép chỉ làm cho tất cả trở thành chủ quan, hoang tưởng và duy ý chí, thậm chí dần biến thành giả dối và tự lừa dối bản thân, dối gạt lẫn nhau, không còn cái gì là logic khách quan, không còn cái gì là trung thực. Những điều đó sẽ dần tạo ra một bầu không khí bất tín nhiệm lẫn nhau, không còn ai tin ai, và nó mới là phá hoại niềm tin một cách dữ dội nhất.


Cần có cơ chế để thúc ép, thúc đẩy, áp lực những người có trách nhiệm tuyển dụng hiền tài vào làm việc, khiến cho họ không thể, không dám để mất những cán bộ vừa hồng vừa chuyên.


Trước hết cần nhấn mạnh rõ một điều để tránh mơ hồ. Đó là những tiêu chuẩn cơ bản về sử dụng hiền tài, về thuật dùng người mà ông bà ta thời xưa và các tiền bối cách mạng truyền lại đến ngày nay là
còn nguyên giá trị.

Công tác tuyển dụng, cán bộ, nhân sự của chúng ta ngày nay bê bối, tha hóa, tệ hại là do hầu hết mọi người
không làm đúng theo lời cha ông, cha anh, chứ không phải các chuẩn mực từ xưa truyền lại là "lỗi thời", "lạc hậu".

Các tiêu chuẩn cơ bản như đức - tài phải đi đôi, lấy đạo đức làm nền tảng, hồng và chuyên, đều là những tiêu chuẩn hợp tình hợp lý và phù hợp với văn hóa, con người và thực tiễn Việt Nam.


Danh thần của vua Lê Thánh Tông là ông Thân Nhân Trung đã viết lên câu nổi tiếng lưu truyền hậu thế, đó là câu: "Hiền tài là nguyên khí quốc gia" ("Hiền tài quốc gia chi nguyên khí"). Lưu ý danh thần Thân Nhân Trung không nói "nhân tài" hay "người tài" là nguyên khí quốc gia. Mà "hiền tài" mới chính là nguyên khí quốc gia.


Ngay cả Mỹ và các nước phương Tây vốn có văn hóa khác và đôi khi còn trái ngược với văn hóa Á Đông, mà họ vẫn có môn Đạo đức kinh doanh (Business ethic) nằm trong các ngành học liên quan đến kinh doanh. Tất cả trường đại học có liên quan đến lãnh vực kinh doanh đều có bộ môn này, đa phần bắt buộc phải học môn đó. Như vậy cho thấy dù văn hóa khác ta, nhưng ngay cả Tây mà cũng không thể không coi trọng vấn đề "người hiền", "người tốt", "người lương thiện" này.


"Hồng" tựu trung lại đơn giản là đạo đức cách mạng, vừa có đạo đức của một con người, vừa vững mạnh và am hiểu chính trị. Nếu chỉ làm kinh doanh hay gì khác thì chỉ cần "đức" là đủ, nhưng đã lãnh đạo chính trị thì phải am tường chính trị. Chứ nếu chỉ tốt như một vị hòa thượng thì không thể lãnh đạo quốc gia được.


Còn "chuyên" đơn giản là những khả năng (ability), kỹ năng (skill), và kinh nghiệm được sử dụng cho công việc nào đó.


Những giá trị trên nên được đúc kết và mổ xẻ ra thành những tiêu chí cụ thể rõ ràng để tuyển mộ, tuyển dụng và đánh giá cán bộ, nhân viên.


Ngày nay công tác cán bộ, nhân sự của nước mình còn dở là vì chúng ta
không tuân thủ những tiêu chí trên, chứ không phải những tiêu chí đó là sai lầm, là vô lý, là "lỗi thời", "lạc hậu".

Thực tế rõ ràng là vậy: Xã hội nước mình bây giờ như dân gian hay than vãn về vấn đề tuyển dụng là:
Nhất tiền tệ, nhì quan hệ, thứ ba mới tới trí tuệ.

Mà ngay cái "trí tuệ" đó cũng chỉ là tương đối. Các cơ quan, công ty nước mình có cơ chế, hệ thống nào để đánh giá, đo lường trí tuệ một cách cụ thể và khoa học, logic, hợp lý hay chưa. Hay chỉ xem bằng cấp và tên tuổi của trường đại học? Trong khi bằng giả bây giờ thì đầy đường đầy chợ. Nên có những nỗ lực để thăm dò, xem xét, kiểm tra xem
họ làm việc có bao nhiêu hiệu quả. Đó mới là vấn đề chính.

Rồi vấn đề "kinh nghiệm" nữa. Người Việt Nam, dù là những người trong sạch, thật sự muốn tuyển dụng người làm được, thì vẫn có thói quen đưa vào những người có kinh nghiệm lâu năm vào công ty mình cho chắc ăn.


Nhưng tại sao không tự hỏi rằng một người đã làm lâu như vậy ở trong lãnh vực đó, mà lại không có thành tựu đặc sắc nổi bật gì, cứ làm bình thường kiếm cơm qua ngày, vậy phải chăng đó là một người tầm thường, một người tầm thường thì tại sao mình đưa vào công ty mình làm gì? Mục đích của tuyển dụng cán bộ nhân sự luôn luôn nên là
tìm ra người xuất sắc (great), chứ không phải chỉ là những người miễn cưỡng làm được.

Những người có kinh nghiệm mà nổi bật đặc sắc thì đương nhiên là có giá rất cao và khó mời được họ. Cho nên mới lại càng phải chú trọng vào những người
không có hoặc rất ít kinh nghiệm. Những sinh viên mới ra trường, đang tìm việc, hoặc thậm chí còn trong trường, sắp ra trường. Hoặc những người vì nguyên nhân nào đó bị dùng sai. Cái sở trường, năng khiếu của họ thì không được sử dụng. Họ bị dùng vào những việc không phải là sở thích, sở trường, năng khiếu của họ, thậm chí đó là những việc họ làm dở, họ không thích làm, không có hứng thú.

Đó là trong lãnh vực tư nhân. Còn trong các cơ quan, công ty nhà nước và bộ máy công quyền thì cũng chẳng hơn gì nếu không nói là còn tệ hơn. Nếu như xã hội nói chung là "Nhất tiền tệ (hối lộ, phong bì, quà cáp), nhì quan hệ, ba trí tuệ", thì trong các công ty nhà nước và bộ máy công quyền, nhất là những chiếc ghế "béo bở", có thể tạm gọi là "Nhất phong bì, nhì quan hệ, ba thẻ Đảng". Mà những thẻ Đảng này nhiều cái cũng không có thực chất, nhờ bỏ tiền ra mà có.


Những người có thẻ Đảng này thực chất không phải là đảng viên, mà là những kẻ cơ hội mạo danh đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ dốt lịch sử Đảng, họ mù mờ chính trị, nhưng họ có tiền. Trong thời chiến tấm thẻ Đảng có giá trị bao nhiêu, thì ngày nay thẻ Đảng giảm giá trị bấy nhiêu. Nó trở thành vật mua bán, đổi chác.


Ngày xưa thẻ Đảng nói lên giá trị, phẩm chất của con người đó. Người nào mà có thẻ Đảng thì hầu như chắc chắn là hơn xa người không có thẻ Đảng, cả về nhân cách, trí tuệ, trình độ, kiến thức, đức độ, dũng khí.... Ngày xưa người có thẻ Đảng thường là những người không giàu bằng ai, nhưng dễ được đưa ra chiến trường xa vợ xa con hơn ai hết, họ không để ý đến việc làm ăn hay việc nhà cửa, vậy mà bao nhiêu cô gái và các bậc cha mẹ khi chọn chồng, mai mối, chọn con rể, thì họ hầu hết là chọn người có thẻ Đảng. (
xem thêm)

Còn ngày nay có thẻ Đảng hay không thì cũng chẳng giúp được ai phân biệt được người tốt kẻ xấu. Có những kẻ có thẻ Đảng nhưng nhân cách thua cả dân thường.


Hiện nay trong công tác tuyển dụng cán bộ, nhân sự chẳng thấy vấn đề đức - tài đâu cả, chẳng thấy vấn đề hồng - chuyên đâu cả. Chỉ thấy phong bì, lợi ích nhóm, lợi ích riêng tư, cá nhân, ích kỷ, quan hệ, thẻ Đảng "giả", bằng cấp giả, bệnh chủ nghĩa kinh nghiệm v.v. Chẳng thấy một lề lối khoa học nào trong công tác tuyển dụng cán bộ, nhân sự. Người giới thiệu sai, cất nhắc bậy, chẳng thấy bị gì, trách nhiệm của những người đưa lên những kẻ kém cỏi ở đâu?


Như vậy, các giá trị đã được định hình và truyền lại đã không được tuân theo. Có bao nhiêu người không dựa trên vấn đề hiền - tài, hồng - chuyên để đưa người vào bộ máy. Mà họ dựa trên lợi ích riêng, phong bì, quà cáp, quan hệ, "thẻ Đảng", bằng giả.


Ngay cả những người tốt cũng có những trì trệ về công tác cán bộ, nhân sự. Do Việt Nam mình đã quá quen với các cách làm trong thời chiến, rồi trong thời bình chúng ta cũng làm y như vậy. Cho là thời chiến chúng ta thắng Mỹ thì những cách làm đó phải là tốt. "Đến Mỹ mà còn thắng được thì những cách làm trong thời kháng Mỹ phải là ưu việt rồi". Nhưng thực tế có phải vậy không?


Trong thời kháng chiến, trước họa ngoại xâm, trước bọn giặc xâm lăng trước mắt thì "giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh", tiềm năng, tiềm lực, sức mạnh tiềm ẩn của dân tộc Việt Nam được nâng lên một bậc và phát huy tối đa. Đó là cái văn hóa, cái vũ khí giữ nước từ ngàn xưa truyền lại. Và cũng do dân ta có kinh nghiệm quân sự và có kinh nghiệm
chính trị thời chiến từ ngàn xưa. Dân mình rất giỏi quân sự và chính trị thời chiến.

Nhưng đến khi không còn chiến tranh, đến khi phải chuyển sang vai trò xây dựng đất nước, phát triển kinh tế, lãnh đạo chính trị thời bình thì lại khác. Không còn động lực chống ngoại xâm (động lực lớn mạnh nhất) nữa. Tài quân sự và chính trị thời chiến không có chỗ dùng trong việc phát triển kinh tế, tái thiết và kiến thiết đất nước, làm giàu đất nước trong thời bình. Chính trị thời bình không giống chính trị thời chiến.


Cho nên, phải có cơ chế, hệ thống, cách làm, chiến thuật nào đó để thúc đẩy, thúc ép, áp lực làm cho người ta buộc phải đưa cán bộ đảng viên vừa hồng vừa chuyên vào bộ máy công quyền, hiện nay trong số gần 3 triệu người thì số lượng cán bộ đảng viên vừa hồng vừa chuyên là không ít, nhưng phần lớn những người đó là nghèo, không có quyền hành tài lực thế lực gì, không bè phái với ai, và phần nhiều.... làm ruộng hoặc dạy học, hoặc bị phân phối công việc hoặc hoàn cảnh, tình thế đưa đẩy khiến họ phải làm những việc tréo ngoe với sở trường, sở thích của họ, và họ không ưa chuyện đấu đá quan trường,
họ biết làm việc nhưng không biết đạo làm quan. Họ là những người âm thầm truyền lửa cách mạng lại cho con cháu, họ viết sách, viết báo, nói chuyện với học trò, họ là những người cực kỳ đáng quý, nhưng họ không vào được quan trường, và một số người dù vào được quan trường thì cũng rất khó để tồn tại nổi, thường nhanh chóng bị các đường dây lợi ích đào thải ra ngoài.

Có 2 thói quen về công tác cán bộ di căn lại từ thời chiến tranh, đó là: 1. Trông đợi vào ý chí tự giác của con người. Không cần cơ chế thúc đẩy. 2. Không cần hệ thống tuyển dụng, đánh giá, kiểm tra cụ thể rõ ràng gì cả về tài năng và đức độ, chỉ quan sát theo cảm tính lâu ngày rồi đề bạt lên, có khi dựa trên thành tích hoặc quân công.


Hai vấn đề trên trong thời chiến thì được. Con người thời chiến khác với con người thời bình. Con người thời chiến tình thế bắt buộc mỗi người phải cứng rắn lên. Nhất là trước một loại giặc tầm vóc như Mỹ, là kẻ vô địch thế giới, thì vô hình trung nó cũng làm cho dân tộc Việt Nam thích nghi và khơi dậy những phẩm chất đẹp nhất, tốt nhất, mạnh nhất của dân tộc. Vì chỉ có như vậy thì mới chống nổi loại giặc mạnh đến mức đó.


Còn ngày nay là khác, muốn làm tốt điều 2 nói trên thì phải có số đông những ông "xếp" cực kỳ gương mẫu, những người có trách nhiệm cực kỳ mẫu mực. Còn ngày nay thì tỷ lệ những người đó là bao nhiêu? Liệu còn hợp lý khi trông chờ vào một cá nhân cất nhắc, đề bạt ai đó. Và rồi khi người được đưa lên làm bậy thì cái người giới thiệu đó cũng chẳng bị gì nhiều, cùng lắm là khiển trách, kiểm điểm, tức là cũng như không làm gì, không có tác dụng gì thực tế, không ảnh hưởng gì đến lợi ích của ông ta, chẳng thấy trách nhiệm ở đâu, không rõ ai chịu trách nhiệm. Muốn răn đe thì phải thật sự động đến lợi ích của họ, chứ nếu cứ khiển trách và kiểm điểm thì làm sao có tác dụng răn đe thực tế?


Điều 1 (ý thức tự giác) cũng vậy, ngày nay đã không còn có thể trông cậy được vào sự tự giác nữa. Việt Nam mình đã có gần 40 năm để thử nghiệm cơ chế tuyển dụng cũ kỹ, đậm dấu ấn thời chiến đó, và nó không hiệu quả. Thực tiễn đã cho thấy là nó không hiệu quả. Ngày càng nhiều hơn sâu, bọ, rận. Ngày xưa đôi khi cũng có trường hợp "con sâu làm rầu nồi canh", nhưng còn ngày nay như chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã phải than là: "Một bầy sâu trong nồi canh". Thực tế đã cho thấy không hiệu quả như vậy thì phải sửa.


Thời nay là thời bình chứ không phải thời chiến. Thời chiến đối mặt trước giặc ngoại xâm, trước chiến tranh máu lửa thì người ta buộc phải tự giác. Tình hình chiến tranh dầu sôi lửa bỏng thúc đẩy người ta phải tự giác. Thời bình ngày nay chúng ta đã không còn động lực chống ngoại xâm, trong khi lại không có cơ chế, cách làm, biện pháp, chiến thuật nào mới để tạo ra động lực mới, bù đắp cho động lực không còn tồn tại, không còn thực tế kia.


Tương tự những người nghiện cờ bạc, thuốc lá, nhậu nhẹt rượu bia say xưa, ma túy, bán nhà bán cửa, bán vợ đợ con. Họ quá biết đó là ngốc, đó là sai, đó là không tốt, đó là có hại cho sức khỏe v.v. nhưng lại rất khó bỏ.


Phải có cách làm nào đó, chứ nếu nói khơi khơi "hãy tự bỏ đi" thì họ lại rất khó để bỏ được. Thậm chí có những người thà vay tiền bốn phương, cả bọn giang hồ cho vay nặng lãi, bán cả nhà cửa đất đai gia tài, không ngại mất hết, không ngại nợ nần ngập đầu, vẫn ngụp lặn trong bài bạc, lô đề, cá độ, rồi tiền bạc mất hết, mất vợ mất con, gia đình, cha mẹ từ bỏ. Vậy mà nhiều người vẫn khó bỏ được mấy thói hư tật xấu đó.


