Hiển thị các bài đăng có nhãn Thế giới. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thế giới. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 15 tháng 10, 2016

Chính sách cảnh sát ‘cửa sổ vỡ’ là gì?








Biên dịch: Lê Thị Hồng Loan | Biên tập: Lê Hồng Hiệp

Vào tháng 7/2014, một người đàn ông da đen không vũ trang tên là Eric Garner đã chết dưới tay của một sĩ quan cảnh sát sau khi được cho là đã phản kháng việc bắt giữ. Garner bị cáo buộc là đã bán thuốc lá lậu trên một góc phố ở Đảo Staten. Cái chết của anh ta, cùng với cái chết của những người da đen không vũ trang khác bị cáo buộc phạm các tội tiểu hình dưới tay các nhân viên cảnh sát da trắng, đã làm dấy lên câu hỏi về chiến thuật của cảnh sát. Một số người nói rằng vấn đề nằm ở việc thực hiện chính sách tuần tra “cửa sổ vỡ”, một cách tiếp cận để thực thi pháp luật dựa trên một lý thuyết cho rằng việc trấn áp các tội phạm nhỏ giúp ngăn ngừa những tội ác lớn hơn. Những người chỉ trích cho rằng hiệu quả của chính sách này có tính phân biệt đối xử, bởi vì cảnh sát nhìn chung có xu hướng nhắm vào các mục tiêu không phải là người da trắng. Những người bảo vệ chính sách này như Bill Bratton (ảnh trên), Giám đốc Cục Cảnh sát New York (NYPD), và George Kelling, người khởi xướng lý thuyết ban đầu, lại bênh vực cho lý thuyết này và xem đó là lý do tại sao tội phạm giảm mạnh ở nhiều thành phố. Vậy, chính xác thì chính sách tuần tra “cửa sổ vỡ” là gì, và nó có thực sự là nguyên nhân làm giảm tội phạm hay không?

Thuật ngữ “cửa sổ bị vỡ” được đưa ra vào đầu những năm 1980 bởi Kelling, một nhà tội phạm học, và James Wilson, một nhà khoa học xã hội. Lý thuyết này chỉ ra rằng khi cửa sổ của một tòa nhà bị đập vỡ và để nguyên không sửa chữa, các cửa sổ còn lại cũng sẽ sớm bị đập vỡ. Họ lập luận rằng một tấm cửa sổ vỡ không được sửa chữa là một tín hiệu rằng không ai quan tâm [đến điều đó], và do đó việc đập vỡ nhiều cửa sổ hơn sẽ không gây nên bất cứ chi phí nào.

Sâu xa hơn, họ nhận thấy rằng trong các môi trường mà hành vi gây mất trật tự không được kiểm soát – khi gái mại dâm công khai tiếp thị dịch vụ của mình hoặc khi ăn mày níu kéo người qua đường – thì những tội phạm đường phố nghiêm trọng hơn cũng sẽ gia tăng nhanh. Lý thuyết này được hỗ trợ bởi một số thí nghiệm chọn mẫu ngẫu nhiên.

Ví dụ, các nhà nghiên cứu tại Đại học Groningen ở Hà Lan đã phát hiện ra rằng khả năng một người ăn cắp một phong bì chứa đầy tiền sẽ cao gấp hai lần nếu nó thò ra ngoài một hòm thư có hình vẽ graffiti. Kelling và Wilson chỉ ra rằng ý nghĩa của điều này đối việc việc thực thi pháp luật là ở chỗ khi nhân viên cảnh sát giữ đường phố trật tự, và trừng phạt thậm chí là những dấu hiệu nhỏ của các hành vi sai trái bằng cách cảnh cáo hoặc bắt giữ, thì mọi người sẽ hành xử một cách có trật tự hơn.

Khi lý thuyết “cửa sổ vỡ” được công bố lần đầu, tội phạm thành thị là một vấn đề dường như không thể kiểm soát được ở Mỹ và trên toàn thế giới. Nhưng trong hai thập niên vừa qua tội phạm đã giảm với tốc độ khác thường. Sự thay đổi này diễn ra đặc biệt sâu sắc ở thành phố New York, nơi mà tỷ lệ giết người giảm từ 26,5 trên 100.000 người vào năm 1993 xuống còn 3,3 trên 100.000 người vào năm 2013 – thấp hơn so với mức trung bình của quốc gia. Rất nhiều lý thuyết đã được xây dựng để giải thích việc sụt giảm này, nhưng quyết định của thành phố trong việc nghiêm túc giải quyết tội phạm nhỏ chắc chắn đóng góp một phần.

Khi Bratton là người đứng đầu đội cảnh sát tuần tra giao thông công cộng (transit police) ở New York vào năm 1990, ông ra lệnh cho các sĩ quan của mình bắt giữ càng nhiều những người đi lậu vé càng tốt. Họ phát hiện ra rằng cứ bảy người bị bắt thì có một người đang bị truy nã về các tội danh khác, và cứ hai mươi người thì có một người mang theo dao, súng hoặc vũ khí khác. Trong vòng một năm, tội phạm trên tàu điện ngầm đã giảm 30%.

Năm 1994, Rudy Giuliani, người được bầu làm thị trưởng New York sau khi hứa hẹn sẽ “dọn sạch” các đường phố thành phố, đã bổ nhiệm Bratton làm Giám đốc NYPD. Mở rộng các bài học từ khu vực tàu điện ngầm, Bratton thấy rằng việc xử lý các hành vi phạm tội nhẹ, chẳng hạn như sở hữu súng bất hợp pháp, giúp giảm cơ hội phát sinh tội phạm. Trong vòng bốn năm, thành phố đã chứng kiến số vụ nổ súng giảm hai vụ mỗi ngày.

Chính sách tuần tra cảnh sát kiểu “cửa sổ vỡ” được cho là đã giúp làm giảm tội phạm. Nhưng các yếu tố khác cũng đã góp phần. Nhiều sở cảnh sát, đặc biệt là ở các thành phố lớn, đã có tiến bộ trong việc sử dụng dữ liệu để xác định các điểm nóng tội phạm và tập trung vào các nguồn tội phạm một cách hiệu quả hơn. Sự sụt giảm mạnh về tội phạm cũng trùng với thời điểm chấm dứt đại dịch crack-cocaine, công nghệ an ninh được cải thiện (việc ăn cắp một chiếc ôtô giờ trở nên khó khăn hơn bao giờ hết) và hàm lượng chì trong không khí giảm, điều mà một số nghiên cứu cho thấy có thể làm giảm các hành vi bốc đồng.

Tuy nhiên, chính sách cảnh sát kiểu “cửa sổ vỡ” cũng đã nhận được những chỉ trích nghiêm trọng, với việc một số người nói rằng nó làm tăng xích mích giữa cảnh sát và người dân, đặc biệt là ở các khu vực nghèo và thiểu số. Những khu phố như vậy thường có xu hướng nhận được sự chú ý quá mức của cảnh sát, một phần vì họ gặp phải nhiều hành vi phạm tội hơn: mặc dù người da đen và gốc Tây Ban Nha chiếm 53% dân số thành phố New York vào năm 2013, họ chiếm đếm 83% số nạn nhân trong các vụ giết người. Nhưng cũng có những dấu hiệu phân biệt chủng tộc. Ví dụ, việc có bằng chứng cho thấy các vụ bắt giữ ma túy gây nên những chi phí lớn với người nghèo và người thiểu số đã khuyến khích NYPD nới lỏng chính sách quản lý cần sa hồi tháng 11/2014.

Nhưng bất chấp các khiếu nại về thực thi không công bằng và thành kiến về chủng tộc, mộtphần lớn cư dân New York – cả người da đen và da trắng – vẫn nói rằng họ muốn an ninh được duy trì thông qua chính sách cảnh sát “cửa sổ vỡ”.

“Truyền nhân” của Vanga – cô bé 7 tuổi với lời tiên đoán…




Tác giả: Thanh Mai (tổng hợp)


Kaede Uber, cô bé được mệnh danh là hậu duệ của Vanga đã đưa ra những lời tiên tri khủng khiếp cho tương lai của thế giới.

Cô bé Kaede Uber có khả năng nhìn thấy tương lai và giao tiếp với người ngoài hành tinh, được cho là hậu duệ và người kế tục của nhà tiên tri mù Vanga, người từng sống ẩn dật ở vùng hẻo lánh Kozhuth thuộc Petrich, Bulgari.

Nhà tiên tri mù Baba Vanga nổi tiểng thế giới có tên gọi đầy đủ là Vangelia Pandeva Dimitrova. Trước khi qua đời vào năm 1996, bà Vanga trăn trối rằng vài năm sau khi bà mất, sẽ có một cô bé – người kế tục với khả năng tiên tri đặc biệt như bà được sinh ra ở châu Âu vào đúng thời điểm nhiều biến cố lớn trên thế giới xảy ra.

Phải đến tận năm 2009, mọi người mới nhớ ra lời trăn trối của Vanga sau khi một tờ báo Pháp đăng bài ngắn nói về Kaede Uber về khả năng tiên tri của cô bé.

Ban đầu không ai tin vào khả năng đặc biệt của cô. Sau đó các nhà khoa học và các nhà ngoại cảm đã liên tục kiểm tra và thử thách để chắc chắn về khả năng tiên tri của Uber. Lời trăn trối của bà Vanga đã được xác nhận.

Năm 2011, cô bé 7 tuổi đã thu hút sự chú ý của dư luận với khả năng tiên tri và chữa bệnh của mình. Cô càng ngày càng có nhiều đặc điểm giống nhà tiên tri mù Vanga. Khi thị lực của cô kém dần đi, cùng với những cử chỉ rất giống bà.

Uber có khả năng “nhìn thấy tương lai và giao tiếp với người ngoài hành tinh”.


Những tiên đoán chính xác của Uber

– Trong một chương trình do truyền hình của Nga, Uber đã dự đoán được rằng thị trường tài chính thế giới sẽ lao vào cơn khủng hoảng trầm trọng vào năm 2008.

– Trong thời gian diễn ra bầu cử Tổng thống ở Nga, hai phóng viên truyền hình đã đưa cho Uber xem hình ảnh các ứng cử viên Tổng thống. Cô bé đã chỉ vào một tấm hình của Putin. Lời tiên đoán của cô trở thành sự thật.

Chúng ta đều đã thấy rõ được những sự kiện mà Uber tiên đoán đã trở thành sự thật.

Tuy nhiên, khi những thông tin về Uber chính thức được xác nhận thì cô bé và gia đình bắt đầu bị theo dõi, không được sống yên ổn, họ đột nhiên biến mất trong suốt 5 năm liền. Nhiều tin đồn thậm chí còn cho rằng cô bé đã chết.

Cho đến tận tháng 1 đầu năm nay, cô bé Uber mới xuất hiện trên sóng truyền hình và đưa ra những dự đoán tiếp theo của mình.

“Nếu tình trạng tấn công khủng bố tiếp tục tràn lan ở châu Âu, cùng với đó là việc không tìm ra lời giải cho bài toán nhập cư, cả thế giới có thể sẽ gặp nguy hiểm”, Kaede Uber tiên đoán.

Ban đầu dư luận không mấy để tâm tới lời tiên tri của của Uber, cho đến khi nhìn nhận lại vấn đề từ vụ khủng bố xảy ra ở Bỉ cuối tháng 3 và mới nhất là vụ tấn công ở Nice, Pháp giữa tháng 7.

Cùng với phát ngôn gần đây nhất của tổng thống Nga Putin. Ông cho rằng, cách duy nhất để giải quyết cuộc khủng hoảng người tị nạn ở châu Âu là nhổ tận gốc chủ nghĩa khủng bố trong khi vẫn duy trì chủ quyền lãnh thổ của những quốc gia đang bị ảnh hưởng bởi khủng bố và dừng ngay mọi hành động đơn phương.

“Nếu chúng ta hành động một cách đơn phương và tranh cãi về những nguyên tắc kiểu như dân chủ cho những khu vực trên, nó sẽ còn đẩy chúng ta tới một ngõ cụt nghiêm trọng hơn” – ông Putin kết luận.

Và “Không một quốc gia châu Âu nào có thể tự mình đối phó (với cuộc khủng hoảng người tị nạn) và cũng không một quốc gia nào có thể chối từ trách nhiệm của mình” – ông nhấn mạnh.

Uber cũng có những cử chỉ rất giống bà Vanga như ánh mắt hay cách chỉ tay.


Giống như lời tiên tri của cô bé Uber từ tháng Một năm nay, phát ngôn của ông Putin cho thấy tình trạng chủ nghĩa khủng bố tiếp tục tràn lan khắp châu Âu kéo theo cuộc khủng hoảng người tị nạn. Mặc dù đưa ra được nguyên nhân nhưng chưa có giải pháp nào giải quyết đứt bài toán nạn nhập cư này.

Cho thấy rằng lời tiên tri của cô bé chính xác hoàn toàn.

Mới đây, Uber lại tái xuất trên sóng truyền hình NV để trả lời 15 câu hỏi quan trọng nhất về nhiều vấn đề đang khiến thế giới quan tâm, đặc biệt về nạn khủng bố hoành hành.

“Rất nhiều người sẽ bị sát hại và máu sẽ đổ xuống rất nhiều” lời tiên đoán của Kaede Uber khiến mọi người lo lắng và hoang mang, thế giới sẽ trải qua một nỗi kinh hoàng mới và Mỹ có thể sẽ là nơi phải hứng chịu một cuộc khủng bố đẫm máu. Cô bé khẳng định: “Tai họa sẽ ập đến trong 4 tháng nữa”.

————

http://baodatviet.vn/the-gioi/tin-tuc-24h/truyen-nhan-cua-vanga–co-be-7-tuoi-voi-loi-tien-doan-3320857/

Thứ Ba, 11 tháng 10, 2016

Từ MKULTRA đến vũ khí điện từ: Thí nghiệm kiểm soát não thực hiện trên người dân Mỹ bởi chính phủ họ




An Tôn
An Ninh Thế Giới


Cấy chip điện tử vào não bộ một người để kiểm soát tư tưởng, suy nghĩ, cảm xúc, sinh hoạt của người đó, tưởng chừng chỉ là chuyện của phim khoa học giả tưởng, thế nhưng nay, điều đó đã có trong thực tế và đang diễn ra tại Mỹ. Các cơ quan an ninh và tình báo Mỹ đã bí mật cấy vào não những nạn nhân được gọi là Cá nhân mục tiêu (TI) những con chip điện tử cực nhỏ kết nối với máy vi tính để thử nghiệm tính hiệu quả của việc sử dụng các chip điện tử này phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau, từ việc kiểm soát bệnh nhân điều trị cho đến việc chống tội phạm, khủng bố, cả việc kiểm soát các đối tượng được xem là "có vấn đề".

Con người bị điều khiển từ xa từ hơn nửa thế kỷ qua?

Theo trang tin tình báo Befroe It's News, gần đây, một phụ nữ ở California tên là Kathleen Watterson, một TI, đã kiện các cơ quan tình báo Mỹ ra tòa án vì đã sử dụng vũ khí bí mật gắn trên tháp điện thoại di động (ĐTDĐ) phát ra sóng năng lượng vô tuyến nhắm vào bà.

Tại tòa án, bà Watterson đã thuê Levi McCann, một chuyên gia về lĩnh vực vũ khí kiểm soát não bí mật này để chứng minh sự thật việc bà bị những kẻ làm việc bí mật cho Chính phủ Mỹ đã hướng thiết bị phát sóng năng lượng điện từ nhắm vào nhà ở của bà Watterson để tác động lên suy nghĩ, hành vi, cảm xúc, làm đảo lộn cuộc sống và tác động xấu đến sức khỏe của bà. Hiện chuyên gia McCann đang giúp bà Watterson triển khai quá trình chữa trị những thương tổn do vũ khí sóng điện từ gây ra.

Đồng thời, bà Watterson còn phải xuất hiện trước tòa thêm một lần nữa vào tháng 9 tới để hoàn tất vụ kiện. Việc bà Watterson thắng kiện Chính phủ Mỹ tại tòa án được đón nhận như một tín hiệu đáng mừng, tạo ra hy vọng cho hàng ngàn nạn nhân TI đang sống tại Mỹ và hàng ngàn nạn nhân khác đang sống trong nỗi tuyệt vọng mang tên công nghệ cao tại nhiều quốc gia trên thế giới.

Chính phủ Mỹ chưa từng thừa nhận việc triển khai mạng lưới vũ khí điện từ bên trong nước Mỹ và cả trên thế giới. Các thiết bị thu phát sóng điện từ của loại vũ khí này được lắp chung với các thiết bị thu phát sóng trên tháp ĐTDĐ. Các cột tháp điện thoại này được dựng lên ở hầu khắp các khu dân cư và dọc theo các tuyến xa lộ.

