Hiển thị các bài đăng có nhãn Tiếng Việt. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tiếng Việt. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 28 tháng 7, 2017

"KÍNH" TRONG "CỔ KÍNH" NGHĨA LÀ GÌ?







Hoàng Tuấn Công


Trong tiếng Việt, "cổ kính" là từ khá thông dụng. Tuy nhiên, việc giải nghĩa từ, từ tố của "cổ kính" trong các sách từ điển tiếng Việt còn thiếu thống nhất.


Từ điển tiếng Việt (New Era) giải thích: "Cổ kính: Cổ xưa và đáng kính • Những truyền thống cổ kính của dân tộc."

Từ điển từ và ngữ Hán Việt (GS Nguyễn Lân): "Cổ kính (cổ: xưa cũ; kính: tôn trọng) Lâu đời rồi, nhưng còn đáng tôn trọng: Những công trình kiến trúc cổ kính của ông cha để lại."

-Từ điển tiếng Việt (Nguyễn Tôn Nhan-Phú Văn Hẳn) "Cổ kính: Xưa và có vẻ trang nghiêm".


Từ điển tiếng Việt (Vietlex) "Cổ kính古敬 [tính từ] cổ và có vẻ trang nghiêm • tòa lâu đài rêu phong và cổ kính; cây đa cổ kính."


Như vậy, các sách từ điển trên đây, hoặc giải thích rõ nghĩa từ tố "kính", hoặc giải nghĩa từ "cổ kính" theo hướng "kính" nghĩa là kính trọng, trang nghiêm. Riêng Từ điển tiếng Việt (Vietlex, bản có chú chữ Hán-2015) ghi rõ mặt chữ "kính", trong "cổ kính" là 敬 (nghĩa là cung kính).


Vậy, có đúng "kính" trong "cổ kính" nghĩa là "kính trọng", cung kính không? Xin lại trích dẫn cách giải thích của một số từ điển khác.


-Hán Điển giảng nghĩa từ "cổ kính" như sau: "古勁 [simple and vigorous] [書法,繪畵等] 古朴而雄健有力•篆書古勁" Nghĩa là: "Cổ kính [có vẻ chất phác mà hùng hồn, đầy khí lực] [chỉ về thư pháp, hội họa] Có vẻ cổ phác mà hùng kiện, bút lực già dặn • Ví dụ: triện thư cổ kính".


-Từ điển Việt Hán (GS Đinh Gia Khánh hiệu đính): "Cổ kính 1.古勁, 健勁 • nét bút cổ kính. • 沉郁頓挫 (指書法) 2.古老的." Phiên âm phần chữ Hán: "Cổ kính: 1.Cổ kính, kiện kính • nét bút cổ kính • trầm úc đốn tỏa (chỉ thư pháp) 2. Cổ lão đích". Dịch nghĩa phần chữ Hán: Cổ kính: 1.Cổ kính, cứng mạnh • nét bút cổ kính • thâm hậu, hùng hồn (chỉ thư pháp) 2. Cổ xưa".


-Quấc âm tự vị (Huình Tịnh Paulus Của): "Cổ kính: Sành sỏi, cứng cáp theo điệu xưa (văn chương)".


-Việt Nam tự điển (Hội Khai trí tiến đức): "Cổ kính古勁 già giặn, cứng mạnh: Nét bút cổ kính."


-Việt Nam tự điển (Lê Văn Đức-Lê Ngọc Trụ): "Cổ kính • [tính từ]. Già-giặn, mạnh-mẽ. • [danh từ]. Cái kiếng soi cũ : Đập cổ-kính ra tìm thấy bóng-Tự-Đức".


Như vậy, "kính" trong "cổ kính" 古勁 có tự hình là 勁, nghĩa là cứng mạnh, chứ không phải chữ "kính" 敬nghĩa là "tôn trọng". Trong Hán ngữ, từ "cổ kính" 古勁 thường dùng để chỉ vẻ đẹp cổ điển, thể hiện sự già dặn, hùng hồn, rắn rỏi, đặc biệt là trong thư pháp, hội họa. Với tiếng Việt, nghĩa của "cổ kính" 古勁 rộng hơn, hiện nay chủ yếu dùng để mô tả những sự vật, công trình kiến trúc cổ có dáng vẻ già nua, rêu phong, trầm mặc.
Còn "cổ kính" 古鏡 (danh từ), nghĩa là "gương xưa", trong thơ của vua Tự Đức: "Đập cổ kính ra tìm thấy bóng, Xếp tàn y lại để dành hơi", tự hình là kính 鏡 khác với hai chữ "kính" 勁 trong "cổ kính" 古勁, và kính 敬trong cung kính 恭敬.

Thứ Ba, 11 tháng 7, 2017

PHƯƠNG NGỮ TUY HÒA, PHÚ YÊN !!








1.Lời mở đầu: Nói là phương ngữ e không đúng lắm bỡi vì có nhiều từ sau đây còn thấy dùng ở nơi khác. Vả lại có từ dùng ở xóm, xã tôi lại không dùng ở xã khác. Ví dụ “Dưỡng ngư” ở phía bên kia sông, quê của Nguyễn Đình Chúc thì nói là “dữ ngư”.

Phải qua sàn lọc thì từ ngữ mới dùng phổ biến cả tĩnh. Bài này tôi muốn đưa những từ thốt ra từ miệng những người chân lấm tay bùn suốt đời quanh quẩn trong lũy tre làng, trên đồng ruộng nhỏ hẹp của mình, chằng giao lưu đâu xa. Nhờ đó mà còn giữ đặc thù. Trong thế giới ngày nay mở rộng, tiếng nói đặc thù từng địa phương e mai một. Tôi sợ tiếng đặc thù của quê tôi mai một. Nẫu về xứ nẫu bỏ mình bơ dơ ” là câu nói cữa miệng của người dân nông thôn hồi đầu thập niên 1950 của bà con lối xóm làng tôi ở. Tếng “nẫu”nghe quen thuộc đối với mọi người. Khi lớn lên ra tĩnh học bọn trẻ chúng tôi hay bị bạn bè trêu ghẹo “nẫu ơi là nẫu” để chỉ tụi tôi “rặc nòi “người Bình Định Phú Yên. Chúng tôi lấy đó làm “quê”. Cảm thấy bị chọc quê nên dần dần tụi tôi bỏ “nẫu” thay vào đó bằng “người ta”. Dùng từ “người ta” thay từ “nẫu”. Nói: “người ta lấy cái này” thay “nẫu lấy cái này”v. v.
Khi ra ngoài, người mình hay mặc cảm xứ mình không bằng xứ người nên có xu hướng chối bỏ cái đặc thù của mình để hòa nhập vào cái của người ta, lâu dần bị hòa tan trong cộng đồng mới. Lâu ngày thấy cái của người ta cũng thầm thường nhàm chán nên mình trở lại thích cái của mình nhưng bây giờ nó đã trở nên mai một và ta lấy việc đó làm tiếc. Ta yêu mến cái của riêng ta thì nó đã ra đi rồi, tìm lại rất khó. Ngày nay, trong mấy ngày tết, ta triều mến nhìn hình ảnh cái đống rơm, bụi chuối…giữa Đại Lộ Nguyễn Huệ Saigon, bên cạnh nhà cữa hiện đại nguy nga để nhận ra cái cảm giác “rưng rưng”! Hình ảnh “đống rơm” chỉ còn trong ký ức.

Ông Dohamide trong tác phẩm BangSa Champa nói lên cái mặc cảm thói “ăn bốc” của người Chăm Châu đốc nhiễm văn hoá Mã Lai trước văn minh của người Hán ăn bằng đũa và văn minh Châu Âu ăn bằng muổng nỉa. Đến khi dự các bữa tiệc ngoại giao thấy các vị cấp cao người Nam Đảo “ăn bốc” hồn nhiên mà cảm phục cái đẹp của văn hoá mình. Ông nhớ lại tín ngưỡng Ấn Độ của ông, của đồng bào ông ở Châu Đốc. Họ bài xích “đôi đũa” của người kinh: “Hai tay ta là tặng phẩm mà thượng đế đã ban cho. Tại sao ta không trân trọng xử dụng nó mà ruồng bỏ nó để xử dụng cái “đôi đũa” là thứ con người tạo ra. Nó giống như 2 cái que làm ra để chèo vẹo, dày xéo lên thức ăn là thứ gì mà thượng đế đã ban cho ta.!” Nhờ thông tin này mà tôi yêu và quí thói “ăn bốc.” Ngày xưa không biết nên chê ăn như vậy là “man di.”
Phát âm theo tiếng địa phương của mình thì tự do thoải mái hơn nhiều. Chỉ trở ngại là người xứ khác nghe không êm tai hay không hiểu hết ý của mình thôi. Nhưng con dân nên biết khi nào xử dụng tiếng chung cho cả nước, khi nào dùng tiếng địa phương của mình, thì ngôn ngữ nước ấy mới trở nên giàu âm điệu, nhiều màu sắc. Có một thời (Chín Năm Kháng Chiến ở Liên Khu 5), người ta muốn cho thống nhất nên bắt tụi trẻ con chúng tôi phải nói đúng tiếng Việt, tức phát âm theo giọng Hà Nội ví dụ phân biệt “t”và “c”. Phải phát âm phân biệt “hiểu biết” và “xanh biếc”. Người nông dân thoải mái, biếc nào cũng biếc, nên phát âm “hiểu biếc” và “xanh biếc…cho “phẻ” chơi.

Khó khăn lắm tôi mới moi ra được một số từ nói lên cái đặc thù của tiếng nói người Phú Yên dù có những từ không chuẩn lắm, tức vùng khác cũng có thể họ đã dùng. Mong có sự chỉ vẽ khách quan. Cái đặc thù ở đây không những thấy ở các “từ” dùng mà còn thấy “cách phát âm” của người Phú Yên khác hay hơi khác người ở những vùng khác:
2-Tự Điển
2.1-Phát âm:
21.1 phát âm các vần khác nơi khác.
Ai: Người Phú Yên xưa không phát được âm o-a-i =“oai” mà phát a-i thành “ai” cho phẻ, tức lười, không chịu uốn lưỡi. ví dụ: “Toại nguyện” phát âm thành”tại quyện“, “tại ngoại để điều tra”thành “tại quại để điều tra”,”thoai thoải“thành “thai thải“,Ông ngoại“ phát âm thành “ông quại“, “hoài bảo” thành “quàibảo“. “Thoái hoá” phát âm thành “thái quá”. Thoai thoải phát âm thành “thai thải“. Hồi những lớp học Bình Dân thời khởi nghĩa các cán bộ giáo dục ở Phú Yên rất vất vả tập các cụ đọc đúng “Tiếng Việt”!
Ay: Người Phú Yên thích phát âm vần “ay” hơn vần “ây”. Vi dụ “Lại đay(đây)tao cho kẹo.” “Mày (mầy)có mấy anh em?” “Chiện(chuyện) tày (tầy)trời”
Au: vần “âu” phát thành vần “au”ví dụ “đi đâu” thành “đi đau“. Mày có biết chiện đó không?- Tau (tao)đau có biết”, “chiếc tàu(tầu)bay”. Cái chạu (chậu)để rửa chén…Nhưng trong khi các miền khác nói “đi mau lên”, “giọt máu” thì người nông thôn Phú Yên trước đây nói ngược lại là”đi mâu lên“, “giọt mấu‘. Thật “ngược ngạo” với người ta. Cái này không thể nói người Phú Yên có di truyền cái cơ quan phát âm khác người ta hay tại uống “nước” Phú Yên mà phải nói là “hình thành tiếng nói ở một địa phương” là cái gì rất phức tạp. Vì vậy ta nên giữ gìn bồi đắp cái riêng tư của tiếng nói của ta.
Iêm: Vần “êm” phát âm thành “iêm”. “Ẵm em đi dạo dường(vườn)cà/Trái non ăn mấm (mắm)trái già làm dưa/ Dưa chua ba bữa dưa chua/Mẹ mầy(mày) xách chén đi mua từng đòng(đồng)/ Từng đòng(đồng) ít quá chị ơi/ cho thiêm chút nữa ăn cùng bữa cơm”
Iệt: Vần “ật” phát âm thành “iệt”. Ví dụ “Chiều chiều quạ nói dới(với)diều/Ở nơi đống trấu thiệt(thật)nhiều gà con”

Ăm: Vần “ăm” phát thành “âm”. “Cơm dới (với) mấm (mắm) thì thấm dào (vào) lâu” “Mấu (máu) đào nhợm (nhuộm) thấm (thắm)từng trang/ Chỉ quen chiến đấu, đàu(đầu)hàng không quen”
Âu: Vần “ôi” phát thành vần “âu.”ví dụ“đương khi tắt lửa cơm “sâu”/Lợn kêu con khóc, chòong đòi tòm tem!”. “Đừng ăn trái “ẩu” nữa, đi lại đàng kia “thẩu” cho cháy cái biếp(bếp)lửa cho tao!”
Tôi còn nhớ hồi mới khởi nghĩa nghe mấy người lớn hát: “Mấu đào nhuộm thắm từng trang, chỉ quen chiến đấu đàu hàng không quen”. Hai tổ hợp âm “au” và “âu” các vùng khác cũng xài lẫn lộn với nhau ví dụ: người ta dùng cả “mầu” và “màu”. “Màu xanh” và “mầu xanh” đều dùng được hết. Như vậy việc phát âm có thể do thói quen rồi lâu ngày trở nên đặc thù cho một vùng.
Âu: Vần “ôi“ thành vần “âu“ ví dụ “đi rồi” thành “đi rầu“. “Cha con về chưa?-dạ cha con đã dề rầu, dìa rầu“; “Em bé nằm trong cái nâu(nôi)”; phát âm “tồi tàng” thành “tầu tàng“, tội lỗi thành tậu lẫu, môi mép thành mâu mép, nầu niu xoong chảo, bà nậu…Bọn trẻ cũng hay rút gọn “âu”, thành “u”. Ví dụ: các vùng khác thì người ta gọi “tàu bay, tàu thủy hay tầu bay, tàu thủy, đầu gối”. Trong khi trẻ con ở Phú Yên thì gọi “tù bay, tù thủy, đù gấu“. Kiểu gọi này thì hiếm thấy. Cỡ hồi đầu thập niên 1950 thì thường nghe chúng phát âm như vậy.
Ê: Phát âm thành i hay iê. ví dụ: Tim (têm)trầu, thim (thêm)bớt,Nim ním(nêm nếm) iê: làrút gọn của tổ hợp nguyên âm u-y-ê. ví dụ như vần “uyên” phát âm thành vần “iên”: Thuyên chuyển phát âm thành thiên chiển

iê: Còn thay nguên âm “ê”. “điêm “(điêm)phia (khuya)giấc địp(điệp) mơ màng/ Nào ai săn sóc bên giường gọi tui”. “Thêm vào” thành “thiêm vào”. Trên đài truyền hình Cần Thơ trong chương trình hướng dẫn trồng rau VTV2 phát ngày 7-3-08 có câu của một học viên phát biểu: “…yêu cầu cán bộ diễn giải “thiêm”…” Ông này ở Nam hay người Phú Yên vào Cần Thơ làm việc?
Ư: Vần “ươi”phát âm thành “ư.” Tức là lười uốn lưỡi, uốn miệng. Ví du: “Thằng Hai con Ba đi đau(đâu) rầu(rồi) bay?- Ảnh chĩ xuống xóm dứ (dưới) rầu (rồi), đi dìa(về) dứ (dưới )rầu(rồi)”… “Được ở gần chợ nên lúc nào tui cũng ăn được đồ ăn tư (tươi) sống…”
Ưc: Người PhúYên và Nam Bộ thích phát âm ưc hơn uât. Thích nói Kỷ thực hơn kỷ thuật. “Con gái xấu mà biết kỷ thực làm đẹp thì cũng trở nên đẹp”
Oi:Vần “oai” phát âm thành “oi”. ví dụ: “Thoai thoải” phát thành “thoi thỏi“, “thoái hóa” phát thành thói quá (hoá). “Ngoài kia trời mưa hay nắng” thì nói “ngòi kia trời mưa hay nắng”, “Tọai nguyện” phát thành “tọi nguyện”, “Mèo chó là loài ăn thịt” phát âm thành “lòi chó lòi mèo…” Tức không chịu uốn miệng.
Quại:Tổ hợp phụ âm “ng”…”ngờ” phát thành “qu”…”quờ”. ví dụ “ông ngoại” thành “ông quại“, “ngoài trời” thành “quàitrời”.
Quế: Tổ hợp phụ âm “hu“= qu, ho=qu. Ví dụ “ngoài Huế có lạnh không?- Quài Quếlạnh lắm”, “hoa tai”phát âm thành “qua tai“, “hoài bảo” thành “quài bảo“.
Tổ hợp phụ âm “ngo”=“qu”, tức cũng rút gọn lại
Phụ âm D=V “Trời mưa, dào (vào)nhà đi con.” Lối phát âm này tương tợ người Nam Bộ. Người Nam phát âm V thành vz. Vô đây thành vzô đây.
21.2 Âm đặc biệt mà nơi khác không thấy:
Chơi: Về mặt phát âm, người nông dân phú yên có một từ mà tôi dám chắc không một vùng nào trong xứ Việt Nam này có. Chỉ duy Phú Yên có nó mà thôi. Đặc biệt đến nỗi không có ký âm nào của Tiếng Việt ghi được âm của từ đó. Tôi không biết làm sao ký âm từ đó cho đúng âm của nó. Nếu ráp c-h-ơ-i thì thành từ“chơi“. Ráp c-h-o-i thì thành từ “choi”.Còn ráp c-h-â-y thì thành từ “chây”, làm sao có âm của người PY. “Chơi”, “choi”“chây”, đều khác xa âm của người nông thôn Phú Yên dùng. Phải thu âm trực tiếp mới giữ được âm “đúng” của từ này. Phải nói từ này rất đặc thù trong tiếng nói địa phương của Phú Yên mà không ai để ý tới. Một ngày kia nó mai một. Các thế hệ sau không ai dùng nó nữa và nó sẽ biến mất.
Trời: Đặc biệt về phát âm. Cũng như “chơi” có cách phát âm đặc thù mà không mẫu tự LaTinh nào ký âm được. Nếu ráp t-r-ơ-i thì thành “trời”, ráp t-r-ô-i thì thành “trồi”, ráp t-r-o-i thì thành “tròi”.