Đâu phải là họ không biết đó là sai, đó là ngu ngốc, đâu phải họ không muốn bỏ, mà đơn giản là họ không bỏ được những thói xấu đó. Họ không một mình tự giác bỏ được.


Tương tự bọn buôn lậu ma túy, hay các nhóm lợi ích có quan hệ lợi ích nhóm cộng sinh gắn bó với nhau, tác động, hỗ tương lẫn nhau, hình thành các đường dây lợi ích nhóm, các đường dây tham nhũng, cũng giống như các đường dây tội phạm, buôn lậu ma túy, khi đã sa chân vào thì muốn rút ra rất khó. Không ai trong đám đó cho anh rút chân ra cả. Nhẹ nhất là anh sẽ bị mất việc, nặng hơn là mất sạch.


Phải có cơ chế thúc đẩy, áp lực, chứ không còn có thể trông cậy, chờ đợi vào sự tự thân tự giác được nữa. Ngoài ra, những người có trách nhiệm nên rà soát những hệ thống thời chiến mà chúng ta vẫn còn áp dụng, xem có cái nào không còn thực tế, không còn hiệu quả hay không, rồi đổi mới dần sang cho thích hợp hơn với thời bình.


Nếu cứ bám giữ không đổi mới quyết liệt cơ chế quản lý, tuyển dụng, không tìm được cách nào đó đưa những người vừa hồng vừa chuyên, vừa đức vừa tài lên tiếp dân, quản lý, lãnh đạo, không buộc được các cơ quan công quyền phải đổi mới cách làm sao cho chống tiêu cực hiệu quả hơn, không làm cho những "con sâu" phải "khớp", phải sợ, thì sẽ ngày càng nhiều sâu nhiều rận hơn. Xã hội sẽ bất ổn. Dư luận sẽ dị nghị. Người ta chỉ có thể định hướng dư luận và tạo đồng thuận bằng hiệu quả thực tế, bằng những con người tốt bằng xương bằng thịt, Bác Hồ từng nói đại ý: Một tấm gương sống có giá trị thuyết phục hơn 100 bài báo tuyên truyền giáo dục.... Chứ không thể định hướng dư luận và tạo đồng thuận bằng báo chí, bằng sự duy ý chí được.


Dư luận dị nghị, bất mãn, xã hội thiếu ổn định, lòng dân thất vọng, thiếu niềm tin, chế độ lung lay, các thế lực phản động và nước ngoài "thừa nước đục thả câu", "đục nước béo cò", họ sẽ càng lợi dụng, khai thác, khoét sâu vào những khuyết điểm của Việt Nam. Như vậy chẳng tốt đẹp gì cho ai cả. Chỉ tốt đẹp cho những kẻ có ý đồ không tốt với VN.


Vấn đề con người luôn là vấn đề chủ đạo. Đúng là muốn trừ sâu, muốn chỉnh đốn và làm trong sạch Đảng thì phải có những cán bộ tốt. Nhưng muốn có cán bộ tốt thì phải có cơ chế thúc đẩy, thúc ép, áp lực, đốc thúc, giám sát. Phải có những cách làm, những chiến thuật để gây áp lực, nếu đưa kẻ bậy bạ vào thì sẽ bị gì, nếu không tìm ra được người vừa hồng vừa chuyên vào làm thì sẽ bị gì, nếu không đạt được mục tiêu đề ra thì sẽ bị gì v.v.. Để áp lực, để thúc ép, thúc đẩy, khiến người ta lo lắng và phải tìm đủ mọi cách để nghiêm túc, trung thực tìm ra hiền tài vào giúp nước, cũng là giúp cho nơi mà người có trách nhiệm tuyển dụng đó đang làm việc. Không dám chậm trễ, hời hợt, qua loa đại khái.


Chứ không thể nói quá chung chung, yêu cầu suông, duy ý chí đòi hỏi và kỳ vọng vào tính tự giác. Đã gần 40 năm rồi, nó không hiệu quả là nó không hiệu quả. Cách làm này không hiệu quả thì cần đổi sang cách làm khác. Ngày xưa cái không khí, cái môi trường chung quanh đều là tình nguyện, tự nguyện, tự giác, nhưng ngày nay thực tế không có cái môi trường, không khí như vậy nữa, thậm chí là ngược lại, nhìn quanh thấy rất nhiều kẻ cơ hội kinh tế và "xôi thịt". Các "đảng viên sư hổ mang" lúc nhúc lộng hành nhiều nơi.


Phá hết làm lại, thay đổi thể chế chính trị, hoặc có nhiều đảng phái chính trị hơn phải chăng sẽ chống được tham nhũng?


Trước hết cần làm rõ vài điều. Đáng lẽ mình không viết về vấn đề này trong bài này, vì mình muốn bài này dễ đọc cho tất cả các phía, dù người đọc có quan điểm chính kiến nào. Nội dung chỉ muốn nói duy nhất về vấn đề tham nhũng và chống tham nhũng. Tuy nhiên suy đi nghĩ lại thì thấy vẫn phải viết về vấn đề này. Thứ nhất là cho đầy đủ, toàn cảnh các vấn đề liên quan. Không nên bỏ sót điều gì.


Thứ hai, nếu mình không dành một phần bài để viết về vấn đề này thì có thể sẽ gây ngộ nhận rằng mình tránh né hoặc không biết về vấn đề này, hay chưa nghĩ tới vấn đề này. Trong khi thực tế mình đã suy nghĩ, tìm hiểu về vấn đề đa đảng, thể chế chính trị, tham nhũng tiêu cực, và các mối quan hệ giữa các vấn đề đó còn nhiều hơn thời gian các tín đồ "dâng chủ" ăn cơm.


Mình quan niệm cái gì cũng nên rõ ràng. Nếu không làm rõ hết các vấn đề, thì có một số người sẽ ngộ nhận và cho rằng đây là liều thuốc giải được tất cả, họ chỉ chú tâm vào điều này và không lo chống tiêu cực thật sự, đồng thời gây hại các vấn đề khác. Không nhận thức đúng, thì sẽ lạc hướng, như một người bị chẩn bệnh sai rồi uống sai thuốc, như vậy không thể lành bệnh.


Vậy nguồn gốc sinh ra tham nhũng phải là ở thể chế chính trị hay không? Vấn đề có phải nằm thể chế chính trị hay không? Có phải đa đảng đối lập, tranh cử tổng thống, các đảng phái, phe phái cạnh tranh với nhau sẽ là liều thuốc thần dược chống tham nhũng hay không?


Đây vẫn là một niềm tin, niềm hy vọng vô căn cứ của một số người. Và là một loại chiêu bài, bình phong cho những tham vọng chính trị cá nhân và mục đích chống cộng sản Việt Nam của một số người khác.


Xưa nay căn cứ vào thực tiễn chính trị thế giới, cũng như quan sát tình hình quốc tế, nghiên cứu danh sách các nước tham nhũng của Tổ chức Minh bạch Quốc tế thì chúng ta không thấy những bằng chứng nào cho thấy rằng có sự khác biệt rõ ràng, ấn tượng nào trong mối quan hệ giữa thể chế chính trị và mức độ tham nhũng. Có hàng trăm nước đa đảng, tư bản xếp trên Việt Nam, Trung Quốc, Cuba, Lào v.v. về mức độ tham nhũng. Đặc biệt các nước nằm trong nhóm tham nhũng nhất thế giới, theo thống kê của Tổ chức Minh bạch Quốc tế, đều là các nước có mô hình chính trị tương tự Mỹ và phương Tây, như Nga, Ukraina, Mexico, hay các nước từng bị Mỹ "đem dân chủ tới" như Iraq, Afghanistan, Libya.


Nga, Ukraina hoặc các nước bị Mỹ "đem dân chủ tới" mà bị như vậy thì có những người đổ cho việc các nước này bị như vậy là do đã từng độc đảng, đã từng là cộng sản, đã từng theo XHCN v.v., nhưng Mexico và hàng trăm nước tham nhũng hơn Việt Nam khác lại có chế độ chính trị gần như rập khuôn Mỹ và phương Tây ngay từ đầu, thì họ vẫn bị như vậy. Và Mexico không chỉ là tham nhũng, đấu đá, mà họ còn đang vật lộn với tệ nạn buôn lậu ma túy trong hệ thống chính trị.


Các danh sách về mức độ tham nhũng hàng năm của Tổ chức Minh bạch Quốc tế có thể không hoàn toàn chính xác, ví dụ như họ thống kê Việt Nam có mức độ tham nhũng trong nhóm trung bình cao, tuy nhiên thực tế xã hội Việt Nam cho thấy mức độ tham nhũng nghiêm trọng hơn khá nhiều so với thống kê của Tổ chức Minh bạch Quốc tế. Tuy nhiên, điều này càng cho thấy sự cố gắng khách quan của họ, không để bị các thành kiến chính trị chi phối.


Lưu ý các quốc gia trong nhóm tham nhũng nhất thế giới, trong danh sách của họ, đều là những nước bị Mỹ "đem dân chủ tới", hoặc các nước có hệ thống chính trị tương đồng với phương Tây. Chúng ta cũng không thể đổ cho "chế độ mới thì phải loạn", Afghanistan và Iraq đã hơn 10 năm có chế độ chính trị mới, nhưng kết quả thực tế cho thấy là tình hình chính trị xã hội còn rối ren hỗn loạn và đen tối hơn cả thời Taliban và Saddam Hussein. Nga đã có hơn 20 năm tái thiết và phục hồi, và trong đó có khoảng 10 năm dưới tay nhân vật có tài lãnh đạo là ông Putin, nhưng kết quả chống tham nhũng, chống tiêu cực vẫn không đi đến đâu.


Các thống kê của Tổ chức Minh bạch Quốc tế người ta không tìm thấy những thành kiến chính trị trong đó, cũng như không thấy sự bất hợp lý nào trong đó, các con số, các thống kê về cơ bản là phù hợp với tình hình thực tế ở các quốc gia. Và cho đến nay không có một trí thức, học giả, chuyên gia nào bác bỏ được các báo cáo của nó. Do đó, nó đang là một nguồn uy tín để tham khảo. Chứ không phải nó uy tín vì nó là bản báo cáo của phương Tây.


Xem lại lịch sử Việt Nam, chúng ta có thể thấy là dù thời nào, dù là dưới thể chế, hình thái chính trị nào, thì vẫn đều mánh mung, gian lận, luồn lách, tham ô, hối lộ tương tự nhau. Phong kiến cũng vậy, Pháp thuộc Tây hóa cũng vậy, thuộc địa kiểu mới cũng vậy, trong những vùng tạm chiếm mà ngụy quyền quản lý, thì chẳng những tham nhũng mà còn
buôn lậu ma túy, Sài Gòn trở thành một ổ mại dâm khổng lồ. Một nhân vật hiếm hoi trong sạch là ông Trần Văn Hương trong ngụy quyền Sài Gòn đã phải nói lên một câu nói ấn tượng: "Diệt hết tham nhũng thì lấy ai làm việc?". Dưới hình thức chính trị nào thì cũng vậy.

Nghĩa là chúng ta không thấy một bằng chứng, một dấu hiệu gì ấn tượng rõ ràng cho thấy rằng thay đổi thể chế, hình thức chính trị, thì sẽ dẹp được tham nhũng. Mặc dù nó có thể góp phần nào đó vào công cuộc đó, tuy nhiên, nó không hề là liều thuốc trị bệnh. Nó có thể là một viên thuốc bổ trợ, nhưng là viên thuốc bổ trợ có nhiều triệu chứng phụ nguy hiểm.


Hồi trẻ mình đã từng cho rằng đa đảng là sẽ thúc đẩy cạnh tranh, là sẽ tốt. Cho đến khi mình qua Mỹ thấy cộng đồng ba que bên đây có hàng trăm đảng phái và chửi nhau mỗi ngày. Mỗi khi bầu cử cộng đồng có kết quả xong là y như rằng phe này không chấp nhận kết quả bầu cử, cáo buộc bên kia là gian lận, thế là không ai phục ai, rất mất đoàn kết, biến cộng đồng thành trò cười, và cộng đồng người Mỹ gốc Việt giờ đây vẫn là một trong số những cộng đồng thiểu số ít thành đạt nhất so với các cộng đồng thiểu số khác, kể cả người Mexico và người da đen.


Mấy ông bên đây mỗi khi thấy có người Việt nào thành đạt là đăng lên khoe trong quyển "Vẻ vang dân Việt" của ký giả Trọng Minh, chuyên sưu tầm những tấm gương thành đạt. Nhưng họ quên rằng đó chỉ là con số rất nhỏ trong cộng đồng các dân tộc ở Hoa Kỳ, các cộng đồng dân tộc khác ở Mỹ có bao nhiêu người như vậy nhưng họ không bao giờ nghĩ đến chuyện viết sách để khoe và "tự sướng". Đó không phải là tự hào dân tộc, mà là thật ra là một tâm lý AQ, một tâm lý tự ti mặc cảm dân tộc trước người Mỹ và các sắc dân khác, nhất là người da trắng.


Đọc quyển "Vẻ vang dân Việt" buồn cười hơn là thấy cả Lý Tống trong danh sách đó, hễ ai mà học giỏi một chút, có điểm cao một chút, hay ai đó chơi thể thao trung học Mỹ là ông Trọng Minh đều đưa vào để "tự sướng". Thậm chí người nào đi lính cho Mỹ thì ông ta cũng đưa vào. Đây không phải là "vẻ vang dân Việt" mà là ông đang sỉ nhục chính ông và dân Việt. Người Việt Nam sinh ra không phải để đi lính cho Mỹ. Giá trị của người Việt Nam không thấp đến nỗi đi lính cho kẻ khác, hay đi học có vài thành tích nổi bật trong trường học của người khác là thành "tự hào" với "vẻ vang". Dân tộc Việt Nam không thấp như vậy.


Tóm gọn lại: Các nước đa đảng nằm trong nhóm những nước tham nhũng nhất thế giới trong danh sách của Tổ chức Minh bạch Quốc tế. Trong lịch sử VN, thể chế chính trị nào thì cũng như vậy, không gì khác nhau về mức độ tham nhũng, chỉ có vài thời kỳ khi có những lãnh đạo anh minh thì mới trong sạch, nhưng vẫn là thể chế chính trị đó không có gì khác.


Vùng tạm chiếm ở miền Nam Việt Nam có nhiều đảng phái. Ngụy quyền Sài Gòn bao gồm nhiều người với nhiều đảng phái khác nhau. Và kết quả là buôn lậu ma túy, mại dâm, tham nhũng, chia rẽ, các lãnh đạo, tướng lĩnh cấp cao chĩa súng vào nhau giành gái, giành giật bồ nhí, lén lút giấu diếm chôm tiền viện trợ Mỹ đi xây biệt thự, nhà lầu, nuôi vợ bé. Những vùng tạm chiếm này là do ngụy quản lý, nên không thể đổ cho Pháp - Mỹ được. Họ cũng không thể đổ cho chiến tranh được, vì cùng hoàn cảnh chiến tranh nhưng vùng giải phóng thì lại trong sạch.


Tại hải ngoại lâu nay có rất nhiều đảng phái chính trị người Việt, nhưng lại chia rẽ, giành nhau, chửi bới nhục mạ nhau, chống nhau nhiều hơn chống Việt Nam. Và khi bầu cử cộng đồng thì phe thất cử thường gọi bên kia là gian lận và không công nhận kết quả, đồng thời tổ chức biểu tình phá.


Những thực tế trên tuy không chứng minh được đa đảng là sai, đa đảng là sẽ loạn, tuy nhiên, nó cũng không chứng minh được rằng đa đảng sẽ chống được tham nhũng, sẽ có kết quả tốt hơn hệ thống nhất đảng.


Mình trước kia đã từng thích đa đảng, nhưng sau khi nhìn thấy cộng đồng hải ngoại với bao nhiêu đảng phái và ầm ỉ nát bét như thế này. Lúc đó mình thấy nó không đưa đến sự đoàn kết, thống nhất dân tộc. Và dần thay đổi quan điểm.