Ở Washington, một nhà báo đã từng đặt câu hỏi với Bộ trưởng Quốc phòng Donald Rumsfeld lúc đương nhiệm về sự tồn tại của hệ thống vũ khí điện từ này và nhận được câu trả lời ỡm ờ của ông Rumsfeld, với ngụ ý một hệ thống vũ khí như thế đã được triển khai ở nước Mỹ từ lâu.

Mãi gần 10 năm sau, những bí mật đầu tiên về loại vũ khí điện từ hiện đại bắt đầu được tiết lộ trước thế giới thông qua một chương trình tin tức trên kênh truyền hình Russia Today của Nga, phát sóng vào cuối tháng 7 vừa qua. Chương trình mang tên Deste La Sombra (Từ trong bóng tối) do nhà báo Daniel Estulin sản xuất, dựa trên cuộc phỏng vấn Magnus Olsson, một nạn nhân TI. Ông Olsson đã dành nhiều năm qua để vận động công khai hóa "tội ác" này - từ ông dùng trong chương trình truyền hình của Russia Today.

Theo chương trình trên Russia Today, công nghệ vũ khí điện từ bao gồm nhiều vấn đề liên quan đến nhau như khoa học thần kinh, điều khiển học, trí thông minh nhân tạo, chip điện tử thần kinh, sự biến đổi nhân cách con người, rồi những thứ mang tính viễn tưởng như người máy không gian, người máy địa cầu, giám sát tế bào, kiểm soát hành vi, giám sát tư tưởng...".

Chương trình thí nghiệm kiểm soát não người đã từng được CIA triển khai từ thập niên 50 của thế kỷ trước, có tên gọi là MKUltra nhằm kiểm soát, điều khiển đối tượng mục tiêu là đối thủ của nước Mỹ. Nhưng thời kỳ đó kỹ thuật còn hạn chế và việc tẩy não bằng các hóa chất độc hại, kể cả các chất ma túy như heroin, cocaine, cần sa, MDMA, morphine... phổ biến nhất là loại thuốc tẩy não có tên là LSD, nhưng không mang lại hiệu quả như mong muốn, mà ngược lại đã gây nhiều tai tiếng.

Đặc biệt, trong dự án MKUltra có một tiểu dự án mang bí số 119, là dự án nghiên cứu điện từ đầu tiên, chủ yếu nghiên cứu các tín hiệu điện tử sinh học của các cơ quan cơ thể người và sự kích hoạt hành vi bằng phương tiện điều khiển từ xa. Tiểu dự án 119 bao gồm 5 lĩnh vực nghiên cứu chính là: kỹ thuật kích hoạt hành vi con người bằng phương tiện điện tử điều khiển từ xa, các thiết bị cảm ứng điện tử sinh học, ghi nhận, phân tích và chuẩn hóa dữ liệu.

Tuy nhiên, vì nhiều lý do, dự án MKUltra đã bị xếp xó vào đầu thập niên 70 của thế kỷ trước, và toàn bộ hồ sơ của dự án đã bị Giám đốc CIA Richard Helms cho tiêu hủy vào năm 1973.

Từ những con chip siêu nhỏ đến các "viên thuốc thông minh"

Bước sang thế kỷ XXI, tham vọng "kiểm soát hành vi, tư tưởng, suy nghĩ" của con người lại trỗi dậy trong các lãnh đạo của nước Mỹ. Từ thời Tổng thống George W. Bush, chương trình vũ khí kiểm soát não được nâng cấp, hiện đại hóa bằng công nghệ mới của thế kỷ XXI. CIA lại được giao chủ trì dự án, và cơ quan này đã tài trợ cho các chương trình nghiên cứu của các trường đại học và thuê các chuyên gia hàng đầu về thần kinh học để thực hiện.

Dựa trên nền tảng công nghệ nano, người ta xây dựng các chip điện tử cảm biến cực nhỏ - kích thước chỉ vài nanomét (1 mét bằng 1 tỉ nanomét), để dễ dàng cấy vào não người mà đối tượng không hề hay biết. Ban đầu, hoạt động này được xây dựng dựa vào kỹ thuật cấy chip điện tử nhằm mục đích kiểm soát các vật cưng, vật nuôi ở trang trại và người già neo đơn không người chăm sóc. Nhưng sau đó, tiềm năng lợi ích của nó đã thu hút các "bậc thầy" về do thám, theo dõi con người quan tâm và những thí nghiệm đầu tiên đã bắt đầu được triển khai.

Chuyên gia Baird cho biết, đã một thời gian dài, hàng ngàn bậc cha mẹ ở Mỹ đã không hề hay biết con cái của họ đã bị cấy chip điện tử theo dõi khi họ đưa con cái đến các phòng khám răng, các con chip đã được cấy vào chân răng trẻ em Mỹ. Rồi những "viên thuốc thông minh" ra đời từ các nghiên cứu của các trường đại học được tán dương là thành tựu vượt bậc của công nghệ hỗ trợ y học. Nhưng đó cũng là một "công cụ" nữa bị các cơ quan tình báo của Chính phủ Mỹ bí mật lợi dụng nhằm mục đích an ninh quốc gia.

Một đối tượng TI có thể bị cấy chip bằng cách chụp thuốc mê hay chỉ đơn giản là tiêm thẳng vào máu khi trị bệnh thông thường. Sau đó, mọi hoạt động của đối tượng TI, suy nghĩ, cảm xúc, hành vi, kể cả khẩu vị ăn uống, thị hiếu, ước mơ, bản sắc cá thể của anh ta cũng đều bị giám sát, thậm chí bị điều khiển từ một máy tính đặt tại trung tâm điều khiển của CIA hoặc NSA, hoặc một cơ quan an ninh khác. Sự tự do của con người hoàn toàn biến mất.

Vũ khí điện từ khiến cho cuộc sống của các TI bị hủy hoại, sức khỏe của anh ta suy sụp, rồi nhân cách, bản sắc cá nhân của anh ta cũng bị tàn phá. Mọi giá trị đạo đức con người đều bị bỏ qua. Tất cả chỉ nhằm phục vụ cho ý muốn của "ông thầy" - kẻ chủ trì điều khiển các TI.

Những nạn nhân của loại vũ khí điện từ này sẽ sống như trong địa ngục trần gian vì tất cả mọi thứ thuộc về anh ta từ trước đến nay đều thay đổi hoàn toàn mà anh ta không hề hay biết.

Paul Baird, một chuyên gia về do thám, theo dõi công dân Mỹ, cho rằng, thường thì sự bối rối, lẫn lộn khiến cho các nạn nhân trở nên kỳ quặc, khác thường hoặc họ phản ứng bằng cách chạy ra đường la toáng lên kêu cứu trong khi nhìn họ chẳng có vẻ gì cần cứu giúp cả. Chính điều này khiến các nạn nhân bị xem là những kẻ không bình thường.

Lời kể của những "vật thí nghiệm"

Một nạn nhân tên là Sean Alexander Alizada, cư ngụ ở thành phố San Diego, bang California, đã kể lại với trang tin BIN câu chuyện mình từng bị Sở Cảnh sát Los Angeles đánh thuốc mê, cưỡng bức cấy chip điện từ vào não làm thay đổi hoàn toàn cuộc sống. Cũng như nhiều nạn nhân TI khác, phải mất khoảng 1 tháng sau hoặc lâu hơn Alizada mới phát hiện mình bị lâm vào tình trạng bị biến thành một thứ khác lạ, không phải là chính mình. Alizada kể một hôm, anh ta trở về nhà, sang nhà hàng xóm chào hỏi xã giao như anh ta thường làm.

Tuy nhiên, lần này, mọi người nhìn Alizada bằng một con mắt khác hẳn, cứ như thể anh ta vừa làm việc gì đó rất khác thường mà anh ta hoàn toàn không ý thức được. Việc này cũng nằm trong chương trình thí nghiệm nhằm nghiên cứu tác động xã hội của đối tượng. Rồi Alizada phát hiện máy vi tính cá nhân, máy tính xách tay, cổng Internet, tài khoản trên mạng xã hội của anh... đều thay đổi, chia sẻ với những đối tượng theo một quy ước rất lạ...".

Cuộc sống đã thay đổi hoàn toàn, Alizada không biết gì hết. Alizada kể, sau đó anh ta nghe những giọng nói của những người hàng xóm, nhưng có vẻ như những giọng nói đó phát ra từ chính trong tai của Alizada, vì những người hàng xóm đang ở cách xa trên 30 mét, có nhiều lớp tường ngăn cách. Điều khó hiểu nhất với Alizada chính là, tất cả những suy nghĩ, tư duy vừa thoáng qua trong đầu chỉ vài giây sau anh ta đều được nghe lại bằng những giọng nói phát ra từ chính miệng những người hàng xóm đó. Alizada nhìn thấy những người hàng xóm của mình vừa "quệt quệt" ĐTDĐ của mình vừa thảo luận những điều vừa xuất hiện trong suy nghĩ của chính Alizada.

Deporah Dupré, phóng viên của trang tin BIN phụ trách loạt phóng sự về chương trình kiểm soát não, cho biết, không chỉ có Alizada, mà nhiều nạn nhân TI khác tiếp xúc với bà đều kể một câu chuyện giống nhau đại loại như thế. Từ thời Tổng thống George W. Bush cho đến Tổng thống Barack Obama, có đến hàng người đã trở thành các TI - nạn nhân của cuộc thí nghiệm vũ khí điện từ bí mật của Chính phủ Mỹ.

Theo chuyên gia Baird, FBI và các sở cảnh sát địa phương là những đơn vị phụ trách việc săn tìm "vật thí nghiệm", thường thì danh sách vật thí nghiệm do FBI đề xuất, được chọn lựa tùy hứng, nhưng thông thường nhất họ là những "người thổi còi" (tố giác tiêu cực) trong các cơ quan nhà nước, các nhà hoạt động, nhà văn, kẻ thù của bọn tội phạm, hay thành viên các nhóm người bị gạt bên lề xã hội. Bất cứ ai có quan hệ "đúng đắn" với FBI đều có thể đề cử một hoặc nhiều cái tên cho danh sách đối tượng TI.

Baird nói với trang tin BIN rằng, ông đã nhận được khoảng 12.000 lời kêu cứu từ các nạn nhân TI. Những nạn nhân này bị các loại tra tấn như giám sát tế bào thần kinh từ xa (remote neural monitoring, còn gọi là brain rape - hãm hiếp não bộ) và thần kinh thoại (neurophone, tức giọng nói truyền trực tiếp vào trong não). Những kiểu tra tấn này thường được thực hiện bởi các toán giám sát sử dụng các máy tính mạnh kết nối qua vệ tinh quỹ đạo đồng bộ. Các toán kỹ thuật cao đó làm việc bên trong tổng hành dinh CIA ở Langley, trong cơ sở Fort Meade của NSA và các cơ sở khác của cộng đồng tình báo Mỹ.

Chủ Nhật, 25 tháng 9, 2016

Hồi giáo thành “khủng bố” từ khi nào (bài 1): từ gợi tình xem thành đe dọa



Sáng Ánh



Năm ông áo lùng thùng quấn khăn trên đầu cỡi lạc đà cười tươi. Bảy cô hở rốn đeo nịt vú lèng xèng uốn éo. Nhạc xập xình và trẻ con người lớn vỗ tay thích thú. Quần chúng ở đây là bình dân Hoa Kỳ và ai nấy đều vui như là ngày hội. Thì đây là ngày hội, Hội Chà là (Date Festival) tại Indio, một thị trấn ở phía sa mạc tại Nam California.


Tại ngày Hội Chà Là. Hình từ trang này

Indio là nơi sản xuất chà là nhiều nhất thế giới và mỗi năm tổ chức ngày hội này để quảng bá, và tất nhiên là hội chà là thì không thể thiếu múa rốn với lại lạc đà. Nhưng đây là lần tôi dự hội vào đầu thập niên 1980s. Ngày hôm nay, vũ công hở rốn thì còn có thể chấp nhận, vì rõ ràng là họ không có mang áo giấu bom người. Nhưng gặp đàn ông râu ria và quấn khăn mặc áo thụng thì mọi người tại Mỹ sẽ bỏ chạy, nhìn nghi kỵ nếu không đuổi hẳn khỏi tàu bay.

30 năm trước hay 70 năm trước, cái nhìn của Tây phương về người Ả Rập và Hồi giáo là đàn ông 4 vợ (thích nhỉ) và đàn bà nguấy mông (thích chứ). Nam của họ thì lôi cuốn và nam tính, và nữ thì hấp dẫn và đa tình. Ahmad Ben Hassan là tên của nhân vật chính của bộ phim The Sheik(1921) đưa Rudolf Valentino lên hàng “sex symbol” của thế giới, “latin lover”, người tình miền Nam. Ông phát biểu, “Người da ngăm không phải là mọi. Văn minh Ả Rập là một trong những văn minh kỳ cựu của thế giới…Người Ả Rập là người tự trọng và trí óc sắc bén”; các bà các cô khi ấy hú hí đồng tình.


Rudolf Valentino. Hình từ trang này

Suốt những thập niên này, và 100 năm về trước, hình ảnh của Ả Rập, Hồi giáo trong văn hóa bình dân là thâm cung ngàn lẻ, là đèn thần Aladin hay Alibaba. Hình ảnh này ngây ngô và sai lệch, đồi cát ẩn hiện và háng phụ nữ sóng sánh, hương trầm và thảm trải. Ở một cấp cao hơn và trí thức thì cũng chẳng khác mấy, ta nghe Rimsky Korsakov (Scheherazade) và ngắm tranh ở truồng của Ingres. Đến đời của người viết này vẫn còn vậy, một phim kích dục ở Pháp trong những năm 70 mang tựa là “Em nằm xuống cát để anh tuôn ra dầu hỏa”.


Ingres, “Odalisque với một nô lệ”

Hiện nay thì hình ảnh này đã hoàn toàn đổi khác. Vậy trong 30, 40 năm qua, việc gì đã xảy ra?

Iran: Hồi giáo là áp bức phụ nữ

Ba Tư không phải là Ả Rập nhưng cái nhìn của Tây phương (và thế giới nói rộng) về Hồi giáo đã thay đổi, bắt đầu là do những biến chuyển tại đây vào cuối thể kỷ.

Năm 1953, Mossadegh, một nhà chính trị quốc gia thế tục và ôn hòa được dân chúng bầu lên. Tân thủ tướng này đòi quốc hữu hóa và kiểm soát các công ty dầu hỏa của Anh quốc. Vua Iran là Mohammad Reza Shah chạy sang Italy lánh nạn. Anh Mỹ bèn lật đổ Mossadegh và mang nhà vua trẻ trở về.


Mohammed Mossadegh, Thủ tưởng được bầu của Iran, tại phiên tòa sau khi bị Mỹ lật. Ảnh: AFP

Ông vua này thắt chặt chế độ quân chủ độc tài trong 26 năm, với bộ máy quân đội và công an, ông đàn áp mọi chống đối, đồng thời đưa Iran lên tầm thế giới bằng cách vung vít xa hoa. Thí dụ, ông thích đọc bách khoa về vũ khí Jane’s, kiểu Việt Nam ta ngày nay thích kỷ lục Guiness. Một hôm ông triệu quần thần hỏi tại sao Tây Đức lại là quốc gia trên thế giới đứng thứ tư về số chiến xa? Tụi bay mau làm sao đi mua đủ số cho ta vượt qua!


Vua Mohammed Reza Pahlevi và hoàng hậu là Empress Farah, thứ ba từ trái sang, cùng Tổng thống Mỹ John F. Kennedy và Jacqueline Kennedy, tại Mỹ, 1962. Ảnh: Associated Press

Các phong trào thế tục quốc gia, cấp tiến, tả phái trong nước tìm mọi cách lật đổ ông vua này nhưng bất thành. 1979, một giáo sĩ lưu vong thu băng giảng đạo gửi về nước và quần chúng bình dân tôn giáo nổi lên khiến Mohamad Reza lại phải ra đi, lần này Mỹ cũng không cứu được.