Đấc: Nói đúng Tiếng Việt là “trái đất“. “Đất”nghe âm nó nằng nặng gần với giọng Bình Trị Thiên, Nghệ Tĩnh và Hà Nội. “Đấc” nghe nhẹ bỗng hơn. Âm nàytrong Nam biến đổi đi và nghe như âm “ức”. Hồi tôi dạy môn địa chất ở trường Chợ Lách tĩnh Vĩnh Long bị học trò chọc quê hoài về từ này. Phát âm “trái đấc” theo giọng Phú Yên và “trái đất” theo giọng của người Nam phân biệt khácnhau. Khi tôi phát âm “trái đất” theo giọng Bắc thì tụi nó không chọc quê nữa.Nhưng tụi nó không phát âm “trái đất”theo giọng Bắc đâu, phát âm theo giọng của nó! Giọng người Nam gần giọng người dân quê của Phú Yên. Nếu ráp đ-â-t thì thành “đất” như người Bắc, ráp đ-â-c thì thành “đấc”, ráp đ-ư-c thì thành “đức”. Phát âm của người PY và của người Nam không giống cả 3 từ đó. Âm của người Nam và người PY hơi giông giống nhau nhưng phân biệt được sự khác biệt. Thế mới hay viết đúngchính tả là một chuyện còn phát âm là một chuyện khác. Tại sao phải bắt nói đúng Tiếng Việt! Tôi nhớ hồi chín năm kháng chiến thầy giáo của tôi khổ công dậy tụi tôi nói đúng Tiếng Việt! Nếu cảnước nói cùng rặc một giọng thì nước đó có màu mè gì? Từ Nam chí Băc chỉ có một màu làm sao xứ đó hấp dẫn được du khách.
2.2-Từ đặc biệt
Ai dè: Tao cứ tưởng mày con nhà giầu có nhiều tiền tha hồ tiêu xài. “Ai dè” mày cũng tiện tặn như tụi tao

Ăn ba hột: ăn vội vàng. “Ăn ba hột rồi đi tắm”
Ăn bẫm: ăn mạnh miệng. “Cái thằng khỉ, ăn bẫm, không biết ngại à”
Ăn chực: Đến nhà người ta có ý chờ người ta cho ăn mà nghĩ rằng mình chẳng có tích sự gì cho người đã cho mình ăn cả. “Hôm qua nhà tao có cúng giỗ. Có mấy đứa nhỏ lạ hoắc đến ăn chực”. Thành ngữ “Ăn chực nằm chờ” là đến nhà người ta chờ đợi quá lâu. Không tự lo ăn được nên phải buộc ăn nhờ người ta
Ăn ké: ăn thêm phần của người khác mà không phải trả thêm tiền. “Hôm nay mẹ mày không đi chợ nấu ăn được. Cho ba ăn ké với con.”Ăn của nhà người khác
Bá láp: không đúng đắn. “Nói bá láp bá xàm, không trúng không trật gì hết ráo!”
Báng: Dùng cho trâu bò. Có nghĩa là dùng sừng để húc vào cái gì hay vào đối thủ. “Con bò này rất khỏe nên nó bángrất hăng.”Ở vùng khác ta thấy từ “báng” trong từ “chống báng”
Ba rọi: “Cắt cho tôi miếng thịt ba rọi”Thịt ba rọi là thịt nửa nạc nửa mỡ.
Bà chã: “Bột đã khuấy chín đang dẻo queo mà đổ nước lạnh vào để cho nó bã chã chơi” Bã chã là không kết dính, rời rạc. Ngoài ra “bã chã”còn có nghĩa “vỡ lỡ, nửa vời, không thành công”. Ví dụ: “Chuyện đang tiến triển ngon lành mà mày nói ra nói vào để trở nên bã chã”
Bảnh: “Con nhỏ này coi bộ bảnh(đẹp)gái, còn cái thằng kia coi bộ bảnh trai!”. Dọn(bày bàn)chi những món ngon nhiều như dậy! Bữa tiệc hôm nay coi bộ bảnh(ngon, đẹp) đó!”. “Bảnh” có nghĩa là đẹp, tốt, ngon…
Bằng: Làm bằng. “Lấy cho cha cái chén coi!”- Chén bằng đất hay chén bằng sứ”.Người Phú Yên hay nói rút gọn. Thay vì nói “chén làm bằng đất” thì nói chén bằng đất. Dùng rộng ra có nghĩa là “cách thức.”Ví dụ “Mày từ trển xuống đay đi bằng gì?-Đi bằng xe đạp. Con hổng chịu đi bộ đau!”
Bét: Mắt bét là mắt có thị lực nhìn kém. Mắt ướt át tèm nhem thường do bịnh đau mắt hột gây ra. Bét mắt: mắt làm việc nhiều trở nên mỏi mệt ví dụ: “Đồ đạc mày bỏ lôn xộn quá! Tao tìm bét mắt mới thấy được cái này!”

Bẹo: “Con Hai đâu rồi! Tối rồi mà chưa dọn cơm ra ăn á!- Chĩ còn đi lỏng nhỏng ở ngoài đường nói chiện quiên thiên với trai. “Bảo nó giờ này mà còn đi đau?, đibẹo hả!”.Từ bẹo ở đây có ý nghĩa xấu chứ ở trong Nam Bộ có ý nghĩa là trưng ra cho người ta thấy. Ở các chợ nổi, kẻ mua người bán đi lại trên ghe nên hàng hóa muốn cho khách mua thấy thì người bán phải bẹo hàng, tức là treo những hàng mẫu trên cây sào cắm ở đầu ghe cho khách ở dưới ghe thấy. Có lẽ từ này xuất phát từ từ “bêu” trong ngữ cảnh “chém bêu đầu”
Biểu: Là bảo. “Tao “biểu” đi lên là đi lên, đi xuống là đi xuống. nghe chưa! ” “Cái thằng này lạ thật. Sao ngồi thừ ra một đống “dậy” mầy!-Ai “ biểu” chị đánh em chi!”
Bộ Lần: Chỉ việc thường hay làm trước đó. “Sao sáng nay mày bỏ quên cái xe!-“Bộ lần”tôi hay thường đi bộ nên hôm nay quên mất cái xe!”
Bớ: Hỡi. Tiếng cảm thán. “Đông về lạnh lắm bớ người ơi! /Chồng em đứng gác ngoài trời khuya lơ” ; “Miệng kiêu(kêu)bớ chú đi đường/Đi đau (đâu)mà dội(vội), đi đau mà dàng(vàng)”
Cắc cớ: “Muốn cho nó thấm nước từ từ thì ta đổ từ từ nước ấm vào bột chứ aicắc cớ đổ nước sôi vào bột một cái ào chẳng nó quánh lại thành cục thành hòn hết trọi.” “Cắc cớ” nghĩa là “lấy làm lạ”, làm chuyện khác thường(nhưng nhiều khi cũng đạt được kết quả như làm một cách bình thường. ví dụ. “Mặn là mặn, ngọt là ngọt. Cắc cớ bỏ muối vào chè thử xem sao!. Cắc cớ nó ngon thiệt!”. “Cắc cớ” dùng trong việc thử nghiệm.
Chình ình: Phơi bày một cách thô thiển. “Đồ con gái hư. Khách khứa ra “dào” mà nằm chình ình ra đó.” “Trời ơi té ở đâu mà mình mẩy con ướt át đất cát lấm tèm nhem dậy!(vậy)-Té ở cữa ngõ. Không biết ai bỏ cục đá mằm “chình ình” ra đó. Tối trời con có thấy đau!(đâu)”

Chịu đèn: là trai gái chịu gần gụi với nhau có thể tiến tới hôn nhân. “Con Thắm với thằng Hai coi bộ “chịu đèn” với nhau. “Thâu” ông bà gả phức đứa con gái cho nó đi cho “rầu”…”
Chõng: là cái giường. có câu “Lều chõng đi thi”nên nói từ này là từ địa phương của Phú Yên nghe không chuẩn. Nhưng ngày xưa ở nông thôn Phú Yên thường nói cái chõng hơn. Ngày nay đàn em chúng ta hay gọi là cái giường. Gọi chõng nghe lạ lắm.
Chụm lửa: chất củi vào bếp để duy trì lửa trong bếp. Người Bắc gọi là thổi cơm hay đun bếp.
Cũ mèm: “Khoác lên mình cái áo thun cũ mèm.” Cũ mèm là cũ lắm
Dan ca: Bày vẽ ra cho ruờm rà. Nói vòng vo, không nói thẳng vào mục đích. “Ăn uống sơ sơ rồi đi làm! Ai biểu nấu nướng bày biện dan ca ra để cho công chiện (chuyện) trễ nải đi rồi lùng bùng!” “Em gặp anh đây cũng muốn dan ca/Sợ mẹ bằng biển, sợ cha bằng trời.”
Dí: nghĩa là với “Chiều chiều quạ nói “dí”(với)diều/ ở nơi đống trấu thật nhiều gà con.”Ăn cơm “dí”(với)cá “dí”(với)dưa. Có lẽ là từ đọc trại lại từ “vzới” của người Nam Bộ
Dìa: nghĩa là “về” ví dụ đi dìa nhà. “Chị hai đi dìa dứ(dưới hay đi dìa trển(trên đó)?”
Dí thá: Ở PhuYên , trâu bò cày phải dùng một đôi để kéo cày. Một con đi bên phải gọi là đi vai “dí”, một con đi bên trái gọi là đi vai “thá.”Người cày quất roi vào con vật hô: “dí, thá”để điều chỉnh chúng nó đi thẳng đường cày. Muốn nó đứng lại thì hô “dí dò.”Những từ này có thể bắt nguồn từ chuyện cổ tích nói về chuyện trâu ở núi Hương, thôn Mỹ Thạnh xã Hoà Phong huyện Tuy Hoà. Trong quyển sách “Tim Hiểu Địa Danh Qua Tục Ngữ Ca Dao Phú Yên”Nguyễn Đình Chúc viết: “Núi Hương xưa kia có nhiều danh mộc. Tương truyền trên đỉnh có cây kì nam to mùi hương bay khắp và trong núi có 2 con trâu trắng và đen, ngày thường có chim lùa trâu ra bàu uống kêu “Dí cò, thá cháng.”Có người Hoa Kiều nghe tin núi Hương có kì nam nên đến nơi xem xét và quả thật có mùi thơm, nên đem lễ vật đến cúng để khai thác, nhưng cọp, rắn trăn rượt chạy. Chiều ngày sau, 2 con trâu kéo cây kì nam xuống bàu và mất hút…”

Dìa: đi dìa, đi dô, đi dề. “di dìa”đúng là từ nói trại đi của từ “đi dề”. Người nông dân “cũ” của Phú Yên phát phụ âm “v” na ná giống người Nam Bộ và khác xa người Bắc. Người Bắc nói “vâng,vô, về” thì người Nam nói ” vzâng”, người nông thôn Phú Yên nói “đi dô, đi dề,đi dìa”
Dính lẹo: hay lẹo: là thực hiện tính giao phối đực và cái trong tự nhiên. “mùa này chó hay lẹođực” “Kệ nó con! nó “dính lẹo” đừng có đập nó tội nghiệp nó, con!”Hồi nhỏ chúng tôi nghe những lời chất phát của ông bà cha mẹ nói với con cháu cũng hồn nhiên không kém. Hình ảnh này không có gì kích thích sự tò mò về tính giao mà ngày nay cả cha lẫn con bị hấp dẫn trong thế giới “văn minh hấp hẫn” này. Từ này có tác dụng giáo dục về cái ngày nay gọi là “giáo dục gới tính.”Nghe có vẻ khoa học nhưng thiếu tính tự nhiên nên kết quả giáo dục kém hơn ông bà ta. Hình ảnh dính lẹo hết sức tự nhiên như hình ảnh Linga và yoni mà người Chăm thờ phượng trong tín ngưỡng văn hoá Phồn thực của Chăm. “Dính lẹo” chứa đựng hình ảnh phồn thực hết sức tự nhiên, có phải phiên bản của văn hoá này?
Dít: Nghĩa là bít lại, kín, phát âm sai từ “vít”. “Lợi dụng kẽ hở mà làm sai trái-Đã là cái kẽ thì hở. Có cái kẽ nào dít đâu mà nói”. “Ăn no dít đít.”
Dịt: là giỏ đựng cá. Dụng cụ để một khi câu được cá hay bắt được cá thì bỏ vô, đan bằng nan tre giống hình con vịt. Thường được cột vào 2 bên bằng 2 ống tre kín 2 đầu để “Dịt” nổi trên mặt nước. Ngư dân tha hồ kéo theo bên mình để bắt cá bỏ vô.
Dở ẹt: hay dở ẹc là rất dở ví dụ “bài hát dở ẹc. Món này ăn dở ẹc”. “Ẹc” có có nghĩa nhỏ nhất, sau cùng. ví dụ “Trời tối rồi! Còn con vịt nào đi ăn về chuồng trễ nữa không? –Không. Đây là con về út ẹc”.
Dưỡng ngư: nghĩa là khinh xuất, không cẩn thận đề phòng., không biết sợ nữa. “Nó bịnh mấy bữa nay rồi. Ăn uống không được, nằm một chỗ mà bảo rước thầy bẳt mạch mà nó không chịu-Coi bộ nặng đó, đừng có “dữơng ngư”…”Còn có nghĩa trẻ con rầy la mà không biết sợ cứ làm tới “Đừng có chọc ghẹo em nữa! Cứ dỡn mặt nó . Nó sẽ “dưỡng ngư”…”
Đầy ngay: nghĩa là nhiều lắm. “Hôm nay là ngày lễ. Ở ngoài đường xe nó chạy đầy ngay”
Đi lút: “Lạ tới mức anh đi lút vào đất Thái mà không biết”. Lút nghĩa là sâu.”Cắm lútcon dao.”

Đồ: là đại từ bất định chỉ những cái đã bày ra. “Tụi nó sắp biểu tình! Tui thấy nó treo cờ treo băng, treo đồ, tuồng như to chiện(chuyện)lắm!
Đụng: là trai gái chịu lấy nhau làm vợ làm chồng. “Cháu ông “đụng” cháu bà có sao đâu. Có bà con “dí” nhau “đau” mà sợ. Cho “cứ” đi là “dừa.”Khen chê tụi nó sẽ ở “giá” đó”Có tác giả nói từ này xuất xứ ở Nam Bộ. Lấy ý từ chỗ ghe thuyền đi mua bán trên sông hay đụng nhau trong các cuộc giao lưu mua bán đi lại. Đó là duyên để lắm đôi trai gái gặp nhau kết nghĩa thành vợ thành chồng.
Đựng: nghĩa là “để mà”. Từ này thấy người Nam Bộ có dùng như câu sau đây thấy trên đài truyền hình phỏng vấn một mẹ được tặng nhà tình nghĩa ở quận 7 TPHCM: “Nhà dột nát hết “dáo”. Tui phải lấy tấm nhựa phủ lên mái “đựng” mà có chỗ chui “da” chui “dào”…
Êm ru bà rù, hay iêm ru bà rù: “Ở nhàảnh chĩ cãi nhau tùm lum. Thấy cha mẹdìa hai vợ chồng êm ru bà rù không thấy nói gì hết”. “.Êm ru bà rù” nghĩa là êm re, lẵng lặng như tờ, êm phăng phắc. Không những thế mà còn có nghĩa trơn tru, trôi chảy mữa. “Cái máy chạy êm ru bà rù”
Gía: là goá. “Ráng chữa chạy cho nó sống. “Thẵng” mà chết thì “cỏn” nó ở “giá”. Làng này con gái “giá” bụa nhiều và đã mang tiếng nhiều “dụ de bà giá!”…”Đàn ông chọc ghẹo đàn bà con gái gọi là “de” gái
Giội: là dùng nước tạt mạnh để làm trôi đi vật thừa thãi dơ dáy ví dụ giội nhà giộicầu.
Giỏ cụ lão: Giỏ dùng để tải gạo ra chiến trường thời 9 năm kháng chiến chống Pháp ở Phú Yên. Giỏ được các cụ lão đan bằng nan tre để đựng gạo. Giới trẻ hơn gọi là giới nông dân. Nông dân thì làm thành đoàn dân công tải gạo và quân nhu ra chiến trường. Gới tốt hơn nữa là giới thanh niên. Thanh niên thì cầm súng.

Giọc nước: là thò tay vào nước để quậy phá chơi thôi chữ không nhằm mục đích làm gì. Ví dụ: “Trông em, Coi chừng đừng để nó “giọc nước”ướt hết áo quấn nó sẽ bịnh cảm đó.”
Giỡn mặt: Chọc ghẹo không nghiêm túc để người đối diện không sợ, không nể. ‘”Giỡn chó thì chó liếm mặt” Ông cảnh sát nói với tay anh chị: “Đừng có giỡn mặt, tao bỏ tù mày đấy!”
Gút gạo: là vo gạo cho sạch rồi hong khô. Vi dụ “Gút gạo cho sạch rồi đem đi xay đi!”
Hèn chi: “Nó ích kỷ thật. hèn chi mày không chơi với nó”. “Hèn chi” có nghĩa là vì vậy, do đó, bỡi vậy…
Hòn Nần: xem Miếu Biểu Trung.
Hổng giống ai: không giống ai thì phát âm “hổng giống ai”.
Í dui: là nói ái chà! Biểu lộ đau đớn. “Í dui, sao mày nghéo bắp dế(vế)của tao đau quá!” “Í dui! Kim chích vào tay của em, đau quá hè!”
Ỉa giấc: khi xưa ở làng quê người ta không biết làm nhà cầu. Người ta vào rừng, ra đồng, ra gò hay nơi nào xa nhà và kín đáo để ỉa. Gò là nơi đất cao dùng dể chôn người chết. Ỉa giấc là bạ đâu ỉa đó. Lười biếng không đến những nơi đó. “Đi ra chỗ kia con! Sao mày hay ỉa giấc như dậy!”
Hớt hỏng: là lẻo mép. Chỉ tính nông cạn, không kín đáo hay kể sự thật không cần thiết cho người chẳng có gì liên quan đến chuyện đang nói “Đồ hớt hỏng, chưa chi mà khai hết chuyện nhà của mình cho người ta biết”. “ hay thường nói “Đồ ăn cơm trên hớt hỏng”
Hư: là không còn tốt. “Đồ con gái hư! Ăn nói rổn rảng giữa đám đông.” “Mẹ ơi! Con viết bài không được. Không phải nó hết mực mà nó hư rồi”
Không hè: “Lấy cho tao cái muỗng, đôi đũa cái bát và tăm xỉa răng” – “Chỉ có tăm xỉa răng không hè!“. Không hè có nghĩa là không có cái gì ráo, chỉ có mỗi một cái đó mà thôi.