Ngoài ra mình còn biết có những kẻ cơ hội chính trị rất khốn nạn đang rình rập Việt Nam đa đảng để họ nhảy vào đục nước béo cò, thừa nước đục thả câu, hoặc bỉ ổi hơn là theo đuôi các ông chủ giàu có của họ vào Việt Nam. Họ và các ông chủ của họ sẽ đem tiền vào VN rất nhiều trong trong thời gian đầu, nhưng lâu dài về sau những đồng tiền đó, cũng như thành quả lao động, các nguồn tài nguyên của VN sẽ dần chảy lại trở về mẫu quốc của các ông chủ đó. Thế là dân tộc Việt Nam trở thành những lao công làm thuê cho nước ngoài như Mexico và nhiều nước ở châu Mỹ và châu Phi đang bị. Thế là đất nước trở về thời kỳ thuộc địa kiểu mới, độc lập chỉ còn là cái nhãn hiệu vỏ ngoài. Đó là những nguy cơ hiện hữu, đã và đang xảy ra trên nhiều nước khác hiện nay, nhất là ở châu Phi.


Những thành phần Việt gian rải rác khắp nơi mà chúng ta đôi khi nghe thấy những lập luận, lời lẽ rất khốn nạn từ họ, rất "đốt đền thờ", phỉ báng lịch sử, và không đặt giá trị của độc lập dân tộc lên hàng đầu, đây là những kẻ sẵn sàng
làm giàu bằng máu đồng bào, làm giàu trên xác đồng bào.

Do đó, mình không ủng hộ hệ thống đa đảng chính trị tại Việt Nam, xuất phát từ những thực tế đó. Ngoài ra còn một số vấn đề về lý luận khác mà mình thấy cũng không cần đưa ra đây trong phạm vi bài này. Bài này chú trọng vào những vấn đề thực tế. Các vấn đề về lý luận mình đã trình bày trong một số bài viết và bình luận khác.


Nói chung, có thể nói đa đảng sẽ góp phần vào sự thúc đẩy cạnh tranh, tạo áp lực, để chống tham nhũng mạnh hơn một phần nào đó. Tuy nhiên, những cái tai hại khác, nguy cơ khác đưa tới cũng không hề nhỏ. Và xã hội có thể sẽ rất khốn nạn. Những kẻ mới lên sẽ tham nhũng hơn cả bọn tham nhũng cũ, và khốn nạn hơn nhiều, khốn nạn hơn cả tham nhũng. Đồng thời, những kẻ tham nhũng cũ mà biết theo gió trở cờ, biết
"giác ngộ dân chủ đột xuất", biết khéo lo lót, dàn xếp, luồn lách, mưu mẹo, thì vẫn sẽ giữ ghế như thường, khi "sâu cũ""rận mới" ăn chia, chia chác, thỏa thuận, thỏa hiệp lợi ích với nhau.

Như vậy, bọn tham nhũng cũ, bọn sâu bọ cũ vẫn ngồi ngay đó chứ họ không đi đâu cả. Điều này thấy rất rõ sau khi Liên Xô sụp đổ. Bọn tham nhũng ở Liên Xô vẫn ngồi ngay đó bình chân như vại và họ vẫn đang gây hại cho nước Nga ngày nay.


Tại sao Iraq, Afghanistan, Libya vẫn loạn và bê bết hơn cả chế độ xưa? Là vì các nước đó chỉ thay đổi người đứng đầu chứ dĩ nhiên không thể thay hết người được. Mà những kẻ đứng đầu đó có lẽ cũng chẳng hơn gì so với các lãnh đạo cũ. Những gian thần, nịnh thần mới của Mỹ và phương Tây, biết chiều ý chế độ mới, biết thỏa hiệp, biết đưa ra lợi ích, thì những chiếc ghế, những vị trí của họ vẫn ở đó. Vẫn những kẻ tham nhũng ngầm, tham nhũng kín, ít tai tiếng, sâu chưa bị phanh phui đó tiếp tục quản lý đất nước, tiếp tục ăn cắp tiền dân, làm giàu túi riêng và đưa các nước đó vào ngõ cụt bế tắc không lối thoát.


Tuy nhiên, mình vẫn ủng hộ vấn đề cần tự do ngôn luận và tự do báo chí hơn nữa
trong vấn đề chống tham nhũng, chống tha hóa. Chủ yếu để răn đe những người tay chưa nhúng chàm, những kẻ rình rập lăm le muốn gian lận.

Thắt chặt cơ chế, sáng tạo các "chiến thuật" quản lý, kiểm soát để làm sao cho người ta khó thể qua mặt làm bậy là vấn đề quan trọng to lớn.


Ví dụ Đà Nẵng có cách làm theo sáng kiến của ông Nguyễn Bá Thanh để chống tệ nạn đua xe hoành hành thành phố này bấy lâu, là cứ tay nào đua xe là tịch thu xe đem bán làm từ thiện, mua áo ấm, mua sách vở cho học sinh nghèo. Làm thẳng chứ không nói nhiều! Sau đó Đà Nẵng có còn đua xe nữa đâu, vì ai cũng sợ bị mất xe.


Mỗi nơi, mỗi công ty, mỗi đội ngũ đều có những đặc điểm thực tiễn khác nhau cho nên chỉ có những lãnh đạo ở đó mới tính toán được phải làm gì, phải có cách làm gì. Nhưng nói chung là phải có áp lực nào đó và quy định trách nhiệm, chứ không thể mãi cứ "trách nhiệm tập thể". Phải có 1 người nào đó hay ít nhất vài người, nhóm rất nhỏ nào đó lãnh trách nhiệm.


Chứ không thể nói chung chung tất cả mọi người đều có trách nhiệm, như vậy thực tế sẽ đưa đến chuyện không ai có trách nhiệm thực chất cả, và sẽ tạo ra thói xấu đùn đẩy trách nhiệm khi trách nhiệm không được quy định rõ ràng chắc chắn như đinh đóng cột giấy trắng mực đen ngay từ đầu.


Cái quan niệm sai lầm "trách nhiệm tập thể" sẽ lấy đi, làm mờ nhạt đi cái trách nhiệm của người đứng đầu, làm mờ nhạt đi trách nhiệm của người phụ trách tốt và "cứu bồ" cho cái trách nhiệm của kẻ phụ trách ăn hại, vô tích sự. Nó làm phát triển cái thói vô trách nhiệm đến mọi người. Vô trách nhiệm sẽ dần đưa đến vô kỷ luật. Kỷ luật là mẹ thành công, làm chính trị, quân sự, kinh tế, kinh doanh mà không có kỷ luật thì chắc chắn thất bại.


Khái niệm dân chủ tập trung, làm chủ tập thể là đúng, nhưng nó không có nghĩa là ta thực hiện dân chủ tập trung, ta làm chủ tập thể thì cũng phải "chịu trách nhiệm tập thể". Khi "dân chủ tập trung" và "làm chủ tập thể" thì vấn đề cốt yếu là đem lại lợi ích cho nhân dân, đất nước, chú trọng vào lợi ích chung của dân tộc.


Còn về nguyên tắc dân chủ tập trung thì như Bác Hồ giải thích đơn giản là "cấp dưới phục tùng cấp trên, địa phương phục tùng trung ương, thiểu số phục tùng đa số, như vậy là vừa dân chủ, vừa tập trung".


Phục tùng đây có nghĩa là nghiêm túc tuân theo các quyết định của cấp trên, trung ương và số đông. Thiểu số phục tùng quyết định của đa số đó là nguyên tắc cơ bản của bất kỳ nền dân chủ nào. Phục tùng theo ngữ cảnh này không có nghĩa là phục tùng theo kiểu nô lệ với chủ nhân. Đây là khái niệm mà bọn phản động không hiểu nên đôi khi có những kẻ ngu dốt đem chuyện này ra để chê bai, công kích Bác Hồ và Đảng Cộng sản Việt Nam.


Nếu chúng ta nhìn lại bất kỳ hình thức làm việc nhóm nào trên thế giới này từ xưa đến nay thì chúng ta sẽ thấy sự sáng suốt của Bác Hồ. Thử hỏi nếu một cầu thủ bóng đá không phục tùng chiến lược mà nhóm Huấn luyện viên vạch ra, mà cứ đá bậy đá bạ không đúng ý Huấn luyện viên, thì làm sao nhóm Huấn luyện viên biết được chiến lược, chiến thuật đó là đúng hay sai để mà thay đổi?


Ông phải phục tùng và đá bóng đúng theo quyết định chiến lược, chiến thuật của HLV,
dù ông có đồng ý hay không. Và chỉ có như vậy thì người ta mới biết được chiến thuật, chiến lược đó có phải là quyết định đúng đắn hay không. Chứ còn nếu ông đá bậy không đúng ý HLV, thì làm sao ai biết được trận bóng thất bại là do ông đá tầm bậy hay là do chiến thuật, chiến lược tầm bậy?

Mình có kinh nghiệm trong lãnh vực nhân sự, và cũng tìm hiểu nhiều hình thức làm việc nhóm. Và mình có thể nói quan niệm của Bác Hồ về "cấp dưới phục tùng cấp trên, địa phương phục tùng trung ương, thiểu số phục tùng đa số", tức là phục tùng về việc công, là một cách làm sáng suốt, tối ưu và chắc chắn, vừa dân chủ, vừa tập trung (đoàn kết, thống nhất, không chia rẽ), vừa
kỷ luật (quan trọng nhất).

Nếu chẳng ai phục tùng ai, kệ cha ông, tôi cứ thích làm chuyện của tôi, tôi cóc thèm làm đúng theo vai trò của tôi. Mạnh ai nấy làm. Không ai phục tùng ai, thì làm sao có dân chủ, làm sao có đoàn kết, làm sao có kỷ luật.


Có người sẽ hỏi: "Nhưng thằng xếp của tôi tệ lắm chẳng lẽ tôi phải phục tùng nó à." Phục tùng ở đây là phục tùng việc công, chỉ có những kẻ ngu xuẩn lắm mới nghĩ đây là phục tùng kiểu nô lệ. Phục tùng đây là phục tùng về công việc, nghĩa là tuân theo, làm theo các quyết định công việc của cấp trên.


Nếu xếp của bạn dở thì bạn càng phải làm đúng theo quyết định dở đó của ông ta. Vì chỉ có cách đó thì mới lộ ra cái sai của ông ta đối với tập thể và cấp trên khác. Nếu bạn không làm theo quyết định dở đó của ông ta, mà làm khác đi, thì làm sao biết được nguyên nhân thất bại là gì? Nguyên nhân thất bại là do quyết định đó, hay là do bạn không làm, hay là do bạn làm khác? Mỗi người có vai trò, phần việc của mình và nên trung thành tuyệt đối với vai trò, phần việc đó, còn nếu bị hỗn loạn vai trò thì sẽ rất khó để truy cứu trách nhiệm và phát hiện nguyên nhân thành bại.


Chỉ có phục tùng quyết định của cấp trên mới quy trách nhiệm đúng người đúng chỗ vào chính ông ta. Rồi mới có thể rút kinh nghiệm được. Ở đây chúng lại quay trở lại vấn đề
trách nhiệm. Cách làm đúng đắn nói trên chỉ phát huy hiệu quả khi trách nhiệm được quy định cụ thể chi tiết rõ ràng. Việc ra quyết định mà không rõ trách nhiệm thuộc về người ra quyết định đó là việc tối kỵ trong mọi quan hệ làm việc nhóm.

Rất tiếc hiện rất nhiều công sở nhà nước, tư nhân và thậm chí các công ty nước ngoài do người Việt quản lý ở Việt Nam cũng mắc căn bệnh nguy hiểm đó. Cấp trên ra quyết định nhưng cấp dưới phải chịu trách nhiệm, hoặc trách nhiệm không rõ ràng, đây là sự hỗn loạn trách nhiệm, vô nguyên tắc, và là một trong những căn bệnh tối kỵ trong làm việc nhóm.


Nó làm cho cấp dưới không dám phục tùng cấp trên, nhân viên không dám tuân thủ quyết định của xếp, vì sợ sai rồi chính họ phải gánh trách nhiệm, tổn hại cho uy tín, thương hiệu của họ. Đưa đến một không khí quan hệ công việc
không tin tưởng và tôn trọng nhau. Nó làm rối nùi và rối loạn, và rất khó truy nguyên nguồn gốc, nguyên nhân của sự thất bại hay sự thành công. Không hiểu do đâu thất bại, quyết định của xếp sai, hay do nhân viên không làm đúng theo, hay làm khác đi, hay do xui xẻo. Còn khi thành công thì không biết nhờ quyết định của xếp, hay nhờ nhân viên làm khác, hay do may mắn. Thế là rất khó rút kinh nghiệm. Dù thành hay bại thì đều không rõ trách nhiệm thuộc về ai, từ đâu mà có thành - bại đó. Trong nhiều môi trường làm việc thiếu lành mạnh: Khi thành công thì xếp hưởng, khi thất bại thì nhân viên chịu. Đây là căn bệnh quản lý vô cùng nguy hiểm tiềm tàng trong mỗi cơ quan, công sở.

Một số người từng phản bác ý trên rằng: Ông Kim Ngọc, ông Nguyễn Bá Thanh ở Đà Nẵng, ông Nguyễn Sự ở Hội An có vài quyết định không đúng ý của đa số, của trung ương, của cấp trên, nhưng những quyết định đó lại đúng đắn. Vậy thì phải chăng quan niệm "cấp dưới phục tùng cấp trên, địa phương phục tùng trung ương, thiểu số phục tùng đa số" là sai?


Dùng 3 ví dụ trên để phản bác là một sai lầm. Vì cả 3 nhân vật lãnh đạo địa phương đó đều có phục tùng cấp trên, trung ương, đa số, và làm đúng theo quyết định của TƯ một thời gian dài, và
sau khi đã thấy quyết định đó, cách làm đó không hiệu quả, kiến nghị lên cao nhưng lại không thay đổi được. Thì họ mới quyết tâm làm một vài việc khác đi, có vài cách làm khác đi cho phù hợp với thực tiễn địa phương và có lợi cho dân. Nghĩa là trước khi họ làm khác ý của TƯ thì họ đã từng làm đúng theo ý của TƯ rồi, và sau khi thấy rõ là ý của TƯ không hiệu quả trong địa bàn của họ, thì họ mới thay đổi sang cách làm riêng cho phù hợp hơn.

Nếu ông Kim Ngọc, ông Nguyễn Bá Thanh, ông Nguyễn Sự không từng làm theo ý TƯ ngay từ đầu thì làm sao họ biết được cách đó là không hiệu quả để mà thay đổi cách làm? Ví dụ ông Kim Ngọc nếu không một thời gian dài làm đúng theo chỉ thị của trên về kinh tế, về nông nghiệp, thì làm sao ông ta biết đó là những cách làm không hiệu quả và từ đó mới sáng tạo ra các "khoán" để thúc đẩy chất lượng nông nghiệp?


Như vậy, 3 lãnh đạo đó về chiến thuật thì họ sáng tạo và có cách làm riêng, song về chiến lược chung, mục đích chung, mục tiêu lớn, về đường lối, chủ trương, thì họ đương nhiên vẫn phục tùng TƯ, đa số, cấp trên. Họ thay đổi chiến thuật là vì lợi ích chiến lược, vì mục tiêu chung, chủ trương, đường lối của Đảng, của TƯ, của cấp trên, và vì lợi ích chung, lợi ích đa số, lợi ích nhân dân.


Và trước khi họ làm khác ý TƯ và cấp trên thì họ đã làm đúng ý của TƯ và cấp trên rồi. Sau khi đã làm rồi thì họ mới thấy một vài cách làm đã không hiệu quả. Và vì vậy họ mới có thể rút kinh nghiệm, rút ra những bài học, và chuyển sang cách làm khác hiệu quả hơn.