Vua và Hoàng hậu Iran cùng hai con chạy sang Bahamas. Ảnh chụp tại Nassau, thủ đô Bahamas, khi họ bị báo giới vây quanh. Nguồn: Associated Press

Cách mạng Đen này hẳn là không ưa Hoa Kỳ rồi, và một số sinh viên (Vệ binh Cách mạng) chiếm tòa Đại sứ Mỹ bắt làm con tin. Đồng thời, xã hội Iran cũng thay đổi, chế độ mới muốn trở lại truyền thống tức là phụ nữ phải trùm khăn và mặc áo dài. Đây đổi ngược với thời quân chủ, khi hoàng hậu xỉa răng bằng tăm Cartier và là thành viên của Hàn lâm viện Nghệ thuật Pháp.

Quả là nữ quyền có thụt lùi tại Iran dưới chế độ giáo sĩ nhưng thụt lùi đau đớn nhất là quyền lợi kinh tế và chiến lược của Tây phương tại đây. Truyền thông nước ngoài bèn nhắm vào mặt này để đánh thần quyền, vì chẳng lẽ lại đánh nó vì nó đuổi Tây đuổi Mỹ và giành lại chủ quyền trên tài nguyên quốc gia? Hình ảnh Hồi giáo áp bức phụ nữ là từ đây, và đúng đắn, chí ít là dưới chế độ của các giáo sĩ Iran.


Cách mạng Hồi giáo ở Iran hồi 1979. Người dân mang ảnh của giáo chủ Khomeini

Nhưng, khoan! Đồng minh chí thiết của Tây phương trong khu vực là Saudi Arabia thì nữ quyền không bao giờ được truyền thông nhắc đến, miễn nó cứ làm tay sai dầu hỏa cho mình thì việc gì cũng OK. Nếu so sánh thì số phận phụ nữ tại Iran còn đỡ tủi hơn nhiều số phận của phụ nữ Saudi hay các quốc gia vùng Vịnh. Họ được lao động, được lái xe, được di chuyển, được ứng cử, được đi bầu, không che mặt và nhiều lúc quấn khăn đội đầu trễ nải rất xinh.


Các mẫu trang phục của Farnaz Abdoli, nhà thiết kế hàng đầu của Iran. Hình từ trang này

Tuy vậy nhưng đối với truyền thông Tây phương, Iran vẫn là nơi tệ nhất, đàn áp nữ quyền, hay dân chủ, nhân quyền, chỉ vì không phe tao.

(Còn tiếp)

Chỉ số phát triển con người & Chỉ số thất bại của quốc gia






Trong quá trình tòan cầu hóa và hội nhập ngày càng sâu rộng hiện nay nhân lực lao động quốc gia trở thành thương phẩm quốc tế. Các quốc gia có xu hướng hợp tác và nhất thể hóa vào các tổ chức kinh tế chính trị để tăng cường việc trao đổi thương mại, sử dụng hiệu quả tiềm lực quốc gia và nâng cao vị thế chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia của mình.

Trong nửa sau thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 ngoài Liên Hiệp Quốc tổ chức hợp tác chính trị toàn cầu lớn nhất chúng ta đã chứng kiến sự ra đời của hàng loạt tổ chức quốc tế và khu vực từ những tổ chức chính trị có tính chất Câu lạc bộ tham vấn toàn cầu như G7 và G20 hay vực như APEC đến các tổ chức hợp tác kinh tế chính trị từng phần và “lỏng lẻo” như ASEAN hay toàn diện và “chặt chẽ” như EU.
Sắp tớiđây là TPP (Trans-Pacific Partnership) và TATIP (Transatlantic Trade and Investment Partnership).Toàn cầu hóa và hội nhập là xu hướng không thể đảo ngược.
Việc xác định trình độ phát triển và khả năng phát triển bền vững của một quốc gia là rất quan trọng để đánh giá tổng hợp “trọng lượng trong thực tế tương tác” của một quốc gia khi tham gia vào tổ chức quốc tế.
Trọng lượng thực tế trong tương tác của một quốc gia bao gồm một chuỗi các chỉ số được thiết lập một cách khoa học, đượ c giới khoa học và kinh tế chính trị trên toàn thế giới thừa nhận và sử dụng để xây dựng hoặc điều chỉnh các chính sách vĩ mô trong hoạt động một quốc gia hay cuả các tổ chức quốc tế.
Không phải lúc nào các chỉ số này cũng được thừa nhận dễ dàng. Chẳng hạn Chỉ số mức độ cảm nhận tham nhũng (Corruption Perceptions Index – CPI) của Tổ chức Minh bạch quốc tế bị khá nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam nghi ngờ tính khách quan.
Vơí thời gian uy tín của Tổ chức Minh bạch quốc tế được nâng cao và CPI được thừa nhận rộng rãi, được các nhà chính trị sử dụng một cách biểu cảm và đôi khi khá tùy tiện.
Chẳng hạn chúng ta còn nhớ phát biểu của một quan chức cao cấp rằng “tình trạng tham nhũng ở Việt Nam trong những năm vừa qua là ổn định” . Ông này khẳng định như vậy chỉ trên một cơ sở duy nhất: chỉ số CPI và thứ hạng của Việt Nam trong Bảng xếp hạng toàn cầu của Tổ chức Minh bạch quốc tế gần như không thay đổi.
Mặt khác việc tìm hiểu các chỉ số này thực sự cần thiết vì cho phép chúng ta biết khá chính xác “Who is who ?” và giúp chúng ta nhìn nhận khách quan và toàn diện hơn một sự việc.
Chẳng hạn các Bảng xếp hạng của Time Higher Education và QS giúp chúng ta hiểu đúng tại sao ở Việt Nam hiện có hơn 200.000 thạc sĩ và cử nhân chưa có việc làm mà cũng không thể “xuất khẩu” đi đâu được như có người đề nghị.
Việc tìm hiểu một số chỉ số khác lại có thể giúp chúng ta hiểu tại sao nước này được mời mà nước khác chưa được mời vào tổ chức quốc tế nào đó. Cũng như thái đối xử của cộng đồng một tổ chức hợp tác quốc tế đối với từng quốc gia trong quá trình hoạt động về sau của tổ chức quốc tế này.
Tôi xin phép giới thiệu hai chỉ số thuộc loại này. Hai chỉ số cơ bản nhất xác định trình độ phát triển và khả năng phát triển bền vững của một quốc gia.
Bài viết này tổng hợp tư liệu từ một số nguồn. Tôi hệ thống lại để chúng ta cùng tìm hiểu.
Thứ nhất là Chỉ số phát triển con người (Human Development Index – HDI là chỉ số tổng hợp của tuổi thọ trung bình, tỷ lệ biết chữ, giáo dục, các tiêu chuẩn khác như phúc lợi trẻ em và một số nhân tố khác trong cuộc sống các quốc gia trên thế giới.
HDI giúp tạo ra một cái nhìn tổng quát sự phát triển của một quốc gia. Đây cũng là chỉ số xác định sự ảnh hưởng của các chính sách kinh tế đến chất lượng cuộc sống. Nghĩa là phản ánh cả chất lượng cuả sự phát triển.
HDI được đề xuất và phát triển bắt đầu từ năm 1990 bởi nhà kinh tế người Pakistan Manbub ul Haq và nhà kinh tế Ấn Độ Amartya Sen (giải Nobel kinh tế năm 1998).
Theo quan điểm của các họ c giả này mục tiêu của việc phát triển con người là nhằm mở rộng cơ hội lựa chọn cho người dân và tạ điều kiện để họ có thể thực hiện sự lựa chọn đó một cách tự do.
Những lựa chọn quan trọng và cơ bản nhất là được sống lâu và khỏe mạnh, được học hành và có được một cuộc sống ấm no. Từ đó họ đã xác định năm đặc trưng của quan điểm phát triển con người là:
Con người là trung tâm của sự phát triển.
Người dân vừa là phương tiện vừa là mục tiêu của phát triển.
Việc nâng cao vị thế của người dân (bao hàm cả sự hưởng thụ và cống hiến).
Chú trọng việc tạo lập sự bình đẳng cho mọi người dân về mọi mặt: tôn giáo, dân tộc, giới tính, quốc tịch…
Tạo cơ hội lựa chọn tốt nhất cho người dân về: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa…
HDI là một thước đo tổng quát về phát triển con người. HDI cho phép đo thành tựu trung bình của một quốc gia theo ba tiêu chí sau:
Sức khỏe: Một cuộc sống dài lâu và khỏe mạnh, đo bằng tuổi thọ trung bình.
Tri thức: Được đo bằng tỉ lệ số người lớn biết chữ và tỉ lệ nhập học các cấp giáo dục (tiểu học, trung học, đại học).
Thu nhập: Mức sống đo bằng GDP bình quân đầu người.
HDI được tính theo thang điểm từ 0-1.0. HDI đã được các tổ chức của Liên Hiệp Quốc thừa nhận là một chỉ số tương đối khái quát để đánh giá mức độ phát triển của một quốc gia.
Hàng năm Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) đều công bố xếp hạng toàn cầu các quốc gia theo chỉ số HDI. Các quốc gia được xếp hạng từ cao xuống thấp theo điểm số.
Cách phân loại quốc gia theo chỉ số HDI được UNDP công bố vào năm 2011 theo chỉ số HDI như sau: Điểm trên 0.8 là rất cao, từ 0,7-0,8 là cao, từ 0,52-0,7 là TB, từ 0,29-0,51 là thấp và dưới 0,29 là rất thấp.
Từ Bảng xếp hạng theo cách này ta có vài số liệu để tham khảo cho các nước châu Á:
Quốc gia tốt nhất là Nhật Bản xếp thứ 12 (HDI 0,901 điểm); Hồng Kông 13 (HDI 0,898 điểm); Hàn Quốc – 15 (HDI 0,897 điểm); Israel -17 (HDI 0,888 điểm); Singapore -26 (HDI 0,866 điểm); UAE (Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất) -30 (HDI 0,846 điểm); Qatar -37 (HDI 0,831 điểm); Malaysia -61 (HDI 0,761); Kuwait -63 (HDI 0,76; Trung Quốc -101 (HDI 0,687); Thailand -103 (HDI 0,682); Mông Cổ -110 (HDI 0,653); Philippines -112 (HDI 0,644); Indonesia – 124 (HDI 0,617); Việt Nam- 128 (HDI 0,593); Ấn Độ -134 (HDI 0,547); Campuchia và Lào-138,139 (HDI 0,522); Pakistan-145 (HDI 0,504); Bangladesh-146 (HDI 0,500);Myanmar-149 (HDI 0,483).


HDI của châu Á. Ảnh: Internet

Rõ ràng ngoài các yếu tố về giáo dục, y tế, thu nhập thì tham nhũng có ảnh hưởng trực tiếp đến HDI. Dễ dàng nhận thấy liên hệ này qua Xếp hạngmức độ cảm nhận tham nhũng (Corruption Perceptions Index – CPI) của Tổ chức Minh bạch quốc tế năm 2011 cho các nước châu Á có HDI cao nhất :
Singapore – 5 (CPI 92 điểm); Hồng Kông -12 (CPI 84 điểm); Nhật Bản – 13 (CPI 80 điểm); Qatar – 22 (CPI 72 điểm); UAE (Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất) – 28 (CPI 68 điểm); Israel – 36 (CPI 58 điểm); Hàn Quốc – 43 (CPI 54 điểm); Malaysia – 60 (CPI 43 điểm).
Amartya Sen là người châu Á đầu tiên nhận giải Nobel kinh tế. Có thể nói trong số tất cả các nhà kinh tế nổi tiếng thế giới hiện nay Amartya Sen đại diện chân chính nhất của các nước chậm phát triển nghèo khổ.
Amartya Sen cũng là người đầu tiên phát hiện ra mối liên hệ giữa nghèo đói và việc thiếu tự do dân chủ. Nhiều nước có thể chế độc tài trong tình trạng nghèo đói. Ngược lại, phần lớn các nước dân chủ đều là những nước giầu có.
Amartya Sen sau khi nghiên cứu quan hệ giữa nạn nghèo đói và mức độ dân chủ đã đưa ra một lời tuyên bố nổi tiếng: “Không bao giờ từng có một nạn đói nào đáng kể xẩy ra ở một nước độc lập, dân chủ và có tự do báo chí. Nạn đói chỉ xẩy ra ở những nước độc tài hay bị chiếm đóng”.
Ông là tác giả của cuốn sách nổi tiếng ”Development as Freedom” (“Phát triển là Tự do”). Trong đó, Amarrtya Sen khẳng định: tự do vừa là mục tiêu tối hậu, vừa là cứu cánh để phát triển kinh tế.
Theo ông, những mục tiêu mà các nhà kinh tế thường cho là tối hậu: tăng trưởng kinh tế, tiến bộ công nghệ, ngay cả hiện đại hóa, phải được đánh giá bởi mức độ đóng góp của chúng vào tự do của con người.
Tương tự như nghèo đói, tham nhũng thường lan rộng ở những nước thiếu tự do dân chủ. Hậu quả của tham nhũng là người dân không có được sự chọn lựa tốt nhất giá cả hàng hóa dịch vụ công, tư.
Tham nhũng làm tăng mọi chi phí quản lý về phía công quyền và trong xã hội, hạn chế sự sang tạo, và nuôi dưỡng tội phạm.
Tham nhũng làm giảm đầu tư trong ngoài nước, giảm phát triển. Quan trọng nhất là tham nhũng tạo điều kiện cho tư bản than hữu (cronyism) phát triển. Làm tăng chênh lệch giàu nghèo và căng thẳng trong xã hội.
Kết quả là làm mất động lực phấn đấu của thế hệ trẻ, của tài năng. Hạn chế sự phát triển của công dân dẫn đến việc làm giảm khả năng cạnh tranh của quốc gia. Tức là tiền đề cho sự thất bại của quốc gia.
Xin phép chuyến sang thảo luận chỉ số thứ hai. Chỉ số thất bại quốc gia. Chỉ số thất bại hay còn gọi là chỉ số FSI (Failed States Index) một chỉ số quan trọng thể hiện khả năng phát triển và phát triển bền vững của một quốc gia.