Lảng xẹt: Lảng là không đậm đà ý vị, Không đúng đắn nghiêm trang. “Canh mà nấu không có cá có thịt trông nó lỉnh lảng làm sao!”. “Con nhỏ này thật lảng nết . Hễ gặp con trai bất kể quen hay không đều xáp lại nỏi ỏm tỏi không kiêng nể gì cả”. “Em nó bịnh ăn không được tao cho nó chén cháo thịt. Mày mạnh nuốt cái gì không được. Ăn cháo có đường mà chê, đòi cho được cháo thịt.”Đòi lảng xẹt à!”
Lẫm: (1) là một cấu trúc hình hộp có 5 mặt làm bằng vách đất và đáy cũng làm bằng vách đất. Có cữa để đổ lúa vào làm kho chứa lúa. (2) là cái đình để chức sắc trong làng làm việc. “Xóm Lẫm”. Có câu ru con như sau: “Nực cười đũa bếp bịt vàng?Chuồng heo phủ ngói/Lẫm llàng lợp tranh!”
Lấm lem : lem luốc thì có thấy các vùng khác dùng nhưng lấm lem thường thấy dân nông thôn ở Phú yên dùng nhiều.Lem là lan ra và có ý nghĩa dơ dáy, không sạch sẽ sắc sảo. Từ “lấm lem” gợi hình dơ dáy luộm thuộm rất mạnh. Đó là từ tượng hình dùng rất hay: “Trời ơi! em bé sao mà lấm lem lấm luốc dậy“
Mặc bính. Lấy tạm quần áo của người khác mặc. Người nam gọi là mặc kính.“Thằng đó mặc bính áo của tao mày”
Ma da: là ma ở dưới nước chuyên nhận chìm người ta chết để thế mạng mình đi đầu thai kiếp khác, sống trên khô.
Mốc cời: “mặc bộ đồ bà ba mốc cời, đi đôi guốc mòn lẻm và anh ta đội cái nón cời tả tơi!“. “Mốc cời”nghĩa là màu xám nhưng rất cũ, mốc meo hư nát.
Mòn lẻm: “mặc bộ đồ bà ba mốc cời, đi đôi guốc mòn lẻm và anh ta đội cái nón cời tả tơi!“.“Mòn lẻm” nghĩa là quá mòn vật dụng trở nên mỏng và sắc bén.
Mú dẻ: hoa mú dẻ là hoa của 1 thứ cây mọc ở đồi trọc, màu vàng, mùi thơm, cho trái cũng màu vàng chín mọng mà trẻ con(nhất là bọn chăn bò vùng đồi núi) rất ưa thích. “rủ nhau đi hái mú dẻ chim chim”. Chim Chim là loài cây mọc chung với mú dẻ, trái màu đỏ. Nơi khác gọi là Dú Dẻ
Mủng: là dụng cụ đan bằng tre dùng đựng gạo để vo gạo. Lỗ của cái mủng nhỏ, các nan tre đan lại khít hơn khi đan cái rổ. Cái rổ có lỗ lớn hơn dùng để đựng rau cho mau rút nước. Cái mủng nhỏ gọi là cái cão.
Mừ ứ: Nghĩa là để mắt tới. “Con gái gì mà lớn tồng ngồng như dậy(vậy) chẳng có ai mà mừ ứ tới”
Ngầy: “Đi đau giờ nầy mới dìa, hầunãy giờ ổng bã ngầy(ngầy la) mầy tứ tung!”.Người Phú yên nói “rầy la, mắng chưởi, quở phạt, trách mắng người dưới quyền ” thành “ngầy hay ngầy la“.
Nghen: “Tụi bay chơi đông dui(vui) quá nhỉ, cho tau chơi với nhen!”. “Đi với tau(tao) nghen”. “ Nghen!” nghĩa là đồng ý không? Được không? OK chứ? Chịu không?
Nghinh ngang: rất nhiều nên bỏ bừa bãi. “Phú yên tĩnh nhỏ lo gì/Nhưng mà sản vật đủ thì nghinh ngang.”Trích “Non nước Phú Yên”Nguyễn Đình Tư, trang 206. Còn có nghĩa tự do không theo trật tự: “Nép, nép dô(vô), sao đi “nghinh ngang” dữ dậy(vậy)!”
Ních hết: ăn khoẻ “Cá mòi cũng ních/cá trích cũng nhấn”Tức phàm ăn. Cái gì cũng ăn no thôi không kén chê gì cả. “Nó đang đói. Nó ních hết không để cai gì lại hết.”Trong “đất rừng Phương Nam”tác giả cũng có xài từ này…trang 39. Tức người Nam Bộ dùng từ như người Phú Yên.
Núi Cảnh Vực: ĐNNTC viết: “ở phía Đông –Nam huyện Tuy Hoà” có lẽ là vùng núi Đá Bia
Núi Bảo Tháp: là núi Nhạn Tháp
Núi Cấm Sơn: ĐNNTC viết “Núi cấm Sơn ở phía Nam huyện, phía Bắc liền núi Vân Hoà, phía Nam liền núi Lỗ trụ và đèo Húc Viện” Theo mô tả thì đèo Húc Viện có lẽ là đèo Dinh Ông bây giờ. Núi Cấm Sơn có lẽ là núi Cẩm Sơn gần miếu Lương Văn Chánh.
Núi Liên Trì: ĐNNTC viết : “Ở phía Đông-Bắc huyện. chân núi này có hồ sen nên gọi thế”
Núi Chủ Sơn: ĐNNTC Viết: “Ở phía Tây-Nam huyệnTuy Hoà, sóng rất cao, phía Nam có núi Đồn Tàu, phía Bắc giáp Man Động”. Đoán là núi Mẹ Bồng Con hay là núi Chúa.
Núi Thạch Thành: ĐNNTC viết: “Núi Thạch Thành ở phía Tây huyện Tuy Hoà, có thủ sở. Năm Ất Mão đầu đời Trung Hưng, đạo binh cứu viện thành Diên Khánh, sai bọn đốc chiến Mai Tiến Vạn và Nguyễn Văn Nguyên giữ núi Thạch Thành để chặn đường tắt của giặc, tức là đây. Gần về phía Bắc có đồn Phước Sơn, là chỗ phát nguyên của sông Đà Diễn.”
Nước lạnh: “Chế bình trà mời bác 7 uống cho dui(vui)”-Thôi , tui uống 1gáo(dụng cụ để múc nước làm bằng sọ dừa có tra cán để cầm) nước lạnh rồi).Ngoài Bắc gọi là nước lã.
Nước khách: khoa học gọi là nước của cuồng lưu. Nước suối chảy rất lớn, rất mạnh. Nhứt khắc thì suối khô cạn.
Nước kiêu ấm: là nước sắp sôi, nghe tiến kêu re re.
Nước Chè: là nước trà.
Nước giọt: là nước trên mái nhà chảy nhỏ giọt xuống sân
Ngạch cữa: Cữa thì có khung ngoại ôm 2 cánh cữa khi cữa đóng. Khung cữa nhà ngày xưa gồm có 2 thanh ngang. Một ở trên và một ở dưới, 2 thanh 2 bên. Thanh ngang ở bên dưới thì nằm sát mặt đất và gọi là ngạch địa. Nếu nhà kiên cố, cữa đóng then cài, thì kẻ trộm muốn vào nhà ban đêm phải “khoét ngạch”Tức là đào âm qua móng của tường hay âm qua ngạch địa mà chui lên khỏi nền nhà. Ngày xưa tụi trẻ con chúng tôi hay nghe ông bà kể cái khôn của tên ăn trộm. Trước khi chui lên thực sự thì nó lấy cái “Trã”ám khói đen ngòm đặt trên đầu một cây gậy để đưa lên. Gia chủ rình thấy tưởng là cái đẩu của thằng ăn trộm bèn phan một nhát gậy, nghe kêu một cái “oảng”Té ra cái trã bị vỡ chứ đầu thằng ăn trộm không bị vỡ!

Ngó bộ: là xem ra, có vẻ. “Cái đó ngó bội coi đẹp đó”.
Nhem thèm: Nghĩa là bày ra ở trước mặt cho người ta thèm chơi. “Đem ra chỗkhác mà ăn. Đừng đứng trước mặt tụi nó để nhem thèm chúng nó“ Viết đến đây tôi nhớ thời ấu thơ dắt trâu ăn cỏ. Nó thấy lúa ở trong ruộng cứ le lưỡi ra liếm lúa mà ăn. Tức quá tụi tôi bức một nắm cỏ non tươi tốt huơ qua huơ lại trước mặt con trâu và miệng nói liên tục: nhem thèm..nhem thèm…Tức thì con trâu bỏlúa mà quay lại liếm cỏ mà ăn.
Ống lương khô: Dùng thời 9 năm kháng chiến chống Pháp. Ống làm bằng ống tre rộng ruột mỏng vỏ, kín 2 đầu, cưa cắt ra thành một đoạn ngắn làm nắp. Đoạn còn lại dài hơn làm thân Miệng đoạn thân vạt mỏng phía bên ngoài. Đoạn nắp miệng khoét mỏng phía bên trong sao cho 2 cái úp lồng khít vào nhau. Thế là có một hộp hình ống để đựng lương khô. Lương khô thường làm bằng thịt gà hay thịt heo nạt kho khô với muối, đường, sả, ớt hay mắm ruốt để dùng được lâu.
Óng kẹo bà cô: là đi đã lâu rồi. Ví dụ. “Ổng đi hồi nào?-Đi đã lâu rồi, đi óng kẹo bà cô!”
Phái lòng hay phải lòng: là trai gái chịu lấy nhau. “Con Hai nhà mình coi bộ phái lòng thằng Giỏi ở xóm trên đấy!”
Qúa tay, quá chưn: “Ba bỏ mấy cái áo dơ trong thau giặt chung với đồ dơ của mày. Sao mày chỉ giặt đồ của mày còn đồ của ba mày bỏ lại. Con nhỏ quá tay!Còn cái khăn này nữa. Mày cũng bỏ lại. Trời! con cái quá tay quá chưn!. “Qúa tay” có nghĩa là tệ hại thực, tệ hết chỗ nói…

Qúa thảm: “Mày có rất nhiều. Cho nó một ít! “Thì đây nè, lấy một chút thôi nhé!”- “cho chi quá thảm!” . “Quá thảm ” không có nghĩa là quá bi ai mà là quá ít
Quỹ quài: tức là Huỹ hoài, có nghĩa là lâu, nói lâu khó để người ta hiểu mình. Nguyễn Đình Tư viết trong Non Nước Phú Yên trang 24: “Chóp Chài cao lắm bấy/Trông hũy trông hoài/Chẳng thấy người thương” Hồi còn chính sách “bao cấp,”giao tiếp với nhau thì người ta hay dùng điếu thuốc để gợi chuyện phổ biến như ộng bà ta ngày xưa dùng “Miếng trầu đầu câu chuyện”vậy. Thuốc hiệu 3 số năm (555)là thuốc ngoại nên quí, giao tiếp có hiệu quả hơn thuốc hiệu “MAI” nội địa sản xuất ở nhà máy thuốc lá Saigòn(hãng thuốc lá Basto của Pháp để lại). Thời đó có câu “Thuốc Mai nói quài nói quỹ”
Quảy: ở quảy(trong Nam nói là ở ngoảy). Chỉ ở về phía bắc.”Mày mới dô hử. Ở quảy cha mẹ con có phẻ hay không”. “Ở quày Hà Nậu có lạnh lắm không?”
Rế: Dùng để bỏ nồi niêu xoong chảo còn nóng bưng cho khỏi phỏng tay. “Anh dìa(về)thắt rếkim cang/Dót(vót) đôi đũa biếp(bếp), cứ (cưới)nàng còn dư ”Kim cang là một thứ dây bứt ở trong rừng, thắt thành hình vòng tròn hình hoa thị, số cánh thường là số lẻ, từ 5,7,9 trở lên tuỳ rế to nhỏ. Các cánh hoa được bện bỡi dây kim cang quanh chu vi để thành cái vành rế. Người Nghệ Tĩnh nồi không có quai và họ không có rế. Không biết làm sao họ bưng nồi cơm còn nóng? Người Phú Yên đi ghe bầu ra đó buôn mắm thấy làm lạ hát câu: “Nhà không chái/Đái Không ngồi/Nồi không quai”Nhà của người Phú Yên ngoài 2 mái tước sau, có 2 cái chái ở 2 bên. Đàn bà PY thì mặc quần 2 ống chứ không mặc váy một ống, Đàn bà con gái Nghệ Tĩnh cứ đứng thẳng mà đái không sợ ướt “quần!”
Rổ may: là cái rổ đựng đô kim chỉ dụng cụ khâu vá cho các bà các cô dùng
Rộng: là nuôi, trử cá trong cái gì để nó còn sống mà dùng từ từ. Ví dụ: “Bắt cá bỏ vô chậu “rộng” nó đi con!”Dùng rộng ra có nghĩa là chứa chấp. ví dụ: “Tí ha, tí hửng như đồ rượng đực! Lúc nào cũng“rộng” trai ở trong nhà!”
Rớ tới.; Nghĩa là động tới, đề cập đến. “Tụi bay lôn xộn quá. Tao không bao giờ giờ “rớ tới”hết ah!.”

Ruột Nghé: Dụng cụ bằng vải không may 2 mép lại với nhau theo đường thẳng mà gấp chéo qua rồi chéo lại, theo đường cong xoắn ốc thành hình ống như cái ruột để đựng gạo mang theo khi chạy giặc Pháp tản cư ra khỏi nơi Pháp chiếm đóng hay cho binh sĩ đi hành quân. Cách làm: Dùng một băng vải rộng cỡ 2dm. Uốn cong lại sao cho mặt trên nằm gọn vào bên trong. Mặt dưới nằm gọn lại bên ngoài. Lúc bấy giờ 2 mép vải giáp nhau theo đường chéo. Chỉ việc khâu 2 mép lại thì ta có một cái ống vải hình ruột nghé. Đường may chạy xoắn ốc chung quanh ruột nghé.
Sao dẫy: sao như vậy, chỉ sự ngạc nhiên khi nhận ra việc làm sai trái.Ví dụ “Sao dẫy! làm hư hết trọi, hết ráo! làm như thế này chứ”
Săn: Gỗ tốt. ví dụ củi săn khác với củi tre. “Dùi đánh đục, đục đánh săn” nghĩa là dùi đục(làm bằng gỗ) đánh cái đục(bằng sắt) thì đục đánh xuống khúc gỗ.
Tau: Đại từ danh xưng ngôi thứ nhất. Nghiã là tôi, tao. “Tụi bay chơi đông dui quá nhỉ, cho tau chơi dới(với) nghen!”.
Tám hoánh: là đã xong rồi. Ví dụ: “Họ đi lâu chưa?-Đã đi tám hoánh rồi, từ hồi nước mới ròng” Trích “Đất Rừng Phương Nam của Đoàn Giỏi” Người Phú Yên nói đi “đi tám quánh rồi”
Te Tua: là rách nát nhiều lắm. “Hai ống quần rách “te tua” Trích trang 23 trong ĐRPN của Đoàn Giỏi. Người Phu Yên cũng dùng “te tua” Ví dụ tàu lá “rách te tua”. Nó bị “chưởi mắng te tua”.
Thâu đi ông: Dùng để phủ định ý người đang nói. “Đố cái thằng đó mà thi đậu được kỳ này! Thâu đi ông, nó sẽ đậu thủ khoa cho mà xem!”
Thẵng, cỏn: “Mẹ ơi, chị hai, anh bốn và mấy đứa cháu đi về nội về ngoại của nó rồi!” -“Kêu tụi nó lại để mẹ gửi cái này cho thẵng và cỏn cái đã . “Không!, ảnh chĩ đi hết trơn hết trọi rồi”. Thường cha mẹ chồng cha mẹ vợ gọi con dâu và con rể không trực tiếp bằng “con, thằng” thô bạo bà gọi trại lại bằng “cỏn, thẵng” nghe nhẹ nhàng thân mật và lịch sự với lòng nể nang con cái hơn. Anh chị em ở phía chồng phía vợ cũng gọi anh rể chị dâu bằng “ảnh chĩ” cũng ý như vậy. Ngoài ra “ảnh chĩ ”cũng được dùng để làm thay đổi âm điệu câu nói.. Nói “anh” đi rồi nghe không êm bằng “ảnh” đi rồi.
Thớt thịt: là hang bán thịt ở chợ. “Nó bỏ cái rổ ở dưới gầm một “thớt” bán thịt lợn” Trích trang 22 trong “Đất Rừng Phương Nam của Đoàn Giỏi”
Trã: là dụng cụ bằng đất nung dùng vào việc nấu canh kho cá. Nồi chỉ dùng để nấu cơm mà thôi.

Trách: là dụng cụ giống như cái trã, chỉ nhỏ hơn thôi. “cái trách, cái trã, cái mủng, cái cảo”là dụng cụ bếp núc của các bà ngày xưa. Nguyễn Đình Tư viết trong“Non Nước Phú Yên”trang 209: “Cẩm Sơn làm trã làm vung/Làm chum làm vại/Nắn thùng nắn niêu” Đúng câu hát của người Phú Yên là: “Cẩm Sơn làm trã làm dung/Làm chum làm dại/Nắn thùng nắn niêu”… nghe mới đúng điệu người sinh trưởng ở Phú Yên. Niêu là cái nồi đất nhỏ.
Trách trã: là trách móc. “Hôm qua, qua nói qua qua mà qua hổng qua. Nay qua qua. Thôi trách trã làm gì!”
Trắng bóc: Trắng ghê lắm. Hàm ý trắng như cái gì mới lột vỏ ra thấy bên trong quá trắng. “Con nhỏ này mặt mũi trông xấu xí nhưng da dẻ nó trắng bóc à! ” “Con nhà ai mà trắng như trứng gà luộc mới bóc vỏ!”
Trắng tinh: rất trắng. Hàm ý còn mới và tinh khiết nên giữ được màu trắng. “Vở mới mua mà! Giấy má còn trắng tinh”
Trịn: là lấy mông hay đít cọ vào cái gì để chùi cho sạch. “Trẻ con thời xưa chỉ mặc áo chứ không có quần để mặc. Ỉa thì trịn đít lên mô đất thay vì chùi bằng giẻ hay rửa đít.” Câu tục nói: “Một đời phấn sáp đeo hoa/ Một đời ỉa trịn cũng qua một đời!”
Trưa trật: quá trưa. Từ này cũng thấy người Nam Kỳ dùng. “Phải qua 2 cái phà nên trưa trật tôi mới tới đây”(bài viết về tướng cướp Bảy Viễn của Trúc Giang)
Tui: là tôi. “Anh bỏ qua chiện(chuyện) đó chứ tui(tôi) giận lắm”
Tứ tung: là vươn vãi khắp nơi. Tung là đường dọc, hoành là đường ngang. Ở đây biến thể “tứ tung” là bốn phía. “Sao dậy, đút cơm không chịu ăn, để cơm đổ tháo “dung dãi” tứ tung, cái thằng này! Chị “quánh” cho mà coi!”
Ui ui: là nắng không lớn lắm. Ví dụ: “Trời nắng “ui ui” mà mày dẫn em đi xa, không “đậu”mũ thì em nó sẽ bị bịnh cảm đó!”
Ử: là không còn chắc chắn nữa. “Đừng leo lên! Bức tường ở ngoài mưa gió lâu ngày nó ử rồi”
Ưng: là vừa lòng. Ví dụ “ăn món này có ưng ý anh không?”Người Phú Yên còn dùng rộng ra nữa. Trai gái “ưng” ai có nghĩa là lấy ai. Ví dụ “Thằng Hai xóm trên “ưng”con Ba ở xóm “ dứ”(dưới)”
Xỉ: là cái muổng, cái thìa. Phan Ngọc Giang nói từ này gốc Mam Bộ, gốc tiếng người Hoa

Xửng: xửng mưa, tạnh mưa. “Mấy hôm nay mưa quá trời. Khi nào xửng mưa tao qua!”

PHAN NGUYÊN LUÂN… thực hiện

Chủ Nhật, 9 tháng 7, 2017

Hàm nghĩa của chữ “Sinh”



“sinh” đối với con người lại chính là “tử” trong mắt của các sinh mệnh cao tầng, con người đến thế gian chính là đi vào cõi chết. Câu nói của Lão Tử “xuất sinh nhập tử” (sinh ra là chết đi) chính là có hàm nghĩa như vậy.



