Hiển thị các bài đăng có nhãn LÝ LUẬN - PHÊ BÌNH. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn LÝ LUẬN - PHÊ BÌNH. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 26 tháng 10, 2020

LỜI MÁCH BẢO CỦA THƠ

 






Bảo Ninh

Sau những ngày hầu như khuya nào cũng chong đèn đọc Dưới trăng và một bậc cửa, đêm qua, đã dòng cuối, tôi đọc lại, giở trang bất kỳ.



Đã phủ ngập trên mênh mông mặt hồ, tiếng chim đơn độc

và rền rĩ

Những quả đồi cựa mình và lặng lẽ bước đi

Những đám mây tha phương đã trở về, đứng bên kia đầu dốc

Ngước nhìn lên trong đêm mờ sao, và tôi nhận thấy…

Tôi tự thấy ngỡ ngàng. Đã từ lâu, không chỉ với sự đời mà cả với văn học, trong tôi, nhiệt tình đã nguội ngắt. Cái cảm giác xốn xang, mừng vui lẫn bàng hoàng khi được đọc một tác phẩm văn học khiến lòng mình rung động, như mọi người, tôi đã từng có nhưng những lần gần nhất cách nay cũng bao nhiêu năm rồi. Thời xa vắng. Tướng về hưu. Những người thợ xẻ. Những bài học nông thôn. Bước qua lời nguyền. Mình và Họ… Mà đấy là văn xuôi, các truyện ngắn và tiểu thuyết. Đây là thơ[1].



1. [2]Thơ của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đẹp và bình dị, ngôn từ đậm đà, mộc mạc, không gian thơ thân thuộc, gần gũi. Anh thực sự là một thi sĩ của làng quê, sông hồ và đồng nội… Lời bình này tôi được nghe từ nhiều năm trước trong một cuộc luận bàn bột phát và rất trái chiều nhau, nảy lửa, về Sự mất ngủ của lửa (2015)[3]. Ngoại đạo, song khi đó tôi đã thầm, chỉ dám thầm thôi, đồng tình với nhận định ấy. Đúng thế, thơ Nguyễn Quang Thiều, từ Sự mất ngủ của lửa ngày đó, đến Những người đàn bà gánh nước sông, rồi Nhịp điệu châu thổ mới, và giờ đây, Dưới trăng và một bậc cửa, đẹp và bình dị. Qua suốt chiều dài của gần hai trăm trang thơ và trường ca, dọc ngang, độc giả không bị vấp một chữ một từ hóc búa nào, không va phải câu nào đoạn nào ý tứ bịt bùng đánh đố; trái lại, cũng không gặp phải những câu thơ màu mè điệu nghệ, cầu kỳ mà dễ dãi, bóng bẩy mà trơn tuột, rất hay gặp trong không chỉ văn chương thời nay.

Vậy nhưng, tôi cảm thơ Thiều không phải bởi vì thế.

Tôi không biết diễn đạt thế nào. Từ ngữ và câu cú văn xuôi quen viết mỗi ngày không thể hiện được tâm trạng những đêm vừa qua đọc Dưới trăng và một bậc cửa. Có lẽ chỉ thơ mới ứng, và tôi muốn mượn từ tập thơ câu thơ này:

Chợt nhận ra ngôi nhà của mình, nhận ra thơ ấu của mình

Nhận ra cơn mơ của mình đang đi trên con đường đơn độc

Nhập tâm vào tập thơ, con người tôi như lạc khỏi bản thể và khỏi thực tại, trở nên siêu thực đến độ có lẽ cũng đã gần như tác giả, nhận ra được thơ ấu của mình, cơn mơ của mình, đang đi. Tuy nhiên, trạng thái nhập tâm của tôi vào tập thơ lại là một trạng thái nhập tâm tỉnh thức; tâm thức sáng tỏ, vừa đọc vừa ngẫm nghĩ, những ý nghĩ miên man theo dòng thơ, và những ý nghĩ bất chợt, xuất thần, vượt hẳn ra ngoài ý nghĩa của câu thơ. Và thậm chí cả những ý nghĩ triết lý, vốn là sự rất hiếm khi tôi thấy ở mình.

Với tôi, Dưới trăng và một bậc cửa, là một miền đất được nhà thơ “lập ra”, dành cho tôi. Miền đất này vừa bình dị và mộc mạc những cảnh sắc của đời sống thực tại thân thuộc, làng quê, sông hồ, đồng nội, với người Nông Dân Già, với bà nội tôi, em gái tôi, lại vừa là một miền đất của những quả đồi có thể cựa mình bước đi, của những đám mây tha phương trở về dừng bước nơi đầu dốc, của những cây cầu được bắc vào trong xa xôi, của khu vườn đang mang thai, của những ngôi nhà đang chạy trốn, của những ngôi nhà đang sụp lạy, của vở kịch đã mấy trăm năm rồi vẫn diễn, của những người chết trở về mượn đời sống chúng ta… Và cái miền châu thổ “hiện thực huyền ảo” Dưới trăng và một bậc cửa này như là được dành riêng cho tôi là bởi vì trong nó hàm chứa những ý tưởng mà bao lâu nay tôi vẫn chập chờn nằm mộng thấy và vẫn thầm mong là rồi ra mình sẽ nghĩ thấu được tới, sẽ chạm bút được vào.

Cũng như nhiều người viết văn xuôi khác, hàng ngày, sáng chiều tôi thường vất vả cặm cụi viết một cái gì đấy, và về khuya, nếu thời gian và không gian cho phép thì lẳng lặng một mình một “đêm thơ” riêng mình. Không chỉ là sở thích, đây là một nhu cầu thiết thân. Thơ, thầm đọc trong đêm, làm khuây đi cái ban ngày thường nhật, và hơn thế, đưa đến cho buổi sáng ngày hôm sau một sức viết, một đà viết, và có khi là cả một hướng viết mà nhờ thế sẽ vượt qua được những bế tắc đang kìm chân bản thảo.

Tác động khai mở của thơ có thể là lập tức lúc tôi đang tập thơ trên tay, nhưng thường khi là sau đấy, trong giấc ngủ. Thơ ngấm vào giấc ngủ giúp tôi trong đêm thấy ra được một từ, hoặc một câu, hoặc cả một đoạn dài văn chương đặc biệt ưng ý, thậm chí mách cho tôi một cốt truyện mà tôi biết chắc là hay vô cùng, để rồi lúc sáng ra, tỉnh dậy, không sao nhớ lại nổi, khôn xiết xót xa tiếc nuối.

Cố nhiên, với tôi, những bài thơ có thể ảnh hưởng trực tiếp lên “văn xuôi” của mình như thế không mấy. Bởi vậy tôi không đọc rộng ra mà bấy lâu chỉ cứ hàng đêm những bài thơ đó, nhà thơ đó. Và trong số ít đó, nhiều nhất là thơ Thiều. Thơ Thiều của những năm 1990, của mấy năm gần đây, và bây giờ đây, tập thơ này.[4]



Tranh Lê Thiết Cương

2. Đêm qua, đã trang cuối cùng, tôi ngược dòng tập thơ đọc lại, nhưng không từ đầu, mà trang bất kỳ.

Đã phủ ngập trên mênh mông mặt hồ, tiếng chim đơn độc

và rền rĩ

Những quả đồi cựa mình và lặng lẽ bước đi

Những đám mây tha phương đã trở về, đứng bên kia đầu dốc

Ngước nhìn lên trong đêm mờ sao, và tôi nhận thấy

Linh hồn của những người chết trên mảnh đất này

Bay lượn nặng nề cùng linh hồn những chiếc thuyền thúng

Và linh hồn những con chó chạy ra mép nước sủa vang

đón linh hồn những ông chủ

Linh hồn một bà già hấp hối đòi gặp linh hồn con cháu

Ngước nhìn lên và tôi thấy linh hồn ông nội tôi

Đang dựng lại đình làng và linh hồn bà nội

Đang đội đất đắp đê dài đến tận chân trời

Không hiểu là bởi vì đâu, phải chăng là do trong sự đọc của mình thường trực một cái nhìn văn xuôi, nên tôi, gần như là bằng trực giác vậy, thật mắt nhìn thấy, hiển hiện, trong trang thơ tuyệt ảo này của Bài ca những con chim đêm (năm 2000)[5] phần hồn của một cuốn tiểu thuyết mà phần chữ còn chưa được viết ra.

Mà không chỉ một trang này, hầu như trang nào của tập thơ cũng gợi cho tôi tứ của một thiên truyện. Thế nên, với tôi, Dưới trăng và một bậc cửa là một tập thơ mang dung lượng của vô kể những ý tưởng tiểu thuyết. Thậm chí thực sự hẳn ra là một thiên tiểu thuyết. Chẳng hạn, Cây ánh sáng, hay Hồi tưởng, hay Nhân chứng của một cái chết, mà đặc biệt là Khúc ba.

… Nếu ngày ấy tôi lên thuyền tôi đã ở bến bờ khác…

Cô đọng tới tột mức trong hai trang thơ, Khúc ba là một tiểu thuyết bi kịch, trữ tỉnh và huyền ảo, mà đọc đi đọc lại lần nào tôi cũng bị lay động tận đáy lòng.

Cũng kết tinh lại chỉ trong hai trang thơ, Hồi tưởng tháng Chín (trong Hồi tưởng), với tôi, là một tiểu thuyết triết lý, hoặc có thể nói, một ngụ ngôn tiểu thuyết, hết sức cao thâm và hàm súc. Tôi cảm tưởng đây là một truyện ngụ ngôn về chính tôi, về những năm tháng viết văn đằng đẵng của tôi, về sự mò mẫm và về niềm vô vọng.

Chúng ta cố ngước mắt kiếm tìm dấu vết

Và lạc ngay trước cửa ngõ nhà mình

Thú thực là tôi thấy buồn cho mình. Tôi đã từng có mặt trong thực cảnh của hai trang thơ đó: một buổi sáng ngập dưới sương mù… bộ hành tất cả đều như bỗng nhiên bị lòa, hoảng hốt hỏi nhau về con đường vẫn thường đi… duy nhất một người, người mù, là bình thản, thong thả bước đi giữa những hàng cây… Có mặt trong cảnh tượng đó và là một người viết văn, song chỉ thế thôi, tôi chỉ nhìn thấy, với một chút cảm giác là lạ chứ không nhận thấy, không nghĩ tiếp được, không manh nha nổi trong tâm trí một ý tưởng văn chương nào như là đáng lẽ ra.

Nhưng chúng ta không sao hình dung được

Con đường trong ngôn ngữ của trí tưởng tượng

giữa bóng tối

3. Nói chung là rất buồn, cảm nhận khi vừa đọc xong Dưới trăng và một bậc cửa, một nỗi buồn thẳm sâu, mênh mang khôn tả, xâm chiếm tâm hồn tôi.[6] Nỗi buồn ấy tôi tưởng chừng có thể trực tiếp chạm tay vào trên từng trang sách, và có thể cả nhìn thấy nó, ngoài cửa sổ.

Cửa sổ căn phòng mà tôi hằng đêm chong đèn đọc sách cũng giống ô cửa sổ quên đóng và đèn quên tắt của nhà thơ trông ra một mặt hồ và ra xa hơn nữa tới một triền đồi. Thực cảnh là vậy, và bấy lâu qua cửa sổ tôi chỉ thấy được đúng như thể, hồ nước và những quả đồi, nhưng từ đêm qua, như là từ trong tập thơ nhìn ra, tôi nhìn thấy một hiện thực khác, một cõi khác của thế gian.

Ngước nhìn lên trong đêm mê sảng của một hồ nước và

như một chứng nhân

Của lịch sử lặng câm và tôi nhìn thấy…

Đấy là một cõi mê loạn mà khôn xiết sầu thương thống thiết hiển hiện trong những lời thơ u sầu mà uy nghi và trầm mặc, với giọng thơ, nhịp thơ buồn vô hạn.

Linh hồn những ông vua vẫn mê đắm những linh hồn

tì thiếp

Linh hồn những ngựa bạch vẫn kéo theo linh hồn những cỗ xe

Và linh hồn những đao phủ bay song song linh hồn

những cái đầu bị chặt

Một đoàn dài linh hồn những người lính đang tìm về

linh hồn những ngôi nhà

Và bên này hồ nước linh hồn những người đàn bà góa bụa…[7]

3. Đêm qua, đứng bên cửa sổ, theo mách bảo của nhà thơ, tôi ngước nhìn lên.

Ngước nhìn lên ngôi sao mỗi lúc một sáng hơn

Mỗi lúc nghe một rõ hơn như chính từ bản thân mình

Giọng nói xa lạ và quen thuộc

Cả hồ nước mở ra một con mắt

Sáng dần lên một đóa hoa

Lời mách bảo của thơ như là lời mách bảo nghe thấy từ trong tiếng sấm vọng về từ bên kia hồ, như lời của trời đất, khiến tôi bàng hoàng, choáng ngợp.

Nguồn: Tuổi trẻ cuối tuần 30-8-2020, tr. 32-33.

[1] Sau “Đây là thơ”, nguyên văn còn viết thêm nhưng Tuổi trẻ cắt: “, lại không phải thông lệ văn vần, và có lẽ cũng không phải Hậu hiện đại, dạng thức thơ đang dần một thịnh hành.

Trước, tôi đã tìm đến một số tác phẩm được các nhà nghiên cứu định danh là thế, là Hậu hiện đại, mà chắc là do sự đọc và hiểu cố hữu của mình làm cho vướng vấp nên dù rất cố tôi vẫn như bị bật dội ra, không vào nổi. Nhưng, với Dưới trăng và một bậc cửa, chẳng những không hề bị chữ nghĩa của nó làm khó, tôi còn “tâm đầu ý hợp” ngay từ trang đầu, qua hàng đêm, từng dòng. Bởi vậy, từ sự cảm thụ nhập tâm như thế của bản thân, tôi tự cho rằng tập thơ tuyệt vời đột ngột và khác lạ này không phải là Hậu hiện đại, hoặc phải thì “hậu hiện đại” này hoàn toàn khác những “hậu hiện đại” kia.”

(“Nguyên văn” trong bài này là theo FB Nguyễn Quang Thiều)

[2] Tuổi trẻ đánh số thành ba phần (1, 2, 3), chứ không phải trong nguyên văn.

[3] Tuổi trẻ ghi 2015 nhưng thực ra bản in đầu tiên là năm 1992.

[4] Tuổi trẻ cắt: “Trong Dưới trăng và một bậc cửa có những trường đoạn tôi nhớ là đã đọc từ nhiều năm trước, mà bây giờ trong tổng thể của tập thơ, những trường đoạn ấy tôi thấy khác hẳn, vượt bậc lên, tầm cao hơn. Là bởi vì, có thể ví như, những năm trước đây tôi chỉ mới thấy từng quãng của dòng sông, còn bây giờ là suốt dọc triền sông, toàn cảnh.

Đời người, đời thơ, những ai có thể mở ra được cả một miền đất, cả một triền sông như nhà thơ này, tập thơ này?”

[5] Tuổi trẻ ghi 2000 nhưng thực ra bản in đầu tiên là năm 1999.

[6] Nguyên văn: “Nói chung là rất buồn, cảm nhận khi vừa đọc xong Dưới trăng và một bậc cửa, một nỗi buồn thẳm sâu, mênh mang khôn tả, xâm chiếm tâm hồn tôi.” Mấy chữ “Nói chung là rất buồn, cảm nhận khi vừa” bị cắt.

[7] Sau đoạn thơ trích dẫn trên, nguyên văn còn thêm (nhưng bị cắt):

“Và:

Dưới gốc thông già, linh hồn cái đầu một nhà thơ đang

đọc một linh hồn sách


Và bay quanh ông vừa cười vừa khóc, linh hồn ba họ

Ngước nhìn lên và cố tìm linh hồn chén rượu độc

Chỉ thấy linh hồn một ông vua cắn mãi không đứt

lưỡi mình…

Biết là chẳng lẽ nào lại cứ miên man dẫn hết câu thơ này tới câu thơ khác của tập thơ, mà tôi không đừng được, không thể cưỡng được sức cuốn âm thầm mảnh liệt của những dòng thơ ấy, những dòng thơ tuyệt tác “linh hồn của kiêu hãnh, khát vọng mang xúc cảm vĩ đại”.