FSI Quốc tế. Ảnh: Internet

Từ lâu các nhà triết học đã cố gắng tìm hiểu nguyên nhân phát triển thành công của các quốc gia. Trong thế kỷ 20 các nhà khoa học xã hội dần đã đi đến kết luận khá thống nhất là văn hóa chính là yếu tố quyết định sự phát triển của một quốc gia.
Một trong những triết gia đầu tiên trong lĩnh vực này Max Weber (1864-1920) người Đức. Max Weber coi đạo đức Thiên chúa Tin lành là nền tảng tinh thần của Chủ nghĩa tư bản (CNTB) châu Âu ở các nước tư bản đầu tiên.
Max Weber cho rằng nền văn hóa Thiên chúa Catholique La Mã là kém thích hợp hơn cho phát triển CNTB và Thiên chúa Orthodox (Chính thống) càng kém thích hợp hơn nữa cho phát triển tư bản.
Riêng đối với văn hóa Khổng Giáo, Max Weberc có cái nhìn rất bi quan cho đó là một nền văn hóa hoàn toàn không thích hợp để phát triển CNTB.
Việc các quốc gia chịu ảnh hưởng nhiều của Khổng Giáo như Nhật, Hàn Quốc , Đài Loan, Singapore phát triển thành công cuối thế kỷ 20 làm các học giả phải tìm hiểu sâu hơn về việc thành công và đặc biệt sự thất bại của các quốc gia trong sự nghiệp phát triển.
Những học giả hàng đầu về lý thuyết thất bại của các quốc gia là Jared Diamon, Daron Acemoglu và James Robinson. Họ bắt đầu tìm cách lý giải việc thất bại/thành công sự phát triển tư bản của một quốc gia.
Các tác giả này đã trình bày quan điểm của mình trong cuốn sách nổi tiếng “Tai sao các quốc gia thất bại” (Why nations fail).
Tuy nhiên việc tìm cách định lượng khả năng phát triển thành công/thất bại của một quốc gia vẫn là môt câu hỏi bỏ ngỏ.
Câu hỏi này chỉ mới được giải đáp rất gần đây. Đã xuất hiện môt chỉ số mới đinh lượng sự thành bại của quốc gia.
Chỉ số thất bại hay còn gọi là chỉ số FSI (Failed States Index) là một chỉ số do Quỹ vì Hòa Bình (Fund for Peace) một Think tank độc lập với tạp chí Foreign Policy sáng lập ra.
Quĩ này đã tổng hợp liên tục 90.000 nguồn dữ liệu định lượng khác nhau (được công khai từ đầu năm đến cuối năm) của 177 quốc gia trên thế giới, để gộp thành 12 thang điểm đo từ mức độ phát triển kinh tế cho đến chỉ số về sự công bằng trong xã hội. Sau đó, tạp chí Foreign Policy công bố Bảng Xếp hạng các quốc gia được khảo sát theo chỉ số FSI bắt đầu từ 2005.
Việc Quỹ Vì hoà bình đưa ra khái niệm chỉ số FSI là cố gắng đầu tiên dùng phương pháp định lượng để nhận dạng các quốc gia thất bại và hoạch định các chính sách thích hợp với các quốc gia này.
Có 12 chỉ tiêu (Indicator) đánh giá, gồm 4 chỉ tiêu xã hội, 2 chỉ tiêu kinh tế, 6 chỉ tiêu chính trị. Mỗi chỉ tiêu được đánh giá theo thang điểm 10; điểm càng cao tức là càng thất bại, điểm càng thấp thì càng thành công. Cộng điểm của 12 chỉ tiêu này lại được tổng số điểm đánh giá mức độ thất bại, tức FSI của quốc gia đó.
Chỉ tiêu xã hội gồm: (I-1) Áp lực gia tăng dân số; (I-2) Sự di chuyển lớn dân tị nạn trong nội bộ quốc gia tạo ra nguy hiểm nhân đạo; (I-3) Viêc tồn tại các nhóm thù địch nhau hoặc các nhóm cuồng tưởng (paranoia); (I-4) Dân chúng di cư ra khỏi đất nước vì lý do kinh tế, chính trị.
Chỉ tiêu kinh tế gồm: (I-5) Trình độ phát triển kinh tế không đồng đều theo các nhóm dân hay là phân hóa giàu nghèo; (I-6) Suy thoái kinh tế nặng.
Chỉ tiêu chính trị gồm: (I-7) Mức độ tham nhũng của chính quyền; (I-8) Tình trạng suy thoái của các dịch vụ công; (I-9) Sự trì hoãn hoặc độc đoán trong quá trình chấp hành luật pháp và vi phạm nhân quyền một cách phổ biến; (I-10) Sự lạm quy ền các cơ quan an ninh (nhà nước bên trong nhà nước); (I-11) Tình trạng bỏ ra nước ngoài của những người tài; (I-12) Sự can thiệp của các nước ngoài hoặc thế lực chính trị bên ngoài.
Các quốc gia phân làm 3 loại tùy theo tổng số điểm FSI:
loại Báo động (Alert) có FSI từ 90 điểm trở lên, là các nước thất bại nhất, kém ổn định nhất;
loại Cảnh giác (Warning) có FSI từ 60 đến dưới 90 điểm;
loại Vừa phải (Moderate) – 30 đến dưới 60 điểm;
loại Bền vững (Sustainable) – dưới 30 điểm là các nước thành công, ổn định nhất.
Nghĩa là tổng số điểm FSI càng nhỏ thì càng thành công và ngược lại. 60 quốc gia xếp hạng từ 1-60 có thể coi là các quốc gia thất bại.
Dư luận một số nước châu Phi phản ứng mạnh khi thấy nước mình bị xếp hạng thấp, cho rằng đây chỉ là cách đánh giá theo quan điểm của phương Tây, còn đa số các nước không bình luận.
Trung Quốc năm 2009 bị xếp hạng thuộc nhóm quốc gia thất bại nhưng cũng không có phản ứng gì.Vì vậy cách đánh giá này được cộng đồng quốc tế coi là khá khách quan.
Tạp chí Foreign Policy số tháng 7-8/2010 đã công bố kết quả khảo sát các quốc gia thất bại năm 2010 (Wiki) như sau:
Somalia 3 năm liền đứng đầu bảng xếp hạng quốc gia thất bại với tổng số điểm FSI là 114,3..Tiếp sau là Chad, Sudan, Zimbabwe, Cộng Hòa Congo, Afghanistan, Iraq, Cộng hòa Trung Phi, Guinea, Pakistan, Haiti, Bờ Biển Ngà (Ivory Coast), Kenya, Nigeria, Yemen, Myanmar, Ethiopia, Đông Timor, Bắc Triều Tiên, Niger thuộc số 20 quốc gia thất bại cao nhất, loại Báo động.
Hầu hết những quốc gia này đều nghèo đói, rối loạn, chính trị độc tài chuyên chế, nhiều người dân vì khổ cực phải bỏ nước ra đi.
Các quốc gia xếp ở cuối bảng (số thứ tự lớn nhất) là các quốc gia ổn định nhất, tốt nhất. Có 13 quốc gia thuộc loại Phát triển Bền vững gồm: Na Uy thứ 177 ( FSI 18,7 điểm). Sau đó là Phần Lan, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Ai-len, Đan Mạch, New Zeland, Áo, Úc, Lu-xem-bua, Hà Lan, Ca-na-đa và Irelandthứ 165 (FSI 29,8 điểm).
Ở châu Á, quốc gia tốt nhất là Nhật Bản xếp thứ 164 (FSI 31,3 điểm); Singapore -160 (FSI 34,8 điểm); Hàn Quốc – 153 (FSI 41,3); Qatar -139 (FSI 51,8); UAE -137 (FSI 52,4); Mông Cổ -129 (FSI 60,1); Kuwait -125 (FSI 61,5)….Malaysia -111 (FSI 69,2); Việt Nam- 95 (FSI 76,6); Thailand -81 (FSI 78,8); Ấn Độ -79 (FSI 79,2); TQ -62 (FSI 83); Indonesia 61 (FSI 83,1; Israel-54 (FSI 84,6); Philippines -51 (FSI 87,1); Campuchia và Lào-40,41 (FSI 88,7); Myanmar-16 (FSI 99,4).
Xếp hạng của các nước thành viên Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc và G7 như sau: tốt nhất là Anh – thứ 161 (FSI 41,8), Pháp – 159 (FSI 34,9), Mỹ – 158 (FSI 35,3), Nga – 80 (FSI 79), Trung Quốc – 62 (FSI 83). Nhật Bản – 164 (FSI 31,3) và Đức -157 (FSI 35,4).
Tại sao một nước có nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới như Trung Quốc lại bị xếp vào nhóm quốc gia thất bại? Đó là vì Trung Quốc có chỉ số FSI quá lớn về các chỉ tiêu sau: – sức ép dân số (chỉ số Demographic Presures bằng 9, do có nhiều ngườ i Trung Quốc di cư ra nước ngoài), – phân hóa giàu nghèo quá chênh lệch (chỉ số phát triển không đồng đều Uneven Development bằng 9,2), – tồn tại vấn đề nhân quyền (chỉ số Human Rights bằng 8,9).
Trường hợp Việt Nam các chỉ tiêu từ I-1 đến I-12 của Việt Nam có số điểm như sau: 6,9; 5,2; 5,3; 5,9; 5,9; 6,6; 7,3; 6,4; 7,3; 6,0; 7,0; 6,2; Tổng cộng được 76,6 điểm, vẫn thuộc vào loại quốc gia cần được cảnh giác.
Có 3 chỉ tiêu cao từ 7,0 trở lên, đó là chỉ tiêu tham nhũng có số điểm là 7,3; chỉ tiêu nhân quyền – 7,3; chỉ tiêu thất thoát nhân tài -7,0.
Nhìn vào Bảng phong thần về chỉ số FSI. Tôi xin phép lưu ý hai trường hợp.
Thứ nhất là Trung Quốc. Việc Trung Quốc dù kinh tế phát triển rất nhanh vẫn bị xếp vào nhóm các quốc gia thất bại chính là cái giá phải trả cho việc phát triển “nóng” bất chấp sự hủy hại môi trường tự nhiên và môi trường xã hôi. Đó cũng giá phải trả cho sự bất tương xứng giữa sức sản xuất và quan hệ sản xuất (thể chế).
Thứ bậc của Trung Quốc trong Bảng xếp hạng theo FSI giúp chúng ta hiểu tại sao các bài viết cảnh báo về khả năng sụp đổ, “hạ cánh cứng” của kinh tế Trung Quốc xuất hiện thường xuyên.
Điều này cũng giúp chúng ta hiểu tại sao các tổ chức kinh tế thế giới không “mặn mời” Trung Quốc tham gia và ông Obama nhất định không chấp nhận “trật tự kinh tế quốc tế theo kiểu Trung Quốc”.
Thứ hai là trường hợp Ethiopia. Ethiopia được coi là một trong những cái nôi của loài người. Ethiopia cũng là quê hương của Nữ hoàng Saba, người tình của Hoàng đế Solomon huyền thoại trong Kinh Thánh.
Сuố i thế kỷ 1 TCN, trên bờ Hồng Hải châu Phi xuất hiện vương quốc Aksum của dân tộc Sabae (tiếng Do Thái cổ là Sheba). Quốc gia do dòng họ Solomon cai quản, họ gọi mình là dòng dõi trực tiếp của Thánh đế Solomon và hoàng hậu Saba (Sheba).
Kitô giáo trở thành quố c giáo của vương quốc Aksum vào thế kỷ thứ 4 dưới thời vua Ezana khiến Ethopia là nơi thứ 3 trên thế giới công nhận Kitô giáo là quốc giáo. Chỉ sau Armenia và Gruzia.
Bên cạnh La Mã, Trung Quốc và Ba Tư, Đế quốc Aksum của Ethiopia được xem là một trong 4 cường quốc lớn nhất thế giới vào thế kỷ thứ 3.
Trong suốt thời kỳ Tranh giành thuộc địa ở châu Phi, Ethiopia là quốc gia châu Phi duy nhất bên cạnh Liberia giữ vững được chủ quyền là một quốc gia độc lập. Đồng thời là một trong 4 thành viên châu Phi thuộc Hội Quốc Liên (1936). Sau một giai đoạn ngắn bị người Ý chiếm đóng, Ethiopia tự giải phóng (có Anh giúp) và trở thành thành viên sáng lập của Liên hiệp quốc.
Tóm lại Ethiopia là một dân tộc kiêu hãnh có một quá khứ huy hoàng và từng là niềm tự hào của châu Phi.
Người Ethiopia đã thất bại vì “ngủ quên” trên vinh quang của quá khứ. Có thể kể thêm trường hợp Hy Lạp.
Xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập là không thể đảo ngược. Mỗi quốc gia trong ván cờ toàn cầu hóa cần thường xuyên theo dõi, cần biết rõ một cách định lượng “trọng lượng thực tế trong tương tác” – chỉ số sức khỏe của mình so sánh với các quốc gia khác để tìm cách khắc phục điều chỉnh.
Chỉ có ứng xử như vậy quốc gia mới mong được mời tham dự vào cuộc thi đấu toàn cầu không có giải lao và điểm dừng.
Chỉ có như vậy mới tránh được nguy cơ bị đẩy ra chầu rìa hay xuống sân sau trong tiến trình

Там Чан Конг – TamHmong

Thứ Bảy, 24 tháng 9, 2016

Phỏng Vấn GS. Michel Chossudovsky Video Về GH. Francis và Cuộc Chiến Bẩn Thỉu





Global Research TV (GRTV)



Video Về GH. Francis và Cuộc Chiến Bẩn Thỉu – Phỏng Vấn GS. Michel Chossudovsky Trên GRTV (Phát hình ngày 19 tháng 3 năm 2013)



Lời dẫn của SH: Chuyện xảy ra chỉ một tuần sau khi Vatican bầu Jorge Mario Bergoglio, Tổng Giám Mục (TGM) Ca-tô xứ Argentina, làm Giáo hoàng thứ 266, sau GH Benedict XVI. Các nhà nghiên cứu như Giáo sư Michel Chossudovsky của Trung Tâm Nghiên Cứu Toàn Cầu chỉ ra, trong quá khứ Bergoglio đã dính líu đến những tội ác chống lại loài người vào giai đoạn đất nước Argentina rơi vào "cuộc chiến bẩn thỉu" (dirty war) từ cuộc đảo chánh của giới quân phiệt 1976 - 1983. (xin đọc phần tóm lược từ Bách khoa toàn thư mở Wikipedia kèm theo).

Đây là cuộc phỏng vấn GS Michel Chossudovsky, dạy môn Kinh tế học tại trường ĐH Ottawa, Canada và là chủ tịch của Trung Tâm Nghiên Cứu Toàn Cầu, do nhà bình luận James Corbett thực hiện cho GRTV (Global Research TV) và được phát hình ngày 19 tháng 3 năm 2013.

Trong cuộc phỏng vấn, GS Chossudovsky lúc bấy giờ đang có mặt ở Buenos Aires nhấn mạnh đến các cuộc tham vấn mật thiết giữa giới quân phiệt đảo chánh và TGM Jorge Mario Bergoglio trước khi tiến hành các cuộc ám sát và thủ tiêu hàng chục ngàn người đối lập trong suốt 7 năm, và Jorge Mario Bergoglio (bây giờ là GH Francis) luôn ủng hộ giới quân phiệt độc tài do Tướng Jorge Rafael Videla dẫn đầu.

Điều này làm chúng ta nhớ đến bản chất tàn ác dã man của Vatican trong suốt lịch sử nhân loại kể từ khi cái tổ chức man rợ xảo trá này được thành lập; bàn tay của các GH luôn đẫm máu dân lành và Vatican luôn sát cánh với bọn bạo quyến độc tài. Lịch sử gần đây cho thấy là chúng đã kết bè đảng với Đức quốc xã Nazi trong các cuộc tàn sát

- ở Croatia (xin đọc “The Vatican Role in the Ustasha Genocide in the Independent State of Croatia” http://serbianna.com/analysis/archives/1182) và

- ở Rwanda (xin đọc “The Catholic church must apologize for its role in Rwanda's genocide” https://www.theguardian.com/commentisfree/2014/ ... -rwanda-genocide-vatican)



https://www.youtube.com/watch?v=Lu0wosZyb5U

Phụ chú:

Cuộc Chiến bẩn thỉu (Dirty War):

Trích từ Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Cuộc Chiến bẩn thỉu cũng gọi là Quá Trình Tái Cơ Cấu Quốc Gia (tiếng Tây Ban Nha: Proceso de Reorganización Nacional or El Proceso) (Dirty War) đề cập đến phong trào bạo lực do nhà nước bảo trợ chống lại công dân Argentina từ khoảng năm 1976-1983 thực hiện chủ yếu bởi chính phủ quân sự của Jorge Rafael Videla (một số nguồn cho là bắt đầu từ năm 1969), trong đó quân đội và lực lượng an ninh và các nhóm bán vũ trang cánh hữu trong Liên minh chống cộng Argentina săn lùng và giết chết các du kích cánh tả, những người bất đồng chính kiến, và bất cứ ai bị cho là có cảm tình với chủ nghĩa xã hội. Tổng số nạn nhân của bạo lực là 7.158 người[1][2][3][4][5]-30.000 nhà hoạt động cánh tả và các chiến binh, bao gồm cả công đoàn viên, sinh viên, nhà báo và những người du kích Marxist và Peronist[6] và mạng lưới hỗ trợ của họ trong Montoneros tin là 150.000 -250.000 người và 60.000 người trong hệ thống ERP, cũng như các cảm tình viên bị cáo buộc[7]. Các số liệu chính thức của biến mất được báo cáo là 13.000 người[8]. Con số 10.000 người "biến mất" là du kích của Montoneros (MPM) và Quân đội Nhân dân Cách mạng Marxist[9][10][11].

Bắt đầu từ năm 1976, đợt thanh trừng được lãnh đạo bởi Videla cho đến năm 1981, và sau đó bởi Roberto Viola và Leopoldo Galtieri, đã chịu trách nhiệm về vụ bắt giữ bất hợp pháp, tra tấn, giết chết hoặc mất tích buộc hàng ngàn người, chủ yếu là công đoàn viên, sinh viên và các nhà hoạt động. Chế độ độc tài của Videla gọi đợt khủng bố của mình là "Quá Trình Tái Cơ Cấu Quốc Gia".

Lên đến 30.000 người đã bị mất tích trong thời gian này. Lực lượng an ninh Argentina và quân đội cộng tác (tay trong tay) với chế độ độc tài khác ở Nam Mỹ trong Chiến dịch Condor. Một tòa án Argentina sau đó đã lên án tội ác của chính phủ như là tội ác chống lại loài người và tội diệt chủng.



Chú thích:

1^ Marguerite Guzmán Bouvard, Revolutionizing Motherhood: The Mothers of the Plaza De Mayo, p. 22, Rowman & Littlefield, 1994

2^ "Argentina's Guerrillas Still Intent On Socialism", Sarasota Herald-Tribune, ngày 7 tháng 3 năm 1976

3^ Hablan de 30.000 desaparecidos y saben que es falso

4^ Videla admitió la muerte y desaparición de "7 u 8 mil personas"

5^ Fernández Meijide calificó de "mentira" la cifra de 30 mil desaparecidos

6^ Argentina’s Dirty War. Guy Gugliotta.