Có người lại thắc mắc hỏi: Trong thời bao cấp, nhiều đồng chí lãnh đạo ở các địa phương lớn như Hà Nội và TPHCM đã từ chối làm theo một số chỉ đạo miệng và một số quyết định quái gỡ từ một người nào đó ở trên, như vậy có phải những lãnh đạo địa phương đó đã đi ngược lại nguyên tắc "cấp dưới phục tùng cấp trên, địa phương phục tùng trung ương, thiểu số phục tùng đa số"?


Trong những trường hợp này, quyết định của các lãnh đạo địa phương là không hề đi ngược lại nguyên tắc đó. Vì một vài quyết định "xanh rờn" lúc đó là không phải của trung ương, của TƯ Đảng, của Đảng, của Quốc hội, của đa số, hay của cấp trên của những lãnh đạo địa phương đó, đến nay người ta vẫn không hiểu đó là những quyết định của ai.


Khi có những "chỉ đạo miệng" không rõ trách nhiệm của ai, có những quyết định thậm chí không biết là của ai, không biết do ai làm, có vẻ mờ ám, thì các lãnh đạo địa phương có quyền tự quyết xem quyết định đó có hợp lý hay không để tuân thủ hay không. Họ không đi ngược lại nguyên tắc đó.


Lại có người cãi: Nếu nhà khoa học, thiên văn học Galileo mà "phục tùng đa số" thì có thể ngày nay chúng ta vẫn tưởng rằng mặt trời bay quanh trái đất, chứ không phải trái đất bay quanh mặt trời.


Đây là ngụy biện, vì Galileo không có quan hệ công việc với Giáo hội Công giáo Rôma. Giáo hội không phải là cấp trên, hay là trung ương của ông ta. Và trước khi hình thành thuyết Nhật Tâm (trái đất và các hành tinh bay quanh mặt trời) thì ông ta đã từng tin vào thuyết Địa Tâm (mặt trời và các hành tinh bay quanh trái đất) ghi chép trong Thánh Kinh. Và sau khi thực nghiệm, kiểm chứng bằng khoa học, thiên văn học, thì ông ta mới thấy được và đã chứng minh được thuyết Địa Tâm là sai và thuyết Nhật Tâm của ông ta là đúng, và do đó ông ta mới hình thành quan điểm đó. Đây là vấn đề khoa học và tranh luận ngoài lề, không liên quan gì đến vấn đề chính trị hay quan hệ làm việc nhóm, quan hệ công việc đang bàn ở đây.


Trong lãnh vực chính trị vốn không có gì là tuyệt đối. Đôi khi cũng hiếm hoi có những trường hợp ngoại lệ. Tuy nhiên, về cơ bản thì nên tuân thủ nguyên tắc "cấp dưới phục tùng cấp trên, địa phương phục tùng trung ương, thiểu số phục tùng đa số".


Mỗi nơi, mỗi công ty, mỗi đội ngũ đều có những đặc điểm thực tiễn khác nhau cho nên chỉ có những lãnh đạo ở đó mới tính toán được nên làm ra sao, phải có cách như thế nào. Mình cũng không biết gì nhiều về những nơi khác hay các công ty ở Việt Nam nên mình không thể bàn về cụ thể cách làm ở những nơi đó được, mình chỉ có thể nói cụ thể cách làm của mình trong công ty mình đang phục vụ. Cách này chưa chắc hiệu quả ở VN hay các công ty khác nhưng lại khá hiệu quả với mình. Đó là đòn "tâm lý chiến" đánh phủ đầu ngay từ đầu. Trong buổi phỏng vấn tuyển dụng, mình cho camera quay công khai, nói cho họ biết đây là cuộc phỏng vấn công khai, minh bạch (transparent), rằng mình sẽ ghi âm và ghi hình cuộc phỏng vấn này rồi sau đó mình và các cộng sự sẽ xem lại và đánh giá. Và đúng là chúng tôi thật sự làm như vậy.


Trong cuộc phỏng vấn, người phỏng vấn sẽ "vỗ mặt" và "đánh vần ra ("spell out") các khả năng gian lận" cho người xin việc, ví dụ như hối lộ, tặng quà (bên đây không văn hóa phong bì trần trụi lộ liễu nhưng cũng có các hình thức hối lộ quà cáp khác), đổi tình lấy vị trí (không chỉ người nữ mà người nam cũng có thể làm, không cần là đồng tính, người nam có thể thỏa thuận cho vợ hay bạn gái mình làm thay việc đó), ăn hoa hồng trái phép v.v. Chọn lọc trích dẫn kể lại một vài câu chuyện đã xảy ra trong công ty để minh họa, làm ví dụ cho họ hình dung rõ ra.


Người phỏng vấn cho người xin việc biết một số ví dụ, một số "tấm gương" cụ thể, và hậu quả của sự sai lầm đó. Cho họ biết đây là điều lệ công ty có ghi trong hợp đồng, nếu ông vi phạm thì ông sẽ bị sa thải và công ty sẽ không giúp ông giấu diếm chuyện này. Nghĩa là nếu các công ty mà ông xin việc sau này mà gọi chúng tôi để hỏi về ông thì chúng tôi vẫn có quyền tiết lộ ra mà không phạm pháp, vì đã có ghi trong hợp đồng từ trước. Như vậy, nếu mà người đó đã "dính phốt" rồi thì gần như ông ta là sẽ rất khó khăn để có được những việc làm tốt sau này.


Tại Việt Nam là một xã hội còn duy tình, nên nhiều khi đang có không khí vui vẻ thì không ai muốn "dằn mặt" máy móc kiểu này. Tuy nhiên dân gian Việt Nam cũng có câu "Nói gần nói xa không qua nói thật." hay "Mất lòng trước, được lòng sau."


Tại VN, do còn yếu kém trong khâu phát hiện tài năng trẻ, những tài năng ít kinh nghiệm, cho nên có một số nhà quản lý có kinh nghiệm lâu năm và có chút tên tuổi, tiếng tăm thì thường mắc bệnh "ngôi sao", trở nên kiêu ngạo. Và do đó khó mà "dằn mặt" nổi những người này. Không khéo họ sẽ "làm mình làm mẩy" bỏ về, đi tìm công ty khác.


Tuy nhiên, ở Mỹ và các nước phát triển, có nhiều nơi trong nhiều lãnh vực khác nhau, những kẻ không nghe lời cấp trên, không nghe theo đa số như vậy thường trước sau gì cũng bị thay thế.


Trong lãnh vực thể thao, những đội bóng mạnh nhất Hoa Kỳ thường có hệ thống kỷ luật trên dưới rõ ràng như vậy, không để loạn vai trò. Cầu thủ mà không nghe lời huấn luyện viên, trợ lý mà không nghe lời huấn luyện viên trưởng thì người đó sớm hay muộn sẽ bị thay thế. Có một số cầu thủ, nhân viên "ngôi sao" có thể tồn tại lâu hơn, nhưng khi có người thay thế tạm được thì những người này cũng sẽ được thay thế.


Khi làm việc nhóm thì tính kỷ luật và sự thích hợp trong sự làm việc, hợp tác với nhau, sự ăn ý với nhau là quan trọng và đưa đến hiệu quả hơn nhiều so với tài năng cá nhân của 1 người, cho dù người đó tài giỏi đến đâu.


Một người nhà mình hồi xưa ở Gò Vấp, TPHCM kể chuyện có một ông nhà nghèo, mẹ bệnh, nên đi ăn trộm với giật đồ hoài không chừa, thả ra rồi lại trộm tiếp, ở tù vài ngày vài tháng ra rồi lại chứng nào tật nấy. Có một ông công an khu vực có cách làm khác, cho một tên giang hồ hoàn lương từng chịu ơn ông này đi theo dõi ông đạo chích. Sau đó đích thân gặp ông đạo chích "dằn mặt" ngày X, giờ X mày làm gì, ăn trộm nhà nào, lấy món đồ gì, ở con đường nào, giật đồ móc túi ra sao, gần như là "đánh vần" ra sinh hoạt hàng ngày của tên trộm đó. Rồi cuối cùng nhấn mạnh lần này mà mày bị bắt thì không phải chỉ ở tù vài tuần như trước, mẹ mày coi như thua, trong bệnh viện không ai trông nom chăm sóc. Thế là lão này sợ quá đi tìm việc, cuối cùng tìm được một chân bảo vệ. Từ đó Gò Vấp không còn tay trộm đó nữa.


Vấn đề chính ở đây là một sự minh bạch, thẳng thắn, không hẳn là dằn mặt hay đe dọa, mà đơn giản là nói thẳng cho họ biết bao nhiêu "chiêu thức" gian lận thì chúng tôi đã biết rất rõ như lòng bàn tay, nếu ông phạm phải thì chúng tôi sẽ làm với ông như vậy, như vậy.... Như vậy về mặt tâm lý, chắc chắn kẻ đó sẽ phải "khớp" phần nào mỗi khi nảy sinh ý định càn quấy. Khả năng, cơ hội, phần trăm kẻ đó "gây án" ít nhiều gì cũng sẽ có giảm bớt. Tương tự như bọn ăn trộm thấy nhà nào tối om thì họ mới dễ nổi máu hành động, chứ nếu họ thấy nhà đó đèn sáng ở ngoài, chó sủa ầm ỉ, hoặc nếu hắn biết nhà nào đó có gắn hệ thống an ninh, có camera, có hệ thống báo động, thì chắc chắn hắn sẽ phải "khớp". Cơ hội hắn gây án hay làm những việc tiêu cực là không cao bằng so với trường hợp không có rào cản nào.


Một trong những biện pháp chính khác là tuyên truyền, giáo dục, quảng bá, "tiếp thị" một cách khôn khéo các giá trị truyền thống, đạo đức, gương sáng và các yếu tố tích cực để góp phần giữ cho người ta vẫn là người tốt, hạn chế phần nào sự biến chất, thoái hóa, tự diễn biến thành người xấu, giữ cho người ta
kiên định không làm bậy.

Vai trò báo chí cũng rất quan trọng, nhưng báo chí nước mình bây giờ như có một thế lực vô hình nào đó trói chân tay lại mỗi khi họ muốn "đụng chạm" đến đối tượng cụ thể nào đó.


Báo chí cứ chửi chung chung, dù chửi sai, chửi bậy, có hại cho chế độ và xã hội cũng chẳng sao, nhưng cứ mỗi khi "đụng chạm" cụ thể đến ai đó, hoặc công ty, lãnh vực nào đó, hoặc nhóm cụ thể nào đó là y như rằng sau đó bài báo bị gỡ bỏ.


Có nhiều dấu hiệu cho thấy rằng việc "đập" một kẻ tham nhũng, một quan tham nào đó trên báo là quá khó khăn. Trong khi những bài báo chửi sai chửi bậy chung chung, đá đểu, đá xoáy chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Marx Lenin, đón gió trở cờ, xét lại, cổ vũ sự chệch hướng, "ca ngợi" lính ngụy, những bài "tâm sự" hư cấu, "giới tính" rẻ tiền đồi trụy để câu khách, câu view, nhiều bài đọc không khác gì truyện khiêu dâm, thậm chí có một số bài báo còn cổ vũ cho lối sống gấp sống vội, sống thử, đa thê, ngoại tình. Những nội dung đó thấy nhiều trên các tờ báo lá cải. Nó vẫn ở đó, chẳng ai bị sao cả. Nhưng bài nào mà dám "đụng chạm" đến cụ thể đối tượng nào đó thì khó khăn đủ điều.


Như vậy có một số vị tai to mặt lớn còn lo thân của quý vị còn hơn cả lo cho chế độ này. Vậy thì người dân chúng tôi lo cho cơ đồ này làm gì nữa? Báo chí nó động đến mình hay người nhà, bạn bè, đồng bọn cùng cánh thì mình ra tay ngay, lập tức đi tìm tay tổng biên tập dúi phong bì hoặc dùng quan hệ, dùng quyền uy gọi điện bảo rút bài. Còn báo chí nó động đến lịch sử, đến cơ đồ, đến cách mạng, đến cả tên nước, đến cả quốc ca, đến văn hóa, đến đạo đức v.v. thì "có phải chuyện của tao đâu".


Cần làm sao để cho báo chí phát uy sức mạnh của mình, đúng nghĩa là quyền lực thứ 4. Nên tạo điều kiện cho phóng viên, nhà báo thoải mái hơn, tự do hơn, dễ dàng hơn trong nhiệm vụ chống tha hóa, chống tham nhũng trong xã hội, để đẩy lùi dần những đen tối xong xã hội và làm cho xã hội sạch lại dần, chế độ sạch lại dần, Đảng sạch lại dần. Chứ chống tham nhũng mà khó khăn trăm bề như vầy thì làm sao làm việc? Ai làm việc được?


Mình có người nhà trong ngành báo chí, cũng có người nhà trong ngành công an. Công an và báo chí thì cứ hay "chửi" nhau hoài. Mình nghe cả hai quan điểm đối lập của mấy người này cũng nhiều. Nhưng trong vấn đề chống tham nhũng, chống tiêu cực này thì mình nghĩ bên báo chí họ có lý hơn, cần phải tạo điều kiện thuận lợi, thuận tiện hơn cho họ tác nghiệp. Tuy nhiên, có những trường hợp công an khi điều tra án phải tạm giữ bí mật để phăng ra cả một đường dây, cánh báo chí cũng nên tôn trọng vấn đề này.


Đồng thời, cần kiện toàn hệ thống luật pháp, tư pháp, để trường hợp có những phóng viên, nhà báo tiêu cực, những "con sâu" trong làng báo mà nhận tiền ai đó để làm bút nô, văn nô, bồi bút hãm hại người khác, "nói láo ăn tiền", chụp mũ, vu cáo, thì người bị hại có sự thuận lợi dễ dàng để thưa kiện kẻ đó ra tòa, hoặc thưa kiện tờ báo, tòa soạn, tổng biên tập.


Nhờ hệ thống tư pháp khá tốt và mạnh nên dù Mỹ có nền báo chí tư nhân nhưng không ai dám tùy tiện chụp mũ, vu khống bừa bãi. Làm ẩu là bị kiện ngay. Dù ông thắng kiện thì ông cũng vẫn sẽ bị phiền phức, tốn tiền, và mất công, mất thời gian rất mệt mỏi, ông phải nghỉ làm, nghỉ việc rất nhiều ngày để đi hầu tòa, gặp phiền hà với các luật sư, các thủ tục pháp lý v.v.. Cho nên nếu không có nhân chứng, vật chứng rất rõ ràng, rất thuyết phục thì chẳng ai dám và chẳng ai ngu ngốc mà lên báo tự làm xấu mình và để cho công chúng chê cười cả. Đây là vấn đề hay mà chúng ta nên học.


Phát triển kinh tế, chăm lo và cải thiện cuộc sống mọi người để không cần gian lận mà vẫn đủ sống là một trong những vấn đề quan trọng bậc nhất.


Chăm lo phát triển kinh tế, cải cách tiền lương và nhân sự hợp lý, cải cách tiền lương đương nhiên phải đi đôi với cải cách công tác cán bộ, nhân sự. Nếu có quá nhiều công chức, nhân viên "ăn bám", làm ít hưởng nhiều, "sáng cắp ô đi, tối cắp về", thì sẽ rất khó cải cách tiền lương hay tăng lương.


Có người cho rằng tại sao có những người giàu rồi mà vẫn làm bậy. Họ cho rằng một cán bộ liêm khiết thì phải là người "đói cho sạch, rách cho thơm". Tuy nhiên, câu đó nói đến một chuẩn mực cao nhất của con người, mà thật sự trên thế gian này những người "đói cho sạch, rách cho thơm" là rất hiếm.


Mỹ là nước ít tham nhũng và mình ở Mỹ đến bây giờ mình chưa thấy một ai, cả người Mỹ lẫn người Việt, dù màu da gì, xuất thân từ đâu, mà là người "đói cho sạch, rách cho thơm". Điều đó không phù hợp với nhu cầu thực tế của con người, con người thì cần ăn uống, cần tiêu xài, cần trả nợ, nói trắng ra là cần tiền, cần đủ sống.