Chủ Nhật, 13 tháng 9, 2020

Kỹ thuật thơ Việt Nam hiện đại và tiêu chuẩn đánh giá một bài thơ





Đoạn 1. CÁCH HỢP VẬN
Nguyên tắc: vần bằng hợp với vần bằng, vần trắc hợp với vần trắc. (Trong âm nhạc, bằng có thể hợp vận với trắc, thí dụ: nhà hợp vận với nhá).
Âm vận: Cách hợp vận trong thơ không có căn bản ngữ âm (phonetics) nào cả, ở đây tôi chỉ dựa theo cách hợp vận cổ truyền mà phân biệt như sau.
Âm vận có 2 loại toàn vận và bán vận.
Toàn vận: 2 từ chỉ khác nhau về phụ âm đầu. Thí dụ: a) tình, mình, khinh, linh. b) ta, mà, la, tha.
Bán vận: 2 từ khác nhau trong nguyên âm hay trong nguyên âm và phụ âm cuối.
A.- Bán vận trong nguyên âm: Những âm họp thành nhóm sau đây hợp vận với nhau:
1/ a, ă, â, o, ơ, ô, u, ư, oa, ua, ưa. Thí dụ: a) tha, mo, lu, thư, thoa, qùa, cua, thưa. b) lạ, thố, thụ, thóa, qụa, thủa, thửa, lựa. c) chang, rằng, nằm, lầm. d) thôn, mun,
2/ i, e, ê, oe, ue, uê, uy. Thí dụ: a) thi, me, ve, que, quy. b) thí, lẹ, thế, nhuệ. c) thịt, khét, chết. d) em, quen, đêm.
3/ ai, ay, ây, oi, ôi, ơi, oai, ui, ưi, ươi, uôi. Thí dụ: a) thai, chay, khoai, mòi, thôi, lơi, thui, người, nguôi. b) thái, cậy, mọi, đổi, củi, ngửi, lưới, đuối.
4/ i, uy, uya
5/ ia, uya.
6/ i, e, ê, iê, uyê. Thí dụ: a) tin, men, lên, thiên, thuyền. b) tịt, lét, tết, khiết, khuyết, tuyệt, tiếc, tích.
7/ a (+phụ âm), o (+phụ âm), ô (+phụ âm), u (+phụ âm), ư (+phụ âm), ươ (+phụ âm). Thí dụ: chang, trong, nung, lưng, chương, chuông; trọng, chúng, thượng, chuộng, nướng; nóc, được.
8/ oa (+phụ âm), uâ (+phụ âm), uô (+phụ âm). Thí dụ: a) loan, luân. b) thoát, khoác, luật, thuốc. c) loang, khuôn, chuông, khuân, khuâng.
9/ ao, âu.
10/ eo, oeo, êu, iêu, yêu, iu.
Tóm tắt, nguyên âm chia làm 2 nhóm chính có âm phân biệt: (a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư ) và (i, y, e, ê) . Nếu 2 nhóm này mà hợp vận với nhau thì bằng cách bắc cầu từ âm nọ qua âm kia, thì bất cứ 2 âm (2 nguyên âm hay 2 nhóm nguyên âm trong một từ) nào cũng có thể hợp vận với nhau.
B. Bán vận trong nguyên âm và phụ âm cuối. Nguyên âm thì theo nguyên tắc trên. Phụ âm cuối có thể thay đổi như sau:
1/ c, ch, t, p. Thí dụ: lắc, trách, tát, chập.
2/ n, nh, m. Thí dụ: a) than, cành, chàm. B) cận, thánh, cám.
3/ n, ng. Thí dụ: a) than, thong, không, thằng. B) cận, thắng, cống.
Thơ tự do rất hợp với bán vận. Trong thể thơ này, vần hợp nhau chan chát (thí dụ: hình, tình) làm câu thơ kém hay.
Điều tối kỵ trong âm vận : dùng 2 chữ giống nhau trong 2 vần kế tiếp hay trong 3 câu lục bát kế tiếp, ngoại trừ trường hợp nhắc đi nhắc lại để nhấn mạnh. (Nguyên tắc chung là tránh điệp ngữ). Thí dụ:
Nhà em mái tranh
Trắng giàn dây mơ
Bây giờ hoa cũ
Rụng hoài trong mơ
(Phạm Thiên Thư - Giàn mơ)
Tôi phải dỗ như là tôi đã lớn
Phải thẹn thò như sắp cưới hay vừa yêu
Phải nói vơ vào, rất vội: người yêu
Nếu ai có hỏi thầm: ai thế
(Nguyên Sa - Tuổi 13)
Những câu thơ lạc vận :
Thơ lạc vận có rất nhiều trong các tạp chí và Web sites, không tiện trích dẫn ra đây.
Thỉnh thoảng trong bài thơ có một hai chỗ lạc vận thì còn có thể bỏ qua. Chứ cả đoạn lạc vận thì bài thơ không còn giá trị.
Ngay cả những nhà thơ nổi tiếng cũng có những câu lạc vận, do vô tình hay cố ý. Thí dụ:
Từ ngày đàn rẽ đường tơ,
Sao tôi không biết hững hờ nàng đan .
Kéo dài một chiếc áo len ,
Tơ càng đứt mối, nàng càng nối dây.
Khánh ơi, còn hỏi gì anh?
Xưa tình đã vỡ, nay tình còn nguyên.
(Thâm Tâm - Gửi T.T.Kh)
Buồm lên biển tím chênh vênh,
Một đêm gã bỏ tình nhân lại bờ.
Lòng qùy nhớ mặt trời xa,
Vào quán biển hỏi thăm người xa xưa
(Phạm Thiên Thư - Quán rượu ven biển)
Con chim én cùng với thơ bay trong nắng
Trên môi anh dường có ngọn cỏ thơm
Là ngón tay nào trong mười ngón tay em
Có cả nụ hôn đầu quanh quất đó...
Tháng Giêng và anh rủ nhau ngồi dưới phố
Tô môi hồng xin nhớ cánh sen non
Tháng Giêng chờ một chút lượng xuân em
Nụ cười đó, anh chờ xuân vĩnh viễn
(Nguyên Sa - Tháng giêng và anh)
Sao hương sắc lên mắt mình tình tứ
Và đôi mắt nhìn tôi ngập nhừng chim sẻ
(Nguyên Sa - Tuổi 13)
Em chưa nhìn mà đã rộng trời xanh
Anh đã trông lên bằng đôi mắt chung tình
(Nguyên Sa - Áo lụa Hà Đông)
Có phải tôi chưa được quen
Làm sao buổi sáng đợi chờ em?
Hay từng hơi thở là âm nhạc
Đàn xuống cung trầm mắt nhớ thương?
(Nguyên Sa - Tương Tư)
Đoạn 2. HÌNH THỨC THƠ
I. Sự chọn lựa thể thơ
Thể thơ có nhiều: thơ đều chữ, không đều chữ và thơ tự do. Ở đây tôi không nói đến thơ Đường luật mà chỉ nói đến các thể thơ mới.
1/ Thơ đều chữ thay đổi từ 2 đến 8 chữ trong một câu.
Loại 2 chữ cũng như loại 3 chữ khiến hơi thơ ngắn, và bài thơ cũng thường ngắn, không nói gì được nhiều. Người dùng loại thơ này nhằm mục đích nói lên những âm thanh ngắn như tiếng nức nở, tiếng mưa rơi...
Thí dụ:
Sương rơi
Nặng trĩu
Trên cành
Dương liễu
Nhưng hơi
Lạnh lùng
Hiu hắt
Thấm vào...
(Nguyễn Vỹ - Sương rơi)
Loại 4 chữ phổ biến hơn, nhưng coi chừng dễ biến thành vè. Thế nào là vè? Vè là thơ dân gian, loại thường thấy là Sớ Táo Quân. Vè có thể là thơ 2 hay 3 chữ, nhưng thường dùng thể 4 chữ hay lục bát. Vè 4 chữ dùng liên vận, tức là 2 câu liền nhau vần với nhau, thay đổi giữa bằng và trắc. Vè không chia bài thơ thành từng đoạn 4 câu.
Loại 4 chữ chia từng đoạn 4 câu và dùng cách vận (giống 4 câu đầu của thể thất ngôn) thì hay hơn liên vận.
Loại 5 chữ thường chia đoạn 4 câu và dùng cách vận.
Loại 6 chữ cũng ít được dùng, nhưng thỉnh thoảng vẫn thấy trên thi đàn.
Xuân hồng có chàng tới hỏi
- Em thơ chị đẹp em đâu?
- Chị tôi hoa ngát cài đầu
Đi hái phù dung trong nội!
(Huyền Kiêu - Tình sầu)
Thể thơ từ 4 đến 6 chữ cho hơi thơ trung bình, thích hợp với phong thái nhẹ nhàng, trang trọng.
Loại 7 chữ rất phổ biến. Niêm luật không còn trói buộc, miễn là đọc lên, câu thơ không trúc trắc. Thể thơ này thích hợp với phong thái trang nghiêm, cổ kính.
Loại 8 chữ là thể thơ hoàn toàn Việt nam, dùng liên vận, nhưng cũng ít được dùng. Thể thơ này thường diễn tả những tình cảm tha thiết, hùng tráng. Điển hình nhất là bài "Hổ nhớ rừng" của Thế Lữ. Gần đây Nguyên Sa hay dùng thể thơ này.
Dĩ nhiên câu thơ càng dài thì có tính cách kể lể nhiều hơn và không cần xén bớt từ.
Thơ đều chữ biến thể có chêm ít câu không đều chữ, hoặc thay đổi số câu (thay vì thông thường là 4) trong đoạn. Thể thơ này thường xảy ra với loại 4, 5 hay 6 chữ.
Thí dụ về thay đổi số chữ trong câu:
- thơ 5 chữ
Khoảng thời gian loãng đó
Không có mặt nàng
Mưa đỏ miền cao nguyên
Núi đồi sầu lụn bại
Khi tôi trở về
Thành phố lạnh khoang xe
Mây sương lòng thung lũng
Và ngàn thông co ro
(Nguyễn Vũ Văn - Trên con đường nhà thờ)
- thơ 8 chữ
Hãy biến cuộc đời thành những tối tân hôn (9 chữ)
Nếu em sợ thời gian dài vô tận
Tháng sáu trời mưa, em có nghe mưa xuống (9 chữ)
Trời không mưa em có lạy trời mưa?
Anh vẫn xin mưa phong tỏa đường về
Anh vẫn cầu mưa mặc dầu mây ảm đạm (9 chữ)
(Nguyên Sa - Tháng sáu trời mưa)
Thay đổi số câu trong đoạn:
Anh đứng đây là đâu
Em cười như lá mỏng
Khép cửa vào chiêm bao
Anh đứng đây là đâu
Em nói như gió nghẹn
Chiều nghiêng mây Thị Mầu
(Hoàng Cầm - Chuyện trăm năm)
Cô đơn bằng Thượng Đế,
Yếu đuối như linh hồn,
Làm sao tôi trèo lên
Vực thẳm tờ bản thảo
Trắng im lìm giá băng.
Ngó thấy tự đằng xa,
Cuộc đời hàm tiếu thật.
Tôi lỡ daÏi ôm ghì
Làm dập hoa, sướt gai
Còn gì tuổi trẻ nữa?
(Tô Thùy Yên - Thân phận của thi sĩ)...
hỡi bé lang thang vùng thảo nguyên
như ta ngày xưa. thời thơ dại
áo vắt vai đi qua rừng sim
lội trong cỏ may ngập đầu gối
biển cỏ mênh mông sóng dập dờn
hò ơi giong thuyền về bến đợi
cho ta theo nhé về đêm nay
đêm trong nhà xưa. đêm mát rượi
xin bát canh rau ăn rất hiền
chong ngọn đèn dầu mẹ dệt cửi
đọc chuyện thạch sanh lòng hân hoan
có khi mong được làm thằng cuội
trong giấc ngủ mơ không thấy tiên
chỉ thấy vườn xưa cây trĩu trái
tan mơ. mở cửa ra nhìn sao
muôn ánh sao mờ dòng lệ chảy
đêm khuya rì rào trong cây xanh
nghe bên láng giềng gà tre gáy
sáng mai ta bước ra ngoài sân
nhìn quanh hiên rụng đầy hoa bưởi
năm năm ta qua vùng thảo nguyên
đến nay vang vang mùa hạ gọi
mùa hạ cùng ta phơi áo biếc
bên hàng dâu rũ lá mong manh
mùa hạ cùng ta đi hài đỏ
qua cầu tơ liễu lá vàng trong...
(Thảo nguyên - Nguyễn Xuân Thiệp)
2/ Thơ không đều chữ có lục bát và song thất lục bát.
Song thất lục bát không còn được dùng.
Lục bát là loại phổ biến nhất vì dễ làm, nhưng người mới làm thơ cũng dễ biến nó thành vè. Dễ làm nhưng khó sửa. Làm câu nào là chết câu ấy. Bài thơ làm xong rồi, muốn thêm bớt một đoạn là cả một vấn đề bởi vì vần thơ cấu kết với nhau theo kiểu liên hoàn, vừa yêu vận (vần nằm giữa câu) vừa cước vận (vần ở cuối câu).
3/ Thơ tự do.
Loại thơ này rất thông dụng nhưng đòi hỏi kỹ thuật và sự sáng tạo nhiều nhất. Nhiều người cho rằng người mới làm thơ nên làm các loại thơ khác trước khi làm thơ tự do, để nắm vững kỹ thuật và âm điệu.
Một loại thơ tự do đặc biệt là thơ xuôi, có hình thức như văn xuôi. Loại thơ này cần hơi thơ dài, mặc dù bị cắt thành từng câu ngắn, và dường như không chú ý đến âm vận.
Thí dụ:
Làm thế nào để quên được nhau. Hạt mưa kia long lanh nỗi nhớ niềm từ biệt, hoàng hôn màu khói nhạt. Hôm nay quê hương từ bỏ, anh đau đớn làm đứa con hoang đầu xó chợ...
Hỡi Liên, những Liên và Liên
Dù một chút đau thương, từ chối, tổ quốc ta chạy dài trên địa ngục, xòe mở hai bàn tay anh khóc đó - những cánh tay gầy trơ xương, chọn. Con đường đi buổi chiều hấp hối, ôi buổi chiều sương mù.
(Thanh Tâm Tuyền - Liên, những bài thơ tình thời xa cách)
Tôi giữ em lại trên một hè phố đông người. Em đừng ngần ngại. Tôi bảo rằng: tôi yêu em.
Tôi nói không thẹn thùng, không đắn đo dò xét. Bởi vì em ơi tôi không phải là gã lái buôn hỏi giá hàng trong một buổi chợ chiều hỗn loạn. Cũng không phải là ngưoòi thư ký già ngồi mân mê vài chiếc đinh ghim và mưu toan làm chủ sự...
(Nguyên Sa - Ngỏ ý)
II. Cách xuống dòng và chấm câu
Về cách xuống dòng, có tác giả trình bày thơ theo một quan điểm hội họa hoặc nội dung bài thơ. Như Nguyễn Vỹ chẳng hạn, trình bày bài thơ Hoàng Hôn theo hình dáng một đàn cò.
Có người thay đổi chỗ xuống hàng trong các thể thơ đều chữ hay lục bát, như ngắt đôi câu 8 trong thể lục bát chẳng hạn. Đó là những cái cầu kỳ không tác dụng.