7^ "Orphaned in Argentina's dirty war, man is torn between two families", The Washington Post, ngày 11 tháng 2 năm 2010

8^ Una duda histórica: no se sabe cuántos son los desaparecidos

9^ "El ex líder de los Montoneros entona un «mea culpa» parcial de su pasado", El Mundo, ngày 4 tháng 5 năm 1995

10^ A 32 años de la caída en combate de Mario Roberto Santucho y la Dirección Histórica del PRT-ERP. Cedema.org.

11^ ''Determinants Of Gross Human Rights Violations By State And State-Sponsored Actors In Brazil, Uruguay, Chile, And Argentina (1960–1990)', Wolfgang S. Heinz & Hugo Frühling, p. 626, Springer, 1999, Google Books.

VT/HA



Phụ bản của SH:

"Giáo Hoàng Francis" bị gắn chặt với cuộc tranh luận về "cuộc chiến tranh bẩn thỉu" ở Argentina

http://community.vietfun.com/showthread.php?t=879042

By Michael Warren / Associated Press



BUENOS AIRES, Argentina - Cuộc tranh cãi rằng Jorge Mario Bergoglio (Bây giờ là giáo hoàng Francis), giống như hầu hết các người Argentina khác, không công khai đối đầu với chính quyền quân sự 1976-1983 đã bắt cóc và giết chết hàng ngàn người trong một "cuộc chiến bẩn" để loại bỏ các đối thủ cánh tả.

Tuy nhiên, các nhà hoạt động nhân quyền có quan điểm khác nhau về trách nhiệm cá nhân Giáo Hoàng Francis trong lịch sử đen tối của giáo hội công giáo Argentina đã hỗ trợ chế độ độc tài sát nhân.

Người viết tiểu sử giáo hoàng được ủy quyền, Sergio Rubin, lập luận rằng đây là một sự thất bại của Giáo Hội Công giáo La Mã nói chung, và thật không công bằng khi dán nhãn hiệu đó cho Bergoglio, lúc đó chỉ là một nhà lãnh đạo 30 tuổi -một linh mục dòng Tên của Argentina, với những cảm giác tội lỗi tập thể mà nhiều người Argentina cùng thế hệ ông ta vẫn còn vật lộn với.

"Theo cách nào đó nhiều người Argentina đã kết thúc là kẻ đồng lõa," tại một thời điểm khi bất cứ người nào công khai đều có thể là mục tiêu, Rubin nhớ lại trong một cuộc phỏng vấn với Associated Press ngay trước khi cuộc họp kín bầu Giáo hoàng.

Một số người hàng đầu hoạt động nhân quyền ở Argentina đồng ý rằng Bergoglio, bây giờ 76, không xứng đáng được gộp chung lại với những lãnh đạo giáo hội khác, những người đã liên kết chặt chẽ với chế độ độc tài.

"Có lẽ anh ta đã không có sự can đảm của các linh mục khác, nhưng ông không bao giờ hợp tác với chế độ độc tài, Adolfo Perez Esquivel, người đoạt giải Nobel Hòa bình năm 1980 cung cấp tài liệu về tội ác của chính quyền quân sự, cho biết hôm thứ Năm. Bergoglio không đồng lõa với chế độ độc tài. Ông không thể bị cáo buộc", Perez Esquivel nói với Đài phát thanh de la Red ở Buenos Aires.

Nhưng những người khác nói Bergoglio được thăng chức trong giáo hội công giáo Argentina, kể từ sau đó đã đưa anh ta ở nhiều vị trí quyền lực mà ông ta có thể làm nhiều hơn để chuộc lỗi cho những tội lỗi của các quan chức Công giáo đã tích cực âm mưu với các nhà độc tài. Một số linh mục, ngay cả làm việc bên trong các trung tâm tra tấn và ban phước cho những người làm việc giết hại.

Và bây giờ mà Argentina đang tích cực đưa những người thuộc chế độ độc tài cũ ra xét xử vi phạm nhân quyền, họ nói anh ấy đã quan tâm nhiều hơn về việc giữ gìn bộ mặt của giáo hội hơn là cung cấp bằng chứng cho thấy có thể dẫn đến sự tin tưởng.

"Có vấn đề đạo đức giả ở đây về hành vi của giáo hội nói chung, và Bergoglio nói riêng," Estela de la Cuadra nói, có những gia đình bị mất năm thành viên trong những năm chính quyền quân phiệt và các bà mẹ đó cũng là đồng sáng lập tổ chức Grandmothers (Bà Nội Ngoại) nhóm Plaza de Mayo để tìm kiếm người mất tích. "Bây giờ có đủ các phiên tòa xét xử tội phạm nhưng Bergoglio một cách hệ thống đã từ chối để hỗ trợ họ."

Bergoglio đã hai lần sử dụng quyền của mình theo quy định của pháp luật Argentina để từ chối xuất hiện tại tòa án mở trong các xét xử liên quan đến tra tấn và giết người trong trường Cơ khí Hải quân kinh khiếp và trộm cắp trẻ sơ sinh của các tù nhân. Khi cuối cùng ông làm chứng trong năm 2010, câu trả lời của ông đã tránh né mọi chuyện, luật sư nhân quyền Myriam Bregman nói với AP.

Lời khai riêng của Bergoglio chứng tỏ viên chức nhà thờ biết rất sớm rằng chính quyền đã tra tấn và giết chết các công dân của mình nhưng giáo hội vẫn công khai ủng hộ các nhà độc tài, bà nói. "Chế độ độc tài không thể hoạt động mạnh theo cách này nếu không có sự hỗ trợ quan trọng của giáo hội công giáo," bà nói.

Rubin, một cây viết về vấn đề tôn giáo cho báo Clarin ở Argentina, cho biết Bergoglio thực sự liều lĩnh để cứu cái gọi là "phá hoại" trong chế độ độc tài, nhưng không bao giờ nói về nó công khai trước khi cuốn tiểu sử 2010: "Linh mục Dòng Tên" ra đời.

Trong cuốn sách, Bergoglio cho biết ông không muốn hạ mình đến mức chỉ trích ông và sau đó chia sẻ một số câu chuyện của mình. Bergoglio cho biết có lần ông đã đưa giấy tờ tuỳ thân của mình cho một người đàn ông bị truy nã với một diện mạo tương tự, để anh ta để thoát qua biên giới Brazil. Ở nhiếu thời điểm khác nhau, ông đã che chở nhiều người bên trong nhà thờ trước khi họ được giao một cách an toàn để sống lưu vong.

Nghiêm trọng lời buộc tội

Những lời buộc tội chỉ trích nhất chống lại Bergoglio là khi chính quyền quân sự nắm quyền năm 1976, ông đã rút lui sự ủng hộ của ông cho hai linh mục hoạt động trong khu ổ chuột trong phong trào thần học giải phóng đã bị mất tích. Sau đó, các linh mục bị bắt cóc và tra tấn tại Trường Cơ khí Hải quân, chính quyền sử dụng nơi đó như một nhà tù bí mật.

Bergoglio cho biết ông đã nói với các linh mục Orlando Yorio và Francisco Jalics hãy bỏ công việc trong khu ổ chuột của họ cho sự an toàn của riêng mình, và họ đã từ chối.

"Tôi đã cảnh báo họ phải rất cẩn thận, Bergoglio nói với Rubin. "Họ đã quá tiếp xúc với hoang tưởng của cuộc săn đuổi Bởi vì họ ở lại trong barrio, Yorio và Jalics đã bị bắt cóc."

Sau này Yorio tố cáo Bergoglio đã giao nạp một cách hiệu quả đến các đội sát thủ bằng cách từ chối công khai xác nhận công việc của họ. Yorio bây giờ đã chết, và Jalics đã từ chối thảo luận về những sự kiện kể từ khi di chuyển vào một tu viện Đức.

Cả linh mục cuối cùng đã được tháo khăn bịt mắt sau khi được cho đi trực thăng, hai trong số ít các tù nhân đã sống sót từ nhà tù.

_____________________________

Pope Francis tied up in Argentina's 'dirty war' debate

Thursday. By Michael Warren of Associated Press

BUENOS AIRES, Argentina – It's beyond dispute that Jorge Mario Bergoglio, like most other Argentines, failed to openly confront the 1976-1983 military junta as it kidnapped and killed thousands of people in a "dirty war" to eliminate leftist opponents.

But human rights activists differ on how much responsibility Pope Francis personally bears for the Argentine church's dark history of supporting the murderous dictatorship.

The new pope's authorized biographer, Sergio Rubin, argues that this was a failure of the Roman Catholic Church in general, and that it's unfair to label Bergoglio, then a thirty-something leader of Argentina's Jesuits, with the collective guilt that many Argentines of his generation still wrestle with.

"In some way many of us Argentines ended up being accomplices," at a time when anyone who spoke out could be targeted, Rubin recalled in an interview with The Associated Press just before the papal conclave.

Some leading Argentine human rights activists agree that Bergoglio, now 76, doesn't deserve to be lumped together with other church figures who were closely aligned with the dictatorship.

"Perhaps he didn't have the courage of other priests, but he never collaborated with the dictatorship," Adolfo Perez Esquivel, who won the 1980 Nobel Peace Prize for documenting the junta's atrocities, said Thursday. "Bergoglio was no accomplice of the dictatorship. He can't be accused of that," Perez Esquivel told Radio de la Red in Buenos Aires.

But others say Bergoglio's rise through the Argentine church since then has put him in many positions of power where he could have done more to atone for the sins of Catholic officials who did actively conspire with the dictators. Some priests even worked inside torture centers and blessed those doing the killing.

And now that Argentina is actively putting former dictatorship figures on trial for human rights violations, they say he's been more concerned about preserving the church's image than providing evidence that could lead to convictions.

"There's hypocrisy here when it comes to the church's conduct, and with Bergoglio in particular," said Estela de la Cuadra, whose family lost five members during the junta years and whose mother co-founded the Grandmothers of the Plaza de Mayo activist group to search for missing people. "There are trials of all kinds now, and Bergoglio systematically refuses to support them."

Bergoglio twice invoked his right under Argentine law to refuse to appear in open court in trials involving torture and murder inside the feared Navy Mechanics School and the theft of babies from detainees. When he eventually did testify in 2010, his answers were evasive, human rights attorney Myriam Bregman told the AP.

Bergoglio's own statements proved church officials knew from early on that the junta was torturing and killing its citizens even as the church publicly endorsed the dictators, she said. "The dictatorship could not have operated this way without this key support," she said.

Rubin, a religious affairs writer for the Argentine newspaper Clarin, said Bergoglio actually took major risks to save so-called "subversives" during the dictatorship, but never spoke about it publicly before his 2010 biography, "The Jesuit."

In the book, Bergoglio said he didn't want to stoop to his critics' level – and then shared some of his stories. Bergoglio said he once passed his Argentine identity papers to a wanted man with a similar appearance, enabling him to escape over the border to Brazil. Various times, he said he sheltered people inside church properties before they were safely delivered into exile.

SERIOUS ACCUSATION

The most damning accusation against Bergoglio is that as the military junta took over in 1976, he withdrew his support for two slum priests whose activist colleagues in the liberation theology movement were disappearing. The priests were then kidnapped and tortured at the Navy Mechanics School, which the junta used as a clandestine prison.

Bergoglio said he had told priests Orlando Yorio and Francisco Jalics to give up their slum work for their own safety, and they refused.

"I warned them to be very careful," Bergoglio told Rubin. "They were too exposed to the paranoia of the witch hunt. Because they stayed in the barrio, Yorio and Jalics were kidnapped."

Yorio later accused Bergoglio of effectively delivering them to the death squads by declining to publicly endorse their work. Yorio is now dead, and Jalics has refused to discuss those events since moving into a German monastery.

Both priests were eventually dropped off blindfolded in a field after a harrowing helicopter ride, two of the few detainees to have survived that prison.

Thứ Ba, 30 tháng 8, 2016

Đến Bhutan, bạn sẽ thấy ở Việt Nam còn hạnh phúc gấp vạn lần





Bhutan được mệnh danh là quốc gia hạnh phúc nhất thế giới với vị trí địa lý nằm ở Nam Á, giữa Ấn Độ và Trung Quốc. Điều này có được là do người dân Bhutan thường xuyên tìm kiếm sự hạnh phúc về tinh thần, họ không quan tâm đến TV, Đài hay Internet, những vấn để nổi trội của thế giới. Còn đối với những người dân tại quốc gia khác, việc tìm kiếm hạnh phúc tại Bhutan lại khó hơn người ta tưởng. Đâu phải việc ở một quốc gia hạnh phúc nhất thế giới sẽ giúp bạn trở nên hạnh phúc hơn. Nếu là người Việt Nam và đặt chân tới Bhutan, có lẽ bạn sẽ thấy quê hương chúng ta còn hạnh phúc gấp vạn lần. Tại sao lại như vậy?

1. Đất nước không có dân chủ
Vào năm 2008, Bhutan thực hiện quá trình chuyển đổi từ chế độ quân chủ tuyệt đối sang chế độ quân chủ lập hiến và tổ chức cuộc tổng tuyển cử đầu tiên.

Nhà nước Bhutan dù có Đức Vua nhưng Vua không có thực quyền – chỉ trị vì nhưng không cai trị, tất cả quyền lực điều hành nhà nước đều nằm trong tay quốc hội do Đảng chiếm đa số ghế đứng đầu.

So về việc tổng tuyển cử dân chủ, Việt Nam mình đã đi trước mấy chục năm, từ năm 1945 còn gì. Bhutan cái gì cũng bị kiểm soát dưới sự kiểm soát của nhà nước quân chủ lập hiến. Ví dụ thực tế: Nhà nước ban lệnh con nít bắt buộc phải đi học và dù nhà có điều kiện cũng không được trả tiền.

Trẻ em nhà giàu hay nhà nghèo đều phải làm tròn nghĩa vụ của mình là học hành và vui chơi, những vấn đề còn lại để nhà nước đảm bảo và đáp ứng. Trẻ em muốn đi làm kiếm tiền mưu sinh như ở Việt Nam cũng không được thông qua

Du khách nào muốn đến Bhutan, không được đi tự do nữa, mà phải đặt qua công ty du lịch hoặc có bạn là người Bhutan xin visa giúp mới được cho đi.

Đối với mỗi thanh toán của du khách nước ngoài, nhà nước đánh thuế lên đến 35%. Tất cả tiền này vào quỹ được gọi là quỹ du lịch- hạnh phúc, và được dùng để phục vụ cho người dân Bhutan, các vấn đề về an sinh giáo dục.

Một điều nữa là đối với khách du lịch, nhà nước không khuyến khích du khách cho trẻ con ở Bhutan quà, bánh hay bất cứ thứ gì, vì điều này sẽ làm những đứa trẻ Bhutan hình thành thói quen xin đồ từ khách du lịch – vô cùng không tốt trong sự hình thành nhân cách của chúng.

Quay lại Việt Nam, ở Sapa, Hà Giang, hay cả Sài Gòn, Hà Nội, một số người lớn khuyến khích, chỉ bảo cho trẻ em đi xin tiền của người khác. Chỉ trừ một số thành phố như Đà Nẵng, gần đây là Sài Gòn không khuyến khích và cấm, còn lại thì để cho họ tự do.

2. Không có tự do tôn giáo, toàn bộ người dân theo phật giáo

Hơn 98% người dân Bhutan theo đạo Phật, học theo giáo lý và hành xử của những người theo Phật – hiền lành, chất phác, trung thực, làm gì cũng rõ ràng, vì rõ ràng nên họ mất thời gian lâu hơn để tìm hiểu, kiểm tra, kiểm định các thông tin, chứ đâu có “nhanh nhẹn, nhanh nhạy”.


Người dân Bhutan cũng không có chính kiến, toàn nghe theo giáo lý nhà Phật, nghe theo những điều của Nhà nước quy định trong “Chỉ số Hạnh Phúc Quốc gia”.

Chỉ số này được đặt ra trong năm 1972 bởi Dragon King thứ 4 của Bhutan , Jigme Singye Wangchuck . Nó đại diện cho một cam kết xây dựng một nền kinh tế sẽ phục vụ văn hóa Bhutan dựa trên các giá trị tinh thần Phật giáo thay vì chỉ số đo bằng tổng sản phẩm trong nước của phương tây (GDP): tập thiền mỗi buổi sáng, sống cân bằng, biết đủ, không bon chen nói xấu lẫn nhau, không giết hại súc vật.