Tác giả: Chiếu Viễn


[ChanhKien.org] “Sinh” (生) là một từ hội ý (từ do hai hay nhiều bộ chữ ghép tạo thành), đây là chữ Giáp Cốt(1) cổ của Trung Quốc, bên trên là chữ “thảo mộc”, bên dưới là “mặt đất” hoặc “thổ nhưỡng”. Nghĩa gốc của từ này chỉ cây cỏ sinh trưởng trên mặt đất. Ngoài ra chữ “sinh” còn có nghĩa là sản sinh, sáng tạo và nuôi dưỡng.

Trong thư pháp chữ Khải, chữ “sinh” (生) bên trên là “nhân” (人), bên dưới là “thổ” (土), “con người ở trên mặt đất” nghĩa là sinh. Con người sau khi chết đi thì an vị dưới đất, không thể ở trên mặt đất được. Vậy thì nơi ở của người sống nên là ở trên mặt đất, nơi có ánh Mặt trời, nếu ở lâu trong căn phòng dưới mặt đất hoặc dưới gầm cầu, đường hầm thì sẽ mang đến âm khí u ám, không có lợi cho sức khỏe.

Nếu nhìn từ góc độ khác, theo lý luận của Đạo gia, trong không gian vũ trụ mà xã hội nhân loại tồn tại này, hết thảy vạn vật đều do âm dương Ngũ hành tạo thành, vật chất cấu thành thân thể người cũng không phải ngoại lệ. “Thổ” đứng vị trí thứ năm trong ngũ hành, cho nên đối với sinh mệnh ở cảnh giới rất cao mà nói, thân thể người chính là đất, con người sống ở thế gian chính là bị chôn vùi trong đất, “sinh” đối với con người lại chính là “tử” trong mắt của các sinh mệnh cao tầng, con người đến thế gian chính là đi vào cõi chết. Câu nói của Lão Tử “xuất sinh nhập tử” (sinh ra là chết đi) chính là có hàm nghĩa như vậy.

Cho nên con người chỉ có cách duy nhất là khắc khổ tu luyện trong chính Pháp đại Đạo, dũng mãnh tinh tấn, cuối cùng ra khỏi Ngũ hành, mới có thể rời xa cõi chết, bước vào cuộc sống vĩnh hằng.

Dịch từ: http://www.zhengjian.org/node/157291

Chú thích:

(1) Chữ Giáp Cốt là chữ Hán cổ viết trên mai rùa hay xương thú vật, có hình dạng rất gần với những vật thật quan sát được, đây được coi là hình thái đầu tiên của chữ Hán.

Chủ Nhật, 2 tháng 7, 2017

KHÔNG NÊN HỒ ĐỒ VỚI "THẤU CẢM"





HOÀNG TUẤN CÔNG

MInh hoạ: ST



Tuần qua, báo chí và mạng xã hội bình luận sôi nổi về đề thi ngữ văn THPT năm 2017, với đoạn văn đọc hiểu, trích dẫn từ sách “Thiện, Ác và Smartphone” của tác giả Đặng Hoàng Giang (NXB Hội nhà văn, 2017). Xin trích:



“Thấu cảm là khả năng nhìn thế giới bằng con mắt của người khác, đặt mình vào cuộc đời của họ.
Giống như cái lạnh thấu vào tủy hay cái đau thấu xương, thấu cảm là sự hiểu biết thấu đáo, trọn vẹn một ai đó, khiến ta hiểu được những suy nghĩ của họ, cảm được những cảm xúc của họ, và tất cả xảy ra mà không có sự phán xét.
Khả năng đọc được tâm trí và tâm hồn của người khác là một khả năng phát triển ở những người mẫn cảm”.


Rất nhiều ý kiến tranh luận trái chiều, nhưng có thể tổng hợp thành mấy quan điểm chủ yếu như sau:


-Thứ nhất: “Thấu cảm” là một “từ lạ”, không có trong tiếng Việt, cũng không có trong tiếng Hán, và không được bất cứ cuốn từ điển tiếng Việt nào ghi nhận. (“Một thạc sỹ công tác tại Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam thú nhận: “Chưa từng nghe từ này bao giờ”- báo “Tiền phong”). Vì tiếng Việt không có cái gọi là “thấu cảm”, nên cách hiểu, cách giảng về “thấu cảm” của TS Đặng Hoàng Giang là vô nghĩa.


-Thứ hai: Từ “thấu cảm” tuy không thông dụng, nhưng đã được dùng trong thực tế và được từ điển tiếng Việt ghi nhận. Tuy nhiên, cách giải thích của tác giả Đặng Hoàng Giang mang nặng tính suy diễn, chủ quan, phi lý.


- Thứ ba: Không có vấn đề gì đáng phải bàn cãi trong đoạn văn đọc hiểu và đề thi môn ngữ văn.


Trước tiên, xin nói về từ “thấu cảm”.


Có thể nói, “Từ điển tiếng Việt” của Trung tâm từ điển học Vietlex (Vietlex) là cuốn từ điển duy nhất (đến thời điểm này mà chúng tôi biết) có ghi nhận từ “thấu cảm”. Sách này đưa ra hai cách giải thích như sau: “thấu cảm • 透感 đg. thấu hiểu và cảm thông một cách sâu sắc” (theo bản có chú chữ Hán cho những từ Hán Việt, NXB Đà Nẵng, 2015); “thấu cảm • đg. cảm nhận và thấu hiểu một cách sâu sắc : thấu cảm lòng nhau” (bản không chú chữ Hán, NXB Đà Nẵng, 2007).


Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng, việc Vietlex thu thập và chú chữ Hán cho từ “thấu cảm” là thiếu thận trọng, thậm chí không đúng, vì đây không phải là từ có trong tiếng Hán. Mặt khác, cách giải nghĩa của Vietlex theo kiểu lắp ghép máy móc, tuỳ tiện của “từ điển Vũ Chất” (kiểu như “giao hợp” = giao lưu và hợp tác!). Nghĩa là theo quan điểm này, thì ngay cả khi “thấu cảm” đã được từ điển tiếng Việt ghi nhận, cũng không có nghĩa là đúng.


Vậy, nên nhìn nhận vấn đề này như thế nào?


Theo chúng tôi, cần thấy rằng, từ Việt gốc Hán không dứt khoát phải là một từ có trong tiếng Hán, được dùng với nghĩa của tiếng Hán. Từ gốc Hán còn là những từ “có sự vay mượn hoàn toàn hay một phần ý nghĩa từ tiếng Hán. Khi vay mượn và biến đổi theo những nghĩa không có trong tiếng Hán thì ngữ tố đó được gọi là Hán Việt Việt dụng” (ví dụ các từ: lịch sự, tử tế, thông cảm-HTC chú); “Những từ được người Việt tạo thành từ việc kết hợp các từ tố gốc Hán (với ba mặt hình-âm-nghĩa) theo kiểu của người Việt và chỉ có người Việt sử dụng. Những đơn vị này không xuất hiện trong từ vựng của tiếng Hán, tiếng Hàn, tiếng Nhật cũng như khối từ vựng văn ngôn của các nước này thì được gọi là từ Hán Việt Việt tạo.” (“Nguyễn Trãi Quốc âm từ điển”-Trần Trọng Dương, NXB Từ điển bách khoa-2014).


Như vậy, căn cứ tiêu chí mà các nhà ngôn ngữ nói chung, tác giả Trần Trọng Dương nói riêng đưa ra để phân loại, thì “thấu cảm” thuộc nhóm từ “Hán Việt Việt tạo”. Quá trình sản sinh từ “Hán Việt Việt tạo” diễn ra cách nay ít nhất cũng đã hơn nửa thiên niên kỷ. Cụ thể, theo tác giả “Nguyễn Trãi quốc âm từ điển”, thì (cho đến thời điểm này) từ “Hán Việt Việt tạo” xuất hiện trong thơ quốc âm của Nguyễn Trãi được coi là sớm nhất.


Về từ “thấu cảm”, Nhà nghiên cứu ngôn ngữ, Ts Hán Nôm Trần Trọng Dương cũng chia sẻ ý kiến với chúng tôi như sau: “Xét về mặt lý thuyết, "thấu cảm" không có gì sai về từ pháp (cấu trúc từ) của Hán văn, và không có gì sai về cơ chế sản sinh từ vựng của tiếng Việt. Nguyên lý này dựa trên cảm thức ngôn ngữ, và tri thức Hán văn của người bản ngữ, để có thể tiếp tục làm giàu thêm kho từ vựng phong phú của tiếng Việt. Ví dụ: về cấu trúc tương đương, thấu hiểu >>> thấu cảm >>> thấu thị >>> thấu đáo. Giống như, lâm tặc> hải tặc> tin tặc> cát tặc”.


Quả vậy, về từ “thấu hiểu”, “Từ điển tiếng Việt” (Vietlex) giảng như sau: “thấu hiểu • 透曉 đg. hiểu một cách sâu sắc, tường tận: thấu hiểu lòng nhau”; “Hán ngữ đại từ điển” giảng: “thấu hiểu: hiểu một cách triệt để, tường tận” (nguyên văn: “triệt để hiểu ngộ 徹 底 曉 悟”). Theo đó, với từ “thấu cảm”, thì “thấu” ở đây là “thông thấu” 通透 (Hán điển giảng: “thông thấu = thấu hết; hiểu rõ” [nguyên văn “通透 (penetrating): 通徹, 明白”]; “cảm” 感 nghĩa là sự rung động, nhận biết bằng giác quan, hoặc bằng cảm tính về sự vật, hiện tượng nào đó. Bởi vậy, “thấu cảm” có thể được hiểu là sự cảm nhận, hiểu biết một cách sâu sắc, tường tận về trạng thái tâm lý, hoặc cảnh ngộ… của ai đó. Tuy nhiên, “cảm” trong “thấu cảm” là cảm nhận mang tính chất cảm thông, chia sẻ, chứ không phải là cảm nhận nói chung. Theo đó, phương pháp định nghĩa phổ biến trong từ điển giải thích là dùng “từ bao”. Nghĩa là phải thể hiện được mối quan hệ trực tiếp của nội dung định nghĩa với yếu tố thể hiện ở đầu mục từ. Bởi vậy, từ cách tạo từ đến lời giảng của Vietlex: “thấu cảm: cảm nhận và thấu hiểu một cách sâu sắc”; hoặc “thấu hiểu và cảm thông một cách sâu sắc”, hoàn toàn không có gì là bất thường, ngô nghê. Ví dụ thêm, từ “cân xứng” 斤稱 (Hán ngữ = tương xứng相稱) là một từ “Hán Việt Việt tạo” (đã có trong thơ quốc âm của Nguyễn Trãi). Từ điển của Vietlex giảng: “cân xứng • 斤稱 cân đối và phù hợp với nhau. Đn: tương xứng”. Tuy nhiên, “cân xứng” cũng có thể được giảng là “cân đối và tương xứng”, mà không bị xem là cách ghép từ và giải thích theo kiểu máy móc của “từ điển Vũ Chất”. Hoặc “cách điệu” 格調, được “Hán Việt từ điển” của Đạo Duy Anh giảng là: “cách-thức và thanh-điệu của văn-chương”…


Theo ngữ liệu của Vietlex, thì “thấu cảm” đã xuất hiện trong văn học xuất bản từ năm 1941. Đó là truyện ngắn “Những nỗi lòng” (nằm trong tập truyện ngắn “Nằm vạ” của Bùi Hiển):


“Anh viên chức đạc điền trước nhà, bác thợ may hàng xóm, chị bán cháo bánh canh thường ngày cung cấp cho tôi món quà sáng thơm ngon ngầy ngậy, họ sống ra sao, lo nghĩ những gì, họ yêu ai và ghét những ai? Tại sao cô em gái tôi thương yêu nhất đời lặng lẽ khóc hai lần giữa ngày mồng một Tết? Tôi không hề biết, không hề biết!
Tâm hồn tôi trở nên lo lắng. Tôi sống chăm chú, vểnh tai và giương mắt như con nai rừng rậm, tôi muốn cho linh giác thẳng căng, để mà THẤU CẢM, một cách lẹ làng tế nhị, sự thầm kín ủ trong những nỗi lòng”.


Ngoài ra, cũng theo ngữ liệu (do Trung tâm từ điển học Vietlex cung cấp cho chúng tôi), “thấu cảm” còn xuất hiện trong rất nhiều tác phẩm khác, như:


-“Tối đen, yên ắng. Bóng tối trở nên lạnh. Đã đến lúc phải về rồi, Kiên thầm nghĩ và phóng tay ngồi dậy. Chẳng hiểu sao cậu cảm thấy một nỗi tiếc nuối cay đắng, cảm thấy cái việc phải rời đây ra về là nặng nề quá sức mình. Như THẤU CẢM được lòng Kiên, Phương khẽ nói:
- Chẳng sợ đâu. Đằng nào cổng trường cũng đóng rồi. Đợi tối khuya cụ lao công gà gật, ta trèo tường biến”. [Bảo Ninh. Nỗi buồn chiến tranh”. 1990].


-“Thuật lắng nghe một vấn đề, không phải chỉ bằng tai mà còn cả bằng mắt, để ý những cử chỉ nhỏ của người nói, để dễ tạo cho mình một THẤU CẢM về sự kiện, tâm trạng và âm vang trong cơ thể người kể”. [Thế Bảo Tịnh. Hà Nội mới cuối tuần. 1996]


-“Không nhận thức rõ ràng nguồn gốc tư tưởng nhân đạo đậm đà bản sắc dân tộc này thì sẽ dẫn tới sự đối lập cực đoan giữa cá nhân và xã hội, giữa cái tôi và cái ta, giữa chủ thể đạo đức và chủ thể trí tuệ, không dễ gì THẤU CẢM được “sự thật bên trong” của những câu thơ “Vui vẻ chết như cày xong thửa ruộng.” [Nguyễn Thanh Hùng. Văn nghệ. 1996]


-“Cha mẹ lại cũng cần THẤU CẢM với trẻ, nhớ lại cái thuở tuổi mới lớn của mình để hiểu những phản ứng của trẻ bây giờ, nhưng vẫn phải có trách nhiệm giám sát, cố vấn”. [Đỗ Hồng Ngọc. Kiến thức ngày nay. 1997]


-“Thiên nhiên thật thiên vị, dường như đã dồn hết cả tinh tuý của đất trời về phía Tây Hồ. Đã có biết bao mùa thu đến rồi đi qua, vậy mà cứ mỗi một mùa thu về lại dậy trong tôi những cảm giác mới lạ, THẤU CẢM bằng cả tâm hồn”. [Báo Doanh nghiệp chủ nhật. 1997]


-“Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về giao tiếp quản lý. Đó là sự giao tiếp luôn hướng vào quần chúng, đồng cảm ở mức độ THẤU CẢM với họ, để ứng xử phù hợp - sáng tạo và cách mạng, như đồng chí Phạm Văn Đồng nhận xét: “Hồ Chí Minh rất giản dị trong lời nói và bài viết vì muốn cho quần chúng hiểu được, nhớ được, làm được”. [Nguyễn Liên Châu. Giáo dục & Thời đại chủ nhật. 1999].


Dĩ nhiên, ngữ liệu thống kê trên đây của Vietlex không có nghĩa năm 1941 là thời điểm (hoặc mới là thời điểm) xuất hiện từ “thấu cảm”; hoặc đến nay chỉ chừng ấy tác giả, tác phẩm sử dụng từ này.


Như vậy, có thể “thấu cảm” chưa được sử dụng rộng rãi và biết đến nhiều trong đời sống hàng ngày, hãy còn xa lạ với học sinh phổ thông, nhưng không phải là quá xa lạ với nhiều người, đặc biệt là người cầm bút, càng không phải là “từ lạ” do TS Đặng Hoàng Giang “sáng chế” ra.


Trở lại hai chữ “thấu cảm”. Tiếng Việt mượn nhiều từ gốc Hán vào kho tàng từ vựng của mình, đồng thời cũng tự tạo ra nhiều từ mới bằng các từ hoặc yếu tố gốc Hán. Qua quá trình sử dụng, có những từ bị “rụng” bớt nghĩa, hoặc chuyển nghĩa (thêm nghĩa mới). Những từ này nhập vào hệ thống từ vựng tiếng Việt, chịu sự chi phối của các quy luật ngữ âm, ngữ pháp và ngữ nghĩa của tiếng Việt, trở thành tài sản của người Việt, mà không dứt khoát phải phụ thuộc vào người Hán. Người Hán nói “cảm thông”, ta cũng nói “cảm thông” với nghĩa tương đương, nhưng lại có thêm từ “thông cảm” với nghĩa khác cách dùng của Hán. Hán nói “tương xứng”, ta cũng nói “tương xứng”, nhưng lại có thêm “cân xứng”. “Tương xứng” và “cân xứng” của ta cũng không đồng nghĩa trong mọi trường hợp.


Tiếng Việt uyển chuyển và phong phú là thế. Bởi vậy, ngay cả khi “thấu cảm” không có trong tiếng Hán, hoặc chưa có bất cứ cuốn từ điển tiếng Việt nào ghi nhận từ “thấu cảm”, thì điều đó hoàn toàn không có nghĩa là từ này không có trong tiếng Việt. Điều đáng hoan nghênh là “Từ điển tiếng Việt” của Trung tâm từ điển học Vietlex đã bám sát, phản ánh kịp thời đời sống ngôn ngữ, sưu tầm ngữ liệu một cách bài bản, rồi bổ sung từ “thấu cảm” vào từ điển từ năm 2007[1].


Tóm lại, theo chúng tôi, dù thông dụng, hay chưa thông dụng, chúng ta cũng nên nhìn nhận từ “thấu cảm” một cách công bằng như bao từ “Hán Việt Việt tạo” đã sinh ra trong quá trình phát triển, làm giàu thêm cho tiếng Việt. Nghĩa là nếu đoạn văn đọc hiểu trích từ “Thiện, Ác và Smartphone” có vấn đề, hãy đưa ra lý lẽ để bác bỏ, phê phán chính nó, chứ không nên và không thể “tẩy chay”, loại trừ luôn từ “thấu cảm”[2].


Hoàng Tuấn Công/6/2017


Chú thích:


[1] Công bằng mà nói, nếu so sánh cách dùng từ “thấu cảm” trong kho ngữ liệu của Vietlex, với cách “tán” của TS Đặng Hoàng Giang, thì “thấu cảm” thực ra mang nghĩa giản dị, dễ hiểu hơn nhiều. Nghĩa là tác giả “Thiện, Ác và Smartphone” đã gán thêm cho “thấu cảm” nhiều nghĩa rất bí hiểm, linh diệu. Ví dụ, đoạn văn trong “Nỗi buồn chiến tranh”, khi “thấu cảm được lòng Kiên”, thì Phương vẫn quan sát và cảm nhận bằng giác quan của chính mình, chứ đâu phải nhìn bằng “con mắt của người khác”? Hay, Phương chỉ “thấu cảm” trạng thái tâm lý của Kiên trong cảnh ngộ cụ thể (“cảm thấy một nỗi tiếc nuối cay đắng, cảm thấy cái việc phải rời đây ra về là nặng nề quá sức mình”), chứ đâu phải là “sự hiểu biết thấu đáo, trọn vẹn” của Phương về con người Kiên (tức hiểu biết tất cả tâm tính, niềm vui, nỗi buồn, hay thiện ác trong một con người). Từ chỗ “thấu cảm” được “nỗi tiếc nuối cay đắng” trong lòng Kiên, Phương đã nói lời chia sẻ, an ủi, cảm thông.