Trong thơ tự do, chỗ xuống dòng là để qua một ý thơ khác, để thay cho một dấu chấm hay dấu phẩy, để ngắt hơi thơ, để nhấn mạnh một chữ hay cụm từ hoặc để thể hiện một thanh âm...
Dưới đây là thí dụ về sự nhấn mạnh bằng cách xuống hàng:
Hôm nay
Nghe lời hát quen quen
Người đàn bà ấy mang tên
Lời từ biệt
Trên một sân ga vắng
Tiếng kèn trầm của một chuyến ô-tô-ray
Đầy dĩ vãng
(Thanh Tâm Tuyền - Bao giờ)
Những câu "Hôm nay", "Lời từ biệt" và "Đầy dĩ vãng" được xuống dòng để nhấn mạnh.
Dấu phẩy rất cần thiết cho ý nghĩa cũng có thể bị tước bỏ. Trong câu dưới đây, tác gỉa muốn nói chờ đợi nhiều người chứ không phải một người:
Tôi chờ đợi
một người không
nhiều người
(Thanh Tâm Tuyền - Bài ngợi ca tình yêu)
Về cách chấm câu, cũng mỗi người một ý. Có người chấm câu rất cẩn thận, có người không chấm câu. Người ta cho rằng việc xuống dòng không có dấu chấm phẩy bao hàm sự kéo dài ý nghĩa của câu thơ, "những khoảng trống có ý nghĩa".
Theo ý tôi, thơ lục bát nên có chấm câu vì mỗi ý thường chỉ gói tròn trong 2 câu lục và câu bát kế tiếp.
Lại có người không viết hoa ở đầu câu, làm như bài thơ chỉ là một trích đoạn.
Cũng có người chấm câu ở giữa dòng mà không xuống hàng. Nguyễn xuân Thiệp chẳng hạn, chấm câu giữa dòng và không viết hoa:
hỡi gió mùa
đã thổi từ cội nguồn xa tới cửa hiện thời
thổi qua những rặng núi. những dòng sông. những xóm làng. thành phố quê hương tôi
(Nguyễn xuân Thiệp - Tôi cùng gió mùa)
Dù sao, cách chấm câu cũng chỉ là tiểu tiết, không ảnh hưởng đến phẩm chất bài thơ.
Đoạn 3. NỘI DUNG
1/ Dàn ý
Ít nhà thơ nào làm thơ có dàn bài (plan). Tuy nhiên, với những bài thơ có phân đoạn, hoặc thơ tự do, việc sắp xếp lại các câu thơ cho có trình tự hợp lý là điều cần thiết.
2/ Ý thơ
Bài thơ hay phải có ý thơ mới lạ. Mới lạ trong chi tiết, trong cách so sánh, cách liên tưởng... Ý thơ có thể rất tinh tế, sát với thực tế, nhưng cũng có thể rất cường điệu.
Để tả sự trống vắng trong tâm hồn:
Sao tuổi trẻ qúa buồn
Như bàn ghế không bầy
(Thanh Tâm Tuyền - Dạ khúc)
Để diễn tả vẻ buồn:
Hôm nay Nga buồn như một con chó ốm
Như con mèo ngái ngủ trên tay anh
(Nguyên Sa - Nga)
Để diễn tả mái tóc vàng và đôi mắt nâu:
Tôi sẽ sang thăm em
Để những mái tóc màu củi chưa đun
Mầu gỗ chưa ai ghép làm thuyền
Lùa vào nhau nhóm lửa...
Hay đôi mắt màu thóc đang say
Mầu vàng khô pha lẫn sắc nâu gầy
(Nguyên Sa - Tôi sẽ sang thăm em)
Để diễn tả mái tóc mun:
Mùa tóc mun
Đẹp những khu rừng không bóng cây
(Thanh Tâm Tuyền - Mai)
Để diễn tả bàn tay trắng nõn, đôi mắt long lanh và đôi mắt ngọc bích:
Những ngón tay dài ướp trọn mấy ngàn thu
Mà men sáng trong xanh màu trăng vời vợi...
Hay một đêm nao nước lụt Ngân Hà
Thượng Đế đưa sao mang gửi về khóe mắt?...
Mắt dịu ngọt đúc từ rừng ngọc bích
Hay linh hồn trăm phiến đá chân tu?
(Nguyên Sa - Đẹp)
Để diễn tả bước chân nặng nề và nỗi lòng chất chứa:
Ta về từng bước chân là núi
Thăm thẳm lòng mang một biển sâu
(Khoa Hữu - Trở về)
Để diễn tả sự đành tâm chia ly:
Người đi, ừ nhỉ người đi thật
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu cay
(Thâm Tâm - Tống biệt hành)
Để diễn ta tình trạng giải phóng, tự do cá nhân:
Tôi chờ đợi
Cười lên sặc sỡ
La qua mái ngói
(Thanh Tâm Tuyền - Bài ngợi ca tình yêu)
Buồn vì tuổi trẻ bất lực:
Hôm nay
Tuổi nhỏ khóc trên vai
(Thanh Tâm Tuyền - Bài ngợi ca tình yêu)
Vân vân.
Để kết thúc đoạn này, tôi xin nhắc đến loại thơ tượng trưng. Trong bài thơ loại này, tác giả có thể dùng bất cứ cái gì để tượng trưng cho đối tượng mà tác giả ngầm nói tới.
Thí dụ bài này:
Cánh đồng con ngựa chuyến tàu
Trên cánh đồng hoang thuần một màu
Trên cánh đồng hoang dài đến đỗi
Tàu chạy mau mà qua rất lâu
Tàu chạy mau tàu chạy rất mau
Ngựa rượt tàu rượt tàu rượt tàu
Cỏ cây cỏ cây lùi chóng mặt
Gò nổng cao rồi thung lũng sâu
Mặt trời mọc xong mặt trời lặn
Ngựa gục đầu gục đầu gục đầu
Cánh đồng a! cánh đồng sắp hết
Tàu chạy mau càng mau càng mau
Ngựa ngã lăn mình mướt như cỏ
Như giữa nền nhung một vết nâu
(Tô Thùy Yên)
Bài này nói về kiếp số con người. Chuyến tàu là thời gian, cánh đồng là đời người, con ngựa là con người.
Hy vọng
Con bướm lạc vào cánh đồng
Đóa hoa thành ruộng lúa
Con bướm khóc giữa cánh đồng
Hồn hoa thành đứa nhỏ
Con bướm chết trong bàn tay
(Nguyễn Vũ Văn)
Bài này nói về niềm hy vọng bị bóp chết bởi sự lừa dối.
Đoạn 4. TỪ NGỮ
Bài thơ hay không nên dùng những từ ngữ đã dùng nhiều trong văn thơ, nhất là tính từ, tỉ dụ như: (lòng) tê tái, (dài) lê thê, não nùng... Tuy nhiên, ta có thể làm mới những từ ấy bằng cách dùng nó theo ý nghĩa khác đi một chút. Thí dụ chữ "thăm thẳm" thường dùng để chỉ chiều sâu, Tô Thùy Yên dùng cho tiếng chó tru (trong bài "Góa phụ") để nói lên âm thanh dài và cao. Thanh Tâm Tuyền dùng "điệu nhạc gầy" để nói lên những nốt nhạc cao ("Dạ khúc").
Thanh Tâm Tuyền còn dùng từ "cười sặc sỡ" ("Bài ngợi ca tình yêu"). Không biết ông muốn nói "cười sặc sụa", "cười muôn màu, đủ mọi kiểu", hay là "cười điên dại" ("điên dại" thì có liên quan gì đến "sặc sỡ"?):
Tôi chờ đợi
cười lên sặc sỡ
la qua mái ngói
thành phố ruộng đồng
bấu lấy tim tôi
thành nhịp thở
(Thanh Tâm Tuyền - Bài ngợi ca tình yêu).
Một bài thơ bình dị, không có từ mới, vẫn có thể là bài thơ hay, rất hay, miễn là có góc cạnh mới lạ, lời thơ giản dị, trong sáng, hay nồng nàn, thành khẩn... Thí dụ:
Em tan trường về
Đường mưa nho nhỏ
Chim non giấu mỏ
Dưới cội hoa vàng
Bước em thênh thang
Aùo tà nguyệt bạch
Ôm nghiêng cặp sách
Vai nhỏ tóc dài
(Phạm Thiên Thư - Ngày xưa Hoàng thị)
Hay là:
Nhớ chăng Barbara
Hôm ấy mưa rơi hoài xuống Brest
Anh gặp em ở phố Xiêm
Em mỉm cười
Và anh cũng mỉm cười
(Thanh Tâm Tuyền - Barbara, dịch thơ Jacques Prévert)
Hay là:
Đón em suốt bãi sông Hằng
Cát muôn kiếp mãi nhớ lần gặp xưa
Hẹn về dù nắng dù mưa
Hẹn về dù sớm dù trưa cũng về
(Tô Thùy Yên - Suốt bãi sông Hằng)
Sáng tạo
Ngoài ra, thơ hay cần từ ngữ sáng tạo. Thi sĩ mất nhiều thì giờ ở điểm này. Sáng tạo không phải là chế ra chữ mới, mà dùng chữ đã có với nghĩa khác thường. (Chế ra chữ mới cũng được thôi, nhưng nếu người đọc không hiểu thì lại thành thơ bí hiểm).
Hãy xem những từ gạch dưới:
Em về, cát bụi òa lên
Trăm thương nghìn nhớ vỡ rền thế gian
(Tô Thùy Yên - Suốt bãi sông Hằng)
Tiếng kèn hát mãi than van
Điệu nhạc gầy níu nhau tuyệt vọng
(Thanh Tâm Tuyền - Dạ khúc)
Người đàn ông trở dậy sau giấc ngủ trưa
Mặt trời sáng lòa
Một người nào đội nón đi ra
Tiếng guốc bốc cháy lên hàng cây tù tội
(Nguyễn Vũ Văn - Cảm giác buổi chiều)
Tô Thùy Yên phục hồi cổ ngữ. Một cách làm mới thơ? Hãy xem:
Đêm nằm, lệ chảy mòn tay
Nghe chừng đá nát vàng phai đến điều
(Hái rau)
Đòi phen toan đẩy cửa liều
Ra cùng thiên hạ vui chiều ngửa nghiêng
(Suốt bãi sông Hằng)
Thảng như con ngựa già vô dụng
Chủ bỏ ngoài trăng đứng một mình
(Góa phụ)
Hề, ta trở lại gian nhà cỏ
Giữa cánh đồng không bên kia sông
(Hề, ta trở lại gian nhà cỏ)
Dưới đây là những chữ do tác giả sáng chế ra, để độc giả tự tìm hiểu:
Rừng đưa mái võng treo triền
Như quằn chiều sánh, như lền gió qua.
(Tô Thùy Yên - Hái rau)
Nổi chìm, lệ lợ máu lền
Đau thương thôi đã pha rền tử sinh
(Tô Thùy Yên - Suốt bãi sông Hằng)
Những ý thơ thách đố độc giả:
Em nói như gió nghẹn
Chiều nghiêng mây Thị Mầu
(Hoàng Cầm - Chuyện trăm năm)
Mây thành thổi lửa
Nẻo Đông Triều khép mở gió kỳ lân
(Hoàng Cầm - Đêm thổ)
Vừa khi vuốt tóc nhìn chênh bến
Chợt thấy dài xanh ngất nước mây
Hoa khô xây bậc cho thềm ngọc
Một phím đàn đôi bốn cánh bay
Ngự đỉnh dài ánh nguyệt xuyên xanh
Đón chào nữ chúa khóc vô thanh
(Hoàng Cầm - Ngã ba sông)
Biểu tượng
Thi ca thường dùng biểu tượng, thí dụ mùa xuân hay mầu hồng chỉ sự tốt đẹp, mùa đông hay màu xám chỉ sự buồn rầu, chết chóc. Biểu tượng có tính cách phổ quát, được mọi người chấp nhận. Thơ hay cũng cần làm mới biểu tượng.
Thí dụ, Trần Dạ Từ dùng hoa và trái thay cho mùa xuân:
Hoa và trái một đêm nào thức dậy
Nghe mộng đời xao xuyến giấc xuân xanh
(Mộng đời)
Riêng Thanh Tâm Tuyền có lối dùng biểu tượng rất độc đoán:
Sao tuổi trẻ qúa buồn
Như con mắt giận dữ
(Dạ khúc)
Giận dữ không thể là biểu tượng cho cái buồn. Con mắt giận dữ có thể buồn, nhưng buồn không nhất thiết có nét giận.
Nếu đã đi từ Hà Nội xuống Hải Phòng hay sang Bắc Ninh
Nếu đã đi từ Sài Gòn xuống Vĩnh Long hay lên Thủ Đầu Một
Chuyến xe vẫn chỉ thuộc một mình
(Bao giờ)
Những đoạn đường nói trên cũng không buộc phải là đoạn đường độc hành.
Điệp ngữ
Nguyên tắc chung là tránh điệp ngữ trong cùng một câu hay trong những câu liên tiếp, như dưới đây:
Quê nhà ôi những đêm tàn lửa
Phía mặt trời ai gọi lửa lên
(Khoa Hữu - Trở về)
Hay là:
Mười năm thế giới già trông thấy
Đất bạc màu đi, đất bạc màu
(Tô Thùy Yên - Ta về)
Những trường hợp dùng điệp ngữ:
1- để nói đến ý của chính chữ đó:
Ôi, mê hoặc ngày ta trở lại
Núi còn đây tưởng núi hoang đường
(Khoa Hữu - Trở về)
Ta rảo quanh làng hóng chuyện phiếm
Đời người cũng chuyện phiếm mà thôi
(Tô Thùy Yên - Ta về)
2- để nhấn mạnh:
Mặt trời mọc!
Mặt trời mọc!
Rưng rưng mùa hoa gạo
(Quách Thoại - Trăng thiếu phụ)
3- để diễn tả một động tác kéo dài hay lập đi lập lại:
Trên cánh đồng hoang thuần một màu
Trên cánh đồng hoang dài đến đỗi
Tàu chạy mau mà qua rất lâu
Tàu chạy mau tàu chạy rất mau
Ngựa rượt tàu rượt tàu rượt tàu
(Tô Thùy Yên - Cánh đồng con ngựa chuyến tàu)
4- để tạo âm hưởng đặc biệt:
Ở đây ta có dăm người bạn
Phúc tự tâm, không lý đến đời
Ở đây ta có dăm pho sách
Và một dòng sông, mấy cụm mây...
Dòng sông hiền triết trôi vô lượng
Dòng sông hiền triết chảy vô tâm
Mà ta ngưỡng vọng như sư phụ
Mà ta thân thiết tựa tri âm...
(Tô Thùy Yên - Hề, ta trở lại gian nhà cỏ)
Anh sẽ vuốt tóc em cho đêm khuya tròn giấc
Anh sẽ nâng tay em cho ngọc sát vào môi
Anh sẽ nói thầm như gió thoảng trên vai
Anh sẽ nhớ suốt đời mưa tháng sáu
(Nguyên Sa - Tháng sáu trời mưa)
5- để mở rộng ý phụ:
Dưới đây là một bút pháp nhằm mở rộng một ý mà vẫn giữ tính cách thống nhất của ngữ pháp:
Nhân danh dân chủ tự do
Chúng bán đầy đường súng đạn
Chúng bán đầy đường sinh mạng
Dạy nhau cách giết người
Lấy tội ác viết tiểu sử
(Nguyễn Vũ Văn - Vì sao)
Trong đoạn thơ trên, câu thứ 3 nhằm mở rộng ý của câu thứ 2 (súng đạn = sinh mạng) mà vẫn giữ được chữ "Chúng" làm chủ từ (subject) cho 2 câu cuối cùng.