3. Không có sự sáng tạo trong giáo dục

Vì là nước nghèo – quốc vương có điều kiện được ba mẹ cho đi Anh Quốc du học, rồi đem nguyên hệ thống đó vào áp dụng, có điều chỉnh và bổ sung thêm về văn hoá, con người, giá trị, bài học đạo đức vào để áp dụng cho đất nước.

Bạn đến Bhutan, đừng ngạc nhiên vì sao người dân Bhutan từ con nít đến người lớn – hơn 80% đều nói tiếng Anh rành rõi, bên cạnh tiếng mẹ đẻ Dzongkha và 53 ngôn ngữ trong hệ ngôn ngữ Tây Tạng.

5. Taxi không rõ ràng minh bạch – đi mà không tính theo km đường đi

Taxi ở Bhutan không có cái máy để tính tiền theo km bạn đi. Lên taxi tài xế hỏi đường bạn đi đến đâu, rồi báo số tiền là như vậy rồi bạn đi thôi.

Họ không dám nói dối, nói xạo, vì như vậy là không đúng theo giáo lý nhà Phật. Nghĩ lại nước mình, trừ các hãng có uy tín, một số hãng khác có máy tính tiền rõ ràng minh bạch nhưng sao hành khách hay có cảm giác được trả tiền cao hơn bình thường.

6. Nền kinh tế chuyên nhập siêu

Vì là quốc gia Phật Giáo, nên đa phần người dân không được sát sinh, giết hại súc vật. Người Bhutan chủ yếu ăn gạo, ngũ cốc, sữa và các sản phẩm từ sữa, còn thịt cá thì đa phần cho du khách nước ngoài.

Thịt cá động vật được giết ở bên ngoài Bhutan – chủ yếu là Ấn Độ và nhập về. Người Bhutan vẫn chăn nuôi gia súc gia cầm bình thường nhưng không bao giờ giết hại. Cái này chẳng phải nhập siêu còn gì?

7. Quốc gia lãng phí nhất
Một người ở Bhutan kể bạn anh ấy bị bệnh, mà bệnh viện ở Thimpu không có đủ trang thiết bị y tế để chữa trị, thế là bạn đó được đưa qua bệnh viện Ấn Độ chữa trị đến nơi đến chốn mà không phải trả bất kỳ khoản phí bệnh viện nào cũng như chi phí chuyển viện, di chuyển từ Bhutan qua Ấn Độ. Quá tốn kém!

8. Sử dụng tiền không đúng mục đích
Đức Vua và Quốc hội nhận thấy không khí, môi trường, tài nguyên rừng là một phần không thể thiếu, nên đi đến đâu cũng bắt người dân phải bảo vệ môi trường, thiên nhiên.

Tiền thuế của người dân, các công ty, “tập đoàn kinh tế” đóng vào thì được sử dụng vào việc bảo tồn thiên nhiên, tự nhiên này.

Nhà nước không biết khuyến khích chặt rừng chặt cây lấy gỗ càng nhiều càng tốt để làm kinh tế, bán đi cho có nhiều ngoại tệ, cho nên mỗi ngày người dân Bhutan chỉ toàn ngửi mùi gỗ, mùi cây, mùi không khí.

Mùi tiền từ việc đốn cây bán rừng chặt rừng thì còn lâu họ mới chịu ngửi. Hỏi không phải sử dụng tiền sai mục đích chứ là gì?

9. Chi phí cho khách du lịch đắt đỏ
Như đã chia sẻ ở trên, để du lịch ở Bhutan, bạn phải đặt tour qua công ty du lịch và phải trả chi phí ít nhất 200$/người/ngày vào mùa thấp điểm ( tháng 1,2, 6,7,8,12) và 250$/người/ngày vào mùa cao điểm (3,4,5,9,10,11). Với tiêu chuẩn ở khách sạn 3 sao, bao gồm các tour cơ bản, ăn uống, không bao gồm chi phí vé máy bay.

Và khi trả số tiền này, có nghĩa là bạn đã góp phần cho Bhutan có nền giáo dục chất lượng miễn phí cho các em nhỏ, người dân Bhutan được hưởng sự chăm sóc y tế toàn diện, và môi trường sống trong lành, bảo đảm không phá hoại tự nhiên, và tôn giáo (đạo Phật) được tu dưỡng và không bị du lịch làm mờ nhạt, biến tướng cũng như không có tình trạng chặt chém du khách.

10. Quốc gia sống ảo nhất thế giới

Nước thì nhỏ, kinh tế còn đang phát triển, dân thì bị nhà nước kiểm soát như thế, ko có tự do gì cả… mà đi đâu, cũng thấy làm thương hiệu với hai từ “Hạnh Phúc”- từ sân bay đến đường đi, vào rừng… thế có phải sống ảo không? Ảo tưởng mình hạnh phúc nhất thế giới!

11. Nhỏ mà có võ – Đất nước không sợ chết

Dân số Bhutan chỉ hơn 700,000 người (ít hơn dân số Đà Nẵng – Việt Nam), nằm kẹp giữa hai quốc gia đông dân nhất thế giới và lớn về diện tích là Trung Quốc và Ấn Độ, vậy mà “Võ công cao cường”- không sợ gì hết.

Bhutan chỉ thiết lập quan hệ ngoại giao với Ấn Độ, và nói không với anh Trung Quốc. Đơn giản lãnh đạo Bhutan nói rằng “ từ trước đến nay Trung Quốc luôn coi Bhutan là một phần của Tây Tạng, mà Tây Tạng là của Trung Quốc, nên đương nhiên việc sớm muốn Trung Quốc muốn coi Bhutan thuộc quốc gia này cũng bình thường”.

Bất kỳ quan hệ ngoại giao nào với Trung Quốc cũng ko có cái gọi là công bằng. Dựa trên kinh nghiệm quan sát của Bhutan, nên nói không trong việc thiết lập quan hệ ngoại giao, ko cho mở sứ quán Trung Quốc ở Thimpu và không cho mở đường bay thẳng từ Trung Quốc qua Bhutan- dù hai nước cạnh nhau và có hơn 475km đường biên giới.

Trung Quốc có mời chào cho tiền viện trợ, lãnh đạo nhà nước và quốc vương Bhutan cũng ko thèm, vì họ tự nuôi sống họ từ nguồn tài nguyên thiên nhiên, và còn xuất khấu năng lượng sạch qua Ấn Độ.

Tham khảo Thasanova

Thứ Năm, 25 tháng 8, 2016

*** Mèo mẹ 5 lần nhảy vào lửa để cứu con .












Tình mẫu tử là tình cảm thiêng liêng và vĩ đại nhất trên đời này . Người mẹ nào cũng sẵn sàng hy sinh vì con của mình , ngay cả trong loài vật cũng vậy . Nhưng hy sinh cho con đến mức 5 lần nhảy vào lửa để cứu con thì có lẽ nhiều con người còn thua con mèo mẹ can đảm tuyệt vời này .


Câu chuyện xảy ra vào ngày 30-03-1996 , đội cứu hỏa của thành phố Brooklyn , New York , được gọi đến để chữa lửa cho 1 tòa nhà bỏ hoang . Đây vốn là 1 nhà kho chứa hàng nhưng đã nhiều tháng không được sử dụng . Trong lúc đang chữa lửa , ông David Gianelli để ý thấy có 1 con mèo hoang cứ chạy ra chạy vào mấy lần , băng qua đám lửa đỏ để xông vào bên trong . Mới đầu ông không quan tâm lắm , nhưng khi thấy con mèo chạy vào đám lửa đến lần thứ 4 thì ông rất ngạc nhiên .

Khi đám lửa được dập tắt gần hết , ông lại thấy con mèo chạy vào lần nữa , lần này ông để ý theo dõi thì khi thấy nó chạy ra , miệng có ngậm 1 chú mèo con .

Ông Gianelli tò mò đi theo thì thấy con mèo mẹ đã cứu được cả đàn 5 con mèo con ra , nhưng bản thân nó thì bị thương trầm trọng . 2 mí mắt mèo bị cháy dính chặt vào nhau khiến cho nó không còn thấy đường , lông mặt của nó hoàn toàn cháy rụi , 1 chân bị bỏng nặng chảy máu không ngừng , và khắp mình bị cháy loang lổ , đen thui , khét lẹt . Con mèo mẹ dù không còn nhìn thấy , vẫn cố gắng dụi mũi vào từng đứa con , để biết chắc là tất cả còn sống , rồi nó không gượng được nữa , ngã gục xuống .

Ông Gianelli thấy vậy thì vô cùng xúc động . Ông vội báo lại cho cấp trên rồi cởi áo ra bọc cả 6 mẹ con mèo vào , vội vàng đem ra xe chở đến bệnh viện thú y gần đó nhất .

Thương thế của mèo mẹ nặng đến nỗi thú y cũng không chắc có cứu được không . Nhân viên trực hôm đó nói rằng họ chưa từng thấy 1 con mèo nào bị cháy bỏng nặng như thế , vậy mà nó vẫn không ngần ngại liên tiếp xông vào lửa để cứu bằng được tất cả con của mình ra , thật là 1 điều kỳ diệu . Mèo mẹ đau đớn nằm gục đó , nhưng mỗi lần nó nghe tiếng mèo con kêu meo meo , là nó lại gắng gượng ngồi dậy và dũi dũi mũi để tìm con !

Thú y nói với ông Gianelli là để cứu 6 mẹ con mèo hoang này thì phải chữa trị rất công phu và hàng tháng trời , số tiền sẽ lên đến 10 mấy ngàn đô , nếu không có tiền trả thì họ sẽ đành phải chích thuốc cho chúng ngủ luôn không thức dậy nữa để không đau đớn . Ông Gianelli năn nỉ bác sĩ hãy dùng mọi cách để cứu mèo , tiền bạc ông sẽ lo . Ông gọi điện thoại về báo cho đội cứu hỏa thì ai cũng hăng hái nói sẵn sàng đóng góp để cứu mèo .

Nhưng rồi ông Gianelli và đồng đội đã không phải bỏ ra đồng nào , vì khi câu chuyện cảm động về tình mẫu tử này được đưa lên báo , đã khiến cho cả nước Mỹ xúc động . Bệnh viện thú y Northshore Animal League ( Viện Thú Y Bể Bắc ) đã nhận được hơn 7000 lá thư hỏi thăm và chúc sức khỏe cho mèo , cùng hàng chục ngàn đô la tiền quyên góp để trả viện phí .

Cuối cùng mèo mẹ và 4 trong 5 con mèo con đã được cứu sống . Chú mèo bé nhất không cứu được vì bị nhiễm trùng quá nặng . Mèo mẹ được đặt tên là Scarlett và sau đó đã được bà Karen Wellen nhận nuôi . Bà Karen bị tai nạn giao thông và bị thương tật nhưng may mắn không chết , nên bà quyết định nhận nuôi những thú vật nào cũng bị thương tật như bà . Mèo mẹ Scarlett đã sống yên ổn , hạnh phúc với bà cho đến khi qua đời vào năm 2008 , được 13 tuổi ( Thông thường mèo sống đến 15 tuổi là thọ lắm ) . 4 con mèo con được chia ra làm 2 nhóm và cũng được 2 gia đình nhận nuôi .

Để tưởng nhớ và vinh danh tình mẫu tử tuyệt vời của mèo mẹ Scarlett , bệnh viện thú y Northshore đã đặt ra 1 giải thưởng đặc biệt dành cho những con vật can đảm , hy sinh thân mình để cứu người hoặc cứu các con vật khác . Giải thưởng này được đặt tên là Giải Thưởng Scarlett và được trao tặng hàng năm .

Một con mèo hoang mà còn biết thương con , hy sinh vì con vô bờ bến như vậy , thì thấy thật buồn thay cho 1 số bà mẹ là con người mà lại sẵn sàng vứt bỏ , đánh đập , ngược đãi con mình . Ở VN , nạn phá thai đang tăng nhanh 1 cách đáng sợ , và VN đang trở thành quốc gia có tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới . Đây là 1 điều rất đáng xấu hổ !

Mong rằng các bạn gái , các bà mẹ VN , khi đọc câu chuyện này sẽ suy nghĩ và thấy xúc động thật sự , để sau này không làm những điều có hại cho những đứa con bé nhỏ của mình , cho dù chúng đã chào đời hay chưa .

Tình mẫu tử là thiêng liêng và vĩ đại nhất , mà không phải ai cũng may mắn có được , xin hãy luôn gìn giữ và trân trọng .

Ngoc Nhi Nguyen

https://en.wikipedia.org/wiki/Scarlett_(cat)

Chủ Nhật, 7 tháng 8, 2016

Barack Obama, Tổng thống Mỹ thứ 44 bàn về nữ quyền


Barack Obama, Tổng thống Mỹ thứ 44 bàn về nữ quyền



Có nhiều khó khăn khi làm Tổng thống. Nhưng cũng có vài điều thú vị. Được gặp những con người kiệt xuất. Được làm việc trong một văn phòng nơi mỗi quyết định đều có tầm ảnh hưởng tới vận mệnh một quốc gia. Được ngồi trên chuyên cơ Air Force One.
Nhưng điều tuyệt nhất khi làm công việc này chính là được sống một cách nhiệt huyết nhất. Tôi đã phải nỗ lực rất nhiều để hoàn thành vai trò của người chồng, người cha tốt trong gia đình, bên cạnh công việc.
Bù lại, trong 7 năm rưỡi qua, tôi chỉ mất có 45 giây để đi từ phòng làm việc sang phòng khách nhà mình. Nhờ vậy, tôi có thể dành nhiều thời gian để quan sát con gái mình trưởng thành, trở thành những phụ nữ trẻ tuyệt vời, thông minh, hài hước và nhân hậu.
Dù vậy, làm cha không phải lúc nào cũng dễ dàng, đặc biệt khi thấy các con mình đã chuẩn bị để sẵn sàng “rời tổ”. Nhưng có một điều khiến tôi lạc quan về hai cô con gái của mình, đó là bọn trẻ đang được sống trong một thời đại phi thường.

Ông Obama và hai cô con gái cùng “gặp” chú gà tây mà họ sắp làm phước trước nghi lễ Tạ ơn diễn ra thường niên tại Nhà Trắng.
Những tiến bộ chúng ta đã được được trong 100 năm, 50 năm, vâng, và thậm chí cả 8 năm qua, đã khiến cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn rất nhiều cho những bé gái, so với những thế hệ phụ nữ trước đó. Tôi nói ra điều này không chỉ với tư cách Tổng thống mà còn với tư cách của một người ủng hộ nữ quyền.
Trong cuộc đời mình, tôi đã từng đến những khu chợ lao động, nơi phụ nữ chỉ được giao làm một vài công việc trả lương rẻ mạt, cho tới hôm nay, khi phụ nữ không chỉ chiếm một nửa lực lượng lao động mà còn đang nắm giữ những vị trí lãnh đạo trong mỗi ngành nghề.
Tôi đã thấy phụ nữ tự do đưa ra những quyết định đối với cuộc đời mình, từ cách ăn vận, cách theo đuổi con đường học vấn, cho tới lựa chọn nghề nghiệp, tự chủ quản lý tiền bạc của riêng mình. Đã qua rồi cái thời phụ nữ cần một tấm chồng để đảm bảo cuộc sống ổn định. Chưa bao giờ, phụ nữ dù kết hôn hay độc thân lại có thể độc lập về tài chính như hiện nay.
Vì vậy, đừng đánh giá thấp những tiến bộ chúng ta đã đạt được, dù vẫn còn nhiều việc phải làm để cải thiện cuộc sống của phụ nữ trên khắp thế giới này. Và trong khi tôi vẫn đang tiếp tục thúc đẩy những chính sách tích cực hướng đến quyền lợi phụ nữ, chúng ta cần hiểu rằng có những thay đổi không thể thực hiện được nhờ luật pháp.
Thay đổi quan trọng nhất và khó nhất, đó là thay đổi chính mình.