Hoàn cảnh thực tế có bao nhiêu người rất tốt từ nhỏ, sống thật thà, ngay thẳng, hiền lành, nhưng vì người thân bị bệnh vào nhà thương không có tiền trả, hoặc có người nhà bị bệnh nghiện ma túy hoặc nghiện cờ bạc, họ phải tốn nhiều tiền bạc, bán nhà cửa ruộng vườn, mượn tiền cho cho vay nặng lãi rồi sau đó không trả được. Những nạn nhân đó bị bọn xấu dụ dỗ, đe dọa, ép buộc, dồn vào đường cùng, sau đó nhắm mắt đưa chân.


Và sau khi đã bắt đầu làm những chuyện bất nghĩa bất chính, gian lận được 1 lần rồi sẽ có lần 2, lần 3, lần 4 và những lần sau. Đối với một con người, sự bắt đầu gây án mới khó, và khi họ đã gây án được lần đầu thì tính chất, tánh tình, tính cách, con người của họ bị biến dạng dần, ăn quen, làm việc bất nghĩa thành quen. Các hành động xấu xa, gian lận đã trở thành thói quen trong sinh hoạt hàng ngày.


Một đôi giày còn mới, còn sạch, còn đẹp, thì người ta mới chú ý giữ nó. Khi đôi giày đó dẫm lên bùn lên phân dơ bẩn rồi thì họ sẽ không lo giữ đôi giày đó nữa, sau đó họ có thể dẫm đôi giày đó lên bao nhiêu cái khác nữa mà họ không còn thấy tiếc nuối, không còn cảm giác gì cả.


Khi quen với tội lỗi thì không còn cảm giác mặc cảm, tội lỗi nữa. Liêm sỉ dần biến mất hồi nào không hay. Khi cái tội lỗi, giả dối, cái không bình thường đã trở thành cái bình thường.


Đó là tâm lý bình thường của con người, của tội phạm. Đó là lý do vì sao có những kẻ tốt từ nhỏ nhưng lớn lên thành xấu, và sau khi giàu rồi vẫn tiếp tục gian tham, tham nhũng, làm chuyện bất nhân bất nghĩa.


Cho nên một trọng tâm chiến lược quan trọng là phải cải cách tiền lương để cho người ta
không cần cái "lần đầu gây án" đó. Cải thiện gia cảnh, cuộc sống của họ. Để cho lương bình thường của họ được đủ sống, phù hợp với thị trường.

Lương bổng của các nhà quản lý, viên chức, nhân viên phải ít nhất ngang bằng với lương của các công ty tư nhân cho một nhân viên có cùng chức vụ và vai trò tương đương, hay chí ít không quá thấp hơn, nếu muốn giữ cho họ không cần phải kiếm thu nhập khác (mà thường là bằng cách gian lận, không trong sáng, vòi vĩnh phong bì) và giữ được sự cạnh tranh kinh doanh công bằng mà không cần Nhà nước can thiệp. Lương phải phù hợp với thị trường. Lương bổng ít nhất phải ngang bằng với các nước khác có cùng mức phát triển kinh tế như Việt Nam. Công bằng lương bổng đi đôi minh bạch thông tin để yên dân.


Muốn cải cách tiền lương thì ngoài việc phát triển kinh tế ra còn cần một hệ thống lương bổng công bằng, phù hợp với cống hiến và công lao người nhận lương bỏ ra. Đàng này có quá nhiều cán bộ "sáng cắp ô đi, tối cắp ô về", không làm gì nhiều, không có nhiệm vụ, vai trò, phần việc gì thực tế, cụ thể, rõ ràng, mà cứ thế nhận lương Nhà nước. Mà tiền Nhà nước chính là tiền đóng thuế của nhân dân. Như vậy ở đây là một lãng phí to lớn, bất công, và có thể tiềm tàng những rạn nứt nguy hiểm. Ngay từ thời chống Pháp thì Bác Hồ đã chỉ ra rằng mức độ hậu quả của tệ nạn lãng phí là tương đương với tệ nạn tham nhũng.


Một biện pháp then chốt rất quan trọng là: Trừng trị nghiêm khắc để người ta
không dám làm bậy. Phạt đi đôi với thưởng, "thưởng" đây có nghĩa lương tốt, bonus hậu, nghĩa là làm sao đó để cho những người làm những việc tốt thì sẽ được tốt, và người ta không cần phải gian lận, luồn lách mờ ám hay xây dựng quan hệ gì quá đặc biệt, chỉ cần bình tâm tập trung lo tốt phần việc chuyên môn của mình mà vẫn được sung túc, có cuộc sống chất lượng, các nhu cầu thiết yếu của con người được bảo đảm.

Kỷ luật là mẹ thành công. Biện pháp phạt nặng, trừng trị nghiêm minh sẽ đóng góp rất lớn cho công cuộc chống tham nhũng, chống tha hóa. Tuy nhiên, đó không phải là tất cả. Ví dụ Trung Quốc đã xử bắn bao nhiêu lãnh đạo cấp cao nhưng kết quả chống tham nhũng của họ vẫn không được tốt lắm.


Hơn nữa, hình phạt nặng thì phải đi đôi với công tác bảo vệ người chống tham nhũng, hình phạt càng nặng thì công tác bảo vệ người tố giác tham nhũng phải càng mạnh. Bởi vì mức phạt càng nặng thì động cơ ngăn trở, dằn mặt, ám hại, trả thù người tố cáo tham nhũng lại càng lớn.


Nên chú trọng nghiên cứu cách chống tham nhũng của ai?


Trong số tất cả các quốc gia dân tộc trên thế giới hiện nay, tôi nghĩ Singapore là nước mà chúng ta nên chú trọng tham khảo, nghiên cứu thật kỹ, rà soát các cách làm của họ. Thấy cái gì phù hợp thực tiễn Việt Nam và nhắm sẽ có hiệu quả thì hãy quyết đoán làm ngay.


Thứ nhất: Singapore, theo thống kê của Tổ chức Minh bạch Quốc tế, là quốc gia nằm trong nhóm có mức độ tham nhũng thấp nhất trên thế giới. Họ phòng chống tham nhũng rất tốt.


Thứ hai: Singapore có được sự trong sạch như vậy không nhờ vào sự thuận lợi của một nền tảng tốt đẹp đầu tiên, họ đã từng rất bê bối, sau khi Lý Quang Diệu dùng những biện pháp mạnh mẽ, quyết đoán và thông minh thì bộ máy công quyền nước này mới dần đi vào khuôn khổ. Nếu chịu khó nghiên cứu thật kỹ càng giai đoạn chuyển biến từ bê bối đến ngăn nắp này của Singapore sẽ rất có ích cho Việt Nam.


Thứ ba: Singapore và Việt Nam có bản chất chính trị gần giống nhau. Đều thực chất là 1 đảng chính trị lãnh đạo mọi mặt của xã hội. Quyền lực tập trung vào 1 chính đảng. Những thành viên Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội, trong bộ máy công quyền hầu hết đều là người của gia tộc họ Lý và đảng của Lý Quang Diệu, từ Lý Quang Diệu đến Lý Hiển Long. Đến nỗi thế giới không có bao nhiêu người nhớ tên đảng của Lý Quang Diệu là gì, họ chỉ cần biết đó là đảng của nhà họ Lý.


Thứ tư: Singapore và Việt Nam có văn hóa gần giống nhau, trong đó có văn hóa chính trị. Văn hóa Singapore về cơ bản chính là văn hóa Trung Hoa, trên đảo này đa số cư dân là người Hoa. Chính người Hoa đã lập quốc ở đây. Gia đình Lý Quang Diệu là người Hán. Văn hóa Việt Nam chịu ảnh hưởng rất lớn từ văn hóa Trung Hoa.


Điều đặc biệt nữa là người Việt và người Hoa xưa nay có những tính cách rất giống nhau mà rất dễ xảy ra gian lận, đi sau lưng, luồn lách, tham ô. Ví dụ những đặc tính trọng tình hơn lý, ưu tiên cho các quan hệ cá nhân (ân nhân, thân nhân, bằng hữu v.v.), đặt tư lợi lớn hơn công lợi. Đây là văn hóa hủ tục tàn dư tiểu nông, phong kiến truyền lại từ xưa.


Người Singapore cũng là người Trung Hoa, cho nên thời gian đầu lập quốc thì họ cũng rất bê bối như vậy, không cao đẹp gì hơn phong kiến Trung Hoa và Đại Việt. Vậy mà chỉ một thời gian sau, những người cầm quyền ở đảo quốc này vẫn chống tham nhũng thành công và biến nơi đây thành một trong những quốc gia có bộ máy công quyền trong sạch, công bằng nhất thế giới. Đây là thành công mà chúng ta rất nên nghiên cứu thật kỹ và học hỏi cho bằng được.


Tổng kết


Nên đặt trọng tâm vào 3 vấn đề quan trọng nhất. Một là đổi mới công tác cán bộ, nhân sự, trong đó quan trọng nhất là công tác tuyển dụng, đi đôi với đào thải. Vấn đề quan trọng là nằm ở con người. Và tuyển người phải kết hợp với sa thải, theo quy luật nạp vào đi đôi với thải ra. Nếu không thải ra, loại bỏ ra dần các phần tử xấu thì người tốt vào cũng sẽ "gần mực thì đen".


Hai là vấn đề đổi mới, cải tiến cơ chế. Mà trong đó vấn đề công tác nhân sự và vấn đề cơ chế là có quan hệ gần gũi mật thiết với nhau. Vì không thể trông cậy, chờ đợi vào sự tự giác được nữa, như các phân tích ở trên, phải có cơ chế, bao gồm những biện pháp, cách làm, chiến thuật thúc đẩy, "ép bức" họ buộc phải đưa người vừa hồng vừa chuyên vào làm việc.


Ba là vấn đề cải cách tiền lương. Vấn đề này quá rõ ràng, quá cần thiết, nhưng nhiều người vì lý do nào đó lại lờ đi, coi như không quan trọng. Trong khi đây là vấn đề rất quan trọng và là một trong các vấn đề chính.


Có những người ở ngoài nói đạo đức suông "đói cho sạch, rách cho thơm" nghe rất hay. Nhưng họ không hiểu những hoàn cảnh khác. Nếu họ có mẹ hiền đang bệnh tới bệnh lui mà không có tiền thuốc thang, nếu họ có người thân đang nằm viện mà thiếu tiền chạy chữa, nếu họ hay người thân yêu của họ đang thiếu nợ ai đó, bọn cho vay nặng lãi chẳng hạn, sắp tới kỳ hạn trả mà không biết đào đâu ra tiền để trả, thì họ sẽ không nói chuyện đạo đức suông như vậy.


Có những người không thể tốt hơn, không thể lương thiện hơn, đến mức có thể họ thà chết đói mà vẫn không làm bậy. Nhưng còn bố mẹ, vợ con, người nhà họ thì sao? Con người là có trách nhiệm. Đâu phải người nào cũng không có những vướng bận.


Nhà mình có người làm công an hình sự. Anh ta kể ra bao nhiêu trường hợp, có thể nói là gần 60% trường hợp phạm tội, đặc biệt là trong lãnh vực buôn bán ma túy, là xuất phát từ những hoàn cảnh trên. Họ đều là những người tốt thật sự bị hoàn cảnh, bị cái nghèo, bị nỗi khó khăn, bị trách nhiệm với người thân đẩy họ vào hàng ngũ kẻ xấu, và sau một thời gian khi đã gây án thành quen thì họ quen thuộc và biến chất dần. Những người tốt làm chuyện xấu lâu ngày và dần trở thành người xấu.


Không có tiền thì không làm gì được, nhất là trong một nền kinh tế thị trường, sự hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Nên nhìn nhận thực tế vấn đề này.


Nên nhanh chóng cải cách tiền lương triệt để. Rà soát và xem xét lại hết. Trong khi chờ đợi kinh tế phục hồi và tiếp tục phát triển, thì nên tinh giản hóa lại bộ máy. Nếu có quá nhiều cán bộ thuộc thành phần "ăn bám nhà nước", "ăn bám nhân dân", lãnh lương từ tiền thuế của dân mà không làm gì, không đóng góp thì nhiều, thì nên cho họ ra đi tìm việc khác. Chứ nếu tồn tại quá nhiều cán bộ, trả lương cho quá nhiều cán bộ, thì khó thể tăng lương cho những người thật sự đóng góp, rất khó cải cách tiền lương mà không bị lạm phát. Việc tồn tại những cán bộ "ăn bám" như thế này còn là một sự lãng phí và cũng có thể coi là một hiện tượng tham nhũng, có hại cho nước cho dân.


Đó là 3 vấn đề chính. Còn 2 vấn đề phụ: Một là vấn đề tuyên truyền giáo dục đạo đức cách mạng, quảng bá cái tốt, tiếp thị cái chân - thiện - mỹ, giới thiệu những tấm gương sáng trong xã hội, để góp phần giữ cho mọi người vẫn là người tốt, góp phần "níu kéo" lại phần người trong mỗi công dân, để người ta "dị ứng" với việc xấu, tránh xa việc xấu, kiên định từ chối làm việc xấu.


Tuy nhiên, đó vẫn chỉ là cái phụ, vì theo ví dụ đã trình bày ở trên, người tốt nhất đi nữa mà khi lâm vào đường cùng, lâm vào hoàn cảnh khó khăn, thì cái tốt đó sẽ không giúp gì được nữa. "Có thực mới vực được đạo".


Hai là trừng phạt nghiêm minh và hình phạt đủ nặng, đủ mạnh, để người ta không dám làm việc xấu, để có tác dụng răn đe đủ lớn. Tuy nhiên vấn đề này không quan trọng bằng 3 vấn đề chính nêu trên, vì đó chỉ là trị cái "ngọn cây". Trung Quốc bắn chết bao nhiêu quan tham cũ thì bấy nhiêu quan tham mới xuất hiện, vì chỉ lo xử bắn mà không lo giải quyết các vấn đề liên quan khác.


Năm vấn đề đó, nhân sự, cơ chế, kinh tế/tiền lương, giáo dục đạo đức, trừng trị nghiêm minh đều cần làm đồng bộ với nhau, vì nó đều quan hệ khá gần gũi mật thiết với nhau. Chứ không thể chỉ làm riêng rẽ duy nhất 1 cái được. Nếu chỉ lo 1 vấn đề này mà không lo đến vấn đề kia thì sẽ không hợp lý và không đem lại hiệu quả.


Nên chú trọng xây dựng một hệ thống, một xã hội thuận lợi cho việc nâng cao
chất lượng dịch vụ và sản phẩm. Chứ không thể đặt cược vào đất đai, tài nguyên, lao động tay chân mãi được.

Phát triển chỉ nhờ vào tài nguyên thiên nhiên và lao động tay chân là phát triển không lâu bền. Chất lượng dịch vụ và sản phẩm của dân tộc Việt Nam mà phát triển thì đất nước Việt Nam sẽ phát triển lâu bền.


Chất lượng dịch vụ và sản phẩm tốt, chất lượng cao, chính là cái gốc, cái nền của vấn đề dân giàu nước mạnh. Dù là công nghiệp nặng hay công nghiệp nhẹ, nếu dịch vụ của người Việt hay sản phẩm do người Việt làm ra được tốt, có chất lượng cao, sánh ngang được với hàng hóa quốc tế, thì Việt Nam sẽ thành một nước phát triển, và đó là sự phát triển bền vững, chắc chắn, lâu dài.


Thiếu Long

Chẳng có gì biếu không

Wisława Szymborska


Thái Linh dịch



Chẳng có gì biếu không, tất cả là vay mượn.
Tôi nợ ngập đầu.
Tôi sẽ phải gán mình
trả nợ cho bản thân,
mạng đem trả mạng.