Đoạn 5. BÚT PHÁP
Bút pháp là cách hành văn, bao gồm cả cú pháp (syntax, syntaxe), lối viết (style) và cách diễn đạt (tournure, turn of phrase).
Bút pháp thơ thật là đa dạng. Có những cách mà các nhà thơ đều dùng để cô đọng thơ, so sánh đối tượng, làm mới thơ... Ở đây tôi xin nói đến một số bút pháp chung và bút pháp đặc biệt.
A.BÚT PHÁP CHUNG
1. Dùng từ đồng cách (apposition)
Đồng cách từ là bút pháp phổ biến nhất để giải thích, so sánh, mở rộng ý nghĩa của một từ...
Thí dụ:
Đôi khi anh muốn tin
Ngoài đời đầy cỏ hoa tinh khiết
Mà bên cỏ hoa quyến rũ cánh tay em
Vòng ân ái
(Thanh Tâm Tuyền - Lệ đá xanh)
= Cánh tay em là vòng ân ái.

Trán mênh mông, cánh sông dài
Thổ ngơi xuôi mái, hồn ngoài châu thân
(Viên Linh - Nghi hoặc nỗi gì)
= Trán mênh mông như cánh sông dài
2. Xén bớt những từ để cô đọng lời thơ
Xin đọc đoạn thơ này:
Em độc thoại lời kinh ánh xanh
Trăng lu khuya mỏi nén nhang tàn
Chó tru thăm thẳm ngây thiên địa
Mái ngói nghiêng triền trái rụng lăn...
Ngọn đèn hư ảo chong linh vị
Thắp trắng thời gian mái tóc em
(Tô Thùy Yên - Góa phụ)
Bạn có thể nhận thấy những từ gọt bỏ nếu diễn ý như sau:
Em độc thoại lời kinh ánh xanh
Trăng lu, về khuya, vì mỏi nên nén nhang tàn
Chó tru thăm thẳm làm ngây ngất thiên địa
Trên mái ngói nghiêng triền, trái rụng lăn xuống...
Ngọn đèn hư ảo chong linh vị
Thắp trắng thời gian trên mái tóc em
Thí dụ 2:
Đôi khi anh muốn tin
Ngoài đời đầy cỏ hoa tinh khiết
Mà bên cỏ hoa quyến rũ cánh tay em
Vòng ân ái
(Thanh Tâm Tuyền - Lệ đá xanh)
Diễn ý:
Đôi khi anh muốn tin
Rằng ngoài đời đầy cỏ hoa tinh khiết
Mà bên cỏ hoa là cánh tay em quyến rũ
Thí dụ 3:
Hồn thảo mộc giấc ngủ
Nằm mơ những ngôi sao mặt trăng
(Thanh Tâm Tuyền - Mai)
Diễn ý:
Trong giấc ngủ, hồn như hồn của thảo mộc
Nằm mơ những ngôi sao và mặt trăng
Thí dụ 4:
Tao nhớ mày những rừng giang đồi sắn
Điếu thuốc lào tê tái lúc tinh mơ
Ngọn rau hoang tô canh ảm đạm
(Nguyễn Vũ Văn - Nhớ người vượt biển)
Diễn ý:
Tao nhớ mày cùng những rừng giang, đồi sắn
Cùng điếu thuốc lào tê tái lúc tinh mơ
Cùng ngọn rau hoang làm nên tô canh ảm đạm
3. Xén bớt từ để làm mới thơ
Những từ trong ngoặc dưới đây đã được lược bỏ để làm mới cú pháp:
Nhớ em một đóa thanh tao
Kết tinh nữ sắc từ (khi) vào trần gian.
(Nguyễn Vũ Văn - Sợi tóc)
Ngàn (năm) xưa ai từng ở nơi này
Rồi đến (năm) ngàn sau ai đến đây
(Phạm Thiên Thư - Liềm trăng) v.v...
4. Thêm từ
Nhiều từ được thêm vào cho ý thơ có vẻ mới lạ, nhưng thật ra không có thêm ý nghiã gì.
Thí dụ những từ gạch dưới trong các câu này:
Hôm nay
tuổi nhỏ khóc trên vai
(Thanh Tâm Tuyền)
Hôm nay chợt nhớ thương người
Tiếng ve mùa cũ rụng rời vai anh
(Trần Dạ Từ - Nụ hôn đầu)
Khuya buồn tủi nhục môi em
Mưa bay nhỏ nhẹ qua thềm bơ vơ
(Phạm Công Thiện - Ngày sinh của rắn)
5. Đổi chữ
Thay vì "tôi chờ đợi lớn lên như giông bão":
Tôi chờ đợi
Lớn lên cùng giông bão
(Thanh Tâm Tuyền - Bài ngợi ca tình yêu
Có ý kiến cho rằng câu này không có đổi chữ, mà có nghĩa "Tôi chờ đợi lớn lên cùng chiến cuộc" (giông bão = chiến cuộc). Nhưng chẳng lẽ tác giả cũng chờ đợi chiến cuộc lớn lên?
6. Mượn cái này tả cái khác:
Để tả nỗi khao khát ra biên giới mà vùng vẫy:
Đường nào ra biên giới
Gió vẫy vùng cỏ cây
(Nguyễn Vũ Văn - Cỏ úa)
7. Liên tưởng: kết hợp ý của các mệnh đề độc lập (independent clauses).
Thí dụ 1:
Khúc tình ca thần nữ
Người con gái khỏa thân
Vung lên từng chuỗi ngọc
Trong miền sương mong manh
(Nguyễn Vũ Văn - Trên con đường nhà thờ)
Câu thứ nhất độc lập với các câu sau về ngữ pháp, nhưng kết hợp với ý của các câu đó thành một chi tiết duy nhất.
Thí dụ 2:
Chiếc cửa sổ nào ai mở ra
Tiếng dương cầm bâng khuâng một thời dĩ vãng
(Nguyễn Vũ Văn - Cuối thu)
Hai câu trên hàm ý tiếng đàn thoát ra từ cánh cửa sổ mở rộng.
8. Cụ thể hóa những cái trừu tượng
Đây là nỗi buồn lởn vởn:
Nỗi buồn như bầy chiên
Vây quanh chàng mục tử
(Nguyễn Vũ Văn - Những cánh tay của gió)
9. Trừu tượng hóa những cái cụ thể
Nghe thiên thu cũng trở trời
Áo phơi mùa trước như lời bỏ quên
(Tô Thùy Yên - Suốt bãi sông Hằng)
Sợi tóc đen như một chuỗi cười
Trên chùm môi lá biếc
(Thanh Tâm Tuyền - Tháng giêng)
10. Dùng đảo ngữ
Đảo ngữ thường được dùng với mục đích:
- thỏa mãn âm vận hay âm điệu:
Đôi khi anh muốn tin
Ngoài đời đầy cỏ hoa tinh khiết
Mà bên cỏ hoa quyến rũ cánh tay em
Vòng ân ái
(Thanh Tâm Tuyền - Lệ đá xanh)
Quản chi lớp lớp hư hình
Dài đêm đăm đắm mắt nhìn quầng thâm
(Tô Thùy Yên - Suốt bãi sông Hằng)
Vừa khi vuốt tóc nhìn chênh bến
Chợt thấy dài xanh ngất nước mây
(Hoàng Cầm - Ngã ba sông)
- thay đổi bút pháp:
Người về như sóng
Buồn tôi quanh năm...
Bóng hình chia đôi
Sầu tôi lụ khụ
(Du Tử Lê - Một bài thơ nhỏ)
B.BÚT PHÁP RIÊNG
I.BÚT PHÁP NGUYÊN SA
Nguyên Sa có một lối viết đặc biệt, luôn luôn nghĩ ra những chi tiết rất nhỏ, ngộ nghĩnh, vẩn vơ, đôi khi chẳng có ý nghĩa gì, nhưng đó lại là chất thơ của ông.
Bầu trời mây ở dưới áng mây cong
Em có muốn anh giữ giùm phân nửa?...
Bài hát đó mang cho anh hò hẹn
Em nhớ mang vàng cho cúc, ngọc cho lan
Mang cầu vồng cho khoảnh khắc mưa tan
Và môt chút vai em cho huệ trắng...
Yêu cuộn tròn trong tám chữ mây qua
Khi em tới lượn vòng trên mái tóc...
(Tháng giêng và anh)
Em có đứng ở bên bờ sông
Làm ơn che khuất nửa vừng trăng
Anh về có nương theo giòng nước
Anh sẽ tìm em trong bóng trăng
(Paris có gì lạ không em)
Nguyên Sa ưa dùng công thức: "A hay là B", "sao không A mà như có A", "sao không A để cho tính cách/hậu qủa của A", và "có phải A nên có tính cách/hậu qủa của A".
1. "A hay là B"
Đôi khi B chẳng có ý nghĩa gì, chỉ là ý tưởng vơ vẩn.
Có phải em mang trên áo bay
Hai phần gió thổi, một phần mây
Hay là em gói mây trong áo
Rồi thở cho làn áo trắng bay?
Có phải mùa xuân sắp sửa về
Hay là gió lạnh lúc đêm khuya
Hay là em chọn sai màu áo
Để nắng thu vàng giữa lối đi?
(Tương tư)
Nắng thu vàng có liên quan gì đến gió lạnh và màu áo? Nếu nắng thu vàng là màu áo thì có liên quan gì đến gió lạnh?
Hay là:
Muôn vì hành tinh rung nhè nhẹ
Hay ly rượu tàn run trên môi
Người về trên một dòng sông xanh
Trên một con tàu hay một ga mông mênh
Sao người không chọn sông vắng nước
Hay nước không nguồn cho sông đi quanh?
(Tiễn biệt)
Sông vắng nước để cho nước cạn, người không đi xa. Sông đi quanh để cho thuyền đi vòng trở lại.
2. "Sao không A mà có như có A"
Sao người không là một con đường
Sao tôi không là một ga nhỏ
Mà cũng có những giờ gặp gỡ
Cũng có những giờ chia tan?
(Tiễn biệt)
3. "Sao không A để cho có tính cách/ hậu quả của A"
Sao người không là vì sao nhỏ
Để cho tôi nhìn trong đêm thâu?
Sao người không là một cung đàn
Cho tôi mềm lòng trong tiếng than
(Tiễn biệt)
4. "Có phải A nên có tính cách/ hậu quả của A"
Có phải tên người là âm thanh vô vọng
Nên mắt buồn le lói thoáng bơ vơ
Hay một đêm nao nước lụt Ngân Hà
Thượng Đế đưa sao mang gửi về khóe mắt?
(Đẹp)
Nguyên Sa cũng hay hỏi tại sao:
Tay anh dài sao em không gối mộng
Thơ anh say sao chẳng uống cho đầy
Mắt thuyền trôi anh chèo cả hai tay
Sao chẳng ngự cho hồn anh xuống nhạc
(Người em sống trong cô độc)
Bút pháp này gợi nhớ đến bài Tống biệt hành của Thâm Tâm:
Đưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Trời chiều không thắm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
II. BÚT PHÁP THANH TÂM TUYỀN
Những chữ "vậy em biết không" dưới đây tạo ra một âm hưởng đặc biệt, tha thiết:
Chẳng là anh ngông cuồng kiếm tìm tổ quốc vậy em biết không. Mà tổ quốc ngàn đời nín thở vì t rời th ì xanh mà khổ đau nói sao cho hết. Chẳng là anh chót yêu em vậy em biết không? Mà khi yêu nhau, trong những đêm sao hằng hà, làm thế nào để quên được nhau.
(Thanh Tâm Tuyền - Liên, mặt trời tìm thấy)
Nếu bạn muốn khóc cho những cuộc tình tan vỡ mà không ra được nước mắt, bạn sẽ viết như thế nào? Còn Thanh Tâm Tuyền thì mượn đôi mắt của người khóc:
Hãy cho anh khóc bằng mắt em
Những cuộc tình duyên Budapest
(Thanh Tâm Tuyền - Hãy cho anh khóc bằng mắt em)
Nói đến một con người tội lỗi trong cái "tôi":
Tôi xin một chỗ qùy thầm kín
Cho đứa nhỏ linh hồn
Sợ chó dữ
Con chó đói không màu...
Em bé quàng khăn đỏ ơi
Này một con chó sói
Thứ cho sói lang thang
(Phục sinh)
Nỗi buồn vì tuổi trẻ bất lực:
Hôm nay
Tuổi nhỏ khóc trên vai
(Thanh Tâm Tuyền - Bài ngợi ca tình yêu)
Thanh Tâm Tuyền có một bút pháp rất "Tây". Hãy xem ông diễn tả :
- Người đàn bà nhớ lại những câu thơ cũ:
Những lời thơ rất cũ
Gõ cửa trái tim nàng
(Mai)
- Một người đàn bà đã ra khỏi đời mình:
Người đàn bà ấy mang tên
Lời từ biệt
(Bao giờ)
Một bút pháp đặc thù Thanh Tâm Tuyền hay sử dụng là dùng một đối tượng khác để diễn tả đối tượng mình đang nói tới. Bạn buồn ư? Đừng nói "tôi buồn", mà nói "trời buồn" hay "con ngựa buồn".
Thật vậy, để diễn tả nỗi buồn trong đôi mắt, TTT dùng mắt ngựa thay cho mắt đối tượng. Bạn có thể thay bằng một con vật khác và ý thơ không thay đổi:
Con ngựa buồn
Lửa trốn con ngươi
(Bài ngợi ca tình yêu)
Để diễn tả một sự tương thuộc, TTT dùng cỏ và hoa thay cho hai đối tượng, nhưng bạn cũng có thể thay bằng hai cái gì khác:
Cỏ của hoa và hoa của cỏ
Những ngón tay những ngón chân những nụ cười
(Cỏ)
III. NGUYỄN XUÂN THIỆP: THƠ TÙY BÚT
Tùy bút là một thể loại hồi ký ngắn ghi lại những cảm nghĩ liên quan đến một ngoại cảnh nào đó.
Trong một số bài, Nguyễn xuân Thiệp làm thơ như viết tùy bút, như văn xuôi có vần, không dùng biểu tượng, không thắc mắc về từ ngữ mới, và không dùng các bút pháp thông thường của thi ca như đã đề cập trong đoạn này. Lời văn giản dị. Ý thơ tinh tế, cái tinh tế của thể tùy bút.
Hãy đọc:
này em. chưa đan xong chiếc áo len quàng cổ
thì gió mùa đêm nay đã đến đầy phòng
thổi rung liếp cửa
em có nghe tình ta âm vang dưới bầu trời hun khói
âm vang qua đồng cỏ tranh
lại gặp nhau
tôi cùng gió mùa
để đêm nay có người lục lại gối chăn trong hòm cũ
tìm lại chiếc gương xưa
để sớm mai
hồng má trẻ con
se môi thiếu phụ
để người đi xa một sớm quay về
(Tôi cùng gió mùa)
khi bầy chim ngủ đỗ ở những ngọn cây bên bìa rừng
cùng cất tiếng hót
đợi ngày lên
chúng tôi. những tình nhân thất laÏc nhau trên mặt đất
không được nhìn thấy nhau
chỉ nghe tiếng nói. như từ giấc mơ nào
của dòng sông. đã lãng quên
(Mùa cuối)
IV. HOÁN VỊ TỪ NGỮ
a/ LÊ ĐẠT
Lê Đạt gọi thơ ông là thơ haikâu (thay vì hai câu?). Ông lựa chữ sao cho người đọc có thể đảo lộn vị trí các từ để tạo câu thơ mới. Thí dụ:
Vườn nắng mắt gió bay mùa hoa cải
Bóng lá răm ngày Phả Lại đắng cay
(Phả Lại, tập "Ngó Lời", trang 18)
có thể đổi thành:
Vườn lá răm gió bay mùa hoa cải
Bóng ngày phả lại nắng mắt đắng cay
hay:
Bóng nắng mắt răm gió ngày phả lại
Vườn lá bay mùa hoa cải đắng cay
hay:
Vườn mắt bay mùa hoa ngày phả lại
Nắng bóng răm gió lá cải đắng cay v.v...
Theo Thụy Khê (trong Tạp Chí Thơ số 12), với sự thay đổi vị trí trong hai câu thơ trên, dường như ta đứng trước một không gian ảo: thiên nhiên mang tâm cảm và thị giác con người đang phân thân làm nhiều mảnh, rồi tự xếp lại thành những cảnh khác, tình huống khác...
Theo ý tôi, đây là một trò chơi chữ. Trước hết nó hạn chế chiều dài của bài htơ và khả năng truyền đạt của thi sĩ (hay thợ thơ?). Sau, sự đảo lộn vị trí từ ngữ sẽ khiến câu thơ trở nên trúc trắc, khó hiểu. Xưa nay, những trò chơi chữ trong thi ca rất khó thành công và không tồn tại lâu dài.
b/ DU TỬ LÊ
Cũng một chủ trương hoán vị như trên, Du Tử Lê dùng ký hiệu gạch chéo (slash) để đánh dấu những chỗ hoán vị.
Thí dụ:
Rừng/ tôi/ sâu/ thở/ nốt chân trời (nguyên văn)
có thể đọc là:
tôi rừng sâu thở nốt chân trời (hoán vị 1)
sâu rừng tôi thở nốt chân trời (hoán vị 2)
thở nốt chân trời rừng tôi sâu (hoán vị 3)
Hoán vị 1 và 2 còn có ý nghĩa, chứ hoán vị 3 thì có nghĩa gì?
Thí dụ khác:
tình yêu/ đường xá/ ghế, bàn/ ngọn đèn/ đêm tối:
hát cho tôi nghe
bởi chúng thấy tôi
vật lãng quên, lớn nhất
(Hoán vị - Du Tử Lê)
Ở đây, tôi xin chúng ta lại trở về với mục đích của thi ca: truyền đạt tình ý của nhà thơ đến với độc giả, hay là để người đọc dự phần trong sáng tác? Với bất cứ bài thơ nào, độc giả cũng có thể hoán vị một số từ, nếu muốn, cần chi phải chỉ ra cho họ? Hơn nữa, sự hoán vị cần giữ lại âm điệu cho hay và âm vận cho đúng, không thể hoán vị bừa bãi.
V. CHẺ CHỮ ĐỂ THÊM NGHĨA
Du Tử Lê chủ trương chẻ đôi các từ kép (như chia ly và khô héo trong thí dụ dưới đây) để diễn tả hai hành động kế tiếp nhau riêng rẽ chứ không còn giữ nguyên một ý nghĩa của từ kép:
sương, trần thân mây chia, ly (chia rồi ly)
nhập chung nỗi chết: sầu khô, héo về (khô rồi héo)
(Khúc 19 tháng 9 - Du Tử Lê)

Đoạn 6. ÂM ĐIỆU
Tiếng Việt là một ngôn ngữ tự nó đã có âm điệu, 6 thanh tạo nên một thang âm trầm bổng. Cho nên bài thơ nào cũng có âm điệu, chỉ có vấn đề là hay hoặc dở. Âm điệu phụ họa được với ý thơ là hay, âm điệu trúc trắc là dở.
Người biết ngâm thơ có thể ngâm bất cứ bài thơ nào. Tuy nhiên, có những bài thơ chỉ để đọc hoặc chỉ nên đọc, chứ không ngâm bởi vì âm điệu gần như văn nói. Thí dụ như một số bài thơ của Thanh Tâm Tuyền, nhất là trong tập "Tôi không còn cô độc". Hãy xem một bài:
tôi buồn khóc như buồn nôn
ngoài phố
nắng thủy tinh
tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ
thanh tâm tuyền
(Thanh Tâm Tuyền - Phục sinh)
Thơ Việt nam hay hơn thơ Tây phương về âm điệu, diễn ngâm không nhất thiết cần lấy giọng và làm điệu bộ như kịch sĩ, bài thơ hay tự nó đã chứa âm điệu phù hợp với nội dung. Những lời thơ trong Truyện Kiều và Chinh Phụ Ngâm chẳng hạn, là chứng minh hùng hồn cho âm điệu tuyệt tác.
Thơ mới cũng không thiếu những âm điệu đủ mọi phong thái. Thí dụ:
Âm điệu hùng tráng:
Sóng lớp lớp rượu ba tuần thuở ấy
Tiếng vang vang như thần kêu qủy hét,
Trời ngập ngập như quân khiêu tướng thét
Gọi qúa khứ vị lai những u hồn
Muôn nghìn đời linh thiêng không sống chết
(Lý đông A - Chính khí Việt)
Âm điệu hào sảng, khí khái:
Người đi, ừ nhỉ người đi thật
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu cay
(Thâm Tâm - Tống biệt hành)
Âm điệu dồn dập:
Trên cánh đồng hoang thuần một màu
Trên cánh đồng hoang dài đến đỗi
Tàu chạy mau mà qua rất lâu
Tàu chạy mau tàu chạy rất mau
Ngựa rượt tàu rượt tàu rượt tàu...
Mặt trời mọc xong mặt trời lặn
Ngựa gục đầu gục đầu gục đầu
(Tô thùy Yên - Cánh đồng con ngựa chuyến tàu)
Âm điệu tha thiết:
Hỡi Liên những Liên và Liên
Làm thế nào để quên được nhau. Hạt mưa kia long lanh hỗi nhớ niềm từ biệt, hoàng hôn bàng hoàng màu khói nhạt. Hôm nay quê hương từ bỏ, anh đau đớn làm đứa con hoang đầu đường xó chợ...
(Thanh Tâm Tuyền - Liên, mặt trời tìm thấy)
Âm điệu trầm buồn, từ cao xuống thấp dần rồi nghẹn lại:
Bây giờ là mùa thu trời xuống thấp buồn vô cùng
(Thanh Tâm Tuyền - Khai từ một bản anh hùng ca)
Âm vận và ngữ âm là những yếu tố của âm điệu.
Âm vận gồm nhiều vần trắc có âm thái sắc cạnh có khả năng diễn tả những tình cảm mạnh. Thí dụ:
Một ngày lạnh nước người không tri kỷ
Ta vỗ án hét thành ca chính khí
Đông thê thê như gió thổi u hồn
Thấu buốt tận lòng người trong cốt tủy.
(Lý đông A - Chính khí Việt)
Bài thơ có nhiều âm bằng cho âm điệu ngang ngang phù hợp với tâm trạng buồn bã, hoang mang, bàng hoàng... Thí dụ:
Sương lan mờ, bờ sông tường gần nhau
Sương lan mờ và hồn tôi nghe đau
(Xuân Diệu - Sương mờ)
Sài Gòn chiều nay trời còn mưa không em
Đường về hình như nhà ai đang lên đèn
Sầu tư nghe về nghìn trùng trong tim
Trời còn mưa, mưa hoài, mưa trong đêm
(Huy Phương - Mưa chiều)
Phần lớn những bài thơ loại này có ý thơ sáo rỗng, gượng gạo, vì cố tìm cho ra những âm bằng.
Sự thay đổi nhịp trong thơ lục bát
Nhịp là chỗ ngắt giọng thoáng qua trong một câu thơ để làm rõ ý nghiã của câu thơ.
Du Tử Lê viết trong Văn Học Nghệ Thuật Liên Mạng: "Căn bản, tôi chia lại nhịp đi của thể lục bát. Thay vì giữ lại nhịp 2/2/2 hoặc 3/3 trong câu sáu và nhịp 2/2/2/2 hoặc 4/4 trong câu tám, tôi dùng nhịp lẻ (như nhịp chỏi/syncope của âm nhạc)"
Thí dụ:
phố cao, gió nổi, bóng mờ (nhịp 2/2/2)
đêm lu, trời lặng, tôi gù lưng, đi (nhịp 2/2/3/1)
(Bài cuối - Du Tử Lê)
Tôi thiết tưởng nhịp thơ không bó buộc nhà thơ. Nhịp thơ trong câu sáu lục bát không nhất thiết phải là 2/2/2 hoặc 3/3 và trong câu tám cũng không nhất thiết phải là 2/2/2/2 hoặc 4/4. Người làm thơ có thể thay đổi nhịp thơ theo nhu cầu của ý thơ, cho nên việc "cách tân" của Du Tử Lê chẳng có gì mới lạ.
Hãy xem nhịp 3/3/2 trong các câu 8 dưới đây:
Mịt mùng gió lửa hiu hiu,
Bóng nào khóc, bóng nào kêu, não nùng...
Quê người lạ chỗ gối đầu
Lạ trăng sao, lạ cả màu chiêm bao
(Hái rau - Tô Thùy Yên)
Hay là:
Đổ thêm nước vào nồi canh
Bớt củi nồi cá, chậm, nhanh, từ từ (nhịp 4/1/1/2)
(Bùi Giáng)
Sự thay đổi thanh trắc trong thơ lục bát
Du Tử Lê nói rằng ông là người đầu tiên đổi âm trắc "bắt buộc" của chữ thứ tư trong câu sáu của thể lục bát ra âm bằng:
sương, trần thân mây chia, ly
nhập chung nỗi chết: sầu khô, héo về
(Khúc 19 tháng 9 - Du Tử Lê)
Ở đây tôi xin mượn mấy câu do Hoài Tâm trích dẫn trong Tập San Thi Ca số 20 ra tháng 11/99 để nói rằng cố gắng của Du Tử Lê cũng chẳng mới lạ gì trong thi ca:
Hơi đàn buồn như trời mưa
Các anh tắt nốt âm thừa đi thôi
(Gửi T.T. Kh - Thâm Tâm)
Đàn ai trầm cung mênh mang
Nguồn đau thương vọng từ hàng lệ rơi
(Hoài Khanh)
Sự thống nhất âm điệu
Thơ lục bát và thất ngôn có âm điệu trầm bổng đặc biệt. Còn thơ tự do có âm điệu gần với văn nói hơn. Một câu thơ 6 chữ trong thể lục bát với một câu thơ 6 chữ trong thể tự do có âm điệu khác hẳn nhau. Khi ta làm thơ, chính âm điệu của câu thơ đầu tiên dẫn đến các câu sau theo một thể thơ nào đó.
Một số người cho rằng bài thơ không như bản nhạc, cần thống nhất âm điệu để có một âm hưởng thuần nhất. Do đó không nên xen lẫn hai thể thơ trong một bài, như chêm mấy câu lục bát hay thất ngôn trong một bài thơ tự do.
Phân biệt âm điệu và hơi thơ
Hơi thơ ví như khoảng cách giữa những dấu lặng hoặc chỗ ngân dài trong một bản nhạc. Hơi thơ góp phần thay đổi âm điệu, có thể là những chỗ xuống dòng hay dấu chấm câu trong bài thơ. Cũng có khi một hơi thơ bao gồm cả mấy dòng thơ, tùy theo ý thơ.
Thể thơ là yếu tố chính của hơi thơ. Thể thơ càng dùng câu thơ dài thì hơi thơ càng dài. Hơi thơ ngắn dùng để diễn tả những âm thanh ngắn như lời tán thán, hô khởi, tiếng nức nở, nghẹn ngào, tiếng mưa rơi, vân vân. Hơi thơ dài dùng để diễn tả những tình ý tha thiết, lời kêu gọi hùng hồn, vân vân. Như đã nói trong thể thơ.
KẾT LUẬN
Ta có thể rút ra những yếu tố của một bài thơ hay theo thứ tự ưu tiên:
1. Ý mới, chi tiết mới.
2. Bút pháp chọn lọc.
3. Không dùng từ ngữ cũ. Từ ngữ mới càng hay.
4. Hợp vận.
5. Âm điệu và hơi thơ thích hợp.
6. Dàn ý hợp lý.
Ý thơ và bút pháp là những yếu tố quan trọng nhất.
Ý niệm "mới" hay "cũ" đề cập ở trên là dựa vào kinh nghiệm đọc thơ nhiều.
Đó là tiêu chuẩn xét một bài thơ hay về phương diện khách quan. Về phương diện chủ quan, đánh giá một bài thơ hay còn tùy thuộc trình độ kiến thức của người đọc. Tốc độ cảm nhận thơ cũng vậy, nhưng nó còn tùy thuộc cả kinh nghiệm sống và kinh nghiệm đọc thơ. Người có kiến thức rộng, người đã từng trải hoàn cảnh như trong bài thơ và người đọc thơ nhiều sẽ cảm nhận bài thơ mau chóng hơn những người khác.
Tuy nhiên, điều kiện tiên quyết để có thể đánh giá một bài thơ là bài thơ phải có thể hiểu được. Vâng, không hiểu thì làm sao biết thơ hay?
Nói cách khác, bài thơ phải tự giải thích được, không cần tác giả giảng nghĩa. Với những bài thơ khó hiểu, tác giả cần phải tự hỏi mục đích làm thơ của mình là gì: để thưởng thức riêng mình hay cho người khác cùng thưởng thức. Nếu có một vài người khác tự họ hiểu được bài thơ, thì cũng coi như bài thơ có thể hiểu được. Còn không ai có thể hiểu được thì nhà thơ nên đặt lại vấn đề: có thể diễn tả một cách dễ hiểu hơn mà vẫn giữ được bản sắc kỹ thuật của mình hay chăng? Nếu không thì tác gỉa sẽ muôn đời cô độc.
Thơ của Thanh Tâm Tuyền là một thí dụ. Tôi chắc rằng ông đã tự đặt những câu hỏi như trên và đã trả lời được những câu hỏi trên cho nên thơ của ông, từ những bài rất khó hiểu ban đầu, đã có những bài mà mọi người đều thú vị.
Nguyễn Vũ Văn