Hoặc trong đoạn văn của Thế Bảo Tịnh: “Thuật lắng nghe một vấn đề, không phải chỉ bằng tai mà còn cả bằng mắt, để ý những cử chỉ nhỏ của người nói, để dễ tạo cho mình một THẤU CẢM về sự kiện, tâm trạng và âm vang trong cơ thể người kể”, chúng ta thấy rõ, cách lắng nghe đế thấu cảm là vận dụng cùng lúc các giác quan (tai mắt) của chính mình; và cũng chỉ “thấu cảm” về “sự kiện, tâm trạng” của người kể chuyện trong lúc đó, chứ đâu phải hiểu “thấu đáo, trọn vẹn” người đang kể chuyện! Ấy là chưa kể đến những ví dụ về sự thấu cảm của tác giả Đặng Hoàng Giang cũng chưa thể gọi là “thấu cảm” được.


Ý kiến riêng của tôi, đề thi môn ngữ văn THPT năm 2017 có "vấn đề", Trường hợp lấy đoạn trích trong “Thiện, Ác và Smartphone” và yêu cầu thí sinh chỉ ra những điểm chưa hợp lý trong cách hiểu từ “thấu cảm” của tác giả, lại là chuyện khác. Tuy nhiên, đó không phải là yêu cầu phù hợp với trình độ của học sinh THPT.


[2] Xin tham khảo thêm một số ngữ liệu do Vietlex thu thập (chúng tôi viết hoa THẤU CẢM là để nhấn mạnh và dễ quan sát):


-Tức là, đối với một nhà lãnh đạo, THẤU CẢM không có nghĩa là việc cố gắng hùa theo cảm xúc của những người khác, lấy cảm xúc của họ làm cảm xúc của mình, với mục đích làm hài lòng mọi người; trái lại, nó mang ý nghĩa chỉ về việc trong tiến trình đưa ra các quyết định sáng suốt, nhà lãnh đạo ấy biết ân cần quan tâm đến những tâm tư tình cảm - cũng như đến nhiều yếu tố khác nữa - của các nhân viên mình. [misa.com.vn. 17/12/2012.]


-Nét khác biệt giữa hai người quản lý kia chính là sự THẤU CẢM. Người thứ nhất quá đỗi lo lắng về "số phận" của chính bản thân, đến độ không thiết đoái hoài gì đến nỗi lo âu của các nhân viên mình. Người thứ hai thì bằng trực giác mà biết được những cảm giác của các nhân viên anh, hiểu được những nỗi lo sợ họ đang mang trong lòng, và anh đã tìm cách dùng lời lẽ mà động viên họ. [misa.com.vn. 17/12/2012.]


-Những người có khả năng THẤU CẢM đều bắt nhịp được với những gì tinh tế được biểu hiện qua ngôn ngữ cơ thể; họ có thể nghe ra được thứ thông điệp nằm sâu bên dưới lớp vỏ ngôn từ. Trên hết, họ có được một cách nắm bắt sâu xa về cả sự tồn tại lẫn tầm quan trọng của những nét khác biệt giữa các nền văn hoá hay giữa các dân tộc với nhau. [misa.com.vn. 17/12/2012.]


-Bạn đời sẽ thể hiện cảm xúc dễ tổn thương nhiều hơn thay vì cảm xúc phản ứng (ví dụ tức giận), từ đó càng gợi lên sự THẤU CẢM giữa hai vợ chồng.
Điều này cũng giúp các cặp vợ chồng biết tìm hiểu và cảm thông hơn về hoàn cảnh gia đình của nhau. Nó gợi lên sự THẤU CẢM về các nhu cầu chưa đạt được và lý do tại sao hoàn cảnh hiện tại dẫn đến những phản ứng mạnh mẽ. Các cặp vợ chồng cũng cần tò mò về nhau trong vấn đề này vì tò mò cũng tạo điều kiện để tăng sự THẤU CẢM giữa đôi bên. [doanhnhansaigon.vn. 22/11/2015].


-Bổ sung thêm một số thông tin khoa học giúp các bạn nhỏ nhận thức sâu sắc hơn về ý nghĩa của những vận động tự nhiên đối với cuộc sống loài người, thông qua những tình tiết suy tư của ếch xanh, tôi mong cuốn sách gợi dậy những hạt mầm THẤU CẢM với tự nhiên, biết rung động trước một chiếc lá chao nghiêng, một hạt mưa rơi lan toả sóng trên mặt nước… [Kim Yến. tiepthithegioi.vn. 30/11/2016]


-Nghe tiếng loài vật, con người nhận ra loài vật có sinh mệnh, tâm hồn, tình cảm, cảm giác, ngôn ngữ do vậy, các nhân vật trong truyện THẤU CẢM với động vật, chia sẻ cảm giác bị đau với chúng. [Trần Thị Ánh Nguyệt. tapchisonghuong.com.vn. 16/01/2017]

Thứ Bảy, 17 tháng 6, 2017

Tự Điển Tiếng Việt Đổi Đời - 4





Đào Văn Bình





N.

- Nam Hàn trở thành Hàn Quốc. Bắc Hàn trở thành Triều Tiên. Lộn xộn quá, nhớ không nổi! Cả thế giới đều gọi Bán Đảo Triều Tiên, tại sao không gọi Bắc Triều Tiên, Nam Triều Tiên cho dễ nhớ?

- Nạn nhân trở thành bị hại. Hung thủ, kẻ sát nhân trở thành kẻ thủ ác.

- Ngày hội trở thành lễ hội. Trong nước không phân biệt được thế nào là ngày lễ, thế nào là ngày hội. Ngày lễ để kỷ niệm một biến cố lịch sử, hay khánh thành một công trình lớn: Như Lễ Hai Bà Trưng, Lễ Giỗ Trận Đống Đa, Lễ Quốc Khánh, Lễ Khánh Thành… Còn ngày hội chỉ là tụ họp vui chơi, không phải là ngày nghỉ lễ chính thức của học sinh hay công chúng. Chẳng hạn như: Hội Lim, Ngày Hội Thả Diều Đà Nẵng, Ngày Hội Cà-Phê Ban Mê Thuột, Ngày Hội Hoa Đà Lạt, Hội Đua Thuyền…Nhưng một ngày lễ nếu quy tụ đông đảo tín đồ, người hành hương thì có thể gọi là lễ hội như Lễ Hội Chùa Hương, Lễ Hội Đền Hùng.

- Nghi ngờ trở thành nghi án. Thí dụ: Nghi án đập đá (Nghi ngờ có sử dụng bạch phiến)

- Ngoại tệ trở thành ngoại hối. Dự trữ ngoại tệ trở thành dự trữ ngoại hối. Ngoại tệ gửi về nước trở thành kiều hối. Trong khi theo tự điển Việt Nam, nội hối là “đổi tiền trong nước”. Còn ngoại hối là “đổi tiền với nước khác”. Nói tóm lại, trong nước bịa đặt ra chữ mới mà không cần tra cứu tự điển gì cả. Đúng là điếc không sợ súng!

- Ngũ Giác Đài trở thành Lầu Năm Góc do các ông bà ở hải ngoại lấy nguyên những bản tin trong nước rồi đua nhau chuyển tiếp lên các diễn đàn…khiến tiếng Việt đổi đời trở thành tiếng Việt chính thống.

- Người dân bị thiệt hại (vụ Formosa) trở thành những người dân bị hại (VOV) Đúng là tiếng Việt điên khùng. Xin nhớ cho, bị thiệt hại thuộc về dân sự như bị thiệt hại về tài sản, nghề nghiệp sinh sống. Còn “bị hại” là bị sát hại, giết hại, làm cho tù đày, tán gia bại sản.

- Người hâm mộ, kẻ hâm mộ/khán giả hâm mộ trở thành fan. “Á hậu H.O chia sẻ chuyện gia đình trong lần đầu họp fan” (Đài Tiếng Nói Việt Nam). Tiếng Việt lai căng, bát nháo không thể tưởng tượng được, nhất là lại được đưa lên một trang thông tin tiêu biểu cho tiếng nói của một quốc gia.

- Người ngoại quốc trở thành tây. Báo chí trong nước bây giờ rất lạ. Tất cả người ngoại quốc dù là Mỹ, Anh, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Hòa Lan đều được đổ đồng bằng hai chữ “ông Tây”. Đọc bản tin “Ông Tây lấy vợ Việt” tôi cứ nghĩ rằng đây là một người Pháp lấy vợ Việt Nam nhưng lại là một ông người Hà Lan lấy vợ Việt Nam. Rồi “Một ông Tây hát cải lương” hóa ra một thanh niên Mỹ hát cải lương. Ngày xưa, cho tới năm 1954, ở ngoài Bắc, lính Pháp mình gọi là lính Tây, khu phố mà người Pháp ở gọi là Phố Tây. Tây Đen là lính Maroc, Algerie, Senegal, Tunisie… mấy người Pháp mình gọi là “mấy thằng Tây” (Westerner) vừa căm thù vừa khinh ghét. Chính tôi ở ngoài Bắc trước 1954 cũng gọi “mấy thằng Tây”, kính trọng lắm là “mấy ông Tây”. Nhưng nay thời thuộc địa qua rồi, mọi danh từ có vẻ như căm ghét, khinh thị phải quên đi. Thế giới này cần chung sống hòa bình và kính trọng lẫn nhau. Mình nên bỏ chữ “Tây” và thay bằng “người Pháp”, “người Mỹ”. “người Tây BanNha”, “người Hà Lan” cho lịch sự.

- Người trong gia đình nay trở thành thành viên của gia đình. “ Cháu là người trong gia đình” nay thời kỳ “hội nhập” phải nói, “Cháu là thành viên của gia đình” giống như thành viên của một tổ chức nào đó.

- Người viết chuyên đề trở thành blogger. Trang tin chuyên đề trở thành trang blog

- Nguy nga, tráng lệ, đồ sộ, trang trọng, lộng lẫy nay chết hết chỉ còn có hoành tráng

- Nhà để xe trở thành garage

- Nhà Trắng hay Tòa Bạch Ốc? Trong thời kỳ chiến tranh, danh từ The White House được hai miền nam-bắc dịch khác nhau. Miền Nam dịch là Tòa Bạch Ốc. Miền Bắc dịch với tính cách khinh thị (coi nhẹ) là Nhà Trắng. Dù người Mỹ dùng chữ “house” thí dụ, House of Representatives nhưng không thể dịch là “Nhà Đại Biểu” mà phải dịch là Hạ Nghị Viện. Theo tôi nghĩ, nơi ở, nơi làm việc của các vị nguyên thủ quốc gia không thể gọi là “nhà” mà phải dịch là Dinh, Điện hay Phủ. Thí dụ: Điện Kremlin, Điện Versailles, Dinh Độc Lập, Phủ Toàn Quyền, Phủ Thống Sứ, Phủ Chủ Tịch…Chiến tranh đã qua đi hơn 40 năm, hai bên đã khép lại quá khứ. Việt-Mỹ đã ký thỏa ước hợp tác toàn diện (Comprehensive Partnership) . Hợp tác toàn diện cũng có nghĩa là hai bên phải tôn trọng lẫn nhau. Chúng ta nên tôn trọng người Mỹ và người Mỹ dĩ nhiên cũng phải tôn trọng Việt Nam. Do đó, danh từ Nhà Trắng nên bỏ đi, không nên có thái độ khinh thị. Theo tôi, The White House nên dịch là: Tòa Bạch Ốc, Bạch Cung hay Bạch Dinh. (Vũng Tàu có Bạch Dinh là nơi nghỉ mát của Vua Bảo Đại)

- Nhạc Trịnh Công Sơn trở thành nhạc Trịnh. Trong khi nhạc Phạm Duy lại không nói là nhạc Phạm, nhạc Phan Đỉnh Điểu lại không nói nhạc Phan

- Nhân đạo trở thành nhân văn. Xin nhớ nhân đạo khác nhân văn.

- Nhanh lên, mau lên trở thành khẩn trương lên

- Nhập lượng-xuất lượng, vốn-thành phẩm trở thành đầu ra-đầu vào (input-output) nghe sao thô tục quá.

- Nhập viện. Trong nước bây giờ, tường thuật bất kỳ một biến cố nào có người bị thương đều thêm hai chữ “phải nhập viện” (phải vào bệnh viện). Trên thế giới này không hề có kiểu tường thuật như vậy. Thí dụ: Phóng viên đưa tin người chồng vũ phu đã đánh đập người vợ dã man vì ngăn cản không cho uống rượu, hoặc một tai nạn xe hơi khiến bốn người trọng thương. Như thế là đủ. Còn chuyện có vào nhà thương hay không, không phải chuyện của phóng viên. Dĩ nhiên, nếu bị thương nặng thì người ta đương nhiên đi bác sĩ hoặc vào bệnh viện, phóng viên khỏi tường thuật chuyện đương nhiên. Đúng là một nền báo chí kém cỏi.

- Nợ chạm mức giới hạn trở thành nợ trần giống như nợ đời, nợ trần ai. (VOA)

- Nói không biết ngượng trở thành mồm không biết ngượng. Đây là ngôn ngữ của mụ bán “bún mắng cháo chửi” ở Hà Nội được tường thuật trên CNN.

- Nơi du lịch/địa điểm du lịch trở thành điểm đến. Thí dụ: “Thành Phố HCM là một điểm đến thu hút du khách quốc tế”. (VnPlus) Câu nói bình thường chỉ là, “Thành Phố HCM là địa điểm du lịch thu hút du khách quốc tế”.

- Nổi bật trở thành nổi cộm. Hai chữ này VOA và BBC tiếng Việt rất thích dùng, làm ra vẻ như ta đây là “bác học”.

- Nông phẩm biến thành sản phẩm nông nghiệp , dã thú biến thành động vật hoang dã tức kéo dài tiếng Việt ra một cách thừa thãi.

- Nồng độ rượu trong máu (để phạt lái xe) trở thành nồng độ cồn. (Ảnh hưởng thuộc địa Pháp vẫn còn dai dẳng)

- Nữ công nhân trở thành lao động nữ. Nam công nhân trở thành lao động nam. Đúng là đổi đời.

- Nữ ký giả /nữ phóng viên trở thành nhà báo nữ. Nếu như vậy thì nữ thủ tướng sẽ trở thanh thủ tướng nữ, bà bộ trưởng sẽ trở thành bộ trưởng nữ và nữ quân nhân sẽ trở thành quân nhân nữ hay lính gái lính trai.

- Nữ quân nhân hải quân trở thành “phụ nữ quân chủng hải quân”. Sao dùng chữ khó khăn quá vậy?

- Nước dâng cao trở thành triều cường. “Người dân TP.HCM dầm mình lội triều cường” (Báo Tuổi Trẻ).

- Nuôi và gây giống trở thành nuôi trồng. Thí dụ: Nuôi trồng thủy sản. Thật không thể tưởng tượng được người ta có thể “trồng” tôm, cá v.v…Thế mà cả nước nói như vẹt mà không một ý thức gì cả.



O.

- Ông/Bà trở thành Mr. & Mrs.

- Ống sắt trở thành tuýp, ống tuýp (Tiếng Pháp là tube):



P.

- Phái tính (phái nam, phái nữ) trở thành giới tính. Giới có nghĩa là giới hạn, ngăn cấm hoàn toàn không có nghĩa là đàn ông/đàn bà, trai/gái hay nam/nữ.

- Phẩm chất trở thành chất lượng. Ngày xưa Miền Nam phân biệt phẩm và lượng. Phẩm thì gọi là phẩm chất. Còn lượng thì gọi là số lượng. Thí dụ: Số lượng thì nhiều nhưng phẩm chất không bao nhiêu.

- Phân phát, phân phối, lan truyền trở thành phát tán.

- Pháo hạm trở thành tàu pháo

- Phạt ngay tại chỗ trở thành phạt nóng. Thưởng ngay trở thành thưởng nóng. Gửi giấy phạt về nhà trở thành phạt nguội. Thật khôi hài quá mức!

- Phát thanh thì nói phát thanh. Còn đài truyền hình thay vì phát hình lại nói phát sóng, phủ sóng. Điên rồ quá!

- Phê bình, chỉ trích, công kích trở thành ném đá (giống như hình phạt ném đá thời Trung Cổ).

- Phê bình cắt cụt chỉ còn phê (giống như phê vào công văn)

- Phi công chính trở thành cơ trưởng tức phụ trách máy móc chính

- Phi công phụ trở thành cơ phó tức phụ máy móc

- Phi đạn trở thành rocket

- Phi hành đoàn trở thành tổ bay, tổ lái

- Phải chịu thuế/ đánh thuế trở thành áp thuế. Bản tin trong nước do bà con “chống cộng” lấy rồi phổ biến rộng rãi trên Yahoo Groups ở hải ngoại: “Trump đe dọa áp thuế quyết liệt, lên tới 35% với các nhà sản xuất ô-tô ở nước ngoài rồi đem vào Mỹ bán.” Tôi không hiểu “áp thuế quyết liệt” là đánh thuế như thế nào? Đúng là ngu dốt lại hay “đao to búa lớn”. Đánh thuế thì hoặc “đánh thuế cao” hoặc “giảm thuế” chứ làm gì có “ quyết liệt ở đây?

Trong nước bị di truyền và ám ảnh bởi những từ ngữ chiến tranh, tuyên truyền, kích động có từ 70 năm trước trong cuộc sồng hằng ngày. Một đất nước như vậy làm sao có thể yên bình được? Muốn người dân điên cuồng lao vào chém giết chỉ cần tuyên truyền, kích động bằng những ngôn từ hận thù, sắt máu - dù dân chủ, tự do như Hoa Kỳ. Xin nhớ những chủ nghĩa gây thảm họa cho loài người đều phát xuất từ Âu Châu. Chính vì thế mà thế giới ngày hôm nay, người ta quý trọng lập trường ôn hòa (moderate) và sợ hãi lập trường quá khích (extremist) và cực hữu (far right). Ngôn ngữ cũng vậy, phải hòa nhã, dịu dàng, lịch sự mới chinh phục được lòng người. Lão Tử nói rằng người ta sợ hãi cái gì sắc nhọn, thích cái gì vuông vức, tròn trịa. Cái gì cứng quá thì gẫy, cái gì mềm mại thì còn “Răng cứng thì rụng, lưỡi mềm thì còn”. Một cơn bão lớn thổi tới, cây cổ thụ khổng lồ 100 năm ở Mỹ cũng trốc gốc, nhưng cây tre biết ngả nghiêng theo chiều gió thì vẫn đứng khơi khơi. Lãnh đạo một đất nước cũng vậy, phải tránh những lời nói kích động, đao to búa lớn, mị dân, rỗng tuếch mà người Mỹ gọi là “rhetoric”. Kích động lòng dân thì dễ nhưng an dân, giữ được lòng dân mới khó. Nguyễn Trãi trong Bình Ngô Đại Cáo đã dạy “Việc nhân nghĩa cốt ở an dân.”