Sự thể đã sắp đặt:

phải trả lại tim
phải trả lại gan
và từng ngón tay ngón chân.

Quá muộn để hủy hợp đồng.

Tôi sẽ bị lột da
tróc nợ.

Tôi đi giữa thế gian

trong đám đông những con nợ khác.
Vài kẻ mang gánh nặng
phải trả cánh của mình.
Những kẻ khác dù muốn dù không
đem lá ra thanh toán.

Bên Nợ đã ghi sẵn
mọi tế bào trong ta.
Không một tua lá, sợi mi nào
giữ lại được vĩnh viễn.

Danh mục ghi chi tiết

và xem ra
chẳng có gì còn lại của ta.

Tôi không thể nhớ ra

khi nào, ở đâu và để làm gì
tôi chấp nhận mở cho mình
tài khoản ấy.

Ta gọi sự phản kháng chống lại điều này

là tâm hồn.
Và đó là thứ duy nhất
không có trong danh mục nợ nần.


Nguyên tác:

 

Nic darowane, wszystko pożyczone.
Toną w długach po uszy.
Będę zmuszona sobą
zapłacić za siebie,
za życie oddać życie.

Tak to już urządzone,
że serce do zwrotu
i wątroba do zwrotu
i każy palec z osobna.

Za późno na zerwanie warunków umowy.
Długi będą ściągnięte ze mnie
wraz ze skórą.

Chodzą po świecie
w tłumie innych dłużników.
Na jednych ciąży przymus
spłaty skrzydeł.
Drudzy chcąc nie chcąc
rozliczą się z liści.

Po stronie Winien
wszelka tkanka w nas.
żadnej rzęski, szypułki
do zachowania na zawsze.

Spis jest dokładny
i na to wygląda,
że mamy zostać z niczym.

Nie mogę sobie przypomnieć
gdzie, kiedy i po co
pozwoliłam otworzyć sobie
ten rachunek.

Protest przeciwko niemu
nazywamy duszą.
I to jest to jedyne,
czego nie ma w spisie.

Thứ Năm, 29 tháng 8, 2013

Tản mạn nghìn mắt nghìn tay



Ngày Tết dân ta có thói quen lên chùa cầu phúc cầu an. Vãn cảnh chùa ngày đầu năm mới, vì thế đã dần dà trở thành nét văn hóa của người Việt, không chỉ với phật tử hoặc người trọng tuổi, mà ngay cả những người trẻ, như một vô thức hiển nhiên.
Trong không khí thanh tịnh và mát lạnh của buổi sáng sớm, không gì thú hơn là được thong thả đưa bước trong vườn chùa, tản mạn nghĩ về người, về mình, về cõi sắc không, về ước vọng của một năm mới…
Rất có thể, tản mạn sẽ đưa bạn đến với một trong những thứ mà bạn vừa thấy trong chùa. Đó là bức tượng Phật Bà Quán Thế Âm Bồ Tát, thường được nhớ đến ở dạng nghìn mắt nghìn tay, trong mỗi bàn tay, lại có một con mắt. Lúc đó, có thể sẽ như tôi, bạn sẽ hỏi: vì sao lại nghìn mắt nghìn tay, chứ không phải là nghìn gì khác? Liệu có thông điệp nào của người xưa ẩn dấu trong bức tượng khác thường này?
Với người Việt, trong số những vị Phật và Bồ Tát, thì Phật Bà là gần gũi thân thương hơn cả. Mỗi khi gặp khó khăn thì người ta lại kêu cầu đến Phật Bà chứ không phải là Đức Phật nào khác. Cho đến giờ, đã có nhiều lý giải cho điều này, nhưng xem chừng vẫn chưa hoàn toàn thỏa đáng, ít nhất là với người viết bài này.
Vậy thì làm thế nào bây giờ? À, tốt nhất là làm theo lời Phật dạy: Đừng tin gì cả, hãy tự tìm lý giải cho mình.
Hãy bỏ qua sự tích, lai lịch, ý nghĩa và những giảng giải xưa nay về bức tượng này, để tập trung làm một việc thôi. Đó là hãy ngằm nhìn bức tượng kì lạ này như ta vốn thấy bằng mắt thường, rồi thong thả lần dò xem có điều gì ẩn dấu trong đó hay không?
Về hình tướng, thì tượng Phật Bà khác thường hơn hết thảy so với những bức tượng Phật khác: thay vì chỉ có hai mắt hai tay như các vị khác, tượng Phật Bà lại có đến những nghìn mắt nghìn tay. Liệu sự khác thường này có chỉ dấu gì cho việc người ta thường xuyên kêu cầu đến Phật Bà mỗi khi gặp khó khăn hay không? Nói cách khác, hình tướng nghìn mắt nghìn tay của Phật Bà như chúng ta thấy có phải là kết tụ của một tâm thức xã hội nào đó hay không?
Lần lại những dao tục ngữ, nơi được coi là kết tinh của kho tàng kinh nghiệm bình dân, ta thấy có câu: Giàu hai con mắt, khó hai bàn tay. Điều đó cho thấy, dân ta đánh giá rất cao tầm quan trọng của hai bộ phận taymắt. Muốn làm giàu thì phải có con mắt quan sát, phải biết nhìn ra cơ hội. Còn muốn vượt qua khó khăn thì phải nhờ đến đôi bàn tay, phải chăm chỉ làm lụng. Có phải vì thế mà mỗi khi gặp khó khăn quá lớn, không thể tự vượt qua, người ta lại nhớ đến Phật Bà – người có nghìn mắt nghìn tay –tức người có quyền năng lớn hơn người thường gấp nghìn lần, để tìm kiếm sự giúp đỡ.
Đã có người hỏi, vì sao không phải là nghìn mắt nghìn tai, liệu có sai sót nhầm lẫn gì giữa taitay ở đây không? Vì để biết được chúng sinh đang trầm luân bể khổ, thì không gì bằng thấy và nghe. Thấy bằng mắt, nghe bằng tai, nên nghìn mắt thì nên có nghìn tai tương ứng?
Rồi ta có thể đi xa hơn một chút nữa: vì sao nhân gian lại muốn người nghìn mắt nghìn tay làm Đấng cứu độ mà không phải là nghìn mắt nghìn tai, nghìn mắt nghìn mồm hay nghìn mắt nghìn gì khác nữa?
Ví như Đấng cứu độ có nghìn nghìn mồm, thì dân chúng chắc là hoảng sợ mà bỏ chạy hết. Các cụ đã chẳng nói miệng ăn núi lở đó sao. Mới chỉ có một miệng mà đã ăn lở cả núi, thì nếu có nghìn mồm, lại có cả nghìn con mắt để kiếm tìm, thì chắc là ăn hết cả xã tắc sơn hà.
Lại nữa, mỗi người mới chỉ có một miệng mà tiếng thị phi tranh cãi đã thấu đến trời xanh, nay lại có nghìn miệng thì chắc nhân gian chìm trong mớ hỗn thanh mà chết. Nên nhất định, Đấng cứu độ chúng sinh không thể có nghìn mắt nghìn mồm được.
Vậy nếu Ngài có nghìn mắt nghìn tai thì sao? Ngài có nghìn mắt để thấy chúng sinh trầm luân bể khổ, mỗi người một cách, có nghìn tai để nghe chúng sinh kêu than, mỗi người một kiểu. Đúng là rất hữu hiệu. Nhưng sau đó thì Ngài làm gì? Sẽ không làm được gì cả, vì Ngài đâu có tay để mà hành động. Sự tồn tại của Ngài phỏng có ích gì?
Vậy nên, Ngài có nghìn mắt nghìn tay là thích hợp hơn hết. Nghìn mắt để thấu hiểu nghìn hoàn cảnh khác nhau, để nhìn nỗi khổ đau của chúng sinh bằng đôi mắt của chính họ. Nghìn tay để hành động. Vì thấu hiểu rồi mà không làm gì cả thì thấu hiểu đó liệu có ích gì?
Nhưng để nhìn được như vậy, thì chỉ cần một đôi mắt là đủ, để cứu giúp thì chỉ cần một đôi tay là đủ, cớ sao phải dùng đến nghìn mắt nghìn tay cho thêm phiền phức?
À, thì ra để nhìn và hiểu chúng sinh, thì không thể chỉ dùng nhãn quan của chính mình. Phải nhìn bằng đôi mắt của họ, theo cách nhìn của họ, quan điểm của họ thì mới thấu hiểu được. Thấu hiểu rồi thì mới hành động cứu giúp được. Mà hành động cứu giúp này cũng phải tương ứng với sự thấu hiểu của từng tình huống. Nên có lẽ vì thế, người xưa đã để mỗi con mắt trong một lòng bàn tay tương ứng.
Phật Bà nghìn mắt nghìn tay có thật hay không, còn là điều khó lòng kiểm chứng, và thực ra cũng không quan trọng. Điều quan trọng là trong xã hội xưa, và cả ngày nay, thì người có thể tác động ngay lập tức đến số phận của dân chúng và có thể ra tay cứu giúp dân chúng là các bậc quan quyền. Nhưng có phải cửa quan xa xôi, người dân thấp cổ bé họng khó lòng nói nên ước vọng của mình, nên họ phải nhờ đến hình tượng Đức Phật nghìn mắt nghìn tay để gửi gắm.
Nếu vậy, thử suy đoán xem họ gửi gắm điều gì?
Họ muốn người công quyền hãy có nghìn con mắt khác nhau, để thấu hiểu cuộc đời bằng nghìn góc nhìn, nghìn quan điểm khác, chứ không phải là góc nhìn và quan điểm của kẻ làm quan. Chấp nhận nhiều góc nhìn và quan điểm khác nhau để thấu hiểu cuộc đời có thể gọi là gì, nếu không phải là dân chủ - theo ngôn ngữ hiệnđại: dân chủ trong nhận thức, không áp đặt quan điểm của mình cho kẻ khác.
Họ muốn người công quyền có nghìn đôi tay khác nhau, để làm theo nghìn cách khác nhau với mỗi trường hợp cụ thể. Làm theo nghìn cách khác nhau chứ không phải theo cách của nhà quan thì có thể gọi là gì, nếu không phải là dân chủ: dân chủ trong hành động, không áp đặt cách làm của mình cho kẻ khác.
Lại nữa, mỗi con mắt lại nằm trong lòng bàn tay, điều này có ý nghĩa gì? Có thể là gì khác, nếu không phải là: đã thấy thì phải hành động. Nếu người công quyền đã có dân chủ trong nhận thức, thì phải có dân chủ trong hành động nữa, thì mới có thể cứu vớt chúng sinh. Chứ nếu chỉ thấy thôi rồi bỏ đó, hoặc cái thấy và cái làm không tương khớp với nhau, thì cái thấy đó cũng chỉ là cái thấy vô nghĩa, kẻ công quyền đó cũng chỉ là kẻ vô tác dụng.
Như vậy, phải chăng ẩn dấu sau bức tượng nghìn mắt nghìn tay này là một ước vọng sâu xa về dân chủ - dân chủ trong nhận thức và hành động - mà người dân xưa gửi đến kẻ quan quyền? Ước vọng này qua bao đời vẫn còn nóng bỏng, vẫn được kì vọng sẽ là Đấng vạn năng cứu độ chúng sinh, nên mỗi lần gặp khó khăn hoạn nạn, chúng sinh vẫn kêu cầu đến?
Lại giật mình đánh thót, nếu có nghìn mắt nghìn tay mà không phải là để cứu giúp, mà là để soi tìm vơ vét khắp nhân gian, thì ôi thôi, người mà chúng sinh tưởng là Đấng cứu độ thì lại hóa ra nguồn khổ đau đại họa.
Ôi cõi đời u mê! Hình tướng giống hệt nhau mà người là Đấng cứu độ, kẻ mang tên Đại họa, làm sao chúng sinh phân biệt bây giờ?
Đành làm theo lời Phật dạy: Đừng tin gì cả, hãy đốt đuốc lên mà tự soi sáng cho mình.
Giáp Văn

Chuyện Voi


Có một anh nọ dắt một con Voi đến cho dân làng xem. Đám đông thi nhau bàn luận: Người khen tầm vóc, kẻ bình dáng đứng dáng đi; người chê bộ lông, kẻ bảo cái tên không được hay cho lắm… Thôi thì đủ cả.
Một anh đứng ngoài thấy vậy, trừng mắt: “Các anh sai hết cả rồi. Đây đâu phải là Voi!”
Đoạn, anh ta cầm dao cắt cái vòi đưa ra, hỏi:
“Đây có phải là Voi không?”
Đám đông lắc đầu.
Rồi anh ta lại cắt ngà, cắt tai, đưa ra hỏi:
“Đây có phải là Voi không?”
Đám đông lại lắc đầu.
Xong anh ta đi vòng ra sau, cắt đuôi giơ lên, hỏi:
“Đây nữa, có phải là Voi không?”
Đám đông hoang mang, lắc đầu.
Rồi anh ta chỉ con vật không vòi, không ngà, không tai, không đuôi, hỏi gắt:
“Cả cái này nữa, có phải là Voi không?”
Đám đông hốt hoảng lắc đầu quầy quậy.
“Vậy là rõ nhé. Chẳng có con Voi nào cả. Tôi đã nói với các anh rồi!”
Nhiều người gật đầu tán thưởng.
Đám đông giải tán.

Một người khả kính kể cho tôi nghe một câu chuyện hay. Tôi chép lại, như sau:
*
* *
Có một anh nọ dắt một con Voi đến cho dân làng xem. Đám đông thi nhau bàn luận: Người khen tầm vóc, kẻ bình dáng đứng dáng đi; người chê bộ lông, kẻ bảo cái tên không được hay cho lắm… Thôi thì đủ cả.
Một anh đứng ngoài thấy vậy, trừng mắt: “Các anh sai hết cả rồi. Đây đâu phải là Voi!”
Đoạn, anh ta cầm dao cắt cái vòi đưa ra, hỏi:
“Đây có phải là Voi không?”
Đám đông lắc đầu.
Rồi anh ta lại cắt ngà, cắt tai, đưa ra hỏi:
“Đây có phải là Voi không?”
Đám đông lại lắc đầu.
Xong anh ta đi vòng ra sau, cắt đuôi giơ lên, hỏi:
“Đây nữa, có phải là Voi không?”
Đám đông hoang mang, lắc đầu.
Rồi anh ta chỉ con vật không vòi, không ngà, không tai, không đuôi, hỏi gắt:
“Cả cái này nữa, có phải là Voi không?”
Đám đông hốt hoảng lắc đầu quầy quậy.
“Vậy là rõ nhé. Chẳng có con Voi nào cả. Tôi đã nói với các anh rồi!”
Nhiều người gật đầu tán thưởng.
Đám đông giải tán.

NÊN NHÌN NHẬN XÃ HỘI MỘT CÁCH CÓ HỌC.

Những suy nghĩ của mọi người đều giống nhau.Tất tất cả mọi người đều bàn về tự do, dân chủ, nhưng ở đây đề nghị mọi người tôn trọng cư dân mạng, không nên dùng những từ "tục tĩu, xỉ nhục" người khác. Dân chủ như thế nào đều thuộc vào bản chất, mục đích của Nhà nước, chính đảng cầm quyền Nhà nước đó, khi Nhà nước mang lại quyền lợi cho ai và như thế nào? Nhà nước XHCN hay TBCN đều vậy cả, quan trọng là Nhà nước đó có mục đích mang lại cho ai và có đại diện cho ý chí của đại bộ phận nhân dân xã hội đó hay không? Cho nên, vấn đề quy kết rằng "đa đảng" mới có dân chủ là hoàn toàn sai lầm, vì nền dân chủ của một quốc gia không đồng nhất với thể chế chính trị mà họ sống, quan trọng là thể chế đó có đáp ứng nguyện vọng của đông đảo nhân dân trong xã hội đó hay không? Còn về tham nhũng là bản chất của nhà nước, bất cứ nhà nước của giai cấp nào cũng tham nhũng hết, quan trọng là cơ chế quản lý và hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh như thế nào? Nói vậy để giải thích có hay không có sự đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập trong một Nhà nước thì vấn đề này vẫn xảy ra mà thôi. cho nên, việc quy kết của các Bác là độc đảng là tham nhũng tiêu cực, là quan liêu là hoàn toàn không có căn cứ để chứng minh.