Gia đình ông Obama trong nghi thức đón tiếp tân Thủ tướng Canada tại Nhà Trắng.
Dù chúng ta đã có nhiều tiến bộ, nhưng chúng ta vẫn còn bó hẹp mình trong những định kiến về việc đàn ông phải thế này, phụ nữ phải thế kia. Một trong những phụ nữ mà tôi rất ngưỡng mộ từng nói với tôi rằng: “Định kiến đối với phụ nữ bắt đầu từ khoảnh khắc bác sĩ siêu âm nói với người mẹ rằng: Đó là con gái”.
Định kiến về giới đã ảnh hưởng tới cách các bé gái tự nhìn nhận bản thân ngay từ khi còn nhỏ, khiến các bé tin rằng nếu mình không có diện mạo hoặc cách hành xử theo chuẩn mực nào đó, các bé sẽ bị thua kém. Thực tế, định kiến về giới ảnh hưởng tới tất cả chúng ta.
Những người quan trọng nhất trong cuộc đời tôi đều là phụ nữ. Tôi được nuôi lớn bởi một bà mẹ đơn thân. Tôi được chăm sóc bởi bà ngoại. Tôi đã chứng kiến vợ mình - Michelle - cân bằng giữa trách nhiệm công việc và trách nhiệm gia đình.
Như tất cả những phụ nữ khác, Michelle cũng hay lo lắng về việc mình đã làm tốt mọi việc chưa, và tôi biết, ít người sẽ phán xét tôi giống như cách họ phán xét về Michelle. Thực tế, từ trước khi trở thành Tổng thống, tôi đã hay vắng nhà vì đi công tác.
Tôi nhìn lại và thấy rằng, dù những chuyến đi đó có ích, nhưng đó là có ích cho sự nghiệp của riêng tôi. Gánh nặng lớn đã đặt lên vai Michelle một cách không công bằng. Tôi cho rằng mình hiểu khá rõ về những thách thức của phụ nữ, đó chính là nền tảng để tôi ủng hộ nữ quyền.
Nhưng tôi cũng muốn thành thật rằng, khi bạn là cha của hai cô con gái, bạn sẽ càng ý thức rõ ràng hơn về những định kiến đầy rẫy trong xã hội, có những định kiến rõ ràng và có những định kiến mập mờ, mơ hồ. Bạn sẽ nhận thấy những định kiến mà các cô gái phải đương đầu, từ diện mạo, cách hành xử, cho tới cách tư duy…

Ảnh gia đình ông Obama chụp tại Nhà Trắng.
Những định kiến về giới cũng ảnh hưởng tới ý thức của tôi khi còn là một thanh niên trẻ. Lớn lên mà không có cha, tôi dành nhiều thời gian để hiểu mình là ai, mình tìm kiếm gì ở thế giới này, mình muốn trở thành người đàn ông như thế nào. Thật dễ để tiếp nhận những thông điệp từ xã hội về hình ảnh một người đàn ông lý tưởng.
Nhưng khi tôi trưởng thành hơn, tôi nhận thấy rằng những định kiến rập khuôn của xã hội về một người đàn ông lý tưởng không phù hợp với mình. Những tiêu chuẩn đó đã từng thống trị tuổi trẻ của tôi và khiến tôi cảm thấy bất an. Cuộc sống bắt đầu trở nên dễ chịu hơn khi tôi hiểu rằng mình cứ đơn giản là chính mình thôi.
Chúng ta cần phá vỡ những định kiến về giới. Chúng ta cần thay đổi thái độ khi nuôi dạy con cái, đừng đòi hỏi các bé gái phải dịu dàng, nữ tính, và các bé trai phải mạnh mẽ, kiên cường; đừng mắng con gái khi bé tỏ ra cứng đầu và trách con trai khi bé dễ khóc.
Chúng ta cần thay đổi thái độ thiên vị của mình, chúng ta khen ngợi một người cha biết thay tã cho con, nhưng lại chỉ trích người mẹ đang phải vật lộn làm thêm giờ để có vị trí tốt hơn nơi công sở.
Chúng ta cần thay đổi thái độ khi ngưỡng mộ những nhân viên nam tỏ ra tự tin, thích cạnh tranh và đầy tham vọng, nhưng lại âm thầm quay lưng với những phụ nữ đặt mục tiêu thăng tiến trong công việc.
Chúng ta cũng cần thay đổi cách nhìn không độ lượng đối với phụ nữ da màu. Vợ tôi - Michelle - dù đã đạt được những thành công nhất định của riêng mình, nhưng cô ấy vẫn phải đối diện với những nghi ngờ, chỉ trích, cô ấy vẫn thường xuyên lo lắng về diện mạo và cách hành xử của bản thân, luôn hỏi rằng mình có cứng rắn, hiếu thắng quá so với hình ảnh một phu nhân không.


Làm cha, giúp con mình vượt lên khỏi những giới hạn, định kiến, là một quá trình khiến tôi phải học hỏi không ngừng. Vợ chồng tôi đã dạy con gái mình rằng hãy nói thẳng ra điều con nghĩ nếu con chứng kiến những điều bất công, những sự phân biệt chủng tộc, phân biệt giới tính.
Cần để bọn trẻ thấy những hình mẫu lý tưởng trong thế giới hôm nay, thấy những người phụ nữ đặt chân tới những nấc thang cao nhất trong lĩnh vực mà họ lựa chọn. Vâng, cần để bọn trẻ thấy cha của chúng là người ủng hộ nữ quyền, bởi đó là điều mà các cô gái hiện đại chờ đợi ở những người đàn ông hiện đại.
Nam giới cũng có trách nhiệm chiến đấu chống lại bất bình đẳng giới. Là chồng, là bạn trai, những người đàn ông cần phải nỗ lực để tạo nên những mối quan hệ thực sự bình đẳng.
Tin tốt là ở khắp mọi nơi mà tôi từng đi tới, trong đất nước này, trên thế giới này, tôi thấy nhân loại đều đang đẩy lùi những định kiến lỗi thời về giới. Thời đại của chúng ta hôm nay không thể bị kiềm tỏa bởi những lối tư duy bảo thủ, cũ mòn.
Mùa thu này chúng ta chứng kiến một sự kiện lịch sử. Sau 240 năm lập nước, và gần một thế kỷ sau khi phụ nữ Mỹ giành được quyền đi bầu cử, lần đầu tiên, một phụ nữ trở thành ứng viên Tổng thống.
Không cần biết quan điểm chính trị của bạn thế nào, sự kiện này chắc chắn là một dấu mốc lịch sử của nước Mỹ. Đó là một ví dụ nữa về việc phụ nữ có thể tiến xa như thế nào trên con đường tiến tới bình đẳng giới.


Tôi muốn tất cả con cháu chúng ta hiểu rằng thế hệ trẻ hôm nay có trách nhiệm trong việc tiếp nối và bảo đảm rằng rồi đây, mỗi bé gái sinh ra đều có thể toàn quyền định đoạt cuộc sống của mình theo cách mà cô ấy mong muốn.
Và đó chính là nữ quyền của thế kỷ 21: khi mỗi người đều bình đẳng, mỗi người đều tự do hơn.
Barack Obama, Tổng thống Mỹ thứ 44
Bích Ngọc
Theo Glamour
Nguồn :http://dantri.com.vn/van-hoa/bai-bao-gay-sot-cua-ong-obama-tren-tap-chi-phu-nu-20160805163933718.htm

Thứ Tư, 3 tháng 8, 2016

Giá trị của ‘Quốc gia quán quân’







Tác giả: Lưu Minh Phúc (Trung Quốc) | Biên dịch: Nguyễn Hải Hoành

Dù ở thời đại nào, dù là Quốc gia quán quân kiểu loại nào, các Quốc gia quán quân đều có những đóng góp trên nhiều mặt cho lịch sử. Quốc gia quán quân có 7 giá trị như sau.

Thúc đẩy nền văn minh có bước tiến mới

Trong lịch sử thế giới cận đại, mỗi lần xuất hiện một Quốc gia quán quân mới bao giờ cũng đem lại cho thế giới một làn gió mới, thúc đẩy xã hội loài người tiến sang một giai đoạn lịch sử mới, mang lại cho nền văn minh trái đất một đợt khai hóa và tiến hóa, đem lại tin tốt lành cho loài người. Tuy rằng các Quốc gia quán quân kiểu thực dân và kiểu bá quyền cũng đem lại tai nạn và bất hạnh cho cộng đồng quốc tế, nhưng không thể vì thế mà phủ định công trạng mà các quốc gia đó đóng góp cho việc xây dựng cộng đồng quốc tế.

Khi đóng góp của một quốc gia đối với thế giới không thể tiếp tục xếp hạng thứ nhất thì quốc gia đó cũng không thể tiếp tục duy trì vị trí Quốc gia quán quân thế giới, nó phải nhường chiếc mũ Quốc gia quán quân cho nước khác, tuy rằng có khi sự chuyển tiếp Quốc gia quán quân cũ mới phải thực hiện bằng chiến tranh.

Mở ra một thời đại lịch sử mới

Thế giới cận đại từng trải qua mấy thời đại kích động lòng người, như “thời đại hàng hải lớn”, “thời đại công nghiệp hóa”, “thời đại tin học”. Sự khai mở các thời đại ấy đều gắn chặt với tên các Quốc gia quán quân đó. Mỗi quốc gia đều đã khai mở và cống hiến cho thế giới một “thời đại”.

Bồ Đào Nha và Hà Lan đều sáng tạo và cống hiến cho nhân loại một thời đại “hàng hải lớn”, thời đại “phát hiện lớn về địa lý”. Nó làm cho lịch sử loài người thực sự trở thành lịch sử thế giới, mở rộng vũ đài hoạt động của nhân loại tới toàn thế giới, cuộc cạnh tranh tiến hành giữa các quốc gia trên phạm vi toàn cầu đã mạnh mẽ thúc đẩy tiến trình lịch sử nhân loại.

Nước Anh mở ra thời đại công nghiệp hóa thế giới. Ngày 1/5/1851, Hội chợ quốc tế đầu tiên khai mạc tại Anh, trưng ra trước thế giới sự phồn vinh và giàu có của nước Anh. Trước đó, trên thế giới từng xuất hiện những cường quốc, nước lớn, nước giàu, nhưng chưa từng có một quốc gia nào như nước Anh, nhờ khai sáng một nền văn minh công nghiệp mà làm cho đất nước mình giàu mạnh tới mức sức mạnh của họ ngang bằng với sức mạnh của các quốc gia khác cộng lại. Nước Anh thời đại công nghiệp hóa dẫn dắt trào lưu toàn cầu, khiến cho toàn thế giới đều đi lên con đường cách mạng công nghiệp. Trong lịch sử nhân loại, nước này đầu tiên chuyển từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp, là nước công nghiệp đầu tiên trên thế giới. Sức mạnh công nghiệp của Anh tương đương với tổng sức mạnh công nghiệp của các nước còn lại. Năm 1860, số dân nước Anh chỉ chiếm 2% tổng số dân toàn thế giới, 10% tổng số dân châu Âu, thế mà sản phẩm công nghiệp Anh sản xuất lại chiếm 40 – 50% tổng sản lượng toàn thế giới và 55 – 65% tổng sản lượng của châu Âu. Nước Anh thời đại công nghiệp hóa là nhà máy của thế giới; đó là cơ sở vật chất để nước Anh dẫn đầu thế giới, xưng bá và cống hiến cho thế giới.

Mỹ trở thành Quốc gia quán quân cũng là do nước này có cống hiến mang tính khai sáng kỷ nguyên mới của thế giới. Marx từng hết lời ca ngợi nước Mỹ là “Nơi trước nhất sinh ra tư tưởng nước cộng hòa dân chủ vĩ đại”, ca ngợi bản Tuyên ngôn Độc lập do các thuộc địa ở Bắc Mỹ công bố năm 1776 là “Tuyên ngôn đầu tiên về quyền con người”. Marx còn đánh giá cao bản Tuyên ngôn Giải phóng của Mỹ năm 1863. Ông từng thay mặt Quốc tế I gửi lời chúc mừng chan chứa nhiệt tình: “Công nhân châu Âu tin chắc là, cũng như cuộc chiến tranh Độc lập của Mỹ đã mở ra kỷ nguyên mới giai cấp tư sản giành thắng lợi, cuộc chiến tranh chống chế độ nô lệ của Mỹ sẽ mở ra kỷ nguyên mới giai cấp công nhân giành thắng lợi. Họ tin rằng cuộc chiến đấu chưa từng có trong lịch sử do người con trung thành của giai cấp công nhân Abraham Lincoln lãnh đạo đất nước mình tiến hành nhằm giải phóng các chủng tộc bị nô dịch và cải tạo chế độ xã hội là tiếng nói mở đầu của một thời đại sắp tới.”

Với việc mở ra thời đại tin học, nước Mỹ cũng đi đầu thế giới, có cống hiến hàng đầu. Năm 1992, sau khi được bầu làm Tổng thống Mỹ, ông Clinton đã áp dụng chiến lược phát triển về sau được gọi là “Kinh tế học Clinton”, trong đó có một biện pháp chiến lược quan trọng là đẩy mạnh chính sách sản nghiệp công nghệ, tận dụng ưu thế lực lượng mạnh về nhân tài và khoa học kỹ thuật của nước Mỹ, dẫn đầu trào lưu mới phát triển công nghệ điện tử, công nghệ tin học của thế giới. Điều đó chẳng những tăng được sức cạnh tranh toàn cầu cho các sản phẩm của Mỹ, khiến cho nước Mỹ phát huy được tác dụng dẫn đầu trong lĩnh vực điện tử-tin học góp phần làm kinh tế thế giới tăng trưởng trong thế kỷ 21, hơn nữa còn kéo cả thế giới tiến sang thời đại tin học hóa.

Xây dựng trật tự mới cho thế giới

Quốc gia quán quân là nhà thiết kế thế giới. Công việc thiết kế ấy gồm có: hình thành một cục diện quốc tế mới, xác lập một bộ chuẩn tắc quốc tế mới, sáng lập một bộ quy chế quốc tế mới, xây dựng một trật tự quốc tế mới, cấu trúc một hệ thống quốc tế mới, v.v…

Chuyên gia lịch sử ngoại giao Mỹ Warren Cohen từng nói: Khi bắt đầu Thế chiến II, người Mỹ đã bắt đầu tiến hành thiết kế tổng thể thế giới sau chiến tranh. “Nếu nói bản thân Tổng thống quá quan tâm tới các vấn đề quân sự và chiến lược mà không có thời gian suy nghĩ nhiều về tình thế thế giới sau chiến thắng, thế thì những người khác lại càng có nhiều thời gian lao vào công việc thiết kế thế giới sau chiến tranh. Trong đó đáng chú ý nhất là các cố gắng của chính phủ Mỹ. Hầu như là cùng với với việc chiến tranh sắp nổ ra, người ta đã bắt đầu tổ chức các nhóm nghiên cứu và tiểu ban tư vấn nhằm vào các công việc của thế giới trong tương lai, người ta triệu tập các quan chức và nghị sĩ, nhà báo, học giả, sĩ quan, tức mọi nhân viên liên quan trong ngành để tiến hành nghiên cứu và bàn thảo rộng rãi về mọi công việc sau chiến tranh, trong đó có việc chiếm đóng các nước thù địch, điều chỉnh lãnh thổ, an ninh quốc tế và tái xây dựng mối quan hệ thương mại, v.v…

Cho dù việc thảo luận của các tiểu ban ấy còn chưa vượt quá mức trao đổi tin tức và quan điểm, nhưng đã xuất hiện một số quan niệm đặc biệt xác định. Một khi Washington bắt đầu tìm kiếm sự chỉ đạo cụ thể sau chiến tranh, các quan niệm đó sẽ lập tức trở thành một phần trong chính sách chính thức của nước Mỹ. Rất rõ ràng, các quan niệm ấy thuộc kiểu Thomas Wilson, hầu hết thành viên tham gia các nhóm nghiên cứu đều đồng ý rằng sau khi đánh bại các nước khối Trục thì bộ khung chủ yếu về giữ gìn trật tự và an ninh thế giới sẽ là phải khôi phục nguyên tắc hợp tác quốc tế chứ không phải là thế quân bình lỗi thời.” Sau Thế chiến II, nước Mỹ bắt đầu thi công bản thiết kế của mình, tạo dựng một thế giới phù hợp yêu cầu lợi ích của Mỹ.

Bản thiết kế tổng thể thế giới của Quốc gia quán quân được thực hiện qua việc thi công cấu trúc “hệ thống thế giới”, chủ yếu gồm 4 trụ cột: – hệ thống kinh tế có tính thế giới; – hệ thống tư tưởng có tính thế giới; – hệ thống quân sự có tính thế giới; – hệ thống quy tắc chế độ có tính thế giới.

Dẫn dắt trào lưu mới toàn cầu

Quốc gia quán quân là quốc gia hình mẫu, gương mẫu, đứng đầu thế giới. Quốc gia đó có khả năng nêu gương mạnh mẽ, có sức ảnh hưởng, sức lây nhiễm mạnh mẽ. Quốc gia quán quân vừa là “quốc gia đặc sắc” độc đáo, lại vừa là quốc gia có giá trị bắt chước quốc tế, bao giờ cũng được một nhóm đông đảo quốc gia khác học tập và bắt chước.