- Pháo bây giờ phân ra pháo nổ và pháo hoa (VietnamPlus). Thí dụ: “Nghệ An: Dân tự phát đốt pháo nổ, pháo hoa tự chế tại vùng quê”. Đúng là loại ngôn ngữ điên khùng. Từ ngàn xưa tới giờ, nói “đốt pháo” là người ta hiểu loại pháo gì. Còn pháo hoa/pháo bông thì gọi là “bắn” chứ không gọi là “đốt”, chẳng hạn như bắn pháo sáng (hỏa châu)

- Pháo tháp, đồn canh trở thành lô-cốt

- Phát động phong trào trở thành khởi động phong trào, (Diễn Đàn YahooGroups ở hải ngoại cũng đã lây bệnh trong nước rồi.)

- Phạt nặng, lên một bản án nặng nề biến thành “xứ lý nghiêm”. Thí dụ: “Xử lý nghiêm xe chạy ngược chiều, xử lý nghiêm lấn chiếm vỉa hè”. Thật tình tôi không hiểu “xử lý nghiêm” là xử lý như thế nào. Là người học Luật, tôi thấy câu nói này mơ hồ. Thi hành luật pháp thì phải nghiêm minh. Còn hình phạt thì nặng hay nhẹ chứ không phải nghiêm. Thí dụ: Phạt nặng những xe chạy ngược chiều. Phạt nặng xe vận tải quá trọng lượng. Lên một bản án nặng nề cho kẻ dâm ô/hãm hiếp trẻ em. Phạt nặng những chủ nhân lấn chiếm vỉa hè trái phép.

- Phổ biến/mở rộng trở thành nhân rộng

- Phong tỏa (tài sản) trở thành đóng băng (Freezing of asset. Chữ “freezing” ở đây có nghĩa là ngăn không cho chuyển dịch một tài sản, trương mục, tài khoản…chứ không phải bỏ vào tủ lạnh để cho nó thành đông đá/đóng băng.

- Phòng tập thể dục trở thành gym

- Phỏng vấn, lấy tin, săn tin, thu hình, làm phóng sự trở thành tác nghiệp giống như ký giả Tàu Hồng Kông hay Đài Loan nói chuyện với nhau.

- Phụ tá trở thành trợ lý. Thí dụ: Trợ lý tổng thống (phụ tá tổng thống), trợ lý bộ trưởng (phụ tá bộ trưởng, thứ trưởng)

- Positive =có dấu hiệu… như ung thư chẳng hạn trở thành dương tính. Trong khi theo từ điển tiếng Việt trong nước “dương tính” là “tính chất mạnh của giống đực”. Negative = không có dấu hiệu…như ung thư chẳng hạn trở thành âm tính. Trong khi từ điển tiếng Việt Nam trước và sau 1975 không hề có hai chữ “âm tính”. Thật bừa bãi quá mức! Ở Việt Nam bây giờ tha hồ nói và viết, không cần biết đúng sai, không cần biết sách vở có dạy như vậy hay không và cũng có ai phê phán hay dòm ngó tới.



Q.

- Quan điểm trở thành góc nhìn (BBC tiếng Việt)

- Quan thuế trở thàng hải quan. Tại Phi Cảng Tân Sơn Nhất hay Phi Trường Nội Bài tôi có thấy biển (hải) gì đâu? Ngày xưa chưa có phi trường, hải quan được đóng ở cửa biển để thu thuế. Ngày nay quan thuế thu ở hải cảng, phi trường, biên giới… có còn nằm ở cửa biển nữa đâu mà cứ dùng mãi?

- Quần áo lót, đồ lót trở thành nội y giống như ngôn ngữ của các thái giám Trung Hoa gọi quần áo lót của các bà hoàng hậu, quý phi.

- Quân cảng trở thành cảng quân sự.

- Quân chủ biến thành phong kiến. Trong nước không phân biệt được thế nào là chế độ quân chủ (Monarchy) và thế nào là chế độ phong kiến (Feudalism). Phong kiến là cắt đất, phong hầu để thành lập một quốc gia riêng (kiến quốc) đã chấm dứt khi Nhà Chu tiêu vong. Từ Tần, Hán trở đi, chế độ phong kiến không còn mà chỉ còn chế độ quân chủ giống như chế độ quân chủ trên toàn thế giới. Ở Việt Nam làm gì có chế độ phong kiến. Dĩ nhiên một số tập tục của thời phong kiến còn rơi rớt lại khi Trung Hoa chuyển sang chế độ quân chủ, nhưng không thể gọi đó là chế độ phong kiến, nhất là ở Việt Nam.

- Quang đãng trở thành thông thoáng. Thí dụ: “Đường phố quang đãng” trở thành “Đường phố thông thoáng”. Thậm chí thủ tục, giấy tờ dễ dãi cho người dân cũng gọi là “thông thoáng”.

- Quy mô, cỡ lớn/ lớn trở thành đại trà. Sản xuất lớn trở thành sản xuất đại trà.

- Quy luật vật lý (Đài Tiếng Nói Việt Nam VOV). Làm gì có “quy luật vật lý” mà chỉ có “định luật vật lý” thôi. Quy luật do con người đặt ra và có thể sửa đổi. Còn định luật thuộc về thiên nhiên không bao giờ sửa đổi được, thí dụ: Định luật của sự rơi, định luật Archimede. Người viết bài này không có kiến thức về khoa học dạy từ Trung Học Đệ I Cấp (Lớp 6-9)

- Quyền Anh đã chết chỉ còn boxing.



R.

- Rau (vegetable, légume) biến thành rau xanh. Như vậy rau tía tô màu đỏ tía, hành củ và tỏi màu trắng, sà-lách/rau diếp Đà Lạt màu mỡ gà, cà tím, cà-rốt, củ cải đỏ, rau dền đỏ, bắp cải màu trắng…có trồng không và gọi là rau gì? Trong nước có tật thêm cái đuôi vào các danh từ đã có từ ngàn năm nay rồi. Nói trồng rau là người ta hiểu rồi lại còn bịa đặt ra trồng “rau xanh”.

- Rau không bón phân hóa học trở thành rau sạch làm người ta nghĩ tới rau nhơ bẩn có dính phân vào đó. Khi sáng chế ra chữ mới phải suy nghĩ cẩn thận để tránh sự liên tưởng tới nghĩa xấu.

S.

- Sân khấu trở thành sàn diễn. Võ đài trở thành sàn đấu. Bục trình diễn thời trang trở thành sàn catwalk. Nơi mua bán chứng khoán trở thành sàn chứng khoán, phòng họp của thượng viện Mỹ (Senate Floor) trở thành sàn thượng viện….Rồi mai đây diễn đàn Liên Hiệp Quốc sẽ thành sàn Liên Hiệp Quốc, phòng họp của quốc hội (House Floor) thành sàn quốc hội…cái gì cũng là sàn tất cả. Ngôn ngữ truyền thống nằm chình ình trong sách vở nhưng chết lần chết mòn chỉ vì ngu dốt tiếng Anh lẫn tiếng Việt.

- Sinh đôi trở thành song sinh. Thích dùng tiếng Tàu mà đòi thoát Trung. Giống như thấy hàng Trung Quốc rẻ dù độc hại, tranh nhau mua rồi khoe mà đòi chống Trung Quốc. Nghe hai chữ “sinh đôi” nó đẹp và thuần Việt làm sao. Truyện Kiều trở thành bất tử và thấm vào máu thịt Việt Nam là vì Cụ Nguyễn Du dùng ít điển tích và dùng những chữ thuần Việt.

- Sinh Vật Học (biology) trở thành Sinh Học (Cắt cụt tiếng Việt cho mày chết luôn!)

- Số lần xuất hiện trở thành tần xuất

- Sở thích thành gu (gout)

- Soạn bài giảng trở thành soạn giáo án, nghe thấy mà ghê, giống như án lệnh của tòa.

- Sòng bài trở thành casino

- Sức vóc trở thành thể hình thể lực. Thí dụ: Các cầu thủ Việt Nam thể hình thể lực kém so với các cầu thủ Âu Châu. Miền Nam có hai chữ sức vóc rất hay tại sao không dùng? Sức là sức khỏe, vóc là chiều cao, lớn bé.

- Suy nghĩ trở thành tư duy. Thích dùng chữ khó khăn để chứng tỏ ta đây là người trí thức. Nhưng thực ra người trí thức đạt đạo lại bình dị, không làm dáng, rởm đời. Miền Nam trước đây, khi nói chuyện với bạn bè mà dùng hai chữ “tư duy” chẳng hạn như, “Chuyện đó tao phải suy nghĩ nhức đầu.” mà lại nói, “Chuyện đó tao phải tư duy nhức đầu.” chắc bạn nó chửi vào mặt mình là thằng phách lối. Nói năng với bạn bè, hay trước công chúng mà dùng những chữ kiểu cọ, xổ Nho, đao to búa lớn, khó khăn, nhức đầu thì người ta sẽ nghĩ mình là kẻ đầu óc không bình thường hoặc phách lối, dạy đời. Xin nhớ cho ngôn ngữ là truyền đạt vừa tư tưởng lẫn tình cảm. Ngôn ngữ phải dùng đúng nơi, đúng chỗ. Cái quý nhất là đơn giản, dễ hiểu, thông dụng, lịch sự và lễ độ. Đừng chế bậy.



T.

- Tác động qua lại trở thành tương tác. Ngay chính bản thân tôi, nghe hai chữ “tương tác” tôi vẫn không hiểu nghĩa là gì.

- Tài liệu trở thành tư liệu (tư liệu là tài liệu riêng của một người)

- Tài tử điện ảnh, người mẫu, ca sĩ nổi tiếng trở thành sao, các sao. Cho nên tôi tạm có câu đố chơi cho vui: Các sao ra xem sao. Sao? Nói sao?

- Tài xế trở thành lái xe (Tài xế là danh từ, còn lái xe là động từ). Đào tạo tài xế trở thành đào tạo lái xe. Đúng là tiếng Việt điên khùng.

- Tái bổ nhiệm trở thành bổ nhiệm lại nghe quê mùa làm sao ấy. Thí dụ: “Bổ nhiệm lại hai thứ trưởng Bộ Công An và Bộ Quốc Phòng. (VOV)” Người ta nói: tái đấu chứ không nói đấu lại, tái cử chứ không nói ứng cử lại, tái xuất giang hồ, tái diễn chứ không nói xảy ra một lần nữa.

- Tân trang/làm mới trở thành nâng cấp (upgrade)

-Chính mắt nhìn, tận mắt nhìn biến thành mục sở thị. Ông nào chế ra chữ này nên học tiếng phổ thông Trung Hoa rồi qua Tàu sống để khỏi làm phiền người dân Việt Nam.

- Tăng tốc độ cắt cụt chỉ còn tăng tốc. Như thế, lái với tốc độ lớn trở thành lái với tốc lớn. Xin nhớ cho chữ tốc đứng một mình có nhiều nghĩa. Thí dụ: Mái nhà bị bão thổi tốc lên. Váy cô ta bị gió thổi tốc lên.

- Tập họp/biểu tình trở thành mít tinh

- Tay đua xe đạp trở thành cua-rơ

- Tay lái /bánh lái trở thành vô-lăng

- Tây Ban Cầm đã chết chỉ còn Guitar

- Thăm viếng, du ngoạn trở thành tham quan. Muốn thoát Trung mà lại ôm cứng tiếng Tàu.

- Thản nhiên biến thành vô tư. “Người dân vô tư hành hạ hoa ở Lễ hội hoa hồng Bulgaria” (VOV). Xin nhớ cho vô tư là công bình (Chí công vô tư). Vô tư lự là không lo nghĩ gì.Còn thản nhiên là làm mà không cần biết hậu quả, không cần biết người chung quanh, bất chấp luật lệ. Thí dụ: Ông ta thản nhiên đổ rác ngay dưới tấm bảng “Cấm Đổ Rác”. Người nào dùng hai chữ “vô tư” ở đây chắc chắn không được cắp sách đến trường.

- Tháng Giêng trở thành Tháng Một. Tháng Chạp cũng chết luôn chỉ còn Tháng 12.

- Thắng hai trái trở thành làm cú đúp

- Thắng ba trái trở thành hat trick

- Thắng rõ rệt, thắng áp đảo/ trên chân rõ ràng trở thành thắng thuyết phục (thuyết phục ai ở đây?)

- Thế lực trở thành quyền lực. Thí dụ: “Quen biết trở thành thứ quyền lực mà người ta có thể mang ra để thách thức luật pháp.” (VnExpress) Ở đây không phải là quyền lực mà là thế lực. Quyền lực là sứ mạnh của người nắm quyền . Còn thế lực là sức mạnh dựa vào một người có quyền …chẳng hạn như vợ con, anh em, người tình của người nắm quyền. Thí dụ: “Ông ta là người rất có thế lực vì là bố vợ của ông giám đốc công an tỉnh.”

- Thế Vận Hội trở thành Olympic

- Thị trường chứng khoán/ trụ sở mua bán chứng khoán/nơi mua bán chứng khoán trở thành sàn chứng khoán. Trong nước thấy chữ “floor” tưởng đó là “sàn” thực ra “floor” còn có nghĩa là địa điểm, chỗ. Thí dụ

”Senate Floor” tức địa điểm, phòng hội của Thượng Nghị Viện Hoa Kỳ.

- Thổ sản trở thành đặc sản. Xin nhớ cho thổ sản khác đặc sản. Thổ sản là chỉ nơi đó mới có. Còn đặc sản thì chỗ nào cũng có. Thí dụ “nhãn Hưng Yên” là thổ sản của Hưng Yên mà nơi khác không có. Trong nhãn Hưng Yên có thể có nhiều đặc sản/đặc biệt, chẳng hạn nhãn giống này, nhãn giống kia, nhãn có hột, nhãn không hột…

- Thời tiết khắc nghiệt, thời tiết tệ hại trở thành thời tiết cực đoan

- Thù nghịch trở thành khắc tinh . VOA tiếng Việt, “Tân tư lệnh hải quân TQ: ‘Khắc tinh’ của Việt Nam?”

Người viết bài này tiếng Việt quá kém không phân biệt được nghĩa của hai chữ “thù nghịch” và “khắc tinh”. Phó Đô Đốc Thẩm Kim Long của Trung Quốc, người đã từng chỉ huy Hạm Đội Nam Hải, cưỡng chiếm Hoàng Sa năm 1974 và Gạc Ma năm 1988, nay được đề cử làm tư lệnh hải quân Trung Quốc, thì viên tướng hải quân này có quá khứ thù nghịch/ tội ác với Việt Nam chứ sao gọi là khắc tinh? Xin nhớ cho tất cả các danh tướng Việt Nam như Ngô Quyền, Lê Đại Hành, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Huệ đều là khắc tinh của các danh tướng Trung Quốc. Nói khác đi, các danh tướng Tàu dù chinh đông, chinh tây, nổi danh khắp thế giới nhưng tới Việt Nam thì hoặc bị chém đầu, treo cổ tự sát hay chui vào ống đồng mà chạy. Tức danh tướng Việt Nam là khắc tinh của tất cả các danh tướng Tàu…chứ làm gì có tướng Tàu là khắc tinh của các tướng Việt Nam. Xin người viết bài này học lại lịch sử Việt Nam đã được dạy từ bậc Tiểu Học.

- Thủ quân (một đội bóng) trở thành đội trưởng. Tranh bóng trở thành tranh chấp bóng (giống như tranh chấp quyền lực). Các cầu thủ gạo cội, các tuyển thủ trở thành các cao thủ. (ảnh hưởng bởi phim bộ Hồng Kông) Thật là “nhà quê” khi gọi các tuyển thủ bóng đá là các cao thủ. “Một đường truyền rất tốt/thuận lợi cho…” trở thành “Một đường truyền thông thoáng”. Tường thuật các trận túc cầu bây giờ toàn là dân Miền Bắc thiếu kiến thức, thiếu ngữ vựng về môn túc cầu. Một trận đấu 90 phút mà phải nghe cả ngàn lần các từ ngữ như “thi đấu” “xử lý bóng không tốt”, “xử lý bóng tốt”, “tình huống” làm cho người nghe bực cả mình. Rồi tài năng, tài nghệ trở thành tố chất (tố chất của Công Phượng), giao trả gắn bó (theo thuật ngữ rất sống động của ký giả Huyền Vũ) trở thành “bật nhả”, đưa bóng xuyên qua hàng phòng vệ của đối phương nay được các ông Bắc Kỳ gọi là “chọc khe” sao thô tục quá. Rồi “một đường truyền thiếu suy tính” trở thành “một đường truyền thiếu cảm giác”. Ở trong nước không phân biệt được thế nào là thành phần thế nào là đội hình cho nên cái gì cũng dùng hai chữ “đội hình”. . Thành phần là danh sách cầu thủ. Còn đội hình là chiến thuật, chẳng hạn đá với chiến thuật 4-2-4. Tường thuật một trận túc cầu bao gồm cả phần bình luận. Cầu thủ đá hay, đá dở như thế nào…chẳng hạn khéo léo lừa qua hàng phòng vệ đối phương, dàn xếp ăn ý, khôn ngoan đưa bóng cho đồng đội làm bàn, dứt điểm đúng lúc, thừa lúc sơ hở của thủ môn...thì nói ra. Dùng các chữ “xử lý bóng tốt, xử lý bóng không tốt” chỉ để che dấu kiến thức nghèo nàn về môn túc cầu của mình. Rồi “trọng tài biên” trở thành “trợ lý trọng tài”. Rồi “người bị đốn ngã” , “người bị chèn lấn trái phép”, “bị níu áo” ‘bị xô ngã”, “bị đối phương vào bóng quá nguy hiểm” trở thành “ người bị phạm lỗi”. Đúng là loại ngôn ngữ điên khùng. Nó điên khùng ở chỗ, thay vì nói, “người nằm sân, người bị thương là Công Phượng ” lại nói, “người bị phạm lỗi là Công Phượng”. Rồi tranh bóng ở trên cao trở thành “không chiến”!

- Thư thả, nghỉ ngơi, cho bớt căng thẳng trở thành thư giãn.

- Thử để biết/trải qua/ nếm mùi/ thưởng thúc trở thành trải nghiệm. Chỗ nào cũng thấy trải nghiệm, nói như vẹt vậy. Thí dụ: Thay vì nói, “Sinh viên quốc tế hào hứng thưởng thức (enjoy) hương vị Tết Việt Nam” lại viết, “Sinh viên quốc tế hào hứng trải nghiệm hương vị Tết Việt Nam” (VOV). Chúng ta hãy so sánh hai câu sau đây: 1. “Chúng tôi đã trải qua (trải nghiệm) bốn ngày Tết ở Hà Nội.” Câu nói này không hàm ý Tết ở Hà Nội như thế nào. 2. “Chúng tôi đã thưởng thức bốn ngày Tết ở Hà Nội.” Câu nói này hàm ý tác giả vui vẻ thưởng thức hương vị Tết ở Hà Nội. Do đó dùng hai chữ trải nghiệm chỉ có nghĩa là trải qua, đi qua, kinh qua chứ không có bất cứ một ý nghĩa gì khác.