Lại bàn về bài viết của ông Lê Hiếu Đằng thì tôi lại thấy buồn vì ông nói xấu Đảng nhiều quá. Là một đảng viên 45 tuổi đảng, một nhà lý luận thì bằng cơ sở khoa học mà thuyết trình chứ cần gì phải nói xấu đảng. Phủ bỏ công ơn của người nuôi dưỡng chở che cho mình như vậy, tôi là trí thức trẻ tôi không phải là đảng viên nhưng khi nghe những lời nói của ông sao tôi thấy cảm thương cho ông đến vậy. Ông cho rằng ở thời kỳ ông bị đi tù nhưng vẫn được về đi thi, ông cho đó là một nhà nước tốt đẹp, thế sao lúc đó nhà nước tốt đẹp đó sao ông lại đi chống phá. Đó là việc khi ông đang bị chính quyền Thừa Thiên - Huế (dưới chế độ cũ) “cầm tù”, nhờ có lá đơn của bố ông nên ông được “cho ra tù” để đi thi. Sau đó, ông nêu câu hỏi: “Tôi không biết với chế độ được gọi là “ưu việt” hiện nay có người tù nào đã được cho ra đi thi như chúng tôi hay không?”




Bên cạnh đó nhà nước TBCN chỉ dành cho người giàu, ông có ti ông có nhiều tiền thì được xin về tại ngoại thôi, còn người nghèo thì mãi mãi vẫn là khổ cực. Các ông là người ngoài cuộc bao giờ cũng vỗ ngực cho mình là cao, là thấu hiếu sự đời, cho rằng "phải như Mỹ mới tiến bộ, mới dân chủ" nhưng người trong cuộc, nhân dân Mỹ lại nghĩ khác vè đất nước họ" Chúng tôi sống trong tình trạng bất bình đẳng xã hội trầm trọng, khi mà 1% dân số chiếm tới 50% giá trị của đất nước", nhân dân Mỹ vẫn luôn gọi đó là đất nước của 1%, do 1%, vì 1%. Vậy liệu chăng Ông đang đi xây dựng nhà nước như vậy ư?


Tôi thiết nghĩ ông giỏi thì viết bài để đóng góp vào sửa đổi hiến pháp, sửa đổi những hoạt động của Nhà nước làm thế nào để hạn chế được tham nhũng, mở rộng được dân chủ thì tốt hơn. Là lực lượng trẻ chúng tôi muốn góp sức mình để xây dựng đất nước giàu mạnh chứ chúng tôi không muốn chiến tranh. Mong muốn của tuổi trẻ là cống hiến cho non sông đất nước chứ không chống phá làm giảm sự phát triển của đất nước. Vì mất ổn định chính trị thì sẽ mất ổn định về an ninh và lúc đó ai là người sẽ bảo vệ cho chúng tôi để thực hiện những hoài bão của mình. Con xin các ông cho chúng con yên!


Hải Trang

Thứ Tư, 28 tháng 8, 2013

BIỆN MINH








Quân Tử nói trắng là trắng. Tiểu Nhân nói trắng thành đen.

Ngụy Quân Tử đi với Quân Tử thì nói trắng, đi với Tiểu Nhân lại bảo là đen. Con trai Ngụy Quân Tử thấy vậy không bằng lòng, bèn hỏi:

- Thưa cha, bây giờ không có ai, cha hãy cho con biết nó là trắng hay là đen?

- Trắng hay đen không quan trọng! Quan trọng bản thân mình muốn gì.

- Vậy cha muốn gì?

- Ta chỉ muốn làm sao để sống được với cả Quân Tử lẫn Tiểu Nhân. Vậy mà người đời thật ác miệng, họ gọi ta là… – Ngụy Quân Tử thở dài - Sống sao mà khó thế!



Trần Hoàng Trúc

Thứ Ba, 27 tháng 8, 2013

Vì bạn không đủ tư cách để yêu!



Phần 1: Tình yêu khó khăn hay dễ dãi?

Tôi có quen một nhà tâm lý học, hay tư vấn các chương trình tâm lý tình yêu hôn nhân gia đình trên báo đài. Anh là người hóm hỉnh và hiểu biết, tuy nhiên anh mắc tật hay ngoái lại quá khứ. Chương trình tư vấn nào tôi làm cùng với anh, cho dù nói về gái ế, trai lười, hay nói về chồng gia trưởng, gái chảnh, đàn bà chê chồng, hay nói về trai công sở sợ tình công sở, thể nào anh cũng thòng được vào đó một câu cửa miệng: “Ngày xưa, người ta quen nhau thoáng chốc trên một chuyến xe ca, anh bộ đội đang đi công tác gặp chị sinh viên nghỉ hè về quê, thế mà còn yêu nhau được nữa là!”

Chao ôi là cái thời, chỉ cần một cái liếc mắt đưa tình là chúng ta đã hiên ngang ngã vào đời nhau! Nó đã trôi qua cách đây tròn nửa thế kỷ rồi! Thời buổi này, đến cò cưa lắm lượt, bánh cưới bảy tầng với cả nhẫn đính hôn, khuyến mãi thêm tuần trăng mật, đến đêm tân hôn vẫn ngã ngửa ra một cái màng trinh giả, nữa là! Tôi mà cứ thằng nào nịnh một câu là nhảy ngay vào lòng nó ngồi, chắc tôi đã cưới chồng trăm lần, nữa là… quen nhau thoáng chốc trên một chuyến xe!

Nên có phải tình yêu giờ đây ngày càng khó khăn hơn? Chúng ta ngày càng chật vật hơn nếu muốn được yêu ai đó? Chắc chắn thế rồi. Quen càng nhiều yêu càng ít. Hứa càng nhiều nói điêu càng lắm. Thà không hứa để khỏi mất lòng ai. Và thà để tình yêu trong lòng còn hơn mang nó ra để làm rầy rà kẻ khác!

Vì với nhiều người, bạn nói yêu người ta, chẳng khác gì bạn cầm một hòn gạch củ đậu giáng vào đầu họ, họ không chết cũng bị trọng thương!

Bạn có biết họ là những ai không? Họ là những người mà bạn đã từng yêu họ, hoặc bạn sắp ngỏ lời với họ, hoặc bạn sắp ràng họ vào đời mình bằng một lời cầu hôn lãng mạn. Nhưng mọi lãng mạn và tình yêu say đắm của bạn sẽ không mang lại cái gì cho họ hơn, ngoài một liều thuốc độc quá liều!

Ví dụ thế này cho dễ hiểu:

- Bạn yêu một cô bạn quen trong chuyến du lịch xa cùng cơ quan. Cô ấy từ Sài Gòn ra Nha Trang tắm biển, bạn từ Hà Nội vào chỉ vì không đi nghỉ cùng cơ quan thì cũng chẳng được nhận tiền nghỉ phép năm. Cho nên… bỗng nhiên gặp tình sét đánh. Dù bạn chẳng bao giờ định bỏ việc đi xa để yêu một con mới gặp mặt đúng nửa buổi sáng. Cô kia cũng chẳng bao giờ định ra Bắc làm dâu hay thậm chí, còn chẳng có thói quen ăn rau muống luộc sấu ngày ngày.

- Hai bạn cùng quê, học chung trường cấp 3. Sau đó cùng ra Hà Nội học đại học, tình yêu thật thuận lợi. Nhưng sau khi tốt nghiệp, chàng phải về quê trông trang trại lợn cho bố, nàng cũng phải tìm cách xin việc về quê để còn cai quản gia đình cho nhà chồng tương lai. Thế nên nàng phải bỏ việc ở Hà Nội, hoặc nếu không, coi như đứt gánh nhân duyên.

- Hai người yêu nhau tha thiết. Dù biết chẳng môn đăng hộ đối, dù biết anh là trai tỉnh lẻ còn nàng là tiểu thư con một gốc thành phố lớn. Dù biết nàng không muốn đi làm dâu còn nhà chàng chẳng đủ giầu để mua căn hộ riêng khi họ cưới. Thế nhưng vẫn cố để yêu nhau. Cố mà cưới nhau. Để rồi cuối cùng li dị chỉ bởi chàng không chịu đựng nổi cảnh chó chui gầm chạn, đi ở rể mà cứ ngậm ngùi thân phận nhà mình nghèo phải ăn bám bố mẹ vợ. Còn nàng cũng không chịu nổi cảnh mẹ chồng suốt ngày gửi tối hậu thư, bắt nàng về quê chồng nuôi vịt trồng rau lang cho trọn đạo con dâu. May mà chưa có con, không thì khổ thân đứa con thơ!

- Và số đông đảo chúng ta chưa đến mức độ bi kịch thế, thì thường tự hỏi: yêu nhau nhưng cách xa nhau quá, vì chàng đi du học, vì nàng bỗng nhiên chuyển công việc về thành phố khác, khoảng cách địa lý xa thế này, yêu xa liệu có bền?

Tôi có chung một câu trả lời cho tất cả các bạn: Tình yêu không phải là cái lá nho để bạn cứ sểnh ra một cái là lấy tình yêu che đậy những chỗ xấu xí của bản thân mình. Nói xin lỗi chứ, bạn chỉ là một kẻ ích kỷ, bạn làm gì có tư cách để mà yêu một người ở xa, một người quá chênh lệch điều kiện, một người sống ở một thế giới khác biệt nhiều với bạn? Bạn chẳng có tư cách gì để yêu họ cả, vậy sao cứ lấy tình yêu ra để mà hành hạ nhau?

Lấy cớ là yêu khó lắm, tìm được người yêu mình khó lắm, yêu được một người thật khó lắm. Nhưng thực ra, cái bạn cần là tìm một người thỏa mãn được cái tôi của bạn, đâu phải là tìm người yêu bạn? Bởi nếu yêu thực sự, điều đầu tiên bạn cần tự hỏi là, tình yêu của mình liệu có làm người ấy hạnh phúc?

Hay bạn chỉ là một hòn đá to như củ đậu bay hiên ngang vào đầu người ấy, khiến đời người ấy từ đó dở yêu dở sống? Nếu yêu thì phải biết nghĩ cho nhau chứ! Bạn là ai để có quyền đòi hỏi anh ấy, hay cô ấy hy sinh đời mình cho những nhu cầu của bạn?

Những nhu cầu mà nói xin lỗi, chỉ là ăn, ngủ, nằm, mặc, dạ vâng, đưa tiền lương tháng, người ta nói xì xào, đẹp mặt, nghĩa vụ làm dâu, v.v… những thứ chẳng liên quan gì tới tình yêu cả. Mà ngay từ trước khi yêu, bạn đã biết chắc chắn mình cần gì, đời mình có gì, tương lai của mình được xây dựng nên từ điều gì.

Và biết, chúng ta chẳng hợp nhau, chúng ta quá lệch pha, nếu cưới sẽ lắm vấn đề, nhưng cứ cố yêu lấy bằng được, cứ lăn xả tới mà tỏ tình, thế thì chẳng gọi là ích kỷ thì gọi là gì? Và một kẻ ích kỷ thì có tư cách gì để tỏ tình với người khác, khi trong sâu thẳm bản chất, nó chỉ yêu mỗi quyền lợi của chính bản thân mình?

Và tỏ tình không phải là vì muốn người ấy hạnh phúc, mà chỉ vì muốn thỏa mãn “nhu cầu yêu” của chính bản thân mình trong giây phút hiện tại?

Tôi tin, cái anh bộ đội đi công tác và cô sinh viên về quê nghỉ hè nửa thế kỷ trước nghĩ nhiều đến người kia hơn khi bước tới với tình yêu. Họ có quyền bước qua mọi khoảng cách về không gian, điều kiện vật chất, hiểu biết về người kia… để đến với tình yêu. Còn bạn 

thì không! 




2. Yêu người xa hay yêu người gần?

Khoảng cách là một vấn đề rất lớn của tình yêu. Có thể các bạn sẽ nói rằng, những người dám yêu xa phải là những người rất dũng cảm, có thể chịu đựng được khoảng cách và sự cô đơn, có thể kiên nhẫn chịu đựng được những thời khắc trống vắng và tủi thân, có thể giận hờn trên điện thoại, làm lành trên facebook, gửi nụ hôn buổi tối qua tin nhắn. Còn tôi thì nói, những người yêu xa là những người rất dũng cảm, bởi có những người yêu ở xa thì tưởng cục vàng, lại gần hóa ra cục vàng vàng.

Trong số chúng ta, chỉ một số ít có đủ tư cách để yêu người ở xa về khoảng cách địa lý hoặc cách biệt về khoảng cách đời sống. Đó là, những người rất tự tại và độc lập, không có nhu cầu quản lý thời gian, bạn bè, ví tiền cũng như quá khứ của người yêu. Đó là, những người có nhu cầu rất ít, đòi hỏi rất ít từ người yêu, lại có năng lực mang cho nhiều hơn. Đó là, những người không ghen tuông nghi ngờ, những người bận rộn vì cuộc sống nhiều thú vui, những người biết nghĩ cho người khác. Đó cũng là, những người có thể không đòi người khác về làm dâu nhà mình, mà nghĩ nhiều đến việc làm sao tạo ra một cuộc sống hạnh phúc cho người mình yêu. Đó cũng là, những người có đủ tài để dễ dàng thay đổi công việc, có đủ tiền để mua nhà mới ở thành phố mới nơi có người yêu dấu, thì cũng không bị chết đói. Những người suy nghĩ cởi mở, không nghĩ rằng dứt khoát yêu tôi là phải về quê tôi phụng dưỡng bố mẹ tôi. Đó là những người, dám thay đổi cuộc sống của mình để đạt tới một cuộc sống cân bằng mới.

Còn đa số chúng ta, mới chỉ gọi một cú điện thoại cho người yêu, mà người yêu đi đường không nghe tiếng chuông, không bắt máy, đã phát điên lên tra hỏi người yêu lý do, thì làm sao có đủ tư cách để yêu xa. Mới động tới công việc đã như bố tướng người khác, ngồi vào mâm rượu là phải người yêu kế bên so đũa, thì làm gì có đủ năng lực để đến với một người ở một thế giới khác? Vậy đã biết thế ngay từ đầu, sao còn tỏ tình, sao còn níu kéo tiếc rẻ chút tình yêu thực ra mới chỉ là rung động buổi ban đầu?

Hãy để trái tim tìm ra cách yêu người khác, và để cái đầu tìm ra cách để đừng trở thành vật cản trên đường người mình yêu. Đừng mang tình yêu ra sát thương cô ấy / anh ấy. Hay lấy tình yêu ra để đầu độc người mình yêu.

Nhìn về phía ngược lại, nếu có một chàng trai nói với bạn: “Anh sẽ đi du học vài năm, vì thế, trước khi lên đường, anh muốn nói với em rằng, anh yêu em!”, thì bạn nghĩ sao? Bạn sẽ nhận lời chứ? Bạn sẽ tình nguyện chờ anh ấy chứ? Bạn sẽ bắt đầu một cuộc marathon tình yêu trên Yahoo chat và Messages của Facebook chứ?

Và bạn sẽ chỉ vì câu nói đó, mà sẵn sàng để mơ ước tuổi 20 được ra biển mùa hè của mình xếp xó chờ khi nào chàng về đi cùng? Bạn sẵn sàng để mơ ước một mình lên máy bay tới một thành phố xa lạ ở tuổi 21 cũng để dành lại chỉ vì chàng nói sẽ về nhà dịp đó? Bạn đã sẵn sàng để đón nhận hàng trăm tối cuối tuần một mình trong suốt tuổi trẻ non nớt của mình? Và một cuộc sống có người yêu mà đơn độc y như không có người yêu?