Thứ Hai, 25 tháng 5, 2020

Người mở đầu cho luận lý học Á Đông (Khổng Tử và cái thuyết “Chánh danh” của ngài)


Nhiều lần tôi có nhắc tới cái thuyết “chánh danh” của Khổng Tử. Ở Phụ nữ tân văn số 43, trong bài nói về chữ quốc ngữ, tôi có hứa rằng chờ sau nầy sẽ viết một bài cắt nghĩa về cái thuyết ấy. Hôm nay xin làm trọn lời hứa của tôi.
Luận lý học là một khoa thuộc về triết học, dạy người ta tư tưởng theo phép tắc chánh đáng cho khỏi sai lầm. Nó sanh sản ra từ trong học giới Âu châu, nguyên tên nói theo tiếng Anh thì viết Logic, còn theo tiếng Pháp thì viết là Logique. Người Nhựt Bổn dịch ra là Luận lý học.
Nhiều nhà học giả nước Tàu ngày nay cho cái tên luận lý học là không đúng, mà bảo phải kêu Logic hay Logique bằng “Danh học”. Tuy vậy, người ta dùng chữ luận lý học quen rồi, cho đến những nhà bác học cũng dùng đến luôn luôn. Vì vậy, tôi cũng theo thói quen mà dùng như người ta.
Tại làm sao những người kia lại biểu phải kêu Logique bằng danh học? Nguyên vì danh học là một khoa học của người Tàu, phát sanh ra hồi Chiến Quốc, mà về phần tinh thần của nó thật giống với Logique của Tây. Cho nên, họ nói mình đã có khoa danh học đúng như Logique, thì cứ kêu Logique bằng danh học đi, lại còn dịch thêm một tiếng luận lý học là tiếng nghe không được ổn thỏa nữa làm chi?
Lấy lẽ gì mà nói là không ổn thỏa? Đợi có dịp khác tôi sẽ cắt nghĩa. Đây tôi phải ngó lại cái đầu đề trên kia mà nói, kẻo nó lãng đi.
Thiệt cái danh học của Tàu không biết vì cớ gì mà về sau tuyệt hẳn đi, là một điều đáng tiếc cho nền học thuật Á Đông. Ngày nay có nhiều người nhìn nhận rằng vì cớ ấy mà học thuật phương Đông mấy ngàn năm nay không có tấn bộ một mảy nào. Nhưng ở đời Chiến Quốc thì các học phái nước Tàu như trăm hoa đua nở, mà phái nào cũng có tông chỉ, có thống hệ, gần giống như cái hiện tượng của học giới Âu châu vậy. Thấy vậy, người ta mới lại nhìn nhận rằng hồi Chiến Quốc mà các học phái sản sanh ra được như vậy là nhờ khoa danh học thạnh hành, mỗi một phái nào cũng đều lấy danh học làm trụ cột để lập nên cái học thuyết của mình.
Cái vấn đề mà tôi vừa tóm tắt trong đoạn trên đây, tôi đã từng nghiên cứu qua thì thấy hay lắm, vui lắm, có thú vị lắm. Xin độc giả hẵng làm quen với những bài của tôi như bài nầy lấy ít lúc, rồi tôi sẽ viết một bài kêu là “Luận lý học với học thuật Đông Tây” mà cống hiến cho độc giả những cái sở đắc trong sự nghiên cứu của tôi. Đây tôi nói tắt về cái danh học của Tàu phát nguyên ra từ đâu.
Ai đã đọc sách Trung Quốc triết học sử đại cương của Hồ Thích, chắc có thấy nơi trang 104, nói về cái chủ nghĩa chánh danh của Khổng Tử, có mấy lời như vầy:
“Từ Khổng Tử nêu ra cái vấn đề chánh danh, rồi các nhà triết học đời xưa đều chịu lấy cái ảnh hưởng ấy: Mạnh Tử, Mặc Tử v.v… Cho nên có thể nói rằng cái chủ nghĩa chánh danh của Khổng Tử thiệt là thỉ tổ [1] của danh học Trung Hoa, cũng như cái thuyết “khái niệm” của Socrate là thỉ tổ của danh học Hy Lạp”.
Theo lời Hồ thì cái thuyết chánh danh của Khổng Tử còn có mấy phương diện, nhưng có một phương diện quan hệ với danh học, tức là cái chỗ do đó nền danh học được lập lên bởi các học giả sau ngài.
Tôi đã đọc nhiều sách nói về danh học của Tàu, sau khi quán thông lại thì nhận cho lời của Hồ là đúng lắm. Tôi bèn nắm đó mà nghiên cứu cái thuyết chánh danh của Khổng Tử về phương diện danh học.
Hai chữ “Chánh danh” xuất từ sách Luận ngữ, thiên Tử Lộ, là thiên thứ XIV trong sách ấy, dịch ra đây cả một chương như vầy :
“Tử Lộ hỏi: Vua nước Vệ, nếu dùng thầy làm việc chánh, thì thầy sẽ làm điều chi trước?
Ngài đáp rằng: Âu là ta phải chánh danh ư?
Tử Lộ nói: Có lẽ ấy à? Thầy hu hoạt [2] làm sao. Chánh gì mà chánh?
Ngài nói: Ngươi Do mới quê mùa thay! Người quân tử với điều mà mình chẳng biết, thà chịu để thiếu đó.
Danh chẳng chánh thì lời nói chẳng thuận; lời nói chẳng thuận thì việc làm chẳng nên; việc làm chẳng nên thì lễ nhạc chẳng dấy; lễ nhạc chẳng dấy thì hình phạt chẳng nhằm; hình phạt chẳng nhằm thì dân không chỗ đặt tay chưn.
Cho nên, người quân tử kêu tên điều gì, chắc có thể nói ra được; nói ra điều gì chắc có thể làm được. Người quân tử đối với lời nói của mình, không có chỗ cẩu thả mà thôi”.
Đó, xem cả một chương đó, thấy Tử Lộ hỏi về việc chánh trị mà ngài đáp bằng cái thuyết chánh danh, thì biết cái thuyết ấy là quan hệ ngay với chánh trị; cho nên Hồ Thích nói có mấy phương diện là thế. Tuy vậy trong đó có nhiều cái lẽ rất quan hệ với danh học hay là luận lý học.
Chánh danh, nói theo tiếng ta, tức là kêu tên cho trúng, mới nghe như là không trọng yếu mấy, bởi vậy Tử Lộ mới dám vọt miệng chê ngài là hu hoạt. Nhưng xét ra, trong sự học vấn, trong sự chánh trị, mà cho trong sự gì cũng vậy, kêu tên cho trúng, là sự trọng yếu lắm, chớ nên dể dưng.
Trong một bài đăng ở số trước, tôi đã nói về hai cái nguyên tố của luận lý học, là khái niệm (concept) và danh từ (terme). Khái niệm là sự mình suy nghĩ trong lòng; danh từ là lời mình nói ra nơi miệng. Tiếng rằng hai cái, song thiệt thì có một. Vì cái lời mình nói ra đó tức là cái điều mình suy nghĩ. Cho nên, hễ nghĩ sai, tự nhiên nói ra cũng sai; và hễ thấy lời nói ra mà sai, khắc biết rằng sự suy nghĩ cũng không trúng vậy.
Chữ “danh” trong chữ “chánh danh” của Khổng Tử đây, tức là cái danh từ trong luận lý học; và chữ “danh” trong chữ “danh học” cũng tức là một chữ “danh” ấy.
Trong Luận ngữ, có một chỗ, Khổng Tử than phiền về sự danh bất chánh trong thời đại ngài. Nguyên đời xưa, có cái đồ đựng rượu, hình nó có khía, nên kêu bằng cái “cô”. - Cô nghĩa là “khía”. Nhưng hồi ngài đó thì cái đồ đựng rượu được ba thăng, bất luận có khía không khía, người ta đều kêu bằng cái “cô” cả. Bởi vậy ngài mới than rằng:
“Cái cô mà chẳng có khía, cũng kêu bằng cô được ư! cũng kêu bằng cô được ư!” (Ung dã, thiên thứ VI trong Luận ngữ).
Đó, không có khía mà kêu bằng cô, ấy là kêu tên không trúng. Vậy mà người ta kêu được, là kêu liều kêu lĩnh đó thôi, chớ theo ngài thì nghe trái tai lắm, thật là lời nói chẳng thuận.
Lại một chỗ nữa, cũng thuộc về phương diện chánh trị, song có thể đem mà chứng minh cho cái nghĩa trên kia. Ấy là chỗ Quý Khương Tử hỏi việc chánh mà ngài thưa rằng:
“Cái điều kêu bằng chánh tức là chánh vậy; ông lấy chánh mà xướng suất, thì ai lại dám chẳng chánh ư?” (Nhan Uyên, XIII).
Nguyên chữ “chánh” (nghĩa là chánh trị) có chữ “chánh” một bên (nghĩa là ngay). Cho nên ngài cắt nghĩa chánh trị tức là người trên phải ăn ở cho ngay thẳng để mà xướng suất kẻ dưới. Đó là một cách chánh danh nữa: cái tên chánh trị, là do từ sự chánh trực mà ra.
Vậy nếu trong việc chánh trị mà không theo lẽ chánh trực, tức như khi trong một nước, trên có vua đần, dưới có quan tham lại nhũng, mọi việc đều làm bậy bạ hết, thì có gọi là chánh trị được đâu. Nếu gọi là chánh trị thì cũng như cái không có khía mà gọi là cái cô, theo ngài, ngài cho là tầm bậy cả. Họa loạn sanh ra là ở đó, cho nên nói rằng dân không chỗ đặt tay chưn.
Trong sách Xuân thu của Khổng Tử, cũng thấy được cái nghĩa chánh danh. Về năm vua Hy Công thứ 16, sách ấy có chép rằng:
“Xuân Vương tháng giêng, ngày Mậu thân, sóc, rơi đá ở nước Tống năm hòn. Tháng ấy, sáu con chim ích bay thùi lui, qua đô thành nước Tống”.
Đoạn sách nầy, mới nghe qua thật là vô vị, hầu như một đoạn trong quyển nhựt ký của cậu học trò nhỏ nào, hay là giống cái dọng biên sổ chi tiêu việc làng việc họ. Nhưng để coi, coi Công Dương truyện giải ra có ý nghĩa lắm:
“Sao lại nói rơi trước mà nói đá sau? Rơi đá, là chép theo sự nghe: Nghe cái độp, coi lại thì là đá; rồi mới đếm, thì là năm hòn. Sao lại trước nói sáu con mà sau nói chim ích? Sáu con chim ích bay thùi lui, là chép theo sự thấy: Ngó lên thì thấy sáu con; coi kỹ lại thì là chim ích; thủng thẳng coi kỹ lại nữa, thì là bay thùi lui…”
Sách Xuân thu phồn lộ của Đổng Trọng Thơ, giải nghĩa điều trên đó cũng nói rằng:
“Sách Xuân thu phân biện cái lẽ của mọi vật để kêu trúng tên nó, kêu tên vật nào y như sự thiệt của vật ấy, chẳng sai một mảy lông mùa thu. Cho nên nói về rơi đá thì nói năm hòn ở sau, nói về chim ích bay thùi lui thì nói sáu con ở trước; Thánh nhân ngài cẩn thận sự chánh danh dường ấy”.
Theo đoạn sách Xuân thu dẫn trên đây thì thật là ngài muốn đính chánh cái ý nghĩa của từng tiếng từng chữ nữa. Sự đó chẳng những quan hệ với luận lý học, mà lại cũng quan hệ với văn pháp (grammaire).
Luận lý học của Tây dạy rằng mỗi khi biện luận về một sự vật gì, trước hết phải cấp cho sự vật ấy một cái định nghĩa, hoặc kêu là cái giới thuyết (définition). Cái giới thuyết hoặc cái định nghĩa đó, là cốt làm cho cái danh và cái thiệt của sự vật ấy tương đương với nhau, rồi mới có đường mà biện luận. Bằng chẳng vậy, một bên nói trời một bên nói đất, cãi nhau hết hơi mà rốt lại chẳng vỡ ra lẽ gì, chẳng ích lợi gì. Cho biết sự định nghĩa hay là lập giới thuyết là sự cần lắm cho người ta trong khi biện luận.
Lại, trong một câu văn, một cái danh từ dùng lặp hai lần mà lần trước với lần sau khác nghĩa, cũng là một sự cấm kỵ lớn trong luận lý học. Bởi vậy luận lý học có đặt ra sáu điều luật về phép tam đoạn luận (Sillogisme) mà điều thứ ba là điều hệ trọng nhứt, như vầy: Cái trung danh từ (le terme-médian) phải cho châu diễn (collectif) ít nữa cũng phải châu diễn một lần. Vả lại cái trung danh từ ở trong hai cái tiền đề (les deux prémisses) phải là đồng một nghĩa với nhau. Ai phạm đến điều cấm kỵ ấy, kêu là “phá luật”. Đã phá luật thì sự lập ngôn của mình sai lầm rồi, không còn đứng được nữa.
Tôi rất tiếc rằng vì sự cần mà đây tôi phải kể đến luật lệ lôi thôi của luận lý học, làm cho nhức đầu độc giả, nhứt là những ai chưa hề thiệp liệp đến cái học ấy. Song xin hẵng bỏ qua nó, đừng nghĩ mà làm chi cho mệt não, để trong một bài khác tôi sẽ kiếm cách đưa độc giả đến chỗ dễ hiểu những luật lệ ấy như chơi, mà lại vui lắm nữa.
Đây tôi kể ra mấy điều cốt yếu của luận lý học trên đó để cho biết rằng Khổng Tử, ngài ở hơn hai ngàn năm trước cũng đã thạo những điều ấy rồi, không phải như bọn ta bây giờ phải cặm đầu vào mà học mới biết, hay là không thèm học mà cũng không thèm biết nữa!
Có một lần, “Tử Trương hỏi: Kẻ sĩ như thế nào thì gọi là “đạt” được?
Ngài hỏi lại rằng: Nhà ngươi kêu bằng “đạt” đó là nghĩa làm sao?
Tử Trương thưa rằng: Ở nước ắt có tiếng đồn (văn); ở nhà ắt có điếng đồn (văn).
Ngài nói rằng: Thế là “văn”, chớ không phải “đạt”… (Nhan Uyên, XII).
Cái đó, nếu lúc bấy giờ Tử Trương hỏi về “đạt” mà ngài không hỏi lại Tử Trương, cứ theo nghĩa chữ đạt trong ý ngài mà đáp lại, thì chắc Tử Trương không hiểu, vì trong ý va nghĩ khác. Ngài trọng sự chánh danh lắm, nên ngài mới biểu Tử Trương lập cái giới thuyết cho chữ “đạt” đi. Quả nhiên Tử Trương cắt nghĩa “đạt” thành ra “văn”. Nối theo đó ngài bèn đính chánh lại cho Tử Trương và bắt đầu cắt nghĩa làm thế nào cho được đạt. (Ai muốn biết rõ hơn thì đọc Luận ngữ).
Cái cách ngài lập luận đó hiệp với pháp thức luận lý học dạy phải lập giới thuyết trước; và cũng hiệp với luật thứ ba của tam đoạn luận. Vì chữ “đạt” trong câu hỏi của Tử Trương và chữ “đạt” trong câu ngài sẽ trả lời, ta nên coi là một danh từ mà dùng lặp hai lần; nếu nghĩa của nó khác nhau thì tất nhiên là phải phá luật vậy.
Còn như điều sắp kể dưới nầy thì hình như ở ngoài cái thuyết chánh danh, nhưng mà ở trong phạm vi luận lý học, ta chẳng nên bỏ qua.
Theo luận lý học thì cái điều lập cho sự vật một cái công lệ là điều khó lắm và ta nên thận trọng lắm. Muốn làm sự ấy thì phải theo phương pháp quy nạp (induction) dùng những phép khái quát (généralisation) (statistique) luật nhân quả (causalité)… mà sau mới làm nổi. Trong đời có người ưa lấy một nửa lời mà lập công lệ cho sự vật, như nói: Muốn nước cho mạnh thì phải hợp quần; muốn duy trì phong hóa thì phải bảo tồn Hán học. Tôi dám nói những lời mà họ cho là khuôn vàng thước ngọc đó là không có giá tị; mà theo luận lý học hay là theo Khổng Tử, cũng nói như tôi.
Lần kia, “Định Công hỏi: Có một lời nói mà có thể dấy nước được chăng?
Ngài thưa rằng: Lời nói không có thể trông mong dễ dàng như vậy.
Định Công lại hỏi: Có một lời nói mà có thể mất nước được chăng?
Ngài cũng thưa rằng: Lời nói không có thể trông mong dễ dàng như vậy”. (Tử Lộ, XIII).
Định Công hỏi đó, là muốn lập cho sự dấy nước và sự mất nước một bên một cái công lệ. Phải như ai, thì đã làm thánh làm tướng, lựa một vài lời oai vệ mà đáp phăng cho rồi. Nhưng ngài thì ngài dùng một câu bác trước đi đã, rồi mới đáp sau. Ngài đáp câu hỏi thứ nhứt của Định Công rằng:
“Người ta có nói: “Làm vua khó, làm tôi chẳng dễ”. Vậy nếu biết làm vua là khó, chẳng ngõ hầu một lời nói mà dấy nước ư?”
Câu hỏi thứ nhì rằng:
“Người ta có nói: “Ta không vui gì sự làm vua, duy có nói ra mà chẳng ai trái ta”. Nếu nói phải mà chẳng ai trái, thì chẳng cũng là hay; bằng nói không phải mà chẳng ai trái, thì chẳng ngõ hầu một lời nói mà mất nước ư?”
Phàm sự gì không chắc thì không được dùng lời quả quyết, ấy cũng là một điều dạy trong luận lý học. Trong hai câu trả lời trên đó, mỗi câu ngài dùng chữ ngõ hầu, thiệt là đúng với Luận lý học lắm.
Trên đây, từ chỗ dẫn sách Xuân thu về trước, là tôi lấy ở triết học sử của Hồ Thích ; còn hai điều sau là tự tôi đã tìm ra. Còn nhiều điều khác nữa hiệp với cái thuyết chánh danh và đủ chứng minh rằng Khổng Tử là người mở đường cho danh học tức là luận lý học bên Trung Quốc, nhưng bài nầy đã dài rồi, cử ra nội mấy điều trên đó cũng đã vừa.
Kể ra thì cái nền danh học lập nên bởi các học giả sau ngài, như Mặc Tử, Công Tôn Tử, Tuân Tử, v.v… thì cũng chỉ có cái tinh thần mà thôi, chớ về hình thức thì còn khiếm khuyết nhiều lắm, có đâu bằng luận lý học bên Âu châu, và cũng còn kém Nhân minh học bên Ấn Độ [3] . Vậy thì biết rằng cái người mở đường ra đó, sự tri thức của người về cái học ấy chắc không được hoàn toàn lắm ; mà điều ấy ta không thể trách. Cho nên ta xem Khổng Tử đối với danh học cũng như Socrate đối với Luận lý học phương Tây, chẳng qua là ông tổ khai sơn mà sau đến Aristotle lập ra sáu điều luật nói trên kia, rồi cái nền luận lý học mới thành lập được vậy.
Mà thật vậy, cũng trong một sách Luận ngữ, tôi có tìm thấy chỗ ngài nói như là không đúng với luận lý học, ra ngoài cái thuyết chánh danh của ngài. Vì cớ ấy, kêu tên cái “chánh danh”, Hồ Thích kêu bằng cái chủ nghĩa, mà tôi kêu bằng cái thuyết, vì tôi cho là chưa trọn vẹn, chưa đáng kêu là chủ nghĩa vậy.
Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s. 57 (19.6.1930)
Chú thích:
[1] Thỉ tổ: cũng là thủy tổ
[2] Theo tiếng Bắc, đọc hai chữ nầy là “vu khoát” (nguyên chú của Phan Khôi)
[3]Nhân minh học tức là Luận lý học ở Ấn Độ (nguyên chú của P.K)
Nguồn: Phan Khôi, Tác phẩm đăng báo 1930, Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn, NXB Hội nhà văn và Trung tâm văn hóa và ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2006.
30.11.2006
Phan Khôi
Theo http://www.talawas.org/