Khi mà hệ thống truyền thông độc quyền thì hệ quả của nó là người dân sẽ nói như những con vẹt vì không có bất cứ một tiếng nói thứ hai hay đẹp hơn. Muốn hay đẹp thì phải “trăm hoa đua nở”. Dĩ nhiên khi “trăm hoa đua nở” sẽ có hoa thúi, hoa cứt lợn, hoa hèn… nhưng sẽ có những loài hoa quý và người dân có học sẽ biết chọn thế nào là loài hoa quý. Một đất nước mà không phân biệt được thế nào là văn chương, ngôn ngữ trí thức, thế nào là văn chương bát nháo, thì đó là một đất nước văn hóa kém, hổ lốn, dù có một triệu tiến sĩ cũng vất đi. Sau đây là một thí dụ viết văn rất bát nháo của BBC Việt ngữ: Thay vì viết, “Lãnh sự quán Việt Nam chưa tiếp xúc với Đoàn Thị Hương”, BBC tiếng Việt viết, “Chưa tiếp xúc lãnh sự với Đoàn Thị Hương” Rồi cũng BBC tiếng Việt ngày 22/3/2017: “Mỹ và Anh cấm laptop lên cabin máy bay vì lo khủng bố”. Câu văn không pha tiếng Anh “ba rọi” chỉ là, “Mỹ và Anh cấm đem máy điện tử xách tay lên máy bay vì sợ khủng bố.”

- Thua ngược, không đáng thua mà thua trở thành thua sốc.

- Thuốc quá hạn trở thành thuốc hết đát. Thí dụ: “bác sĩ người Hàn Quốc dùng thuốc hết “đát”. (Đài Tiếng Nói Việt Nam). Chưa thấy một loại tiếng Việt nào quái đản như thế này!

- Thủy thủ đoàn biến thành kíp tàu. Tại sao dùng chữ lạ lùng như vậy?

- Tìm hiểu trở thành soi, săm soi. Thí dụ; Săm soi chuyên cơ (phi cơ riêng) của Tổng Thống Obama. Đọc hai chữ “săm soi” tôi có cảm tưởng lấy cái que chọc vào đâu đó.

- Tiến hành cuộc điều tra nay thêm cái đuôi “điều tra làm rõ”. Làm rõ cái gì mới được chứ? Trên thế giới này, sau khi có một vụ án mạng hay tai nạn lớn xảy ra, cơ quan công lực thường tới thu thập chứng cớ ở hiện trường, phỏng vấn nhân chứng (nếu có) rồi tiến hành cuộc điều ra để truy tầm thủ phạm, đồng phạm…sau đó họp báo công bố kết quả cho công chúng biết. Nay trong nước không hiểu vì sao, các ông phóng viên lại thêm hai chữ “làm rõ” rất thừa thãi và vô duyên. Truyền thông có học hành đàng hoàng chỉ cần viết, “Nhà chức trách đang tiến hành cuộc điều tra” là người ta hiểu rồi. Thêm hai chữ “làm rõ” vào khiến câu văn trở nên quê mùa.

- Tiền trà nước trở thành tiền bo (pour boire). Tiền thưởng Tết cũng gọi là tiền bo.

- Tiếng Hoa, tiếng Tàu trở thành tiếng Trung (tiếng Trung, tiếng Nam, tiếng Bắc)

- Tiếp xúc trở thành tiếp cận. Ông bộ trưởng không muốn tiếp xúc với báo chí trở thành Ông bộ trưởng không muốn tiếp cận với báo chí. Không cho đến gần trở thành không được tiếp cận. Đúng là tiếng Việt điên khùng.

- Tiết kiệm (economy) hạng ba, giá rẻ trở thành kinh tề. Thay vì nói, “Mua cái này rẻ/tiết kiệm được tiền” lại nói “Mua cái này kinh tế lắm. Đúng là tiếng Việt điên khùng.

- Tiết lộ thành rò rỉ. Tiết lộ là để lộ, bị lộ ra ngoài hay “bật mí” cho người ta biết. Còn rò rỉ có ý nghĩa khác. Chẳng hạn chiếc thùng bị rò ở đáy cho nên nước rỉ ra ngoài. Rò rỉ có thể âm thầm, không ai biết. Vì tiếng Việt không rành cho nên trong nước và BBC tiếng Việt đã dùng rò rỉ để thay thế tiết lộ thế mà cũng được hải ngoại đua nhau bắt chước.

-Tiêu chuẩn, mẫu mực trở thành chuẩn mực. Bịa thêm ra chữ mới để làm gì trong khi chữ cũ đầy rẫy ra đó?

- Tiêu đề, nhan đề trở thành tít (titre)

- Tiêu thụ trở thành tiêu dùng

- Tiểu thương biến thành doanh nghiệp nhỏ. Hai chữ “tiểu thương” đã có cả trăm năm nay sao còn bịa đặt ra “doanh nghiệp nhỏ” làm gì nữa?

- Tìm cách/phương thức giải quyết trở thành khắc phục. Đôi khi khắc phục có nghĩa là ráng chịu cho quen, đừng kêu la, khiếu nại gì cả. Thí dụ: Bộ Nội Vụ tới thăm một trại giam, tù nhân than đói quá. Cán bộ nói, “Các anh cố gắng khắc phục.” Điều đó có nghĩa là Bộ Nội Vụ chẳng giải quyết gì cả. Tù nhân ráng mà lo lấy. Đói ráng chịu, đừng kêu la.

- Tin tức trở thành thông tin trong khi thông tin là loan truyền tin tức như Bộ Thông Tin, Cơ Quan Thông Tin. Còn những gì liên quan đến một cá nhân thì gọi là “dữ kiện” hay “chi tiết” chứ không phải “thông tin”.

- Tin nóng! Trong nước lẫn hải ngoại tràn ngập tin nóng nhưng tôi thật tình không hiểu tin nóng là tin gì. Tin nóng là tin hấp dẫn, tin mới nhất, tin động trời hay tin có liên quan đến xác thịt? Xin những ai dùng hai chữ “tin nóng” giải thích dùm cho, tôi hết lòng cảm ơn.

- Tờ truyền đơn trở thành tờ rơi. Truyền đơn đôi khi phát tay chứ có rơi rớt trên đường đâu. Còn tờ rơi là vứt rơi rớt trên đường.

- Tòa Bạch Ốc trở thành Nhà Trắng do các ông bà ở hải ngoại lấy nguyên bản tin trong nước rồi đua nhau chuyển tiếp lên các diễn đàn YahooGroups…khiến tiếng Việt đổi đời trở thành tiếng Việt chính thống ở hải ngoại.

- Tổng Sản Lượng Quốc Gia trở thành GDP (người kém tiếng Anh không hiểu gì cả)

- Trả lời, lên tiếng/đóng góp ý kiến trở thành phản hồi. Thí dụ: “Bộ Công Thương phản hồi việc kê khai tài sản của bà HTKT” (VnPlus). Trong nước thích dùng chữ nghĩa khó khăn học được từ đời Mao Trạch Đông. Câu văn đơn giản chỉ là, “Bộ Công Thương lên tiếng/trả lời về việc kê khai tài sản của Bà HTKT”

- Trạm, ga chuyển tiếp trở thành trạm, ga trung chuyển

- Trận đấu hay, đẹp mắt trở thành trận đấu kinh điển (giống như ở Hàn Lâm Viện vậy)

- Trao đổi, tiếp xúc trở thành giao lưu, hiệp thông (hình như là danh từ riêng của Thiên Chúa Giáo)

- Trẻ em/trẻ con bị bệnh biến thành bệnh nhi. Bệnh viện nhi đồng cũng biến thành bệnh nhi. Đúng là hỗn loạn, không còn ra thể thống gì nữa.

- Trích ngừa, chủng ngừa trở thành tiêm vaccine

- Trình bày quan điểm đối nghịch/ ý kiến đối nghịch, không đồng ý trở thành phản biện. Thật đao to búa lớn!

- Trồng cây trở thành trồng cây xanh. (tiếng Việt có thêm đuôi)

- Trục trặc/ trở ngại trở thành sự cố

- Trực thăng/máy bay săn tàu ngầm chỉ còn trực thăng/máy bay săn ngầm (cắt cụt tiếng Việt)

- Trung Học Chuyên Ngành/chuyên môn trở thành Trung Học Chuyên (cắt cụt tiếng Việt)

Trung Học Đệ I Cấp (Lớp 6 tới Lớp 9) trở thành Trung Học Cơ Sở. Tôi thật tình không hiểu tại sao trong nước dùng danh từ Cơ Sở cho các trường Trung Học Đệ I Cấp hay Trung Học Chuyển Tiếp mà người Mỹ gọi là Middle School hay Internediate School. Trước đây Miền Nam mô phỏng theo nền giáo dục của Pháp, phân chia trung học ra thành hai bậc gọi là: Trung Học Đệ I Cấp (Lớp 6-9) và Trung Học Đệ II Cấp (Lớp 10-12).

- Trung Quốc, Trung Hoa, Tàu, Hoa Lục trở thành China. Như vậy tại sao không nói nước USA hay nước France cho nó gọn?

- Trung Ương (T.Ư) viết tắt thành TW. Đúng là tiếng Việt quái đản!

- Truyền hình trở thành Tivi

Truyền hình đời sống thực (Reality TV.) biến thành Truyền hình thực tế. Dịch như vậy quá ngây ngô, thế mà cả nước không ai có ý kiến gì khác.

- Tự nhiên/thản nhiên trở thành vô tư. Cứ tự nhiên trở thành cứ vô tư đi (VOV Đài Tiếng Nói Việt Nam). Xin nhớ cho vô tư là không thiên vị. Còn vô tư lự là không lo nghĩ gì cả. Còn Thản nhiên là làm mà không cần để ý đến những người chung quanh, không cần biết đến luật pháp là gì. Ở Việt Nam bây giờ có báo là cứ viết, có đài phát thanh, truyền hình là cứ nói …không cần biết đúng sai và cũng không có ai đế mắt tới. Có lẽ cả nước chỉ lo kiếm tiền, ăn nhậu, vui chơi, giải trí, làm tình, bài bạc, xì ke ma túy, chuyển tiền ra ngoại quốc và ước mơ đi Mỹ…ngoài ra thì sống chết mặc bay.

- Tuổi vị thành niên trở thành tuổi teen. Tây đô hộ 100 năm mà tiếng Việt chưa mất gốc. Mỹ mới vào từ 1995 (bình thường hóa) mà tiếng Anh đang trở thành ngôn ngữ chính, giống như Phi Luật Tân. Còn tiếng mẹ đẻ đang trở thành ngôn ngữ phụ (second language). Nghẻo hèn quá cho nên bắt chước kẻ hùng mạnh cũng là niềm hãnh diện. Nếu có mắt nhìn ra hải ngoại phải biết xấu hổ vì lớp người sống xa Tổ Quốc một đại dương mênh mông lại mở các Trường Việt Ngữ để bảo tồn tiếng Việt cho con cháu trong khi ở trong nước lại hãnh diện vì lai căng, giống Mỹ.

V.

- Vào bệnh viện, vào nhà thương trở thành nhập viện (viện dưỡng lão, viện mồ côi, viện hàn lâm, viện tế bần… biết nhập viện nào đây? Tôi không hiểu sao một nước còn đói nghèo mà lại thích dùng chữ “đao to búa lớn” như thế.

- Vào các trang thông tin điện tử trở thành truy cập. “Truy” là “đuổi” như truy nã, truy kích, truy sát. Tại sao “vào” một trang thông tin điện tử để xem, để tìm hiểu, để lấy tin tức lại gọi là “đuổi theo”.

- Vẻ mặt biến thành ngoại diện. Thí dụ: “Bạn muốn có khuôn mặt/vẻ mặt giống con gái Tổng Thống Donald Trump” biến thành, “Bạn muốn có ngoại diện giống con gái Tổng thống Mỹ Donald Trump”. (VOA tiếng Việt). Đúng là dốt hay nói chữ. Rồi “có bộ mặt” biến thành “ngoại hình” (VOA tiếng Việt). Đúng là tiếng Việt truyền thống đã chết và được thay thế bằng tiếng Việt lai căng, bát nháo.

- Vi khuẩn, siêu vi trùng trở thành vi-rút

- Vĩ Cầm trở thành Violon.

- Việc trở thành công đoạn. Thí dụ: “Việc đầu tiên là mài dao với nước lạnh và đá mài.“ trở thành, “Công đoạn đầu tiên là mài dao với nước lạnh và đá mài.” Rồi “cỡ” như cỡ lớn, cỡ nhỏ trở thành “kích cỡ”. Tôi không hiểu tại sao trong nước thích dùng chữ cầu kỳ trong khi kêu gào “tiếng Việt trong sáng”.

- Viện bảo tàng, khu vực bảo tàng chỉ còn bảo tàng. Xin nhớ, viện bảo tàng là danh từ. Còn bảo tàng là động từ. Trong nước hiện có khuynh hướng “cắt cụt” tiếng Việt khiến nhiều danh từ trở nên vô nghĩa hoặc trùng với danh từ khác nhưng khác nghĩa. Thí dụ: Lệ phí chỉ còn phí, săn tàu ngầm chỉ còn săn ngầm, choáng váng chỉ còn choáng, bệnh viện chỉ còn viện. Nhưng một số lại thêm “cái đuôi” vào làm tiếng Việt trở nên dị hợm. Thí dụ: đóng tàu trở thành đóng mới, xây nhà trở thành xây mới, trồng cây trở thành trồng cây xanh.

- Vụ tai tiếng trở thành scandal

- Vượt mức quy định trở thành vượt ngưỡng. Vượt ngưỡng gì mới được chứ? Ngưỡng cửa chăng? Đúng là bạ gì viết nấy, không thèm ra cứu từ điển hay hỏi người lớn xem có đúng không.

X.

- Xa lộ trở thành đường cao tốc. Ở Mỹ này người ta phân biệt Xa Lộ (Freeway) và Đường Tốc Hành (Expressway). Xa Lộ xuyên bang hay xuyên thành phố chạy tới 80 dặm/giờ. Còn Đường Tốc Hành/Cao Tốc chỉ là đường nối hai đầu của một thành phố chạy với vận tốc tối đa 50 dặm/giờ.

- Xác định trở thành khẳng định. “Việt Nam khẳng định Đoàn Thị Hương là công dân VN”. BBC Việt ngữ và Việt Nam không phân biệt được thế nào là xác định, thế nào là khẳng định. Khi có sự tranh cãi, nếu thấy dữ kiện đúng thì mình khẳng định, nói dứt khoát là đúng. Còn xác định là xác nhận một sự kiện mà không có tranh luận. Khi đến gặp Cô Đoàn Thị Hương, tòa lãnh sự xác nhận cô đúng là công dân Việt Nam chứ không khẳng định vì không có sự tranh cãi về quốc tịch với các giới chức Mã Lai. Câu văn trên cho thấy trình độ Việt ngữ của BBC và trong nước quá kém. Trình độ của VOA khá hơn một chút khi dùng hai chữ “xác nhận”.

- Xây gấp, hoàn thành sớm biến thành đẩy nhanh tiến độ thi công. Sao dùng chữ dài lòng thòng và cầu kỳ quá vậy? Hãy so sánh hai câu: 1) “Công nhân đang cố gắng để sớm hoàn thành Cầu Cần Thơ.” 2) “Công nhân đang đẩy nhanh tiến độ thi công để sớm hoàn thành Cầu Cần Thơ.” Xem câu văn nào giản dị hơn?

- Xây thêm bốn căn nhà trở thành xây mới bốn căn hộ.

- Xe cộ trở thành phương tiện. Thí dụ: Cấm các phương tiện lưu thông ở một số tuyến đường. Rồi, “Phương tiện đổ về Thủ đô tăng đột biến trong ngày 4 Tết” (VnPlus) Thay vì nói, “Dòng xe cộ đổ về thủ đô tăng bất thường ngày Mùng 4 Tết”, hoặc “Cấm xe cộ lưu thông ở một số tuyến/đoạn đường”.

- Xe buýt: Việt Nam bây giờ không phân biệt được thế nào là xe chở học sinh, xe chuyên chở công cộng, mà đều gọi tất cả các loại xe này là xe buýt. Xe đang chạy trong thành phố phải mua vé đó là “xe chuyên chở công cộng”, còn xe chở học sinh là “xe đưa rước học sinh”.

- Xe hơi trở thành xe ô-tô.

- Xe gắn máy trở thành xe mô-tô

- Xe phế thải trở thành xe quá đát. (Báo Thanh Niên) Thật ngu dốt không thể tưởng tưởng tượng được. Quá hạn chỉ dùng cho thực phẩm, thuốc men. Còn xe cộ, máy bay, máy móc quá cũ không dùng nữa thì gọi là “phế thải”.

- Xe pick-up, xe chở hàng nhỏ trở thành xe bán tải. Xe thì chở ít hoặc chở nhiều, hoặc hạng nặng, hạng nhẹ sao lại là “bán” tức một nửa?

- Xe vận tải trở thành xe tải (cắt cụt tiếng Việt). Như vậy “liên đoàn/công đoàn vận tải trở thành “liên đoàn tải” và “ngành vận tải” trở thành “ngành tải”. Thật quái đản!

- Xe vận tải hạng nặng trở thành xe siêu trường siêu trọng, xe container

- Xuồng máy trở thành ca-nô

Chúng tôi còn tiếp tục cập nhật cho cuốn tự điển này thêm phong phú. Nhưng càng viết lại càng đau lòng. Tiếng Việt đổi đời, buồn ơi chào mi! Và buồn cho nhiều thế hệ mai sau.

Đào Văn Bình

(California ngày 21/4/2017)

Tự Điển Tiếng Việt Đổi Đời - 3





Đào Văn Bình

Muốn trừng trị, trừng phạt phải biết sai phạm ở chỗ nào biến thành “Xử lý phải có địa chỉ rõ ràng”. Đó là tiếng Việt điên khùng của ông Tiến Sĩ Nguyễn Viết Chức đăng trên VOV ngày 30/3/2017 (ĐVB)

H.

- Hải cảng trở thành cảng biển cũng giống như phi cảng trở thành cảng bay.

- Hạm đội trở thành đội tàu. Thí dụ: Hạm Đội 7 trở thành Đội Tàu Số 7

- Hầm trú ẩn trở thành Bunker/Boong- ke

- Hàng đầu, đứng đầu trở thành top. Chữ này thấy nhan nhản trên các diễn đàn ở hải ngoại.

- Hành động, chuyển động (move) trở thành động thái trong khi tử điển Việt Nam trước và sau 1975 không hề có hai chữ “động thái”. Đây là sự bịa đặt chữ nghĩa một cách bát nháo.

- Hành trình khám phá các vụ án trở thành hành trình phá án tức bác bỏ bản án của tòa dưới. Lên kế hoạch, lập kế hoạch truy bắt/truy nã hung thủ/bắt trọn ổ trở thành lên kế hoạch phá án.

- Hào hứng, hấp dẫn, sôi nổi (cuộc đua, trận đá bóng, trình diễn văn nghệ…) trở thành kịch tính. Rồi giá vàng lên xuống cũng “kịch tính”. Thậm chí vụ thảm sát tại tòa soạn báo hí họa Charlie Hebdo (Paris) cũng “đầy kịch tính”. Có lẽ phải cho ông nào sáng chế ra hai chữ “kịch tính” này vào bệnh viện tâm thần để chữa trị mới được.