Nhưng bạn yêu ơi, bạn có bao nhiêu lần được sống tuổi 20? Bao nhiêu lần được sống như mới khám phá ở tuổi 21? Bao nhiêu lần còn hồi hộp mong chờ hơi ấm bàn tay như khi đang ở trong mối tình đầu?

Mà vấn đề nằm ở chỗ, dù bạn có dành tất cả những gì mình có để chờ đợi, thì chờ đợi tình yêu chỉ có nghĩa là… chờ đợi mà thôi, không có nghĩa là, bạn sẽ được nhận những gì xứng đáng với bạn. Bởi, những thứ đáng giá nhất là thời gian và tuổi trẻ đã trôi qua, còn món quà nào và lời hứa nào đền đáp được những thứ bạn đã mất đi? Nhất là khi, những lời hứa càng đẹp đẽ ngọt ngào, lại càng khó trở thành sự thật nhất!

Và, quan trọng nhất là điều này: Những người con trai muốn ràng buộc bạn vào họ ngay cả khi họ không đủ điều kiện để giữ bạn và vun đắp cho tình cảm đó, liệu có phải là người con trai ích kỷ không? Rõ ràng họ nghĩ đến họ nhiều hơn là nghĩ đến bạn! Họ chỉ muốn xếp một cái dép xí chỗ xếp hàng trước trong trái tim bạn mà thôi! Vậy tại sao bạn lại biến trái tim mình thành cái quầy mậu dịch thời bao cấp, ai xếp gạch, xếp dép, xếp bao tải giẻ rách vào đấy trước đều được tính là… đến lượt trước? Và mọi người con trai khác dù tuyệt vời thế nào, dù bên bạn hàng ngày, dù đi về với bạn trên mọi nẻo đường, vẫn chỉ là kẻ dự bị, chỉ bởi vì, họ đã là người đến sau!

Nếu yêu bạn thật lòng, người con trai sẽ để bạn tự lựa chọn cảm xúc và quan hệ, để bạn tự do chọn những gì bạn thấy hạnh phúc, vào bất cứ lúc nào. Chứ không ràng buộc bạn bằng bất cứ thứ gì, một lời tỏ tình từ thế kỷ trước, một lời hứa, một cái hẹn, một lời nói, một danh nghĩa…

Bởi vì nếu thật sự yêu, người con gái sẽ tự nguyện chờ đợi, vượt qua được những khoảng cách và không gian, mà không cần một lời hứa hẹn ràng buộc nào cả. Tôi tin thế.

Trang Hạ


Chủ Nhật, 25 tháng 8, 2013

Về chuyện du hành (Leszek Kołakowski)


Thái Linh dịch


Chúng ta du hành để làm gì? Vì sao ta thích đi du lịch? Có vẻ như đó là những câu hỏi ngớ ngẩn, bởi ai cũng biết vì sao và để làm gì. Nhưng nhiều việc có vẻ hiển nhiên sau khi được suy ngẫm lại không còn hiển nhiên nữa. Du hành phải chăng là hành xử do bản năng dẫn dắt, và đó là bản năng gì? Phải chăng chúng ta cảm thấy thỏa mãn khi được trải nghiệm điều gì đó bởi đơn giản là nó mới mẻ, chính cái sự mới lạ cuốn hút chúng ta? Nếu đúng vậy, phải chăng niềm vui thú này thật kỳ quặc? Theo kinh nghiệm của nhiều thế hệ mà chắc hẳn quá trình tiến hóa cách này cách khác đã cấy vào chúng ta, thế giới đối với chúng ta không thân thiện mà có vẻ thù nghịch, do đó ta nên cảnh giác với những gì mới mẻ và lạ lẫm, trân quý những gì trong trải nghiệm đã quen thuộc và an toàn, ngồi yên trong những góc thân quen và đi theo những con đường đã mòn dấu chân. Nhưng lại không phải như thế. Vì sao thời ấu thơ ta say mê đọc những cuốn sách du ký? Vì sao con người chỉ vừa mới xóa bỏ những mảng trắng trên bản đồ thôi, đã lại lao vào những chuyến đi mới đây còn là không tưởng, qua các không gian bao la, và mơ ước về những không gian mỗi ngày một xa hơn?

Cần chú ý rằng khi nói về du hành, chúng ta không liên tưởng tới mọi sự xê dịch trong không gian, mà chỉ nói tới những chuyến du hành có mục đích tự thân, nghĩa là ta không bàn về việc giải quyết việc gì đó mà nếu hoàn cảnh cho phép thì ta muốn giải quyết nó không cần phải đi lại phiền phức.

Các doanh nhân tổ chức những cuộc gặp gỡ ở sân bay trong các phòng họp chuyên phục vụ mục đích này, để rồi ngay sau đó trở về trụ sở của mình, hoàn toàn không du hành mà chỉ giải quyết công việc của mình, nếu có thể, họ sẽ giải quyết cách khác, và điều đó ngày càng trở nên đơn giản hơn. Thậm chí tôi cũng không biết có thể xem các loại hình du lịch đại chúng là du hành hay không, thí dụ khi dân xứ lạnh như người Anh lượn lờ trên một mẩu biển Tây Ban Nha ấm áp, nơi sẵn có quán xá và đồ ăn Anh (xin Chúa rủ lòng), nhưng chính nước Tây Ban Nha thì họ chẳng quan tâm tới. Ở đây ta nói về những chuyến du hành nơi chúng ta, những kẻ du hành, muốn trải nghiệm điều gì đó mới mẻ, muốn tiếp xúc với một hiện thực lạ lẫm nào đó.

Xét cho cùng, có lẽ chúng ta du hành cũng không phải để học hỏi điều gì đó: hầu hết những điều ta biết được khi đi du lịch đều có thể biết mà không cần phải du hành, mà nhiều khi còn biết cặn kẽ hơn; như câu ngạn ngữ La-tinh cổ: „trí óc của những kẻ băng qua biển tìm minh triết không đổi thay, chỉ là bầu trời trên đầu họ thay đổi”. Không, chúng ta không du hành vì kiến thức. Chúng ta cũng không du hành để bứt khỏi những lo toan thường ngày trong chốc lát hay để quên đi những khó khăn, như một ngạn ngữ La-tinh khác: „Nỗi âu lo theo cùng sau yên ngựa”. Không, không phải nỗi khát khao kiến thức hay mong muốn trốn chạy thúc giục chúng ta, mà là sự tò mò, và sự tò mò dường như là một thứ ham muốn biệt lập, không dẫn đến những ham muốn khác. Các học giả nói với ta rằng sự tò mò - nghĩa là nhu cầu tìm hiểu hoàn cảnh xung quanh một cách vô vị lợi - được con người mang giữ suốt cuộc đời và đây chính là khả năng đặc biệt của loài người.

Chúng ta tò mò không phải vì những điều lạ lẫm hứa hẹn sự thỏa mãn nào đó hay chúng đe dọa điều gì khiến ta phải ngăn ngừa, đơn giản chỉ là chúng ta tò mò. Con người thực hiện nhiều việc và hành động khác nhau vì tò mò trong khi vẫn biết chúng không an toàn, du hành đến những nơi ít ai biết đến hay nguy hiểm, mất mạng khi leo núi hoặc dưới hang sâu. Ta cũng đừng quên chính sự tò mò đã khiến chúng ta bị đuổi khỏi thiên đường, cho nên thời xưa các nhà thần học thường lên án sự tò mò như một tội lỗi từ bản chất. Thiếu tội lỗi ấy chắc chẳng có được mấy tiến bộ và thay đổi trong đời sống con người.

Ngày nay, đôi khi ta có thể đọc được rằng việc nói „khám phá ra châu Mỹ” là vô nghĩa, bởi khi các nhà du hành châu Âu cập bờ biển châu Mỹ, những người anh em da đỏ của chúng ta đã sinh sống ở đó từ lâu và họ hoàn toàn không cần khám phá xứ sở mình. Nhưng đó là nỗi bất bình ngớ ngẩn, bởi khi các tộc người sống cách ly với nhau, hoàn toàn không biết gì về nhau, thì có thể nói ở một thời điểm nào đó họ khám phá ra nhau; nếu các cư dân châu Mỹ nhanh chân hơn với các tiến bộ về thám hiểm và đến châu Âu trước thì có thể nói họ khám phá ra châu Âu. Ngay cả thời nay, khi nỗi tò mò thôi thúc chúng ta đến một xứ sở hay thành phố xa lạ nào đó, có thể nói ta khám phá chúng cho riêng mình, bởi trong sự khám phá này không nhất thiết phải là kiến thức chưa ai từng biết, mà là sự trải nghiệm cái mới. Quả thực đôi khi người ta thực hiện những chuyến du hành tình cảm về những nơi mình biết rất rõ nhưng bỏ quên đã lâu, về xứ sở của thời thơ ấu hay tuổi hoa niên. Những chuyến đi ấy có nằm trong định nghĩa về du hành hay không? Hẳn rồi. Bề ngoài, ta không khám phá ra điều gì mới mẻ, nhưng dường như chúng ta trở lại với chính mình của những năm tháng xa xưa, ta thấy như đang dịch chuyển trong thời gian, và du hành trong thời gian cũng là trải nghiệm điều mới mẻ, bởi mặc dù nơi ấy đã từng quen thuộc, chúng mới mẻ khi ta đến từ một thời gian khác.

Một nhu cầu về cái mới như chính cái mới luôn sống trong ta, không phụ thuộc vào bất cứ điều gì khác, cái mới tự nó cuốn hút chúng ta. Và việc cái mới cuốn hút chúng ta là bởi nó liên quan đến trải nghiệm thời gian đặc biệt của loài người. Chúng ta luôn muốn được ở điểm khởi đầu, được có cảm giác rằng thế giới mở ra cho chúng ta, rằng nó vừa mới bắt đầu, và bản thân việc trải nghiệm cái mới trong cảm thức đó dẫn dắt chúng ta, dù chỉ là vào hư ảo. Chắc bởi vậy mà người ta thay vợ đổi chồng: họ có được trong chốc lát trải nghiệm thời gian mới, trải nghiệm về sự khởi đầu.

Giả định rằng sự tò mò hay nhu cầu về cái mới mạnh mẽ như nhau, luôn luôn và không ngừng ở mỗi người, chắc chắn sẽ là không chân xác. Nếu vậy thì cuộc sống của con người trở nên bất khả. Có người mọi nguồn sinh lực đều hướng vào việc bảo tồn, gìn giữ trật tự sẵn có và những người khác là cội nguồn của sự phát triển. Trong thế giới loài người của chúng ta hai nguồn lực ngược chiều này hiển lộ trong nhu cầu về sự bền vững, an toàn, được ở giữa khung cảnh quen thuộc và chính trong nhu cầu về cái mới, sự thay đổi, sự tò mò. Hai khuynh hướng này mâu thuẫn với nhau, nhưng cả hai đều cần thiết để chúng ta dẫn dắt kiếp người. Chắc chắn là có thể phân biệt tính cách con người qua sự dự phần nhiều hơn hay ít hơn của hai nguồn lực xung đột này: từ những người chỉ thích lề lối lệ thường và những thứ quen thuộc, đến những người căm ghét lề lối và chỉ thấy sự khác lạ mới đáng giá.

Ở đây chúng ta nhận thấy rằng bản năng tò mò, tìm kiếm cái mới, niềm vui thích với những gì lạ lẫm là một kiểu sống đã chấp nhận, cho dù vô thức, một hình ảnh nhất định về thế giới, một „triết lý” nhất định. Cụ thể là chấp nhận rằng cõi đời mà ta sống, thế giới trải nghiệm của chúng ta, có một giá trị nào đó. Nếu chúng ta tin như những tín đồ Phật giáo thực thụ rằng cõi đời này chẳng có giá trị gì, chỉ là bể khổ, rằng nó luôn như thế trong mọi phương diện chính ở khắp mọi nơi, những khác biệt chẳng có nghĩa lý gì, rằng không có gì mới mẻ, rằng lịch sử loài người không gì khác hơn là sự lặp lại đơn điệu của chính một nỗi bất hạnh – nếu tin như thế thì chúng ta sẽ không trải nghiệm bất kỳ nhu cầu nào về cái mới, bất kỳ sự tò mò nào, và bởi thế sẽ không trải nghiệm bất kỳ niềm tha thiết du hành nào.

Nhưng chúng ta sẽ không đặt câu hỏi xem các tín đồ đạo Phật có lý hay không. Bởi ở đây ta sẽ rơi vào vực thẳm siêu hình học âm u, điều thật không thích hợp trong bối cảnh phù hoa này, khi ta đang ngẫm ngợi về những chuyến du hành.


(Trích từ tập "Các thuyết trình mini về những vấn đề maxi" (Mini wykłady o maxi sprawach), NXB Znak, Kraków 2008)

Nỗi cô đơn của các số nguyên tố

Mỗi người có một cuộc chiến đấu riêng, những ai sống đắm mình trong văn chương, chữ nghĩa hẳn đều ý thức được rằng: văn chương không phải là thứ trùng khớp với cuộc đời, nó không mang lại những bài học để ta sống dễ dàng hơn trong cuộc đời. Lắm khi còn ngược hẳn lại. Nhưng, ở mức độ bản thể, một độc giả văn chương chân chính hiểu rằng sống, ở một mức độ không nhỏ, chính là một cuộc chiến đấu sao cho mình không bị biến thành bọ một buổi sáng ngày kia thức dậy.

Một nhà văn cùng thời với Kafka nhưng thành công hơn nhiều lúc sinh thời (nhận giải Nobel Văn chương) là Hermann Hesse cũng đã miêu tả vô cùng sâu sắc nỗi khó ở của con người trong cuốn tiểu thuyết Sói Thảo Nguyên: cuộc chiến đấu trong nội tâm là dai dẳng và vô cùng cam go, giữa các bản thể khác nhau cùng chung sống và không thể loại trừ, kèm cuộc chiến đấu để một phần nào đó của cõi lý tưởng, dẫu nhỏ bé, vẫn còn lại trong con người, dẫu cho điều gì xảy ra và cuộc đời có xấu xa đến đâu đi nữa. Muốn vậy, tất nhiên cần một sự kiên định to lớn, nhưng đồng thời cũng cần nuôi dưỡng một niềm khinh bỉ ở nền tảng.

Cuộc chiến ấy hẳn nhiên khó, bởi nếu không thì ta đã không phải chứng kiến rất nhiều nhà văn sau khi sử dụng hết chút năng khiếu thì “duy trì” bằng cách lâu lâu viết lách vô thưởng vô phạt làm giàu thêm cho danh sách tác phẩm cá nhân nhưng làm nghèo cho kho tàng văn chương, rất nhiều nhà báo ôm ấp cao vọng trở thành nhà báo lớn rồi trượt chân vào những ngóc ngách tầm phào vô nghĩa lý, cách duy nhất để thể hiện lòng can đảm là một cái “like” trên facebook, đại khái là rất nhiều người rời bỏ lý tưởng trong một chớp mắt hoặc trong một quá trình xơ mòn kéo dài.

Bản thân tôi chỉ mong sao ngày này, những ngày sau, buổi sáng được tỉnh dậy với “cảm giác về số chính phương”, dẫu là một số chính phương nhỏ bé, để giữ được toàn vẹn những gì không thể chia nhỏ.

Điều duy nhất khiến tôi tiếc khi cảm thấy mình là một số chính phương nằm ở chỗ: là như vậy, tôi không thể là một số nguyên tố, một vô hạn sung sướng có tính chất khác hẳn - câu chuyện về các số nguyên tố sinh đôi đã được miêu tả trong một vẻ đẹp u ám tuyệt vời bởi nhà văn trẻ người Ý Paolo Giordano; cuốn tiểu thuyết ấy tên là “Nỗi cô đơn của các số nguyên tố”.
NhLinh