Thứ Tư, 26 tháng 6, 2019

Ngỡ ngàng, nước đục bụi trong…




Sau trăm năm, gạn đục và khơi trong không phải là chuyện của người đã nằm xuống. Ở chốn về vĩnh cửu chỉ còn im lặng. Trong và đục là chuyện nơi chốn trọ của những kẻ còn đang ở trọ. Là chuyện để nói với những lữ khách còn xuôi ngược bước trần gian. Và trong trường hợp Trịnh Công Sơn, xin nói ngay, trong là bụi. Ðục là nước.

Nước đục !

Ghê rợn và kinh hoàng, đục ngầu một màu máu đỏ. Ðau xót hơn, máu của anh, của em, của chị, của mẹ. Có * người chết hai lần, thịt da nát tan +. Trong * từng vùng thịt xương có mẹ có em, anh đã hát, tiếng hát đến thẳng từ trái tim. Giữa tiếng * đại bác đêm đêm dội về thành phố + và bên cạnh * người phu quét đường dừng chổi đứng nghe +, anh đã nhắc đến gia tài của mẹ. Còn gì ? * Một bọn lai căng ! một lũ bội tình +. Tôi có hỏi Sơn, Sơn không sợ à ? Phản chiến giữa khi người ta hò hét đâm chém nhau là cách hành xử của một tên tử tội, nhát dao thường bổ xuống từ hai phía. Sơn cười * ...lúc đó mình sẵn sàng. Chết, như tự tử. Nhưng rồi sống... và bây giờ chỉ muốn quên thời gian đó đi +. Quên là quên cả những bài hát ? Không ! Tôi thì không quên. Lời những bài trong * Ca khúc da vàng + là tiếng nói của lương tâm. Trước cái chết của một người, kẻ còn sống động lòng thương thân. Trước cái chết của một xã hội, thì thương mọi người để cất giọng tìm cách hồi sinh, bất kể thân thế của mình. Giữa hai lằn đạn thuở đó, Sơn là một hạt bụi. Một hạt bụi trong ngần.

Nước vẫn đục. Sau 75, Sơn tiếp tục * ...đi về đâu hỡi em, khi trong lòng không chút nắng + và kể tâm sự những * cây cành, giờ giới nghiêm +. Sơn nhớ. Và với những kẻ lưu vong, Sơn hỏi * Em còn nhớ hay quên ? + rồi dặn dò * Em ra đi, nơi này vẫn thế. Vẫn có em, trong tim của mẹ... +. Nơi này vẫn thế. Thế là thế nào ? Vẫn thế, là không đổi. Không đổi được ! Ơ, chẳng nhẽ Cách Mạng rồi mà thế ư ? Và Sơn lại có vấn đề. Hỡi những ai đã ồn ào gọi Sơn bằng thằng khi anh đã nằm xuống, xin hãy nghĩ lại.





Nước vẫn cứ đục. Sơn hát, * Sống có trăm năm, vui vui buồn buồn, người người ngợm ngợm +. Chữ ngợm này có lẽ là chữ ngợm đầu tiên trong ca khúc Việt Nam. Và nước đục, vì ngợm ? Ðể * sống chết trăm năm như thân cỏ hèn mọc đầy núi sông +. Núi sông ở bản đầu, khi Sơn hát cho tôi nghe, lâu rồi. Sau này, núi sông thành núi non. Dĩ nhiên thế là nhẹ đi, nhẹ đi nhiều lắm... Nhưng xin nói, Sơn không làm * chính trị +. Anh hát điều anh cảm nhận. Ở chỗ này, nhà chính trị thập thò nhìn người nghệ sĩ, nửa hoài nghi sợ sệt, nửa lại cơ hội đòi nắm bắt cái cảm nhận kia để dùng nó mà giữ ổn định. Ở đây, ổn định đồng nghĩa với quyền lực của mình ( và phe phái ).

Người người ngợm ngợm !

Cuối năm 98, tôi ở với Sơn một tối. Sau khi cả hai chúng tôi từ chối dự một bữa cơm thân mật với * lãnh đạo +, có tiếng điện thoại. Sơn bắt máy. Tôi chỉ có thể kể những gì tai nghe. Có một đoạn, Sơn nói * Thôi, mấy cái mẫu đất ấy dân người ta còn ở... +. Im lặng ( không phải đầu dây bên kia im lặng ). * Không anh, cám ơn anh... Tôi không lấy đâu. Tôi chẳng biết lấy đất làm gì cả +. Im lặng ( không phải đầu dây bên kia im lặng ). * Thôi... ai lấy cứ lấy, anh cho ai thì cho... +.

Người không tham, nhưng ngợm ? Người thì * ...đôi khi cho tôi tiếng nói vui tươi +. Còn ngợm * ...cho tôi tiếng nói đôi khi ngậm ngùi... +. Anh ngậm ngùi kể, lần đầu ra Hà Nội, anh có một buổi * thật vui + với Bùi Xuân Phái. Hai người vẽ nhau trong một cuốn sổ tay thì phải. Vẽ suốt đêm, và Phái tặng hết cho Sơn. Bạn anh mượn. Ai ? Anh không kể tên. Rồi có tiếng phao lên là anh định hiếp con gái bạn. Sơn bảo, xì-căng-đan thế là nhằm xí xóa sạch. Tập tranh Sơn - Phái hóa thành bụi, đòi không được ! Khi tôi nói * ...chắc là hiểu nhầm + thì Sơn thở dài * ...xin moa, moa cho. Ðặt điều thì ... +. Thuở đó, tranh Phái đang lên giá. Một bức nhỏ bằng ba bàn tay cũng năm, bảy nghìn USD. Tôi lại ba phải * ...tranh Phái giữ được không bán cho ba Tầu ở Singapore thì trong tay ai cũng thế ! +. Lần này, Sơn cười, cười rất buồn. Nhưng Sơn im lặng. Những bức tranh đó nay đâu ? Trời biết !

Nói chuyện người. Chênh chếch Vương Cung Thánh Ðường Sài Gòn cách đây trên hai mươi năm có một cô gái bán nước dừa. Tôi có cái duyên ghé uống, vội đến háo hức lôi Sơn đi. Cô ta độ đôi mươi, áo bà ba đen, quần cũng đen, chít một cái khăn rằn. Dưới ánh nắng Sài Gòn, da cô rám hồng, cặp mắt thăm thăm màu nước, và trời ơi, trên mép cô những hạt li ti mồ hôi óng ánh kim cương. Hai thằng điên đội trời nắng rát trầm trồ thì thào, trời ơi, đẹp quá, như phép lạ. Rồi cứ dăm ba ngày, lại đúng giữa trưa, đến uống để ghé thăm những giọt mồ hôi bên trên cái khóe mép đã nhếch lên cười khi thấy khách không còn lạ mặt. Tôi bảo, để tôi làm quen nhé. Sơn can, chớ, thế là quen rồi, từ xa thì giữ được cái đẹp. Từ xa là cái khoảng cách giữa những người đàn bà và Sơn. Oái oăm thay, anh lại là tác giả một số lượng những tình khúc đẹp nhất trong âm nhạc của chúng ta. Trong các tác phẩm đó, nhiều là chỉ có môi hôn ngọt, bờ vai nhỏ, ngón tay gầy... lãng đãng. Những người tự nhận là người yêu (của) anh vênh vang giữ vẹn tiết trinh. Ai lòng nào rêu rao buộc anh vào những thô bạo khó hiểu ? Thôi, thây kệ !

Chuyện người đối với anh, trước hết là gia đình. Anh yêu mẹ, như một đứa trẻ. Có lần ở xa, anh thốt lên * ...moa nhớ mạ moa quá +. Rồi anh cười khoe * ...mỗi khi làm xong một ca khúc, moa hát cho mạ moa nghe. Cái mạ bảo được, thường là ai cũng thích. Nếu không, moa sửa... lắm khi bỏ luôn +. Sau là các em anh, đặc biết với Vĩnh Trinh, anh cứ tội cô em nhỏ này sinh ra là mồ côi cha. Cái tình anh san sẻ cho gia đình không nhỏ. Em dâu em rể anh quí anh như ruột thịt. Các cháu anh coi anh còn hơn cha. Phải chăng * bống bồng, bống bồng ơi ! + là tiếng lòng anh đến con trẻ ? Hồn nhiên, anh hát, vì thực sự anh vẫn giữ được trong sâu lắng con người anh tâm hồn một trẻ thơ.

Chuyện người với anh, sau gia đình là bè bạn. Với bạn, Sơn chân tình và rộng lượng. * Moa chơi với ai, là chỉ moa với người đó. Dẫu có kẻ nói này nói nọ, moa cũng mặc...+ Nhà Sơn lúc nào cũng rầm rập khách. Khách đến uống rượu của anh, lê la vài câu văn nghệ vui vẻ tìm chút tự tin. Khách đến, khoe cái này, chê cái nọ. Từ bốn phương. Từ Tây, từ Mỹ, từ Úc, Canada. Rất ồn và hỗn tạp. Nhưng bạn khác khách. Cô bé người nhà tên Síu ê a * Cậu Sơn ơi... có cậâu...đến + chứ không phải, như khi gập người lạ mặt, nói máy móc * ...dạ thưa, cậu Sơn con đi vắng ! +. Nghe riết, một số chúng tôi thành cậu tuốt. Có cậu Cường. Sơn có lẽ yêu nhất cậu. Có một lần Sơn chép miệng * ...Nó tròn quá, đầy quá. Chứ nó góc cạnh một chút thôi thì nó là grand maitre đấy ! + Ê, Sơn! Toa có thấy mấy bức họa vài năm sau này của Cường chưa ? Góc cạnh đấy chứ ! Có cậu Quỳnh. Cậu hiền lành nhỏ nhẹ hết lòng tận tụy với bạnï. Có cậu Cung. Cậu này là cái cậu kêu * ...ừ thôi em về + để cậu Sơn phổ nhạc (có lẽ là lần duy nhất ?) . Cậu ăn lẻ được thì cậu lỉnh đi ăn một mình nhưng xong lại hồn nhiên kể lại. Thỉnh thoảng vào chơi, có Bửu ý, người Sơn rất quí mến tin cậy. Vài năm cuối, có cậu Quế. Sơn nói với tôi * Toa bảo xừ lũy cho moa nghỉ, moa mệt lắm +. Tôi biết là Quế yêu Sơn, lại rất dai sức, lúc nào cũng cặp kè chuyện thơ văn. Nhưng đôi khi * yêu nhau lại chẳng bằng mười phụ nhau... +.