Khi nước Anh hát vang bài ca khải hoàn trong cao trào công nghiệp hóa, toàn thế giới đều nhìn vào họ, đi theo họ. Sự xuất hiện Quốc gia quán quân Anh Quốc đã làm cho thế giới xuất hiện làn sóng “Anh Quốc hóa thế giới”. Công cuộc công nghiệp hóa của nước Anh đã tạo nên một đợt “Anh Quốc hóa”. Nước này dùng văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần làm lễ rửa tội cho thế giới, mà thế giới cũng bằng lòng tiếp nhận tắm mình trong văn minh Anh Quốc.

Khi xuất hiện tân Quốc gia quán quân là nước Mỹ, trên thế giới bèn xuất hiện làn sóng “Mỹ Quốc hóa thế giới”, điều đó thể hiện trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa. Cùng với sự trỗi dậy của nước Mỹ, thế giới đều nhanh chóng Mỹ hóa trên các mặt văn hóa vật chất và văn hóa đại chúng. “Giấc mơ Mỹ” trở thành thứ người ta hướng tới, lối sống Mỹ trở thành thứ người ta phổ biến theo đuổi. Ngay từ buổi giao thời giữa hai thế kỷ 19 và 20, các nhà quan sát nước ngoài đã bàn về ảnh hưởng phổ biến của hàng hóa Mỹ và lối sống Mỹ đối với toàn thế giới. Người Mỹ hưởng thụ tiêu chuẩn sống cao nhất thế giới là đối tượng hâm mộ của khắp năm châu, dường như họ đại diện cho sự phồn vinh vật chất, sự thoải mái dễ chịu và một lối sống thoát khỏi sự rối loạn của thế giới cũ.

Trước Thế chiến II, hầu hết các nước còn chưa có những sản phẩm hiện đại như đồ điện, xe hơi, điện thoại – là những thứ vật phẩm hồi đó đã trở thành cực kỳ phổ cập tại Mỹ. Điều đáng chú ý là hiện tượng này trở nên nổi bật hơn từ sau năm 1919, hơn nữa do địa vị châu Âu bị suy thoái, tư tưởng “phương Tây suy thoái” trở nên phổ biến, do bị chiến tranh phá hoại và do một số nước châu Âu đi theo Mỹ về công nghiệp và thương mại, châu Âu cảm thấy mình ở vào thế phòng ngự, không còn là suối nguồn của trí tuệ và trung tâm văn minh nữa. Đứng trước sự tái tạo thế giới, châu Âu hầu như không còn có thể đưa ra thứ gì nữa. Nhiệm vụ giữ hòa bình (không chỉ về địa chính trị mà còn cả về chính trị và văn hóa) không thể không nhờ cậy nước khác, trước hết là Mỹ. Nước Mỹ chưa bị chiến tranh gây tổn thương trở thành tượng trưng cho văn hóa vật chất và văn hóa đại chúng. Chẳng những trong nước Mỹ xảy ra sự đồng chất hóa mà toàn cầu cũng xảy ra sự đồng chất hóa văn hóa Mỹ. Ba phát minh ô tô, điện ảnh và máy thu thanh kết nối người Mỹ ở khắp nơi lại với nhau cũng phát huy tác dụng như vậy trên toàn thế giới, bởi lẽ về cơ bản chúng đều là sản phẩm của văn minh Mỹ, sau chiến tranh, chúng truyền bá tới mọi xó xỉnh trên khắp năm châu.

Sáng tạo phát triển kỳ tích mới

Quốc gia quán quân là quốc gia sáng tạo kỳ tích cho nhân loại, và chỉ có như thế thì mới trở thành quán quân.

Thế kỷ 17 là thế kỷ của Hà Lan. Tiểu quốc Hà Lan diện tích chỉ tương đương 2,5 lần thành phố Bắc Kinh, số dân chưa đầy 2 triệu, thế mà đã viết nên một kỳ tích nước lớn trỗi dậy. Ngày 26/7/1581, bảy tỉnh miền Bắc Hà Lan tuyên bố thành lập nước cộng hòa liên tỉnh, độc lập, tách ra khỏi Tây Ban Nha. Vì tỉnh Hà Lan lớn nhất, kinh tế phát triển nhất, cho nên gọi là nước cộng hòa Hà Lan. Cộng hòa Hà Lan là nước cộng hòa tư sản đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Hà Lan còn sáng tạo được những cái nhất thế giới trên nhiều mặt khác. Hồi đó nước này được gọi là “thánh địa Mecca nông nghiệp”, các sản phẩm từ sữa bò, rau củ hoa quả, nghề làm vườn của Hà Lan đều nổi tiếng châu Âu, người châu Âu nào muốn học kỹ thuật nông nghiệp tiên tiến tất phải tới đây. Giao thông vận tải trên biển của Hà Lan cũng nhất thế giới, là “người đánh xe trên biển” của cả năm châu. Năm 1602, người Hà Lan thành lập công ty cổ phần đầu tiên trên thế giới – Công ty Đông Ấn Độ liên hợp Hà Lan, thành lập Sở Giao dịch chứng khoán đầu tiên trên thế giới – Sở Giao dịch chứng khoán Amsterdam. Ngân hàng đầu tiên trên thế giới do Hà Lan sáng lập – Ngân hàng Amsterdam ra đời vào năm 1609, sớm khoảng 100 năm so với Ngân hàng Anh Quốc. Hà Lan là quốc gia đầu tiên kinh tế tăng trưởng liên tục. Một trong hai đồng chủ nhân giải Nobel kinh tế 1993 là Douglass C. North từng đánh giá cao sự trỗi dậy của Hà Lan: “Trong thời kỳ đầu của lịch sử cận đại, Hà Lan đã trở thành thủ lĩnh kinh tế của châu Âu”, “Trên thực tế, Hà Lan là quốc gia đầu tiên đạt được sự tăng trưởng kinh tế liên tục theo ý nghĩa chúng ta xác định”. Cho tới nay, người Hà Lan vẫn sống giàu có, các quy tắc buôn bán do họ đặt ra vẫn ảnh hưởng tới thế giới.

Trong nửa sau thế kỷ 17, Hà Lan có hơn 16.000 tàu buôn, chiếm 3/4 tổng tấn số đội tàu buôn của cả châu Âu, bằng tổng tấn số tàu buôn của Anh, Pháp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha cộng lại. Nếu lấy quốc gia làm đơn vị so sánh thì Hà Lan bằng 4~5 lần nước Anh, 7 lần Pháp. Họ hầu như độc quyền về vận tải biển toàn cầu. Có bình luận cho rằng “Người Hà Lan khai thác mật từ các nước khác… Na Uy là khu rừng của họ, hai bờ sông Rhein là vườn nho của họ, Ireland là bãi chăn nuôi gia súc của họ, Phổ, Ba Lan là vựa thóc của họ, Ấn Độ và các nước A Rập là vườn trái cây của họ.” Amsterdam hồi thế kỷ 17 là trung tâm buôn bán của toàn châu Âu. Khi công thương nghiệp Hà Lan phát triển tới đỉnh cao, tích lũy tư bản của Hà Lan cao hơn tổng tích lũy tư bản của các nước châu Âu, đầu tư ở ngoài nước nhiều hơn Anh Quốc 15 lần, trình độ công trường thủ công nghiệp của Hà Lan đứng đầu châu Âu.

Năm 1664, Thomas Mun, một người Anh nổi tiếng theo chủ nghĩa trọng thương từng nói: “Đây là một kỳ tích trên thế giới: một quốc gia nhỏ như vậy, to chưa bằng hai quận to nhất ở nước ta, tài nguyên thiên nhiên, thực phẩm, nguyên liệu gỗ hoặc các loại vũ khí cần thiết cho thời kỳ chiến tranh hay hòa bình đều ít tới mức không đáng kể, thế mà rốt cuộc nước ấy có dư thừa tất cả mọi thứ.” Một đại gia sử học phái Niên giám Pháp là Braudel từng diễn tả tâm trạng của người châu Âu đối với sự trỗi dậy của Hà Lan, ông viết: “Hồi ấy người ta chỉ nhìn thấy một số biểu hiện khiến thiên hạ hoa mắt. Như thường lệ, người ta không chú ý tới quá trình chuẩn bị lâu dài, cho đến khi Hà Lan đạt được những thành tựu sáng chói lóa mắt, họ mới tỉnh ngộ. Trong khoảnh khắc, bất cứ ai cũng không thể hiểu nổi vì sao một nước nhỏ mới đầu còn non nớt nay bỗng dưng mọi cái đều thành công, phát triển thần tốc, giàu mạnh vô song. Mọi người hăng hái bàn thảo về bí quyết, kỳ tích và sự giàu có kỳ lạ của Hà Lan.”

Marx từng hết lời ca ngợi kỳ tích trỗi dậy của nước Mỹ. Trong Hình thái ý thức của nước Đức ông viết: “Thí dụ hoàn thiện nhất về quốc gia hiện đại là Bắc Mỹ .” Trong Siêu hình học chính trị kinh tế học, Marx gọi nước Mỹ là “quốc gia tiến bộ nhanh nhất tại Bắc Mỹ”.

Xây dựng mô hình mới ưu việt

Một quốc gia áp dụng mô hình như thế nào để tạo dựng kết cấu của mình, để vận hành và phát triển bản thân, điều đó quan hệ tới tính chất quốc gia, sức sống và tiền đồ của quốc gia đó, là sức cạnh tranh quan trọng của quốc gia. Quốc gia quán quân đều là quốc gia sáng tạo mô hình mới, cống hiến mô hình phát triển, là quốc gia có mô hình tiên tiến nhất.

Mô hình chính trị của nước Anh là mô hình tiên tiến nhất trên thế giới hồi ấy. Nước Anh đầu tiên xác lập chế độ nhà nước hiện đại, gồm các chế độ chính trị như chế độ nội các, chế độ quân chủ lập hiến, chế độ hai đảng, chế độ chính phủ chịu trách nhiệm trước quốc hội. Một hệ thống chế độ chính trị như thế đã bảo đảm nước Anh được yên ổn lâu dài và phát triển ổn định. Đóng góp của nước Anh về mô hình kinh tế cũng có tính vạch thời đại. Mô hình công nghiệp hóa của nước Anh có ảnh hưởng to lớn và lâu dài đối với thế giới.

Mô hình Mỹ chẳng những tạo dựng sự trỗi dậy và bá quyền của nước Mỹ, hơn nữa đối với thế giới nó còn phát huy được ảnh hưởng không quốc gia nào có thể sánh nổi. Mỹ là nước lớn có thời gian dựng nước ngắn nhất thế giới, mà lại là nước lớn có lịch sử chế độ cộng hòa lâu dài nhất. Trong thời gian hơn 200 năm sau khi nước Mỹ lập quốc, trên thế giới bình quân cứ 2 nước thì một nước có chính phủ bị các thế lực khác lật đổ. Thế nhưng chính phủ Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ ngược lại vẫn luôn luôn tiếp tục ổn định. Từ ngày lập quốc đến nay nước Mỹ chưa hề có đảo chính. Sau khi độc lập, nước Mỹ đã xây dựng được một thể chế chính trị có đặc sắc riêng không giống các quốc gia khác.

Hiến pháp Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ xác lập năm 1787 là bộ hiến pháp thành văn đầu tiên của giai cấp tư sản trong lịch sử thế giới. Hiến pháp này dựa trên cơ sở lý luận là tư tưởng dân chủ và nguyên tắc dân chủ của giai cấp tư sản, đầu tiên sáng tạo nên một hệ thống chế độ quốc gia và chế độ chính trị của giai cấp tư sản lấy đặc trưng là chế độ cộng hòa dân chủ, bao gồm chế độ cộng hòa, chế độ liên bang, chế độ Tổng thống, chế độ tam quyền phân lập, chính phủ dân bầu, chế độ nhiệm kỳ của người lãnh đạo v.v…Chính quyền Mỹ cấu tạo bởi ba bộ phận lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quốc hội phụ trách việc lập pháp, nhưng các nghị quyết của Quốc hội chỉ có hiệu lực sau khi được Tổng thống phê chuẩn. Tổng thống chủ trì công việc chính trị, nhưng các quan chức quan trọng do Tổng thống bổ nhiệm và các hiệp ước do Tổng thống ký kết thì phải được thượng viện quốc hội phê chuẩn; quốc hội còn có quyền phế truất và bãi miễn Tổng thống; Tòa án Tối cao là cơ quan tư pháp chịu trách nhiệm xử lý mọi vấn đề pháp luật và hiến pháp. Cơ chế phân quyền của nước Mỹ bảo đảm dân chủ hóa trình tự ra quyết sách, tránh được sự lạm dụng quyền lực.

Trong quá trình song hành với các mô hình khác trên thế giới, nhất là với “mô hình Liên Xô” trong cuộc đua chiến tranh lạnh lâu dài, “mô hình Mỹ” đã thể hiện tính lâu dài và ngoan cường của nó, là cơ sở và vốn liếng quan trọng để nước Mỹ trước sau duy trì được ưu thế tự thân và ảnh hưởng rộng rãi tới thế giới.

Của cải tăng lên nhất thiên hạ
Quốc gia quán quân là nhà quán quân làm giàu trên thế giới, quán quân về mặt của cải. Anh Quốc lên ngôi bá chủ công nghiệp thế giới trong cuộc cách mạng công nghiệp, năm 1850 họ sản xuất một nửa sản phẩm kim loại, các sản phẩm từ bông và sắt thép của toàn thế giới, cũng như hai phần ba sản lượng than; đứng đầu toàn cầu về ngành đóng tàu và xây dựng đường sắt. Năm 1860, Anh sản xuất 40 – 50% sản phẩm công nghiệp của thế giới, 55 – 60% sản phẩm công nghiệp của châu Âu. Ngoại thương của nước Anh năm 1850 chiếm 20% tổng lượng buôn bán của thế giới; 10 năm sau tăng lên 40%. Đồng Bảng Anh trở thành đồng tiền quốc tế. Trong tình hình nước Anh chỉ chiếm 0,2% diện tích lục địa thế giới, số dân hồi ấy chỉ có hơn 10 triệu (chiếm 2% số dân toàn thế giới hoặc 10% số dân châu Âu), thế mà nước này sở hữu năng lực công nghiệp hiện đại tương đương với 40 – 50% tiềm lực công nghiệp toàn thế giới; đồng Bảng Anh có uy quyền vô địch toàn cầu.

Nước Mỹ sau Thế chiến II có sức mạnh siêu cường. Giáo sư Lưu Kim Chất, học giả ngành lịch sử quan hệ quốc tế ở Đại học Bắc Kinh viết trong cuốn Chiến tranh lạnh như sau: Mỹ đứng thứ nhất trong thương mại quốc tế, các sản phẩm của Mỹ, trò giải trí tiêu khiển và lối sống Mỹ tràn ngập khắp thế giới. Tuy rằng trong chiến tranh có 410 nghìn người Mỹ chết, song Mỹ là nước lớn duy nhất không bị chiến tranh trực tiếp phá hoại, hơn thế nữa, nền kinh tế quốc dân Mỹ mở rộng gấp đôi. Thời gian 1940 – 1945, lợi nhuận sau thuế của các công ty Mỹ lên tới 124,95 tỷ USD, bằng 3,5 lần mức 6 năm trước chiến tranh. Sau chiến tranh, nước Mỹ tập trung 3/4 tổng số vốn và 2/3 năng lực sản xuất công nghiệp toàn thế giới. Mỹ nắm gần 59% trữ lượng vàng của thế giới tư bản, sở hữu trên một nửa tổng trọng tải lực lượng tàu buôn toàn thế giới. Mỹ chiếm một phần ba tổng kim ngạch xuất khẩu toàn thế giới. Mỹ trở thành nước xuất khẩu tư bản và chủ nợ lớn nhất thế giới.

Lưu Minh Phúc (Liu MingFu), 65 tuổi, nguyên đại tá Quân Giải phóng Trung Quốc, giáo sư Đại học Quốc phòng Trung Quốc, đã nghỉ hưu, năm 2010 xuất bản sách Giấc mơ Trung Quốc, đang chuẩn bị xuất bản 3 cuốn sách mới. New York Times đánh giá ông là học giả diều hâu nổi tiếng nhất trong quân đội Trung Quốc, quan điểm của Lưu Minh Phúc được coi trọng dưới thời Tập Cận Bình.

Nguồn: 中国梦: 后美国时代的大国思维与战略定位 刘明福

- See more at: http://nghiencuuquocte.org/2016/08/02/gia-tri-cua-quoc-gia-quan-quan/#sthash.TBctzYeL.dpuf