- Hay đẹp trở thành kinh điển. Một trận đấu hay, đẹp trở thành một trận đấu kinh điển. Đau đầu quá!

- Hết hàng trở thành cháy hàng. Hết vé trở thành cháy vé. Hết phòng trở thành cháy phòng, trình diễn hết mình trở thành cháy hết mình. Hết săng trở thành cháy săng! Đúng là loại ngôn ngữ đường phố và bát nháo quá đỗi. Cả nước có mấy chục ngàn ông “Tiến Sĩ”, bao nhiêu viện ngôn ngữ, bao giải thưởng văn chương….mà không thấy ai lên tiếng về vấn đề này.

- Hiện ra (trên màn ảnh) trở thành hiển thị. Tôi không hiểu sao trong nước thích dùng tiếng Tàu, trong khi bao tiếng thuần Việt lại không dùng.

- Hiểu ngầm trở thành mặc định. Sao dùng chữ khó quá? Giới bình dân chịu sao thấu? Hơn thế nữa, từ điển Việt Nam trước và sau 1975, kể cả Hán- Việt Từ Điển của Đào Duy Anh cũng không có hai chữ “mặc định”.

- Hình ảnh lấy ra từ máy thu hình biến thành hình ảnh chiết xuất từ camera. Sao dùng chữ lai căng và khó khăn quá vậy? Hai chữ “chiết xuất” được dùng cho phòng thí nghiệm.

- Hình dáng trở thành ngoại hình. Có hình dáng đẹp trở thành Có ngoại hình đẹp. Hình như những người sáng chế ra những từ ngữ lạ lùng này không được đi học từ thuở nhỏ hoặc không hề đọc văn chương, sách truyện Việt Nam.

- Hỗ tương, qua lại, lẫn nhau trở thành tương tác. Thích dùng chữ cầu kỳ, khó khăn trong khi kiến thức chẳng bao nhiêu.

- Hồi đáp, trả lời trở thành phản hồi. Phản là quay ngược, hồi là lui lại, trả lại. Hai chữ này ghép với nhau không hề có nghĩa là trả lời hay hồi đáp mà chỉ là dùng chữ kiểu cọ, hoàn toàn vô nghĩa.

- Hợp chất, vật liệu tổng hợp/hỗn hợp trở thành composite

- Hợp tác, người hùn hạp, cùng đứng chung, cùng làm ăn buôn bán với mình (partner) trở thành đối tác (làm việc đối nghịch với mình) như đối phương, đối thủ, đối đầu, đối thoại, đối lập, đối kháng... Từ điển Việt Nam trước và sau 1975 đều không có hai chữ “đối tác”. Tự Điển Hán- Việt của Đào Duy Anh cũng không có hai chữ “đối tác”. Chỉ vì ngu dốt tiếng Việt cho nên đã dịch “partner” thành “đối tác”.

- Hư hỏng, xập xệ, đã cũ, không được như trước nữa trở thành xuống cấp. Thí dụ: Bộ ngực bà ta đã xệ, không còn căng nữa trở thành bộ ngực bà ta đã xuống cấp. (Nếu dùng hai chữ này trong các màn diễu cợt, chọc cười khán gỉa hoặc chuyện tiếu lâm thì được)

- Huy hiệu trở thành logo.

K.

- Kẹt xe trở thành ùn tắc, ách tắc.

- Kết hợp, tổng hợp biến thành tích hợp. Hai chữ tích hợp không có trong từ điển tiếng Việt của Miền Nam trước đây.

- Khách trở thành khách mời. Tức là có những vị khách không mời mà đến.

- Khoảng cách/ chiều dài /mức độ trở thành cự ly

- Khởi đầu, mở đầu, mở màn trở thành kích hoạt. “Triều Tiên kích hoạt chiến thuật đó bằng việc ra thông báo cấm tất cả người Malaysia…” (Báo VnExpress). Đúng là dốt hay nói chữ, bịa chữ trong khi tự điển Việt Nam không hề có hai chữ “kích hoạt”.

- Không khí lạnh sẽ tràn vào phía bắc biến thành không khí lạnh tăng cường giống như đổ thêm quân vào trận chiến. Các chữ “trời sẽ lạnh thêm” vừa dịu dàng, vừa dễ hiểu không chịu dùng mà lại thích “tăng cường”.

- Không thể tưởng tượng được (unimaginable) biến thành không tưởng (utopia). Trong nước tiếng Việt quá kém, không phân biệt được thế nào là không thể tưởng tượng được thế nào là không tưởng. Không thể tưởng tượng được là sự kiện đã xảy ra nhưng ngoài dự đoán, ước đoán của mình. Thí dụ: “Thật không thể tưởng tượng được Đức đã thắng Ba Tây 7- 1 trong trận bán kết 2004”. Còn không tưởng là không bao giờ xảy ra và sẽ không bao giờ xảy ra. Thí dụ: “Trung Quốc mơ chiếm hết Biển Đông, khống chế Á Châu rồi đánh gục Mỹ. Đúng là chuyện hão huyền, không tưởng.”

- Khu nghỉ mát/nghỉ dưỡng trở thành resort. Du lịch trở thành “đi tour”. Trong nước cũng như hải ngoại, một số lớn danh từ tiếng Việt sẽ chết để nhường chỗ cho tiếng Anh. Bố mẹ thích dùng tiếng Anh ba rọi như thế thì mở Trường Việt Ngữ để làm gì?

- Khu vực chăm sóc bệnh nhân nguy kịch/khu vực chăm sóc đặc biệt (critical care, intensive care) trở thành Khu vực chăm sóc tích cực. Chăm sóc bệnh nhân mà cũng có tiêu cực và tích cực nữa sao? Bệnh viện có biết bao nhiêu là bác sĩ mà không có tới một ông có thể dịch “critical care” ra tiếng Việt? Rồi Bộ Y Tề để làm gì ? Sao không dịch tất cả các thuật ngữ Y Khoa từ tiếng Anh ra tiếng Việt để phổ biến cho tất cá các bệnh viện trong nước? Thật đáng buồn. Trong nước có một “bệnh dịch” là đua nhau tặng hoa và chụp hình để trình diễn, trong khi tình trạng tồi tệ thì phớt lờ rồi báo cáo láo để lừa dối cấp trên và dân chúng.

- Khu vực đi bộ trở thành không gian đi bộ. Không gian ở ngoài trái đất làm sao có thể đi bộ ở đó được. Nhưng khu vực đi bộ đó chúng ta có thể tạo một không khí yên tĩnh hay một môi trường thoải mái, tươi mát cho người đi bộ. Nhà bếp chật hẹp trở thành “không gian nấu ăn chật hẹp” (Đài Tiếng Nói Việt Nam).

Đúng là tiếng Việt điên khùng! Từ xưa đến giờ người ta nói, “Tạo một khung cảnh/ một bầu không khí ấm cúng cho gia đình” chứ người ta không nói. “Tạo một không gian ấm cúng cho gia đình”. Người nào dùng hai chữ “không gian” ở đây tức là không được cắp sách đến trường, không đọc sách vở của tổ tiên.

- Kích thích (kinh tế, tiêu thụ) trở thành kích cầu trong khi trong tự điểnViệt Nam hoàn toàn không có hai chữ kích cầu mà chỉ có: kích thích, kích hỏa, kích động như kích động nhạc.

- Kiểm soát không lưu trở thành quản lý bay

- Kỹ nghệ trở thành công nghiệp/công nghệ. Xin nhớ công nghệ là kỹ nghệ chế tạo máy móc. Còn kỹ nghệ là chế tác, sản xuất lớn theo khoa học. Chẳng hạn kỹ nghệ sản xuất rượu bia, kỹ nghệ gái điếm, kỹ nghệ sản xuất xe hơi…. Miền Nam trước đây có Trường Kỹ Sư Công Nghệ để đào tạo kỹ sư chế tạo máy móc.

L.

- Lạ lùng trở thành ngỡ ngàng. Thí dụ: Đẹp lạ lùng trở thành đẹp ngỡ ngàng. Người viết văn như thế này chắc chắn chưa được cắp sách đến trường. Ngỡ ngàng là tình cảm không ưng ý hay trái với dự đoán của minh. Thí du: 1) Sau 25 năm từ Mỹ trở về tôi thật ngỡ ngàng khi thấy cô nữ sinh khả ái năm xưa nay trở thành một bà già tiều tụy. 2) Tôi thật ngỡ ngàng khi cô ta nói cô ta là hoa hậu nhưng mở miệng nói ra toàn chuyện thô tục. (Vì tôi cứ ngỡ cô ta là hoa hậu thì phải ăn nói lịch sự)

- Lạc tay lái, lạc bánh lái trở thành mất lái, mất phanh

- Làm cho vững chắc thêm (bằng cách đóng thêm cột, thêm ván, đắp thêm đất..,) trở thành gia cố chẳng hạn “gia cố các bờ kè”, “gia cố các thuyền” sao dùng chữ khó khăn và lạ hoắc như vậy? Chắc phiên dịch từ tiếng Tàu có từ thời Cách Mạng Văn Hóa của Mao Trạch Đông. Trong tự điển Hán- Việt của Đào Duy Anh không có hai chữ “gia cố”.

- Làm điếm trở thành làm gái. Như vậy làm trai là làm đĩ đực chăng? Nếu nói “làm gái” để chỉ gái điếm thì chúng ta phải hiểu câu nói này như thế nào, “Làm gái thì phải biết công- dung- ngôn- hạnh.”

- Làm điệu, làm dáng, điệu bộ trước ống kính trở thành tạo dáng, thả dáng. Những hình ảnh làm điệu, làm bộ, làm dáng này lan tràn các báo điện tử lớn như VOV, VnExpress, VietnamPlus, Thanh Niên, Tiền Phong… đều là những quảng cáo trá hình cho các cô người mẫu, ca sĩ để kiếm tiền. Đúng là một nền báo chí rẻ tiền.

- Làm hồ sơ giả (để lấy tiền) trở thành chi khống, làm hồ sơ khống.

- Làm việc trở thành thi công. Công nhân đang làm việc trở thành công nhân đang thi công. Tại sao công nhân phải thi đua với nhau? Trên thế giới này làm gì có chuyện đó. Công nhân làm hết giờ thì nghỉ hay về nhà. Nếu làm thêm (overtime) thì phải trả theo giờ phụ trội, gấp đôi. Điên khùng hay sao mà thi đua?

- Lạnh buốt, lạnh cắt da trở thành rét đậm rét hại, giống như một bà nhà quê nói tiếng Việt vậy.

- Lề thói, thói quen, cách thức, cố tật… trở thành văn hóa. Thí dụ: Văn hóa đái bậy ỉa bậy, văn hóa nhận phong bì của bác sĩ, văn hóa du côn, văn hóa tham nhũng, văn hóa chửi thề, văn hóa nói dối, văn hóa ẩm thực, văn hóa xấu hổ, văn hóa khinh bỉ…trong khi văn hóa là cái gì tốt đẹp nhất biểu tượng của một dân tộc.

- Lệ phí, phí tổn cắt cụt chỉ còn phí như thu phí qua cầu. Thậm bán vé xe buýt (xe chuyên chở công cộng) cũng gọi là thu phí. Đúng là ngôn ngữ điên khùng. Từ ngàn xưa đến giờ người ta nói: sở phí, học phí, lệ phí, kinh phí, chi phí, chiến phí…nề nếp đâu vào đó. Nay phá nát tiếng Việt.

- Lịch trình cắt cụt chỉ còn lịch. “Lịch thi Trung học Phổ thông quốc gia năm 2017” (VietnamPlus). Lịch là cuốn sách ghi ngày tháng của một năm. Lịch trình là thời biểu ghi rõ ngày nào làm cái gì giống như thời khóa biểu. Hai chữ này không thể thay thế cho nhau.

- Liên lạc trở thành liên hệ. Liên lạc là dùng thư từ, điện thoại, điện thư để liên lạc, có thể là thăm hỏi, lấy tin, làm ăn, buôn bán. Còn liên hệ là có một mối giao tình, hợp tác, dính líu với nhau. Do đó người ta nói “mối liên hệ vợ chồng” chứ không ai nói, “Mối liên lạc vợ chồng”.

- Lò lửa trở thành chảo lửa. Thí dụ: Chảo lửa Trung Đông. Xin nhớ cho lò lửa khác chảo lửa Hơn thế nữa không ai nói chảo lửa mà chỉ nói chảo dầu. Trên thế giới này làm gì có chảo lửa? Chỉ có chảo dầu thôi.BBC Việt ngữ thích dùng lại tiếng Việt bát nháo này.

- Lõa thể, cởi truồng trở thành nude

- Lợi dụng/nhân cơ hội trở thành tranh thủ. Thí dụ:”Nhân cơ hội mỗi năm có một tháng nghỉ phép...” trở thành “Tranh thủ mỗi năm có một tháng nghỉ phép…” Tranh thủ ở trong nước còn có nghĩa là “cố gắng” chẳng hạn như “ Làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm”.

- Lợi tức trở thành thu nhập. Thuế lợi tức trở thành thuế thu nhập trong khi theo Từ Điển Việt Nam trong nước “thu nhập” là động từ chỉ việc thu nhận tiền bạc chứ tự thân “thu nhập” không phải số tiền kiếm được do buôn bán hay do lương bổng. Tôi xin bà con ở ngoại ngoại đừng dùng hai chữ “thu nhập” nữa vì nó không phải là “lợi tức” (income).

M.

- Mánh lới, thủ đoạn trở thành chiêu trò. Thí dụ: “Chiêu trò rút tiền của bà Sáu Phấn” (Báo Thanh Niên). Đây là ngôn ngữ của bọn buôn lậu, mánh mung.

- Mặt chưa trang điểm trở thành mặt mộc

- Máy bay riêng, máy bay đặc biệt (của tổng thống chẳng hạn) trở thành chuyên cơ tức máy móc đặc biệt.

- Máy điện tử trở thảnh điện toán (Tôi có máy điện tử từ năm 1995 nhưng có bao giờ tính toán hoặc làm toán trên máy điện tử đâu.)

- Máy hình, máy thu hình trở thành camera. Thí dụ: Gắn camera xử phạt vi phạm dọc trục buýt BRT (Báo An Ninh Thủ Đô). Câu văn vừa lai căng vừa lủng củng. Câu văn không lai căng và gẫy gọn sẽ là: “Gắn máy thu hình phạt vi phạm dọc theo tuyến xe chuyên chở công cộng BRT”

- Máy tự chụp hình trở thành chụp hình tự sướng, thật thô tục quá đỗi!

- Metro! (Metro Bà Quẹo, Metro Bình Phú) Cả nước không biết dịch metro là “xe điện ngầm” cho nên các trạm xe điện ngầm đều trương bảng “metro”. Tinh thần nô lệ như thế mà đòi độc lập tự chủ.

- Minh họa (illustrated) được dùng loạn xạ. Trong nước không hiểu hai chữ “minh họa” là gì. Minh họa có nghĩa là vẽ ra, chẳng hạn như truyện bằng tranh, hình bìa và một số trang trong một cuốn truyện do một họa sĩ vẽ , người Mỹ gọi là “illustrated”. Còn nếu là bức ảnh thì nhà xuất bản sẽ ghi chú “photograph by…” tức “hình của”. Ngày nay, tất cả những tấm hình đi kèm với một bải viết nào đó mà không ăn nhập chi với đề tài, mà chỉ lấy một hình tượng trưng - đều được ghi chú là “minh họa”. Đúng là điếc không sợ súng! Chẳng hạn bài viết có đề tài “Đánh Ghen” mà không có một bức họa/tranh nào về đánh ghen cả, tác giả có thể lấy một bức hình hai người đàn bà đang túm tóc nhau, nhưng không được ghi chú “hình ảnh minh họa” mà có thể ghi, ”Đây là hình đánh ghen được đăng trên báo ABC” hoặc “Đây là hình ảnh tượng trưng các bà đánh ghen”.

- Môi giới, dắt mối trở thành cò. Tại bệnh viện cũng có “cò” để môi giới với y tá, bác sĩ chữa bệnh cho đàng hoàng, nếu không cho mày ra nghĩa địa. Nhiều báo còn dùng hai chữ “cò mồi”. Cò mồi là cùng băng đảng nhưng đóng giả để lường gạt người ta, hoàn toàn khác với môi giới, dắt mối để kiếm tiền.

- Mới sinh được tám tháng trở thành tám tháng tuổi. Cây đa cổ thụ 100 năm trở thành Cây đa cổ thụ 100 năm tuổi. (Bắt chước tiếng Anh thêm chữ old vào)

- Món hàng bán được giá, có giá trị trở thành “giá trị kinh tế cao”. Thích dùng chữ khó khăn.

- Một con hổ trở thành một cá thể hổ

- Một con khỉ Voọc trở thành một cá thể Voọc

- Một con bò, 1300 con bò trở thành “1300 cá thể bò nhập khẩu từ Mỹ” (Báo Tiền Phong). Cứ cái điệu viết văn nhảm nhí như thế này, trong tương lai gần sẽ là: Mẹ tôi đi chợ mua một cá thể gà. Đám cưới rất lớn có tới chục cá thể heo quay. Chục cá thể lợn xổng chuồng làm tôi đuổi hết hơi. Bán cho tôi một cá thể ngựa. Mạo tự “con” để chỉ các con vật, đồ vật như : Con chó, con mèo, con chim, con cá, con trâu, con bò, con dao, con quay, con thoi, con cúi, con diều…rồi sẽ chết trong ngôn ngữ Việt Nam. Người nào dùng hai chữ “cá thể” ở đây chắc chắn không được cắp sách đến trường. Cá thể là đơn lẻ khác với tập thể. Thí dụ: Làm ăn cá thể. Nó không phải là mạo tự để chỉ các con vật, đồ vật.

- Một số hình ảnh, một loạt hình ảnh trở thành chùm ảnh (giống như chùm khế ngọt). Một số bài thơ trở thành chùm thơ. Nếu vậy một mớ sách vở sẽ trở thành một chùm sách vở!

- Mũ/nón an toàn trở thành mũ/nón bảo hiểm. (Bảo hiểm là bỏ tiền ra để nhờ một công ty trả tiền mình trong trường hợp có tai nạn, nhà cháy, hàng hóa hư hỏng v.v..)

- Mức nợ tối đa trở thành nợ trần giống như nợ trần gian, nợ đời. Chữ “ceiling” của Mỹ nghĩa bóng ở đây có nghĩa là chạm mức tối đa chứ không phải trần nhà. Bất cứ ở quốc gia nào, một danh từ đều có nghĩa đen và nghĩa bóng. Thí dụ: Hot issues không phải là “những đề tài nóng” mà là những vấn đề được bàn cãi sôi nổi thường xuất hiện trong những cuộc bầu cử, sau bầu cử thì lại ”chìm xuồng”.

- Muốn trừng trị, trừng phạt phải biết sai phạm ở chỗ nào biến thành “Xử lý phải có địa chỉ rõ ràng”. Đó là tiếng Việt điên khùng của ông Tiến Sĩ Nguyễn Viết Chức đăng trên VOV ngày 30/3/2017.

(Còn tiếp)