Và lần cuối gặp, tôi hiểu là Sơn đã rất mệt, mệt nhoài. Thường Sơn ngồi trong ghế bành, mím miệng, mắt nhìn xuống đăm chiêu, có cái nét nghiêm nghị của một người kiệt sức. Anh ngồi, ai muốn nói gì thì nói. Anh có mặt, nhưng anh ở đâu ? Những người khách quanh anh cứ thế, ô nhiễm ồn ào. Bạn anh, sợ khách, lảng và tìm những phút anh chỉ có một mình. Hiếm hoi làm sao những phút ấy. Hệ quả tất nhiên, anh cô đơn.

Bấy giờ, muốn gặp Sơn như bạn thì không thể gặp ở nhà Sơn. Tôi hẹn anh ở nhà Trần Long Ẩn. Hôm đó, anh đi taxi lại, đầu chụp nón, dáng một chàng đạo sĩ lênh khênh xuống núi. Anh cười. Chỉ có ba chúng tôi, anh lại hồn nhiên như ngày nào. Sơn vui ra mặt, ăn được đến nửa bát phở ở cái quán nổi tiếng trong ngõ cạnh nhà Ẩn. Bức tranh trên vách anh vẽ vợ Ẩn đẹp lạ lùng, là một bức vẽ dở. Anh nói * Dở dang thế mà lại đẹp. Nắn nót, đâm hỏng... +. Một hai tiếng sau, Sơn nhìn giờ. Anh bắt đầu cau có * Moa phải về, có tay X, việt kiều luật sư ở bên Mỹ nó hẹn. Nó lo chuyện copyright cho moa... +. Tôi can * ...thôi, lâu mới có một buổi sáng nhẹ thế này. Toa gọi điện thoại hẹn lại... +. Sơn ngần ngừ. Rốt cuộc, anh vẫn về. Mặt anh lại nghiêm, mắt đăm chiêu. Chúng tôi đưa anh ra con lộ chính. Người đạo sĩ vẫy taxi lên lại núi. Cái núi cao kia thành nơi ồn ào danh lam thắng cảnh. Thành một địa điểm du lịch cấp cao. Ôi hệ lụy ! Danh vọng dẫn nhau đến chỗ ấy sao ? Mệt ghê, mệt chết người.

Ngoài bạn bè, còn tình yêu trai - gái. Tôi đã thấy nhiều người đàn bà yêu Sơn. Một người đã định làm vợ Sơn than * ....anh ấy yêu chai rượu hơn em ! +. Có kẻ đến từ ngoài khơi, ở đâu đất Phù Tang xa lắc, đeo đuổi đến cảm động. Sơn nhận. Và cái anh cho lại, hình như là cái gì khác với tình yêu. Như anh - em. Ðôi khi như bè - bạn. Với Khánh Ly. Với Hòng Nhung. Có lẽ chỉ trừ một lần. Anh đã sắm xe hơi và định lấy vợ thật. Lần này, a ha, vui được rồi đây. Nhưng không. Mối tình đó vuột đi. Chuyện lại xảy ra hình như sau sự ra đi vĩnh viễn của mạ anh, và * có điều gì gần như niềm tuyệt vọng...+. Gần như thôi, chứ chưa phải là...Anh viết :

*....may thay trong cuộc đời này vừa có tình yêu vừa có tình bạn. Tình bạn thường có một khuôn mặt thật hơn tình yêu. Sự bội bạc trong tình bạn cũng có nhưng không nhiều. Tôi thấy tình bạn quí hơn tình yêu vì tình bạn có khả năng làm hồi sinh một cơn hôn mê và làm phục sinh một cuộc đời tưởng rằng không tái tạo được nữa +.

Ru tình à ơi !

Viết về Sơn, không thể không nói nghệ thuật Sơn. Phần này, tôi nghĩ rằng nhiều người sẽ nói, còn nói. Và đã có Ðặng Tiến, có Cao Huy Thuần. Tôi có thêm thắt, cũng là thêm thắt thôi. Với ca khúc, Sơn đi từ hình thức lãng mạn, sang siêu thực, mang mang chất Thiền để rồi cuối đời anh trở về với nỗi lòng anh một cách trực tiếp, giản đơn, không chút phù phiếm chữ nghĩa. Bàn với nhau về thơ, cách đây đâu mười năm, Sơn chủ trương không chơi chữ, viết ngắn ( hai câu ), chỉ một hình ảnh để dẫn đường cho một tư tưởng. Ðó là những câu lục bát khi anh lang thang ở Paris, tôi giữ và đã trao lại Vĩnh Trinh. Ðó là những câu lục bát khi anh lãng đãng ở Montréal. Anh không muốn * phổ biến +, anh cẩn thận, và anh không bao giờ nhận là nhà thơ. Mặc dầu, có lẽ anh là một nhà thơ lớn.

Nhà thơ lớn ? Là thế nào ? Tôi có nói với Sơn về một số hình tượng trong ca khúc của anh, dẫu cùng một cung bậc rung, vẫn là những hình tượng mới so với thơ Ðường. Nhưng ngoài hình tượng, còn ngôn ngữ.

· Sơn là người đầu tiên nói với tôi rằng cách phân chia động, tĩnh, danh từ đều phần nào giả tạo. Anh cố ý đảo, chẳng hạn như viết * em hồn nhiên, rồi em sẽ bình minh +. Bình minh không còn là danh từ mà thành tĩnh từ.

· Anh thường sử dụng tính mơ hồ của ngôn ngữ, như * ru ta ngậm ngùi +. Ta ngậm ngùi, hay ru ngậm ngùi ? Cả hai. Và mơ hồ nhân lên nhiều lần lượng thông tin trong ca từ Trịnh Công Sơn. Rất nhiều thí dụ như tôi vừa nêu ra. Anh giầu là vì vậy.

· Sơn cũng là người có những cách ghép ngôn từ hết sức bất ngờ. * Sóng lao xao bờ tôi... + chẳng hạn. Sóng mà lao xao ? Bờ, không phải bờ biển, bờ sông, bờ vực mà * bờ tôi +. Hoặc * đêm gội mưa trong +. Ghép chữ độc đáo tạo ra những kết hợp hình ảnh rất lạ. Như * Chim... ngậm hạt sương bay +. Như vuốt mái tóc bạc mà thành * chập chờn lau trắng trong tay +. Hoặc những câu hỏi siêu hình, hỏi * ta xô biển lại, sóng về đâu ? +.

Ðếm tên ca khúc, ta thấy có ru và tình. Ru ta ngậm ngùi. Giọt lệ ru người. Ru em. Ru đời đã mất. Ru em từng ngón xuân hồng. Ru đời đi nhé. Ru tình. Tôi ru em ngủ. Tình thì bài nào cũng nhắc, nhưng tựa có Tình xót xa vừa. Tự tình khúc. Tình khúc Ơ Bai. Tình nhớ. Tình xa, Tình sầu. Tình yêu tìm thấy... Nếu chịu khó đếm từ trong toàn bộ trên tám trăm ca khúc Trịnh Công Sơn, có lẽ ở bài nào cũng có chữ tình. Và về thân phận con người, rất nhiều hư vô, tuyệt vọng, tàn phai, mong manh... Tám trăm ca khúc ? Bỗng nhiên tôi muốn làm một so sánh ( mặc dầu thấy mình lố bịch ). Với J Brel, G Brassen, với B. Dylan... Sơn của chúng ta có một độ dày so những kẻ * nòi tình + vừa kể trên. Ðó, có lẽ vì Sơn trả giá để cho và chúng ta có cái may được nhận.

Hình tượng, ngôn từ...đến từ tài hoa. Ðiều kiện cần, nhưng chưa đủ để thành một nghệ sĩ lớn. Sơn lớn, theo tôi nghĩ, là vì Sơn dâng cả trái tim để vẫy gọi chúng ta, những con người.



Bụi trong ...





Trong 128 ca khúc in ở * Tuyển tập những bài ca không năm tháng + của Sơn, tự nhiên có những cái tựa rất lạ. * Bống không là bống +, * Bống bồng ơi + và * Thuở bống là người +. Trong ba ca khúc này, Bống ở nơi nao ? Ði đâu mà vội ? Là những câu hỏi đi hỏi lại... Và ngỡ ngàng, * em đi bống về, em về bống đi +, * Tìm tình trong nắng. Em gặp cơn mưa. Tìm tình giữa ngọ. Buồn lưa thưa về +. Rồi * ngày bống, mẹ bồng. Nhẹ quá tơ tằm, lay nhẹ bống bồng bông + để kết cục * Ngày xưa ngần ngại, xõa tóc trên vai. Hư vô bỗng về, câu thề đã bay +... Tôi có cảm nghĩ Sơn hát bống bồng là hát cho riêng mình. Rất ngỡ ngàng, như trẻ thơ.

Ngỡ ngàng bởi nước đục, như chẳng thể khơi trong. Ngỡ ngàng, người với ngợm. Ngỡ ngàng bởi mong manh. Bởi chia ly, bởi phụ bạc. Ngỡ ngàng, với vinh quang tung hô, ca tụng trần trụi và những « cuộc đời hết sức ngây ngô».

Ngỡ ngàng, anh nhận. Ngỡ ngàng, anh cho. Phải nói Sơn cho rất nhiều. Ngày Sơn chia tay đời, một người chị gái gọi cho tôi, bảo Sơn là người tình của cả triệu phụ nữ Việt Nam. Khi hôn mê giữa dở dang, bội bạc, sống chết, họ lắng nghe lòng và rồi họ hát Trịnh Công Sơn. Những tiếng hát về thân phậân. Và về tình yêu. Nhưng dẫu ngỡ ngàng, Sơn không ngần ngại rủ chúng ta :

* Hãy yêu như đang sống và sống như đang yêu. Yêu để sự sống tồn tại và sống cho tình yêu có mặt +

Bởi thế, tôi xin với Tố Như rộng lòng cho phép đổi hai chữ lỡ làng của người thành ngỡ ngàng cho Sơn. Và * còn hai con mắt +, tôi dành * một con khóc người +. Con kia, để tôi còn nháy với hư vô, vì * bầy vạc ( í a ) bay qua, hát lời ( ối a ) mệnh bạc, từng giọt (í a) vô biên, trôi chìm ( ối à ) tiếng tăm +.

Sơn suốt một kiếp * ngỡ ngàng, nước đục bụi trong +. Và chắc Tốâ Như cũng đồng tình với kẻ hậu sinh này rằng hạt bụi trong ngần kia, như một nghệ sĩ lớn, đã * trăm năm để một tấm lòng từ đây +. Ðó là cách duy nhất , như Sơn từng hát, tạ ơn người tạ ơn đời.


Nam Dao

Thứ Năm, 21 tháng 3, 2019

Sự thăng hoa về tinh thần mới là giá trị đích thực của nghệ thuật

Có sự mâu thuẫn gay gắt giữa nghệ thuật hiện đại và nghệ thuật truyền thống. Phái hiện đại cho rằng: “Nghệ thuật là chủ quan, không có tiêu chuẩn tuyệt đối tốt hay xấu” cùng với đó là quan niệm: “Sáng tạo nghệ thuật là miễn phí và không nên chịu bất kỳ hạn chế nào”. Nhưng đây cũng là một cơ hội tốt để nhìn lại những giá trị của nghệ thuật truyền thống.
“Đổi mới” và “đột phá”?
Quả thật, trong xu hướng phát triển tưng bừng của nghệ thuật hiện đại, bất kể từ nội dung, phương tiện biểu hiện đến truyền thông, có thể nói rằng không có bất kì điều gì là bị cấm kỵ.
Bất kỳ vấn đề gây tranh cãi nào liên quan đến nghệ thuật hiện đại đều được quy cho khả năng cảm thụ của đôi mắt và tâm hồn; bất kỳ kỹ thuật biểu hiện kỳ cục nào cũng có thể được “hiểu” và đánh giá cao với cái mác “đổi mới” và “đột phá”. Những người không thể hiểu được loại hình nghệ thuật hiện đại tiên phong có thuộc tính “cao thâm khó lường” này thì phải khiêm tốn và cố gắng học hỏi để nhận thức được nó. Các nhà phê bình nghệ thuật phải có thể đào sâu vào logic của tư duy hiện đại và kết hợp với các phương tiện truyền thông để thiết lập những thể loại phê bình nghệ thuật mới.
Mặc dù nghệ thuật hiện đại cũng có những tác phẩm với sự khéo léo, mang vẻ đẹp hoặc ý nghĩa tích cực, nhưng xu hướng phát triển của toàn bộ nghệ thuật đã thực sự chuyển sang một trạng thái hỗn loạn không có tiêu chuẩn và giá trị nội hàm. Khi xem những tác phẩm thuộc nghệ thuật hiện đại, nhiều người không thực sự yêu thích hay cảm động trong tim. Nhưng trào lưu đã là như vậy, không  thuận theo thì sẽ bị gạt ra. Và cho dù bạn đang tham gia vào nghiên cứu học thuật hay tham gia sáng tạo nghệ thuật, nếu bạn không vận dụng đến một số lý thuyết hoặc kỹ thuật hiện đại, bạn sẽ bị đánh đồng là thuộc trường phái bảo thủ.
Vậy thì, có bất kỳ giá trị tiêu chuẩn hoặc phổ quát trong nghệ thuật không?
Trong quá khứ, mọi người đều biết rằng nghệ thuật theo đuổi “sự thật, lòng tốt và vẻ đẹp”. Từ nghĩa gốc của từ “nghệ thuật”, tiêu chuẩn đó cũng khá rõ ràng. Nghệ thuật trong tiếng Anh được gọi là Fine Arts (tiếng Pháp: Beaux Arts), trong đó từ “art” nghệ thuật có nguồn gốc từ chữ “ars” Latinh, có nghĩa là “kỹ thuật”, “thủ công”. “Fine” mang ý nghĩa là cái đẹp, tinh tế, tốt, vì vậy nghệ thuật hẳn là nhằm “tạo ra sản phẩm thủ công tinh xảo, đẹp đẽ”. Mà kỹ thuật là cái khó, nó có yêu cầu về “kỹ năng cơ bản.” Nghệ thuật là sự biểu hiện cái đẹp, biểu hiện là cái thiện, sự thật phải được thể hiện, nó khiến người ta dễ chịu và thăng hoa, vì vậy nó có tác dụng giáo dục rất lớn.
Từ quy luật của vũ trụ, bất cứ điều gì phù hợp với quy luật của vũ trụ và tự nhiên đều sẽ có giá trị trường tồn, gọi là “thuận thiên giả xương, nghịch thiên giả vong” (Thuận ý trời người được thương, ngược ý trời người phải chết). Nghệ thuật cũng là một sản vật của văn hóa của con người trong vũ trụ, nên nghệ thuật cũng phải phù hợp với tự nhiên, phù hợp với bản chất con người (bao gồm cả cảm giác sinh lý và tâm lý), nó phải có thể tồn tại trong một thời gian dài, chuyển cho những người thuộc các thời đại khác nhau theo thời gian và không gian. Các nguyên tắc thẩm mỹ cổ xưa (cân bằng, hài hòa, tỷ lệ, nhịp điệu …) là phù hợp với quy luật tự nhiên. Xu hướng của nghệ thuật hiện đại được thay đổi liên tục, nhưng tuổi thọ của mỗi dạng thức rất ngắn; cho đến nay, liệu đã có tác phẩm nào là bất hủ?
Từ những tác phẩm kinh điển được công nhận trong quá khứ, cho dù đó là đồ chạm khắc Hy Lạp cổ đại, tác phẩm thời kỳ Phục Hưng, hay các tác phẩm nghệ thuật truyền thống của Trung Quốc, chúng ta đều có thể tìm thấy những phẩm chất tương tự, có thể kể đến như:
  • Nghiêm ngặt, chính xác hoặc lý tính, logic.
  • Phù hợp với bản chất con người và cảm xúc được kiểm soát với mức độ thể hiện vừa phải.
  • Tuân thủ quy luật tự nhiên (hài hòa, thống nhất về nhịp điệu, cân bằng, cân đối về tỷ lệ…).
  • Lý tưởng hóa, thiêng liêng, phản ánh sự thật, lòng tốt, vẻ đẹp của “chân, thiện, mỹ”.
  • Giàu ý nghĩa tâm linh và phản ánh sự tu dưỡng của bản thân nghệ sĩ.
  • Thanh lịch và phổ quát, ai ai cũng có thể hiểu và cảm nhận, bất kì độ tuổi hay giới tính, chẳng hạn thơ của Lý Bạch hay nhạc của Mozart. 

Những phẩm chất này không chỉ phản ánh cảm giác trực quan của cái đẹp, mà còn là nguồn cảm hứng của đạo đức con người; sự thuyết phục và thú vị, thậm chí là sự thăng hoa về tinh thần, đó mới là giá trị đích thực của nghệ thuật.
Tầng thứ bất đồng trong nghệ thuật
Khi đánh giá ý nghĩa nội hàm từ biểu hiện của nghệ thuật, cũng có những cảnh giới cao thấp bất đồng. Mặc dù “cảnh giới”, “xấu đẹp”, “phẩm chất” là những khái niệm khó để định lượng được chính xác, nhưng về khía cạnh “cảnh giới”, nghệ thuật cũng có những nhận thức phổ quát mà tương quan với tiêu chuẩn đạo đức.
Cảnh giới cao nhất – theo đuổi sự vĩnh hằng
Cho dù ở phương Đông hay phương Tây, cảnh giới nghệ thuật cao nhất đều là theo đuổi sự thật vĩnh hằng. Sự thật vĩnh hằng này được thể hiện trong các khái niệm về thần, Phật và thiên quốc, hay ở cấp độ trừu tượng được gọi là “Đạo” hoặc “Pháp”. Do đó, người phương Đông truyền thống chú ý đến “sự hài hòa giữa con người và thiên nhiên”, cầu pháp tìm đạo. “Đạo” hay “Pháp” cũng là nền tảng của sự sống và cái chết của vũ trụ, vị tha, vô hạn và bao dung hết thảy. Nó siêu việt khỏi tình cảm con người, nhưng vì con người cũng nằm trong đó, nên con người cũng có thể nhận thức được. Do đó, ngay cả khi bức tranh phương Đông không thể hiện trực tiếp thần Phật, nhưng thường bao hàm tư tưởng tu luyện tâm tính.

Ở phương Tây, triết gia La Mã cổ đại Plotinus tin rằng sự thật, lòng tốt và vẻ đẹp là hợp nhất với thần; thần linh  là nguồn gốc của cái đẹp. Do đó, các nghệ sĩ phương Tây trực tiếp đại diện cho Thiên Chúa hoặc thiên quốc, trên thực tế là đại diện cho sự thật vĩnh cửu, tối cao và hoàn hảo. Hầu như tất cả các tác phẩm nghệ thuật vĩ đại nhất ở phương Tây đều được tìm thấy trong các nhà thờ Thiên Chúa.
“Đối thoại văn học” của triết gia Hy Lạp Plato cũng có câu: “Mỗi linh hồn từng cá nhân đã từng hồn nhiên quan sát thế giới thực vĩnh cửu một cách chân thực...”. Plato tin rằng linh hồn con người (nguyên thần) đều đến từ “thế giới vĩnh hằng chân thực” (thế giới của thần). Những điều tốt đẹp trên trái đất cũng là những gì tồn tại ở “thượng giới” (thiên quốc). Do đó, nếu nghệ thuật của con người có thể khiến mọi người nhớ lại hoặc cảm nhận vẻ đẹp của thượng giới, thì có thể dẫn dắt con người trở về bản chất nguyên thủy, bản tính thuần thiện và chân chính nhất. Nghệ thuật này là nghệ thuật ở cảnh giới cao nhất.
Nghệ thuật đạt đến cấp độ này là rất hiếm, thậm chí càng ít hơn trong nghệ thuật đương đại. May mắn thay, trong những năm gần đây, đã xuất hiện “Đoàn nghệ thuật biểu diễn Shen Yun” lưu diễn trên khắp thế giới, hội tụ những nghệ sĩ biểu diễn đương đại hiếm hoi có thể đạt đến cảnh giới này. Ngoài việc mang đến cho khán giả cảm giác mỹ cảm về thính giác và thị giác, nhiều khán giả còn cảm nhận được thanh lọc thân thể một cách thần thánh, đi cùng sự rung động sâu sắc trong tim.
Tầng thứ hai – tinh thần cao thượng
Con người Châu Âu thời Phục Hưng nhận ra rằng mặc dù con người được tạo ra bởi thần linh, nhưng chủ thể của con người vẫn là ở thế gian. Con người sử dụng suy nghĩ và cảm xúc của riêng mình để hiểu về thần và thiên nhiên, sinh mệnh được rèn luyện qua những vui buồn của cuộc sống, tích lũy những kinh nghiệm đáng quý. Do đó, nghệ thuật trải rộng từ việc ca tụng thần linh đến việc thể hiện vẻ đẹp của thế gian, bao gồm cả việc trân quý cuộc sống, những tình cảm cao thượng cùng nhiều giá trị phổ quát như đức hạnh và công lý.

Tuy nhiên, giống như hí kịch, những câu chuyện thuận buồm xuôi gió thường không hấp dẫn, phải có những khó khăn và thử thách để vượt qua khảo nghiệm nghịch cảnh; do đó kích thích năng lượng sống cũng là một ý nghĩa giá trị. Nhiều tác phẩm nghệ thuật được lấy cảm hứng từ hành động của những anh hùng, những con người vĩ đại. Chúng cho thấy sự tương phản và đấu tranh nội tâm, biểu hiện nhân tính và ác tính giao chiến với nhau, trong nghịch cảnh mà thể hiện lòng cao thượng vị tha, thăng hoa trong quá trình xung đột và hòa giải, trở thành một ánh sáng vĩnh cửu truyền cảm hứng cho con người. Bởi vì đức hạnh, trí tuệ và lòng can đảm của con người chính là yếu tố thúc đẩy nhân loại đi từ bình thường đến phi thường. Thông qua quá trình rèn luyện nghệ thuật, cuộc sống và giá trị của con người cũng trải dài từ hữu hạn đến bất hủ.

Ngoài ra, sự tráng lệ của tự nhiên, sự vô hạn, thần bí và không thể đoán trước của thiên nhiên cũng là một lực lượng siêu phàm cho sự thăng hoa. Do đó, thiên nhiên vĩnh viễn là mẫu vật tốt nhất cho nghệ thuật của con người.
Tầng thứ thứ ba – thể hiện bản thân
Mỗi tác phẩm của nghệ sĩ đều phải thể hiện những yếu tố của bản thân; từ kinh nghiệm sống của tác giả, tính cách, tư tưởng, sở thích, sắc thái, đến thái độ và thói quen sáng tạo, là những yếu tố quan trọng trong việc hình thành phong cách cá nhân trong các tác phẩm của nghệ thuật gia đó. Nói cách khác, “cái tôi” của tác giả đã có trong các tác phẩm, không cần phải hướng ngoại tìm kiếm. Người xưa nói rằng “họa như kỳ nhân” (hội họa giống như người), “tự như kỳ nhân” (chữ cũng giống như người) quả thật vô cùng chính xác.
Đó cũng là điều tự nhiên khi các nghệ sĩ thể hiện tài năng, suy nghĩ hoặc cảm xúc của họ trong sáng tạo, sau đó để tác phẩm tự giao tiếp với khán giả. Chỉ có những tâm tư và hoàn cảnh khác nhau trong tác phẩm mới tạo ra những hiệu ứng tâm lý khác nhau cho người xem.
Cái gọi là “thể hiện bản thân” hay nhấn mạnh “sự độc” trong sáng tạo nghệ thuật cũng là hiện tượng xảy ra sau sự trỗi dậy của chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa lãng mạn. Đặc biệt là sau khi rời bỏ trường phái ấn tượng, “phong cách cá nhân” của các nghệ sĩ ngày càng được nhấn mạnh, cuối cùng thậm chí trở thành một tiêu chí quan trọng để đánh giá giá trị của tác phẩm nghệ thuật; cho nên trong các tác phẩm của thế kỷ XX, nhiều nghệ sĩ đã cố tình từ bỏ nghệ thuật truyền thống, chạy theo đổi mới, biểu diễn và đào sâu vào những ý tưởng mới.
Trong tình huống như vậy, tác phẩm để “thể hiện bản thân” rất dễ chảy vào sở thích riêng hoặc đi vào cực đoan cá nhân, rất khó để tạo ra tiếng vang. Cái gọi là “cái tôi” đó cũng phụ thuộc vào tâm tính mỗi cá nhân tác giả, nên phải đối mặt với một loạt câu hỏi như: có suy đồi không? có nhỏ mọn không? có tự cao tự đại không? có còn tươi sáng và thân thiện không? Cũng giống như tính cách của một người, nếu sáng tạo nghệ thuật chỉ là để tìm kiếm danh tiếng và tiền tài, thì làm thế nào nó có thể đạt tới sự cao quý? làm thế nào nó có thể thực sự chạm được tới trái tim người xem?
Mối quan hệ giữa nghệ thuật và đạo đức cũng có thể được nhìn thấy từ một số khía cạnh: Nhân phẩm của người sáng tạo như thế nào; Liệu chủ đề nghệ thuật có phù hợp với đạo đức hay không; Những kỹ năng nghệ thuật thể hiện đức tính tốt; Loại nghệ thuật nào có thể khiến con người thăng hoa, thanh lọc và làm tăng đạo đức?

1. Vai trò của người sáng tạo trong nghệ thuật
Người sáng tạo là trung tâm của sáng tạo nghệ thuật, trạng thái của bản thân người đó là vô cùng quan trọng. Trước hết, phẩm chất và sự tu dưỡng của người sáng tạo sẽ được thể hiện trong các tác phẩm. Lưu Công Quyền cũng nói rằng “tâm chính tắc bút chính”. Ví như ta có thể so sánh thư pháp của Nhan Chân Khanh và Tống Huy Tông, nét bút ngay chính thể hiện con người đàng hoàng đôn hậu của Nhan Chân Khanh, mà sự tuấn tú cùng thái độ kiêu hãnh hiển nhiên là nét bút của vị vua một nước Tống Huy Tông. Một ví dụ khác là âm nhạc của Mozart và Beethoven, giống như hai người có tính cách hoàn toàn khác nhau, một bên là niềm vui thuần thiện thuần mỹ, một bên là ánh sáng quang minh cùng khí thế hùng hồn.

Thứ hai, trạng thái tâm lý và cảm xúc hiện tại của nghệ sĩ sẽ được bộc lộ trực tiếp trong tác phẩm. Ví như “Hoàng Châu hàn thực thiếp” của Tô Thức, được viết trong thời kỳ ông bị cách chức và đuổi về Hoàng Châu, trong tiết Hàn Thực (tiết Thanh Minh) Tô Thức bị ốm bệnh nhưng lòng luôn hướng về triều đình, vì thế mà mới viết lên bài này, bút pháp cũng trầm bổng theo tâm tình.

Một ví dụ khác là “Tế Chất Cảo” của Nhan Chân Khanh, được sáng tác để cúng tế người anh họ Nhan Cảo Khánh và đứa cháu Nhan Quý Minh trong An Sử loạn. Ngay từ đầu, bút và mực đã ngưng trọng hiểu thị sự trang nghiêm, cây bút tăng tốc theo dâng trào cảm xúc trong lòng ông, nỗi niềm thương tiếc cùng với sự căm hận tên phản đồ đều hiện lên trên giấy.

Raphael – một trong ba bậc thầy thời Phục hưng, người rất giỏi vẽ hình ảnh của Thánh mẫu và Thánh anh. Thánh mẫu dưới ngòi bút của ông có dung mạo vô cùng xinh đẹp, duyên dáng. Khi họa sĩ vẽ về thần linh, ông luôn mang thái độ sùng kính, vì thế nên các tác phẩm rất tự nhiên và thuần khiết. Tuy nhiên, khi Raphael vẽ tình nhân của mình, tâm tư mang nặng thất tình lục dục, vì thế mà hình ảnh cũng trở nên thông tục rất nhiều.

2. Chủ đề của nghệ thuật
Chủ đề nghệ thuật ảnh hưởng đến chính nghệ sĩ. Để trung thực thể hiện đề tài, họa sĩ thường sử dụng trái tim của mình để đi thấu hiểu, mô phỏng và trong vô thức đưa vào trong đó. Khi vẽ thần linh, tâm trí thanh tịnh và thiêng liêng, khi vẽ ma quỷ, tâm trí rất hung tàn cùng mặt mũi dữ tợn, giống như diễn viên tìm ra vai diễn của mình. Khi vẽ núi và biển, tâm trí rộng mở, vẽ tranh nông thôn là yên bình và nhàn nhã, khi vẽ phụ nữ đẹp, họ say mê và trìu mến. Và khi vẽ những bi kịch, họ nghiêm túc và nặng nề…,nhưng điều này có thể có hậu quả bất lợi cho các nghệ sĩ.
Ví dụ, để mô tả tác phẩm bị đắm tàu ​​”The Raft of the Medusa”, họa sĩ lãng mạn Géricault đã đến phòng tang lễ để coi tài liệu về những “bức tranh xác chết”. Chẳng mấy chốc, ông xuất hiện sự yếu đuối về tinh thần, cơ thể cũng trở nên tồi tệ. Họa sĩ người Tây Ban Nha Goya đã tuyệt vọng trong chế độ độc tài của thời đại. Các bức tranh cho thấy sự kinh hoàng, phi lý và tàn nhẫn theo thời gian. Các nét vẽ và màu sắc cũng ảm đạm. Cuối cùng, họa sĩ đã trải qua phần còn lại của cuộc đời trong những vướng mắc của ảo ảnh.

Ngoài ra còn có một số họa sĩ hiện đại sử dụng ma túy để tìm cảm hứng và chủ đề khiến khiến nội dung của bức tranh cũng suy đồi và đen tối. Hậu quả của vòng luẩn quẩn, nhiều nghệ sĩ không khỏe mạnh và có người chết do ma túy, như Basquiat.
Chủ đề hoặc nội dung của nghệ thuật cũng sẽ ảnh hưởng đến người xem. Người xưa nói rằng “gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”, những gì mọi người tiếp xúc, nó sẽ vô thức đưa vào tâm trí. Đặc biệt là sau khi tiếp xúc lâu dài, nó sẽ dễ dàng tiếp thu, đồng hóa và làm quen với nó.
Ví dụ, sau khi các bộ phim bạo lực ở Hoa Kỳ trở nên phổ biến, tình trạng xả súng giết người trong khuôn viên trường được tăng lên rất nhiều. Mặc dù như bộ phim nổi tiếng Đài Loan “Monga” được đánh giá cao, cũng có những di chứng mà mọi người không muốn thấy: sự gia tăng của hành hung và đánh lộn của giới trẻ. Nhiều người phạm tội tình dục vì xem nội dung khiêu dâm quá nhiều, họ không thể kiểm soát ham muốn của mình. Nếu nghệ thuật thể hiện các giá trị không chính xác như nội dung khiêu dâm, bạo lực và biến thái, chắc chắn nó sẽ có tác động tiêu cực cho bầu không khí xã hội.
Cũng có nhiều ví dụ về những tác động tích cực do nghệ thuật chân chính mang lại. Ví dụ, sau khi Trần Thụ Cúc, một bà già bán rau ở Đài Loan đã quyên góp một khoản thu nhập nhỏ để giúp đỡ người khác, số tiền quyên góp từ nhiều tổ chức từ thiện Đài Loan nói chung đã tăng lên. Ngoài ra, một thí nghiệm được báo cáo bởi Life Science cho thấy những người vô cùng cảm động trước những việc làm tốt của người khác có thể làm điều tương tự trong tương lai.

Một thực tế không thể chối cãi là nghệ thuật có thể thiện hóa trái tim của mọi người. Ví dụ, âm nhạc thuần khiết của Mozart không chỉ hiệu quả (“hiệu ứng Mozart” nổi tiếng), mà còn làm giảm tỷ lệ tội phạm.
3. Kỹ năng và ý tưởng phản ánh đức hạnh
Kỹ năng cơ bản đòi hỏi lý trí, sức bền và sự tập trung: Bất kỳ nghệ thuật chính thống nào cũng đòi hỏi kỹ năng cơ bản của các anh tài, việc phát triển các kỹ năng cơ bản đòi hỏi phải rèn luyện chăm chỉ lâu dài, đòi hỏi sự bền bỉ, tập trung và các phẩm chất khác để hoàn thiện. Ví dụ, các kỹ thuật hiện thực của nghệ thuật phương Tây nhấn mạnh vào việc quan sát và phân tích các đối tượng một cách hợp lý, không ngừng thực hành nhiều lần, đó là một thái độ tỉ mỉ của việc tìm kiếm cái đúng, nó cũng là hiện thân của việc học hỏi và tôn trọng sự sáng tạo của con người.
Quan điểm thẩm mỹ của nghệ thuật truyền thống ở phương Đông và phương Tây cũng phản ánh sự toàn vẹn, khách quan, trật tự, cân bằng, hài hòa,… từ bố cục, hình dạng đến sử dụng, như mối quan hệ đạo đức của xã hội loài người, các chi tiết giống như một cuộc sống thực sự, đều có sinh mệnh ký thác trong đó.
Nhiều kỹ thuật vẽ tranh chính thống, như tranh sơn dầu phương Tây hoặc tranh chi tiết phương Đông, thường đòi hỏi nhiều cấp độ tô màu. Ví dụ, phương pháp “Sfumato” của Da Vinci có tới 30 lớp sắc tố, nhưng độ dày chưa đến 40 micron, chỉ bằng một nửa sợi tóc của con người. Các nhân vật được vẽ là tự nhiên và giống như thật, các biểu hiện là tỉ mỉ và không thể đoán trước. Các bức tranh chi tiết truyền thống của Trung Quốc được nhuộm lại nhiều lần bằng mực sáng. Đó là sự kiên nhẫn và nhẹ nhàng, hình ảnh trông vô cùng tinh tế sâu sắc và tự nhiên.
Một số người cho rằng thật nhàm chán khi chỉ thể hiện những điều tốt đẹp và tích cực trong nghệ thuật. Nếu nghệ thuật là người hướng nội và hòa bình, liệu nó có quá nhàm chán hay không? Mong muốn và ý nghĩ xấu xa cũng là những phần thực sự của bản chất con người. Tại sao không thể biểu hiện ra chứ?
Chúng tôi tin rằng bản chất con người là tốt, “đạo đức” thực sự đến từ bản chất bẩm sinh của con người. Chỉ trong một thời đại khi trái tim con người bị hoen ố và “cái tôi” bị thổi phồng một cách mù quáng, đạo đức được coi là một ràng buộc đối với bản chất con người. Trên thực tế, nghệ sĩ tạo ra loại chủ đề nào, loại kỹ thuật biểu hiện nào, là biểu hiện đặc điểm của người đó, là ý chí của người sáng tạo, giống như mọi người muốn làm điều tốt hay xấu, là lựa chọn riêng của họ.
Đừng bỏ qua sức mạnh của cái thiện
Theo đuổi điều tốt đẹp là bản chất của tất cả mọi người. Nghệ thuật đẹp không chỉ làm hài lòng con người, mà còn làm người ta hướng tới khát khao về thế giới tâm linh tươi sáng, thiêng liêng và thậm chí là sự thật vĩnh cửu. Schumann nói: “Nghệ thuật là ánh sáng chiếu vào bóng tối của con người.” Với chính niệm và sáng tạo tư duy tốt, không chỉ nghệ sĩ có thể tự cải thiện, mà chủ đề tích cực được tạo ra có thể giáo dục xã hội tốt hơn và mang lại lợi ích cho người khác. Đây cũng là trách nhiệm xã hội mà những người sáng tạo nghệ thuật, kinh doanh, quảng bá và các nhà giáo dục nghệ thuật phải ghi nhớ.
Theo epochtimes.com
Uyển Vân biên dịch